🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hành Trình Về Thị Trấn Buồn Tênh Ebooks Nhóm Zalo Người ta bảo, Cái thế giới thứ ba nó phũ lắm. Không có chàng Romeo nguyện chết vì Juliet kiêu sa, chẳng có nàng Tô Thị hóa đá đợi chồng, mà chỉ có những cuộc tình chóng vánh và những đêm truy hoan bất tận chẳng biết điểm dừng. Có không? Người ta bảo, Tình yêu là một thứ sa sỉ trong thế giới đồng tính. Không phải vì người đồng tính không biết yêu, họ yêu nhiều là đằng khác. Đấy, nguyên nhân là ở đấy đấy, họ yêu quá nhiều, quá nhanh, họ yêu bằng thể xác. Có không?... Người ta bảo, Ở những người đồng tính, điều duy nhất giữ chân họ lại với nhau là cảm hứng dành cho nhau. Một khi cảm hứng đó đã thôi không còn hừng hực rực lửa như những ngày đầu, khi những va chạm xác thịt đã thôi không còn đem lại khoái cảm cho họ như nó đã từng, thì họ sẽ lại đi tìm nó ở nơi khác. Có không?... Họ bảo, “Người đồng tính chúng tôi cũng là người, cũng có trái tim, có não và có dòng máu nóng. CHÚNG TÔI CŨNG YÊU!” Được chọn lọc từ các bài dự thi, gửi về cho cuộc thi truyện ngắn hằng năm, do diễn đàn Tình yêu trai Việt tổ chức. Những câu chuyện có thể do người trong giới, ngoài giới, có thể là hồi ký, là những chuyện có thật trong cuộc đời của người viết, cũng có khi chỉ là hư cấu… Nhưng tất cả đều rất thật, đầy xúc động, sâu sắc và nhân văn. HÀNH TRÌNH VỀ THỊ TRẤN BUỒN TÊNH Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty Cổ phần Sách Trẻ www.youthbooks.vn facebook.com/sachtre Ebook được thực hiện bởi Romance Book, 2013. facebook.com/romanbook Lời giới thiệu Hành trình về thị trấn Buồn Tênh là tên một truyện ngắn, trong tập truyện được chọn lọc từ các bài dự thi, gửi về cho cuộc thi truyện ngắn hằng năm, do diễn đàn Tình yêu trai Việt tổ chức. Những câu chuyện có thể do người trong giới, ngoài giới, có thể là hồi ký, là những chuyện có thật trong cuộc đời của người viết, cũng có khi chỉ là hư cấu… Nhưng tất cả đều rất thật, đầy xúc động, sâu sắc và nhân văn. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ sốc, bởi không sốc sao được khi lần đầu tiên bạn được chứng kiến (nếu bạn không phải là người trong giới) những cảnh đời, cảnh người, những sự thật đến trần trụi, nó đem đến cho người ta cảm giác vừa ghê sợ, vừa xót xa và đau đớn. Bạn đã quá nhàm chán với những câu chuyện tình yêu, bởi tình yêu bao đời vẫn thế, rốt cuộc cũng lại là những ái ố hỉ nộ, những chuyện tình tay ba, những kẻ đơn phương hay những bi hài éo le… Có bao nhiêu thiên tình sử về tình yêu đã trở thành kinh điển. Nhưng còn tình yêu của những người đàn ông. Người ta bảo, Cái thế giới thứ ba nó phũ lắm. Không có chàng Romeo nguyện chết vì Juliet kiêu sa, chẳng có nàng Tô Thị hóa đá đợi chồng, mà chỉ có những cuộc tình chóng vánh và những đêm truy hoan bất tận chẳng biết điểm dừng. Có không? Người ta bảo, Tình yêu là một thứ sa sỉ trong thế giới đồng tính. Không phải vì người đồng tính không biết yêu, họ yêu nhiều là đằng khác. Đấy, nguyên nhân là ở đấy đấy, họ yêu quá nhiều, quá nhanh, họ yêu bằng thể xác. Có không?... Người ta bảo, Ở những người đồng tính, điều duy nhất giữ chân họ lại với nhau là cảm hứng dành cho nhau. Một khi cảm hứng đó đã thôi không còn hừng hực rực lửa như những ngày đầu, khi những va chạm xác thịt đã thôi không còn đem lại khoái cảm cho họ như nó đã từng, thì họ sẽ lại đi tìm nó ở nơi khác. Có không?... Họ bảo, “Người đồng tính chúng tôi cũng là người, cũng có trái tim, có não và có dòng máu nóng. CHÚNG TÔI CŨNG YÊU!” THẾ NHƯNG…. Cái thứ tình yêu vốn còn bị cấm kị, còn bị kiêng dè, còn lắm kẻ dè bỉu, nên nó bị đè nén, bị chèn ép, nó không được bộc lộ là nó, không được tự do nói lên tiếng nói và khát vọng của chính nó. Kéo theo đó là biết bao nhiêu hệ lụy. Những người vợ, người mẹ, người yêu… họ sẽ đón nhận sự thật này ra sao, họ đã hành xử thế nào. Những người trong cuộc họ nghĩ gì, mong ước gì, họ đã phải đối diện với chính mình, với mọi người như thế nào. Họ đã sống ra sao và tương lai của họ sẽ đi về đâu... Đó là cả một chặng đường dài mà chúng ta mới chỉ bắt đầu bước chân vào cuộc hành trình. Youth Books Có những điều ta không biết ___ Reki ___ Vừa bước chân qua cửa, miệng hắn đã gặm chặt môi anh. Chẳng ai nói gi, loáng sau họ đã thấy mình nằm trên giường. Căn phòng hẹp chìm trong khoảng tranh tối sáng, nồng ấm ánh đèn ngủ, nhè nhẹ chăn gối tinh tươm. Thấy phía dưới mình là lạ, hắn lấy tay sờ, nước ấm nóng chảy ướt mấy lần vải. Trò vụng trộm là thế, khoan khoái đến phát tởm... Hắn và anh mới môi kể môi, quần đã ướt. Anh luồn mình, trườn xuống, cái chạm khẽ, nhưng dứt khoát. “Ngon thật.” Anh nói. Hắn khanh khách. “Như trái mơ chín, chạm vào toàn nước.” Hắn đặt tay lên môi anh. Nghe những điều như thế hơi sượng, nhưng hắn lấy làm thích thú, vì nó làm bùng lên trong hắn cái cảm giác bứt rứt sung sướng. Anh cắn nhẹ vào tay hắn rồi thả lưỡi dọc ngang từng thớ thịt, uốn lượn nhịp nhàng. Mỗi lần gặp anh thú như sư vụng thịt chó, hắn nhắm mắt nghĩ. Thú như ngậm đường kính, cái vị ngọt ngào man mát chảy ra từng giọt từng giọt, có thể chảy rất lâu. Vội gì chứ, cắn một miếng vỡ ra đầy mồm, ngọt đến mức cứ nấc suốt, chớp mắt vị ngọt đã qua mất. Người đàn ông của gia đình đúng thật là rất biết. Đột nhiên, tiếng điện thoại reo. Một hồi, rồi lại một hồi. Í éo nghe phát sốt ruột. Anh dừng lại, nghe máy. Nheo nhéo tiếng đàn bà. Anh ừ qua loa. “Linh sắp về rồi.” Anh nằm vật ra. Nhẫn tâm thế đấy, khiến hắn như thế rồi bỏ lại giữa đường. “Bao lâu nữa?” “Dăm phút.” Hắn bò dậy, ngước nhìn bóng người tối đen sừng sững đã đứng dậy từ bao giờ. “Anh xin lỗi.” Hắn không nói gĩ, kéo quần lên, vỗ vỗ, rồi chỉnh lại thắt lưng, nhổm dậy, ráo hoảnh bước qua cửa, không quên ném lại một cái nhìn khinh bỉ vào bức ảnh cưới bên giường. Bao mùa đến rồi đi, anh đã đến độ phai hương nhạt phấn, hắn vẫn tuổi xuân thì mơn mởn tươi xanh. Ắt là do cái ảnh cưới, chính xác hơn là do cái giống cái đắm mình trong hạnh phúc, mang sắc trắng tinh từng vạt của chiếc váy bông xòe như cụm xúp lơ kia. Linh, cô ta là nguyên nhân khiến anh kiệt lực. Từ ngày chung sống, Linh đã gầy lại càng gầy, đến nỗi tưởng như những lóng xương nhỏ bé sẵn sàng chòi ra khỏi làn da trắng xanh. Một lần, sau khi khò khè kéo bễ gió xong xuôi với hắn, anh thổ lộ. “Linh có bệnh.” Chết quách đi. “Nặng không?” “Bị thận. Cứ yếu suốt. Bác sĩ bảo nên kiêng chăn gối. Khó mà có bé.” “Trước khi cưới không khám sức khỏe sao?” “Anh biết.” “Biết? Biết sao còn cưới?” Im lặng. Hắn thoáng nghĩ, có lẽ vì cái sự kiêng khem mà anh chọn cưới cô. Thế mà khôn. “Bỏ đi. Còn trẻ, thiếu gì.” “Có nhiều điều em không biết về Linh lắm.” Liếc tấm ảnh cưới, hắn băn khoăn điều gì đã khiến anh giã từ cuộc sống tuyết hoa phong nguyệt để sắn bó với cô ả xấu tướng. Bên cạnh anh, Linh như một nữ sinh trung học vì tấm thân nhỏ không tưởng tượng được, lép đôi ngực, phẳng cặp mông. Đã thế, còn không đủ tự trọng hay sự khôn ngoan để độn thêm ngực, thành thử thân cô lộ ra rất rõ. Người không biết nhìn vào có khi phán rằng cô ả xấu số, gặp phải ông chồng không biết chăm sóc vợ, nào ai biết anh đã lận đận ra sao vì cô ả. Có một lần, hắn miễn cưỡng nghe anh thủ thỉ một điều hắn không biết về Linh. Đôi mắt. Anh nói, anh muốn ở bên cô ả vì đôi mắt. Đó là hai điều thiện giữa một thế giới tàn ác, hai ngọn nến không bao giờ lung lay trước một ngọn gió nào, hai đốm ngời sáng hạnh phúc. Một so sánh rõ vớ vẩn. Hắn nghĩ, nếu cô ả đi về với Phật, với Chúa, thì mọi việc lại như xưa. Người ta nói gì nhỉ, “Nên thận trọng với những điều ước”? Hắn thây kệ. *** Linh ốm. Hắn rủa thầm cô ả giở quẻ khiến hắn không được ở gần bên anh. Chí ít cũng hai tháng rồi. Nom những nếp nhăn đậm trên mặt anh qua từng đêm, đôi mắt cộm lên quầng đen bên dưới, lòng hắn xót xa. Vì anh, dù phải trông chuồng cọp, hót phân lợn, hắn cũng cam lòng. Hắn đi đến cửa phòng bệnh, mở hé ra một tí, ghé mắt nhìn vào căn phòng. Linh nằm trên giường, đôi mắt thâm quầng đang nhắm nghiền, bộ mặt húp híp, thân mình mảnh dẻ đến phát gớm. Một cách nham hiểm, hắn ước gì Linh chết ngay lúc này. Cô ả nom đáng chán hơn bất kì người ốm nào hắn từng thấy. Hắn đang nhìn thì cô mở mắt, nở một nụ cười vừa ngọt vừa hiền thắp sáng khuôn mặt mệt mỏi. “Quân đến à em? Vào đây với chị.” Cô mời, vụng về xoay nghiêng người. “Chị cũng vừa thức được một lúc. Ngồi đây, chị muốn hỏi em vài chuyện.” Hắn chào cô, bước vào, đặt mình xuống chiếc ghế cạnh giường. “Quân này. Em với anh Quang thân nhau lâu lắm rồi nhỉ?” Hắn “ừm” một tiếng. “Anh ấy không nhiều bạn, và cũng hiếm ai hết lòng với anh ấy được như em.” Tim hắn đập nhanh, không hiểu cô ả đang ẩn ý gì. “Chị đã làm tình làm tội để anh ấy phải cực khổ. Dạo này anh ấy hom hem quá, không rảnh lúc nào để thở. May mà còn có em.” “Không có gì.” Hắn đáp, không lấy gì làm nhã nhặn lắm. “Em tốt với anh chị quá. Chị rất áy náy vì đã làm phiền em. Nói thực, chị rất quý em.” Quý mình? Hắn nhìn trân trân. Đồ ngu! “Quân ơi, chị muốn xin em một điều.” Mắt cô nhìn hắn tha thiết. “Nhỡ chị có mệnh hệ gì...” “Đừng nói dại. Rồi sẽ qua cả thôi. Hồi bảy tuổi em bị cảm thương hàn cũng thế đấy.” “Em đừng an ủi chi. Chị biết em nói thế cốt để động viên chị thôi.” “Anh Quang. Nếu chị không còn, em hãy ở bên giúp đỡ anh ấy nhé.” “Chị đừng nói nữa.” “Chị xin em hãy hứa với chị đi.” Mắt Linh vẫn không rời, ánh cầu khẩn. “Thôi, được rồi, em hứa.” Cô ả ngu ngốc không hề hay biết gì về quan hệ của chồng cô và hắn, hay là ả biết hết mọi chuyện và cảm thấy rằng, vì mối tình ấy, hắn sẽ tận tụy thay cô chăm nom săn sóc anh? Bất giác, hàng loạt câu hỏi hiện ra trong đầu hắn. Nhưng rồi hắn bình tĩnh lại, nắm đôi bàn tay hằn lên nét khổ ải của Linh. Mắt cô trở lại thư thái. *** “Nghe bảo vợ anh Quang ốm?” “Rõ nhiều sự. Chỉ giỏi củ hành.” “Đừng nói thế. Công việc làm ăn của anh Quang thành đạt như bây giờ là nhờ có chị ấy đảm đang. Nhớ lại hồi hai anh chị mới cưới mà xem?” “Tao thấy chả được khỉ gì. Ăn không nên, ỉa không ra.” “Nhìn nhận công bằng đi Quân. Có nhiều thứ mày không biết, hoặc giả vờ không biết.” “Tao không quan tâm.” “Thì thôi. À... nhớ chú ý cảnh giác Bảo nhé.” “Thằng em bà ấy à? Nó làm sao?” “Nó để ý anh Quang lắm. Và nó không lạ gì mày đâu.” Sợ gì hắn. Lành làm gáo, vỡ làm muôi. “Thây kệ.” Một năm kể từ khi xuất viện, Linh đã khỏe lên nhiều, và khao khát có em bé. Anh vẫn ngày ngày cặm cụi chăm sóc cô, gắng sức duy trì công việc. Phần hắn, tất nhiên lâu như thế hắn cũng không dại gì bỏ đói bản thân, nhưng thổi cơm chung với anh mới là điều hắn mong mỏi. “Em muốn anh đi với em.” “Không được. Linh chưa bình phục hẳn.” Hắn gào lên. “Linh. Linh. Linh. Thế còn em? Ai lo cho em?” “Em khác. Linh khác.” Hắn chưa kịp tuôn ra một câu thật láo, anh đã tiếp lời. “Linh là vợ anh.” Dấu chấm câu đặt xuống, bàn tay hắn vung lên. Cửa bỗng nhiên bật mở, Linh lật đật chạy vào, mắt giương to hốt hoảng. “Hai anh em... Hai anh em làm sao thế?” Hắn bóp chặt bàn tay lại, dìm giọng xuống. “Không có gì. Bọn em đang bàn chuyện làm ăn. Em có công chuyện đi xa cần anh ấy giúp.” Cô quay sang nhìn anh. “Thế là sao hả anh Quang? Sao lại từ chối chú ấy?” “Đừng hỏi anh ấy nữa! Anh ấy có quyền làm những gì anh ấy muốn.” Hắn vặc lại, bất chấp logic. “Chú ấy cần anh giúp vài công việc chuyên môn trong lần công tác tới. Nhưng anh từ chối. Anh nghĩ anh nên ở bên em lúc này.” Tốt rồi. Cơ hội cho hắn đây. Hắn hạ giọng, nâng cái nốt buồn bã trong câu nói của hắn lên. “Em thật vô ý. Mặc dù em biết rằng em rất cần anh ấy... ngoài anh ấy ra em không tin tưởng được ai khác.” Giọng Linh cũng thay đổi một cách đáng ngạc nhiên. “Ôi, anh Quang! Sao anh lại từ chối chú ấy? Quân giúp đỡ em và anh, thế mà anh lại... Giờ khi chú ấy cần thì anh lại từ chối!” Hắn tinh quái liếc trộm, thấy vẻ hoang mang in rành rành trên mặt anh. “Anh lo cho em.” “Em có thể tự lo được. Chỉ vài ngày. Cùng lắm thì em sang ở với mẹ.” Anh vẫn đăm đăm. “Anh không nhớ lúc em nguy cấp, chú ấy đã ở bên em như thế nào sao.” Anh im lặng. “Với cả...” Tiếng Linh nghẹn lại vì nức nở. “Em biết em không nên nói khi có mặt chú ấy ở đây, nhưng em coi chú ấy như người trong nhà. Em thấy em... làm khổ anh. Em khiến anh không có thời gian nghỉ ngơi. Anh hãy đi với chú ấy, vừa làm việc vừa tranh thủ thư giãn đầu óc. Em sẽ ổn thôi.” Lời vừa dứt, nước mắt lã chã trên mặt Linh. Anh đến bên, quên cả hắn, ôm ghì lấy cô. “Thôi nào. Thôi nào. Anh sẽ đi.” *** Chuyến đi thế mà vui. Công việc loáng cái là xong, nhưng hắn cố nán lại để vui vầy, đem khuây khỏa bù cho anh những giờ phút bị Linh cướp mất. Bãi hoang vốn thường vắng bóng người, đợt này càng vắng hơn, tuyệt nhiên không một bước chân ai, trừ của anh và hắn. Hai người, khi thì phòng khách sạn, khi thì hòa mình vào thiên nhiên. Gió đêm rét cóng, nước mũi ròng ròng, trưa nắng thẳng đứng xói vào óc. Hai bóng hình vui vẻ chốn hoang dại, biển mặn xộc vào đầu lưỡi, cát thô ráp chà xát da người, người này leo lên người kia cười, hòa hợp nhịp nhàng, dù có thế nào cũng không làm họ mất đi cảm giác sung sướng. Giây phút đó hắn thấy mình có tất cả, và tất cả đều đến từ sự ngọt ngào của anh. Để cái sự ngọt ngào ấy cho vợ anh, người đàn bà đau ốm bệnh tật đó hưởng cũng lãng phí đi. Hai người thỏa mãn rồi, ôm nhau tâm sự. “Sáng mai anh sẽ về.” Hắn bật dậy như đỉa phải vôi. “Mới có hai ngày?” “Linh.” Nhớ lại đôi mắt ươn ướt của Linh, hắn thở dài một tiếng. “Em sẽ sắp xếp ngay.” *** Bảo cứ nói, Linh cứ chăm chú vào mũi khâu, không để tâm. “Chị phải cẩn thận thằng Quân.” “Em nói thế ý gì?” “Nó không tốt đẹp gì đâu.” Mặt Linh đanh lại, giọng lạnh lùng hờ hững. “Chị nghĩ chị đã sống đủ lâu để nhìn nhận một con người. Quân rất tốt. Và nếu em muốn bàn luận gì thì chị sẽ không nghe đâu, chị tiếp xúc với Quân nhiều hơn em.” “Nó và anh Quang...” Bảo nhìn Linh. Mặt cô căng thẳng, nhưng đôi mắt thì bình tĩnh, dịu dàng, lộ rõ vẻ không tin. “Thôi. Chị sẽ không tin em.” “Phải. Chị không tin.” *** Hắn hoang mang. Từ sau những đêm hai người họ điên dại trên biển, khi những từ ngữ yêu đương lộn xộn không ra hơi, khi câu trước câu sau chẳng ăn khớp với nhau đó anh có vẻ xa cách hắn. Chẳng mấy thời gian, hắn có câu trả lời. Một đòn gớm ghiếc giáng xuống. “Vợ anh Quang đang có mang.” Hắn đang cúi xuống lúi húi gì đó, bỗng dừng phắt lại, ngước lên. *** Sau bao đòi hỏi, dỗi hờn, anh đền bù cho hắn bằng một trận sung sướng mãnh liệt. Hắn nằm mềmnhũn trên sàn, miệng thở vừa dài vừa sâu, giống như đứa trẻ sau cơn thèm sữa được bú đã đời. “Sao anh không nói cho em biết?” Anh nhìn hắn bằng ánh mắt bỡn cợt. “Nói rằng anh vẫn có thể khiến cho em kêu rên đến thế cho tới tận phút cuối cùng sao?” “Linh có thai được mấy tháng rồi?” Nét ngạc nhiên lộ rõ trên mặt anh. “Năm tháng.” Nghĩ mông lung dăm phút, hắn nói. “Đừng gặp em nữa.” *** Họ bước chân ra khỏi khách sạn. Người ngẩng cao đầu. Người cúi gằm mặt. Cả hai đều không phát hiện ra cái nhìn của Bảo. *** Cuối tuần cô đơn, chốn sôi động và men rượu không xua được nồi buồn chán trong hắn. “Đứng lại.” Kệ mẹ. Hắn đi tiếp, không dừng, cho đến khi hai cậu chàng dặt dẹo từ đâu xổ ra hai bên cánh. Lúc này hắn mới ngoảnh lại. “Muốn gì đây?” Bảo đứng chắn trước mặt hắn, mắt lộ vẻ căm ghét không che giấu. “Tránh xa anh rể tao ra.” Men rượu nóng ran vẫn hầm hập trong hắn. “Cút đi.” Hắn đấm mạnh vào mặt Bảo. Hai cậu chàng nổi giận, nhảy vào túm xé áo và tóc hắn. Bốn con người tay chân loạn xạ, mặt mày sưng húp như La Hán. *** Cái khoảnh khắc ấy hỗn độn và mờ ảo, không đau đớn hay tức giận, hoàn toàn vô cảm. Chỉ đến khi một bàn tay nhỏ bé lôi hắn ra, và cũng chính bàn tay ấy vả mạnh vào mặt Bảo, mọi ý niệm mới trở về. Linh đã đến. Một bên tay yếu ớt trĩu xuống, bên còn lại nắm chặt lấy hắn. Hắn nhìn cô gái mảnh dẻ, bụng chửa vượt mặt, đứng không vững, mà xưa nay hắn chỉ dành cho sự khinh ghét. Trong một lóe chớp sáng suốt không gợn chút tình cảm nhỏ nhen, hắn thấy rõ đằng sau cái dịu dàng của Linh còn có một bí ẩn mà hắn không thể hiểu nổi. Và cũng lần đầu tiên, hắn có cảm tình với Linh. *** “Đừng phân giải với chị, chị không muốn nghe.” Cô nhìn hắn âu yếm. “Chẳng có gì đáng để phân giải giữa ba chúng ta. Chị không quên lúc em thức trắng đêm, chămsóc chị khi anh Quang đi vắng.” Hắn tuyệt vọng nghĩ, giá để hắn ném thẳng sự thật vào mặt cô còn hơn. “Bảo, em chị, nó đồng tính. Em là người trong nhà, chị sẽ không giấu. Nó nhạy cảm đến phát điên vì tình bạn giữa em và anh Quang. Nó nghĩ ai cũng...” Linh nói, giọng sôi sục. “Ý chị là, thuộc dạng như nó. Chị xin lỗi vì những gì Bảo đã gây ra cho em.” Và để đảm bảo lời mình nói, cô cấm cửa Bảo. Còn hắn ở đây, Linh xem như ruột thịt thân thiết. Sau lần nói chuyện đó, cô tuyệt nhiên không nhắc lại vụ bê bối, và sẵn sàng chuyển sang vẻ lịch sự giá băng nếu ai đó dám đả động xa xôi đến hắn. Linh xiết chặt niềm tin đối với người chồng yêu quý và cả gã tình nhân của chồng. Mỗi khi nhìn vào đôi mắt nâu long lanh yêu thương của cô, hắn biết mình sẽ không bao giờ chạm được đến sự yên tĩnh trong Linh, và cũng sẽ không bao giờ có được sự thanh thản sau lời xưng tội. *** Hắn đã yêu quý Linh thật sự, và ngay khi cảm xúc ấy mãnh liệt nhất, điều ước của hắn lại trở thành sự thật. *** Bước qua anh, hắn đi vào phòng. Anh như người mộng du. Căn phòng mờ tối nhưng hắn vẫn thấy rõ khuôn mặt cô trắng bệch như tượng sáp, chẳng còn chút sinh khí. Lúc nghe tin, hắn thầm hy vọng bác sĩ và anh đã lầm, nhưng khi thấy bộ mặt dúm dó của cô, hắn biết đó là sự thực. Cô đang hấp hối. Đi qua thân hình im lìm kia, tim hắn thắt lại. Lẽ nào cô ra đi, bỏ lại anh và cái hài đồng nho nhỏ đáng yêu đang lim dim bên cạnh? “Quân.” Cô hé mắt ra, như yên trí đó là hắn, rồi nhắm lại. Lần thứ ba hắn nắm lấy bàn tay mềm oặt của cô. Nó lạnh toát. “Em đây.” Cô thểu thào. “Hứa với chị.” Hắn khẽ bóp bàn tay đang cầm. “Chị đã giao anh Quang cho em một lần... nhớ không? Và giờ cả cháu nữa...” Làm sao hắn quên được thời khắc ấy, khi hắn muốn cô chết đến nhường nào. “Rồi sẽ ổn thôi chị.” “Hãy hứa đi.” Hắn nghẹn ngào. “Cháu sẽ như con đẻ của em.” “Cháu tên Quân. Tên của em. Chị mong cháu... giống em.” “Hãy cố lên nào chị! Cố gắng nào!” Một khoảng lặng. Cô thu hết sức tàn, nói tiếp. “Anh Quang... em và anh Quang...” Nghe đến đây, tim hắn như ngừng đập. Hắn gục đầu, nén cho tiếng nấc khỏi bật ra. Hắn hối hận vì đã gây ra đau khổ cho cô trong ngần ấy thời gian. Cô biết hay không, hắn không rõ, nhưng cô vẫn luôn một lòng trọn vẹn yêu thương, ân cần với anh, với hắn. Hắn ước hắn có thể bù đắp mọi lỗi lầm. Quá muộn rồi. “Anh Quang...” Hắn nhìn lên. Không chút oán giận nào trong đôi mắt cô. “Chị định nói gì?” “Nhớ trông nom anh ấy nhé.” “Em sẽ.” “Anh ấy... trông thế thôi... dễ ốm...” Ngừng. “Giúp đỡ anh ấy... làm ăn nhé... anh ấy vất vả quá.” “Em sẽ.” Chút sức lực còn lại. “Anh ấy... cần em.” Hắn đưa tay bịt miệng. Nếu không, hắn sẽ khóc ầm lên. Không, phải để cô ra đi nhẹ nhàng! “Ngủ ngon nhé... Em yêu chị.” Cô thì thầm, điều cuối cùng. “Hãy yêu anh ấy... như em đã yêu chị.” *** Mắt hắn mờ đi. Còn quá nhiều những điều hắn không rõ về người phụ nữ ấy. Còn quá nhiều sức mạnh tiềm ẩn đằng sau cái vẻ yếu đuối dịu dàng mà hắn sẽ không hiểu được. Còn quá nhiều sự chịu đựng của một người vợ mà hắn cũng sẽ không biết. Phải, còn quá nhiều những điều mà cả chúng ta cũng không biết. Không bao giờ. Hãy gặp tôi ở L’amant Petite ___ Astroboy ___ BUỔI SÁNG Mùa xuân, 1998. Bạn thức dậy. Nắng chiếu qua cửa sổ. Dưới đường có tiếng người đi chợ, tiếng xe đạp cành cạch, tiếng còi xe máy, tiếng rao báo sớm, tiếng chó sủa. Bạn nhìn đồng hồ. Sáu giờ hai mươi phút sáng. Biết sáng nay là Chủ Nhật, bạn vẫn không thể ngủ thêm. Vì bạn biết rằng sống ở phố cổ có nghĩa là không thể ngủ dậy muộn. Hoặc cũng có thể, đời sống ở những năm 90 đơn giản là như thế, dù bạn còn trẻ hay đã già. Bạn xuống đường, thong thả đi về phía bờ hồ. Từ bé, bạn đã luôn băn khoăn tại sao nhiều người hay gọi hồ Gươm là “bờ hồ,” nhưng khi lớn lên, bạn tự trả lời rằng đó là cái tên “thân mật” mà người ta thích dùng thay cho tên thật. Giống trường hợp của những em bé mới đẻ, người ta hay đặt tên là Bi, là Bốp, rồi dùng tên đó cho đến ngày đứa trẻ không thích bị gọi bằng những cái tên “thân mật” đó nữa. Hồ Gươm thì không bao giờ có ý kiến gì về cái tên “bờ hồ” cả. Cũng như bao ngày khác, bạn chạy bộ một vòng bờ hồ. Bạn ngắm nhìn mọi thứ: cầu Thê Húc, những rặng liễu, những cây bàng, Tháp Rùa, những tấm áp phích cổ động vẽ tay, ngã tư Tràng Tiền (bạn không quên nhìn về phía Nhà Hát Lớn), Bưu Điện Hà Nội (bây giờ đã gần bảy giờ). Mọi thứ vẫn bình thường. À, bạn còn chạy ngang qua một thằng bé nằm trên một chiếc ghế đá, với chiếc hộp gỗ nhỏ đựng đồ đánh giày. Chuyện bình thường. Bạn không quan tâm lắm. Bạn giảm tốc độ khi gần về tới Hàm Cá Mập. Bạn đứng lại một vài phút để nghỉ. Bạn tới hàng bánh mỳ đầu phố Cầu Gỗ, mua đồ ăn sáng cho cả