🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Google – Câu Chuyện Thần Kỳ
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
GOOGLE CÂU CHUYỆN THẦN KỲ
LỜI TỰA
LỜI GIỚI THIỆU
CHƯƠNG 1. Quan tâm tới điều không thể CHƯƠNG 2. Larry gặp Sergey
CHƯƠNG 3. Tập đếm
CHƯƠNG 4. Gia vị bí mật
CHƯƠNG 5. Chia nhỏ và chinh phục
CHƯƠNG 6. Lễ hội Burning Man
CHƯƠNG 7. Danny Sullivan xuất hiện CHƯƠNG 8. Bước khởi đầu hoàn hảo CHƯƠNG 9. Bộ ba được hình thành
CHƯƠNG 10. Bạn đã có Google
CHƯƠNG 11. Nền kinh tế Google
CHƯƠNG 12 . Và vào ngày thứ Năm… CHƯƠNG 13. Google toàn cầu
CHƯƠNG 14. Cá tháng Tư
CHƯƠNG 15. Anh chàng Porn Cookie CHƯƠNG 16. Cổ phần hóa
CHƯƠNG 17. Những chàng trai thích chơi ngông CHƯƠNG 18. Cung điện của Charlie
CHƯƠNG 19. Cuộc chạy đua không gian CHƯƠNG 20. Vụ tranh chấp pháp lý
CHƯƠNG 21. Thư viện ảo
CHƯƠNG 22. Những cú nhấp chuột bịp bợm CHƯƠNG 23. Công kích Microsoft
CHƯƠNG 24. Cỗ máy kiếm tiền
CHƯƠNG 25. Hội chứng Trung Quốc
CHƯƠNG 26. Nghiên cứu về lĩnh vực di truyền học PHỤ LỤC I
PHỤ LỤC II
PHỤ LỤC III
CHÚ THÍCH VỀ CÁC NGUỒN TƯ LIỆU
LỜI CẢM ƠN
DAVID A. VISE & MARK MALSEED
GOOGLE CÂU CHUYỆN THẦN KỲ
LỜI TỰA
Tất cả những ai sử dụng Internet hẳn đều biết tới Google cũng như hiểu được giá trị và sự hữu ích mà những gì trang web này mang lại. Có thể nói Google là công cụ tìm kiếm thông tin hoàn hảo nhất hiện nay trên mạng Internet.
Google, một công ty kỳ lạ, một thứ văn hóa kỳ lạ, cách kiếm tiền kỳ lạ, trở nên giàu có nhanh chóng nhờ tư duy và trí tuệ của hai chàng trai trẻ cũng thật sự là kỳ lạ. Tất cả những điều đó lần đầu tiên được lý giải toàn bộ và cực kỳ chi tiết trong cuốn sách này: Google - Câu chuyện thần kỳ. Đó là câu chuyện về sự thành công thực sự kỳ khôi của hai chàng trai trẻ Larry Page và Sergey Brin - những người sáng lập giàu tham vọng của Google - chỉ với bàn tay và khối óc của mình, trong vỏn vẹn có 6 năm (từ năm 1998 - năm thành lập Google đến năm 2004 - năm Google phát hành cổ phiếu lần đầu trên thị trường chứng khoán Mỹ) đã trở thành tỷ phú. Rất nhiều người cộng tác với Công ty Google từ thuở ban đầu cũng đã trở thành những tỷ phú, triệu phú của nước Mỹ.
Thành công của Google là thành công kỳ diệu của những ý tưởng và sự sáng tạo mà con người có thể mang lại. Larry Page và Sergey Brin từ lâu đã tuyên bố sứ mệnh của Google là “sắp xếp và quản lý thông tin toàn cầu”. Những người sáng lập Google rất tâm đắc với thành ngữ: “Hãy quan tâm tới điều không thể, hãy thử làm những gì mà hầu hết mọi người chưa nghĩ tới”. Tham vọng của Larry Page và Sergey Brin rất lớn, khi đã rất thành công với Google họ vẫn nghĩ đó mới chỉ là bắt đầu, đó mới chỉ là thành tựu nhỏ trên chặng đường họ hy vọng đạt được trong những năm tới. Linh hồn của Google là khả năng luôn luôn sáng tạo và - việc duy trì sự sáng tạo đồng nghĩa với sự lớn mạnh của Google mà một trong những đặc điểm văn hóa ở Google là dành cho nhân viên 20% quỹ thời gian làm việc để khám phá, theo đuổi những ý tưởng mà nhân viên quan tâm nhất.
Thành công của Google là thành công thần kỳ của sự kết hợp giữa những con người, giữa những cá tính: Brin thuộc típ người ưa giải quyết khó khăn, hài hước và rất biết thương thuyết, còn Page là người suy nghĩ chín chắn và rất giỏi trong việc tìm cách giảm chi phí. Eric Schmidt - sau khi gia nhập Google - đã hoàn thành tốt công việc của ông là biến tầm nhìn rộng của Brin và Page thành khuôn khổ hành động và đã điều hành hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận tốt nhất cho công ty.
Thành công của Google là thành công thần kỳ của một công ty không theo khuôn mẫu truyền
thống (và không có ý định trở thành kiểu công ty truyền thống) với văn hoá công ty độc đáo. Ở Google có sự kết hợp giữa những mục tiêu dài hạn với trí tuệ, năng lực máy tính để đạt tới sự kết hợp hoàn hảo giữa phần cứng và phần mềm ở một quy mô lớn. Bếp ăn của các nhân viên công ty cũng đã trở thành huyền thoại và là một giá trị, một phần của văn hoá Google.
Thành công của Google là thành công thần kỳ của cách quản lý: kết quả Google đạt được phụ thuộc rất nhiều vào sự quản lý trực tiếp của hai sáng lập viên Brin và Page. Hai chàng trai Google đã hết sức khéo léo trong phát triển công ty, họ đã đề ra chiến lược thu hút đầu tư khôn ngoan để vừa có được tiền xây dựng công cụ tìm kiếm mà họ đam mê, vừa giữ được quyền kiểm soát công ty. Brin và Page cũng đưa ra những chính sách thiên tài trong quảng cáo, ký kết hợp đồng với đối tác chiến lược và thu hút nhân lực cho Google.
Thành công của Google là thành công thần kỳ của đầu tư: từ tấm séc 100.000 đô la Bechtolsheim đưa để Google mua máy tính, cộng với số tiền Brin và Page huy động được từ gia đình và bạn bè đến số tiền 25 triệu đô la do hai công ty tài chính Kleiner Perkins và Sequoia Capital đầu tư... Tất cả đã được đền đáp xứng đáng khi Google niêm yết giá cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán, ngay từ khi bán cổ phiếu ban đầu đã thu được 2 tỷ đô la và hiện nay giá trị công ty đã lên đến gần 80 tỷ đô la.
Thành công của Google là thành công của một thương hiệu: cái tên Google đã trở thành một động từ trong nhiều thứ tiếng để chỉ sự tìm kiếm và đó là bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của Google tới nền văn hoá toàn cầu.
Còn rất nhiều điều liên quan đến thành công thần kỳ của Google: về cách đặt vấn đề, cách làm việc, cách xử lý tình huống, xử lý tranh chấp... và tất cả những điều thần kỳ đó được trình bày chi tiết trong cuốn sách Google - Câu chuyện thần kỳ. Những định hướng tương lai của Google như số hoá thư viện và nghiên cứu về lĩnh vực di truyền học... cũng được đề cập giúp người đọc hình dung về những diễn biến tiếp theo của câu chuyên thần kỳ mang tên Google.
* * *
Với dân số trên 80 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, Việt Nam hiện nay đang trên con đường trở thành một thị trường lớn cho công nghệ thông tin và sẽ còn trở thành một thị trường lớn mạnh hơn nữa. Đó là lý do cả Yahoo! và Google đều đang cấp tập tung ra các dịch vụ bằng tiếng Việt với mục tiêu thu hút người Việt Nam sử dụng. Cho đến nay, Google đã tung ra sản phẩm nhằm vào thị trường Việt Nam và đã đánh bại các công cụ tìm kiếm khác do các công ty Việt Nam tạo dựng. Với ưu thế có đến 138 trang chủ với tên miền quốc gia (phiên bản
Google Việt Nam là www.google.com.vn), hỗ trợ hơn 100 thứ tiếng, Google đã nhanh chóng bản địa hoá phần quảng cáo trên phiên bản tiếng Việt. Nhiều tiện ích khác như công cụ tìm kiếm, các danh mục website tiếng Việt… cũng được Google liên tục cập nhật, nâng cấp.
Việc đầu tư nhân sự cho các dự án tiếng Việt của Google cũng ráo riết hơn. Trước đây, Google chỉ chuyển ngữ bằng cách huy động tình nguyện viên để dịch trang Google sang tiếng Việt. Gần đây, Google đã thuê hẳn nhiều biên dịch viên làm thời vụ để chuyển ngữ các dịch vụ của Google sang tiếng Việt, đặc biệt là phần cung cấp dịch vụ quảng cáo.
Tuy nhiên, Google cũng phải đối mặt với thách thức từ nhiều đối thủ cạnh trạnh, trong đó nguy hiểm nhất là Microsoft. Tháng 5 vừa qua, hai trang tìm kiếm của Amazon là Alexa và A9 đã bắt đầu bỏ rơi Google, chuyển sang sử dụng công cụ tìm kiếm Windows Live mới của Microsoft ngay sau khi hợp đồng với Google hết hạn. Mặc dù Thung lũng Silicon đánh giá Google là một gã khổng lồ, song nếu đem so doanh thu 6,14 tỷ đô la của hãng với doanh thu 39,79 tỷ đô la của Microsoft thì Google vẫn cứ là một “chú lùn” bé nhỏ.
Đối phó lại với các thách thức này, một loạt các dịch vụ khác cũng đang được Google chuẩn bị tung ra, như giúp người dùng tìm kiếm và tải về miễn phí những bản in được của các cuốn tiểu thuyết kinh điển bằng file PDF như Địa ngục của Dante hay Truyện ngụ ngôn Ê-dốp, và rất nhiều các cuốn sách khác hết thời hạn bản quyền.
Mới đây, Google cũng đã mua lại YouTuBe - một trong những hiện tượng của thế giới Internet trong năm 2006 - với giá 1,65 tỷ đô la, bất chấp rắc rối về bản quyền mà website này đang phải đối mặt. Đây là hợp đồng có giá trị nhất của Google kể từ khi thành lập. Quá trình sáp nhập sẽ kết thúc vào quý IV/2006 và hiện nay, YouTube hiện chiếm 45% thị trường chia sẻ video trực tuyến với 65.000 clip mới được tải lên mỗi ngày và 20 triệu khách ghé thăm hàng tháng.
Sau vụ YouTube, Google lại dấn thêm một bước trong việc khẳng định vị thế và tham vọng của hãng khi tìm cách hất cẳng bộ ứng dụng văn phòng Office nổi danh của Microsoft. Kể từ 10/10/2006, bất cứ ai cũng có thể tải và dùng phần mềm xử lý văn bản cùng bảng tính Google hoàn toàn miễn phí - đánh dấu nỗ lực xâm chiếm của Google sang “sân nhà” của Microsoft.
Gói phần mềm miễn phí của Google kết hợp giữa ứng dụng bảng tính mà Google từng giới thiệu từ hồi tháng 6 với chương trình xử lý văn bản có tên Writely, được Google mua lại hồi tháng 3 vừa qua, và đổi tên là Google Docs và Spreedsheets. Đó là một hoạt động trong nhiều nỗ lực và tham vọng xây dựng một dải ứng dụng phần mềm sống ký gửi trên mạng Internet, thay vì dựa vào ổ cứng máy tính như truyền thống của Google. Nếu dự án này thành công,
chúng ta sẽ có khả năng làm việc với cùng một tài liệu tại các địa điểm khác nhau (máy tính gia đình, máy tính công sở hoặc máy tính xách tay trên từng cây số).
Mới đây, trên sàn Nasdaq, trong các giao dịch nóng vào thời điểm kết thúc phiên giao dịch ngày 23/10/2006, cổ phiếu của Google đạt 484,644 đô la - mức cao nhất từ trước tới nay. Ngay sau khi doanh thu của Google được công bố, giới phân tích đã nâng giá cổ phiếu dự tính của Google lên 500 đô la, thậm chí 600 đô la. Đó cũng thực sự là một điều thần kỳ!
* * *
Google - Câu chuyện thần kỳ thực sự là một câu chuyện kỳ diệu của thế kỷ XXI. Với các thông tin sống động, thông qua hàng trăm cuộc phỏng vấn, tham khảo hàng ngàn văn bản, tư liệu, các tác giả David A. Vise và Mark Malseed đã viết nên cuốn sách về lịch sử hình thành và phát triển của Google.
Qua câu chuyện về Google, từ những sinh viên đến những nhà quản lý, nhà đầu tư… mỗi người có thể rút ra bài học bổ ích cho mình. Xa hơn nữa, có thể thấy cuốn sách như một hình mẫu, như một nguồn năng lượng, như một động lực khuyến khích và thôi thúc chúng ta hành động và hướng tới thành công.
Với mong muốn cung cấp những hình mẫu về con đường và phát triển của các tập đoàn hùng mạnh nhất thế giới, tiếp sau những cuốn sách như Con người phi thường và cỗ máy IBM, Đường lối lãnh đạo HP, Cuộc cách mạng NOKIA, Chế tạo tại Nhật Bản… và tới đây là Inside Intel: Andy Grove và việc xây dựng công ty sản xuất chip lớn nhất thế giới thuộc tủ sách Alpha Biz/Gương doanh nhân và Tập đoàn, Alpha Books sẽ cung cấp những kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo và chiến lược xây dựng và phát triển của những tập đoàn này cho các doanh nhân và những nhà nghiên cứu, những bạn trẻ mong ước tạo dựng một sự nghiệp cho mình.
Đó sẽ là những cuốn sách, những nguồn tri thức thực sự hữu ích giúp tất cả chúng ta. Xin trân trọng giới thiệu với các độc giả.
TS. PHẠM TRÍ HÙNG
TRUNG TÂM HỢP TÁC TRÍ TUỆ VIỆT NAM (VICC)
LỜI GIỚI THIỆU
Không kể tới phát minh ra máy in cách đây hơn 500 năm, giúp sách vở dễ dàng tới với con người, không một phát minh mới nào hỗ trợ cá nhân và phương tiện chuyển đổi thông tin toàn diện như Google. Với lôgô màu sắc sặc sỡ nổi trên phông nền trắng, khả năng diệu kỳ của Google đáp ứng mọi thắc mắc của con người hàng trăm triệu lần mỗi ngày đã làm thay đổi phương thức tìm kiếm và cập nhật thông tin. Google đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi ngày, hàng triệu người sử dụng Google với trên 100 ngôn ngữ khác nhau và thậm chí, họ đồng nhất Google với mạng Internet. Bạn cần có thông tin ngay lập tức về bất kỳ lĩnh vực nào đó, chỉ cần thao tác “googling” (“nhập đoạn thông tin cần tìm”) trên máy tính hay qua điện thoại di động, bạn sẽ được thỏa mãn. Bất kỳ ai trong chúng ta, không kể tuổi tác hay giới tính, đều trở nên quá lệ thuộc vào Google đến nỗi ta không thể tưởng tượng được cuộc sống sẽ ra sao nếu không có công cụ này.
Tính năng ưu việt cộng với những “phẩm chất nhân bản” của Google đã tạo ra sức hấp dẫn với hầu hết những người sử dụng máy tính, từ những chuyên gia tới những người mới làm quen, những người tin tưởng vào Google - nhãn hiệu đã ăn sâu vào tâm trí họ. Đó là sức hấp dẫn toàn cầu, giúp Google vượt qua rào cản về văn hóa, ngôn ngữ và địa lý để trở thành sở thích chung trên toàn thế giới. Đối với một công ty còn non trẻ không đầu tư tiền bạc vào quảng cáo và nâng cao nhãn hiệu của mình, đó quả thật là những thành tựu tuyệt vời. Sự lớn mạnh của Google hoàn toàn chỉ dựa vào những lời truyền miệng, bởi những người sử dụng công cụ này rất hài lòng và giới thiệu cho bạn bè và người khác, chỉ cần thông qua một phương tiện truyền thông nối mạng. Chẳng có hãng marketing nào trên Đại lộ Mandison làm công tác quảng bá cho Google. Thay vào đó, mọi người cảm thấy gắn bó khó tả với công cụ tìm kiếm này, họ nghĩ tới nó bất cứ khi nào họ muốn thỏa mãn mối quan tâm hay tò mò của mình. Trong một thế giới không có gì đảm bảo này, Google cung cấp thông tin miễn phí và đáng tin cậy cho người tìm kiếm. Google hấp dẫn được mọi người bởi nó đáp ứng ngay lập tức mong muốn xuất hiện trong đầu họ.
Hầu hết những người sử dụng Google đều không biết công cụ tìm kiếm này được tạo lập thế nào, cái gì mang lại lợi nhuận và giá trị cho Google, tại sao Google đánh bại được những đối thủ nặng ký hơn, hay định hướng tương lai của Google là gì. Trong cuốn sách này, lần đầu tiên chúng tôi sẽ giải đáp tất cả những câu hỏi đó. Mãi cho tới bây giờ, hầu hết các câu trả lời vẫn chưa được tiết lộ, vẫn được giấu kín trong nội bộ Googleplex, công ty của kỷ nguyên không
gian Thung lũng Silicon.