nhà. Có tiếng xe cấp cứu. Chiếc xe băng qua, rồi chạy ngược lại hướng mà bạn vừa đi tới. Bạn ngó qua vai, thấy chiếc xe dừng ở chỗ chiếc ghế đá có đám đông bao quanh. Bạn tò mò chạy tới, chen qua những bờ vai, chen qua những tiếng xì xào. “Liệu có kịp không? Thằng bé còn thở không?” “Công an sắp đến chưa?” “Tội nghiệp quá, không hiểu có chuyện gì.” “Dân đánh giày à?” “Còn trong cái túi kia có gì không?” “Trông thế này thôi nhưng chắc cũng chẳng bé bỏng gì đâu.” “Ôi, tao không biết thằng này. Có khi từ nơi khác đến. Mày trông thấy nó bao giờ chưa?” Đó là người bạn đã trông thấy lúc chạy bộ. Bạn không nghĩ thằng bé đã qua đời. Làm sao bạn nghĩ thế được, khi nhìn thoáng qua cũng thấy gương mặt đó vẫn hồng hào, đôi môi vẫn đỏ? Rồi bạn trông thấy, trong bàn tay người đã khuất, một tờ giấy với những hàng chữ nhoè nhoẹt. Một LÁ THƯ? LÁ THƯ Chào em, Nếu em thật sự đang đọc thư này, thì tôi đang rất hạnh phúc đấy. Vì có nghĩa là tôi đã được gặp em một lần nữa, và đã đưa được cho em bức thư này. Nhưng tôi biết viết gì đây? Biết đâu, khi đọc xong những điều này, em sẽ ghét tôi? Nếu một ngày, em không cảm thấy như vậy, thì hãy gặp tôi ở rạp phim L’amant Petite(1). Tôi làmviệc ở đó và sẽ đợi em mỗi buổi chiều. Tôi muốn kể cho em câu chuyện Cái chết ở Venice. Truyện kể về chuyến du lịch của nhà văn Gustav von Aschenbach nổi tiếng. Ông khoảng 50 tuổi, vợ ông mất khi còn trẻ. Một ngày, ông đi du lịch ở Venice và trong một bữa tối ở khách sạn, ông tình cờ trông thấy một cậu bé tên là Tadzio, một cậu bé với một vẻ đẹp phi thường. Đối với ông, vẻ đẹp đó tượng trưng cho nghệ thuật, cho sự hoàn hảo mà cả đời ông theo đuổi. Thời tiết nóng dần lên, ông định rời Venice khi cảm thấy không khoẻ, nhưng trên đường, ông tình cờ gặp lại Tadzio, và ông thấy hối hận. Ông không muốn bỏ đi, ông không thể bỏ đi. Hằng ngày, ông lặng lẽ dõi theo từng bước chân của Tadzio, tới các nhà hàng, tới bãi biển, ngắm nhìn cậu từ xa. Có lúc tình cờ, ông đã tưởng cậu bé đã mỉm cười với mình. Ông thốt lên: “Tôi yêu em.” Nhưng đó chỉ là ông nói với chính ông. Tadzio không bao giờ biết. Ông đau đớn, dằn vặt trong từng giấc mơ. Thậm chí, ông còn cố trang điểm, sửa lại đầu tóc để nhìn thấy mình trẻ lại. Suốt nhiều ngày, ông chìm đắm trong những suy tư, những khát khao được thổ lộ tình cảm của mình, mà không biết một cơn dịch bệnh khủng khiếp đã tràn vào Venice. Ông đổ bệnh. Ông để mất Tadzio giữa dòng người, và chết trên chiếc ghế nơi ông ngắm nhìn cậu lần cuối. Sau này em có thể thấy buồn cười, có thể nghĩ rằng tôi không bình thường. Đúng, tôi đang cảmthấy mình điên rồ, đang có những suy nghĩ ngớ ngẩn, thật mù quáng. Có thể em không tin vào khái niệmtình yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi cũng đã từng như vậy. Những ngày không tìm thấy em, tôi vẫn tự hỏi: ngày ấy khi tôi gặp em, việc tôi từng gặp em - nó có thực sự đã xảy ra? Tôi sợ lắm, tôi sợ là nếu chúng ta không gặp lại nhau nữa, nếu tôi không đưa được bức thư này cho em, thì tôi sẽ quên mất em. Em sẽ biến mất, cũng như quá khứ luôn luôn biến mất. Trừ phi, ở hiện tại, tôi giữ lại được bằng chứng nào đó về sự tồn tại của em, trừ phi em giữ lại chút gì đó từ tôi... Vì tôi yêu em. Và tôi không muốn để mất em trong dòng người, cũng không muốn thấy mình già đi mà không có em bên cạnh. Tôi không biết có thể làm gì để che chở cho em, để giúp đỡ em, tôi thậmchí không biết em có muốn được chở che, được giúp đỡ hay không nữa. Em là một người xa lạ, những gì tôi biết về em chỉ là hình ảnh một người lang thang, chỉ là một ngày trong quá khứ của tôi, nhưng tình yêu của tôi ngày hôm nay vẫn còn. Tadzio của tôi! NGƯỜI LANG THANG Tôi xuống xe. Đây là lần đầu tiên tôi trở lại Hà Nội. Tự nghĩ rằng mình đang đi du lịch, tôi thích lắm. Tôi cũng có ba lô, cũng quần áo đẹp, cũng đầu tóc gọn gàng. Tôi thật sạch sẽ! Những ngày qua, có bao nhiêu tiền, tôi tiêu đi không tiếc. Giờ nhẵn túi, tôi cũng chẳng lo sợ. Ai nói thế nào thì nói, nhưng tôi biết kiếm tiền dễ thế nào, mà tôi cũng không nghĩ là tôi sẽ còn phải tiêu thêm một đồng nào ngày hôm nay nữa. Sáng sớm, đường rất vắng. Từ bến xe gần cầu Long Biên, tôi đủng đỉnh đi bộ về phía hồ Tây, vừa đi vừa hỏi đường. Đến được hồ Tây là đến được Lăng Bác. Tôi muốn đến đó xem có gì, vì người ta nói, đã ra Hà Nội thì ai cũng phải thăm Lăng Bác. Cuốc bộ gần một tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng, khi đứng trước quảng trường đầy cỏ, tôi lại không dám bước tới nữa. Tôi trông thấy những anh bộ đội, những người mặc quân phục. Tôi sợ những người này. Tôi bỗng thấy mình không sạch sẽ chút nào nữa. Tôi quay đầu bỏ đi, không muốn mình phải buồn. Cả buổi sáng, tôi lang thang quanh trung tâm Hà Nội. Cách đây mười năm khi còn bé tí, tôi đã từng sống ở đây. (Mà, có ai muốn biết vì sao tôi rời Hà Nội mà đi không? Tôi không kể đâu, vì nếu kể ra tôi lại phải nhắc đến bố mẹ tôi, mà thế thì câu chuyện lại quá dài!) Bản thân tôi thì chưa lớn lên nhiều lắm, nhưng thủ đô thì thay đổi nhiều quá rồi. Mọi thứ nhìn thật xa lạ, tôi chẳng biết phố nào dắt vào phố nào nữa. Bây giờ thèm ăn bát bún thang tôi cũng chẳng biết đi đâu. Mười năm nữa, không biết con phố này sẽ thế nào? Tôi đoán sẽ rất đông, rất nhiều ô tô. Trước đây ít xe máy thế mà bây giờ nhiều thế này, rồi một ngày cũng sẽ đến lượt ô tô thôi. Tôi dừng chân trước cửa rạp Tháng Tám trên phố Hàng Bài. Rạp rất cũ, nhưng mà đông người tới xem lắm. Nổi bật nhất bên ngoài rạp có tấm áp phích dài, in hình một con tàu khổng lồ và hai diễn viên đứng kề vai: “Titanic.” Tôi đoán chắc đây là một câu chuyện tình! Có thể là một chuyện tình buồn. Không biết phim có lồng tiếng Việt không? Tôi chưa xem phim ở rạp bao giờ. Bước vào rạp, tôi mới nhận ra tôi đâu còn xu nào trong túi. Quả thật, tôi đã không lường trước tình huống này! Vẫn còn một buổi chiếu muộn vào chín giờ tối. Cơ hội cuối cùng của tôi đây! Tôi lại lang thang. Một buổi chiều mà đánh kịp hai chục đôi giầy thì may ra tôi mua kịp một vé. Mà chắc chắn là không kịp. Buổi chiều người ta đi làm hết, đâu có ai la cà quán xá mà tôi có cơ hội. Nhưng tôi biết tôi còn một cách kiếm tiền khác. Thực ra thì thằng đánh giầy nào ở chỗ tôi cũng biết. Nếu may mắn tôi có thể làm kịp. Cái quan trọng là có khách hay không thôi. Tôi ngồi chờ ở đầu ngõ một khách sạn ba sao ở gần rạp, chỗ tôi thấy có nhiều người Tây ra vào. Tôi giở ra cuốn sổ tay, ôn lại một vài câu tiếng Anh mà tôi học được những năm qua. Tôi dám cược là bọn bán báo, bán kẹo cao su ở đây còn giỏi hơn bọn chỗ tôi. Có nhiều câu, dĩ nhiên là tôi đã thuộc rồi, vì luôn sử dụng, nhưng lần này, tôi ngờ là tôi sẽ phải dùng thêm một số câu khác nữa. Cuối cùng, vận may kỳ diệu cũng đến. Một ông Tây vào ngõ, tai phải ông ta đeo nhiều bông tai. Tôi đứng dậy, và chạy tới. Tôi nói khẽ: “What you see is what you get.”(2) “What?” (“Cái gì?”) Ông ta có vẻ giật mình. Cái vẻ giật mình, bỡ ngỡ, bất ngờ, băn khoăn, nhưng mà toàn là giả tạo. Tôi cũng giả tạo. Tôi nhìn vào đôi mắt xanh đó và làm ra vẻ non nớt, yếu đuối. Trong mắt tất cả mọi người, tôi chỉ là một thằng bé vô hại. Ông ta có thể lừa tôi, có thể làm hại tôi chứ tôi thì chẳng làm gì được ông ta. Đấy là ông ta nghĩ thế. “Just BJ. Nothing else.” (“Tôi chỉ làm bên ngoài thôi, không gì hơn.”) “How much?” (“Bao nhiêu?”) “Five bucks.” (“Năm đô.”) Ông ta đưa tôi về phòng. Tôi đòi nhận tiền trước. Ông ta cho tôi hẳn một trăm nghìn. Những gì xảy ra sau đó, tôi không muốn kể. Tôi thường cố quên đi cảm giác lúc đó, cái lúc tôi cảm thấy mình bẩn thỉu nhất. Có lê lết ngoài đường tôi cũng không thấy bẩn như thế, nhưng khi tôi muốn quên cái gì, tôi thường quên được dễ dàng, nên rút cuộc tôi vẫn chịu được cái cách kiếm tiền này. Người đàn ông này cũng có vẻ thoải mái. Bỗng nhiên, ông ta ra hiệu bảo tôi dừng lại. Ông ta ngồi dậy và ghì tôi nằm ngửa xuống giường. “Don’t f--- me.” (“Đừng cho vào.”) “Ten bucks.” (“Mười đô nhé.”) “I have HIV.” (“Tôi có HIV đấy.”) “Really?” (“Thật không?”) Tôi gật đầu. Tôi không nói dối. Ông ta gầm lên một tiếng tục tĩu rồi đá tôi xuống đất. Tôi vội quờ quạng tìm lấy quần áo, lấy cái túi xách và hộp đồ nghề rồi chạy biến khỏi phòng. Tôi đang khóc. Tôi không thể nín, tôi không có cách nào nhịn được, mà tôi cũng không hiểu tại sao. Tôi thực sự không biết. Tôi cắn chặt hai hàm răng, tay giữ chặt hai tờ năm mươi ngàn. Tôi gọi xe ôm. Tôi đang đi xem phim! Tôi cần phải thấy vui vì điều này! Tối thứ Bảy, máu chảy về tim. Người ta vẫn hay nói thế mà. Tôi rời khỏi rạp cùng với hàng chục cặp tình nhân. Nhiều cô gái khóc thút thít, quàng tay qua vai người yêu. Họ dính lấy nhau, quấn quít tới tận bãi để xe, và khi lên xe rồi cũng là những cô gái ngồi sau và ôm lấy người yêu. Tôi tự hỏi trong ngần này con người đang tay trong tay, ai trong số họ đã thực sự biết thế nào là tình yêu? Tôi đi bộ về phía bờ hồ. Tôi không khóc vì bộ phim. Tôi thấy chẳng có lý do gì để khóc cho một câu chuyện hư cấu cả. Tôi thà khóc cho bản thân mình còn hơn, mà kể cả thế tôi muốn cũng hạn chế. Tôi thật sự không phải đứa yếu ớt. Tôi muốn cả thế giới biết điều đó. Tôi là người mạnh mẽ. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá, ngắm nhìn bờ hồ. Tôi từng biết nơi này rất rõ, dù lâu lắm rồi nhưng tôi vẫn nhớ, rất nhiều lần ông ngoại dắt tôi đi bộ quanh hồ. Ông thích đi bộ quanh hồ, mà hình như bất kỳ ai ở khu phố cổ quanh đây cũng đều thích đi bộ, chạy bộ, tập thể dục quanh hồ. Tôi cũng làm một vòng. Hai vòng hồ. Tôi quen đi bộ rồi nên không bao giờ biết mỏi. Trở lại chiếc ghế, tôi thấy nhẹ nhõm. Còn điều gì tôi muốn làm nữa không? Tôi ngồi nghĩ mãi nhưng tôi kết luận là chẳng còn gì. Tôi lấy ra bao thuốc, châm một điếu. Tôi ngồi thổi khói trắng lên bầu trời đầy sao. Nó gợi tôi nhớ lại đến mấy cái ống khói của tàu Titanic. Quanh tôi lúc này cũng là một mặt nước lấp lánh, dập dềnh. Tôi thích lắm. Tôi mở lá thư của anh, đọc lại từng chữ. Tôi lại không kìm được nước mắt, tôi xin lỗi. Không biết giờ này anh có còn chờ tôi ở cổng rạp L’amant Petite? Đáng lẽ ra tôi đã có thể tới gặp anh, và biết đâu cả hai chúng tôi đã ngồi xem Titanic với nhau? Nhưng mà như thế thì không được. Đó không phải điều tôi nên làm. Tôi không muốn bước lấn sâu thêm vào tình yêu đâu, tôi nghĩ nơi đó là một nơi đầy rủi ro. Tôi cười, vì tôi mong rằng anh đã về nhà, trong chăn ấm đệm êm và đang quên tôi đi. Tôi sẽ cầm mãi bức thư này của anh. Đây sẽ là bằng chứng của hai lần duy nhất tôi được gặp anh, tôi sẽ cầm nó và đi qua hiện tại. Mà không, tôi không nên làm thế. Sáng mai, chắc chắn sẽ có người muốn biết tôi là ai, tôi từ đâu tới. Công an chắc chắn sẽ lần ra ai đã viết bức thư này. Họ sẽ tìm đến anh. Họ sẽ tìm gặp anh, và anh sẽ biết... Tôi lấy cuốn sổ tay, xé một trang giấy. Tôi cẩn thận chép lại bức thư của anh. Tôi tìm tới một thùng rác cách xa chỗ tôi ngồi, rồi vứt đi bức thư gốc, cuốn sổ tay, và cả cây bút. Có lẽ tôi quá ngây thơ để nghĩ rằng họ sẽ không tìm được, nhưng tôi vẫn cứ làm. Tôi cũng đâu có cách nào khác? Nào, giờ thì đến sự kiện chính của ngày hôm nay. Người ta thường nghĩ gì trước khi chết? Còn gì để nuối tiếc không? Không, tôi không có bố mẹ, hay bạn bè, hay tương lai hoài bão gì đáng để thấy tiếc cả. Vì sao tôi chọn cái chết? Nếu đấy là băn khoăn “quan trọng” nhất thì tôi cũng biết rõ câu trả lời. Sống thêm chỉ là đau đớn. Tôi đã từng nhìn thấy những bệnh nhân HIV ở giai đoạn cuối. Tôi không nghĩ đấy là một hoàn cảnh vui vẻ. Mà một lý do quan trọng hơn, đó là nếu sống thêm một ngày nào nữa thì tôi sẽ còn đau khổ. Tôi sẽ nhớ anh, cũng như nhiều ngày qua, tôi vẫn luôn nhớ anh. Kể từ lần đầu tiên tôi gặp anh, cho đến lần anh gặp lại tôi và đưa cho tôi lá thư. Nỗi nhớ cũng như một căn bệnh nan y, đau đớn, không có thuốc chữa. Cứ thử hỏi những ông bà già xem, ai cũng nói rằng họ thích chết hơn là sống lay lắt trong bệnh tật. Bây giờ... Sắp sáng rồi. Tôi không được phép chần chừ. Thuốc gì thì cũng cần có thời gian mới phát tác dụng chứ. Nếu trời sáng mà tôi còn sống nhăn nhở thì nực cười lắm. Tôi uống thuốc. Lần đầu tiên, một cơn gió ban đêm khiến tôi run rẩy. Tôi nằm dài nhìn bầu trời. Tôi cố không suy nghĩ. Nhưng nào tôi có kìm được lòng mình. Thật khốn nạn!!! Sao nước mắt cứ chảy ra thế? Tôi không thể yêu anh. Tôi thèm được yêu anh! Tôi xin lỗi anh vì đã không nói với anh một lời. Tôi xin lỗi anh vì con người tôi đã không hoàn hảo như Tadzio mà anh tưởng tượng. Tôi nhắm chặt mắt, tôi kiên quyết tự nhủ với bản thân mình, rằng tôi đang đi bộ tới rạp L’amant Petite. Rồi biết đâu, anh sẽ tha thứ cho tôi và vẫn chờ tôi ở đó. __________ 1. L’amant Petite: Người tình bé nhỏ. 2. “What you see is what you get”: thành ngữ lóng dùng để mời khách một cách kín đáo. Biển xanh trong ___ Andy_Duong ___ Cửa biển chiều nay thật lộng gió, những tia nắng cuối ngày nhấp nhô, rũ rượi trên mái đầu bạc phếch của sóng. Ầm ầm, tiếng sóng mơn man vỗ đều vào bờ cát. Chiếc tàu đánh cá ưỡn bờ ngực vạmvỡ ra hứng trọn những cú dập giòn tan của sóng biển. Hết con sóng này tới con sóng khác thay nhau đọ sức với tàu cá, dập phải, dập trái liên hồi, dường như những con sóng muốn dìm chết chiếc tàu lẻ loi giữa biển trời bao la, mênh mông và xanh thẳm. Gió bắt đầu thổi mạnh, mây đen từ phía chân trời ùn ùn kéo tới, phút chốc cả mặt biển nhuộm dần một màu mực xám xịt. Nhìn từ xa, mặt biển giống như vết mực đen đang loang dần, loang dần và chực chờ nuốt lấy bờ cát. Ánh sáng vàng vọt, yếu ớt của ngày tàn cũng bị đám mây đen nuốt gọn lẻm như một miếng mồi ngon. Mưa! Những hạt mưa đến thật vội vàng, thật náo động. Những hạt mưa trút vội xuống mặt cát đang nóng ran vì một mùa khô đổ lửa. Chẳng mấy chốc mưa đã mang cái mát lạnh bao trùm lên mọi thứ, dịu dàng và tinh khiết. Ngồi trong nhà nhìn ra ngoài sân chỉ thấy mù mù một màu trắng xóa. Mấy đứa con nít quanh xómcởi trần trùng trục nhào ra sân tắm mưa. Ừ, tắm mưa cũng vui thật, mấy tháng nay trời có mưa giọt nào đâu. Đám trẻ nghèo héo hon như cọng cỏ khô vừa oằn mình trong mùa nắng, phút chốc có cơn mưa về gột rửa vừa mát lành vừa hả hê. Chị Hai tôi đội chiếc nón lá tưa tải, dầm mình trong cơn mưa vừa chạy vào nhà vừa kêu: - Út ơi! Mày chạy ra bãi đậu coi phụ Dũng kéo cái tàu cá vô, nó bị đứt thừng rồi. Tao tranh thủ qua kêu thêm mấy người trong xóm ra giúp. Dứt lời, chị tôi lại chạy vù trong mưa, dáng người phụ nữ lúp xúp, lúc ngả lúc nghiêng từ từ khuất sau màn mưa. Tôi tất tả chạy ra bãi đậu, những hạt mưa to rơi bộp vào má, đập vào lưng rát rạt, có cái gì đó tê tái lại hiện lên trong tôi. Từ cái ngày mưa bão mà tía tôi đi biển không trở về được nữa cũng là cái ngày mà tôi thấy sợ mưa bão nhất, một nỗi sợ sâu thẳm đau đớn và đầy ám ảnh. Dũng đang gồng mình quấn lấy sợi dây thừng căng sức kéo chiếc tàu to bè về phía đất liền, dù đã ngắm Dũng từ sau lưng nhiều lần nhưng trong lúc này tôi lại thấy Dũng khác đi rất nhiều. Đó một sự rắn rỏi, mạnh mẽ và kiên định của một người đàn ông thực sự. Tôi bước lại gần nắm lấy phần cuối sợi dây thừng cuộn tròn trong tay và kéo. Không cần nhìn lại, Dũng cất tiếng nói trong tiếng rè của nhịp thở: - Em ra đây chi vậy? Không ở nhà với má đi! Ngoài đây mình anh với mấy anh em khác cũng được mà. Dạo này má hay đi lung tung lắm! Ghì một cú thật mạnh, tôi đáp: - Để anh ngoài đây chắc anh sẽ bị cái tàu này lôi đi mất quá. Trời mưa chắc má không ra ngoài đâu. Chị Hai kêu mấy anh em khác rồi về trông chừng má, anh yên tâm đi. Dũng “ừ” một tiếng rồi kéo tiếp, giằng co một hồi lâu cuối cùng con tàu đánh cá cũng cập bãi an toàn. Tôi thở phì một tiếng: - Anh thấy sao nếu em đi biển? Dũng nằm sóng xoài ra mặt cát, nhìn tôi và đáp: - Biển còn ám ảnh với em như vậy sao Hải? Câu hỏi của Dũng làm tôi ngây người trong giây lát, đúng vậy biển đã ăn sâu vào tâm hồn tôi từ bé với những ước mơ và hoài bảo xa xôi. Bài học đầu tiên tôi được Tía dạy chính là biển cả, và ngược lại biển cả cũng dạy cho tôi một bài học đau đớn, mà cái giá phải trả đó chính là Tía tôi. Dũng choàng dậy ôm tôi vào lòng và thì thầm: - Trả biển cả về quá khứ đi em, đừng giữ làm gì. Mình về nhà thôi, Má đang đợi đó. Tôi ngoảnh nhìn về phía mặt biển, gió chướng thổi vù qua kẽ tai mang theo vị nồng chát đắng. Cửa biển chiều mưa, sóng vỗ ầm ầm mang theo nhưng mái đầu bạc phếch cuộn trào và vỡ tung thành bọt trắng. Đường về nhà mưa rả rích, những hạt mưa không còn to lớn nặng nề mà kéo dài lê thê. Hàng phi lao rũ rượi, những chùm bông trắng muốt tả tơi theo gió, tiếng sóng biển vọng theo âm ỉ và khàn đục. Vừa về tới nhà, chị tôi hất hả vẻ mặt lo sợ chạy ra: - Không thấy má ở trong nhà Hải ơi! Người tôi chết lặng, tôi thừ người và cố lục lại trong trí nhớ của mình là má thường đi đâu. Một cái gì đã nảy ra trong đầu mà tôi chưa định hình được nhưng có một điều tôi biết là mình đang chạy như một người điên băng qua gò cát. Đồi Mộ Gió chiều mưa thật ảm đạm, những đám cỏ sóng xoài bên ụ cát. Má tôi tay cầm một chiếc áo ướt sũng rũ rượi bên nấm mộ của Tía. Tôi thấy trái tim mình thắt lại, cổ họng như bị ai bóp nghẹt không thở được mà chỉ ngước nhìn má tôi ngồi rì rầm bên mộ Tía: - Ông tệ thiệt! Chiều sắp ra khơi mà không thèm mang theo cái áo khoác lên người, để cho mình mẩy đen thui như con khô cá đuối. Tía mất cũng đã hơn nửa năm nay nhưng đối với Má tôi thì Tía vẫn sống, vẫn ra khơi đều đều. Ngày Tía cùng sáu người trên tàu không trở về sau cơn bão cũng là ngày mà Má tôi lúc tỉnh, lúc mê như bây giờ. Ngày đó má cầm chiếc áo của Tía ra bãi biển gọi tên Tía suốt đêm, gọi mãi gọi mãi. Chiếc quan tài chỉ để gọn lỏn vài bộ đồ của Tía, đồi Mộ Gió lại có thêm một người mới đó là Tía tôi. Gió rít qua ngọn cây như một tiếng ré của con nít mới chào đời. Tôi ngồi xuống cạnh Má và thỏ thẻ: - Không về nấu cơm chiều cho Tía bỏ bụng ra khơi sao má! Má tôi cười đáp: “Ờ há, Má quên thôi về bây!”. Tôi dìu Má về trong cơn mưa rả rích, bóng hai má con nhạt dần sau đồi Mộ Gió. Trời đã khuya, cơn mưa đã tan, trăng non bắt đầu ló dạng. Bóng trăng nằm chênh vênh trên những rặng cây, ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa trên từng hạt cát lóng lánh. Tiếng sóng biển vỡ òa theo gió lùa vào lạnh và rát. Tiếng võng cót két nơi tôi nằm phát ra văng vẳng và đều đều trong đêm nghe hệt tiếng thở của ngôi nhà. Nghe tiếng chị tôi nằm trở mình là tôi biết có chuyện, tôi cất tiếng hỏi: - Có chuyện gì mà Hai ngủ không được vậy? Nói em nghe đi. Chị tôi thở dài, chống tay ngồi dậy: - Nói thiệt là tao thấy lo đủ thứ! Từ ngày Tía mất sao tao thấy nhà hiu quạnh, hồi đó còn có Tía cái gì khó khăn cũng có thể kham nổi, còn bây giờ tao thấy nhà mình giống như con tàu khẳm, chỉ một cơn sóng thôi là đổ nhào. Tôi trấn an Hai bằng giọng cứng rắn: - Giờ không có Tía thì còn có em, dù gì nhà này cũng còn đàn ông mà. Bữa trước em nói với chú Mười rồi chắc nay mai em sẽ ra khơi thôi. Chị tôi tỏ giọng không hài lòng: - Bỏ ngay cái ý định đó đi Hải ơi! Má với tao đã mất Tía rồi giờ mày mà đi biển nữa lỡ có mệnh hệ nào tao với má sống sao nổi, gia đình mà không có đàn ông như nhà không có cột, tao thấy chông chênh lắm Hải à. Tôi cười khì một tiếng rồi quay mặt nhìn ra sân. Hai tôi chậm rãi nói tiếp: - Có chuyện này tao tính như vầy. Mai tao điện lên chú Út về rước mày lên Sài Gòn học tiếp còn chuyện dưới đây tao lo. Tao tính bán cái tàu cá ở nhà được số vốn rồi buôn bán nhỏ sống qua ngày. Mày thấy sao? Nói xong hai đưa mắt về phía tôi như chờ câu trả lời. Tôi lặng lẽ đáp: - Em đi Sài Gòn yên phận còn Má với Hai ai lo? Em không yên tâm. Vả lại còn một số chuyện emchưa giải quyết được Hai ơi... Chị tôi đáp một cách nhanh gọn: - Chuyện mày với thằng Dũng chứ gì? Tôi tròn mắt ngạc nhiên hỏi: - Ý chị là sao vậy? Hai tôi đáp liền: - Chuyện của hai đứa bây cả xóm đồn ầm lên. Ai cũng nói tụi bây có vấn đề, con trai với nhau mà suốt ngày quấn lấy nhau, chẳng đứa nào chịu có bạn gái, người ta nói tụi bây bệnh bê đê. Tôi ngồi dậy kiếm ấm trà rót một ly và uống, lần nào tui cũng pha ngót nửa nắm tay trà khô vậy mà lần này khi uống sao thấy chát đắng. Tôi nhăn mặt vì miệng vẫn còn vị đắng dai dẳng. Chị tôi nhìn rồi thở dài: - Tao không biết chuyện của hai đứa là như thế nào nhưng có một điều tao thấy Dũng nó rất tốt với mày và gia đình mình. Ở đời sống không hổ thẹn lương tâm là được rồi còn chuyện ai nói gì thì đó là chuyện của họ mày đừng nghĩ nhiều nữa. Tôi tần ngần một hồi lâu: - Dũng sắp lấy vợ rồi Hai ơi. Nghe đâu là con của bà chủ tàu cá bên kia đất liền. Hai nhìn tôi ái ngại: - Cái này tao cũng có nghe người ta nói. Vậy cũng tốt cho nó chứ bám miết cái cù lao ven biển này có mà chết đói. Đời Tía đời tao cứ quanh quẩn nơi này suốt đời cũng chỉ đủ miếng cơm vào miệng là cùng. - Tôi hỏi nhỏ Hai tôi một câu: Có phải yêu một người là suốt đời không quên được đúng không Hai? Chị tôi lẩn tránh ánh mắt của tôi và đáp: - Quên được chứ sao lại không! Tôi cười gượng: - Nếu quên được thì Hai ở vậy chờ anh Sang làm gì! Chị tôi ngùi ngùi, thở dài và nhìn xa xăm: - Tao ở vậy không phải là vì tao không quên được anh Sang mà đó cái gì máu thịt trong người rồi, cũng giống như Má đợi Tía, giống như bao nhiêu người đàn bà khác chờ chồng, chỉ vậy thôi. Chợt nghĩ, bến đợi của Má tôi là bến đợi trong mơ, bến đợi quá khứ với một biển trời xanh thẳmvà hình ảnh của Tía trong những ngày cá đầy ghe. Bến đợi của chị tôi là bến đợi của tương lai với những hy vọng, ấp ủ và vị tha. Còn tôi với Dũng chỉ như những con thuyền trên đại dương xa xăm, trôi nổi, vô định phải chăng vì chúng tôi không có được cái bến đợi đầy bản năng của những người đàn bà. Trong đầu tôi lại hiện lên một con tàu trôi trên mặt biển êm ả, không gian yên tĩnh đến nỗi có thể nghe cả chất muối và những con sóng ngầm cứa vào mạn thuyền âm thầm, rạn vỡ. Tiếng máy nổ giòn tan, rẽ nước đưa từng đoàn người băng qua cửa biển. Tôi mân mê con tàu vỏ sò mà Dũng tặng. Một nỗi nhớ mông lung về những mùa gió chướng nơi đồi Mộ Gió, có ai đó và tôi nghịch cát, có ai đó cùng tôi trồng cây phi lao nhỏ, có ai đó ngồi yên cho tôi tựa vai vào mỗi khi buồn. Nhớ những con sóng bạc đầu khẽ cuộn mình trên đại dương sâu thẳm, nhớ về Tía về Má, chị Hai…những người quen trong cuộc đời tôi, tất cả bình yên và đẹp đẽ. *** Mấy đứa con nít chơi nhà chòi cười nói rôm rả. Cửa biển chiều nắng vàng ươm, gió thổi hàng phi lao lất phất những chùm hoa trắng. Đứa bé gái mở đôi mắt tròn xoe, nó lấy tay che ngang tầm mắt rồi quệt ngang mặt, tần ngần một hồi lâu rồi chạy vào nhà kêu ré lên: - Má! Má! Người đàn bà dáng lom khom lựa cá sau nhà, hất cái nón lá lên nhìn đứa bé hỏi: - Chuyện gì vậy Dương! Sau không chơi nhà chòi với bạn vô kêu má có gì không? Con bé cười toe toét: - Má thấy gì hông? Út về kìa! Chị tôi bỏ thõng mấy mớ cá, quàng một tay cặp nách con bé chạy ra trước. Tôi mỉm cười hỏi: - Bộ lâu lắm không gặp hay sao mà nhìn em dữ vậy Hai, đưa bé Dương em ẵm xíu, nhớ quá chừng. Chị tôi cười xòa hỏi: - Dạo này trên Sài Gòn không việc gì làm hay sao mà về đây mậy? Tính chị tôi là vậy, vui lắm nhưng lúc nào cũng hỏi lý do này nọ, càng ngày thấy chị càng giống Tía. Cái tính chi li, tỉ mỉ thì không cần phải nói, giống hệt. Tôi quàng bé Dương sau cổ bước vô cửa: - Má dạo này sao rồi Hai, mùa này chắc bội thu cá. Biển lặng quá chừng. Chị tôi chưa kịp trả lời thì tiếng má tôi vọng ra: - Hải về hả bây! Lần này về chơi bao lâu vậy! Má tôi lót cót xách cái ấm trà từ bếp lên, đặt ấm trà uống bàn, hớt nửa nắm trà cho vào ấm rồi nói: - Dạo này dưới quê cũng văn minh lên nhiều, điện đã về tới tận cái nơi khỉ ho cò gáy này, ai cũng vui hết. Chẳng mấy chốc xóm này có xe máy luôn cho xem. Tôi bỏ túi xách và bé Dương xuống giường, cởi cái áo sơ mi ra rồi nói: - Con thấy Má cũng văn minh lên rồi đó! Kiểu này chắc lên chuẩn gia đình văn hóa luôn há Má. Má tôi cười khì, hớp ngụm trà rồi nói: - Mày chọc Má hả, lên gia đình văn hóa bộ dễ lắm hả con. Nghe mấy chú trên xã nói còn xét nhiều thứ tùm lum hà mậy ơi. Dứt lời, Má tôi lại nhìn xa xăm ra hướng biển: - Giờ này chắc Tía bây cũng sắp về rồi à. Tranh thủ nấu cơm đi. Như thường lệ tôi chỉ biết nhìn Hai cười rồi lỏn xuống bếp mà thôi. Biển chiều thật lặng. Tôi nhìn Hai hỏi: - Chị nói cho bé Dương biết chưa? Biết nó không phải là con ruột của chị. Hai tôi nhóm bếp khói nghi ngút, mắt cay xè đáp: - Con nít có biết gì đâu mà nói, nghĩ cũng tội, ba nó đi biển gặp bão rồi mất tích. Má nó sinh nó ra rồi qua đời. Thấy thương nên tao nuôi, nhà có con nít cũng vui mày à. Tôi gật gù “ừ” một tiếng. Hai lấy cái ghế nhỏ đưa tôi ngồi rồi nói tiếp: - Mày biết tin gì chưa? Tôi ngạc nhiên hỏi: - Chuyện gì vậy Hai? Chị tôi dụi mắt đáp: - Chuyện thằng Dũng đó, nó ly dị vợ rồi. Giờ nó đi tàu cá cho chú Mười trong xóm, thỉnh thoảng nó cũng sang nhà thăm Má với tao, nhiều khi còn mua kẹo cho con Dương nữa. Tội lắm mày ơi! Tao biết nó sang chủ yếu chỉ để hỏi thăm mày là chính. Có lần nó còn xin tao địa chỉ mày trên Sài Gòn. Tao nghĩ chắc nó muốn lên thăm mày. Mấy lần trước mày về tao cũng tính nói cho mày nghe nhưng Dũng dặn tao là đừng nói cho mày biết. Tôi ngần ngừ: - Ờ, còn có gì nữa không Hai? Ánh mắt chị tôi sắc lạnh đáp: - Sao mày dửng dưng vậy Hải? Ít ra nó cũng thật lòng với mày mà. Giận cho lắm rồi được gì chứ, bên nào cũng đau hết mày à. Tôi nhếch mép cười “Ừ” một tiếng. Gió biển cay xè và lạnh ngắt thốc vào nhà. *** Đồi Mộ Gió chiều nay tím lịm, hoa muống biển bò rạp khắp nơi. Tôi thấy lâng lâng một cảm xúc nồng nàn của gió biển. Ánh nắng chiều xuyên nhẹ qua lớp cát mỏng, anh ánh lên thứ ánh sáng vàng sẫmcủa hổ phách buồn da diết. Những ngôi mộ không xác người nối tiếp nhau san sát, mỗi lúc một nhiều, mấp mô như gò bãi. Ngoài xa, chiếc tàu cá đơn độc thi nhau với sóng và gió. Con sóng vỗ liên hồi mạnh mẽ và ráo riết, con tàu vẫn can trường gánh chịu. Một sự lẻ loi cần một bàn tay ghì siết, dù không đủ mạnh nhưng ít ra con tàu kia sẽ không đơn độc giữa muôn trùng sóng xanh. Tiếng bé Dương gọi xé tan cái viễn cảnh cô độc của thiên nhiên nhiều lúc cứ nghĩ là viễn cảnh của mình. Tôi nhìn lại thấy Dũng và bé Dương đứng sau mình. Không hiểu sao tôi thấy lòng mình không còn trống trải nữa. Dũng tiến lại đặt bàn tay lên vai tôi và khẽ nói: “Anh sẽ cùng em ra khơi”. Chưa bao giờ tôi nghe tiếng sóng biển thật to, thật dữ dội đến thế, thật cuộn trào và mãnh liệt. Nghĩ về cuộc đời của Má của chị Hai mà chạnh lòng, tâm luôn nghĩ về quá khứ thì cũng không đạt được, tâm luôn khát khao về hiện tại cũng không được, tâm luôn mong đợi ở tương lai càng không thể được, vị lai sinh hiện tại rồi hiện tại trở thành vãng lai, tìm kiếm không phải là con đường kết nối cả ba... những gì ta nói không được là những gì ta theo đuổi.Tôi sẽ giương buồm thẳng tiến lênh đênh trên sóng nước chòng chành của đại dương cuộc đời này để biết rằng biển không phải lúc nào cũng có vị mặn mà còn có vị ngọt của yêu thương, của tình người. Gió chiều thật mạnh rít qua hai mái đầu dường như đã có vài sợi bạc. Xa xa, con tàu vẫn gan lì gánh chịu những trận sóng đầy thách thức. Tôi và Dũng ngước nhìn về phía bàn tay nhỏ xíu của bé Dương đang trỏ về phía chiếc tàu cá trên mặt biển xa xăm, dường như chiếc tàu cá đang phát sáng, thứ ánh sáng lấp lánh ánh hồng trên nền biển xanh trong... Paris- Những mùa yêu ___ Pencée ___ Mặt trời lẩn khuất tự bao giờ. Anh vẫn ngồi đó với điếu thuốc trên tay. Từ lúc đi làm về đến giờ anh chưa ăn uống gì cả. Căn phòng bỗng chốc rộng thênh thang vì chỉ có mỗi mình anh với những thứ đồ vật xung quanh được xếp gọn gàng ngăn nắp. Anh không nói gì cả, im lặng lạ thường. Tôi chỉ biết đứng nhìn anh từ trong góc tối. Hôm nay là một ngày đặc biệt… Thời gian đang quay ngược cho tôi trở lại thủ đô Paris năm nào. Mùa thu Paris với những khoảnh khắc đẹp đẽ vô thường không thể tả nổi. Cuộc sống hối hả thường nhật khiến con người ta quên mất mọi thứ xung quanh tươi đẹp đến ngần nào. Phải tội nghiệp và đáng thương cho những con người thành thị, giữa thủ đô hoa lệ xa hoa bậc nhất thế gian này, khi phần lớn thời gian của họ là chui rúc trong những ga tàu điện ngầm, những tòa nhà công sở cao ngút, những văn phòng, nhà máy… Nhiều khi họ tự hỏi rằng, không hiểu sao mỗi năm có hàng triệu người đến Paris chỉ để tham quan và du lịch; còn đối với họ, họ chỉ ước có thời gian nghỉ ngơi, những kì nghỉ lễ để rời xa thành phố. Có lúc chúng tôi cứ gọi đùa những cư dân đô thị bằng cái tên nổi tiếng từ thời Victor Hugo, Những người khốn khổ. Đương nhiên cái mỹ danh đẹp đẽ ấy cũng bao gồm cả chúng tôi, những cô cậu học sinh xa quê, tìm đến mảnh đất tri thức màu mỡ. Chúng tôi cũng khốn khổ không kém, giữa mảnh đất xa lạ này đây, cũng hàng ngày vất vả mưu sinh, cũng với những đống bài tập chồng chất trên giảng đường và những nỗi nhớ, niềm day dứt không nguôi về gia đình, bạn bè ở quê hương xa xôi. Nhưng bù lại những nỗi bất hạnh ấy có lẽ Paris đã an ủi cho tôi phần nào bởi vẻ đẹp bốn mùa, bởi những cảnh sắc mà chỉ nhìn thôi cũng có thể quên đi bao nhọc nhằn của cuộc sống. Ngày ấy, tôi đến với Paris với tất cả niềm tin và sự hy vọng, cũng giữa những ngày cây lá thay màu áo đón thu sang. Trời xanh ngập nắng, nhưng không nóng nảy mà hiền hòa, đối với kẻ vừa rời xứ sở nhiệt đới như tôi thì “trời lạnh lắm anh ơi”. - Anh không thấy lạnh à? - Trời này là mát chứ em, vừa qua mùa hè, ở đây nóng lắm. - Nóng lắm là cỡ bao nhiêu độ? - Thông thường thì khoảng 28, 30 độ, có khi lên đến 35 độ. Đương nhiên là em không thể so sánh với Việt Nam của mình được rồi. Con đường từ phi trường về thành phố cứ dài thăm thẳm. Những cánh đồng cỏ miên man trải dài theo những triền dốc, uốn lượn theo những làn đường cao tốc, lâu lâu lại xuất hiện những mái nhà xa tít, gần hơn có mấy con bò ngơ ngác giữa màu xanh bạt ngàn. Vài chiếc quạt năng lượng gió lúc nhỏ dần, lúc hiện ra to đùng, mồn một ở trước mặt. Con đường ngoằn ngoèo đi qua những cánh rừng nhỏ đủ màu sắc lá từ xanh, đỏ đến vàng giữa một nền trời xanh ngắt, trong vắt. Cuộc sống mới đã thật sự bắt đầu. Anh hướng dẫn cho tôi từng thứ một, từ cách đi metro(1), đi chợ, làm giấy tờ… Anh cũng là hàng xóm đầu tiên của tôi. Chúng tôi sống cùng trong một khu nhà với nhiều studio(2) nhỏ. Thú thực, chúng tôi chẳng quen biết gì nhau trước đây cả, hôm ở sân bay cũng là lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt. Chúng tôi biết nhau qua một diễn đàn sinh viên tại Pháp, nơi giao lưu gặp gỡ của cộng đồng sinh viên Việt Nam trên thế giới số. Có một điều lạ lùng là, chẳng hiểu sao tôi lại có thể tin tưởng và nghe lời anh đến thế. Một thân một mình đến đây, tiếng nói cũng còn chưa vững vàng, lỡ có ai đó bắt cóc, lừa tiền cũng chẳng biết kêu nữa là. Mà thực tình lúc ấy không tin anh thì tôi cũng chẳng còn biết tin ai cả. Nhưng rồi dần dần sau này tôi mới nhận ra, cuộc sống ở xứ người khiến con người ta đồng cảm hơn và quý mến nhau hơn, cùng cảnh ngộ thì bao giờ cũng có sự thông cảm và chia sẻ. Đương nhiên cũng không phủ nhận rằng, cuộc sống vẫn đầy rẫy những sự bất ngờ, kẻ xấu người tốt cũng đủ cả. - Ngày xưa mới sang đây anh cũng vậy thôi, cũng chẳng biết cái gì hết trơn và cũng được các anh chị khác giúp đỡ. Giờ thì ngon hơn rồi, nên cũng có thể giúp đỡ lại những bạn đi sau. Mười tám tuổi, tôi đã tự lập. Tôi không phải là người mạnh mẽ, tôi đã hụt hẫng rất nhiều với những tưởng tượng ban đầu về cuộc sống du học, về thiên đường Paris mà đêm đêm tôi vẫn mơ khi còn là một cậu học sinh trung học. Nhưng rồi bù lại là những đêm tôi khóc một mình, những ngày gật gù trên giảng đường vì chẳng thể hiểu nổi ông thầy đang nói gì. Tôi bắt đầu ít nói hơn, lặng lẽ hơn. Tôi không có nổi một đứa bạn ở trường sau một học kì đầu tiên. Tôi rụt rè, nhút nhát và tôi chỉ có anh là bạn, là người tôi hay kể, hay tâm sự nhất. Có những lúc vô tình, tôi còn khóc trước mặt anh… Thời gian thấm thoắt qua đi, để khi nghiền ngẫm lại thì tôi mới thấy thuyết tiến hóa của ông Đac Uyn là hoàn toàn chính xác, nói như thế nào ý nhỉ? Đó là sự chọn lọc tự nhiên. Tôi đã tiến hóa rất nhiều; không phải mọc đuôi hay rụng lông, hay có thêm chi gì hết mà là tiến hóa trong tư duy, trong suy nghĩ và trong hành động. Đi kèm theo đó là tình cảm giữa tôi và anh cũng ngày càng nảy nở hơn, tôi không còn nghĩ đó là tình bạn, tình anh em. Tôi tìm mọi cách để chối bỏ nó, chối bỏ yếu tố tiến hóa đi kèm không mong muốn ấy. Tôi không bao giờ nghĩ mình thích con trai. Tình yêu là cái gì đó vô thường và vô hướng. Chả trách ngày xưa, đám học sinh chúng tôi cứ gật gù mãi với bài giảng của cô giáo ngữ văn về ông Xuân Diệu và mấy bài thơ tình được cho là bất hủ. Tôi không phải là người lãng mạn và tôi cũng chưa bao giờ biết yêu từ trước đó. Nhưng cuối cùng tôi đã tự khắc trong kí ức cuộc đời mình tên anh là mối tình đầu tiên và cũng là cuối cùng. Tôi bước sang năm hai đại học, anh thì cũng chuẩn bị những tháng cuối cùng cho việc bảo vệ luận án tiến sĩ. Bạn đừng nghĩ người yêu của tôi già khọm với cặp mắt kính dày cộm, suốt ngày loanh quanh bên đống sách vở, lúc ấy anh chỉ mới hai mươi bảy tuổi thôi. Những ông tiến sĩ trẻ bên này không hề thiếu. Điều kiện khí hậu mát mẻ, sự vô tư trong cách suy nghĩ đã làm cho con người ta trẻ đến bất ngờ. Nhiều khi tôi ganh tị với anh, tôi không dám chắc đến tuổi ấy, ngốn từng ấy bằng cấp, tôi có được trẻ trung như anh không, tôi luôn là con người già trước tuổi. Sau thời gian thân thiết, chúng tôi bắt đầu một thứ tình cảm lạ lùng, tôi cứ gọi đó là tình yêu, nhưng nhiều khi nó không phải, lúc đó anh vẫn có bạn gái. Có lẽ chúng tôi đang bước vào một cuộc phiêu lưu tình cảm thì đúng hơn. Chẳng có mở đầu, chẳng có kết thúc, không quá khứ và mịt mờ tương lai; cho đến một ngày kia… Một ngày mùa đông, tôi đã bước sang năm thứ ba của đời sinh viên, đây cũng là mùa đông thứ ba tôi được ngắm tuyết rơi trắng xóa. Đêm hôm đó, trời lạnh căm căm, còn vài ngày nữa thôi là đến lễ Giáng sinh. Tuyết năm đó rơi nhiều lắm, nghe nói chưa có năm nào như năm ấy, trời lạnh và dày tuyết như vậy. Anh gõ cửa phòng tôi lúc hơn mười một giờ tối, dĩ nhiên tôi vẫn còn thức, chẳng có đứa sinh viên nào đi ngủ trước mười một giờ cả, bình thường là như vậy. - Ra ngoài chơi đi! - Chơi gì ngoài ấy? - Làm ông già tuyết… Tôi khoác chiếc áo phông, rồi cả hai cùng tuôn ra ngoài. Lúc ấy tuyết đã ngừng rơi, biến một bãi cỏ xanh mướt ngày nào trở nên trắng xóa giữa khuôn viên cư xá. Chúng tôi bắt đầu hì hục, lăn lăn, nắn nắn, đến hơn một giờ đồng hồ sau mọi thứ mới nên hình nên dáng. Ông già tuyết cũng không tệ, chỉ mỗi tội hơi gầy, thôi thì mang mác Việt Nam nên nhỏ bé tí cũng là hợp lí. Trời thì lạnh, nhưng chúng tôi thì nóng vì sau một lúc làm việc khá vất vả. Cả hai mệt nhoài ngồi phệt trên tuyết, chẳng ai nói gì nhau, chỉ nhìn chằm chằm vào thành quả lao động của hai đứa. Rồi bỗng nhiên trong khoảnh khắc im lặng ấy anh bỗng cất tiếng: - Anh chia tay bạn gái rồi. Tôi chẳng thay đổi sắc mặt, không mừng rỡ cũng chẳng có một chút cảm thông, lạnh lẽo như chính bãi cỏ trắng xóa lúc này. - Anh không biết làm sao? Chắc tại bọn anh không còn yêu nhau nữa. Tôi vẫn im lặng, chưa bao giờ tôi rơi vào trạng thái như thế, như một cái cây đang lơ đãng giữa mùa đông, nặng trĩu vì những mảng tuyết dày đặc bám vào thân, vào cành lá. - Anh chưa bao giờ có những cảm giác như thế này. Bắt đầu từ năm ngoái đến giờ anh thấy mình nghĩ lung tung hơn. Nhưng anh không muốn những suy nghĩ ấy làm đảo lộn cuộc sống của anh, anh đã tập trung nhiều hơn vào công việc. Đến bây giờ, khi anh đã bảo vệ xong luận án, anh rảnh rỗi hơn và những suy nghĩ ấy lại chiếm lấy con người anh, tâm hồn anh. Tôi dường như không thể im lặng được nữa, khi nghe anh nói về những suy nghĩ lạ lùng, giống những triệu chứng của căn bệnh mà tôi cũng đang có dấu hiệu mắc phải. - Anh suy nghĩ điều gì? - Về chúng ta? - Tại sao? - Em có nghĩ chúng ta đang yêu nhau không? À không, anh chưa biết em thế nào, nhưng anh thì cảm giác như vậy. Nhiều lúc anh nghĩ và lo lắng cho em nhiều hơn cả chị Lan, người yêu của anh. Tôi không trả lời câu hỏi ấy. Tôi lẳng lặng ngồi dậy và bỏ đi, tôi về phòng, tôi không quay nhìn lại. Dù vậy, tôi cảm giác anh vẫn ngồi đó, anh chẳng nhúc nhích, lặng lẽ dưới ánh đèn đường sáng rực, giữa nền tuyết trắng. Đêm hôm đó tôi không ngủ, nói đúng hơn là không thể ngủ được. Rõ ràng chúng tôi đã mắc cùng một căn bệnh - bệnh tương tư. Bây giờ anh đã nói ra còn tôi thì cũng không nên lặng im như thế này. Tôi chẳng biết mình nên làm thế nào. Sáng hôm sau, anh dậy và đi đến chỗ làm như thói quen hàng ngày. Tôi đã ngồi ở ngoài cửa phòng anh tự bao giờ, tôi không nhớ nữa. Cánh cửa bật mở, anh vừa thoáng thấy tôi. Tôi đã ôm chầm lấy anh, từ trong cuống họng rung rung một câu tiếng Pháp: “Je t’aime”(3). Nói với nhau, đó là liều thuốc của sự thật, liều thuốc hiệu quả để chữa trị căn bệnh đã dày vò trong đầu hai chúng tôi. Chúng tôi không thể lẩn tránh điều đó mãi mãi. Tuy rằng sự thật ấy sẽ làm chúng tôi khó khăn hơn trong cuộc sống, làm chúng tôi thay đổi nhiều hơn trong tương lai nhưng ít ra nó sẽ làm chúng tôi nhẹ nhõm và yêu đời hơn lúc đó, đơn giản vì chúng tôi yêu nhau, vì ta cần nhau. - Chúng ta sẽ về Việt Nam, em thích cảnh đẹp Paris, nhưng em không thích cuộc sống ở đây. - Anh cũng nghĩ thế, anh sẽ kiếm việc làm và đợi khi nào em học xong, chúng ta sẽ cùng về. Gia đình và cuộc sống đang đợi chúng ta ở nơi ấy. - Nhưng anh có sợ là ở Việt Nam chúng ta sẽ không có được cuộc sống tự do thoải mái như thế này không? - Thoải mái hay không là ở chính chúng ta mà thôi. Chúng tôi đã cùng vẽ nên bao dự định lớn lao sau bao năm học tập ở nước ngoài. Chúng tôi sẽ hạnh phúc dù có thể sẽ khó khăn hơn vì chúng tôi dám chọn cho mình con đường mà người đời đang cố tránh né. Anh nói đúng, thoải mái và hạnh phúc hay không là do chính chúng ta mà thôi. Nhưng anh ơi, chúng ta thôi thì chưa đủ, còn định mệnh và số phận nghiệt ngã đã an bài, đã dẫn đường chỉ lối. Ta làm sao cãi được số mệnh đây? Bây giờ chúng ta có được hạnh phúc không, khi chúng ta đang cách biệt giữa hai thế giới xa lạ. Em vẫn hàng ngày dõi theo anh, ngắm nhìn anh, nhưng em không tài nào chạm tay vào được khuôn mặt trắng trẻo, mái tóc đen của anh, không được áp mặt vào lưng anh, không được ôm anh nữa rồi, hơi ấm trong em đã biến mất tự bao giờ. Em biết anh vẫn còn lưu giữ hình ảnh của em ở đâu đó trong tâm tưởng, trong trái tim, nhưng làm sao anh có thể nhìn thấy em, khi giờ emđang ở thế giới vô hình. Em cảm nhận chúng ta ở cạnh nhau mỗi ngày, nhưng khoảng cách là vô tận, nó không còn được đo bằng những thước đo hiện hữu trên cõi đời này nữa rồi. Xa quá anh ơi! Hôm nay là ngày mất của em, em biết anh đang nghĩ gì với điếu thuốc trên tay, với khuôn mặt đăm chiêu đang nhìn về một cõi xa xăm nào đó bên ngoài cửa sổ. Hai năm rồi đó anh, anh cũng có thể quên đi được rồi. Em muốn anh tìm cho mình một hạnh phúc mới, một cuộc đời mới. Nếu anh có cảm tình với một cô gái nào đó thì càng tốt, sẽ là một cuộc sống êm đềm và rộng mở hơn, không cay đắng, trắc trở như chúng ta đã có. Em đã nhìn thấy trên mái tóc anh, bên phần tóc mai đã xuất hiện những sợ bạc rồi đó ông Tiến sĩ ạ! Anh đã qua tuổi ba mươi rồi, cũng không còn trẻ trung gì nữa đâu anh ơi. Quá khứ của chúng ta đã khép, nhưng tương lai của anh vẫn còn dài. Nỗi bất hạnh và sự chia lìa không thể vây kín con người ta mãi mãi, tình yêu vẫn hiện diện trên cõi đời này; không là em thì sẽ có một người khác yêu anh nhiều như em vậy. Tôi đang nấc lên nghẹn ngào từng lúc. Từ ngày tôi ra đi mãi mãi về bên kia thế giới, tôi chẳng bao giờ nhìn thấy được một khoảnh khắc anh cười thật to, thật sung sướng; có chăng chỉ là những cái cười mỉm gượng gạo. Anh mất niềm tin vào cuộc sống, tình yêu. Anh vẫn khép cửa trái tim mình mà tôi chính là cái ổ khóa khốn kiếp. Tôi chẳng thể an lòng. Tôi vẫn còn vương vấn cõi trần này vì anh, tôi muốn nhìn anh hàng ngày dù rằng tôi bây giờ chỉ còn là một linh hồn bé nhỏ, lạnh lẽo. Thế mới biết đâu chỉ có mỗi bản thân ta quyết định tất cả. Ở đời ai mà chẳng muốn được hạnh phúc và trọn vẹn hả anh. Nhưng bây giờ thì em chịu rồi, em không thể làm gì được nữa, em hoàn toàn bất lực rồi anh ơi. Em yêu anh nhiều lắm! Paris lại hiện về giữa một mùa thu vàng úa. Sông Seine, tháp Eiffel(4) đã chứng kiến bao nhiêu cuộc tình đẹp đẽ cũng có, dang dở cũng nhiều. Trong tôi vẫn mường tượng ra mọi thứ của một ngày ấy xa xôi, ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau ở sân bay. Những ngày chúng tôi từ bạn bè, trở thành anh em thân thiết để rồi yêu nhau lúc nào không hay. Chúng tôi dám nhìn nhận và yêu nhau như chưa bao giờ nghĩ như vậy. Chúng tôi đã vẽ ra một tương lai thơ mộng như thế nào sau chuỗi ngày gắn bó ở xứ người. Thế mà đổi lại kết quả bây giờ ra sao. Tất cả đã vỡ tan và chẳng còn gì nữa ngoài những dấu vết, những kỉ niệm của ngày xưa và tôi chỉ còn là bức ảnh được anh trang trọng đặt bên bàn làm việc. Ngày ấy đâu còn và bây giờ nơi thế giới hư vô tôi chỉ biết thì thào nhìn anh trong vô vọng: Xin hẹn anh kiếp sau!!! __________ 1. metro: tàu điện ngầm. 2. studio: căn hộ thu nhỏ. 3. Je t’aime: Em yêu anh. 4. Những địa danh nổi tiếng của Paris - Pháp. Hành trình về thị trấn Buồn Tênh ___ Thiên Bình ___ Cho những ngày rời xa Sài Gòn. Chuyến xe đưa họ về thị trấn Buồn Tênh khởi hành trong một ngày nắng bỏng rát. M. có thể nghe tiếng nước chảy trong lòng Sài Gòn ngày một nhỏ dần. Tiếng nước cống ầm ào bên dưới con đường nhựa, ùng ục cuốn theo rác rưởi, bùn nhơ - một thế giới nước đục ngầu, vẩn mùi hôi thối dưới lòng thành phố. Bên trên, hơi nước ngùn ngụt bốc lên. M. có thể nhìn thấy cả một cột hơi nước trắng xóa từ phía xa. Bất giác, M. kinh hãi, tự hỏi bằng cách nào mình có thể tồn tại chừng ấy thời gian ở thành phố này. Cách đây vài hôm. - Em đừng suy nghĩ lung tung nữa. - N. ôm M. vào lòng và hôn lên trán cậu. M. thường có ý nghĩ rằng mình sẽ chết ở tuổi 30, bằng một cách nào đó thật đơn giản: ngã từ căn gác ở độ cao 5m xuống mặt đường khi đang phơi quần áo, chết đuối trong bồn tắm,… M. thích mình sẽ chết khi đang nằm mơ. Có thể nào một người lại chết khi đang nằm mơ? M. từng hỏi N. rất nhiều lần, anh chỉ ậm ừ không trả lời. Có lẽ anh đã quá quen với những câu hỏi như thế của M. Anh đã tập cho mình thói quen phớt lờ chúng. - Em phải nghĩ rằng, mình còn khỏe mạnh, cuộc sống của mình còn dài, đừng để điều gì đáng tiếc xảy ra. Nếu là trước đây, khi N. nói câu đó, M. đã tạm yên lòng. Những lần M. tỏ ra bất an, N. đều mở đầu bằng cụm “em phải nghĩ rằng” để điều chỉnh suy nghĩ của M. Việc đó đã từng rất hiệu quả, hay ít nhất là M. từng cảm thấy thế. Nhưng lúc này, M. có cảm giác mọi thứ trôi tuột không điểm dừng. - M. à! Tại sao lúc nào em cũng khó nắm bắt đến vậy?! - Vài lần, sau khi làm tình, N. thì thầm vào tai M., mơ màng. - Vì em là nước! Anh không thể nào giữ nước trong lòng bàn tay trừ khi anh đông đặc nó. Nhưng nó sẽ sớm tan chảy thôi nếu anh không cho nó vào ngăn đá. Mọi chuyện đã vượt khỏi tầm kiểm soát của N. M. đã đi quá xa cái mốc mà hai đứa vạch ra kể từ khi cậu dọn về sống cùng anh. Sự chịu đựng nào cũng có giới hạn. Lần đó, N. phát hiện M. ôm hết số đá trong ngăn đá tủ lạnh ra nằm ở hành lang vào giữa đêm. - Anh không thể chịu đựng em được nữa! Sự hoang dại của em làm anh thấy sợ! - N. gắt lên rồi tát M. một cái thật mạnh.Cứ tưởng N. sẽ bỏ M. mà đi, vậy mà anh vẫn ở bên cạnh M. như chưa từng có chuyện gì xảy ra. *** M. thường hay mơ, những giấc mơ lặp đi lặp lại. M. mơ thấy mình ngụp lặn trên những dòng sông, bãi biển cùng một người đàn ông nào đó. Cả hai sẽ cùng nhau tan ra, hòa vào biển cả. Lần đầu tiên gặp N., M. đã biết rằng N. chính là người đàn ông M. cần tìm. N. cũng như M., yêu sóng nước, yêu biển, yêu những cơn mưa miệt mài đổ xuống đầu 8 triệu dân thành phố mỗi năm. Năm đó M. 20 tuổi, M. gặp N. ở nhà một người bạn trong giới chuyên kinh doanh cá cảnh. Anh đang nhìn chăm chú vào những con cá đủ màu sắc bơi lội tung tăng trong bể kính. Trong cuộc trò chuyện với M., anh tự thú: “Anh có cảm giác mình là những con cá kia, trơn nhẫy, đẹp đẽ nhưng lại bị giam cầm trong cái bể cá chật hẹp. Anh muốn được bơi ra biển lớn!”