John Hennessy, một kỹ sư tin học hàng đầu, hiệu trưởng trường Đại học Stanford, và là thành viên hội đồng quản trị Google, cho rằng công ty này độc đáo trong thế giới ngày nay - một thế giới bao gồm các công ty phần cứng và công ty phần mềm phức tạp đi theo hai hướng khác nhau bởi công ty này dẫn đầu ở cả hai lĩnh vực. Để tạo sức mạnh cho việc tìm kiếm và các dịch vụ liên quan tới tìm kiếm, Google đã đăng ký bằng sáng chế, thiết kế riêng các chương trình cho hàng trăm nghìn chiếc máy được chế tạo riêng biệt. Sự kết hợp tối ưu của một công ty sáng tạo hàng đầu thế giới đã đồng thời tạo ra những kết quả tìm kiếm tuyệt hảo. Không một từ tiếng Anh nào có thể diễn tả sự kết hợp hoàn hảo giữa phần cứng và phần mềm ở một quy mô lớn như vậy, do đó chúng tôi đặt tên cho nó là Googleware.
Hennessy cho biết lợi thế về công nghệ quan trọng nhất giúp Google ưu việt hơn các đối thủ khác đó là các nhân viên đã tập hợp và tuỳ biến tất cả các máy tính cá nhân công ty sử dụng để tiến hành tìm kiếm. Đây có lẽ là bí mật quan trọng nhất của Google. Thông thường, các chuyên gia coi máy tính cá nhân là hàng hóa tiêu dùng, chỉ như cái máy nướng bánh, nhưng Google tập hợp, triển khai và liên tục cải tiến năng lực làm việc của hơn 100.000 chiếc máy vi tính rẻ tiền. Google xây dựng và xếp chúng lên nhau trên các ngăn có kích cỡ như tủ lạnh, nối chúng lại với nhau bằng phần mềm đã được cấp bằng sáng chế và hệ thống dây điện. Không một công ty nào có năng lực máy tính mạnh hơn Google với một mạng lưới gồm đủ các loại máy tính khác nhau.
“Đó là hệ thống máy tính lớn nhất thế giới. Tôi không nghĩ có hệ thống nào thậm chí chỉ gần bằng Google”, Hennessy nhận xét.
Trong thời kỳ chuyên môn hóa lao động này, Google đã bí mật tập hợp từng chiếc máy tính vào mạng lưới khổng lồ của mình bên trong bảo toàn những trang thiết bị mà người ngoài không thể xâm nhập, kể cả khách tới thăm Googleplex, cứ tưởng rằng họ đã thấy được toàn bộ. Google có khả năng làm được điều này là bởi Google hoạt động trên quy mô lớn nên chi phí trên từng đơn vị sản phẩm thấp và chất lượng tốt hơn mua máy tính cá nhân thiết kế riêng từ nhà sản xuất khác. Khi cùng nhau hoạt động, những chiếc máy tính khác biệt này nhanh chóng tìm kiếm bằng cách phân tách các yêu cầu thành những đơn vị nhỏ hơn. Những phần này được xử lý đồng thời bằng cách so sánh chúng với những tài liệu trên mạng Internet đã được lập bảng và sắp xếp từ trước.
Với đầy đủ các dữ liệu được xây dựng trong hệ thống, Google có khả năng bỏ đi ngày càng nhiều máy tính mỗi ngày, mà vẫn nhanh chóng có kết quả tìm kiếm mà máy móc không trục trặc - và không cần phải có tác động của con người - thậm chí cả khi một số máy tính đã quá cũ
và không thể thay thế. Thay vào đó, các máy tính khác sẽ đảm nhiệm chức năng của những máy tính đó. Theo lời ông Hennessy, không một mạng lưới máy tính công cộng hay tư nhân nào trên thế giới có thể so sánh được với hệ thống này.
Ông cho biết: “Họ nhận thức được rằng nếu họ giải quyết tốt vấn đề phần cứng thì đó sẽ là một lợi thế cạnh tranh cho công ty. Phần cứng là yếu tố chủ chốt để thực hiện việc tìm kiếm hiệu quả. Do họ phải thay một lượng máy tính lớn nên nếu họ tự sản xuất thì sẽ hiệu quả hơn. Đó là lý do tại sao cho ra đời công cụ tìm kiếm có tính cạnh tranh cao như Google lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn mọi người nghĩ rất nhiều.”
Nhờ có những lời quảng cáo nhỏ nhưng độ tập trung cao, người tìm kiếm nhắp chuột vào để tìm kiếm thông tin, cách đây vài năm công cụ tìm kiếm Google đã trở thành cái máy kiếm tiền. Đó là thời điểm khi Google chưa niêm yết trên sàn chứng khoán, chỉ có những nhà đầu tư chính ban đầu cùng nhân viên biết tới còn người ngoài không hề hay biết. Nhưng từ khi Google lớn mạnh nhanh chóng bất ngờ, mọi người biết được Google thu được hàng tỷ đô la lợi nhuận, ngày càng nhiều nhà đầu tư nhận thấy sự sáng giá của Google nên cố chen chân sở hữu một phần Google. Ngày 19 tháng 8 năm 2004, Google đã niêm yết giá trên sàn chứng khoán với con số ban đầu bán ra là 85 đô la một cổ phiếu, một hiện tượng chưa từng có, nâng số vốn đầu tư lên gần 2 tỷ đô la, trở thành công ty công nghệ thu được lượng IPO (số tiền thu được nhờ bán cổ phiếu của công ty ban đầu) lớn nhất từ trước tới nay. Không đầy một năm, giá cổ phiếu Google đã tăng vọt lên tới hơn 300 đô la một cổ phiếu; đưa công ty này trở thành công ty tài chính và công nghệ không có đối thủ. Bảy năm kể từ ngày thành lập Google năm 1998, giá trị cổ phiếu của Microsoft không hề tăng lên. Trong khi đó, cổ phiếu của Google đã tăng giá trị lên tới hơn 80 tỷ đô la.
Nếu bạn lỡ mất cơ hội đầu tư vào món hời này, hãy nhớ rằng nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này cũng vậy. Trường Đại học Stanford đã gõ cửa chào mời các công ty đầu tư Blue-chip, Yahoo!, Alta Vista, và rất nhiều các công ty chuyên về công cụ tìm kiếm và công nghệ nhưng họ đều không muốn mua hệ thống tìm kiếm của Google với giá một triệu đô la. Việc họ từ chối đã khiến hai nghiên cứu sinh trường Stanford là Sergey Brin và Larry Page bất đắc dĩ phải nghỉ học và tự mình lập công ty. Cho tới mùa hè năm 2005, mỗi sáng lập viên đã có tiền lãi trị giá hơn 10 triệu đô la.
Hennessy nhớ lại lần đầu tiên khi một giáo sư trường Stanford trình bày ý tưởng Google với ông vào giữa những năm 1990. Cũng giống Brin và Page, Hennessy rất khó chịu khi sử dụng Alta Vista, công cụ tìm kiếm tốt nhất thời bấy giờ. Mặc dù Alta Vista tìm kiếm thông tin rất tốt
trên Internet nhưng sắp xếp kết quả tìm kiếm lại rất tệ. Hennessy nhớ rằng ông đã từng nghe nói về những người phát minh ra một công cụ tìm kiếm trong trường Stanford, họ đã tìm ra cách giúp người sử dụng có được những kết quả quan trọng nhất chỉ trong nháy mắt nhờ vào một công thức toán học mới được gọi là PageRank (sắp xếp các trang).
Là một kỹ sư tin học nổi tiếng, ông tự đánh tên mình vào công cụ tìm kiếm Google, thử xem chuyện gì sẽ xảy ra. “Điều đầu tiên tôi nhận được là trường Đại học Stanford. Các công cụ tìm kiếm khác không làm được điều này”, ông cho biết.
Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ giải thích các chiến lược kinh doanh và khẩu hiệu của công ty “Đừng trở thành quỷ dữ” mà Google áp dụng trên con đường xây dựng một đội ngũ nòng cốt các nhà quảng cáo và các trang web có liên hệ chặt chẽ với công cụ tìm kiếm. Những công ty Google “con” này, có tới hàng trăm ngàn, đều có lợi ích về tài chính trong việc tiếp tục phát triển và thành công của công cụ tìm kiếm này. Chúng tôi đã đặt tên cho mạng lưới phát triển mạnh mẽ và tự củng cố này là “Nền Kinh tế Google”, và nó đã thúc đẩy công cụ tìm kiếm Google phát triển lên gấp bảy lần chỉ trong năm Google niêm yết trên sàn giao dịch. Chừng nào Internet còn phát triển thì chừng đó Nền Kinh tế Google còn tiếp tục phát triển.
Tự bản thân Google sinh ra là để tồn tại và phát triển, nhờ có mối tương quan từ trong trứng nước với mạng truyền thông đại chúng Internet, và ngày càng nhiều công ty quảng cáo trên truyền hình và báo chí muốn nhảy vào thế giới mạng. Lý do thật đơn giản. Google phát hiện ra cách quảng cáo thế nào cho hiệu quả trên mạng bằng cách nhằm mục tiêu vào từng cá nhân khi họ cần nó nhất: khi họ tìm kiếm thông tin.
Thành công của Google phụ thuộc vào sự quản lý trực tiếp và liên tục của hai đồng sáng lập viên Brin và Page. Googleware và hệ thống quảng cáo hái ra tiền Google phản ánh óc thiên tài và tầm nhìn xa của họ. Tiến lên phía trước, đó là mục tiêu của các sáng lập viên, tài lãnh đạo và hoài bão lớn là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công về lâu dài của Google. Có những yếu tố đó trong tay, Google mãi luôn là công cụ tìm kiếm thông dụng đối với con người, cả về mặt điện tử lẫn tinh thần. Tuy nhiên, sự nghi ngờ rằng Google ngày càng mạnh, không thể kiếm soát được bởi Google ngày càng mở rộng và ghi lại hành vi trên mạng của chúng ta, lúc đó sẽ cần có luật liên bang. Một vấn đề nữa là lợi nhuận Google có được từ những cái nhắp chuột không trung thực trên các dòng quảng cáo, đây là một thách thức chưa được kiểm soát.
Brin và Page đã cùng nhau tạo nên Google, đem cho lại sinh khí để Google tương tác với hàng trăm triệu người truy cập mỗi ngày. Đó luôn là động lực thúc đẩy các nhà toán học, kỹ sư và chuyên gia công nghệ tài năng tại Googleplex, họ phải đối mặt giải quyết với những vấn đề
ngày càng hóc búa. Họ nỗ lực hết mình đưa những sản phẩm này tới người sử dụng trước khi chúng trở nên hoàn hảo, đây là phương pháp thúc đẩy luôn có sự đổi mới bằng cách cung cấp những thông tin phản hồi để loại bỏ những khiếm khuyết.
Sử dụng Google hoàn toàn miễn phí, hàng tỷ đô la lợi nhuận của Google là một sản phẩm phụ được tạo ra từ nỗ lực đổi mới của công ty, chứ không chỉ là thước đo thành công nội bộ hay quyết định một dự án có đáng nghiên cứu hay không. Không giống các công ty khác, khi các lãnh đạo cùng các giám đốc sản xuất cố gắng nghĩ cách kiếm tiền rồi sau đó tạo ra sản phẩm, Google lại là nơi đầu tiên các chuyên gia công nghệ nghĩ ra cách giải quyết vấn đề; sau đó, nếu có, họ quan tâm tới việc làm thế nào để kiếm tiền từ đó. Đội ngũ kỹ sư nhiệt huyết được khuyến khích sáng tạo, nghĩ ra những ý tưởng hoàn toàn mới giúp công cụ tìm kiếm nhanh hơn và hiệu quả hơn. Lý do tại sao công ty này không cần tới marketing là văn hóa Google thúc đẩy việc tập trung nhanh chóng vào việc phục vụ lợi ích cao nhất của người sử dụng. Ngược lại, họ sẽ trở thành những người ủng hộ trung thành nhất.
Trước mắt, Google không cố sức tìm cách kiếm tiền. Ví dụ điển hình nhất là trang chủ của Google, được xem là mảnh đất màu mỡ nhất trên Internet. Thử lướt qua www.google.com, bạn sẽ thấy Google không hề quảng cáo trên trang này, bỏ qua hàng chục triệu đô la lợi nhuận để đem đến cho người sử dụng một công cụ tìm kiếm chất lượng tốt hơn.
Linh hồn của Google là luôn sáng tạo, đây là chủ đề quan trọng nhất được bàn luận tại hầu hết các buổi họp hội đồng quản trị của công ty. Đối với Brin và Page, duy trì sự sáng tạo đồng nghĩa với sự lớn mạnh của Google - đó là thách thức lớn nhất đối với họ, bởi sáng tạo là thứ công ty theo đuổi hơn những thứ khác và luôn dẫn đầu. Hai sáng lập viên của Google luôn ý thức được rằng ở đâu đó, ai đó đang cố gắng tìm cách hay hơn, nhanh hơn Google. Duy trì sáng tạo và tốc độ phát triển mạnh mẽ là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp đối với những doanh nghiệp trẻ hứa hẹn nhiều tiềm năng.
Khi sản phẩm ra đời, Brin và Page tiến hành theo cách vừa học vừa làm từ kinh nghiệm thực tiễn, cố gắng giới thiệu những đặc điểm mới và đưa ra những chào giá chiến lược. Một vài thay đổi rất dễ nhận thấy; một số khác không trực diện khó nhận ra, giúp người sử dụng có kết quả tìm kiếm nhanh gọn và hiệu quả hơn. Các sáng lập viên không có nhiều thời gian tập trung vào các vấn đề liên quan tới người sử dụng gặp phải, do đó đồng nghiệp của họ, giám đốc điều hành, Eric Schmidt, giải quyết các vấn đề kinh doanh của công ty. Việc này giúp họ tập trung toàn bộ công sức vào chuyên môn của mình. Tuy nhiên, bộ ba chóp bu này tham gia vào cả công việc kinh doanh và phát triển sản phẩm chính. Hóa ra, Brin lại là người rất biết thương
thuyết còn Page rất giỏi trong việc tìm cách giảm chi phí, đáng kể nhất trong việc sử dụng điện năng chạy và làm mát các máy tính của Google.
Tại Google, mọi người thích làm việc theo nhóm ba người, mỗi nhân viên được định mức dành 20% thời gian để khám phá những ý tưởng họ quan tâm nhất. Họ tiếp thu khái niệm “20% thời gian” từ tầng lớp trí thức; các giáo sư thường dành một ngày để theo đuổi những sở thích cá nhân. Vì công ty thiếu các giám đốc bậc trung, cấu trúc cấp bậc theo kiểu công ty truyền thống không được áp dụng. Không những vậy, không công ty nào có được sự kết hợp như Google, trí tuệ, năng lực máy tính to lớn, cộng với mục tiêu dài hạn, đã đưa Google lên tới tầm cao của riêng mình. Giờ đây, các công ty khác đang gặp khó khăn khi cạnh tranh với Google về vấn đề nhân sự.
Hoạt động tại trung tâm của mạng Internet, Google là nơi tập trung các kỹ sư giỏi và sáng giá nhất trên toàn thế giới tới đây làm việc. Họ tới từ các trường đại học, NASA, Bell Labs, Microsoft và những nơi khác để làm việc tại nơi năng động giống khuôn viên một trường đại học hơn là cấu trúc một công ty đầu não kinh doanh truyền thống. Do giá cổ phiếu của công ty tăng vọt kể từ lần đầu niêm yết giá đã thu hút được sự chú ý của toàn thế giới, việc này hỗ trợ rất nhiều cho việc tuyển dụng.
Các phương tiện truyền thông khổng lồ chú ý tới Google trở thành chức năng quảng bá công cụ tìm kiếm này, vị trí của Google trong hệ tư tưởng của thời đại, các nhà báo và biên tập viên sử dụng công cụ này rất nhiều trong công việc hàng ngày của họ. Google đã đồng nghĩa với nghĩa tìm kiếm. Tên của công ty trở thành một động từ trong tiếng Anh, tiếng Đức và các ngôn ngữ khác là bằng chứng rõ nét cho thấy sức ảnh hưởng của Google tới nền văn hóa toàn cầu.
Tiềm năng của Google mạnh hơn tất cả các công ty có tiếng trước đó. Qua các thập kỷ, hàng loạt các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã ồ ạt xuất hiện, đợt sau lại lớn hơn đợt trước. Hãng IBM và các máy tính trung tâm giải quyết vấn đề xử lý dữ liệu cho các công ty cách đây hàng thập kỷ. Sau đó, hãng Microsoft và Intel ra đời, hai hãng này đều có đóng góp rất lớn đối với máy tính cá nhân và giúp con người có nguồn năng lượng mới, thúc đẩy ngành công nghiệp máy tính cá nhân phát triển để thâm nhập sâu hơn và lợi nhuận cao hơn ngành công nghiệp máy tính trung tâm. Ngày nay, mạng Internet, trước đây là dự án của Bộ Quốc phòng, ngày càng phát triển, trở thành sự lựa chọn của tất cả mọi người, phải kể đến sự lớn mạnh của các công ty hàng đầu như Amazon, Yahoo, eBay và Google. Trong số các tên tuổi lớn này, không tên tuổi nào vượt lên trên Google, nhãn hiệu trên mạng mới duy nhất trong số các công ty hoạt động trên mạng trong thập kỷ qua. Giá cổ phiếu của công ty luôn chiếm được lòng tin của nhà đầu tư về tương
lai của mạng Internet và hình mẫu kinh doanh đặc trưng của Google được tạo ra để thu hút tiền quảng cáo.