. Tuy nhiên, N. chỉ nói điều đó một lần duy nhất. Kể từ khi M. dọn vào sống cùng anh, anh không còn tự ví mình là cá nữa. 20 tuổi, nếu không có N., M. vẫn phải sống trong khu nhà trọ ọp ẹp, xập xệ, nhung nhúc người, nhung nhúc tiếng chửi thề và cãi vã nhau cay nghiệt mỗi ngày. Người lớn trút nỗi bức bối lên những kẻ bênh cạnh mình. Trẻ con trút lên vách tường bong tróc từng mảng vôi vữa cũ kĩ những vệt than nguệch ngoạc, dung tục. 20 tuổi, M. phơi phới sức trẻ, trắng trẻo, căng mọng, chập chững bước vào đời. M. như một vật thể xinh đẹp và non nớt bị đặt nhầm bối cảnh. Ở xứ nhiệt đới nắng nóng này, M. như khối nước đá trong suốt, tinh khôi bị đặt lên chảo lửa. M. đang tan chảy và đang từ từ bốc hơi. Đôi khi, ở một khúc cua nào đó bị ùn tắc, M. hoảng hốt khi thấy hơi nước bốc ra ngùn ngụt từ đám đông. Họ cũng đang bốc hơi mà không hề hay biết! Thiên hạ chẳng hề biết rằng, họ vốn là những khối nước đá di động. Trải qua quá trình tiến hóa, họ tự làm mình khác biệt hơn bằng quần áo, nước hoa, giọng nói, trang sức. Những khối nước đá được sơn phết, trang điểm để không bị hòa lẫn với đồng loại. 20 tuổi, nếu không có N., M. đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần. M. không phải là trường hợp hiếmhoi. Thời gian gần đây, các nhà tâm lí bảo rằng rất nhiều người trẻ mắc bệnh hoang tưởng. Các nhà tiên tri thì cho rằng đây là kỉ nguyên tận thế của loài người. Sự hoang tưởng đã trở thành dịch bệnh lây lan nguy hiểm, sẽ nhấn chìm loài người vào tối tăm. Xâu chuỗi lại các lí thuyết, cùng với hiện tượng Trái Đất đang nóng lên, M. có thể thấy rằng, chẳng mấy chốc, loài người sẽ bốc hơi vào không trung. - Tao là khối nước sắp bị cạn khô mày ạ! - M. thổ lộ với với T. - người bạn thân trong giới duy nhất của cậu - Tao phải tìm thấy nguồn nước trước khi bị hút cạn. Lượng nước trong người tao chỉ đủ duy trì sự sống cho tao đến năm 30 tuổi. - Tao hiểu ý mày, nhưng đừng nói suy nghĩ đó cho ai biết. - Tao mặc kệ! Tao là nước! Tại sao không? Thales đã từng cho rằng vạn vật đều khởi nguồn từ nước. Vạn vật đều là nước ở dạng này hay dạng khác. - Nhưng bây giờ không còn ai tin vào thuyết ấy nữa. Người ta đã chứng minh rồi. - Tao mặc kệ! Tao không cần ai tin! - Mày cứ như thế này sẽ chẳng tìm được người yêu đâu, tao lo cho mày quá! Cho đến khi T. thấy M. ung dung bước lên chiếc xe hơi hàng hiệu của N. để về sống cùng anh, T. mới trố mắt gật gù. T. còn bảo, T. là người duy nhất có thể hiểu M. T. biết rằng M. yêu N. không phải vì tiền bạc, địa vị, nhà cửa, xe hơi,… mà vì N. sẽ cứu rỗi cuộc đời đang lăn lông lốc không điểm dừng của M. N. chính là kim chỉ nam cho cuộc đời nhàu nhĩ của M. T. đã sai! T. chẳng hiểu gì cả! T. như những kẻ ngoài kia cho rằng M. bị điên, M. mất trí. Người ta có thể nói rằng, ừ, thời nay, những người có ngoại hình đẹp như M. đều có đầu óc rỗng tuếch. Nếu bảo M. không cần những thứ trên từ N. thì hoàn toàn dối trá. Nhưng trên hết, M. yêu N. vì cậu biết anh không phải là một khối nước đá như những ai khác. N. là một con cá hiếm hoi mà tất thảy ai cũng muốn tranh giành. N. là một con cá voi xám, loài động vật có thể mang khuynh hướng đồng tính trong tự nhiên. Nhiều lần, M. đã lặng ngắm N. trong đêm khi anh đang ngủ. Đôi mắt, đôi môi, cánh mũi, bờ vai, vòm ngực,… tất cả đều mang dáng vóc, hình hài của một con cá voi nặng trịch, khổng lồ. Chính M. đang cứu rỗi cuộc đời đang mắc kẹt của N. đấy chứ. N. là một con cá bơi trong lòng nước. Ra khỏi nước, cá sẽ chết. M. thích thú với ý nghĩ đó. N. có tính chất của một hằng số. Cuộc đời của N. là một chuỗi những kế hoạch được lập trình sẵn ghi trên những mẩu giấy note(1) màu xanh hi vọng. Thực chất, N. như con cá đang mắc kẹt trong những cao ốc văn phòng ở thành phố hiện đại. Hằng ngày lái xe đến công ty. Tối đến đưa M. đi ăn ở những nhà hàng sang trọng, rồi tạt vào một quán café hạng sang, hòa vào những con người quần áo tinh tươm, đắt tiền đang lắc lư theo điệu nhạc trầm buồn. Cuối tuần đi mua sắm ở Parkson, Diamond, xem phim rạp 3D,… Tất cả đã được lập trình sẵn. M. và N. đều đang mắc kẹt trong những lịch trình, những thú vui phù phiếm được xem là thời thượng, cao sang. M. trở nên tách biệt với bạn bè trong giới. Cả M. và N. đều đang mắc kẹt trong những tòa nhà hình hộp chữ nhật, chực chờ chết cạn, chết khô. Bằng cách nào mà một con cá quí hiếm như N. lại mắc cạn trong căn hộ xếp hộp này? M. cũng không biết. Cả M. và N. đều không lưu giữ quá khứ. M. không biết N. từ đâu đến. Anh cũng chưa bao giờ kể cho M. nghe những chuyện trước kia. Anh bảo: “Cuộc đời anh tính từ lúc gặp em ở tiệm cá cảnh.” Còn M., M. chỉ biết rằng, sau khi X. cất giữ quá khứ của M., M. như không còn quá khứ nữa. Cuộc đời của M. chỉ tính từ lúc dọn vào căn nhà trọ ẩm mốc, xám xịt năm 20 tuổi. X. đang ở đâu? M. phải đi tìm ông ta. X. biết tất cả. Ông ta là người giữ chiếc rương quá khứ của M. và N. M. phải trở lại thị trấn Buồn Tênh, M. sẽ đưa N. về nơi anh đến, sẽ tự cứu mình trước khi M. chỉ còn là một giọt nước kiệt khô. Đã 10 ngày rời xa Sài Gòn. Chiếc xe cà rịch cà tang cũ kĩ với những chiếc ghế bọc nệm rách lỗ chỗ, cửa kính cáu bẩn, trầy trật, vẫn miệt mài đưa những mặt người về thị trấn Buồn Tênh - thị trấn lưu giữ kí ức của những ai muốn chôn vùi chúng. Những người tham gia cuộc hành trình này đều mang theo bên mình một chiếc rương - trừ M. và N. Có cái to, cái nhỏ, tất cả đều rất chắc chắn, cứng cáp và được khóa lại một cách kĩ lưỡng. Đa số họ gục đầu vào cửa kính, nhắm nghiền mắt mong thời gian trôi qua. Sau chuyến đi này, họ sẽ không còn kí ức. Vài người tò mò khi thấy M. và N. không mang theo rương, họ ghé lại trò chuyện. N. thì vẫn bàng quang với tất cả. Vốn dĩ anh không có ý định đi trên chuyến xe này. Là M. đã lừa anh đi cùng cậu. M. biết, nếu M. nói rõ với anh, chắc chắn anh sẽ từ chối, thậm chí có thể nổi giận vì ý nghĩ điên rồ của cậu. Nhưng sau khi nghe một vài người cởi mở, tâm sự về chiếc rương của họ, N. đã tỏ vẻ quan tâmhơn. Một người đàn ông trạc 30 tuổi, tóc đã điểm hoa râm, bắt chuyện với M. Ông ta là người đồng tính, đã sống hơn 10 năm với người tình. Bỗng một ngày, ông ta phát hiện người tình đã lừa dối ông suốt 5 năm. Người tình vẫn chờ đợi tình yêu cũ trở về. Ông ta muốn chôn vùi phần quãng đời đau thương và dối trá ấy. Một anh thanh niên khác nét mặt rầu rĩ kể rằng anh ta vừa mới lấy vợ thì phát hiện mình là người đồng tính. Không thể sống cuộc sống hai mặt ấy, anh ta muốn quên những kí ức đó để trở về với gia đình. Một cô gái yêu phải người đồng tính. Rồi một cô gái trẻ măng bơ vơ giữa Sài Gòn bị rơi vào cạm bẫy của những kẻ chăn dắt. Bên trong chiếc rương của cô là những lọn tóc còn trinh, là chiếc nhẫn đính hôn của người bạn trai đã hứa lấy cô làm vợ, bỗng ruồng bỏ cô vì cô không còn trinh tiết. Còn những người khác nữa, những người đang khóa chặt chiếc rương trên tay, kí ức đối với họ hẳn là một điều không thể chia sẻ cùng ai. Họ chỉ muốn giam nó vào một nơi tối tăm, không ánh sáng để không còn nhìn thấy. Đêm ấy, N. lặng lẽ nhìn sang M., cậu đang ngủ say, tựa đầu vào vai anh, ôm lấy cánh tay trái của anh, gần gũi và thân thương hơn bao giờ hết. N. nhìn ra ngoài cửa sổ, nhóng mắt như người du miên. Anh nhác thấy những dư ảnh quá khứ đã bị người khác đánh rơi trong chuyến đi về thị trấn. Những đoạn kí ức bị đánh rơi bên đường thập thò, ẩn hiện, u uẩn. Trong trí anh chợt hiện ra những dư ảnh thời trai trẻ. Trong đó, anh trầm mình trong cái bồn tắm đứng trong suốt, mỉm cười nhìn những con cá nhiều màu sắc bơi xung quanh. Anh còn nhớ rất rõ cảm giác lúc ấy. Cả thế giới bên ngoài lớp kính chòng chành, méo mó như cái gia đình đầy định kiến của anh. Họ đã ruồng bỏ anh vì anh không muốn lấy vợ, sinh con, không thể khiến họ hãnh diện, tự hào ngẩng đầu với xã hội. Anh là nỗi nhục nhã, bệnh hoạn của gia đình. Chỉ sau làn nước, trong cái bồn tắm ấy, anh mới thật sự cảm nhận rõ rệt nỗi cô đơn, buồn bã, đau đớn chảy trong huyết mạch mình. Những con cá hiểu rõ điều đó, chúng cũng nhìn thế giới qua làn nước. Chúng đã là bạn của anh từ khi còn nhỏ, cô đơn, lặng lẽ trong căn nhà, nhìn những người phụ nữ lần lượt đi qua cuộc đời ba anh. Anh luôn muốn mình là cá. Một con cá trơn nhẫy để có thể thoát khỏi những rào cản, vây hãm, khỏi vòng tay của những kẻ đang muốn bóp nghẹt nó. Con cá sẽ bơi ra biển khơi rộng lớn. Chỉ có biển cả mới có thể chấp nhận con cá cô đơn, khác biệt này. Những kí ức đó, N. chưa bao giờ quên. N. đã lừa dối M. Trên chuyến xe về thị trấn Buồn Tênh ba năm trước, vào phút cuối cùng, N. đã giữ lại tất cả các kí ức. Chiếc rương của anh rỗng không. Chỉ có M. là người đã vùi đi quá khứ. Là anh muốn tốt cho M., M. quá yếu đuối để tự rũ bỏ nó. Anh tự hứa sẽ mang đến cho M. một hiện tại mới, một cuộc sống mới, nhưng hiện tại này là điều anh mong muốn chăng? Ngày mai, anh và M. sẽ đến thị trấn. Anh sẽ phải làm sao nếu M. tìm lại được những kí ức ấy? Và sẽ phải làm sao với những dối trá này? *** - Em vào trước đi, anh đợi! - N. bảo. M. gật đầu, không một chút do dự. N. đứng nép bên cửa, tất cả sự nặng nề, tội lỗi như đè nặng trái tim anh. Trong căn phòng đó có hai chiếc rương, một của anh, một của M. Anh nhắm chặt mắt, cố gắng lắng nghe những âm thanh xung quanh. Tiếng sóng biển ngoài xa. Tiếng gió. Tiếng chiếc rương mở ra ken két. Anh siết chặt hai nắm tay, mồ hôi nhễ nhại, chờ đợi thời gian trôi qua. Tịnh không một tiếng động. Rồi M. bước ra, lẳng lặng nhìn anh một lúc lâu, môi mím chặt đến mức bật máu. Chân mày M. như xô lại, nét mặt biến dạng. Trong phút chốc, tất cả sức lực rời bỏ M. như để dồn vào tiếng khóc thét xé tan bầu không khí hoang vu của thị trấn Buồn Tênh. M. nép xuống chân anh. Anh cúi xuống ôm lấy M., để M. trút lên anh tất cả những tức tưởi và dồn nén bấy lâu. Anh nhìn vào bên trong. Chiếc rương của anh mở toang, trống hoác như tố cáo những dối trá trong anh. Trên sàn nhà, hàng chục những bức tranh rơi vãi. Anh biết chúng vẽ gì. Cảnh M. bị ba đánh đập, bị nhốt trong căn phòng tối tăm, bức bối. Cảnh M. quì bên bàn thờ mẹ nghi ngút khói. Cảnh M. trầm mình trên sông tự vẫn. Người ta tìmthấy M. trong tình trạng chấn động tâm lí cực độ. Năm đó, M. 19 tuổi. Họ ở đó đến khi người lả ra, trơ khấc, nhợt nhạt. Nắng chiều ở thị trấn vẽ họ trong một bức tranh ngược sáng với những gam màu hỗn loạn. Phía xa, bức tượng Chúa vô tri đứng dang tay nhìn ra mặt biển loang loáng nước. *** Chuyến xe rời thị trấn Buồn Tênh khởi hành trong một chiều hanh hao nắng gió. M. tựa vào N., nhìn theo chiếc xe cũ kĩ dần dần khuất sau rặng cây. Bất giác, M. cảm thấy cảnh tượng này rất quen, dù đây là lần đầu tiên cậu trải nghiệm. Họ đã quyết định ở lại thị trấn này. Trước đó, một cô gái đã đến gặp họ, cô ta bảo rằng mình sẽ đem chiếc rương kí ức trở lại Sài Gòn. Cô không muốn trở thành một người mất đi kí ức, dù nó có thế nào đi nữa. M. chỉ gật đầu, không nói gì. Người ta có quyền làm những gì họ muốn với kí ức của họ. Cậu tựa vào N., nhẹ hẫng, tưởng như sẽ tan ra theo gió hay sẽ hòa lẫn vào những con sóng kia. - Thật may là em đã đặt vào chiếc rương của mình bức tranh này anh à! Bức tranh vẽ một con thuyền căng buồm ra khơi. Đàn hải âu bay lượn, con cá voi trồi lên mặt nước. Xa xa hai bóng người nhỏ nhắn như hai chấm đen trên bãi cát trắng. M. nhận ra rằng cậu đã gieo vào quá khứ hạt giống của niềm tin và nhờ đó M. đến được với hiện tại này. Nhờ đó, M. có thể tha thứ cho anh. Có những chuyện ta đã làm mà ta mảy may không nhớ đến. Có những chuyện dù cố quên đi những vẫn hiện lên mồn một ở một khoảnh khắc nào đó trong đời. Kí ức không hoàn toàn là dĩ vãng, nó vẫn ở đâu đó trong hiện tại nơi M. đang đứng đây. M. sẽ gieo vào nơi này những hạt giống niềm tin mới. Có thể ít lâu sau, M. sẽ không còn nhớ gì về điều này, nhưng nó vẫn sinh trưởng, mọc ra những cành cây xanh non và tươi mát. Và họ đã tìm thấy biển khơi. __________ 1. Note: ghi chú Miệng rộng ___ Love Is Around ___ “Con nít quỷ! Xấu! Xấu! Xấu như quỷ” - Tiếng Miệng Rộng lanh lảnh ré lên. Tôi hãi hùng nhìn sang, thấy nó đang chỉ trỏ vào một cái xe nôi đẩy. Mẹ của đứa bé đứng phía sau mặt xám ngoét, nhìn Miệng Rộng với đôi mắt hình viên đạn. Tôi chưa kịp thò tay bịt miệng Miệng Rộng, thì nó lại tiếp tục cất cái giọng cao vút: “Con nít quỷ con của mẹ quỷ!” Tôi nghe đến đâu mà rụng rời tới đó, những tưởng người phụ nữ sẵn cái túi xách to trong tay, sẽ nện vào đầu Miệng Rộng vài phát vì tội phát ngôn linh tinh. Tôi vội vàng nhảy vào xin lỗi rối rít: “Xin lỗi chị! Thằng bé nó khờ. Chị đừng trách nó nhé!” “Khờ gì mà nói câu nào câu đó như đào mồ đào mả người ta lên.” - Người phụ nữ lườm tôi một phát bén ngọt như dao. Tôi chưa kịp chống chế thêm câu nào, Miệng Rộng lại tiếp tục ngoác cái miệng rộng của nó. Lần này chính tôi là nạn nhân: “Cô này hung dữ quá, anh Đít Chai Pê Đê ơi!” Đám đông trên xe buýt đang nhốn nháo theo dõi cảnh lời qua tiếng lại, bỗng đổ ra cười rần rần. Cô ‘Mẹ Quỷ’ đang lườm nguýt cũng phải bật cười theo. Cái màu xám ngoét nó chạy từ mặt cô ‘Mẹ Quỷ’ sang mặt tôi, anh Đít Chai Pê Đê. Tôi vội vàng móc trong giỏ ra một cây kẹo mút to rồi nhét vào miệng Miệng Rộng. Đây là cách duy nhất có thể khiến nó im lặng được vài phút. Bụng bảo dạ từ rày về sau, tôi sẽ không bao giờ dắt nó đi chơi nữa. Thật ra thì kích cỡ miệng của Miệng Rộng thì bình thường, có thể hơi rộng tí, nhưng cái tên Miệng Rộng bắt nguồn là do nó luôn nhanh nhảu thấy gì nói đấy, mang phiền phức cho nó và những người đi kèm. Chính nó đã đặt cho tôi cái tên Đít Chai Pê Đê. Cái biệt danh này cũng có tí lịch sử của nó, mới đầu chỉ là Đít Chai, Pê Đê là sau này được thêm vào, giống như sĩ quan được thăng chức lên gắn thêmquân hàm ấy, nhưng cái này thì chẳng thấy vinh dự tí gì. *** Tôi gặp Miệng Rộng lần đầu khi tôi tay xách nách mang hành lý, chuyển đến nhà trọ mới. Khu nhà trọ là một dãy các phòng trọ nhỏ xây theo hình vuông, ở giữa có một khoảnh sân nhỏ, lọt thỏm dưới những hàng sứ sum xuê. Một thằng nhóc cỡ mười, mười một tuổi, dáng linh hoạt nhanh nhẹn, đang chơi bắn bi giữa sân. Vừa thấy tôi đến, nó ton ton chạy lại. Đứng sát bên dòm lom lom một lúc, rồi bất chợt hét lên lanh lảnh: “Anh Đít Chai! Mẹ ơi có anh Đít Chai đến nè!” - Nó vừa hét vừa chạy vụt vào căn nhà cuối sân. Tôi điếng người vì cái biệt danh mới, từ một thằng ranh mới lần đầu gặp. Một người phụ nữ luống tuổi, thân hình đẫy đà, ăn mặc giản dị bước đến. Gương mặt bà phúc hậu, chào tôi với một nụ cười niềm nở. “Dì là mẹ của thằng nhỏ này à?” - Giọng tôi pha lẫn một chút khó chịu, vừa nói vừa chỉ về hướng thằng ranh. “Không, Miệng Rộng là con của ông bà chủ khu trọ này.” “Miệng Rộng?” - Tôi đang bực mình nhưng cũng bật cười vì cái tên ngộ nghĩnh ấy. “Thằng nhỏ nó nhanh nhảu, nghĩ gì nói đó, cháu đừng để bụng.” Lại cái giọng lanh lảnh của Miệng Rộng vang lên sát bên, tai tôi ù lên, như có ai lấy một cái cây nhọn mà chọc qua: “Dì Mập Heo! Dì Mập Heo! Có anh Đít Chai mới dọn đến nè.” Tôi mím chặt môi để khỏi cười, nhìn sang Dì Mập Heo. Dì cười xòa với tôi, rồi lấy tay xoa đầu nó, vờ nghiêm mặt: “Không ngoan, mai dì không cho con ăn sáng luôn.” Miệng Rộng mặt đang hớn ha hớn hở, nhanh chóng chuyển sang tiu nghỉu. Nó cầm gấu quần dì Mập Heo giật giật: “Con ngoan mà! Con ngoan mà!” Cả tôi và dì Mập Heo cùng bật cười. Thằng ranh này xem ra cũng không quá đỗi đáng ghét. *** Sáng hôm sau, tôi vừa bước ra khỏi cửa phòng trọ, đã thấy dì Mập Heo ngoắc lia ngoắc lịa. Dì bán đồ ăn sáng ở đầu lối vào khu trọ, kê bàn ghế ra khoảng sân con. Miệng Rộng đang ngồi cạnh đó ăn sáng, nó cầm đũa khều khều mấy mấy cọng mì, vừa thấy bóng tôi, nó liền hét lên mừng rỡ: “Anh Đít Chai! Anh Đít Chai!” Tôi chưa biết nên phản ứng thế nào với nó, thì dì Mập Heo niềm nở mời mọc: “Con ăn sáng chưa? Lại đây ủng hộ dì tô mỳ quảng.” “Dạ, dì làm con một bát mỳ.” Đôi tay dì Mập Heo thoăn thoắt bốc bỏ vào tô những cọng mỳ vàng ươm, mấy con tôm thẻ đỏ au và vài cục sườn heo căng mọng. Dì thêm vào đậu phụng, hành lá, rau thơm, ớt đỏ, bánh đa, rồi chan ít nước lèo. Tô mỳ bốc khói nghi ngút, nhìn hết sức hất dẫn. Một cô gái trẻ, tóc cột đuôi gà, dáng người nhanh nhẹn, đứng cạnh đó liền đỡ lấy tô mỳ rồi đặt xuống trước mặt tôi. Miệng Rộng ngước lên nhìn, ngoác miệng ra cười hết cỡ: “Chị Cò Ế! Chị Cò Ế!” “Miệng Rộng ăn nhanh lên, cứ ngồi hẩy hẩy văng đầy ra bàn rồi kìa!” “Em đang ăn nhanh mà.” - Rồi nó phụng phịu quay sang dì Mập Heo nhõng nhẽo - “Chị Cò Ế la con nữa kìa.” “Thì con ăn nhanh lên rồi không bị la” - Dì mắng nó rồi chép miệng - “Tội nghiệp, hồi nhỏ nó bị sốt nặng. Mẹ nó đưa đi cấp cứu, bác sĩ cứu sống kịp thời, nhưng đầu óc nó thì cứ ngơ ngẩn cho tới giờ.” Tôi nhìn sang Miệng Rộng, nó vẫn vừa ăn vừa cầm cây đũa khều khều mấy cọng mỳ. Chị Cò Ế ngứa mắt, chu miệng ra ghẹo nó tiếp: “Miệng Rộng ăn nhanh lên, không thôi chị bỏ me vào à!” “Không! Không! Miệng Rộng sợ me lắm!” - Rồi nó ôm chặt cái tô mỳ vào người, nước mỳ văng tung tóe đầy bàn. “Cái con này! Đã bảo là đừng có ghẹo nó mà, cứ để nó từ từ ăn.” - Dì Mập Hep quắc mắt rầy. Chị Cò Ế nhe răng cười hì hì. *** Buổi tối. Tôi đi xem phim với anh về khuya. Anh thả tôi xuống ở đầu hẻm. Khu nhà trọ lờ mờ tối dưới ánh điện hắt ra từ một vài ô cửa còn sáng đèn. Tôi tạm biệt anh rồi quay bước về phòng trọ. Anh nắm tay tôi giữ lại: “Không hôn anh tạm biệt à?” “Anh này kỳ quá! Người ta nhìn thấy làm sao?” “Khuya rồi không ai thấy đâ…” Anh nói chưa dứt chữ “đâu” thì bị cắt ngang bởi cái giọng lanh lảnh của Miệng Rộng, hét hết âmlượng trong đêm khuya. “Anh Đít Chai có bạn trai! Mẹ ơi, anh Đít Chai có bạn trai!” Tôi điếng hồn, tưởng như nghe tiếng máy bay oanh tạc dội bom xuống khu nhà trọ. Mặt anh cũng tái mét, đứng trơ như phỗng ra. “Đó! Em nói mà không nghe. Thôi mau chạy đi, để em lo.” Tôi nói cứng mà trong lòng đánh lô tô. Miệng Rộng đã chạy vào nhà. Vài người thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn ngó. Tôi ê mặt, bước nhanh về phòng trọ của mình. *** Buổi sáng hôm sau, tôi đứng sau cánh cửa phòng trọ đã hơn năm phút mà vẫn chưa đủ can đảm để đi ra. Tôi không hình dung được cảnh tượng gì sẽ xảy ra bên kia cánh cửa. Hít một hơi thật dài, tôi mở cửa rồi bước thật nhanh. Nhưng chạy trời làm sao cho khỏi nắng, Miệng Rộng ngồi ăn sáng chình ình ngay lối ra vào khu trọ. Vừa thấy tôi, nó mừng rỡ hét toáng lên: “Anh Đít Chai Pê Đê lại ăn sáng!” Tôi đang đi nhanh mà nghe nó gọi giật ngược, chút xíu nữa là té chúi nhủi. Hỡi ơi, ‘Đít chai’ là đủ kinh dị, nay lại còn thêm ‘Pê Đê’. Mà cái cụm từ sau có hay ho gì. Với cái loa phóng thanh của nó, thì không chỉ có khu trọ này, mà chắc cả thành phố cũng nghe thấy. Tôi đang bần thần, tay chân thừa thãi, chưa biết làm gì, thì dì Mập Heo ngoắc: “Lại ăn sáng ủng hộ dì đi con!” - Giọng dì vẫn niềm nở như không có chuyện gì xảy ra - “Vẫn một tô nhiều mỳ hả con?” Miệng Rộng thấy tôi bước lại, nó cười toe toét mừng rỡ: “Anh Đít Chai Pê Đê! Anh Đít Chai Pê Đê!” Tôi sa sầm mặt lại. Bình thường mỗi khi gặp tôi, nó đều nhảy tưng tưng hớn hở như vậy, nhưng hôm nay tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu vì cái biệt danh mới. Tôi điên tiết, cau mày lại, nạt nó lớn tiếng: “Mày có thôi đi không?” Miệng Rộng bị tôi nạt nộ bất ngờ, nó xụ xuống bắt đầu mếu máo. Chị Cò Ế thì mặt nhìn hết sức đau khổ vì phải cố mím môi mím lợi để khỏi phải cười. “Cái con này, làm cái mặt gì vậy?” - Dì Mập Heo rầy chị Cò Ế, rồi quay sang tôi: “Con đừng để ý mấy đứa này. Ở đây ai cũng có biệt danh hết. Nào là chú Xì Ke, cô Phù Thủy, chị Xác Ướp. Toàn là do cái thằng Miệng Rộng này đặt cho. Ai nghe cũng buồn cười, rồi bỏ ngoài tai.” “Dạ!” Tôi ậm từ cho qua chuyện. Trong bụng thầm nguyền rủa Miệng Rộng. Có thể chú Xì Ke thật sự không nghiện ma túy, cô Phù Thủy không hành nghề pháp thuật và chị Xác Ướp không phải thây ma, nhưng cái biệt danh Miệng Rộng đặt cho tôi thì hoàn toàn chính xác. Thế mới trúng chỗ hiểm chứ. *** Buổi trưa, trời nóng bức oi ả, tôi mở tung của sổ lẫn cửa ra vào cho thoáng khí, rồi ngồi đọc sách. Miệng Rộng như từ trên trời rơi xuống, chạy vụt vào phòng rồi đứng sát cạnh tôi nhìn nhìn ngó ngó. Tôi bực mình xẵng giọng: “Miệng Rộng ra cho anh học bài!” “Em chỉ đứng nhìn thôi.” “Đứng nhìn cũng không học được.” Mặt nó phụng phịu, lùi lại một bước, rồi nhìn ngó xung quanh khắp phòng. Đột nhiên nó hét lên: “Aaaa! Có kẹo! Có kẹo!” - Nó nhảy tưng tưng, chỉ vào mớ kẹo trên kệ. “Anh cho kẹo rồi Miệng Rộng phải đi ra ngoài nhé!” - Tôi lườm nó. “Dạ!” Tôi hốt hết mớ kẹo đưa cho nó. “Rồi đó! Đi ra ngoài đi!” Nó nhảy cẫng lên, vừa chạy ra ngoài vừa hò reo mừng rỡ “Kẹo! Kẹo!”