Hai trong số những lĩnh vực hấp dẫn nhất Google cùng các sáng lập viên đang lặng lẽ nghiên cứu là lĩnh vực sinh học cấp phân tử và gen. Hàng triệu gen kết hợp với nhau tạo thành một núi số liệu sinh học và khoa học khổng lồ nhưng lại phù hợp tuyệt vời với công cụ tìm kiếm Google, cơ sở dữ liệu khổng lồ mà công ty nắm trong tay, cộng với năng lực máy tính vô song. Google đã tải xuống bản đồ gen cơ thể người và đang làm việc chặt chẽ với Tiến sĩ Craig Venter và các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực gen trong các dự án khoa học tạo ra những đột phá trong khoa học, y học và sức khỏe. Nói cách khác, chúng tôi hướng tới một thời điểm trong tương lai khi mọi người có thể tìm thấy bản đồ gen của chính mình trên Google.
Venter cho biết: “Đây là sự giao thoa cơ bản giữa công nghệ và y tế mà giúp được hàng triệu người. Họ có năng lực máy tính tốt hơn bất kỳ công ty nào. Quy mô họ tiến hành lớn hơn nhiều so với cơ sở dữ liệu bây giờ của chính phủ. Giúp mọi người hiểu được mã gen và mã dữ liệu là việc cần làm rộng rãi thông qua một dịch vụ như Google trong vòng một thập kỷ tới.”
Theo Brin và Page, Google không phải là một công ty theo mẫu truyền thống và không có ý định trở thành kiểu công ty như vậy. Brin nói: nếu Google là một con người, nó vào tiểu học ngày 19 tháng 8 năm 2004, ngày công ty niêm yết giá trên thị trường chứng khoán và tốt nghiệp lớp một vào mùa hè năm 2005. Google là một quá trình tiêu hóa hàng triệu cuốn sách từ các thư viện của Stanford, Harvard, Đại học Michigan, thư viện Công cộng New York và Oxford. Mục đích của Google là tải càng nhiều sách lên mạng càng tốt và giúp mọi người tìm kiếm thông tin, xóa bỏ những giới hạn hữu hình của các thư viện. Đây là một công việc đầy tham vọng và mang tính tích cực cao, nó đem lại kết quả về giáo dục và xã hội sâu sắc trên toàn thế giới.
Google và các sáng lập viên của mình đã đi một chặng đường dài. Tuy họ và công ty của mình vẫn còn rất trẻ - và đây mới chỉ là giai đoạn ban đầu.
CHƯƠNG 1. Quan tâm tới điều không thể
Sergey Brin và Larry Page bước vào hội trường trong tiếng hò reo hứng khởi của những thanh niên mới lớn thường làm khi chào đón những ngôi sao nhạc rock. Họ tiến vào hội trường từ lối cửa sau, bỏ lại sau lưng các tay săn ảnh, kính râm, hai chiếc xe thuê cùng tài xế và một người phụ nữ trẻ hấp dẫn đi cùng Sergey. Ăn mặc giản dị, họ ngồi xuống và cười rất tươi, vui mừng trước sự chào đón nồng nhiệt. Họ đang ở rất gần cái nôi của nền văn minh và cách xa nơi họ bắt đầu cùng nhau làm việc cả vạn dặm. Đây có vẻ như là một nơi rất tuyệt cho một cặp siêu sao, họ chia sẻ tham vọng thay đổi thế giới, kể lại những gì họ đã làm, họ đã làm thế nào và giấc mơ về tương lai của họ.
“Các bạn có biết câu chuyện của Google không? Các bạn có muốn tôi kể cho các bạn nghe không?”, Page hỏi.
“Có”, đám đông hô lớn.
Đó là vào tháng 9 năm 2003, hàng trăm sinh viên và cán bộ giảng dạy ở một trường cấp ba Isarel đã tham dự để được nghe những bộ óc toán học siêu việt, những nhà phát minh trẻ tuổi nói chuyện. Rất nhiều người trong số họ giống Brin, vì họ cũng xa rời gia đình mình ở Nga để tìm tới tự do. Và họ thấy ở Page lòng nhiệt tình từ khi Page tham gia vào bộ đội tạo nên công cụ thông tin mạnh mẽ và dễ sử dụng nhất trong thời đại của họ - một công cụ thay đổi như chớp đã lan truyền trên khắp thế giới. Giống như bọn trẻ chơi bóng rổ và mơ ước trở thành một Michael Jordan, những sinh viên này muốn giống như Sergey Brin và Larry Page một ngày nào đó.
Page mở đầu: “Google được thành lập khi Sergey và tôi đang làm tiến sĩ về tin học tại trường Đại học Stanford. Chúng tôi cũng không rõ chính xác chúng tôi muốn làm gì. Tôi có mỗi một ý tưởng điên rồ là tải tất cả những gì có trên mạng xuống máy tính của mình. Tôi nói với thầy hướng dẫn của mình rằng việc này chỉ mất một tuần. Tôi đã tải xuống được một phần những gì có trên mạng mất khoảng một năm gì đó.” Tất cả sinh viên đều cười lớn.
Page tiếp tục: “Lạc quan là điều rất quan trọng. Bạn phải hơi ngốc nghếch trong việc đặt ra mục tiêu. Có một thành ngữ tôi học được hồi đại học, đó là Hãy quan tâm tới điều không thể'. Đó là một thành ngữ hay. Bạn nên thử làm những gì mà hầu hết mọi người chưa nghĩ tới.”
Là người đề xướng ra việc giải quyết những vấn đề quan trọng và tìm kiếm các giải pháp
chuyển đổi, Brin và Page luôn sẵn sàng đối mặt với những gì tưởng chừng như không thể. Dù không lớn tuổi hơn đám đông sinh viên đứng trật dưới sân khấu là mấy, họ đã thực sự tạo được chỗ đứng cho riêng mình. Trong lịch sử phát minh và tư bản dày cộm của Hoa Kỳ, chưa có ai thành công nhanh chóng như họ. Thomas Edison phải mất nửa thế kỷ để phát minh ra bóng đèn; Alexander Graham Bell phải tốn rất nhiều năm để phát minh và cải tiến chiếc điện thoại; phải sau hàng chục thập kỷ làm việc miệt mài chăm chỉ, Henry Ford mới tạo ra được dây truyền lắp ráp hiện đại và biến nó thành nền công nghiệp đại sản xuất và tiêu dùng ô tô; còn Thomas Watson “con” đã phải làm việc rất vất vả nhiều năm cho tới khi IBM cho xuất xưởng chiếc máy tính hiện đại. Nhưng Brin và Page, chỉ trong vòng 5 năm, đã nhận dự án nghiên cứu tốt nghiệp và biến nó trở thành một doanh nghiệp toàn cầu trị giá hàng tỷ đô la. Dù ở Tel Aviv, Tokyo, Toronto hay Đài Loan, những chàng trai Google này đều nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt.
Hai chàng trai trẻ này đã làm thay đổi cuộc đời của hàng triệu người, giúp họ nhanh chóng tiếp cận thông tin ở bất kỳ lĩnh vực nào. Với trí thông minh tuyệt vời trong thời đại Internet, họ đã xây dựng nên một nhãn hiệu mới nổi tiếng nhất mà không cần quảng cáo tên tuổi. Hai doanh nhân sắc sảo này biết rằng thành công sẽ đến với họ do đó họ nắm toàn bộ quyền kiểm soát doanh nghiệp của mình và văn hóa riêng của nó. Page cảm thấy tiếc cho nhiều nhà phát minh qua đời mà chưa kịp chứng kiến thành quả lao động của mình. Để tránh không rơi vào tình trạng như vậy, anh và Brin biết cách làm sao để tận dụng những mối liên hệ cần thiết, có được vốn và những bộ óc thông minh, sử dụng nguồn lực máy tính và văn hóa không giới hạn khả năng làm việc để tạo nên một Google dẫn đầu và luôn hấp dẫn. Chỉ trong chớp mắt, Microsoft đã bị đẩy ra khỏi vị trí hàng đầu trong ngành công nghệ thế giới. Tuy nhiên, họ biết rằng để giữ được nhịp độ phát minh và vị trí dẫn đầu không phải là một việc dễ dàng, bởi họ phải đối mặt với đối thủ cạnh tranh có hầu bao lớn Microsoft, với người chỉ huy có cái đầu lạnh, tỷ phú Bill Gates.
Tự tin vào thành quả mình đạt được và tầm nhìn chiến lược, Brin và Page luôn sát cánh bên nhau kể từ khi họ bắt đầu cùng làm việc. Họ không muốn ai - dù là đối thủ cạnh tranh hay những nhà đầu tư bên ngoài - xen vào giữa họ hay làm ảnh hưởng tới họ. Sự kết hợp của việc phụ thuộc vào nhau nhưng độc lập với những người khác đã góp phần đáng kể tạo nên thành công to lớn của họ.
Page tiếp tục kể lại những ngày tháng vinh quang của hai người, “Tôi bắt đầu tải các trang web xuống, Sergey bắt đầu giúp tôi vì anh ấy quan tâm tới việc tìm kiếm dữ liệu và biến các thông tin đó trở nên hữu ích. Khi chúng tôi mới gặp nhau, ai cũng nghĩ người kia thật khó chịu.
Nhưng sau này, chúng tôi vượt qua điều đó và trở thành đôi bạn tốt. Đó là khoảng cách đây tám năm. Rồi chúng tôi thực sự bắt tay vào làm việc.” Anh nhấn mạnh điểm quan trọng này: dù có ý tưởng nhưng mồ hôi và nước mắt chiếm 99%. “Đây là bài học quý giá đối với chúng tôi. Chúng tôi đã làm việc không kể đến ngày nghỉ, quên cả sáng tối. Chúng tôi đã phải làm việc vất vả và nỗ lực rất nhiều.”
Page kể khi họ thông báo với bạn bè về Google, ngay sau đó ngày càng nhiều người sử dụng Google. “Rất nhanh, chúng tôi có được 10.000 lượt tìm kiếm mỗi ngày ở Stanford. Chúng tôi ngồi quanh phòng và nhìn vào mấy chiếc máy và nói: “Nhìn xem có bao nhiêu người tìm kiếm thông tin bằng công cụ của chúng ta, chúng ta cần thêm máy vi tính.” Toàn bộ câu chuyện của chúng tôi là vậy đó. Chúng tôi luôn cần thêm máy vi tính.”
Bài nói chuyện của họ đã truyền cảm xúc cho toàn bộ sinh viên và giáo viên ngồi nghe bên dưới.
Page nói tiếp: “Vì vậy, chúng tôi đã lập công ty. Để vào Thung lũng Silicon lúc đó không khó khăn lắm. Có vô số công ty thành đạt ở nơi đây”, đều liên quan tới ngành công nghệ đang phát triển ở Isarel, “do đó đây là môi trường làm việc tốt để thực hiện những việc giống vậy. Chúng tôi thành lập công ty và nó ngày càng phát triển. Đó là lý do chúng tôi có mặt tại đây.” Page kết lại:“Đó là câu chuyện về Google.”
Nhưng Page còn muốn truyền đạt những điều hơn thế: những lời kết về cảm hứng.
Page nói: “Hãy để tôi dành đôi lời giải thích với các bạn lý do tại sao tôi lại muốn được có mặt ở đây. Có rất nhiều động lực thúc đẩy tiến bộ trong khoa học và công nghệ. Tôi cho rằng hầu hết mọi người không nhận ra điều này. Rằng có rất nhiều thứ có thể làm được với những công nghệ mới này. Chúng tôi là một trong những ví dụ điển hình.”
“Hai tên nhóc điên khùng đã gây ảnh hưởng lớn tới thế giới nhờ vào sức mạnh của Internet, sức mạnh của sự phân phối và sức mạnh của phần mềm và máy tính. Và có rất nhiều thứ tương tự như vậy ở bên ngoài kia. Có rất nhiều cơ hội giúp bạn gây ảnh hưởng lớn với thế giới bằng cách sử dụng sức bật của khoa học và công nghệ. Tất cả chúng ta đều có vị trí của riêng mình và chúng ta nên vui mừng vì điều đó.”
Brin nói thêm vào rằng bọn họ không chỉ dừng chân ở Isarel mà còn ở cả một số quốc gia châu Âu khác. Họ đang tìm kiếm tài năng mới và họ đang cân nhắc việc mở thêm văn phòng. Đối với Sergey, một người có óc hài hước, việc “tìm kiếm” đang được thực hiện.
Anh giải thích: “Chúng tôi dành hầu hết thời gian để lên mạng. Chúng tôi ngày nào cũng lướt web. Tối qua, tôi lên mạng tới tận 4 giờ sáng. Sau đó, sáng sớm hôm sau tôi lại lên mạng. Đó là một công cụ vô giá. Giống như không khí để thở vậy.”
Rời khỏi Nga cùng gia đình thoát khỏi trào lưu chống người Do Thái và phân biệt đối xử, Brin có tính cách mạnh mẽ giống những sinh viên sinh trên đất Nga đang học tập tại Isarel. Bố anh, Michael Brin, hiểu được tại sao ông cùng vợ và con trai lại rời Nga khi ông tâm sự lòng yêu nước của một người nhiều khi không được đáp lại. Sergey nhận ra rằng anh có một cơ hội đặc biệt để động viên những sinh viên này, do đó anh cầm chiếc micro không dây, đứng dậy và tiếp tục nói. Anh đã được khuyên trước khi tới trường đại học ở đây rằng những sinh viên này rất xuất sắc, trong đó có ba sinh viên được giải toán quốc gia.
Anh mở đầu: “Thưa quí vị và các bạn…” trước khi anh nói tiếng Nga làm các sinh viên hứng khởi nổ ran tiếng vỗ tay.
“Tôi là người Nga. Tôi rời Nga sang Mỹ năm sáu tuổi. Cũng giống như ở đây, bố mẹ tôi người gốc Nga Do Thái. Bố tôi là một giáo sư toán học. Họ có cùng quan điểm về việc học hành. Và tôi nghĩ tôi có thể liên hệ tới ở đây, vì tôi được biết trường các bạn có 7 trong số 10 người đứng đầu trong cuộc thi toán toàn Isarel gần đây.”
Các sinh viên, dù chưa biết chuyện gì diễn ra tiếp theo, nổ những tràng pháo tay mừng rỡ khi Sergey biết đến thành tích “7 trong số 10” của họ.
Sergey nói tiếp: “Theo cách nói của cha tôi thì: vậy còn ba người kia thì sao?” Một tràng pháo tay lại nổ lên.
“Ở đây, các bạn được hưởng một số thứ mà hồi đi học, tôi không có. Thứ nhất là khí hậu và cửa sổ tuyệt đẹp. Trường của tôi ở Maryland, xây từ hồi khủng hoảng năng lượng những năm 1970, tường dày tới 3 feet mà không có cửa sổ. Các bạn thật may mắn khi được học trong ngôi trường đẹp thế này. Thứ hai là hồi đó chúng tôi không có Internet.”
“Những bạn nào vào mạng ngày hôm qua, giơ tay thử cho tôi xem nào.”
Hầu hết các cánh tay trong hội trường đều đồng loạt giơ lên.
“Có ai tìm kiếm thông tin gì không?”
Lại một lần nữa, các cánh tay giơ lên.
Brin biết rằng người Isarel yêu công nghệ và rất hay tìm kiếm thông tin đều rất mê Google và sử dụng công cụ này rất nhiều, nhưng anh không đùa vui tí chút với sinh viên. Nhiều người rất thích tính hài hước của anh - nhưng anh cũng có điểm yếu, một số người cho rằng họ cảm thấy rất lúng túng bởi họ không biết khi nào anh nghiêm túc, khi nào họ mệt nhoài đuổi theo sự thông minh của anh và khi nào anh nói đùa.
“Các bạn đã từng sử dụng Alta Vista chưa?”, anh hỏi và giơ cánh tay lên làm hiệu cho sinh viên làm theo nếu họ đã từng sử dụng công cụ tìm kiếm chính đầu tiên này mà giờ đây Google đã bỏ xa.
“Thú vị không?” anh hỏi, và hỏi thêm về một công cụ tìm kiếm xa xưa khác nữa.
“Chỉ là vì tò mò thôi”, Brin tiếp lời mà không hề đổi ngữ điệu, “Ở đây, các bạn đã từng dụng công cụ tìm kiếm nào?”
Không hề dừng lại ý chỉ anh đang đùa với sinh viên, anh trở lại với bài nói của mình.
“Tôi lớn lên mà không có Internet, hay hình thức hiện tại của nó và mạng toàn cầu. Ngày nay, thế giới đã thay đổi nhiều, bởi các bạn đều có điều kiện để thu thập thông tin dù ở bất kỳ chủ đề nào trên thế giới. Và điều này cực kỳ khác biệt so với thời tôi còn đi học.”
Hãy thử tưởng tượng bạn là một thiếu niên thông minh, nuốt từng lời Sergy Brin nói ra. Bạn lắng nghe từng lời của anh ấy không phải vì những gì anh ấy đã đạt được, mà còn cả vì anh ấy là một thanh niên người Nga. Bạn nghĩ về những gì anh ấy sẽ đi qua bằng lòng nhiệt tình và công nghệ và những gì anh ấy kể cho bạn về chính bạn và tiềm năng của bạn.
Brin nói: “Các bạn có rất nhiều thế mạnh mà thế hệ chúng tôi không có. Những điều này sẽ giúp các bạn thành công sớm hơn trong cuộc sống so với chúng tôi.
“Điều cuối cùng và cũng là điều quan trọng nhất các bạn có mà khi tôi như các bạn tôi không có đó là các bạn có những người bạn tuyệt vời, những người rất chăm chỉ và đầy nhiệt huyết. Tôi không nên nói những điều không hay về những người bạn đồng khóa với tôi. Nhưng trường tôi hơi khác so với trường các bạn. Nó nằm ở ngoại ô Washington DC và thuộc vào loại trường chuẩn nên mục tiêu đề ra cho trẻ con đi học cũng khác. Các bạn nên quý trọng những gì các bạn có ở đây với một tập thể những sinh viên tài năng. Tôi dám chắc các bạn sẽ luôn nhớ các bạn cùng lớp với mình suốt cuộc đời.”
Brin và Page kết thúc câu chuyện của họ và ra hiệu cho đám đông sinh viên giờ là lúc đặt câu hỏi. Không ai để ý có sự rung chuyển bên ngoài hội trường, hay ai tham gia, hay cái gì sẽ sớm
có nghĩa đối với tất cả bọn họ.
“Các anh có nghĩ Google đã đánh dấu sự nghiệp của các anh không?” Câu hỏi đầu tiên được đặt ra cho Brin và Page.
Brin trả lời: “Tôi nghĩ đó là thành tựu nhỏ nhất trên chặng đường chúng tôi hy vọng đạt được trong 20 năm tới. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng nếu Google là thứ duy nhất chúng tôi tạo ra được thì tôi cũng không lấy làm thất vọng lắm.”
Page lại nghĩ khác:“Tôi thì lại rất thất vọng. Bởi sự nghiệp của chúng tôi vừa chỉ mới bắt đầu.” Sinh viên tiếp theo hỏi về những dự án mới đang được tiến hành ở Google.
Brin giải thích: “Chúng tôi điều hành Google hơi giống điều hành một trường đại học. Chúng tôi có rất nhiều dự án, khoảng hơn 100 cái. Chúng tôi chia thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng ba người thực hiện một dự án. Ví dụ, một số làm về công nghệ sinh học cấp phân tử. Một số làm về xây dựng phần cứng. Do đó, chúng tôi làm rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Cách duy nhất dẫn bạn tới thành công là đầu tiên hãy hứng chịu thất bại.”
Đám đông sinh viên vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt. Ý tưởng cuối cùng sẽ thành công sau khi nếm mùi thất bại, và tinh thần không sợ thất bại, ngay lập tức được sinh viên ủng hộ. Người Isarel là những người dám đương đầu với rủi ro, người Nga không bằng được như vậy. Tuy nhiên, gia đình của những sinh viên Nga đã chấp nhận đương đầu với những rủi ro không lường trước để có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và giờ, họ đang ngồi đây với hai nhà tư tưởng/phát minh hàng đầu thế giới, cùng học hỏi và cười đùa với họ, phản ánh tự do họ được tận hưởng và đó là những thứ rất quan trọng đối với những người sáng lập ra Google.
Bởi câu hỏi vẫn chưa được trả lời, một sinh viên khác lại hỏi về những dự án mới của Google.
Brin nói theo kiểu đùa: “Chúng tôi thấy ngượng khi nói về những dự án mới của chúng tôi. Có một người Isarel. Yossi [Vardi, người phát minh ra tin nhắn nhanh] có một người bạn sản xuất quần lót, quần lót của hãng Calvin Klein. Do đó chúng tôi đang thử xem liệu chúng tôi có thể hợp tác để làm ra chiếc quần lót hiệu Google không.
Anh hỏi: “Nếu Google sản xuất quần lót, ai sẽ mua nó?” Các cánh tay giơ lên. Brin tiếp thêm: “Đó là một trong những dự án ít liên quan tới vấn đề kỹ thuật nhất mà chúng tôi đang thực hiện.”
Anh tiếp tục: “Một dự án mà chúng tôi quan tâm liên quan tới việc dịch thuật, họ đề nghị chúng
tôi dịch tiếng Herbew sang tiếng Anh, một thứ tiếng mà không ai trong chúng tôi biết. Một trong những vấn đề quan trọng trong việc tiếp cận thông tin là có rất nhiều thông tin viết bằng thứ ngôn ngữ bạn không hiểu. Chúng tôi hiện có dịch vụ dịch thuật, nhưng chúng tôi cho rằng chúng tôi sẽ hoàn thiện nó tốt hơn.”
Một sinh viên khác hỏi Google có nghĩa là gì?
Page trả lời: “Google có nghĩa là một con số lớn. Đó là chữ số “1” theo sau là một trăm chữ số “0”. Và chúng tôi đã thử biến nó thành tên công ty. Chúng tôi không rõ cách phát âm từ này, do đó chúng tôi đã phát âm sai. Đây là một thuật ngữ toán học và đánh vần là g-o-o-g-o-l. Đó là cách phát âm đúng từ Google. May là không mấy ai biết được điều này.”
Một sinh viên hỏi: Các anh có kế hoạch nào để quảng bá các trang web thương mại trong kết quả tìm kiếm Google không?
“Chúng tôi không để bất kỳ quan hệ kinh doanh nào ảnh hưởng tới kết quả tìm kiếm Google.” Brin trả lời và thêm vào rằng kết quả của công cụ tìm kiếm “không thiên vị.”
Từ đây nảy sinh ngay một câu hỏi khác: Vậy Google kiếm tiền từ đâu?
Page trả lời: “Mỗi kết quả tìm kiếm, dù ít hay nhiều, đều phải trả tiền cho Google, chủ yếu là thông qua quảng cáo. Người ta trả tiền cho quảng cáo. Chúng tôi rất may mắn là chúng tôi đã chọn làm kiểu liên quan tới quảng cáo thay vì cho chạy banner quảng cáo. Điều này giúp chúng tôi có được công cụ tìm kiếm tốt nhất. Chúng tôi kiếm lợi nhuận do các công ty khác trả tiền, ví dụ như AOL, do sử dụng công cụ tìm kiếm của chúng tôi.”
Một sinh viên hỏi họ nghĩ sao về những trang web sex, những trang web kiểu này nhan nhản trên mạng và người ta sử dụng Google để tìm những trang đó.
Sergey trả lời thẳng ngay vào câu hỏi: “Thường thì nó phụ thuộc vào bạn tìm cái gì. Tôi muốn kể cho các bạn nghe về một vấn đề khác mà tôi và Larry có cùng quan điểm. Cả hai chúng tôi khi còn nhỏ đều tới trường Montessori. Quan điểm của trường Montessori là bạn hãy để con cái làm những gì muốn khi từ 6 đến 12 tuổi. Nhưng sau đó, vì hóc-môn của các bé nam phát triển, bạn cần bắt chúng làm những việc nặng nhọc khi chúng ở tuổi thiếu niên. Nếu không, đầu óc chúng sẽ mất tập trung.” Dường như cuối cùng Brin đã khéo léo trả lời câu hỏi về các trang web sex. “Trong tình huống này, có rất nhiều cách để tự rèn luyện mình. Không nhất thiết phải làm việc vất vả ở nông trại. nhưng quan trọng là phải làm cho mình luôn tập trung, mặc dù trải qua những tháng năm đó thật khó khăn.”
Một sinh viên khác hỏi về sự cạnh tranh của Google.
Page trả lời: “Bắt đầu, Google phải cạnh tranh với Excite, Alta Vista và các trang web khác. Những trang web này không chỉ tập trung mỗi vào công cụ tìm kiếm, do đó chúng tôi không bị nảy sinh nhiều vấn đề như họ. Ngày nay, chúng tôi phải đương đầu với nhiều cạnh tranh và thử thách hơn. Google đang cố gắng trở thành một công ty công nghệ cỡ trung bình. Chúng tôi có khoảng hơn 1.000 nhân viên làm việc tại Google. Chúng tôi đang chuẩn bị mở văn phòng trên toàn thế giới. Đó là một phần lý do tại sao chúng tôi đi vòng quanh thế giới. Đây quả là một thử thách thực sự đối với chúng tôi. Việc khó khăn nhất là chúng tôi có thể đạt được điều này trong dài hạn, trở thành một công ty có tuổi đời 10 đến 20 năm, hoặc chúng tôi sẽ bị thôn tính.
Page nói tiếp: “Phát minh ra thứ gì đó và có một ý tưởng lớn là một khối lượng công việc lớn. Nhưng đó chưa đủ. Bạn phải để cả thế giới biết đến nó. Tại Google, chúng tôi kết hợp các khả năng khoa học, toán học, tin học và cả kỹ năng làm cho nhân viên hăng say làm việc.”
Tới đó, các cặp mắt trong phòng chuyển hướng về phía hai người đàn ông đi từ cửa hậu vào hội trường. Cả hội trường ồ lên hứng khởi, cả Brin và Page cũng vậy, đó chính là Mikhail Gorbachev, cựu Thủ tướng Liên Bang Nga, và Shimon Peres, nhà lãnh đạo Isarel uy tín vừa mới kỷ niệm 80 ngày sinh của ông tuần trước. Gorbachev, người đưa ra các chính sách thúc đẩy sự chuyển đổi mang lại tự do và chế độ chủ nghĩa tư bản cho Nga, là người hùng đối với những sinh viên ở đây vì ông đã giúp gia đình họ có một cuộc sống mới. Các sinh viên Nga đứng dậy reo hò. Gorbachev, nổi tiếng với vẻ lạnh lùng nghiêm nghị, tiến tới chỗ họ và chỗ Brin và Page, nhìn họ hài lòng.
Điều ông phát biểu đã thu hút được sự chú ý của sinh viên Nga: “Tôi biết trường này giống như một Liên bang Xô Viết thu nhỏ. Các sinh viên từ tất cả 15 nước cộng hoà tới học ở đây. Tôi rất mừng vì các bạn sống thân thiện và giúp đỡ lẫn nhau. Tôi chúc các bạn thành công trên con đường học vấn, và tôi muốn nói rằng hôm nay chúng ta có hai vị khách trẻ tới từ nước Mỹ. Những người này minh họa sống động cho kiến thức hiện đại thực sự là gì và có nghĩa là gì. Họ có trí óc sáng láng, tôi muốn nói rằng họ có trí óc đặc biệt. Họ đã làm được nhiều việc trong đời, dù chỉ ở tuổi rất trẻ. Do đó, ngày nay họ là những người dẫn đầu trên con đường phát triển công nghệ mới. Họ quan tâm tới ngôi trường này và có thể bằng cách nào đó giúp cho quá trình giáo dục ở đây tiến lên một bước tiến bộ hơn để phát triển nhân tài trẻ tuổi - biến đổi cuộc sống con người giúp họ đạt được thành công hơn chúng ta đã đạt được.”
Gorbachev tươi cười bắt tay Sergey và Larry, hai người cũng rất hồ hởi. Đó chính là họ, chỉ mới 30 tuổi đầu, đang sánh vai cùng hai chính trị gia lớn tuổi, những người lãnh đạo thế giới có
tiếng trong lịch sử. Trong một giây, sân khấu của trường đã trở thành chính trường thế giới, một nơi mà quá khứ, hiện tại và tương lai tụ lại với những tiềm năng bất tận.
CHƯƠNG 2. Larry gặp Sergey
Khi Larry gặp Sergey vào mùa xuân năm 1995, họ trở nên thân thiết với nhau ngay tức thì. Mặc dù có những điểm khác biệt nhưng giữa họ không có sự phân biệt nào. Đó là trong buổi hướng dẫn sinh viên mới tại trường Stanford, Sergey giới thiệu cho Larry và các sinh viên xuất sắc khác về khuôn viên trường Đại học đầy nắng California và không khí học tập ở đây. Bỗng nhiên, hai người tranh luận về một số vấn đề ngẫu nhiên. Có vẻ như đây là giây phút rất khác thường đối với cả hai bởi họ biết rõ về nhau, nhưng thực tế họ đều rất thích tranh luận.
Dù trẻ hơn Larry và những người khác nhưng Sergey đã học ở Stanford được hai năm. Là một thiên tài toán học, anh tốt nghiệp đại học ở tuổi 19, xuất sắc vượt qua 10 bài thi bắt buộc để theo học bậc tiến sĩ tại trường Stanford ngay lần thi đầu tiên và dễ dàng tham gia vào nhóm nghiên cứu cùng với các giáo sư. Tự tin, nhanh chóng thích nghi và trực tính, Sergey rất thích tập thể dục dụng cụ, bơi lội và giao tiếp tại Stanford, trong khi anh vẫn dành thời gian cho tin học và toán học. Larry, một chàng trai miền Tây Trung Bộ, chẳng thấy dễ dàng gì khi là một trong số rất ít người được nhận vào trường Stanford danh giá và một chương trình bậc tiến sĩ cạnh tranh khốc liệt, anh luôn nghi ngờ rằng chẳng biết làm tiến sĩ mang lại kết quả gì không. Anh hy vọng sẽ kết bạn được với các sinh viên khác trong chuyến tới thăm trường.
Anh nhớ lại: “Lúc đầu, tôi hơi sợ. Tôi cằn nhằn liên tục rằng tôi sẽ bị gửi trả về nhà trên một chuyến xe buýt.”
May mắn thay, Larry và Sergey sớm gặp nhau, cùng chia sẻ những vấn đề về học thuật thậm chí nhiều khi ở trên hai chiến tuyến khác nhau. Vấn đề không phải ở các chủ đề họ thảo luận sôi nổi. Cái đáng nói ở đây là họ cố gắng thuyết phục nhau nghe theo quan điểm của mình.
Chính những lời nói giễu cợt và khích bác nhau đã đặt nền tảng cho một quan hệ hợp tác dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, mặc dù ban đầu ai cũng thấy người kia kiêu ngạo và khó chịu. Cả hai đều sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống hiếu học và trí thức, đặc biệt là các lĩnh vực về tin học, toán học và tương lai. Học cách bảo vệ quyết liệt những ý tưởng độc đáo của mình đã giúp họ có một bề sâu tri thức khác hẳn với vẻ ngoài trẻ tuổi của họ. Hầu hết những người biết Larry và Sergey đều cho rằng họ là những người sáng sủa, thân thiện và nhiều khi hơi ngờ nghệch.
Họ có cả tham vọng lẫn đam mê, các tố chất và kỹ năng đáng ca ngợi. Sergey, người có một cậu em ít tuổi hơn mình rất nhiều đang sống ở vùng ngoại ô Washington DC, là người ăn nói mạnh
bạo hơn, có tinh thần hướng ngoại bởi quen với sự nổi tiếng. Larry, là em trong một gia đình có hai anh em trai, là người trầm tính hơn. Tuy nhiên, lần Larry và Sergey trở lại trường Stanford để vào học niên học 1995-1996, sự xung đột trong những vấn đề khoa học của họ đã biến chuyển thành một tình bạn vĩnh cửu. Hóa ra sự chuyển biến đó lại liên quan tới rất nhiều điều đã xảy ra từ rất lâu trước khi họ gặp nhau.
Trong thế giới khi di truyền học và khoa học công nghệ quyết định chứ không còn là khoảng cách địa lý, Sergey Brin và Larry Page có cùng chung một điểm rất quan trọng: họ đều là thế hệ vi tính thứ hai. Họ tiếp cận máy tính khi còn đang học tiểu học, trong một gia đình có bố mẹ sử dụng máy tính thường xuyên và phải giải quyết những vấn đề toán học hóc búa ở nhà và ở chỗ làm. Điều này làm cho Larry và Sergey khác biệt so với bạn bè cùng trang lứa. Họ cũng có cùng các điểm chung khác nữa: họ cùng theo học hệ thống trường Montessori, nơi thúc đẩy việc học hành từ tấm bé của họ; họ sống gần những trường đại học lớn nơi cha của họ và những giáo sư đáng kính giảng dạy; và công việc của mẹ họ liên quan tới vi tính và công nghệ. Đạt được học bổng không chỉ được nhấn mạnh trong gia đình, mà đó còn là vật báu. Việc Larry và Sergey tiếp tục lên cao học và rồi trở thành một thành viên trong cộng đồng khoa học và hàn lâm, giống như cha mẹ họ đã làm, là một việc hiển nhiên.
Quay trở lại năm 1960, cha của Larry, Carl Victor Page, đã từng là một trong số những tú tài đầu tiên nhận được bằng tin học của trường Đại học Michigan. Sau đó 5 năm, ông có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực cao quý đó. Mẹ của Larry, Gloria Page, là một tư vấn viên cơ sở dữ liệu có bằng thạc sỹ tin học. Larry ngưỡng mộ người cha vui tính và thích giao thiệp, ngoài những việc khác nữa, anh rất nhớ ông đã dẫn anh đi xem các buổi hoà nhạc “Cái chết dễ chịu” khi anh còn nhỏ. Khoảng 15 năm trước khi Larry tới vùng miền Tây, Carl Page đã từng là học giả thỉnh giảng tại Stanford. Nhưng ông dành hầu như toàn bộ sự nghiệp dạy học của mình tại trường Đại học Michigan Stage, nơi mẹ của Larry cũng là giảng viên môn lập trình tại đó.
Khi Larry đang học kỳ thứ hai ở trường Stanford, bố anh, một người sống sót sau bệnh bại liệt hồi nhỏ, đã qua đời ở tuổi 58 do biến chứng ở phổi. Sức khỏe của ông giảm sút nhanh chóng sau một tuần nằm viện và ông đã qua đời. Đối với Larry, biến cố bất ngờ này làm anh quá đau xót. Sean Anderson, một đồng nghiệp trong công ty của Larry tại Stanford nhớ lại: “Larry ngồi trên bậc thềm của tòa nhà Gates, trông anh rất đau buồn. Rất nhiều bạn bè đã tới an ủi quanh anh.”
Carl Page được xem là “nhà tiên phong và quản lý hàng đầu trong lĩnh vực tin học và trí tuệ nhân tạo” và là “một học giả cống hiến hết mình, một giảng viên và một người thầy hướng dẫn
được rất nhiều sinh viên yêu mến.” Một trong số đồng nghiệp của ông tại trường Đại học Michigan State, ông George Stockman, tâm sự Carl đã từng trông đợi Larry trở thành một giáo sư.” Ông còn cho biết thiên hướng thích tranh luận của Larry phát triển từ gia đình. Stockman kể về người đồng nghiệp quá cố của mình: “Ở khía cạnh nào đó, ông là người hơi khó hợp tác bởi ông thích tranh luận về mọi việc và… con trai ông cũng thừa hưởng tính cách đó. Do đó, về mặt trí thức, họ có rất nhiều điểm chung trong các cuộc tranh luận.” Chính những lần thảo luận sôi nổi ban đầu với Sergey cũng thể hiện tính cách di truyền cha - con đó.