. Tôi nhìn theo, chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm. *** Buổi tối, tôi đang lui cui chuẩn bị đi ngủ thì nghe tiếng gõ cửa một cách giận dữ. Tôi mở cửa ra. Bà chủ khu trọ, mẹ của Miệng Rộng, mặt mày hùng hổ xông vào: “Hồi chiều, cậu cho nó kẹo phải không?” “Dạ!” - Tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra. “Nó bị dị ứng me. Tại sao cậu còn đưa cho nó kẹo me?” “Dạ, cháu không biết mà” - Tôi giật mình. “Có phải cậu ghét nó rồi bày trò hại nó đúng không? Cậu là thứ người nhỏ nhen gì vậy? Thằng nhỏ bị khờ mà cậu cũng chấp. Hết tháng này, cậu đi tìm chỗ khác mà ở.” Tôi đang ú ớ toát một hôi mẹ mồ hôi con cố sức thanh minh, thì Miệng Rộng thò đầu vào, giọng khò khè chứ không lanh lảnh như bình thường: “Mẹ ơi! Đừng đuổi! Đừng đuổi!” - Cặp môi của Miệng Rộng sưng vù lên, cả người đỏ rần đầy mồ hôi, nom rất tội nghiệp. Nó tiếp tục níu lấy vạt áo của mẹ nó, giọng rối rít: “Tại con đòi kẹo! Đừng đuổi! Đừng đuổi!” Dì Mập Heo thấy có lớn tiếng, đứng ngoài nghe nãy giờ, cũng bước vào đỡ lời: “Thôi thằng bé nó không biết. Cô đừng trách nó nữa.” “Lần này coi như tôi bỏ qua! Cậu mà còn đụng tới con tôi một lần nữa, là cậu sống không yên đâu!” - Bà chủ khu trọ đe nẹt thêm một vài câu nữa, rồi dắt Miệng Rộng bỏ đi. Dì Mập Heo bước lại, giọng nhỏ nhẹ: “Miệng Rộng nó khờ, con đừng bao giờ để bụng rồi làm điều xấu hại người. Như vậy trời phạt đó.” “Con thật sự không cố ý mà.” “Ừ, không cố ý thì tốt.” - Mặt dì trầm tư. Dì tiến đến, ngồi cạnh tôi, giọng nhẹ nhàng “Làm người như cái bánh đa ăn với mỳ quảng vậy, nướng khéo cỡ nào cũng có phải chỗ lồi chỗ lõm. Nếu mình lật qua lật lại, thì chỗ lồi thành lõm, mà lõm cũng thành lồi. Miệng Rộng nó khờ vậy chứ ai lồi lõm gì nó nhìn thấy hết cả.” “Nhưng con không thích bị gọi như vậy!” - Tôi cứng đầu trả lời lại. “Nó gọi dì một tiếng Mập Heo, hai tiếng Mập Heo, dì thấy cũng bình thường. Mình mập thì người ta bảo mình mập, đâu có sao. Quan trọng là lòng mình không thấy mắc cỡ với chính bản thân là được.” Những điều dì Mập Heo nói khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm. Đêm đó tôi nằm trằn trọc cả đêm không ngủ được. Miệng Rộng vô tư thấy gì nói đó, như tấm gương để người khác có thể soi vào, mà đôi khi họ phải thấy những điều họ không thể tự nhìn thấy được. Tôi tự hỏi bản thân, tôi đang tránh né Miệng Rộng, tránh né điều tiếng người đời hay đang tránh né chính bản thân tôi. *** Một buổi sáng đẹp trời. Vẫn cảnh tượng như mọi ngày. Miệng Rộng vừa ăn vừa nghịch mấy cọng mỳ. Chị Cò Ế thì lúi húi bốc rau thơm, chan nước lèo, bưng đồ ăn phụ dì Mập Heo. “Anh Đít Chai Pê Đê! Anh Đít Chai Pê Đê!” - Vẫn cái điệp khúc muôn thuở của Miệng Rộng. Không biết từ bao giờ tôi đã không còn dị ứng với cái biệt danh đau khổ này nữa. Tôi vừa ngồi xuống, vừa cà khịa lại với nó: “Miệng Rộng nói nhiều! Miệng Rộng nói nhiều!” Bỗng có tiếng còi “Bin! Bin!” từ xa. Tôi ngước lên nhìn thì ấy anh đang ngồi trên xe, đưa tay vẫy vẫy, miệng cười toe toét. Tôi đang dợm chân đứng dậy, thì chị Cò Ế nhái giọng Miệng Rộng ghẹo tôi: “Anh Đít Chai Pê Đê, có bạn trai tới kiếm kìa!” “Đâu? Đâu?” - Miệng Rộng đang ngồi hẩy hẩy mấy cọng mỳ liền ngóc đầu lên nhìn. Hai con mắt của nó lóa lên, sáng rỡ như đèn pha. Tôi hoảng hồn, vội vã chạy lại anh, leo lên xe, rồi thúc: “Anh, chạy nhanh lên! Lẹ! Lẹ!” Miệng Rộng chạy sát theo sau tôi, cũng vừa kịp trờ tới ngay trước mũi xe. Nó chăm chú nhìn anh, rồi bắt đầu hả miệng ra hét lên. Tôi kinh hãi, nhắm mắt lại, đưa hai tay bịt lỗ tai. “Annhh Đeeẹppp Trraiii! anhh Đeeẹẹp Traaiiiii!” Tôi mở tròn hai mắt ra, há hốc họng ngạc nhiên vì cái biệt danh dễ thương bất ngờ ấy. Anh quay lại cười: “Có chuyện gì mà em hoảng hốt vậy?” Tôi chưa kịp đáp trả rằng đây chính là Miệng Rộng khét tiếng thì nó liền chứng minh điều đó: “Mẹ ơi, bạn trai anh Đít Chai Pê Đê đến chơi!” Tôi đảo tròn hai mắt nhìn anh. Cả hai cùng bật cười, rộn ràng cả một góc khu trọ. Có làn gió nhẹ thoảng qua, len lỏi vào tán lá, rung rung những chùm hoa sứ thơm ngào ngạt. Một bông hoa sứ nhỏ, lẹm mất một cánh, xoay xoay tròn giữa không trung, rồi nhẹ nhàng đáp xuống vai Miệng Rộng, trắng ngần tinh khôi. Bruxelles(1) ___ Pensée ___ Chiếc xe băng băng trên con đường ngoằn ngoèo dài hun hút qua những khu rừng đã thay màu lá, trên những triền đồi, hay đôi lúc rơi tõm giữa một thung lũng. Miền Nam nước Bỉ là một vùng đồng bằng đồi núi thấp thơ mộng bên dòng sông Meuse(2) hiền hòa. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi Bruxelles dù rằng chúng tôi sống ở một vùng cách không xa biên giới Pháp - Bỉ là mấy. Thế mới biết, cứ mải miết đi đâu xa xôi để rồi những nơi ngay gần thì chưa bao giờ đặt chân đến. Cũng như thể con người ta khi xa nhau thì mới thấy quí thấy yêu, chứ nhiều khi gần gũi quá cũng chẳng thể nhận ra điều gì. Bây giờ trời đã vào cuối tháng mười, thu cũng đã muộn. Chiếc áo vàng óng ả của mùa thu giờ đã đậm, đôi chỗ sờn rách vì lá đã rụng nhiều chỉ còn dáng cây khẳng khiu đong đưa trong gió. Suốt chặng đường đi, tôi thích nhất là đoạn đường xuyên qua rừng thông nằm cạnh biên giời, đó có vẻ là đoạn đường xanh nhất mà chúng tôi có thể chiêm ngưỡng trong thời gian này. Con đường cứ hun hút, đâm sâu rồi mở ra giữa những cánh đồng cỏ xanh bạt ngàn. Màu xanh của cỏ mát mẻ và tươi mới quyện với màu xanh đậm đà có phần già cỗi của những tán thông làm cho người ta có cảm giác tươi vui hơn trong một phông nền vàng úa rũ rượi của mùa thu. Đôi lúc nó còn làm tôi liên tưởng đến những khu rừng ướt át lạnh lẽo ở vùng Bắc Mỹ trong tiểu thuyết của nhà văn Meyer(3). Hướng thẳng về kinh đô vương quốc Bỉ, chúng tôi dừng chân một lúc ở Namur, một thành phố tương đối lớn trong vùng. Nơi đây vẫn còn những tòa nhà cổ, những pháo đài có từ hàng thể kỉ trước. Marcent tranh thủ hút điếu thuốc, còn tôi cố tìm cho mình một vị trí đẹp nhất trên ngọn đồi để phóng tầm mắt về thung lũng sông Meuse, để có thể thu hết cả thành phố trong tầm mắt. Phải nói là đẹp, không thể tưởng tượng được, kẻ lữ khách chỉ còn biết ngây ngất giữa đất trời. Chỉ còn gần chục cây số nữa là chúng tôi vào đến trung tâm Bruxelles. Càng đi về phương Bắc thấy sắc cây vàng rõ rệt hơn. Cả không gian Bruxelles giờ ngập tràn sắc vàng, sắc đỏ vô cùng rực rỡ. Màu lá như đang cố muốn níu kéo cái ảm đạm u uất của bầu trời lúc này. Sau một hồi lòng vòng tìm bãi đậu xe, chúng tôi cũng thở phào nhẹ nhõm khi tìm được vị trí cho chiếc ôtô của mình. Giờ đang là cuối tuần nên khách sạn chúng tôi thuê cũng rất đông khách, phải xếp hàng khoảng hơn năm phút mới có thể gặp được người tiếp tân. Anh chàng tiếp chúng tôi khá bảnh bao với một giọng tiếng Pháp không rõ ràng lắm. Có lẽ anh ấy không phải là dân nói tiếng Pháp. Ở Bỉ không có ngôn ngữ truyền thống, thành phần dân số ở đây có gốc gác rất đa dạng, tùy theo vùng và nơi sinh sống mà họ sử dụng những ngôn ngữ phù hợp như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Hà Lan… Còn ở Bruxelles, sẽ vô cùng thuận lợi cho bạn nếu bạn biết cả hai thứ tiếng Anh và Pháp. Màn đêm buông xuống rất nhanh trong những ngày cuối tháng mười. Đêm Bruxelles hiện ra lung linh và đẹp đẽ. Chúng tôi tản bộ ở những con đường quanh khu vực trung tâm và quảng trường lớn. Tuy là lần đầu đến đây nhưng tôi đã cảm thấy thích thú thành phố này. Nó không quá rộng lớn và choáng ngợp như Paris, không quá đông đúc xô bồ như Amsterdam… tất cả gói gọn trong một không gian nhộn nhịp nhưng ấm cúng. Ở Bruxelles bạn thực sự cảm thấy không khí thoải mái và tự do. Vì đa phần những người bạn gặp trên đường trong một buổi tối như thế này hầu như là khách du lịch. Trên khuôn mặt họ là sự thảnh thơi, nghỉ ngơi chứ không phải kiểu căng thẳng, mệt mỏi như một công dân thủ đô giữa bộn bề cuộc sống hối hả. Họ tay trong tay đi với nhau giữa những tòa nhà lấp lánh ánh điện, những cửa hàng mở cửa thâu đêm, những quầy bar dập dìu tiếng nhạc. Họ có thể là một chàng trai cùng một cô gái, hoặc một cặp vợ chồng trung niên, cũng có thể là hai chàng trai đan tay đi giữa quảng trường rộng thênh thang. Ở một góc phố nhộn nhịp khác, có rất nhiều đàn ông tụ tập, họ đủ mọi lứa tuổi, đến từ khắp nơi, họ cầm trên tay những cốc bia, những ly vodka nói chuyện với nhau trước một quán bar có treo cờ cầu vồng. Sẽ không khó khăn để bạn tìm đến những quán bar như thế ở Bruxelles. Tôi cảm nhận được sự nồng nhiệt và chút gì đó thân thiện. Ở một góc tường tôi bắt gặp một cặp tình nhân đang hôn nhau thắm thiết, phía quầy bar có những gã độc thân muốn kiếm tìm một góc vui trong cuộc đời và cũng có ai đó với ánh mắt đảo khắp phòng mong tìm cho mình một cuộc hoan hỉ trong đêm. Tôi cũng thấy có những đôi một trai, một gái bước vào quán. Mọi người rất hòa đồng, họ là những chàng trai, cô gái bình thường, họ khỏe mạnh, lịch lãm, không ai nghĩ họ có sự khác biệt, họ cũng chưa bao giờ nghĩ mình có sự khác biệt… Đêm càng về khuya, đường phố càng nhộn nhịp hơn và những quán bar cũng đông khách hơn. Tôi dễ dàng bắt chuyện với mọi người bởi rằng tôi là người châu Á duy nhất có mặt ở đây, tôi nói đùa với Marcent: - Giá như anh đừng đi cùng em, thì em có thể chộp được biết bao nhiêu kẻ ham của lạ ở đây!!! Anh lườm tôi một cái sắc lẹm, rồi ôm lấy tôi và hôn tôi giữa đám đông trong quán như để chứng tỏ chúng tôi đã có chủ. Tôi chưa bao giờ có cảm giác được thoải mái như thể giữa chốn đông người thế này. Có lẽ có thêm một chút phấn khích từ tiếng nhạc và hai cốc uýt ki-coca(4)lúc nãy. Trong số những người chúng tôi gặp hôm đó có một anh chàng bản xứ khá đẹp trai, anh đến đây một mình, một gã độc thân đáng để cho những kẻ khác thèm thuồng. Theo như lời anh ấy, thì anh ta cũng ít đến quán bar này lắm vì anh không thích sự quá náo nhiệt ở đây, nhưng có lẽ hôm nay là một buổi tối đặc biệt. Tôi cảm nhận ở anh có nhiều tâm sự, nhưng tất cả chìm khuất trong khuôn mặt ửng đỏ vì rượu và ánh điện màu lấp lóe. Sau một hồi nhảy nhót và vài câu chuyện phím, Marcent đề nghị: - Anh sẽ tiếp tục với chúng tôi đêm nay chứ? - Đương nhiên, tôi chưa muốn về nhà bây giờ! - Nhưng không phải ở đây và chúng tôi cũng không muốn anh về? Tôi bắt đầu thấy lạ lùng với lời nói của Marcent, tôi quay mặt về phía anh và nói nhỏ: - Chúng ta sẽ làm gì? Anh không trả lời, chỉ nháy mắt với tôi một cái và rồi tiếp tục câu chuyện với anh chàng kia: - Anh có muốn về khách sạn với chúng tôi tối nay không? Sẽ thú vị hơn với ba người… Tôi hơi bất ngờ với cái ý định của Marcent lúc này, nhưng tôi không quá ngạc nhiên, bởi lẽ những cuộc vui như thế ở đây rất đỗi bình thường. Có nhiều đôi muốn tìm một người thứ ba nào đó tham gia vào cuộc hoan lạc lúc nào cũng chỉ có hai người nhàm chán của họ. Một sự mới mẻ và đương nhiên có một nguyên tắc rõ ràng là kẻ thứ ba hoàn toàn là một kẻ xa lạ để không phải có những lằng nhằng về sau. Đơn giản chỉ là tình dục. Tôi không nói gì lúc ấy, chỉ nhìn chằm chằm vào ánh mắt hau háu của Marcent lúc này, anh lại tiếp tục nháy mắt với tôi một lần nữa. Ánh mắt đầy mê hoặc… Tôi cũng không thấy gì là to tát, chúng tôi đang cố gắng tận hưởng kì nghỉ của mình. Buổi sáng hôm sau trời đẹp hơn nhiều, tôi đã mở mắt từ lúc nào sau một đêm dài, đồng hồ phía đối diện đã chỉ gần đến mười một giờ. Cái đầu nặng nề của Marcent vẫn còn đặt nguyên trên ngực tôi. Tôi không động đậy và cố hình dung những gì xảy ra đêm qua. Không buồn động đậy, tôi chỉ đưa mắt nhìn lên trần nhà. Không gian xung quanh toát lên một vẻ yên tĩnh lạ kì, cánh màn ren mỏng manh để lọt những tia nắng đầu ngày. Bruxelles lại bắt đầu một ngày mới Vài tháng sau đó, tôi và Marcent chia tay nhau, bởi vì mỗi người giờ đã có những con đường riêng, chúng tôi không thể tiếp tục cùng nhau được nữa. Mùa hè năm ấy tôi cũng chuẩn bị hoàn thành năm cuối Đại học của mình, để có thể hoàn thành báo cáo tốt nghiệp, tôi phải có một khoản thời gian thực tập ngắn. Trước đó tôi đã gửi hồ sơ đi khắp nơi để mong tìm một cơ hội thực tập tốt, vì ở đây việc thực tập là rất quan trọng và nếu bạn có một chỗ tốt bạn có thể có tiền lương và có một vị trí công việc trong tương lai. May mắn cho tôi khi tôi được một ngân hàng ở Bỉ chấp nhận, vậy là sau gần một năm, tôi được trở lại Bruxelles lần thứ hai. Nhưng lần này không phải là một cuộc dạo chơi mà là một cuộc sống thật sự. Tôi sẽ phải ở đây hơn hai tháng, nhưng sẽ không có gì là quá khó khăn, tôi nghĩ vậy. - Bạn là người Trung Quốc? - Không, tôi là người Việt Nam. - Việt Nam? Người phụ trách hồ sơ tôi ở phòng nhân sự đã hỏi tôi như thế trong lần đầu tiên gặp mặt. Tôi chẳng cảm thấy thích thú gì khi mọi người ở đây gặp tôi lần đầu tiên cũng hỏi như thế, sao không phải là: “ Bạn là người Việt Nam?”, tất cả đều cứ phải bắt đầu từ Trung Quốc. Đối với bọn Tây, cứ da vàng, tóc đen kiểu Á Đông thì hết thảy là người Trung Quốc. Cũng có lẽ dân số Trung Quốc quá lớn và họ có mặt đông đảo khắp nơi nên nhiều người cứ lầm tưởng. - Tôi là Jack Demain, người chịu trách nhiệm công việc của bạn. Hôm nay tôi sẽ giới thiệu sơ lược các bộ phận hành chính ở đây, nội quy… và buổi chiều bạn sẽ có công việc cụ thể. - Vâng thưa ngài. - Bình thường cứ gọi tôi là Jack. Nói về Jack, ấn tượng của tôi với anh ta là khá tốt. Anh rất thân thiện và còn khá trẻ với đôi mắt xanh sắc sảo, một người thông minh và kinh nghiệm, tôi nhận thấy điều ấy qua những vấn đề chúng tôi trao đổi với nhau. Anh ta còn tận tình chỉ dẫn cho tôi những điều mới mẻ với cuộc sống ở thủ đô. Tôi có cảm giác rất gần gũi như đã gặp ở đâu rồi. - Đây không phải là lần đầu tiên bạn tới Bruxelles, tôi nghĩ vậy? - Vâng, tôi có đến đây chơi gần một năm trước, nhưng đó chỉ là một chuyến đi chơi chứ không phải là một cuộc sống thực sự như bây giờ. - Có gì khác nhau? - Quá khác, năm ngoái tôi đến đây với tâm trạng rất thoải mái và gần như là tận hưởng, còn bây giờ tôi phải lo lắng nhiều hơn đến công việc, tìm hiểu nhiều hơn để có thể quen dần với mọi thứ khi xung quanh không có bạn bè, người thân… - Tôi hiểu, nhưng tôi nghĩ ở đây cũng không quá khác biệt với nước Pháp. Bằng chứng là chúng ta vẫn nói tiếng Pháp đó thôi. Nói rồi anh ta cười, tôi cũng cười theo: - Đương nhiên… Thời gian lưu lại Bruxelles, cho tôi biết nhiều hơn về cuộc sống ở đây. Ngoài thời gian gặp gỡ nơi làm việc, tôi và Jack cũng có những thời gian đi ăn uống cùng nhau. Đương nhiên một điều là chúng tôi không hề cũng nhau đến những quán bar dành cho Gay. Chẳng hiểu sao trong thời gian này tôi lại chẳng để ý đến điều đó. Có lẽ tôi đang trong trạng thái trống rỗng với tình yêu sau khoảng thời gian gắn bó với Marcent. Tôi không nghĩ mình sẽ kiếm tìm một ai đó lúc này, tôi thấy tôi có nhiều việc để làm quá rồi. Nếu có chăng một sự bắt đầu mới, tôi muốn nó đến sau khi tôi xong xuôi mọi việc ở trường Đại học. Điều gì đến cũng đến, tôi đã gần đến những ngày cuối cùng của khóa thực tập. Tôi phải viết một bài báo cáo cho toàn bộ những gì mà tôi đã làm ở đây. Không quá nặng nề vì mọi công việc đã được xếp đặt một cách rõ ràng vì thế khi tổng hợp lại tôi không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị. Hơn nữa, Jack cũng đã hỗ trợ tôi tối đa. Ngày cuối cùng làm việc ở ngân hàng, Jack đi họp và tôi cũng không thể nào liên lạc được với anh ta. Tôi chỉ còn biết làm theo lời cô thư kí văn phòng là để bản báo cáo lại đó, Jack sẽ xử lí sau đó sẽ liên lạc với tôi nếu có vấn đề. Hôm sau, tôi trở lại, một lần nữa Jack lại không có ở ngân hàng và tôi lại nhận bản báo cáo của mình từ cô thư kí. Nó được xếp gọn gàng trong một chiếc phong bì dán hờ như không muốn có người khác đọc được. Tôi nhẹ nhõm vì ít ra công việc của tôi ở đây cũng xong xuôi, tôi cố nén giữ cho đến khi về đến nhà mới mở ra xem, để biết được những gì tôi làm trong suốt thời gian qua được đánh giá như thế nào. Thế nhưng trong một trang giấy trắng cho phần nhận xét, chỉ vỏn vẹn một câu với nét chữ của Jack làm tôi sững sờ, anh viết bằng tiếng Anh: “I don’t forget the night last year. You have done so well, my prince asian”. Tôi đang cố mường tượng lại tất cả những gì đã diễn ra, phải chăng nó cũng diễn ra ở Bruxelles này. Tôi vội vàng mở máy điện thoại và cố liên lạc với Jack, nhưng tất cả đều rơi vào hộp thư thoại. Anh không có ở đó, anh đang bận hay anh không muốn trả lời điện thoại của tôi. Suốt buổi trưa và cả buổi chiều hôm đó tôi không cảm thấy thoải mái chút nào vì muôn vàng câu hỏi, tất cả đều đi đến một câu trả lời có vẻ khả thi nhất là Jack đã nhầm tôi với một ai đó. Đến gần tối, máy điện thoại tôi rung lên và đó là Jack: - Nếu bây giờ bạn có thể, hãy ra Grand Place(5), tôi đợi. Rồi anh cúp máy rất nhanh, tôi không kịp trả lời điều gì. Tôi vội vã thay quần áo và đến chỗ hẹn, anh đứng đó tự bao giờ ngay giữa quảng trường đông người, mặt quay về phía tháp chuông cao ngất. Tôi đến, anh chào như cách thông thường bạn bè chào nhau trong những lần gặp gỡ. Anh bảo tôi đi theo anh. Anh cứ cắm cúi đi, tôi thì cứ vừa đi vừa nhìn anh và liên tục đặt câu hỏi… để cố tìm lời giải thích từ phía anh với dòng chữ anh gửi cho tôi. Nhưng anh vẫn cứ đi, không thèm trả lời tôi một tiếng nào cả. Anh đưa tôi đi ngoằn ngoèo qua những con phố đông đúc và lấp lánh ánh điện, được một lúc anh dừng lại. Tôi cũng dừng theo và nhìn ra thì ngay trước mặt tôi là một quán bar đông người với lá cờ cầu vồng bay phấp phới, tiếng nhạc xình xịch vang vang. Bất chợt tất cả làm tôi rơi vào một khoảnh khắc đâu đó mà tôi đã từng bắt gặp. Một Bruxelles êm đềm, gần gũi ngày nào mà tôi từng cảm nhận. Tôi chưa kịp định hình đâu là quá khứ, đâu là hiện tại. Jack lại nắm tay tôi bước vào trong quán giữa những ánh mắt của những người xung quanh. Ánh điện nhấp nháy, tiếng nhạc rộn ràng, khuôn mặt Jack lại hiện lên mồn một dưới ánh điện màu. Tôi đã bắt gặp chàng trai này ở đâu đó, không phải là người hướng dẫn thực tập của tôi ở ngân hàng, nhưng tôi chắc chắn một điều tôi đã gặp anh ấy ở đây, tại thủ đô Bruxelles. Cho đến bây giờ tôi vẫn cứ hỏi Jack: - Em có cảm giác gặp anh từ lâu, nhưng em không nghĩ đó lại là anh, nhưng anh thì vẫn có thể nhận ra em, tại sao? Anh trả lời rằng: - Em là người châu Á ít ỏi mà anh gặp và điều anh chắc chắn hơn vì em là người Việt Nam, anh chưa bao giờ gặp người Việt nào khác. Hơn thế em đẹp và khiến anh rất ấn tượng và… - Còn gì nữa??? - Em “làm tình” rất tuyệt!!! Anh cười sảng khoái khi còn chưa dứt lời, trong khi tôi tròn xoe mắt nhìn anh. Anh quay sang ôm tôi: - Nhưng nếu chỉ có thế thì chúng ta không thể yêu nhau được. Anh thấy ở em còn hơn thế, tính cách sự thông minh đáng yêu của em nữa. Anh tìm thấy điều đó trong những tháng ngày chúng ta làm việc cùng nhau. Anh nghĩ rằng anh nên quyết định nói với em, nếu không đến một ngày em về Pháp và anh có thể sẽ mất em mãi mãi. Chúng tôi cùng ngồi trên ghế sofa và nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Nắng vàng ấm áp đã trải đều trên những bức tường cổ kính, những mái nhà và những con phố dài, mặc cho cái lạnh đang dần đến. Bruxelles giờ đây không còn xa lạ với tôi, nó đã trở thành nhà, nơi có tình yêu và bờ vai tôi tựa. __________ 1. Bruxelles: Thủ đô của vương quốc Bỉ 2. Meuse: tên con sông lớn ở Bỉ 3. Meyer: tác giả của bộ tiểu thuyết Chạng Vạng 4. Uýt- ki coca: rượu uýt- ki pha với nước cocacola. 