Mặc dù rất đau buồn, Larry vẫn tiếp tục theo học tại Stanford bởi anh trai của Larry, Carl“con”, sống và làm việc tại Thung lũng Silicon. Họ sống cùng nhau ở đó, vì vậy Larry có người cùng chia sẻ, cả hai đã cùng nhau trải qua, nhớ lại những quãng thời gian bên cạnh cha mình.
Đó không phải là lần đầu tiên Larry phải đương đầu với sự đau đớn mất mát. Anh sinh ngày 26 tháng 3 năm 1973, khi lên 8, anh đã phải chứng kiến cảnh cha mẹ ly dị và điều này đã có ảnh hưởng rất lớn tới anh. Cha mẹ vẫn tiếp tục cùng nuôi dạy Larry theo cách tốt nhất có thể. Cuối cùng, Larry thấy rằng anh nhận được vô vàn tình yêu thương và học thức từ hai người mẹ: người mẹ thực của anh và Joyce Wildentha, giáo sư trường Đại học Michigan State đồng thời là vợ lẽ của bố anh. Hai người phụ nữ này tới nay vẫn giữ được quan hệ thân thiết.
Larry đã từng theo học trường cấp hai East Lansing’s MacDoanld. Nick Archer, trưởng đội hướng đạo sinh của Larry nhớ lại cậu ấy là “một người có suy nghĩ độc lập.” Anh trai Carl “con” nhớ lại Larry là một cậu em trai ham học hỏi, có nhiều sở thích đa dạng không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tin học. Hồi nhỏ, cả hai đều thích thú với việc tìm hiểu xem “mọi thứ hoạt động thế nào”, Carl“con” nhớ lại, “không chỉ những vấn đề kỹ thuật, chúng tôi còn thích tìm hiểu các vấn đề xã hội, chính phủ, chính trị, mọi thứ.” Cha của họ đã từng làm một thành viên trung thành của Đảng Dân chủ, hay giảng giải đường lối giáo dục và cơ hội là dành cho mọi người của Đảng này. Ông nội của họ đã từng tham gia vào cuộc đình công của công nhân xe hơi những năm 1938-1939 tại Flint, Michigan. Cuộc đình công này đã thúc đẩy phong trào lao động, một trong số những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển trong quá trình đạt được các vấn đề xã hội. Một người ông khác của họ đã sang Isarel, trở thành một trong những người định cư sớm nhất ở vùng thị trấn sa mạc Arad, nơi nước và các nguồn tài nguyên khác rất khan hiếm. Ông phải làm việc vất vả bởi hoàn cảnh khắc nghiệt và làm thợ đúc khuôn gần biển Chết. Rất lâu sau cái chết của mình, tinh thần tiên phong của ông sống lại trong những đứa cháu của ông.
Mẹ của Larry là một người Do Thái, còn bố anh sùng bái “công nghệ”, và Larry được nuôi dạy không mang bản sắc của người Do Thái hay bất kỳ tôn giáo nào. Anh kế tiếp cha mình, người
luôn chỉ bảo cho con mình về máy tính như một phần của việc nuôi dạy. Larry tâm sự: “Tôi thật may mắn vì có được một người cha là giáo sư tin học, một điều không phải ai ở tuổi của tôi cũng có được. Chúng tôi cũng rất may mắn khi có được chiếc máy tính gia đình vào năm 1978. Nó rất to và đắt, thậm chí chúng tôi phải rất tằn tiện cả trong việc ăn uống sau khi mua cái máy tính đó. Tôi luôn thích máy vi tính bởi tôi nghĩ rằng ta có thể làm được rất nhiều thứ với nó.”
Trên thực tế, anh đã có rất nhiều khám phá về công nghệ tin học ở nhà đến nỗi các giáo viên tại trường Lansing phải ngạc nhiên và không cho phép anh làm bài tập về nhà theo kiểu đó. “Tôi đánh các bài học hồi ở trường tiểu học vào chương trình Word, và các giáo viên không biết bản đánh máy đó là gì. Họ rất lúng túng”, anh nói. Carl “con” kể về thành tích xuất sắc của Larry khi anh mới học lớp một: “Một trong số những chuyện hồi đó tôi nhớ được là Larry gõ bài thơ “Ếch và Cóc” lên máy tính, gõ mổ cò, hồi đó nó mới có 6 tuổi.” Sau đó vài năm, Larry dùng một chiếc tua vít và tháo tung đồ điện trong nhà. Anh cũng rất thích giúp Carl, anh trai mình, hơn Larry 9 tuổi, làm bài tập tin về nhà mỗi lần Carl về nhà vào kỳ nghỉ từ trường Đại học Michigan State. Trước khi tốt nghiệp trường Trung học East Lansing, Larry đã tạo ra một máy in lazer cho hãng Legos. Anh nói: “Tôi chưa bao giờ bị ép buộc phải làm việc với máy tính. Tôi thực sự thích vi tính.”
Larry tiếp bước cha và anh trai theo học trường Đại học Michigan tại Ann Arbor, nơi anh học để trở thành một kỹ sư tin học và tham dự các khóa đào tạo kinh doanh để lấy bằng tốt nghiệp đại học vào năm 1995. Anh là Chủ tịch hội Eta Kappa Nu của trường Đại học Michigan, một hiệp hội danh tiếng quốc gia dành cho các sinh viên tin học, và thích thú làm việc trong hội quyên góp ủng hộ của trường.
Anh cũng tận dụng theo học các chương trình phát triển khả năng lãnh đạo dành cho sinh viên. Anh nói: “Đặc biệt, chương trình Hình thành Khả năng Lãnh đạo đã cho tôi những kinh nghiệm quý báu.” Chương trình phổ biến toàn trường này nhằm mục đích nâng cao kỹ năng lãnh đạo cần thiết cho sinh viên trường Michigan.
Larry cũng học được rất nhiều từ các giáo sư uyên bác trong trường. Anh kể lại: “Tôi được biết rất nhiều giảng viên giỏi, những người luôn sẵn lòng cho lời khuyên và chia sẻ kinh nghiệm và giúp tôi thành công.” Những cảm giác đó có từ cả hai phía. Giáo sư ở trường Michigan của anh nhận xét anh là một sinh viên xuất sắc. Giáo sư ngành điện tử và tin học, Elliot Soloway, cho biết: “Larry sử dụng một cái máy tính xách tay đến trình bày đề án của mình trong lớp học của tôi, trước khi mọi người biết tới máy tính xách tay là cái gì.”
Cha mẹ của Sergey Brin cũng là những người giàu kiến thức về khoa học và công nghệ. Mẹ anh, bà Euginia Brin, là một nhà khoa học đầy thành tựu tại Trung tâm Vũ trụ bay Goddard thuộc NASA. Ngoài các việc khác, chuyên môn của bà là lập các mô phỏng dựa trên điều kiện khí quyển và thời tiết ảnh hưởng tới các chuyến bay vào vũ trụ. Cha anh, ông Michael Brin, dạy toán tại trường Đại học Maryland và đã từng xuất bản rất nhiều tài liệu hàn lâm khám phá các vấn đề toán học phức tạp từ hình học trừu tượng tới các hệ thống động lực.
Ông Michael Brin nhận xét về Sergey:“Nó chỉ là một đứa trẻ bình thường nhưng nó rất thích lại gần máy vi tính, ban đầu chỉ là chơi điện tử và nghịch cái máy tính Commandore cũ đời 64”, một loại máy tính cá nhân xuất hiện đầu tiên.
Sinh ra tại Matxcơva vào ngày 21 tháng 8 năm 1973, cậu bé Sergey Brin đã cùng cha mẹ rời Liên bang Nga khi cậu mới 6 tuổi. Cả gia đình, trốn chạy khỏi phong trào chống Do Thái, tìm tới chân trời tự do và cơ hội mới cho họ và đứa con trai của mình.
Ông Michael Brin tâm sự:“Tôi ra đi vì bản thân tôi và vì tương lai của con tôi.”
Sergey có ít nhất một thành viên gia đình đã sống tại Mỹ nhiều năm trước khi họ tới đây. Trong một phong trào giải phóng phụ nữ, bà cố của Sergey đã theo học ngành vi sinh vật tại trường Đại học Chicago. Nhưng vào năm 1921, bà đã tham gia cùng những người tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản, trở lại Matxcơva nhằm cống hiến xây dựng một nhà nước Xô viết mới. Ông của Serrgey là một nhà toán học ở Matxcơva, và cha anh cũng vậy, ông đã nhận bằng tiến sĩ toán học ở đây. Mẹ anh, cũng là một nhà toán học, khi ở Nga bà là một kỹ sư xây dựng.
Ông Michael Brin làm nhà kinh tế học 10 năm cho Gosplan, cơ quan hoạch định trung ương của Xô Viết, nơi ông phải tạo ra những số liệu để tuyên truyền rằng chất lượng cuộc sống ở Liên bang Xô Viết tốt hơn ở Mỹ.
Ông nhớ lại: “Hầu hết thời gian đó tôi chỉ có mỗi một việc là làm sao chứng minh rằng mức sống ở Nga tốt hơn rất nhiều so với ở Mỹ. Tôi biết rất nhiều số liệu. Nhưng chúng chưa chắc đã chính xác hoàn toàn.”
Sau khi rời tới Mỹ, Michael Brin bắt đầu giảng dạy môn toán tại trường Đại học Maryland. Ông tự hào kể lại Sergey không chỉ thích máy vi tính và cả toán học: “Nó rất giỏi toán. Ở trường cấp hai, họ đã cử một giáo viên đặc biệt tới dạy nó cùng một số học sinh xuất sắc khác.”
Cả gia đình sống rất giản dị ở Hạt Prince George, ngoại ô thủ đô Washington, và Sergey theo học trường công cấp ba Eleanor Roosevelt, một ngôi trường có kỷ luật nghiêm khắc, nơi cơ
bắp quan trọng hơn trí tuệ. Một trong số bạn học của Sergey nhớ lại Sergey “khá tự mãn về sự thông minh của mình”, anh ấy thường cố chứng minh cho giáo viên thấy là họ đã nhầm.
Sự thực, Sergey không quan tâm nhiều lắm về các giáo viên dạy mình hay các bạn cùng lớp, anh luôn tự thấy rằng ở nhà mình còn học được nhiều thứ hơn. Trong khi vẫn còn đang học cấp ba, anh đã đăng ký thi tuyển vào trường Đại học Maryland. Học tập với cường độ cao hơn, chàng trai 19 tuổi thông minh này đã nhận được bằng tốt nghiệp đại học năm 1993 với bằng danh dự về môn toán học và tin học.
“Tôi được rất nhiều người chú ý. Tôi chuẩn bị tốt hơn các bạn cùng lứa tại trường Đại học MIT hay Harvard.” Sergey kể về chất lượng giáo dục đại học tại trường Maryland, nơi anh đã theo học rất nhiều khóa học bậc đại học.
Michael Brin kể về cậu con trai: “Các đồng nghiệp của tôi nói rằng con trai tôi là một sinh viên xuất sắc. Nói tóm lại, có rất nhiều lựa chọn cho các sinh viên ưu tú. Họ có thể theo học các khóa học khác nhau và được chứng nhận rất nhiều chuyên ngành sau khi ra trường.”
Trong các kỳ nghỉ hè, Sergey nghiên cứu các công cụ phân tích mới trong rất nhiều ngành chuyên môn, bao gồm cả việc phát triển hình vẽ ba chiều được sử dụng trong mô hình tập bay. Các công việc trong kỳ nghỉ hè của anh tại Viện nghiên cứu Wolfam, General Electric Information Services và Viện nghiên cứu Tin học tiên tiến của trường Đại học Maryland đã hỗ trợ anh có hiểu biết sâu rộng hơn về tin học, tìm kiếm dữ liệu và toán học.
Sergey cũng thừa hưởng tính hài hước từ cha mẹ mình. Trên trang web riêng của mình, mẹ Sergey đã tải lên một bức ảnh của bà bên cạnh Lênin, lãnh đạo cộng sản Nga; với tiêu đề là “Bức ảnh chụp cùng người bạn thân của tôi.” Khi Sergey tổ chức tiệc sinh nhật lần thứ 20 của mình, cha anh đã viết tặng anh một bài thơ và đăng lên Internet.
Con ngày một mạnh mẽ hơn
Cả về thể xác, tinh thần và trí tuệ.
Cha ngày một già đi
Để năm tháng lại đằng sau.
Con cứng rắn, khai thác dữ liệu,
Con suy nghĩ sau khi lướt web trước,
Và dù bò đi con cũng nhanh hơn ánh sáng
Lang thang điên khùng trong màn đêm.
Con làm việc chăm chỉ để tạo ra một chính đề
Từ những trang web toàn cầu chẳng ra sao
Con sống ở nước ngoài nơi có bờ cát đầy nắng
Con trai, ta đề nghị ăn bánh mỳ nướng.
Trong văn phòng sang trọng hình oval
Clinton ngồi đếm những thất bại của mình,
Đã đến lượt những người mới
Đem lại nhiều vinh quang.
Ông Michael Brin luôn làm cho gia đình và sinh viên của mình cảm thấy vui vẻ và an toàn. Ông thường trả bài kiểm tra lại cho sinh viên khoa toán của mình với một câu đơn giản “tôi thực sự đau buồn” hay pha trò cười khi nêu ra những đáp án sai bằng cách nói: “Đáp số này hoàn toàn sai.” Một sinh viên cũ đã nhớ lại cách giảng bài của ông rất hấp dẫn nhưng cũng rất đáng sợ: “Tiến sĩ Brin là nhà hùng biện bậc nhất, ông thường bắt đầu bài giảng bằng cách hút thuốc. Ông thường đưa ra một bài toán phức tạp, rồi ra ngoài hút một điếu thuốc lúc giữa giờ để lại lũ sinh viên không hiểu sao lại vậy. Ông muốn có đáp số khi ông quay lại lớp sau đó… Hầu như nửa lớp thống kê mà ông dạy đều bị trượt sau kỳ đầu bởi họ không thể theo nổi. Theo học các lớp của ông giống như những gì viên hạ sỹ quan trong phim Full Metal Jacket trải nghiệm.”
Mỗi thành viên trong gia đình Brin đều có một trang chủ riêng trên mạng Internet và được kết nối với nhau, một dấu hiệu cho thấy sự liên hệ với nhau trong gia đình họ trên mạng. Trên trang chủ của mình, ông Michael Brin viết,: “Sergey là một sinh viên tốt nghiệp trường Stanford (ngành tin học). Nó khai thác dữ liệu và (cùng với bạn mình là Larry) tạo ra một công cụ tìm kiếm GOOGLE và cho đó là công cụ tốt nhất.” Sam, cậu em trai nhỏ tuổi hơn Sergey rất
nhiều, đã tiết lộ niềm đam mê chơi bóng rổ của mình trên trang web: “Cuộc sống của tôi là chạy quanh sân bóng rổ. Tôi luyện tập hàng ngày ít nhất 30 phút cộng với một giờ tập cùng đội tuyển vào thứ hai và thứ năm. Đội bóng yêu thích của tôi là Washington Winzards bởi đó là đội gần nhà tôi nhất.”
Sau khi tốt nghiệp trường Maryland, Sergey tới Stanford học theo học bổng của Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation), với chuyên ngành tin học. Ông Michael Brin cảm thấy con trai mình sẽ gắn kết cả đời với nghiên cứu khoa học, giống như ông và cha ông.
Ông nói: “Tôi hy vọng Sergey sẽ lấy được bằng tiến sĩ, rồi trở thành một giáo sư chẳng hạn. Tôi hỏi Sergey xem nó có thích các khóa học nâng cao trong một kỳ không? Nó trả lời: “Có ạ, học nâng cao môn bơi.”
Trước khi gặp Larry năm 1995, Sergey theo học rất nhiều môn khác nhau mà Sergey đặt ra mục tiêu tại trường Stanford. Một số môn anh cũng không cần phải theo học vì anh đã học qua mấy môn đó tại trường Maryland. Do đó anh học lái thuyền buồm và bắt đầu yêu thích môn xà treo. Tính cách thích khám phá các môn học đã giúp anh có rất nhiều khám phá ngẫu nhiên nhưng quan trọng. Anh hợp tác với các sinh viên theo học tiến sĩ và các giáo sư trong một đề án về thiết bị tự động phát hiện các vi phạm bản quyền và trong một nghiên cứu về sinh học cấp phân tử. Anh còn rất thích ý tưởng xây dựng hệ thống đánh giá phim ảnh cá nhân. Anh giải thích: “Đó là việc bạn xếp hạng bộ phim bạn đã xem. Sau đó hệ thống sẽ tìm những người có cùng nhận định để khám phá xem bạn sẽ thích các bộ phim khác tới mức độ nào.” Brin cũng có ý tưởng về những thứ khác, tương tự như ý tưởng xếp hạng sách mà giờ đây đã trở nên phổ biến trên trang Amazon.com.
Sergey coi trường Stanford là một nơi mang lại cơ hội cho anh nghiên cứu những gì mình thích. Anh nói: “Tôi đã thử làm rất nhiều thứ khác nhau ở trường này. Bạn càng tìm hiểu nhiều thứ, cơ hội bạn phát hiện ra những thứ giá trị càng cao.”
Sau khi Larry Page nhập học vào kỳ mùa thu năm 1995, anh và Sergey bắt đầu làm việc cùng nhau. Brin từ bỏ việc xếp hạng các bộ phim và theo đuổi các dự án mà Page cũng quan tâm. Và họ bắt đầu cảm thấy cùng quan tâm tới mạng Internet phi thường đang bắt đầu phát triển.
Bởi họ giấu mình ở một nơi xa với thực tế, không biết rằng thế giới xung quanh thay đổi tới chóng mặt thế nào. Từ Thung lũng Silicon gần đó tới Phố Wall, tin đồn về việc niêm yết chứng khoán của một công ty công nghệ mới thành lập được 16 tháng có tên Netscape đã lan ra khắp nơi. Vào ngày 9 tháng 8 năm 1995, Netscape đã niêm yết trên sàn chứng khoán với giá 28 đô la
một cổ phiếu và lên tới đỉnh điểm 75 đô la một cổ phiếu vào ngày đầu tiên giao dịch. Netscapte là một công ty chuyên về công nghệ cao, bỗng nhiên trở nên trị giá hơn 3 tỷ đô la. Giá chứng khoán ban đầu của Netscape tượng trưng cho sự bùng nổ của kỷ nguyên Internet tại Thung lũng Silicon và tạo ra một cơn sốt tìm nguồn nhân lực. Phố Wall đã sẵn sàng. Các nhà môi giới chứng khoán dù chưa biết cả tên công ty đó là gì đã kêu gọi các nhà đầu tư và mách với họ rằng đây chỉ mới là màn mở đầu. Dù Netscape có tạo ra lợi nhuận hay không cũng không mấy được quan tâm bởi doanh số bán ra dù nhỏ nhưng vẫn tăng 100% mỗi quý. Với một sản phẩm tiện lợi được gọi là trình duyệt (browser) giúp người sử dụng máy tính có thể điều hướng Internet, sẽ tạo ra lợi nhuận sau này. Một số nhà phân tích còn dự đoán rằng Netscape sẽ che mờ Tập đoàn Microsoft hùng mạnh. Thực tế là, vào cuối năm 1995, nó đã đạt tới con số 171 đô la một cổ phiếu, làm cho các nhà tài chính Phố Wall đi rình mò các công ty Internet khác xem có gì mới mẻ và có cổ phiếu bán không.
Sau Netscape, hơi tiền đã bay tràn vào khoa tin học trường Stanford. Hóa ra, trường đại học này chẳng có gì mâu thuẫn giữa việc dạy học với kiếm tiền. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường là đào tạo ra thế hệ giáo sư và các nhà khoa học tương lai, nhưng trường cũng là chiếc nôi tạo ra những công ty công nghệ thành công hàng đầu thế giới, từ Hewlett-Parkard (HP) tới Sun Microsystems (từ “Sun” viết tắt từ Stanford University Network - Mạng lưới trường Đại học Stanford).
Không giống MIT và một số viện nghiên cứu hàng đầu khác, Stanford tạo mọi điều kiện cho sinh viên theo học chương trình tiến sĩ làm việc với các công ty thương mại tiềm năng bằng việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của trường. Phòng cấp bằng Công nghệ của trường cũng có vai trò rất rộng. Không chỉ cấp chứng chỉ cho các sinh viên và giáo viên trong trường, phòng này còn hỗ trợ và được các công ty trả tiền để xin bằng sáng chế rồi sau đó mới tham gia vào các hợp đồng bản quyền dài hạn giúp các nhà khoa học tài ba của trường Stanford cho ra đời những phát minh mới và làm giàu từ đó. Ngược lại, Phòng cấp bản quyền trường Stanford thường nhận lại cổ phiếu của các công ty công nghệ mới thành lập.
John Hennessy, Hiệu trưởng trường Stanford, cho biết: “Tôi chưa bao giờ muốn mình lại trở thành rào cản đối với việc chuyển giao công nghệ. Môi trường tại Stanford thúc đẩy các nghiên cứu mang lại lợi nhuận và chấp nhận rủi ro. Môi trường này giúp con người sáng tạo và giải quyết các vấn đề mũi nhọn hàng đầu. Môi trường này hỗ trợ đưa các phát minh đó vào cuộc sống. Mọi người ở đây hiểu rằng đôi khi cách tốt nhất để giúp thế giới trở nên tốt hơn không chỉ bằng viết lách mà bằng đưa công nghệ bạn tin tưởng tới mọi người và làm cho nó trở nên hữu dụng. Chúng tôi đang sống trong một môi trường mà xung quanh khuôn viên trường họ có
thể nói cho những người đầu tư vào các công ty và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc này.”
Trên đường Sand Hill gần đó, rất nhiều công ty đầu tư lớn của nhiều quốc gia đầu tư vào các dự án giai đoạn đầu đổi lấy cổ phiếu. Được gọi là các công ty đầu tư chấp nhận rủi ro, họ tiến hành đầu tư mạo hiểm vào các công ty ở giai đoạn đầu với hy vọng thu lại lợi nhuận béo bở sau này. Vì không ai biết được tương lai ra sao, nhiều vụ đầu tư đem lại kết quả tồi tệ, đó là một phần của sự mạo hiểm. Tuy nhiên, các công ty làm ăn phát đạt nhất vẫn có tiền đầu tư vào các ý tưởng mới với hy vọng thu được các khoản lợi nhuận khổng lồ khi các công ty tư nhân này niêm yết trên thị trường chứng khoán hay bán lại. Sự xuất hiện của các nhà tư bản sẵn sàng đầu tư mạo hiểm ngay gần khuôn viên trường đã giúp các sinh viên và giáo sư tại trường Stanford dễ dàng có vốn tài trợ và tư vấn hơn các đồng nghiệp của mình ở các trường đại học khác. Bằng cách cho phép các cán bộ giảng dạy trong trường có cổ phần trong các công ty và có tiền thu nhập, trường Stanford vẫn giữ chân được rất nhiều các giáo sư hàng đầu. Một số giáo sư trở thành các tỷ phú và cảm nhận được niềm vui trong công việc. May mắn được sống trong thời tiết đầy nắng và những hàng cọ dài, các sinh viên ưu tú được tự do phát triển những ý tưởng tiến bộ, sinh lợi, và chẳng có lý do gì để các giáo sư từ bỏ ngôi trường này. Điều này còn tuyệt hơn là tắm nắng trên bãi biển hay làm việc trong khu vực tư nhân.
Larry và Sergey - con trai của các vị giáo sư, nghiên cứu và học tập trong một môi trường truyền thống - đang tập trung vào việc theo đuổi tấm bằng tiến sĩ, chứ không phải để làm giàu. Trong gia đình họ, không gì danh giá hơn là học vấn cao. Ngoài việc tự hào về con đường trí thức mà cha mẹ họ theo đuổi, cả hai đều mong muốn trở thành tiến sĩ của trường Stanford một ngày nào đó, được trao tấm bằng danh giá. Cả hai không mảy may suy nghĩ rằng rồi đây con đường học vấn mà họ đã chọn sẽ bị thử thách.
CHƯƠNG 3. Tập đếm
Tháng 1 năm 1996, Larry và Sergey, cùng với các sinh viên và các cán bộ giảng dạy khoa tin học trường Stanford, chuyển tới một nơi mới: một tòa nhà đẹp bốn tầng ốp đá màu be có khắc dòng chữ Khoa Tin học William Gates. Chủ tịch hãng Microsoft đã đóng góp 6 triệu đô la để xây dựng tòa nhà, với số tiền đó Bill Gates hoàn toàn có quyền đặt tên cho tòa nhà. Mặc dù Gates không học trường Stanford nhưng rất nhiều sinh viên trường này làm việc cho Microsoft và Gates hy vọng tòa nhà mang tên mình sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho Microsoft thu hút thêm nhiều sinh viên ưu tú hàng đầu trong tương lai. Gates cho rằng ông mang đến món quà để “đầu tư cho tương lai của ngành này.” Trong lễ trao tặng, James Gibbons, Hiệu trưởng trường kỹ thuật, dự đoán rằng trong vòng 18 tháng tới “điều gì đó sẽ xảy ra ở đây, và ở nơi nào đó, một văn phòng nào đó, người ta sẽ chỉ tới đây và nói: “Đó là nơi họ đã tạo dựng từ con số 0 những năm 1996, 1997. Đây quả thực là một vụ đầu tư lớn.”
Được phân lên tầng 3, Larry chuyển lên phòng Gates 360, cùng với bốn sinh viên khác. Một trong số đó, Sean Anderson, là người rất sáng tạo, hơi khác người và sôi nổi. Anh ta thậm chí bỏ căn hộ của mình và tới sống luôn trong văn phòng. Một anh bạn khác tên là Benzhu, rất ít nói. Tiếp đến là Lucas Periera, rất năng nổ. Theo lời Tamanra Munzer, cô gái duy nhất trong đội nhận xét: “anh ta là người rất rất hoạt bát.” Cô là người tự coi mình là lập dị. Bùng nổ tài chính tại Thung lũng Silicon do sự bùng nổ Internet và IPO của Netscape đã gây thách thức đối với giới trí thức. Munzer cho biết: “Thời gian học tại trường đại học thật vất vả. Mỗi khi tới dự một bữa tiệc nào đó, vô số cơ hội việc làm tới với chúng tôi. Mỗi học kỳ tôi lại phải cân nhắc không nên bỏ học giữa chừng.”
Mặc dù tình bạn của họ rất gắn bó, hay do chính họ, tình cảm giữa họ ngày càng trở nên gắn bó. Sergey Brin được phân công sang một văn phòng khác, nhưng anh vẫn dành nhiều thời gian làm việc với Page ở văn phòng Gates 360. Các cán bộ trường Stanford đề nghị Brin chế tạo hệ thống đánh số cho các văn phòng trong tòa nhà mới. Anh đồng ý nhận việc này, và đổi lại, anh đòi nhà trường cấp cho ghế tốt hơn những chiếc ghế được cấp sẵn ở đây. Anderson nhận định: “Sergey là chàng trai rất thông minh.”
Vào lúc đó, văn phòng Gates 360 trông giống như một khu rừng nhỏ, với các cành dây leo vắt vẻo trên trần nhà. Cũng nhờ có Anderson, người đã đặt mấy cái cây trên bàn. Anh cũng mang một cái xô 5 gallon nước và một cái bơm được điều khiển bằng máy tính của anh. Anh cho biết: “Tôi lập nên một hệ thống tưới nước tự động. Chúng tôi có rất nhiều “đồ chơi” nho nhỏ trong
văn phòng.” Anh cũng nối một chiếc đàn piano với máy tính của mình và để mọi người sử dụng, còn Munzer mang một miếng đệm đến đây phòng trường hợp ai đó muốn nghỉ ngơi.
Larry và Sergey luôn làm việc cùng nhau. Ở trường, họ trở nên nổi tiếng với bộ đôi “Larry và Sergey”, một cụm từ quen thuộc với mọi người. Munzer cho biết: “Họ là những chàng trai rất vui tính. Tất cả chúng tôi cộng tác rất vui vẻ. Tôi nhớ có lần 3 giờ sáng thứ Bảy, cả văn phòng vẫn có mặt đầy đủ. Tôi còn nhớ câu nói: “Chúng ta quả là lập dị.” Chúng tôi đều rất ham mê công việc đang làm và tất cả đều cảm thấy vui vẻ.”
Larry và Sergey thường trêu đùa nhau không giới hạn. Munzer nói: họ là những chàng trai lém lỉnh, nhưng kiêu ngạo. Họ thích thách đố và tranh luận với nhau và với bất kỳ ai khác mà họ tham gia vào cuộc tranh luận. Họ bàn luận không ngớt về tin học, triết học và bất kỳ thứ gì xuất hiện trong đầu họ. Một lần họ tranh luận lớn tiếng về việc xếp hình một tòa nhà bằng đậu lima, Munzer xoay tít trên ghế và reo lên: “Cậu đang nói đùa phải không?”. Trong một góc văn phòng Gates 360, dưới gầm bàn của Larry, họ xếp mô hình một chiếc máy tính từ các mảnh ghép Lego. Các góc khác trong văn phòng chất những thứ không được việc gì ngoại trừ tống khứ hết chúng đi. “Tôi học cách lập chương trình cho tai nghe”, Munzer nói.
Một trong những chủ đề Page thích bàn luận đó là phát minh các hệ thống vận tải mới ưu việt hơn. Do lớn lên gần Detroit nên anh có ý tưởng sáng tạo về cách di chuyển con người và hàng hóa từ nơi này đến nơi khác, trong khi giảm thiểu được các vụ tai nạn, chi phí, ô nhiễm và tắc nghẽn giao thông. Anderson nhớ lại: “Anh ấy thích nói về các hệ thống ô tô tự động, ô tô lượn vòng quanh, và nếu bạn cần một chiếc, bạn chỉ cần nhảy lên xe và nói cho nó bạn muốn đi đâu. Nó giống như một chiếc taxi, nhưng rẻ hơn và tham gia cùng với các phương tiện giao thông khác trên đường giao thông đông đúc. Anh ấy rất quan tâm tới vấn đề di chuyển con người và hàng hóa. Anh ấy thích giải quyết các vấn đề xã hội theo nhiều cách khác nhau.”
Rajeev Motwani, một giáo sư mới ở tuổi 30, thầy hướng dẫn của Sergey khi anh mới tới Stanford năm 1993; quan sát tinh thần làm việc đồng đội giữa Larry và Sergey, ông ngày càng yêu quý hai chàng trai này. Motwani nhận xét: “Cả hai đều rất sáng dạ, một trong số những người thông minh nhất tôi từng biết. Nhưng họ thông minh theo các cách khác nhau.” Sergey rất thực tế, thuộc tuýp người ưa giải quyết khó khăn, một kỹ sư. Theo cậu ấy, cái gì có giá trị, nó sẽ hữu dụng. Ngoài ra, cậu ấy còn là người có đầu óc toán học, nhanh nhạy và hoà đồng. “Cậu ấy là một chàng trai trẻ hơi ngang bướng, nhưng rất thông minh, trông vẻ ngoài đã thấy,” Motwani nhận xét. Bất kỳ khi nào cậu ấy muốn hoặc cần thứ gì đó, Brin đến ngay văn phòng của Motwani quên cả gõ cửa. Ngược lại, Page là một người suy nghĩ chín chắn. Anh muốn biết
tại sao cái đó hoạt động được. Là người có tham vọng vô biên, anh cư xử khép kín hơn nhiều. Anh luôn gõ cửa trước khi vào văn phòng của Motwani. Nếu bạn tham gia một cuộc họp khoảng 20 người tham dự, bạn sẽ thấy Sergey giữ vai trò chủ tọa còn không nhận ra Larry, nhưng sau đó anh ấy sẽ hỏi:“Anh nghĩ ý tưởng này thế nào?”
Phong cách của Sergey khác hẳn với các sinh viên bậc tiến sĩ khác ở Stanford. Một giáo sư Stanford khác, ông Dennis Allison, nhận xét: “Cậu ấy rất nhiệt tình và trực tính. Lòng nhiệt tình là điều rất hiếm có. Sergey luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Cậu ấy có khả năng biểu đạt những gì cậu ấy biết về bạn, nói chuyện thẳng thắn với bạn và muốn được bạn trả lời. Nói chuyện với cậu ấy rất thú vị.”
Brin làm việc chặt chẽ với Motwani để tìm ra cách sàng lọc thông tin từ đống dữ liệu đồ sộ. Họ thành lập một đội nghiên cứu mới mang tên MIDAS; viết tắt của cụm từ Mining Data at Stanford (Khai thác dữ liệu trường Stanford). Trong truyền thuyết Hy Lạp, Midas là vị vua có khả năng kỳ diệu chạm vào cái gì, cái đó biến thành vàng. Brin xếp hàng để làm diễn giả hàng tuần và chọn các chủ đề cho các cuộc thảo luận của MIDAS. Anh và Motwani còn lập thành một đội, viết một số bài báo về chủ đề này. Trong khi khai thác dữ liệu, Brin và Motwani làm thí nghiệm bằng cách áp dụng những kỹ thuật trong việc sắp xếp hàng hóa sao cho tiện lợi vào việc sắp xếp thông tin trên mạng Internet đang phát triển mạnh mẽ nhưng tổ chức lộn xộn. Vào giữa những năm 1990, các trang web “hoang dã” (Wild West) phát triển tự do bởi kiểm soát buông lỏng. Hàng triệu người truy cập và bắt đầu giao tiếp qua thư điện tử, nhưng các nhà nghiên cứu nghiêm túc bắt đầu bực mình giữa một “rừng” trang web. Những nỗ lực đầu tiên nhằm hỗ trợ những người sử dụng vi tính tìm kiếm thông tin trên Internet gồm có WebCrawler, Lycos, Magellan, Infoseek, Excite và Hotbot. Motwani nhận xét: “Bạn nhận được một đống kết quả hoàn toàn vô nghĩa.” Motwani đã thử kiểm tra một công cụ tìm kiếm có tên Inktomi năm 1995 sau khi nó được phát triển tại Berkeley, nơi ông làm tiến sĩ tại đó. Ông đánh chữ “Inktomi” vào để xem chuyện gì xảy ra. Nhưng Motwani biết chắc rằng: “Nó không hiện lên. Nó thậm chí còn không tìm nổi mình.”