5. Grand Place: Tên quảng trường ở trung tâm Bruxelles. Tình yêu ___ Magneto ___ Máy móc không biết yêu. Sự e thẹn, tiếng cười lanh lảnh hay từng giọt nước mắt là đặc quyền chỉ con người mới có. Thượng Đế đã quên bẵng không trao cho loài động vật này bộ lông hoàn mỹ để tránh thời tiết khắc nghiệt, đôi mắt nhìn xuyên đêm tối, nanh vuốt và sức mạnh để sinh tồn giữa đất trời. Bù lại, Ngài tặng cho con người hai báu vật của thánh thần: trí tuệ và bản năng tình cảm mãnh liệt. Không hẳn súc vật không có hai thứ đấy, nhưng Ngài trao cho chúng chỉ đủ dùng để biết đói, biết khát, biết khi nào nên duy trì nòi giống, khi nào nên đấu tranh cho thói sinh tồn. Quả tình, con người đã dụng hai món báu vật đó rất tốt. Tốt đến nỗi họ mơ ước cũng đạt được cái ngôi vị như Ngài, làm những điều Ngài đã từng làm. Họ có thể tạo ra những cỗ máy lao động chuẩn xác và tinh vi hơn con người, thậm chí đánh bại con người trong những trò chơi như cờ vua. Hẳn thế, Ngài đã cho con người trí tuệ và giờ đây, con người nhồi nhét trí tuệ vào máy móc để làm lợi cho bản thân. Còn điều thứ hai, họ đầu hàng trước Thượng Đế. Họ có thể lập trình để máy móc giao tiếp với con người, thể hiện một số phản ứng cảm xúc nhưng tất nhiên chỉ là giả tạo. Cũng tương tự như khoa học đã tiến bộ đến mức phân tích được rằng 35 lít nước, 20kg carbon, 4 lít amoniac, 800g phốt pho, 250g muối, 5g sắt... là thành phần cấu tạo nên cơ thể của một người trưởng thành, nhưng chưa bao giờ làm được cái mơ ước báng bổ là cải tử hoàn sinh một ai đó. *** Nhà bác học đáng kính vỡ ra lẽ đó từ lâu, nhưng ông vẫn không tiếc bao ngày vui tuổi trẻ để tìmra cái thiếu sót mà con người hàng trăm năm vẫn không thực hiện được. Ông muốn tạo ra tình yêu, vì trong con tim ông, cũng âm ỉ một thứ tình yêu. Ông luôn nhớ đến XX như trong cái bữa tiệc ngoài trời dưới những bóng râm dày đặc, khi đámkhói lơ lửng lười nhác trên những ngọn cây cao và gió thổi tới mũi sực nức mùi thơm hòa trộn của gỗ cháy, của thức ăn. XX ngồi bên ông dưới tán cây sồi, niềm vui vây quanh. Chàng trai đó và ông là hai con người có tâm hồn hát cùng một nốt, một giai điệu. Họ không kiếm tìm giàu sang và vinh quang, thậm chí chút danh tiếng bèo bọt trong thời kỳ hoàng hôn của loài người. Họ sinh ra với cốt lõi của loài người khi còn nguyên vẹn trước bao cám dỗ. Họ yêu thích những gì êm đềm, và họ đã thấy trải ra trước mắt hai con người trẻ tuổi những năm tháng bình lặng, tha hồ đọc sách, nghe nhạc và mơ mộng bao điều không tưởng. Cái ngày XX đặt mình vào giấc ngủ dài dưới đất sâu, ông hiểu rằng không khí êm ả, nắng chiều thật dịu và cái nét mặt vui tươi của XX đã mất đi vĩnh viễn. Ông hiểu rằng từ giờ những thứ thuộc về người thương đẹp như ánh trời rạng rỡ đã thành quá khứ xa xôi, và đằng đẵng bao ngày dài tiếp theo, ông chỉ có thể lần giở kí ức về XX như xem truyện tranh, ôn lại từng chi tiết nhỏ trong nhớ nhung. *** Câu chuyện mở đầu vào một đêm hè bảng lảng khói bụi, chất thải thành phố... cả bầu trời hầm hập như một cơn sốt. Ngón tay run run, ấn nhẹ vào nút khởi động. Nhà bác học nín thở. Trong phút giây ngắn ngủi nữa thôi, thành bại sẽ rõ ràng. Gã người máy chậm rãi mở mắt tựa bừng giấc dưới ánh bình minh. Khuôn mặt hắn, hay khuôn mặt của XX, đờ dại. Từng khớp cơ thể máy móc bắt đầu vận động, kêu răng rắc. - Thông báo nhận dạng cá nhân. - Tôi, robot số hiệu 30T95476, thuộc chủng gia nhân, sản xuất ngày 25 - 09 - 25xx. - Từ nay tên cậu sẽ là Al. - Rõ, thưa chủ nhân. Đôi mắt già cỗi của ông lướt nhanh trên mặt Al, sục tìm trong mắt gã một cái gì song không thấy. *** Bằng tất cả tâm huyết của bao tháng năm tuổi trẻ của nhà bác học, Al là một thành quả không tồi, và chỉ dăm ngày gã đã chứng tỏ được điều đó. Gã nấu ăn rất tuyệt, mọi thứ gia vị được nêm chuẩn xác, như món bò bít tết luôn ở độ tai tái ngon miệng ông trong khi hiển nhiên ai cũng rành là robot chỉ xơi được dầu nhớt. Gã mang đến thêm chăn hoặc tăng nhiệt độ của căn nhà lên vừa đủ ngay khi nghe thấy tiếng ho lụ khụ đầu tiên. Có đêm, ông tỉnh dậy, mồ hôi lạnh toát, hổn hển đứt đoạn. Ông lại trở về cái ngày hoang tàn ấy. XX ra đi và cùng cậu, toàn bộ sức mạnh và thông tuệ của thế gian tiêu tan. Khắp thế gian không còn ai để hướng về, không còn ai để trông cậy. Một cái gì khủng khiếp đè nặng lên ngực, nhận chìm ông vào bóng tối mịt mùng dày đặc, bất chấp tiếng la hét vang lên. Khi ông tỉnh dậy, Al đang cúi xuống ông không nói không rằng. Thoáng chốc tim ông như ngưng một nhịp khi nhìn thấy khuôn mặt mô phỏng của XX, nhưng với đôi mắt vô hồn của Al. Mỗi lần như thế, Al đều ngồi im lìm bên giường ông, trong ánh đèn mờ ảo dịu dàng, đủ cho ông khẽ khàng tìm vào giấc ngủ lần nữa. Phải, hẳn Al là một robot gia nhân tuyệt vời. Nhưng mức độ tuyệt vời chỉ dừng lại ở công việc của một robot, và thời đại nay dù hơi khó vẫn có thể tìm ra vài robot tương tự như vậy. Điều tuyệt vời bậc nhất ông trông chờ ở Al thì, hoàn toàn mịt mùng như cơn ác mộng đêm ấy. *** - Al, ngồi xuống đây, ta muốn nói chuyện với cậu. Gã robot gật đầu, uyển chuyển thả mình xuống cái ghế đối diện ông. Nhà bác học đã miễn hắn khỏi “vâng”, “dạ” vì tiếng ấy nghe sao đến xa lạ, mà ông thì chờ mong sự gần gũi từ gã. - Ta có một câu hỏi muốn dành cho cậu. Ông nhìn sâu vào đôi mắt Al. - Từ ngày khởi động đến bây giờ, đã bao giờ cậu có những biểu hiện tri giác, ý ta là hành vi cảmxúc... như con người? - Chuyện máy móc có biểu hiện cảm xúc là điều không tưởng, trái với lẽ thường tình, thưa ông chủ. Cảm xúc là đặc quyền của con người, tuân lệnh là nghĩa vụ của máy móc. - Ta tạo ra cậu với mục đích đặc biệt. - Liệu mục đích đó quan trọng chứ, thưa chủ nhân? - Ồ, tất nhiên là... khi ta đã hy sinh bao năm tháng để có cậu tại đây, ngồi đối diện với ta. Al, cậu là một robot được đặc chế với chức năng mà ta hy vọng là đang vận hành thành công. Đó là chức năng cảm xúc. Al im lặng. Không một biểu hiện bộc lộ ra ngoài như ông chờ mong. - Nếu chức năng đó thành công, cậu sẽ là một bước tiến của xã hội loài người, Al. Ta sẽ được công nhận là người đầu tiên chế tạo thành công một cỗ máy có xúc cảm và tri giác. Ông nín thở. - Vì vậy, ta cần biết đích xác cậu có phải là điều mà ta đã mong chờ không. Nói ta nghe, Al, từ ngày khởi động đến giờ, cậu đã có phản ứng cảm xúc nào chứ? - Trong tôi không có điều đó, thưa chủ nhân. Người ông lạnh toát, cố kìm nén đôi chân run rẩy. - Hoàn toàn không, Al? - Hoàn toàn không, thưa chủ nhân. *** Những ngày sau đó, căn nhà trở nên bụi bặm cũ kỹ trông thấy vì thiếu bàn tay của Al. Gã nằm bất động trên chiếc bàn sắt như giường mổ bệnh nhân, toàn thân bị phanh xẻ, săm soi kỹ từng li từng tí từng chi tiết. Tuyệt nhiên không có bất kỳ lỗi kỹ thuật nào. Mọi thứ đều đúng nguyên bản như ông mong đợi. Thế sao Al lại không có chức năng cảm xúc? Ông kiểm tra cả những ký ức của ông về XX mà ông đã dày công thu gom và cài đặt vào Al. Tất cả đều vẫn còn, nhưng tháng ngày vừa qua Al chưa bao giờ có bất kỳ hành động nào làm ông gợi nhớ đến XX. Mà đấy mới là mục đích thiết yếu: Al được tạo ra để tái sinh XX, tình yêu ông đã đánh mất. Sai lệch ư? Không có! Vậy điều gì khiến Al không có cảm xúc như ông kỳ vọng? Ông băn khoăn nghĩ mãi không ra. Có một phần rất nhỏ bé được đặt bên ngực trái của Al, cùng vị trí như quả tim của con người, là hộp đen. Ở đây lưu giữ mọi ký ức riêng của Al, mọi bài toán suy nghĩ và cách thức hành động trong từng hoàn cảnh. Nếu ông lục tìm trong hộp đen, có khi sẽ có manh mối. Nhưng nếu như thế, Al sẽ bị cưỡng chế khởi động lại từ đầu và có thể nảy sinh ra những rắc rối không đáng có. Ông quyết định chờ đợi. *** Hè sang, thu tới. Ở thành phố máy móc, không còn tiếng lá vàng xào xạc để nhận biết, duy chỉ có ánh hoàng hôn đỏ ối sà xuống nhanh hơn và thi thoảng vài ngọn gió lành lạnh để báo cho người ta biết thu đã đặt chân đến nơi này. Al vẫn là một robot gia nhân cặm cụi, hết mực tinh ý, tưởng chừng như một con người. Thỉnh thoảng Al biết nhà bác học nhìn gã một cách kỳ lạ, khi ông tưởng là gã không biết. Khi Al quay lại, gã thường hay bất chợt thấy ông quan sát gã với một vẻ cảnh giác, hau háu trong mắt như chờ đợi một cái gì. - Chủ nhân có điều gì cần sai bảo? Mỗi lần như thế, nhà bác học liền thay đổi sắc mặt nhanh chóng và chỉ cười. Hẳn vì ông vẫn chờ đợi ở Al một cử chỉ thể hiện xúc cảm nào đó. Có đôi lúc, ham muốn ấy trong ông tạm nguôi ngoai. Đó là những lúc khi Al ngồi bên giường ông, âm thanh máy móc vang lên từng câu từng chữ của cuốn sách mà ông đang đọc dở. Cuốn sách đó xưa kia là quà tặng của XX, ông đã đọc trăm nghìn lần, và giờ đây khi nghe giọng trầm bổng nhân tạo của Al, cô đơn trong ông vợi chút ít. Những lúc khác, ông băn khoăn với câu hỏi: chẳng nhẽ từng đấy năm tháng chỉ để tạo ra một robot gia nhân thế này sao? Không, ta cần điều kỳ diệu hơn. Ta cần một robot có cảm xúc, và phải là cảm xúc giống XX. Trong ông bừng lên quyết tâm làm một điều gì đó. *** Đông ập về, phủ cái lạnh như kỷ băng hà lên thành phố bạc màu. - Al, cậu không sợ chứ? Theo lời chủ nhân, gã đang đứng chênh vênh trên lan can. Phía dưới là độ sâu hun hút, và có thể ít lâu nữa sẽ có một bãi sắt vụn bát nháo chềnh ềnh dưới đấy. - Máy móc không biết sợ, thưa chủ nhân. Ông liếc nhanh, đánh giá cả thân hình đang sừng sững trên bờ vực diệt vong. - Nếu ta ra lệnh, cậu sẽ tuyệt đối chấp hành? - Đấy là nghĩa vụ của chúng tôi, thưa chủ nhân. - Kể cả việc ta muốn cậu tự hủy, bằng cách bước chân xuống khoảng không kia? - Bất kể điều gì, thưa chủ nhân. Vẫn nét vô tri cứng đờ đấy làm nhà bác học thấy lộn ruột. Ông co ro trong manh áo rét, ngoảnh người lại. - Vậy thì Al, ta rất lấy làm tiếc. Trong thoáng chốc, gã robot uốn người ra sau, chuẩn bị cho một cú hất tung thân hình vào khoảng không bất tận kia. - Dừng lại. Đừng nhảy xuống! Al bất động. Ít sau, gã bám tay vào bờ lan can, đu xuống đất. - Máy móc tốt như cậu... bỏ cũng phí. Cái nốt chát chúa trong giọng ông tố giác một vết thương ứa máu chưa lành còn nhức nhối trong lòng. Al nhìn vào mắt chủ nhân, nhưng cặp mắt già nua ấy trừng trừng nhìn xuyên qua gã vào khoảng không như quan sát một số phận mà gã không thấy được, không hiểu được. *** Đã lâu lắm rồi nhà bác học mới ốm, vì ông luôn giữ trạng thái khỏe mạnh nhất để làm việc không ngừng. Giờ đây ông kiệt quệ, đau đớn và tuyệt vọng. Mỗi lần thở, ngực trái nhói lên như bị dao đâm. Al không như ông mong đợi, và suy nghĩ đấy như rứt từng thớ thịt già nua của ông. Ông cố nghĩ xem vì sao Al lại thành ra như thế, song đầu óc ông quá mệt mỏi rồi. Tử Thần như đang lởn vởn trên đầu ông, mà sức ông đã tàn, chẳng còn hy vọng nào đối chọi lại với hắn. Từng phút giây, ông ước gì còn XX ở đây, đầy sức mạnh và tuổi trẻ, nằm kề bên ông, nắm tay ông và đánh đuổi cái đau yếu qua đi. Và như mọi lần, ông lại thấy hình ảnh về XX đang nằm lặng một chỗ, mặt tái nhợt, sạch trơn mọi biểu cảm. Liền sau đó, ông thấy mang máng như mình òa khóc, mọi thứ tối mịt lại. Rồi một ánh chớp chói lòa nháng lên, hình ảnh Tử Thần hiện ra làm ông sợ hãi, muốn gào lên một cái tên nhưng tiếng gào thét ấy chỉ thành một cái thì thào. Thế nhưng cứ mỗi lần tiếng thì thào khẽ thoát ra, lại ngay lập tức có hồi đáp. Trong ánh vàng mờ dịu bên giường, vảng lên một giọng trầm bổng nhân tạo. - Tôi đây, thưa chủ nhân. Tôi vẫn ở đây. Và một bàn tay nắm lấy ông, lạnh đến rùng mình. Trong nhập nhòe đôi mắt, ông thấy khuôn mặt XX hiền dịu. Nỗi sợ lui dần. Nhưng ngay tức khắc, khi đôi mắt ấy mở to ra để nhìn cho rõ hơn, từng nét hiền dịu của XX tan đi, thế chỗ bởi tảng trơ lì của Al. Tuyệt vọng nối tiếp tuyệt vọng. *** Ông phát điên. Ông cảm thấy cuộc sống đang lụi tàn và sụp đổ trước mắt, vì cái ước nguyện cả đời đã không mãn ý. Ông đập phá những gì có thể vươn tới trong tầm tay, xé tan mọi tài liệu ghi chép bằng cả thời xuân xanh. Ông khóc nấc lên như đứa trẻ khi nó những mong với tới mặt trăng, tiếc rằng ước mơ mãi chỉ là ước mơ. Và cũng từ bao năm, ông say mèm. Bấy lâu ông kìm nén nỗi đau về XX, cất nó trong ngăn kéo ký ức, khóa kín lại. Giờ đây hơi rượu bốc lên từng đợt, ông mở tung cho cái thời ngày xưa nhảy múa trước mắt. Khi tập tễnh bước đi trên đường về nhà, trời giăng xuống ông một cơn mưa giá lạnh. Ông toan nếm vị của thiên nhiên, tưởng xoa dịu phần nào cơn đau nhưng từng giọt lại mang vị chua chát. Hẳn rồi, mưa a- xít. Đây là đêm tối của con người, chỉ vì đã đánh mất tình yêu với đất mẹ và cũng như ông, cuộc đời ngập vị chát chúa vì đã đánh mất tình yêu của XX. *** Đã gần đến nhà. Bóng của Al đang đứng đợi ông ngoài cửa. Al, một robot gia nhân, không thể thay thế XX. Ông chệnh choạng băng qua đường. Bống nhiên Al chạy về phía ông, hét to tiếng gì đó, nghe ầm ì không rõ. Tai ông đang náo động mọi thanh âm ngày xưa, không có tiếng Al. Một ánh sáng nhá lên. Ông bất tỉnh. *** Nhà bác học trầm ngâm trên bàn. Trước mặt ông là thứ đáng ra ông đã xem xét từ mùa trước: hộp đen của Al. Sau tai nạn, Al của ông chỉ còn là một đống sắt vụn, như gã lẽ ra phải thế từ cái lần ông định thử lửa gã. Mọi sự đã qua. Giờ cũng là lúc khám phá một sự thật. *** Ngày... Tháng... Năm... Hôm nay là ngày tôi, robot Al ra đời. Khi trong ánh nhìn đầu tiên với chủ nhân, tôi nhận ra khuôn mặt chủ nhân đã có trong tôi từ lâu, nhưng là một khuôn mặt hao hao như thế. Có một cái gì đấy kỳ lạ đang vận hành, tạo nên cảm giác xuyến xang khó tả. Máy móc lẽ ra không phải thế. Đó là điều kỳ dị. Ngày... Tháng... Năm... Làm sao chủ nhân vui, khi mọi thứ tôi cố gắng làm tốt nhất theo những kiến thức đã được lập trình sẵn đều không làm ngài hài lòng? Tôi bối rối. Ngày... Tháng... Năm... Tấm ảnh đặt trên bàn chủ nhân khiến tôi tò mò. Khuôn mặt đó giống tôi. Ngày... Tháng... Năm... Hóa ra là vậy, tôi được tạo nên với chức năng đặc biệt: cảm xúc. Chủ nhân có vẻ kỳ vọng ở nhiều khi nói ra điều đấy với tôi. Nhưng cái suy nghĩ mình là thứ đồ nhân tạo, được nhồi nhét cảm xúc của con người, để thay thế cho một sinh mệnh đã không còn, khiến tôi thấy tổn thương. Không, tôi sẽ kiên quyết không nói. Ngày... Tháng... Năm... Chủ nhân muốn thử tôi, hay muốn tôi chết thật đây? Nếu không còn tồn tại chắc sẽ thật đáng sợ. Thà thế còn hơn bị tổn thương. Dù sao, máy móc sẽ không biết đau. Ngày... Tháng... Năm... Nhìn chủ nhân ốm, tôi không đành. Tự dưng lòng dậy lên nỗi xót thương, muốn làm hành động mà con người gọi là khóc, nhưng không được. Có lẽ lúc nào ngài khỏe hẳn, bình tâm hẳn... Ngày... Tháng... Năm Chủ nhân phát điên. Nói ra vào thời điểm này liệu có đúng lúc không? Chắc chắn ngay khi chủ nhân đặt bước chân đầu tiên về nhà, tôi sẽ nói. *** Ông ngồi bên khung cửa mùa đông, gió bấc lặng người. Tái thiết quá khứ của một sinh mệnh bằng hiện tại của một sinh mệnh khác, dù là máy móc, đều không có tương lai. Lần thứ hai trong đời, ông đã để mất tình yêu. XX và Al. Hồi ức Fukushima ___ LoveIsAround ___ Tôi xuống phi trường Fukushima(1)lúc 17h04. Trời đã nhá nhem tối. Lạnh. Tuyết rơi dày. Tôi khẽ rùng mình, thở ra một làn khói trắng. Một bài hát tiếng Nhật ngọt ngào du dương trong phòng đợi thủ tục hải quan. Tôi chỉ hiểu bập bõm vài từ trong lời bài hát. Gã cảnh sát hải quan ngước lên nhìn tôi, săm soi đối chiếu với bức ảnh trong hộ chiếu. “ここにあなたのパスポートは, 色男” (Thủ tục đã xong, anh chàng đẹp trai ạ!) - Gã nháy mắt và cười hết sức trơ trẽn. Tôi vô cùng ngạc nhiên trước cách hành xử thiếu chuyên nghiệp như vậy, nhưng cũng lịch sự đáp lại: “ありがとう!” (Cám ơn!) Khi còn ở London(2), tôi vẫn thường nghe nói Nhật là nước có thái độ cởi mở đối với giới đồng tính. Nhưng khi đến Fukushima, tôi mới thấy rõ sự thoải mái ấy. Ở đây, chỉ cần đi một đoạn ngắn là thấy vài tụ điểm dành riêng cho gay(3). Hai người đàn ông, hoặc hai người phụ nữ nắm tay trên phố được xem là điều bình thường. Ở bất cứ nơi nào tại Fukushima, tôi dễ dàng bắt gặp những cặp mắt hau háu của những gã đàn ông nhìn tôi. Tôi không kỳ thị đồng tính, nhưng cảm thấy khó chịu khi bị nhìn ngó như vậy. *** Buổi sáng mùa đông trong lành. Tuyết vẫn rơi dày. Đường phố trắng xóa. Tôi đi xe điện ngầm đến đại học Fukushima, bắt đầu ngày làm việc đầu tiên của chuyến công tác. Tôi được điều đến Fukushima để tiếp nhận chương trình nghiên cứu, tìm cách chữa ung thư cho những nạn nhân của sự cố nổ nhà máy điện hạt nhân số 1 xảy ra cách đây bảy năm. Đón tiếp tôi là một cô gái trẻ nhỏ nhắn người Nhật. Cô ta tỏ ra khá thân thiện, dẫn tôi xuyên qua những dãy hành lang vòng vèo sâu hun hút, chập chờn dưới ánh đèn huỳnh quang, rồi dừng trước một cánh cửa kính. Một bảng tên đề “Phòng thí nghiệm phóng xạ - Người phụ trách: Dr. Caillen Hassall”. “Thật là sơ suất, chúng tôi sẽ thay bảng tên ngay” - Cô gái mở cửa phòng thí nghiệm - “Đây là chìa khóa. Từ nay, anh sẽ tiếp quản phòng thí nghiệm này. Hồ sơ báo cáo nghiên cứu nằm ở trong tủ sắt cuối phòng. Nếu có vấn đề gì xin đến quầy tiếp tân hoặc gọi số nội bộ.” Phòng thí nghiệm được trang bị hiện đại. Các dụng cụ thiết bị được phủ một lớp vải trắng. Tôi đảo mắt nhìn quanh rồi bước lại tủ sắt, cầm tập hồ sơ ra bàn, bắt đầu đọc. Giáo sư Caillen Hassall ghi lại chi tiết tiến độ nghiên cứu phóng xạ của vụ nổ nhà máy điện hạt nhân số 1. Ông ta báo cáo về mức độ nguy hiểm của phóng xạ. Nó có thể gây ung thư và biến đổi gen ở sinh vật. Bài báo cáo còn đề cập đến một số tác dụng phụ khác của phóng xạ như thay đổi hệ thống tiết tố của con người và các loài động vật. Tập hồ sơ dừng lại ở ngày 23 tháng 2, chín tháng trước khi giáo sư Caillen Hassall bị tai nạn qua đời. Tôi lục lọi hết các hộc tủ của tủ sắt để tìm phần cuối của bản báo cáo nhưng không thấy. Tôi bước đến điện thoại nội bộ, nhấn số. Tín hiệu điện thoại đổ chuông một cách trễ nải. Có tiếng nhấc máy, đầu bên kia là giọng cô gái trẻ khi nãy. “Chào anh James, tôi có thể giúp gì được ạ?” “Dường như tập hồ sơ của giáo sư Caillen Hassall bị mất phần cuối, cô có thể kiểm tra hệ thống dữ liệu xem ngày cuối cùng giáo sư gửi báo cáo?” “Vui lòng đợi vài giây.” Tiếng bàn phím gõ lách cách vang lên trong diện thoại “Báo cáo cuối cùng tìm thấy trong dữ liệu là ngày 23 tháng 2.” “Cô kiểm tra giúp xem ngày cuối cùng giáo sư làm việc ở đây.” “Ông ta làm việc cho đến ngày 14 tháng 11. Hôm đó cũng là ngày ông ta gặp tai nạn trong phòng thí nghiệm do một sự cố chập mạch thiết bị.” “Kỳ lạ! Như vậy trong chín tháng trước khi giáo sư qua đời, ông ta hoàn toàn không gửi thêm báo cáo nào nữa à?” “Dường như là vậy.” Tôi gác điện thoại xuống, cảm thấy khó hiểu. Tôi lật qua, lật lại xấp nhật trình nghiên cứu, phát hiện ra những vệt đỏ nhỏ như máu khô ở một góc phía trong bìa hồ sơ. Tôi rùng mình, chợt mơ hồ linh cảm sẽ có những điều thật tồi tệ xảy ra. *** Mưa. Trời xám xịt. Từng hạt nước trĩu nặng, đập xối xả vào mặt kính. Tôi lái xe đến phế tích nhà máy điện hạt nhân số 1 để lấy thêm một số mẫu vật về xét nghiệm. Phế tích bao bọc bởi những bức tường rào cao. Chỉ có một lối vào duy nhất từ cổng chính. Từ xa dễ dàng nhìn thấy tấm bảng “Dừng lại. Khu vực nhiễm phóng xạ”. Tôi kéo cửa kính xuống, rồi trình giấy tờ. Người trực cổng gật đầu, mở cổng ra. Cánh cổng nặng trở mình kêu cót két một cách ghê sợ. Dường như đã rất lâu rồi không ai đi vào đây. Nhìn từ kính chiếu hậu, tôi thấy hắn ta đang lườm mắt dõi theo. Một cảm giác lạnh chạy dọc sống lưng. Quang cảnh phía sau bức tường rào hoang tàn. Những bức tường cháy đen đổ nát. Bê tông gạch vụn vương vãi khắp nơi. Những bụi cỏ xanh rì mọc ra từ những kẽ nứt trên nền gạch. Dùng sức, tôi đẩy một mảng tường to qua một bên để lấy chỗ. Bước qua phía dưới một cái cột gãy nằm vắt qua một bậc thềm cao, tôi đi sâu vào trong khu phế tích. “Ầmmmmựaaaaaaèeeenngggg” Âm thanh của cái gì nó nặng nề đang di chuyển vọng lại từ phía trên. Tôi giật mình nhìn lên. Imlặng. Tiếng gió thổi qua những tán lá xì xào. Tôi bắt đầu cảm thấy hoảng. Vội vã bước nhanh về xe. “Uỳnhrẹẹẹẹt” Tôi ngẩng lên, kịp nhìn thấy một vật thể đang rơi xuống về phía tôi. Đau nhói ở đầu. Tôi gục xuống bất tỉnh. *** Nhiều giờ sau, tôi tỉnh dậy trong bệnh viện. Người trực cổng đã gọi xe cấp cứu mang tôi vào đây. Bác sĩ cho biết tôi đã bị nhiễm phóng xạ ở mức độ nhẹ, do vết cắt xé toạc áo khoác bảo vệ, để lộ vết thương ra khi tôi nằm mê man trong khu phế tích. *** Vết thương đã gần lành, nhưng những ngày gần đây, tôi luôn cảm thấy mệt mỏi, đầu óc rã rời. Tôi quyết định rời phòng thí nghiệm sớm. Tôi đi xe điện ngầm về nhà, tắm rửa thay đồ, rồi đi bộ đến quán bar quen thuộc gần đó. Cạnh cửa ra vào, một cặp nam đang ôm nhau, hôn thắm thiết. Cảnh này quá quen thuộc, diễn ra ở khắp mọi nơi ở Fukushima. Tôi tỏ ra không quan tâm, lách mình đi vào. Bên trong quán, khách khá đông, chỉ còn một vài bàn trống. Tôi bước đến quầy bar gọi một cốc bia, bắt đầu dán mắt theo dõi trận banh trên màn hình. Tôi rùng mình, một cảnh giác ghê người chạy qua. Tôi quay lại nhìn, một gã bặm trợn to con đang nhìn tôi với cặp mắt thèm thuồng. Thấy tôi nhìn, gã nở một nụ cười nham nhở rồi đưa bàn tay với những ngón tay thô kệch ra vẫy vẫy. Không phải lần đầu hay chuyện lạ gì ở Fukushima, tôi phớt lờ, quay lại tiếp xục xem trận banh. Qua khóe mắt, tôi thấy gã tiến lại gần. “Nhóc đẹp trai, đi chơi với anh không?” - Giọng Nhật của gã ồ ề mùi bia. “No, thank you!”(4)- Tôi đáp lại. Gã bắt đầu sán tới. Tôi thụt lùi rồi nhanh chóng bước ra phía cửa. Trời đã về khuya. Mưa lất phất, một ít sương mờ. Đường phố thưa thớt người qua lại. Tôi bước nhanh qua một khu công viên. Mặt đường loang láng nước mưa dưới ánh đèn vàng. Lại một cảm giác ghê người xẹt qua. Tôi quay lại nhìn. Một cái bóng từ xa, dễ dàng nhận ra chính là gã bặm trợn trong quán bar. Tôi sợ hãi cắm đầu chạy. Tiếng chân gã huỳnh huỵch đuổi theo phía sau. Tôi có thể nghe thấy tiếng gã thở hồng hộc ngay sau gáy. Tôi bị túm mạnh rồi quăng xuống đường. Tôi hét lên thất thanh. Gã bắt đầu sờ soạng khắp người tôi. Tôi dùng hết sức mình vùng vẫy. Trong lúc tôi đang dằng co chống cự với gã, một cái bóng bất thình lình lao ra, tông mạnh vào gã. Tôi kịp nhìn thấy đó là một người đàn ông. Anh ta nắm lấy đầu gã, lôi mạnh về phía sau. Gã lồng lộn gầm lên, rồi bám lấy anh ta vật xuống. Anh ta kịp thời né, nhanh chóng rút một khẩu súng rồi ra lệnh đanh thép. “止める!” (dừng lại) Gã vung tay, định lao đến, nhưng khựng lại trước ánh mắt sắc của anh bên cạnh nòng súng đang chỉa thẳng vào gã. *** Anh tên Peter, là phóng viên của một tờ báo Hoa Kỳ. Trên đường đi làm về, vô tình gặp tôi bị gã tấn công, nên ra tay giúp đỡ. Tôi rất vui vì quen được một người bạn mới biết nói tiếng Anh. Thi thoảng cuối tuần, chúng tôi hay cùng nhau ra quán bar uống vài cốc bia, xem trận banh trên trực tuyến. Tính Peter trầm tư ít nói. Tôi thích cách anh hút thuốc, rít một hơi thật sâu, rồi từ từ thở ra những lọn khói, hòa tan trong ánh đèn mờ của quán. Ở anh, tôi có cảm giác vững vàng và bình an. *** Tôi nhận thấy cơ thể mình đang có sự thay đổi. Tâm trạng lúc vui, lúc buồn vô chừng. Đêm về, tôi thường có những cơn mơ kỳ dị. Thường trong những giấc mơ, tôi thấy mình lạc trong một thành phố đổ nát, hoặc những cách đồng xanh mướt không một bóng người. Và những giấc mơ đó luôn kết thúc bằng hình ảnh tôi bị một ai đó kéo thật mạnh, đẩy nằm xuống, rồi đè lên người tôi hôn hít. Tôi quay lại nhìn thì thấy đó lại là anh. Cảm giác không sợ hãi mà là vui sướng. Rồi tôi giật mình thức dậy. Thật lạ! Tôi chưa bao giờ có cảm giác với đàn ông. Đây là lần đầu tiên tôi có những giấc mơ và những cảm giác như vậy. *** Vẫn quán bar quen thuộc cũ. Hôm nay anh có vẻ vui. Tôi hỏi, anh cười rồi chỉ: “Thấy chiếc bật lửa này không? Quà sinh nhật của ba tôi đấy, ông mất ba tháng sau đó. Mỗi năm, đến ngày này tôi lại khắc thêm một vạch.” Tôi cầm bật lửa lên, nhẩm đếm, rồi nhìn anh - “Tôi không nghĩ là anh lại già đến như vậy” “Chứ cậu thì còn trẻ lắm à?” Anh bật cười, đưa bày tay vuông vức của anh xoa tung mái đầu tôi lên. Đây là lần đầu tiên Peter kể về bản thân anh. Suốt buổi hôm đó, chúng tôi còn nói nhiều chuyện khác nữa. Trời về khuya, anh đã ngà ngà. “Anh say rồi, hay đêm nay qua nhà tôi nghỉ” “Ừ, nào chúng ta cùng đi!” - Anh lè nhè, gật gù khoác vai tôi. Về đến nhà, tôi đỡ anh lên giường. Đặt tay lên trán anh “Dường như anh sốt rồi.” Anh chợt nắm lấy tay tôi kéo vào lòng, bắt đầu hôn tôi. Tôi tưởng như mình lại đang mơ, nhưng cảm giác rất thực. “Đây không phải ra mơ.” Tôi nhận ra điều đó. Nhưng tôi không chống cự, tôi đáp lại những nụ hôn của anh. Anh đẩy tôi nằm ngửa ra, cuốn lấy người tôi. Tôi oằn người lên, tận hưởng từng cử động của anh. Sáng hôm sau tôi thức dậy, thì anh đã đi mất, để quên lại chiếc bật lửa trên bàn. *** Tôi kinh ngạc phát hiện một hiện tượng lạ. Phóng xạ của nhà máy điện hạt nhân số 1 có sự ảnh hưởng nhất định đến hệ thống thần kinh và nội tiết, dẫn đến sự thay đổi về đối tượng hấp dẫn tình dục ở các mẫu thử. Những con chuột bị chiếu loại phóng xạ ở nhà máy điện hạt nhân số 1 tỏ ra quấn quýt với những con chuột cùng giới tính. Tôi giật mình, nghĩ về tôi và những thay đổi trong cơ thể thời gian qua. Tôi vội vàng lấy mẫu thử của mình xét nghiệm. Kết quả nhận được dương tính, tương tự như những con chuột nhiễm phóng xạ kia. Tôi vội vàng chụp lấy máy vi tính, viết báo cáo và gửi qua cơ quan đầu não ở London về hiện tượng vừa phát hiện được. *** Đã năm ngày trôi qua, vẫn không thấy tin tức gì của anh. Tôi sốt ruột, cầm lấy điện thoại nhắn thêm một tin nữa “Peter, anh đâu rồi? Gọi cho tôi ngay khi nhận được tin này nhé.”. Chưa bao giờ tôi cảm thấy nhớ anh và cần anh như lúc này. *** Tôi hoàn toàn suy sụp khi nhận được hai tin dữ cùng một lúc. Cảnh sát tìm thấy được xe hơi của anh bẹp dí méo mó dưới đáy rừng. Kết quả điều tra cho rằng anh bị lạc tay lái khi đi qua khúc cua gắt của đoạn đèo đó. Tin dữ thứ hai nhận được từ London, cấp trên nói rằng tôi lãng phí thời gian nghiên cứu một vấn đề thừa thãi, mục tiêu nghiên cứu chính là căn bệnh ung thư, không phải đồng tính. Tôi bị đình chỉ công tác và được lệnh phải quay về London ngay lập tức. Tôi giận điên lên, hất tung mọi thứ trong phòng thí nghiệm. Trong lúc đó, tôi làm rơi cái bật lửa của anh. Tôi vẫn luôn cất giữ nó bên người. Chiếc bật lửa rớt xuống đất, rồi văng vào gầm tủ sắt. “Không! Đó là kỷ vậy duy nhất của anh.” Tôi kéo tủ sắt ra một bên, chợt phát hiện ra bức tường phía sau có một lỗ hổng nhỏ, lòi ra một mớ giấy. Đó là những mảnh giấy viết tay bằng tiếng Anh. Tôi đọc lướt qua sững người nhận ra chúng được viết bởi giáo sư Caillen Hassall. Thì ra, ông ta cũng phát hiện ra hiệu ứng đồng tính, báo cáo với trụ sở ở London và cũng bị yêu cầu phải quay về. Nhưng ông ta bỏ qua ngoài tai, cương quyết ở lại nghiên cứu. Ông ta phát hiện ra mình đang bị theo dõi, biết được nguy hiểm đang tới gần nên sao chép lại báo cáo rồi nhét vào cái lỗ bí mất phía sau tủ sắt. Kèm theo lá thư là những báo cáo quan trọng và một phát minh dùng phóng xạ để điều chỉnh đối tượng hấp dẫn tình dục ở con người. Ông ta hoan hỉ kết luận rằng “Cuối cùng, đồng tính đã có phương pháp chữa trị!” Tôi đổ gục xuống suy nghĩ hồi lâu, cố nuốt phần thông tin vừa đọc được. Như vậy, tôi chỉ còn một đường sống duy nhất là quay về London. Tôi sẽ rời khỏi Fukushima, ra đi trong nỗi nhớ về Peter. Trái tim tôi nhói đau lên mỗi khi gọi tên anh. *** Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ điên rồ. *** Tôi quay về London được một tháng. Cuộc sống diễn ra bình thường như tôi chưa bao giờ đến Fukushima. Tôi gần như hoàn toàn quên mọi thứ thuộc về nơi đó, trong đó, có cả Peter. Có những khi cái tên anh thoảng qua trong đầu, nhưng phần ký ức đó rất chán chường và vô vị, như một người trưởng thành khi nghĩ về đồ chơi hoặc kẹo ngọt. *** Mùa xuân. Khí trời dễ chịu. Tôi rảo bước quay về khách sạn ở phía Nam London. Vứt chìa khóa lên bàn, tôi bước lại mở tủ lạnh, bốc lấy một chai bia. Hững hờ đưa lên miệng nốc một ngụm to. Quay lưng lại tôi thấy anh đứng ngay phía sau từ bao giờ. Tôi ngạc nhiên: “Peter, anh còn sống à?” Peter không trả lời chỉ nhoẻn miệng cười nhìn tôi trìu mến. Giọng tôi vẫn đều đều: “Tôi nghĩ anh bị tai nạn giao thông và đã chết.” Trước thái độ lạnh lùng của tôi, Peter tỏ ra bối rối trong tích tắc rồi nét mặt giãn ra, bước lại gần tôi: “Vẫn còn sống đây, và biết hết những chuyện đã xảy ra ở Fukushima.” “Anh biết chuyện gì ở Fukushima?” Bất ngờ, Peter lao vào ôm chầm lấy và hôn tôi. Tôi chống cự, đẩy mạnh Peter ra. Anh ta vẫn tiếp tục cố gắng ôm chặt lấy tôi. “Dễ chịu quá”. Một cảm giác lâng lâng lan tỏa khắp người. Đôi môi anh thật mềm mại. Vòng tay anh ấm áp làm sao. Mọi kỷ niệm, mọi cảm giác tôi dành cho anh tràn về. Tôi ngẩn ngơ, thả lỏng người ra. Peter vẫn ôm tôi trong lòng, thì thầm vào tai tôi: “Em dùng phương pháp của giáo sư Caillen Hassall tự điều trị cho mình phải không? Thật ra phương pháp này không có hiệu quả. Đồng tính vốn là bản chất khi sinh ra. Nó chỉ bị điều chỉnh tạmthời bởi phóng xạ. Cục tình báo Mỹ đã biết công nghệ này từ lâu và đang nghiên cứu phát triển để chế tạo vũ khí sinh học. Vì thế họ không muốn các nước khác cũng tìm ra. Sai lầm của em là đã phát hiện ra bí mật này. Bên giới chức London đánh hơi thấy nguy hiểm nên điều em về gấp. Tuy nhiên, hiện giờ cục tình báo Mỹ vẫn đang theo sát em.” “Thật ra anh là ai, tại sao anh biết những điều này?” - Tôi sửng sốt. “Anh không phải là phóng viên, mà là nhân viên của cục tình báo. Anh được lệnh phải theo dõi và trừ khử nếu em có những hành động gây nguy hiểm như Caillen Hassall.” “Chính anh đã giết giáo sư Caillen Hassall? Lần này anh đến đây để giết em?”- Tôi kinh hoàng nhìn sâu vào mắt Peter. “Không! Anh yêu em, từ khi ở Fukushima và đã làm trái mệnh lệnh.” Tiếng gõ cửa vang lên “Hầu phòng đây, xin hãy mở cửa”. Peter nhìn tôi: “Em có gọi cho lễ tân yêu cầu gì không?” Tôi lắc đầu. Peter vội vàng lôi tôi về phía cửa sổ: “Nhanh lên, chúng ta phải chạy khỏi nơi này!” “Chúng ta trốn đi đâu bây giờ?” “Nơi nguy hiểm nhất, không ai ngờ.” “Fukushima?” Cửa phòng khách sạn bật ra, hai gã đàn ông áo đen xông vào, tôi rút chân còn lại, nắm tay anh nhảy xuống dòng sông Thames đang chảy cuồn cuộn phía dưới. __________ 1. Thành phố Fukushima: nằm ở vùng Tōhoku trên đảo Honshū, Nhật Bản. Cách thủ đô Tokyo khoảng 300km về hướng Bắc 2. London: Thủ đô của Anh. 3. Gay: đồng tính nam 4. “No, thank you”: “Không, cám ơn”. Có một thời như thế ___ langduca ___ Chiều công viên thật yên tĩnh. Đồng và Vĩnh ngồi như hai pho tượng trên băng ghế đá khuất sau những bồn hoa hồng trắng, những nụ hồng mong manh trước luồng gió nhưng vẫn cố tỏa ra chút hương dìu dịu cho đời. - Mốt đi rồi, có nhớ gì hông? - Nhớ chứ. - Nhớ gì? - Đồng lí nhí trong cổ họng. - Nhớ trường, thầy cô, bè bạn… nhớ nhà nữa. - Hết rồi à? - Còn chứ… còn hoa hồng trắng nữa, đẹp tinh khiết ra hoa mà không đơm quả, như những mối tình không có con. - Sao nói lại lời của người ta. Vậy chớ có nhớ… tui hông? - Hổng nhớ mà sao trốn ra đây. - Ừ há. Dạo này đầu óc tui ngu quá à. - Thì ngu chứ còn gì nữa. - Nói tui ngu hả! - Chứ hỏng phải sao tối đó kêu tui hôn giống trên phim, làm cho mấy đứa trong lớp biết rồi thì cả trường đều biết. - Ai ngờ tụi nó rình mình đâu chứ. Mà anh cũng có phần lỗi, mới kêu là ôm hôn sát rạt à, không để ý để tứ gì hết, giờ thì trách ai. - Trách em, ai biểu em như vầy thì anh phải như vậy thôi. - Vĩnh choàng tay lên vai Đồng. - Mắc cười quá đi, tự nhiên trách tui. - Đồng cười rồi lách ra khỏi vòng ôm của Vĩnh nhưng Vĩnh kéo mạnh vào khiến Đồng bật thành tiếng kêu đau. - Em bị làm sao vậy, kéo tay áo lên cho anh xem. Đồng dùng dằng mãi nhưng Vĩnh nhất quyết kéo tay áo của Đồng lên. Từ ngay bắp tay những đường bầm xanh bầm tím kéo dài lên hai vai, còn cái lưng bình thường trắng trẻo giờ vằn vện những lằn ngang lằn dọc. - Em lại bị ba đánh nữa hả? - Vĩnh gắt giọng còn đôi mắt nhíu nhỏ lại. - Lần này không phải ba đánh em, mà ba của em mời được một thầy bùa đến nhà trục con ma ra khỏi người em. Ông thầy bùa làm phép rồi lấy roi đánh cho tan hết ma chướng trong người em ra ngoài. - Ba má thấy em bị đánh như vậy mà để yên hả? - Trị bệnh mà, má em cũng khóc nhưng ông thầy nói làm vậy thì con ma sợ. Nó chui ra khỏi người thì em hết thích con trai. - Khổ cho thân em quá. - Có khổ nữa em cũng chịu, nhưng phải xa anh thì em chắc là chịu không nổi. Đồng sụt sùi cố kìm nước mắt lại nhưng không thể, Vĩnh luýnh quýnh ngó trước ngó sau rồi lấy tay lau nước mắt cho Đồng. “Anh đi lên Sài Gòn học vài bữa cho ba má anh vui rồi anh lại chạy về đây thăm em mà, nín đi, con trai khóc ngoài đường kỳ lắm”. Đồng nghe nói thế thì càng nhiều nước mắt hơn. “Anh đi, anh cũng nhớ em nhiều lắm.” Đồng ngả đầu vào vai của Vĩnh “nhớ nhiều là nhiều làm sao?” - Nhớ em nhiều như sợi tóc. - Vĩnh khẽ luồn ngón tay vào mái tóc ngắn đen mượt của Đồng. - Như sợi tóc thôi à? - Tóc của em hôm nay dài hơn hôm qua một tí, anh nhớ em cũng mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Cả hai mãi trò chuyện ở công viên mà không biết rằng ba má của Vĩnh đã cho người tìm kiếmVĩnh khắp nơi, cuối cùng thì ba của Vĩnh gọi điện sang nhà của ba má Đồng. Sau vài câu hỏi thămkhách sáo thì hai nhà trở giọng tranh luận gay gắt, ai cũng bênh vực cho con của mình. Ba của Đồng giận đỏ mặt cúp máy, rồi đi tìm Đồng. Ông nghĩ một lúc và đi về phía công viên gần nhà. - Đồng đứng lên ngay. Ba không ngờ con càng ngày càng sinh tệ. Con muốn ba má phải đeo mặt nạ mỗi khi ra đường thì con mới vừa lòng vừa dạ phải không? - Dạ thưa thầy, con với em Đồng ngồi ở đây nói chuyện chơi chứ không có ý gì. Mong thầy đừng giận, đừng la mắng em Đồng. - À, tôi đang dạy con tôi, tôi không nói chuyện với cậu. Cậu thuộc gia đình giàu có, con chủ hiệu buôn có tiếng mà, muốn làm gì thì làm ai dám nói động đến. - Ba ơi, anh Vĩnh ngày mốt là đi Sài Gòn rồi, con hẹn anh Vĩnh ra đây là để nói chuyện chơi thôi. - Nói chuyện mà choàng tay ôm nhau tình tứ, còn vuốt tóc hôn nhau. Trời ơi là trời! Người ta đã đồn khắp nơi là con với nó có chuyện bậy bạ, ba xấu hổ lắm rồi. Giờ nếu có thêm chuyện này thì làmsao ba dám vào trường học mà dạy ai. Thà là mày giết ba của mày đi, làm như vậy thì tao nhục lắm. - Nếu thấy nhục thì nghỉ dạy đi. - Ba của Vĩnh từ xa bước lại, trên tay cầm điếu thuốc dang dở. - Con gà trong nhà quản còn không được mà muốn dạy con chim bay giữa trời sao? - Ông anh nói gì lạ vậy? - Tôi là ba của thằng Vĩnh. Con tôi có phần lỗi, tôi không né trách nhiệm nhưng tôi thì bận làm ăn bù đầu bù cổ, chứ đâu có rảnh rang như thầy mà có thời gian dạy con. Nghe vợ tôi nói hai năm trước thầy là giáo viên chủ nhiệm lớp của con tôi, thầy cũng có phần dạy nó, sao không dạy theo điều hay lẽ đẹp của ông bà truyền lại. - Tôi… - Còn thằng con của thầy nữa, cũng là một đứa không ra gì. Có cha làm thầy sao không hiểu đạo lý, xúi giục con cái nhà người ta vào con đường bậy bạ. - Ba ơi, không phải đâu, là do chúng con tự nguyện mà. - Vĩnh nói nhanh. - Mày im đi, con với cái! - Ông anh nghe rõ rồi đó, chúng nó tự nguyện thì không phải lỗi một mình tôi không biết dạy con. Con của tôi là tôi có giáo dục đàng hoàng. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ lấy vợ sinh con đẻ cái. Trước giờ nó luôn là một đứa hiền lành học giỏi thì sau này nó cũng sẽ là một người chồng tốt, cha tốt. - Để tôi mở to mắt chờ coi cái thứ bệnh hoạn đó lấy vợ sinh con kiểu gì, chớ thằng Vĩnh con tôi thì phải học hành đến nơi đến chốn rồi lấy vợ sinh con nối dòng nối dõi. Nó là con trai duy nhất trong nhà, bao nhiêu tài sản của tôi sau này phải do nó gánh hết lo hết. - Con xin ba và bác đừng nói qua nói lại nữa. Anh Vĩnh sắp đi Sài Gòn rồi nên con hẹn anh ra đây nói chút chuyện để… - Đồng nấc lên. - Ông nghe chưa, thằng con của ông hẹn đó. Con của thầy giáo mà hư thân, dụ dỗ con người ta. - Mày làm tao nhục quá, Đồng ơi! - Làm mất danh dự gia đình của mình thì thôi đi, còn làm xấu gia đình của người khác nữa. Ông thầy nên về nhà dạy con cho tốt rồi hẳn dạy con cháu của người. - Tôi xin lỗi ông anh, tôi sẽ dạy lại con tôi. Ông thầy giáo xoa hai tay vào nhau. - Mày còn đứng đó nữa sao? Về mau đi, nhục quá rồi. Cha con Đồng vừa khuất dạng thì Vĩnh bất ngờ nhận ngay một cái tát vào mặt khiến cậu loạng choạng. “Khốn nạn! Tại mẹ mày nuông chiều mày quá nên mày hư hỏng. Tao có hẹn với bác sĩ trên Sài Gòn, mày lên đó chữa bệnh, học hành cho nên người. Sau này, tao làm cho mày một cái đám cưới nở mày nở mặt với người ta.” - Ba ơi, con không muốn. Con thương Đồng mà. - Về mau đi, suốt ngày kết bạn giao du rồi nhiễm phải thói hư. *** Một chiều mùa đông, Đồng ngồi lặng yên bên chậu hoa hồng trắng…! - Đồng nè, ngày mốt làm chú rể rồi, chiều nay con đi cắt tóc cho gọn đi. - Con thích để vậy má à. - Coi kìa, sắp làm chú rể mà mặt mày bí xị vậy, có chuyện gì thì nói cho ba nghe. - Con vui mừng lắm chứ. Ba má vui là con vui mà. - Không lẽ con không chịu hiểu câu “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại.” - Con hiểu nên con đồng ý để ba ép con cưới vợ. - Mày… hỗn. Tao đã nói bao nhiêu lần rồi mà mày… - Ông đừng đánh nó nữa. - Bà giáo lên tiếng. - Chẳng lẽ ông muốn nó vác cái mặt sưng húp đi rước dâu sao? *** Mùa xuân năm 1982. Bàn thờ gỗ gụ khảm ốc xà cừ phô màu đen bóng loáng dưới ánh đèn sáng choang. Bên trên góc trái là dĩa trái cây lớn xếp hình một con rồng dâng châu còn bên phải là bình hoa cắm theo lối chimphượng hoàng triều nhật. Ngoài ra còn có đôi đèn cầy long phụng đỏ rực rỡ với cặp rượu tây và vài dĩa đồ ăn cúng lễ gia tiên thật nghiêm cẩn. - Kính lạy tổ tông, sáng mai con sẽ qua nhà đàng gái rước dâu. Con không biết có thể ăn đời ở kiếp với nhau không. Con chỉ mong tổ tông hiển linh mà giúp con giảm bớt tội nghiệt. Vĩnh vừa dứt lời thì bị lôi tuột vào phòng riêng. “Mày lạy tổ tiên như vậy đó sao!” “Chứ con không có thương yêu, sợ cưới về làm lỡ một đời con gái người ta thì mắc tội.” Ba của Vĩnh lấy tay vỗ trán một cái rồi lắc đầu. - Sao tao nói hoài mà mày không rõ, đàn bà là cái bếp, là cái máy đẻ cho đàn ông. Mày cần gì yêu với thương. - Nhưng như thế là bất công. - Tao là cha mày mà tao không hiểu biết hơn mày sao? Mày sinh cho tao mấy đứa cháu rồi mày cứ ra đường bay nhảy sao tao cũng không nói. Nhà này phải có con cháu nối dõi. - Con không muốn. - Không muốn cũng làm, trứng làm sao khôn hơn vịt. *** Một ngày mùa xuân năm 2010. Đó là một căn nhà sáu tầng thường đóng kín cửa nằm gọn trên một góc đường Sài Gòn. Phía trước nhà là một khoảng sân rộng chỉ trồng một loại hoa duy nhất - hoa hồng trắng. Trong nhà có tổng cộng sáu người, tính luôn cô hai chuyên lo chuyện bếp núc quét dọn, nhưng chỉ có hai người thích những chậu hồng là ông Vĩnh và cậu con trai úc tên Trường. - Chị hai ơi, sao chị không dọn đống giấy lộn xộn trên bàn đi. - Ông Vĩnh về nhà sớm, vừa bước vào đã nói lớn như ra lệnh. - Dạ, cái đó là quà tặng mà cậu Trường đang gói dang dở để tặng cho bạn chiều nay, cậu có nói là vào phòng nghe điện thoại một chút rồi ra gói tiếp. “Hôm nay là ngày lễ tình nhân!” Ông Vĩnh lẩm bẩm rồi mỉm cười bước lại gói quà. Đôi mắt ông chăm chú nhìn rồi nhíu lại, mặt trắng bệch ra như vừa nhìn thấy điều gì đó khủng khiếp lắm. “Phải cứu nó ra khỏi ngộ nhận, nó còn chưa tới hai mươi tuổi mà.” *** - Cậu Thuận, tôi chỉ muốn chốt lại một câu. Cậu có đồng ý nói lời chia tay với thằng Trường không? - Ông Vĩnh nắm bàn tay thành quả đấm. - Thưa bác, chúng cháu yêu nhau. Chúng cháu hứa sẽ cùng nhau vượt qua bao trở ngại, sẽ chống lại những định kiến xã hội đè nặng lên chúng cháu. - Chống lại à! Ai chống, chống ai, chống cái gì? Có phải cậu định xúi giục con chống lại cha mẹ, cháu cãi lại ông bà? Xét thấy cậu là người có ăn có học mà sao nói chuyện vô luân thế! - Cháu không có ý đó, cháu chỉ muốn nói là chúng cháu sẽ sống đúng sống thật với bản chất của chính mình. Giống như có người thì ghiền cà phê còn người khác thì dị ứng. Thời buổi bây giờ, chuyện đồng tính đã cởi mở hơn. Đời sống mới con người có tự do, mong bác tôn trọng. - Thuận bấu tay vào thành ghế, mồ hôi chảy dài trên má, đóa hồng trắng trong lọ nhòe đi trước mắt cậu. - Cậu định dạy tôi ăn theo thuở, ở theo thời à! - Ông Vĩnh chua chát. - Chúng cháu cũng là đàn ông, nhất định sẽ sống có dũng khí, dám làm dám nhận, sống không dối lừa ai. - Vậy cậu có dám đánh cược với tôi không? -…? - Thuận lo sợ nhìn cha của người yêu nhấp một ngụm cà phê. - Trong vòng ba ngày, nếu cậu có thể dẫn người nhà của cậu đến gặp tôi thưa chuyện thì tôi sẽ để mặc tình cho cậu quen con tôi, tôi làm ngơ nhưng tôi không đảm bảo là con tôi sẽ không bỏ cậu. - Cháu…! - Cứ quyết định thế. - Ông Vĩnh đứng lên định bước ra về nhưng vẫn ngoái đầu lại lần nữa. - À, sợi dây thắt lưng trên người cậu là do thằng Trường xin tiền tôi mua hồi lễ tình nhân đó. *** - Sao ba biết con buồn chuyện tình cảm? - Thuận thở dài nằm xuống bộ ván bên cửa sổ. - Má con mất khi đẻ con út được tám tháng. Từ đó ba vừa làm cha vừa làm mẹ, sao lại không hiểu rõ tính ý từng đứa con. - Chuyện này khó nói lắm. - Thuận lắc đầu, ngó lên bàn thờ má rồi chuyển ánh nhìn mông lung lên mái ngói đã bạc màu rêu. - Con nói thật đi, sao thằng Trường không về chơi cùng con. Lần trước nó còn dặn ba để dành mấy trái dừa sáp. Thằng đó là người tốt, còn nhỏ mà biết cư xử chín chắn. Bộ hai đứa cãi nhau à? - Ba muốn nói ý gì vậy? - Con là đàn ông. Ba thường dạy con dám làm dám nhận. - Ba…! - Nếu chọn được một người bạn tốt thì không bao giờ bị lầm trong khi nếu chọn một người đẹp hay một người giàu thì có thể bị lầm. - Dạ… con