Trong khi đó, các sinh viên bậc tiến sĩ trường Stanford, Jerry Yang và David Filo, đã tìm kiếm theo phương pháp khác. Không chỉ dựa vào mỗi công nghệ, họ thuê một đội ngũ biên tập viên ngồi lựa chọn các trang web theo thứ tự bảng chữ cái. Họ đặt tên cho công ty của mình là Yahoo! Mặc dù phương pháp của họ đã đơn giản hóa chỉ tìm kiếm những thông tin giá trị, nhưng nó vẫn chưa toàn diện và không theo kịp được với sự phát triển như vũ bão của các trang web. Brin và Motwani cũng đã từng thử các công cụ và danh bạ tìm kiếm khác, nhưng chẳng có trang web nào tối ưu cả. Thay vào đó, nếu bạn tìm kiếm một từ đơn giản, hàng trăm
ngàn kết quả không theo một thứ tự nào cả sẽ hiện ra. Họ mất hàng giờ ngồi xem qua các trang web rất thủ công để kiếm ra cái họ cần tìm. Brin và Motwani ngày càng tin rằng phải có một cách khác tốt hơn để tìm kiếm thông tin trên mạng.
Cùng lúc đó, Page - người đã dành thời gian vào Dự án Thư viện điện tử - bắt đầu tìm kiếm các trang web cần thiết bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm mới AltaVista. Mặc dù công cụ này đem lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả hơn các công cụ khác nhưng Page nhận ra một điều khác. Ngoài danh sách các trang web, AltaVista còn cho kết quả tìm kiếm bao gồm các thông tin rất mù mờ được gọi là “đường dẫn”. Các đường dẫn góp phần làm cho các trang web trở nên linh hoạt; người sử dụng thấy các từ hay cụm từ được tô sáng có kích chuột vào đường dẫn đó nếu họ muốn biết thông tin chi tiết hơn, và ngay lập tức họ sẽ được dẫn tới một trang web khác. Page không tập trung vào các kết quả tìm kiếm chính AltaVista đem lại nữa, anh bắt đầu suy nghĩ xem có thể thu lượm được gì từ việc phân tích các đường dẫn.
Hector Garcia-Molina, một trong số các thầy hướng dẫn của Page, có cùng quan điểm với anh, ông cũng cho rằng phân tích dữ liệu về các đường dẫn rất có giá trị. AltaVista không quan tâm đến các đường dẫn mà chỉ đưa ra kết quả tìm kiếm ở dạng thô. Page muốn tìm hiểu sâu hơn các đường dẫn và xem liệu có tận dụng chúng triệt để hơn không. Nhưng để chứng thực bất kỳ lý thuyết nào anh đưa ra, Page đều cần tới một núi dữ liệu lớn. Là một người đầy tham vọng, anh nhanh chóng làm các phép tính rồi thông báo lại với thầy hướng dẫn khiến ông này rất bất ngờ rằng anh định tải toàn bộ các trang web toàn cầu xuống máy tính của mình.
Nghe qua, ý tưởng của Page có vẻ ngớ ngẩn hơn là táo bạo. Thậm chí anh còn tuyên bố việc tải toàn bộ trang web xuống khá dễ dàng và nhanh chóng. Garcia-Molina và những người khác cười giễu anh. Tuy nhiên, Page rất nghiêm túc và bắt tay vào nhiệm vụ thực hiện ý tưởng của mình. Anh có một người cộng sự rất tốt. Tim Berners-Lee, một chuyên gia tin học người Anh, người đã phát minh ra trang web vào năm 1989, ông đã dự đoán rằng một cái kích chuột vào những từ được tô sáng sẽ giúp người tìm kiếm thông tin đi từ văn bản này tới văn bản khác. Đối với một chuyên gia tin học có tầm nhìn rộng, trang web bao gồm tất cả các đường dẫn.
Đầu năm 1996, Page và Brin lập thành một đội tải xuống và phân tích các đường dẫn. Thu thập dữ liệu tốn nhiều thời gian hơn Page dự tính - anh ước tính rằng khoa tin học sẽ tốn 20.000 đô la mỗi lần họ gửi một chương trình “spider” (“mạng nhện”) đi tải xuống toàn bộ mạng Internet - nhưng anh vẫn muốn có được tất cả thông tin đó. Động lực thúc đẩy anh khám phá những trang web này đã thu hút sự chú ý không riêng chỉ mình Brin mà cả thầy hướng dẫn Brin, Motwani, bởi nó mở ra một triển vọng mới cho việc cải thiện nghiên cứu về web. Brin tham gia
vào dự án này bởi anh nghiên cứu cùng Page và bởi sở thích riêng muốn sàng lọc thông tin từ một núi dữ liệu ngổn ngang. Với kỹ năng toán học và lập trình của Brin, còn gì tuyệt hơn khi được sử dụng vào việc tìm hiểu toàn bộ các trang web toàn cầu?
Page có một ý tưởng: Đếm các đường dẫn chỉ tới một trang web là cách xếp hạng trang web đó có nhiều người sử dụng hay không. Mặc dù số lượng và chất lượng chưa hẳn đã tỷ lệ thuận, anh và Brin đều sinh trưởng trong những gia đình coi trọng các nghiên cứu uyên bác in trên các tạp chí Khoa học có trích dẫn của người khác. Ở khía cạnh nào đó, các đường dẫn làm Page nhớ tới các trích dẫn. Các nhà khoa học thường trích dẫn các tài liệu đã xuất bản mà họ sử dụng trong nghiên cứu của mình và các trích dẫn này là một cách hữu dụng để chiếm được lòng tin và ảnh hưởng của cộng đồng khoa học. Page cho biết: “Trích dẫn rất quan trọng. Những người đạt Giải Nobel thường trích dẫn từ khoảng 10.000 tài liệu khác nhau.” Một số lượng lớn trích dẫn từ các tài liệu khoa học, theo anh: “điều đó có nghĩa là công trình của bạn rất quan trọng, bởi những người khác cho rằng trích dẫn các tài liệu khác là việc rất cần thiết.”
Các trang web cũng tương tự như vậy, Page kết luận. Khi đã tiến được một bước xa hơn, anh đã khám phá ra một khái niệm mới mang tính đột phá: Tất cả các đường dẫn không được tạo ra giống nhau. Một số phức tạp hơn những cái khác. Anh chú tâm nhiều hơn vào các đường dẫn từ các trang web quan trọng. Làm sao anh biết được trang web nào quan trọng? Đơn giản là trang web quan trọng là những trang có hầu hết các đường dẫn dẫn tới chúng so với các trang có ít đường dẫn hơn. Nói cách khác, nếu trang chủ Yahoo dẫn tới một trang web khác, ngay lập tức, trang này sẽ trở nên nổi tiếng hơn. Anh ghép họ của mình với hệ thống tìm kiếm tài liệu trên các trang web và gọi hệ thống xếp hạng đường dẫn của mình là “PageRank.”
Một thầy hướng dẫn khác của Page, giáo sư Terry Winograd tại trường Stanford, nhận xét phương pháp khoa học khám phá ra cách xếp hạng các trang web phát triển từ ý tưởng “một bước”: nhận thức về việc có thể học hỏi được điều gì đó từ việc theo vết các đường dẫn. “Larry kể về ý tưởng đó ban đầu chỉ do tình cờ lướt mạng, ý tưởng lang thang không mục đích trên web. Quan tâm tới người sử dụng mạng là động lực cho thuật toán này. Bắt đầu vào một trang, rồi kích chuột vào một đường dẫn và bạn tìm thấy trang web bạn chú tâm vào đó nhất. Đó là nhờ hệ thống PageRank sàng lọc.”
Brin và Page tin rằng họ đã tìm thấy đề tài cho luận văn tiến sĩ của họ bằng cách áp dụng PageRank trên mạng Internet. Đầu năm 1997, Page đã tạo ra công cụ tìm kiếm cơ bản, anh đặt tên công cụ này là “BackRub” bởi nó liên quan tới các đường dẫn tới các trang web. Hơn cả may mắn, Page đặt tay trái của mình lên máy quét, quét ngược hình ảnh đen trắng bàn tay anh,
và trang BackRub mới ra đời đã có biểu tượng của mình. Page, Brin và Motwani đều đóng góp các ý tưởng cho việc phát triển dự án. Motwani cho rằng những gì mà họ cùng nhau tạo ra sẽ sớm chứng minh được rằng nó không chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu khoa học. Mặc dù không có ý định từ trước, bộ ba này đã phát minh ra hệ thống xếp hạng cho mạng Internet và quá trình này đã vô tình giải quyết được khó khăn cơ bản nhất của việc tìm kiếm thông tin trên mạng.
Motwani cho biết: “Không phải chỉ ngồi bàn bạc và nói suông: 'Chúng ta hãy tạo ra một công cụ tìm kiếm mới hoàn hảo.' Cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề khó khăn phức tạp. Larry, Sergey và tôi đều đóng góp ý kiến; do đó, chúng tôi đã tạo ra một công cụ tìm kiếm toàn diện.” Winograd đồng ý với về khái niệm: “Họ không có ý định thành lập một công ty, nhưng họ đã hoàn thành một công trình nghiên cứu xuất sắc.”
Brin, Page và Motwani cùng đưa ra mô hình công cụ tìm kiếm toàn diện thử nghiệm nội bộ tại trường Stanford. Dựa trên công nghệ về công cụ tìm kiếm truyền thống, có thêm PageRank hỗ trợ, công cụ này là cách tìm kiếm thông tin trên Internet đem lại kết quả sắp xếp theo thứ tự ưu tiên dựa trên mối tương quan. Trong khi các công cụ tìm kiếm khác dựa vào các từ khóa trùng với các từ trên các trang web, PageRank cung cấp thêm một tính năng mới: Nó giúp người sử dụng sắp xếp kết quả tìm kiếm được theo một trật tự logic. Lần đầu tiên có một cách tìm kiếm trên Internet có được kết quả hữu ích nhanh chóng.
Mùa thu năm 1997, Brin và Page quyết định BackRub cần thay một cái tên khác. Page thấy đặt một cái tên bắt mắt mà chưa ai từng đặt thật khó khăn. Do đó, anh hỏi cậu bạn cùng phòng nghiên cứu, Sean Anderson, giúp mình. Anderson nhớ lại: “Tôi viết những ý tưởng của mình lên bảng nhưng anh ấy đều không thích.” Mất mấy ngày liền như vậy. “Anh ấy bắt đầu chán nản và chúng tôi lại cùng nhau suy nghĩ tiếp. Tôi ngồi cạnh chiếc bảng và một trong số những ý tưởng cuối cùng là: “Sao không là Googleplex nhỉ?” Tôi gợi ý: “Các cậu định lập một công ty chuyên tìm kiếm và tra cứu, giúp con người tổ chức cả núi dữ liệu. Googleplex có nghĩa là một con số khổng lồ.” Anh ấy đã thích cái tên này. Anh ấy nói: “Vậy sao ta không thử là Google?” Anh ấy muốn nó ngắn gọn hơn. Tôi gõ G-o-o-g-l-e và đánh vần sai từ này và chưa có ai đăng ký cái tên này. Larry thấy hay và sau đó anh đăng ký cái tên này ngay tối hôm đó và viết lên bảng Google.com. Nghe nó rất khác biệt trên Internet, kiểu như Yahoo hay Amazon. Sáng hôm sau, tôi tới văn phòng, Tamara đã viết thêm lên đó: 'Cậu đánh vần sai rồi. Nó phải là Googol.' Tất nhiên, mọi chuyện đã an bài.”
Năm 1997, công cụ tìm kiếm này chỉ được phổ biến rộng rãi trong giới sinh viên, cán bộ giảng
dạy, các nhà quản lý tại trang web google.stanford.edu. Khắp trường, mọi người truyền miệng nhau về Google. Phòng cấp bằng sáng chế công nghệ của trường đã đăng ký bằng sáng chế cho Google. Rồi các giáo sư và sinh viên Stanford bắt đầu sử dụng công cụ này để tìm kiếm thông tin trên mạng. Giáo sư Dennis Allison tâm sự: “Nó ngay lập tức đã trở thành công cụ tìm kiếm duy nhất tôi dùng.” Giáo sư Winograd thêm vào: “Nó nhanh chóng lan ra các khu vực khác trong trường Stanford.”
Thiếu tiền thuê thiết kế và đồ họa để trang trí cho trang web thêm hấp dẫn, Brin vẫn để trang chủ Google trông đơn giản. Ngay từ trang đầu, vẻ sạch sẽ, sáng sủa của Google đã thu hút người tìm kiếm thông tin. Trong một thế giới hỗn loạn, vài màu chủ đạo nổi trên nền phông trắng thể hiện sự trong sáng và hấp dẫn mọi người trên toàn thế giới. Nó đối lập với các trang web thể hiện chằng chịt với các khung quảng cáo nhấp nháy cùng hình ảnh động với chữ viết chi chít xuất hiện ngày càng nhiều. Bởi có vẻ như Google chẳng định quảng cáo mua bán gì, nên mọi người tự do sở hữu công cụ tìm kiếm này làm theo mục đích của mình. Allison nói: “Chỉ cần thiết kế đôi chút, nó đã thực sự tỏa sáng. Nếu bạn thuê một công ty thiết kế trang chủ cho một công cụ tìm kiếm, bạn sẽ không bao giờ có được điều này. Nó không hề có hình ảnh động hay các màu chói chang, cũng không có tiếng nhạc hay đèn báo như các trang web khác, khác với những gì mọi người dự đoán.”
Do cơ sở dữ liệu và lượng người sử dụng tăng lên, Brin và Page cần thêm nhiều máy tính. Thiếu tiền, họ tiết kiệm bằng cách mua các linh kiện rồi tự lắp ráp lấy, rồi họ còn ra cảng dỡ hàng, “mượn tạm” những chiếc máy tính vô chủ. Theo Brin, “Chúng tôi chỉ mượn vài cái máy tính sau khi biết chắc họ không chuyển chúng đi ngay lập tức, họ không quá cần tới chúng.” Các thầy hướng dẫn, những người biết họ đang rất thiếu thốn, đã tặng họ số tiền 10.000 đô la từ Dự án Thư viện điện tử Stanford. Sau khi thu thập nhiều máy tính tới nỗi chật kín văn phòng Gates 360, họ biến phòng ngủ của Page thành trung tâm dữ liệu. “Chúng tôi lắp ráp máy tính từ một đống hỗn độn,” Brin nói, và họ rút ra được một bài học kinh nghiệm quý báu: từ việc lắp ráp và kết nối các máy tính rẻ tiền với nhau giờ họ đã thành công. Trưởng bộ phận hệ thống máy tính trường Stanford, ông Charlie Orgish, nhận xét: “Larry dám lùng sục cả thế giới chỉ để tiết kiệm một xu.”
Ngồi trong nhà hàng Palo Alto’s Mandarin Gourmet tháng 3 năm 1998, Page và Brin chuẩn bị gặp gỡ Paul Flherty, tiến sĩ trường Stanford đồng thời là kiến trúc sư trưởng của AltaVista, để bàn về vấn đề công nghệ của công cụ tìm kiếm tuyệt vời của họ. Họ hy vọng AltaVista sẽ trả ít nhất 1 triệu đô la để có được hệ thống PageRank sắp xin được bằng sáng chế này. Kết quả tìm kiếm sẽ được cải thiện hiệu quả hơn và đem lại cho AltaVista 54% thị phần trong lĩnh vực tìm
kiếm, và nếu công ty này muốn có được công nghệ tốt nhất này thì đây là một điều rất hợp lý. Còn Brin và Page sau đó lại tập trung vào việc nghiên cứu tại trường Stanford.
Sau khi nghe Flaherty giải thích về cách thức hoạt động của AltaVista, hai chàng trai Google biết rằng họ đang sở hữu một thứ tuyệt hơn nhiều. Tuy nhiên, một trong những vấn đề Flaherty đưa ra làm họ phải suy nghĩ đó là toàn bộ cơ sở dữ liệu của AltaVista, nếu in ra, sẽ tốn một khối lượng giấy xếp cao 60 dặm, và công cụ tìm kiếm này chỉ mất chưa đầy nửa giây để tìm bất kỳ từ nào trong đống dữ liệu đó. Trí tưởng tượng của họ đã bị chặn đứng. Dennis Allison, người mời bữa tối đó, phân vân không biết liệu trước khi tới món tráng miệng, mối quan hệ giữa họ sẽ trở nên vui vẻ hay tức giận, bởi Brin và Page đã rất hồ hởi đặt nhiều kỳ vọng trước khi tới đây.
Họ nói, AltaVista chỉ là thời kỳ sơ khai ban đầu, còn Google là sự lựa chọn của tương lai. Flaherty công nhận những chàng trai này có ý tưởng hay. Flaherty nhận xét: “Tôi thấy phương pháp dựa trên đường dẫn để xếp hạng trang web của họ rất hay, thứ mà lúc đó AltaVista còn non kém.” Có vẻ ông ấy cũng chú ý tới công trình của họ. Rắc rối xuất hiện trên mạng sau khi bạn trở nên nổi tiếng, ông bảo họ. Mọi người cố tìm cách phá hoại mạng lưới của bạn, tấn công trang web của bạn và bắt chước hệ thống tìm kiếm của bạn. Nhưng Page và Brin không hề e ngại; thay vào đó, họ tràn đầy tin tưởng và khao khát công nghệ của họ được nhiều người biết tới. Allision cho biết: “Họ rất phấn khích với những gì mình đạt được. Họ mong muốn được chia sẻ công nghệ của mình. Họ nói lịch sự khi ám chỉ ‘AltaVista chỉ là thứ vớ vẩn. Không làm những thứ cần làm.’ Còn những chàng trai này sở hữu PageRank.”