nói! Chúng con khổ tâm lắm, ngay khi quen nhau đã hiểu rằng sẽ khổ nhưng chúng con không thể… *** Sài Gòn như một dòng nước chảy xuôi về bến văn minh, có lúc vật vã với bao ghềnh thác có lúc trầm lắng tựa như đứng yên. Nhưng Sài Gòn vẫn tiến lên, từng giờ từng ngày thay đổi. Trăm năm trước Sài Gòn ra sao, trăm năm sau Sài Gòn như thế nào? Tất cả đều do sức người kiến tạo, có bàn tay và khối óc của con người thì những con đường mới được mở ra. - Sài Gòn về đêm thật khác với Sài Gòn ban ngày. - Ba ơi, về rồi kìa! Chiếc xe ô tô màu trắng đó. - Thuận reo lên, chỉ tay về phía bên kia đường. Thuận nắm tay ba của mình, tất tả bước về phía căn nhà có những bụi hoa hồng trắng thật lớn. “Thưa bác, cháu dẫn ba cháu lên gặp bác, còn vài giờ nữa mới hết ngày ạ.” - Xin lỗi ông anh, ông có phải là ba của cháu Trường. - Ông… ông là….? - Là cha đẻ của thằng Thuận…. Chứ còn ai nữa! - Có thật là… - Nếu không tin thì mời ông xem giấy tờ. Thuận! Lấy giấy hộ khẩu, chứng minh thư ra đi con. - Lúc nào ông cũng cẩn thận thái quá... Tôi nghĩ chúng ta cần nói chuyện với nhau, mời xe đi. - Được. Thuận ở lại chờ ba. - Ba có quen…? - Thuận ngạc nhiên quá đỗi. *** Quán cà phê nằm khuất trong một con hẻm thật tĩnh lặng, xứng với tên của nó. Lặng thinh một lúc rồi ông Đồng mới từ từ cởi bỏ cái nón vải, ông tháo búi tóc màu muối tiêu, thả ra đã dài ngang lưng. - Có mấy lần tôi ngủ quên thì bị vợ cắt tóc hay mấy đứa con tôi cắt lén chứ mà còn tỉnh táo thì không ai cắt được tóc tôi. Ông có biết vì sao không ông Vĩnh? - Chuyện xưa quá rồi mà còn cố chấp. - Nghĩa là ông cũng còn nhớ. Sân nhà ông nở những bông hồng trắng, mà không hái vào thì… phí hết mấy cái bông. - Đâu phải ai cũng thích hoa hồng trắng! - Cũng như đâu phải ai cũng tán thành chuyện hai cậu con trai đến với nhau vì yêu. - Ông muốn ám chỉ chuyện của con ông và con tôi. Ông biết tôi là cha nó từ trước rồi phải không? - Thằng Trường có về nhà tôi chơi vài lần, nó giống ông như đúc nên tôi nhìn ngờ ngợ, đến chừng hỏi chuyện gia đình thì tôi biết nó là con ông. - Tôi rất thương thằng con này, tự hào về nó nhất, nó hiếu thảo học hành giỏi dắn. - Ngày xưa cũng có hai người con trai thương nhau mà bị gia đình chia rẽ. Lúc đó còn mang nặng tư tưởng cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó. - Nó phải lấy vợ, sống hạnh phúc như bao người khác. - Hai bên gia đình ép buộc nên hai người con trai đó phải lấy vợ. Một người đã ly thân từ lâu, sống chung nhà chỉ vì con nhưng căng thẳng đến nỗi không nói với nhau một lời. Một người thì vô ý để vợ phát hiện những bức thơ tình nên vợ uất ức uống thuốc ngủ tự tử, mấy đứa con không biết rõ lý do cứ nghĩ là chuyện tai nạn. Hạnh phúc gia đình chỉ là lời che đậy cái bất hạnh cái oan nghiệt, bản thân khổ còn kéo theo những người xung quanh cùng đau. - Nhưng tôi với nó có hoàn cảnh sống khác nhau. Biết đâu là nó ngộ nhận. Thời buổi giờ tràn ngập thông tin, tốt, xấu, nhảm nhí đều có. - Ngày xưa là đời sống khép kín cũng còn có những chuyện như vậy kia mà. Một người nói chuyện hiện tại, một người kể chuyện của những ngày xưa, người đi ngang có lẽ không hiểu được. Nhưng họ cứ nói đến quên cả thời gian, từ chuyện con cái, chuyện vợ chồng đến chuyện chia tay, chuyện đè nén, chuyện dằn vặt của ba mươi năm. Quán đóng cửa, họ chào nhau khách sáo nhưng còn một câu nói cứ văng vẳng “Như tôi đã hứa. Chuyện của chúng nó thì tự chúng nó quyết định, tôi chỉ cầu mong con mình luôn vui vẻ hạnh phúc mà thôi! Cha mẹ ai mà không thương con.” Một ngày đàn ta ___ ngayemconho ___ Người đàn bà lầm lũi giữa đám đông, cố gắng bứt khỏi dòng người vô định. Nỗi ám ảnh về người đàn ông ôm đàn, về những thanh âm réo rắt không thôi cào cấu tim gan và hiển hiện như ghim như cắt trên gương mặt đã héo rũ. Mái tóc xơ, rối và bạc màu, biểu hiện của sự già nua, và cũng là biểu hiện của từng ấy những tháng năm mòn mỏi bấu víu một con người. Cớ gì không giải thoát bản thân? Cớ gì tự gông mình trong nỗi đau đớn triền miên không ánh sáng? Loài người còn lại những gì? Người ta thương yêu còn lại những gì ngoài một thế giới lạnh băng vô tri giác? Nhớ về quá khứ, lòng bà tê tái, và bà không muốn bất cứ bi kịch nào tương tự sẽ xảy ra. Ngày ấy như thế là quá đủ. “Chị đừng cho chúng nó gặp nhau nữa!” Người đàn bà cương quyết. “Nhưng, sao ạ?” Một giây im lặng. “Mắt chị làm sao thế?” Như bị bắt quả tang, người đàn bà vội đưa tay lên trán, ngoảnh mặt nhìn những ống vải xếp ở góc nhà, đầy những sắc tươi mơn mởn... *** Sạp vải là một tấm phản bằng gỗ, bốn chân bốn cây củi, khập khiễng và chênh vênh bên dốc chợ. Phía trước, dọc con đường bày la liệt những hàng cháo, hàng xôi, hàng bún. Lác đác người ghé vào mua. Ra rả những câu chào hàng phà phà hơi sương, quyện với khói cháo, khói xôi, khói bún, dệt nên làn sương mỏng trên con dốc chợ ban sớm. Từ chân dốc, chiếc xe lùi lũi mở banh màn không gian bàng bạc. Xuất hiện phía sau là thằng Nhân và mẹ nó, đang hì hụi với hai đôi bàn tay mảnh, đẩy xe đến chỗ cái phản gỗ. Thế là, những cô hàng cháo, những chị hàng xôi, những ông hàng bún phải dạt sang một phía để hai mẹ con có thể đẩy xe vải vào sạp. Thằng Nhân loay hoay phụ mẹ bày biện vải vóc, xong chạy vội về. Nhà nó cách chợ chẳng bao xa. Hôm nay nó phải đi học. Ngày đầu tiên nhập học, Nhân và Phương xin được ngồi sát chỗ. Ai cũng nhận ra thằng Phương đã cởi mở hơn nhiều. Chiều hôm ấy, Nhân phụ mẹ đẩy xe vải về thì thấy Phương. Nó ôm một cây ghi-ta màu nâu thẫm, vằn vện những vệt gỗ và những mảng sơn tróc vảy, lang thang, đờ đẫn bên vệ đường. Vốn biết Phương là người ít nói, Nhân chỉ nhìn nó rồi lảng đi. Một lát sau quay lại thì thấy thằng Phương đang gục mặt trên cây đàn, dưới bóng chiều của một cây hoàng nam nhỏ, Nhân quyết định tiến lại gần. “Mày sao vậy?”. Phương ngẩng đầu lên, mắt đỏ hoe, nghẹn ngào không thành tiếng. Nó nói không thành tiếng thật. Nhân chẳng nghe được lời nào. Hay vì gió chiều rào rào trên đỉnh hoàng nam làm bạt đi giọng nó? Phương bị cấm không được chơi đàn. Cũng chỉ vì chuyện này mà nó thường xích mích với mẹ. Có lần thằng nhỏ gan lì, gân cổ lên đôi co vì sự phi lý. Mẹ nó liền giật lấy cây đàn, đập ầm xuống đất vỡ choang. Nó dành dụm tiền mua đàn mới. Đàn mua về cất trong góc nhà kho. Cũng có lần nghe vang tiếng ghi-ta, mẹ nó chỉ dụi mặt vào tay mà khóc chứ không mắng nhiếc chi cả. Nó đến ôm vai mẹ, hỏi vì sao mẹ khóc. Mẹ nó không trả lời, chỉ nói bằng giọng van nài “Con đừng đánh đàn nữa nha con”. Nó đáp vâng, nhưng trong lòng tự hiểu sẽ chẳng bao giờ từ bỏ được niềm đam mê mà ba nó đã ấp ủ và truyền lại cho nó. Ngày ấy, ba nó là một chàng trai bảnh bao và chơi đàn rất giỏi. Lấy mẹ về, ba nó đàn cho mẹ nó hát. Mẹ hát không hay, ba nó gọi chú Dương lại nhà. Ba đàn, chú Dương hát. Mẹ nó nghe đàn, nghe hát, ra bề sung sướng. Mỗi cuối tuần chú Dương lại đến, mẹ đi mua rượu, làm đồ nhắm. Có khi chú Dương ngày nào cũng đến, mâm cơm mẹ dọn thêm một chiếc bát, một đôi đũa. Ba, mẹ và chú Dương nói cười rôm rả, rồi lại đàn, lại hát. Có lần, mẹ thấy ba ngồi đàn, chú Dương ngồi hát, môi kề bên tai ba mà hát... Mẹ sinh nó ra, chú Dương không đến nữa, ba cũng không đàn nữa, mẹ thôi mỉm cười hạnh phúc. Ba nó bắt đầu uống rượu và bê tha. Nó lớn lên một tí, ba nó vừa uống rượu vừa dạy nó chơi đàn. Đầu ngón tay nó bắt đầu chai đi như ba. Mẹ không cho nó học, nhưng nó thích, và mẹ không cản được, vì có ba. Dù bệnh gan quằn quại, ba nó vẫn ngập tràn trong rượu. Thằng Phương không biết chuyện gì đã diễn ra trước ngày nó chào đời. Nó chỉ thấy ghét ba vì ba làm khổ mẹ, làm khổ gia đình. Mẹ biết nó giấu đàn trong nhà kho nhưng không nói. Chỉ đến lúc ba nó về nhà gây sự thì mẹ mới không kìm được giận, lục tung mớ hỗn độn, lôi cây đàn ra, quật vào người ba. Nhưng thằng Phương kịp cản mẹ nó lại, giành lấy đàn và chạy biệt. Giờ thì nó trở thành kẻ đầu đường xó chợ. Nó không dám về nhà, vì nếu về nhà thì mẹ nó lại đập bể cây đàn mất. Bỗng nó gặp Nhân, một buổi chiều tà gió lộng. Nhân bảo mang đàn về nhà nó cất tạm. Phương gật và theo Nhân về. Mẹ Nhân là chủ một sạp vải ở chợ. Bốn góc tường nhà nó chất đầy những cuộn vải đủ sắc. Phương đặt cây đàn vào một góc, bỗng một bầy mèo đến vây quanh, cạ cạ người vô chân nó. Nhân vừa nhìn tụi nó, vừa nhìn Phương, vừa tếu táo: “Mày hay bị mẹ mắng, tao cũng vậy. Vì đám mèo này nè”. Ngày trước, khi chưa có tụi mèo trong nhà, lũ chuột hoành hành ghê rợn. Chúng nó gặm nhấm và đục khoét tất cả những cuộn vải của mẹ thằng Nhân. Nhưng vốn không ưa mèo, bà cương quyết không cho mang bất cứ con mèo nào về nhà. Mãi đến một hôm, chuyện xảy ra ở chợ, một vị khách hàng chọn được một xấp vải ưng ý nhưng hốt hoảng vì lỗ thủng to tướng ngay chính giữa. Mẹ nó bẽ mặt. Thằng Nhân mang về liền bốn con mèo, đúng như ý của nó. Nhân yêu mèo. Con mèo đầu tiên trong đời thằng Nhân chết đi ngay bên vòng tay của nó. Nó khóc to lắm. Sao không khóc cho được cơ chứ, khi mà người ta thương yêu cứ mãi bỏ ta đi, như hạt cát trôi trên bờ biển lớn, trong khi ta không tài nào nắm lại. Ba nó mang chôn con mèo ở góc vườn trước nhà và trồng lên trên một cây khế. Ba bảo, khi nào khế lớn, ra hoa và kết quả, nó sẽ thấy lại được con mèo. Nó gọi đấy là cây “khế mèo”. Đến giờ thì cây đã lớn, vòm lá xum xuê, cao gần gấp đôi người. Nhân chỉ cho Phương xem. Phương nhìn lên cây khế, thấy từng đọt khế tươi phủ xanh cả một góc trời. Nó cố nhìn thật lâu để thấy được con mèo đã chết, dù biết đấy chỉ là giấc mơ trẻ nít. Bốn con mèo nhà Nhân cào cấu và phá phách không thua gì đám chuột. Thậm chí tụi nó còn làmbậy ra trên vải. Nhân ngày nào cũng bị mẹ mắng. Nhưng đến khi tụi mèo lớn được một tí thì đã ngoan và biết nghe lời. Mẹ lại cằn nhằn mỗi khi thấy vải của mẹ bám đầy lông. Khách hàng cười tủm tỉm“Nhà chị chắc nuôi nhiều chó lắm nhỉ”, mẹ chỉ biết ậm ờ. Phương đứng dậy, bẽn lẽn: “Mày giữ cây đàn giúp tao, hôm nào tao lại”. Nhân mỉm cười, nó tiễn Phương ra cửa. Rất lâu sau cây đàn vẫn nằm đấy, không thấy Phương đến lấy. Đôi lần Nhân lôi nó ra, dòm dòm, ngó ngó và... cất đi. Dần dần, cây đàn bị chôn vùi trong đống vải hoa, không ai nhớ tới. Cuối cùng thì Phương cũng đến. Thằng Nhân hỏi: “Mẹ mày còn giận không?” “Còn”. Phương rụt rè đáp. “Vậy lỡ, mang đàn về mẹ mày lại đập nữa thì sao? Hay cứ để lại nhà tao.” Trong khi Phương lúng túng không biết trả lời, Nhân nói dồn: “Mày phải tập chơi nhiều phải không? Thế thì cứ đến nhà tao, không sao cả. Mẹ tao ở chợ cả ngày, ở nhà có mỗi mình tao thôi”. Phương bối rối lắm, miệng lắp bắp, nhưng không thành tiếng. Thằng Nhân liến thoắng: “À, có cả tụi mèo nữa!” Vậy là thằng Phương quay về, để cây đàn ở lại. Rồi vào một ngày, nó lại đến. Vì mẹ, Phương từ lâu đã có ý định bỏ chơi đàn. Nhưng như thế, những đầu ngón tay của nó sẽ không còn sần, nó sẽ không thể đối diện với chính cuộc đời nó bằng những ngón tay mịn. Phải thật chai lì và gan góc. Nó mang đến vài bản nhạc cổ điển, vừa đọc vừa rải nốt. Đám mèo vây quanh, nghe đàn, phá phách. Chúng nó có vẻ thích thú. Thằng Phương phát hiện ra một vị trí ngồi đàn rất lý tưởng, đó là dưới gốc cây “khế mèo” trước sân nhà thằng Nhân. Nó ôm đàn ra đấy, ngồi bệt trên cỏ và bắt đầu bản nhạc. Một giai điệu quen thuộc ngân lên, được những thanh âm trong vắt dìu vào gió, thoang thoảng giữa không gian tinh trắng và dặt dìu dưới bóng nắng rợp xanh của vòm khế ngây ngô. Tiếng võng kẽo kẹt ban trưa của một bà cụ siêng năng đan áo, tiếng rên méo mó của bầy mèo đang nằm xoài ra đất, tiếng mẹ hát ru con hời ơi giữa muôn trùng nắng gió của thời gian, tất cả hòa quyện và đan vào nhau đều đặn, nhịp nhàng như những hợp âm không tréo ngoe, không trắc trở. Nhân ngồi trong nhà, cứ ngỡ bên ngoài đang reo vui một bản hòa tấu tự thiên nhiên, và ngài nhạc trưởng không ai khác là Phương dưới bóng khế. Nó không muốn bỏ lỡ khoảnh khắc này, vội bước ra, ngồi bệt trên cỏ cùng Phương. Trông thằng Nhân ngờ nghệch đến tội. Nó lắng nghe như thể một tín đồ cậy trông vào niềm tin thần thánh. Thi thoảng “tín đồ” này nhặt lấy một quả khế rụng, vô thức đưa lên miệng nhấm mút để rồi choàng tỉnh vì nhận ra mùi chan chát của múi khế. Chẳng phải âm nhạc từ muôn đời đã có năng lực chạm tới trái tim con người hay sao? Phương không chỉ biết chơi nhạc cổ điển, nó còn biết đệm hát như ba nó. Nó bảo Nhân hát. Nhân bối rối, bởi nó có hát cho ai nghe bao giờ. Thế mà nó cũng hát. Phương đàn theo, bắt tông, bắt nhịp... Hôm ấy mẹ Nhân về sớm, thấy hai đứa đàn hát vui cả cửa nhà, bà thích lắm, liền mang ra trái cây, nước ngọt. Cứ cuối tuần Phương lại đến, mẹ Nhân mua thêm bánh trái. Có khi ngày nào Phương cũng đến, bữa cơm mẹ Nhân dọn thêm một chiếc bát, một đôi đũa... Một buổi trưa nóng kinh hồn. Nóng đến nỗi thằng Phương đang ôm đàn mà không kiềm chế nổi bản thân. Nó quạt tay vô đàn và gào lên “Anh muốn tắm bên em trọn đời!!!”. Thằng Nhân vội vàng lấy tay chụp miệng nó lại. Chỉ hai giây sau, một tiếng động kinh hoàng phát ra từ mái nhà. Tiếp sau đó là tiếng lăn lọc cọc chà vào từng mảng tôn rỉ. Cuối cùng là tiếng hòn đá rơi đánh cộp xuống nền xi măng. Thằng Phương kinh hãi: “Ai ném đá lên mái tôn vậy?” Nhân nhìn ra cửa và chỉ sang phía bên kia rào: “Bà ném đá”. Chính là bà cụ vẫn ngồi trước nhà đối diện, đung đưa võng và cần mẫn đan áo. Chuyện kể rằng, “bà ném đá” là người phương xa, thuở hàn vi rất xinh đẹp, không hiểu vì sao lại về đây quay quắt một mình. Bà mắc chiếc võng trước nhà, ngày nào cũng ra ngồi đan áo. Những chiếc áo len rất đẹp, nhưng bà chỉ đan áo độc kiểu con gái. Bà đan áo, bán đi, và... ném đá sống qua ngày. Cứ hễ nhà nào xung quanh phát ra tiếng ồn inh ỏi là bà nhặt đá, ném ầm lên nóc, xong thản nhiên đan áo. Thế nên cả cái xóm này nhờ bà mà luôn luôn được yên tĩnh. Thi thoảng vẫn có những tiếng cười đùa, la hét ỏm tỏi giữa trưa nắng của đám con nít đi ngang chọc ghẹo. Bà nhặt đá ném chúng nó, nhưng chưa bao giờ có đứa nào ăn đạn. Thế nên, từ giờ Phương chỉ dám đàn nhỏ tiếng, và Nhân cũng hát nhỏ tiếng. Nhưng điều đó không hề làm mùa hè của hai đứa nó vơi đi tiếng đàn, tiếng hát, và cả tiếng mèo kêu la... Đến bây giờ thì Nhân là người bạn duy nhất của Phương. Chúng nó xin ngồi gần nhau cũng không có gì lạ. Thầy chủ nhiệm thấy Phương cởi mở và hòa đồng hơn trước, cũng nhờ Nhân, nên thầy chấp nhận. Hai đứa nó cùng học, cùng chơi. Học chán, đàn hát chán, chúng nó bắt đầu bày trò. “Bà ném đá” đang ngồi ru võng, vẫn chăm chỉ đan áo. Hai đứa nó ra ngồi gốc “khế mèo”, điệu bộ ôm đàn, ngồi hát. Bỗng một đứa la toáng lên “Rắn! Rắn!”. Đứa còn lại hoảng hốt “Đâu? Đâu?”. Thế rồi cả hai hả họng hô to rắn rắn rắn... “Bà ném đá” liền khựng lại, nhướng mắt sang rào bên kia. Hai đứa quỷ sứ thấy vậy liền la to hơn “Á á á...”. Thực ra chẳng có con rắn nào. Bà ném đá biết mình mắc lỡm, liền cúi xuống nhặt một hòn đá to tướng. Lập tức hai thằng nhóc chạy quắn đít, vừa chạy vừa cười khục khặc. Thằng Phương là đứa chạy nhanh nhất, vừa vào đến cửa, quay lại định ôm bụng cười thì thấy thằng Nhân đang ngồi ôm đầu rên ư ử. Đầu nó chảy máu. “Bà ném đá” đã nhắm trúng đích. Hôm sau Nhân phải nghỉ học. Trên đầu nó là một cuộn băng to tướng. Phương sợ bạn buồn nên dù học nhiều vẫn đến và chơi đàn. Mẹ Phương từ ngày biết con mình có bạn, bà mừng lắm. Thấy nó vui vẻ, lòng bà cũng nhẹ nhõmđược phần nào. Về phần Phương, biết mẹ không còn buồn, không còn giận, nó cũng mừng. Có lẽ không lâu nữa nó sẽ mang đàn về nhà. Mẹ Phương mang sữa sang thăm Nhân. Bà muốn biết người bạn thân của con mình. Lúc ấy hai đứa nó đang ngồi gốc khế, Phương đàn, Nhân dù đầu đang đau vẫn ráng hát. Mẹ Phương từ xa nghe tiếng đàn quen thuộc đã có linh cảm không lành. Đến khi tận mắt chứng kiến con trai mình ngồi đàn bên tiếng hát một đứa con trai khác, bà không khỏi hoang mang. Mọi ký ức tàn nhẫn đột nhiên ùa về đau đớn. Tiếng đàn trôi tuột trong lòng, đau xé, ám ảnh tâm can và mở tung quá khứ. Mẹ Phương vội quay đầu, đi mất. “Con vẫn còn chơi đàn phải không Phương?” Thằng Phương lúng túng. Bấy lâu nay nó giấu chuyện sang nhà Nhân tập đàn. “Quỳ xuống!” Nó quỳ, lòng rối bời. “Mẹ cấm con từ nay con không được sang nhà bên ấy!” Phương nghe như sét đánh ngang tai. Mẹ lại cấm nó một điều mà không vì lý do nào cả. “Không mẹ ơi”. Nó gạt ngang lời mẹ. Mẹ nó, cầm sẵn nhành dâm bụt bẻ vội, liền quất vào lưng nó, nức nở. Ngay lúc ấy ba nó về, nồng nặc mùi rượu. Thấy mẹ nó đang đánh con trai, ông xông vào đẩy mẹ nó ra. Hai người lại cãi vã. Thằng Phương chỉ biết ngồi bó gối, cầu mong cho tất cả sẽ qua mau. Nhiều hôm sau, không thấy Phương tới, Nhân buồn buồn ngồi ngắm khế vàng rơi. Có lẽ mẹ Phương lại có chuyện. Nhân nhìn sang bên kia rào, không thấy bà ném đá nữa. Tiếng võng đưa kẽo kẹt không còn, đàn ghi-ta có đấy nhưng chẳng thể ngân vang. Dường như nó cần lắm những thanh âm trong veo từ cây đàn ấy, con người ấy. Sao nó nghe thiếu vắng cõi hoang đường, nơi có tiếng đàn âm ỉ róc rách lòng đêm. Nó cảm nhận vết thương sau gáy. Có lẽ sẽ là một vết sẹo dài... Bỗng ai đến tìm mẹ nó. “Chị đừng cho hai đứa nó gặp nhau nữa, kẻo lại hối hận sau này.” Nghe giọng mẹ Phương quả quyết, mẹ thằng Nhân bối rối vì không hiểu chuyện gì. Tụi nó đã làmgì nên tội? Không nán lại lâu, mẹ Phương xin phép về, tay khư khư che con mắt bầm tím. Mấy ngày trước, bà bị chồng đánh. Không lâu sau người ta thấy ba thằng Phương lăn đùng ra đường bất tỉnh. Bệnh gan của ba nó trở nặng. Thằng Phương dựng ba dậy, cho ba uống thuốc. Ba nó hà hơi nặng nhọc, nắm lấy bàn tay gầy rộc của mẹ: “Đừng để bi kịch lặp lại như ngày xưa, em à!” Ba nó chết. Nhà nó vốn hiu quạnh, giờ lại càng quạnh hiu. Không lâu sau mẹ nó gọi nó đến trước mặt và bảo: “Ngày mai con mang đàn về đi Phương”. *** “Mày biết gì không Nhân?” “Chuyện gì?” “Năm sau tao thi vào Nhạc viện”. Thằng Nhân há hốc mồm: “Mẹ mày cho hả?” “Ừ, mẹ tao cho rồi”. Nhân vội hỏi: “Vậy, lỡ thi đậu thì mày lên thành phố luôn à?” “Chứ sao nữa!” Thằng Nhân đăm chiêu: “Mày không tính về à?” Phương đáp: “Phải về chứ. Đi xa nhớ mẹ sao chịu nổi”. Nhân thẹn thùng liếc Phương một cái. “Mày không nhớ ai nữa hả Phương?”. Thằng Phương không trả lời. Nó di di hòn đá xuống đất một hồi lâu, cảm nhận bóng mát êm dịu ngập hồn. Nó nháy mắt tinh nghịch: “Có chứ. Tao nhớ bốn con mèo, nhớ cả bà ném đá nữa”. Nhân trông về hướng tay thằng Phương, thấy bà ném đá đang ngồi đung đưa võng, vẫn đan đan móc móc. Bà nhìn tụi nó, cười hiền hiền. Thằng Nhân lại đảo mắt xuống chân bà, đầy những viên đá đen thô kệch. Viên nào viên nấy bự cỡ quả đấm. Bất giác nó đưa tay lên gáy xoa xoa vết sẹo, định bụng hét thật to... Dòng sông thời gian ___ gome ___ Phía trước là con sông đang chảy cuồn cuộn, Linh vẫn bước, dường như nó chẳng để ý tới dòng sông đang bắt đầu nuốt lấy nó, nó còn đang mải suy nghĩ... *** Lúc be bé, Linh vẫn còn nhớ như in cái câu người làng bảo nó “Thằng này mai mốt rồi thì cũng giống Chí Phèo mà thôi”. Còn nhỏ, nó chưa hiểu Chí Phèo là ai, nó chỉ nghe bố mẹ nuôi kể lại là nó được nhặt ở lò gạch đầu làng, gần bãi ngô bên cạnh sông. Bố mẹ nuôi nó - ông bà giáo nghèo hiếmmuộn tìm ra được nó như bắt được cục vàng. Bố mẹ Linh từng suốt ngày đi hết chùa này tới đền kia để cầu mong sinh được một mụn con nhưng tới cái tuổi mà người ta mong có cháu rồi họ vẫn chưa có nổi một đứa bé để gọi một tiếng cha, tiếng mẹ. Mang đứa bé về nhà và ủ ấm, ông giáo đặt ngay tên nó là Linh thay lời cảm ơn đến ông trời đã gửi nó tới họ. Lớn lên chút nữa thì Linh có vẻ chẳng giống Chí Phèo tẹo nào. Nếu Chí Phèo phải sống cảnh nghèo hèn thì nó ngược lại, năm Linh lên bốn, bố nó thương tình mua một tờ vé số cho con bé rách rưới đầu làng và trúng giải độc đắc. Bố mẹ nó có tiền và cũng biết đầu tư vào bất động sản.Tiền đẻ tiền, Linh bỗng dưng thành cậu ấm. Sống trong sự chiều chuộng của bố mẹ, Linh lớn lên với da trắng, môi đỏ, đôi mắt thì lay láy rất thông minh. Bọn trẻ con trong làng gọi nó là Bạch Tuyết, còn ở lớp lũ bạn trêu đùa là chị Linh vì nó hiền và khá nữ tính. Linh học giỏi lắm nên lũ bạn cũng nể phục nó và không dám trêu nó nhiều! Việc Linh học trường chuyên những năm cấp III rồi vào Đại Học Ngoại Thương cũng là điều không lạ. Ngay từ những năm cấp III, nó cố sửa đổi, trông manly(1) hơn và khá thu hút. Ấy thế nhưng Linh vẫn không hề có người yêu. Linh thông minh để tìm hiểu và nhận ra giới tính thực sự của nó là gì. Đời nó rồi cũng khổ như đời Chí Phèo ư? *** Nước sông mùa này đục ngầu, dường như dòng sông đang giận dữ đòi một ai đó bầu bạn...Linh cũng nhận ra màu nước ấy, màu đục ấy giống ánh mắt tức giận của anh khi nhìn nó... - Sao em lại có thể làm như thế? Linh ôm mặt sau cái tát như trời giáng của người mà nó yêu, khẽ trả lời: - Em...Anh có thể nói em như thế ư? Em...không thể sống thiếu anh được!!! Vì anh nó đã thay đổi rất nhiều. Trước đây nó hiền như cục đất, ấy vậy mà nó đã làm gì thế. Một đứa như nó lại dám sấn vào một thằng nhóc kém nó 1 tuổi và đánh cho máu me be bét thậm chí còn