Nhưng chỉ vài tuần sau bữa tối món Trung Hoa đó, Flaherty thông báo Brin và Page rằng AltaVista từ chối mua Google. Công ty mẹ của AltaVista, Tập đoàn Digital Equipment Corp., không muốn lệ thuộc vào người ngoài. Flaherty nói: “Những người đang quản lý phần kỹ thuật không cởi mở lắm đối với công nghệ bên ngoài. Thái độ thù nghịch - “đó không phải do chúng tôi phát minh” - của họ rất cao.” Cùng lúc đó, Digital cũng đang phải đối mặt với các vấn đề phức tạp vì chưa sáp nhập được với hãng máy tính Compaq. Công cụ tìm kiếm không phải là vấn đề họ ưu tiên hàng đầu, đặc biệt từ khi AltaVista trở thành địa điểm dừng chân đối với những người lần đầu tiên lên mạng. Tìm kiếm chỉ là một trong vô số dịch vụ AltaVista cung cấp cho người sử dụng Internet ngoài các chức năng như tin tức, mua sắm, thư điện tử, v.v…
Nhờ sự giúp đỡ của các giáo sư trường Stanford và Phòng cấp bằng sáng chế công nghệ, Brin và Page đã cố gắng thuyết phục Excite và một số công cụ tìm kiếm khác mua hệ thống PageRank nhưng không thành công. Có vẻ như không ai quan tâm lắm tới những thành tựu họ
đạt được. Các công ty này chỉ chú trọng tới việc bán được diện tích quảng cáo trên trang web của mình càng nhiều càng tốt để thu được lợi nhuận càng nhanh càng tốt. Winograd đưa hai chàng trai này tới thăm một công ty tài chính trên đường Sand Hill Road, nhưng cũng chẳng ai hứng thú với việc tài trợ cho công cụ tìm kiếm này. Trong khi Larry và Sergey coi công cụ tìm kiếm này là một phần đặc biệt và quan trọng nhất đối với những người truy cập mạng Internet tìm kiếm thông tin, những người khác lại chỉ coi nó là phần phụ, đơn giản chỉ là một trong số những công cụ thêm vào làm phong phú phần dịch vụ trên trang web hơn. Nhưng bộ đôi này không đầu hàng. Winograd nhận xét: “Quan điểm của họ về những người có quyền lực hơi bi quan. Nếu họ thấy thế giới đang đi theo một hướng thì họ tin rằng phải có con đường khác, và họ tin rằng ‘Cả thế giới đang lầm đường lạc lối’ hơn là ‘Chúng ta nên xem xét lại mình.’ Họ rất tự tin vào cách thức của mình và họ cho rằng mọi người đều sai lầm.”
Yahoo, tưởng chừng là một khách hàng tiềm năng vì Yahoo dựa trên danh bạ được biên tập và vẫn chưa có phương pháp tìm kiếm thông tin nhanh chóng trên mạng, nhưng Yahoo cũng từ chối việc mua lại hay xin phép sử dụng công nghệ Google. Yahoo từ chối một phần vì công ty này muốn người truy cập mạng dành thời gian trên chính trang Yahoo của mình. Còn Google lại được thiết kế để cung cấp cho người truy cập thông tin họ cần bằng cách nhanh chóng đưa họ tới trang web có liên quan tới yêu cầu của họ nhất. Các danh bạ trên Yahoo được thiết kế vừa đáp ứng yêu cầu của người truy cập lẫn giữ chân họ trên trang web Yahoo, nơi họ có thể mua sắm, xem quảng cáo, kiểm tra thư điện tử, chơi điện tử và dành nhiều tiền bạc và thời gian hơn trên trang web này. Một trong những nhà sáng lập ra Yahoo, David Filo khuyên Brin và Page: nếu họ muốn nhận ra tiềm năng của hệ thống tìm kiếm có một không hai của mình và tin tưởng vào hệ thống này, tốt nhất họ nên dừng việc theo học bậc tiến sĩ tại trường Stanford và tự mình kinh doanh. Ông nói bằng cách đó họ có thể tự tổ chức mô hình kinh doanh sao cho phù hợp với công cụ tìm kiếm của họ. Nếu Google thực sự tuyệt vời như họ nói, nó sẽ thành công bởi Internet ngày càng phát triển mạnh mẽ và người truy cập sẽ lựa chọn những dịch vụ và trang web tốt nhất.
Những lời từ chối đã làm Larry và Sergey thất vọng và khó chịu nhưng nhờ đó hai anh đi tới quyết định của chính mình. Hai anh không biết phải làm gì. Winograd kể lại: “Họ rơi vào tình thế khó xử. ‘Chúng ta từ bỏ sao? Hay chúng ta chỉ làm nó cho vui?’” Sau nhiều tháng bị từ chối, họ quyết định, vào lúc này, họ sẽ tập trung vào việc cải tiến Google ít nhất là để phục vụ trường Stanford và bỏ qua các quyết định quan trọng. Một ngày khi họ đang cuốn mình vào một chương trình đồ họa có tên GIMP, Sergey tạo ra một dãy màu cho từ Gooogle với một dấu chấm than ở cuối, bắt chước Yahoo! Anh trông khá tự hào với biểu tượng mới, được tạo nên từ
những chữ cái rời nhau với những màu sắc chủ đạo. Nhưng biểu tượng mới này vẫn chưa đúng theo ý anh lắm. Anh hài lòng rằng anh đã tự sử dụng GIMP, một phần mềm miễn phí nhưng rất khó sử dụng.
Mùa xuân năm 1998, Brin và Page gửi thư điện tử tới danh sách những người họ gọi là Những người bạn của Google để thông báo và nhờ họ chuyển tới những người khác. Họ viết: “Google vừa mới ra đời cách đây hơn một tháng với cơ sở dữ liệu cập nhật và chúng tôi rất hân hạnh được nhận lại thông tin phản hồi từ các bạn. Các bạn có hài lòng với kết quả tìm thấy không? Các bạn nghĩ sao về biểu tượng và định dạng mới của Google? Những đặc tính mới có giúp được bạn không? Chúng tôi luôn sẵn sàng đón nhận những đánh giá, phê bình, ý kiến của các bạn. Thân ái, Larry và Sergey.”
Tới tháng bảy họ thêm vào một tóm tắt, hay đoạn trích, cho mỗi kết quả tìm được. Từ khóa tìm kiếm được in đậm trên trang web đó. Bước này giúp những người sử dụng Google thấy được kết quả nào là phù hợp với yêu cầu của mình mà chưa cần phải trực tiếp vào trang web đó để xem. Họ viết: “Chúng tôi hy vọng sẽ thấy được nhiều thay đổi trên Google trong vài tháng tới. Chúng tôi dự định có được nhiều tham chiếu hơn 24 triệu trang chúng tôi hiện có trong thời gian sớm nhất. Cảm ơn quý vị đã gửi biểu tượng và ý kiến tới cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn luôn mong được nhận được sự hợp tác đó. Chúc quý vị vui vẻ và tiếp tục tìm kiếm với Google.”
Mặc dù nhận được các thư điện tử chúc mừng, Winograd biết rằng Larry và Page còn cả một chặng đường dài chông gai phía trước. Để Google thực sự lớn mạnh, họ cần phải mạnh dạn rời khỏi trường và chấp nhận rủi ro. Nhưng nếu không có tài trợ, họ sẽ chẳng có cách nào để mua các bộ phận máy tính họ cần để thử nghiệm. Winograd nhấn mạnh tình thế khó khăn của Page. “Tôi nói: ‘Tôi không biết làm thế nào để các cậu kiếm ra tiền.’ Cậu ấy trả lời: ‘Rồi thầy sẽ thấy. Chúng em sẽ tìm được cách.’”
CHƯƠNG 4. Gia vị bí mật
Vào một ngày nắng cuối tháng 8 năm 1998 ở California, Larry và Sergey ngồi dưới mái hiên một ngôi nhà ở Palo Alto háo hức đợi ‘thiên thần của Thung lũng Silicon’ tới. Bộ đôi này đã phải làm việc suốt ngày đêm để tạo ra cách tìm kiếm mới trên Internet, mặc dù họ đã cố gắng tiết kiệm tối đa nhưng họ vẫn thiếu tiền. Một trong các giáo sư của họ, ông David Cheriton, khuyên họ nên gặp một người bạn của ông là Andy Bechtolsheim, một thiên tài tin học và một nhà đầu tư nổi tiếng nếu họ muốn thành công ngay từ những bước đầu.
Bechtolsheim tới nhà giáo sư Cherriton trên chiếc xe Porchse màu bạc, nhảy ra khỏi xe và tiến tới mái hiên, nơi ba người đang đứng đợi ông. Cũng giống như một số ít các doanh nhân giàu có tại Thung lũng Silicon, Bechtolsheim làm việc vất vả, thậm chí ông không cần tiền vì ông đam mê công nghệ năng lượng và thích khám phá các phương pháp mới giải quyết khó khăn.
Ông cũng là người khá giản dị. Rất nhiều người làm việc với trong các dự án công nghệ với Bechtolsheim tại Cisco Systems, nơi ông làm Phó Chủ tịch, không hề biết ông là người đồng sáng lập ra Sun Microsystems, đã từng thành lập rồi bán một công ty khác cho Cisco cách đây hai năm và kiếm được hàng trăm triệu đô la. Cheriton gợi sự tò mò của Bechtolsheim về Brin và Page khi kể với ông này về “ý tưởng tuyệt vời” của họ và muốn trình bày với ông: họ đã phát minh ra cách tìm kiếm thông tin nhanh hơn trên mạng Internet. Ông tỏ ra rất quan tâm. Bechtolsheim nói: “Tôi sử dụng Internet chủ yếu nhằm mục đích tìm kiếm và tôi khá khó chịu với AltaVista, dù trang web này đã được coi là chuẩn.”
Ông muốn biết chi tiết hơn. Với ý tưởng của mình, các chàng trai này có thể tiến được bao xa? Page tự tin nói với Bechtolsheim rằng họ có thể tải xuống, lập bảng chú dẫn và nhanh chóng tìm kiếm trên toàn mạng Internet thông qua một mạng lưới máy tính cá nhân chi phí thấp. Vấn đề duy nhất họ mắc phải là họ không có đủ tiền để mua máy tính.
Bechtolsheim thích ý tưởng này nhưng ông phân vân về khả năng sinh lời của nó, bởi Alta Vista và các công cụ tìm kiếm khác trên thị trường đều không đem lại lợi nhuận. Một số người còn coi công cụ tìm kiếm là hàng hóa, một loại catalog cho các trang web toàn cầu không hề có tính cạnh tranh. Nếu điều đó có chính xác thì Bechtolsheim cũng không nhầm. Cuối cùng, trước đó rất nhiều năm, một phát minh mới, hệ thập phân của Dewey, đã thay đổi hàng triệu cuốn sách được sắp xếp trong các thư viện trên toàn thế giới.
Buổi sáng hôm đó, ngồi dưới mái hiên, Brin và Page cảm thấy rất thoải mái với Bechtolsheim,
ông thích sự táo bạo của họ. Hồi trẻ tuổi đầy nhiệt tình, Bechtolsheim thường nghiên cứu rất nhiều công nghệ mới nhưng không biến chúng thành công việc kinh doanh. Khi thời kỳ công nghệ bùng nổ quanh ông, cứ 15 giây lại có một công ty mới với “.com” trên tên của mình ra đời, Bechtolsheim luôn cảnh giác với những bài thuyết trình bằng Powerpoint đầy hấp dẫn làm người khác thán phục. Ông luôn tỉnh táo, áp dụng các phương pháp đơn giản để đánh giá các dự án kinh doanh mới. Ông không thích đặt cược vào những dự án kinh doanh có triển vọng. Thay vào đó, ông đánh giá theo nhiều khía cạnh: những ý tưởng đó có giải quyết được những vấn đề thực tế không; công việc kinh doanh tiềm năng đem lại lợi nhuận thực sự không; những sáng lập viên có thông minh, say mê và có năng lực không.
Ông cũng tin vào trực giác của mình và một số đồng nghiệp của mình tại Thung lũng Silicon. Cheriton, một giáo sư có kinh nghiệm kinh doanh và rất uyên bác, là một trong nhóm chuyên gia công nghệ đó. Ngược lại, Cheriton biết rằng dù Bechtolsheim tham gia vào công việc kinh doanh này hay công việc kinh doanh khác đều làm tăng khả năng thành công của doanh nghiệp đó, không chỉ nhờ khả năng tài chính hỗ trợ mà còn vì mối quan hệ của ông với các nhà tài phiệt hàng đầu và các chuyên gia công nghệ trong Thung lũng Silicon, cũng như cách ông nghiên cứu kỹ lưỡng các ý tưởng mới và các tài năng trẻ. Khi Bechtolsheim bắt đầu nói chuyện với hai sinh viên này sáng nay, ngay lập tức ông có thể nhận ra họ là những chàng trai thông minh và nhiệt huyết, dù là họ còn thiếu kinh nghiệm và vốn đầu tư.
Sau khi Brin và Page trình bày bản thử nghiệm và nói chuyện với ông, Bechtolsheim đánh giá cao và hiểu được bước đột phá mà nhờ đó Google có thể đem lại kết quả tìm kiếm tuyệt vời. Ông cũng thán phục một điều khác ở Brin và Page. Thay vì tốn kém tiền của vào việc quảng cáo hay thiết bị tiên tiến, họ chỉ muốn mua bản mạch in chính và các bộ phận máy tính rẻ tiền rồi tự lắp ráp lấy. Họ cũng muốn phát triển một cơ sở dữ liệu đầy đủ trước khi bàn bạc với các công ty tài chính về vấn đề đầu tư. Đồng thời, họ muốn công cụ tìm kiếm của mình tự khẳng định.
Bechtolsheim nhận xét:“Các trang web khác có vốn đầu tư tốt và dành tiền vào việc quảng cáo. Còn họ tin vào quảng cáo theo kiểu truyền khẩu. Đây là phương pháp đối ngược. Tạo dựng một trang web có giá trị và phục vụ người truy cập có hiệu quả để họ chỉ sử dụng nó về sau này.”
Hài lòng với những gì được xem và hiểu được công nghệ đỉnh cao này sẽ giải quyết được những vấn đề thực tiễn, Bechtolsheim không lãng phí giây phút nào đi ngay vào điểm mấu chốt.
“Câu hỏi chính đối với một doanh nghiệp hoạt động trên Internet trong giai đoạn đầu là ‘Làm
thế nào các cậu kiếm được tiền? Tôi chẳng bao giờ đầu tư vào những ý tưởng không đem lại hiệu quả kinh tế.”
Ông xem xét các khía cạnh khác nhau: thu hút số lượng người truy cập bằng cách cho phép sử dụng miễn phí dịch vụ Google và sau đó thu lợi nhuận từ việc quảng cáo hay buôn bán mặt hàng nào đó. Larry và Sergey rất ác cảm với ý tưởng quảng cáo, cả hai đều tin rằng việc quảng cáo sẽ làm hại tới công cụ tìm kiếm. Họ đã thống nhất rõ ràng trên văn bản khi họ phát minh ra công cụ tìm kiếm. Họ cũng nói với Bechtolsheim ý định cho các công ty khác thuê bản quyền công nghệ tìm kiếm này. Và có khả năng một công ty lớn sẽ mua công nghệ này và bao gồm cả các sản phẩm khác nữa đi kèm.
Đối với Bechtolsheim, công cụ tìm kiếm gợi cho ông hình ảnh về một danh bạ điện tử có thể tra cứu gần giống như cuốn những trang vàng, trong đó có kèm các quảng cáo trên cùng trang danh bạ điện thoại tìm kiếm thợ sửa ống nước, vợt tennis, hay bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ nào.
Bechtolsheim nhận xét: “Đây là ý tưởng hay nhất mà tôi được nghe trong vài năm qua. Tôi muốn tham gia vào vụ này.”
Cả Brin và Page đều không rõ phản ứng của Bechtolsheim ra sao. Bechtolsheim, một người rất có kinh nghiệm trong việc này khiến họ cảm thấy rất thoải mái. Ngay lập tức, ông đề nghị đưa cho họ một tấm séc để mua máy tính và ông có thể tiếp tục bàn bạc thêm với họ trong lần gặp gỡ sau. Không đàm phán gì thêm. Không bàn bạc về giá cổ phiếu hay giá trị tài sản. Bechtolsheim thậm chí không biết rằng Brin và Page trước đây còn chưa từng thành lập công ty. Tuy nhiên, ông không bận tâm tới những thứ như vậy. Ông không bao giờ quên cách thức một nhà đầu tư ở Sun lúc ban đầu đã từng trao cho ông một tấm séc do tình thế bắt buộc. Ban đầu chỉ dưới danh nghĩa cá nhân nhưng sau này đã trở thành một doanh nghiệp sáng giá. Ông cũng muốn làm như vậy với Google. Brin nhớ lại, thay vì bàn luận mọi khía cạnh, Bechstolsheim viết một tấm séc đề 100.000 đô la cho “công ty Google”. Ông viết con số đó là vì đó là một con số đẹp, tròn trĩnh.
Page đặt tấm séc vào ngăn kéo bàn mình cho an toàn, nó ở đó trong hai tuần chờ hai chàng trai này đi đăng ký kinh doanh cho Google và mở tài khoản đầu tiên cho công ty mới thành lập này, nhờ đó họ có chỗ để gửi tiền vào.
Công việc “mai mối” của Cheriton buổi sáng hôm đó đã thành công tốt đẹp. Hai chàng trai hai mươi mấy tuổi này vô cùng vui sướng và họ tới Burger King để tổ chức ăn mừng. Sự chứng
thực qua tấm séc Bechtolsheim trao cho họ đã giúp họ có đủ tự tin và uy tín để vay tiền từ gia đình và bạn bè. Tổng cộng tất cả, họ đã có được khoảng 1 triệu đô la, đủ để mua thiết bị máy tính họ cần và thực hiện các bước quan trọng tiếp theo trong dự án của mình.
Andy Bechtolsheim, người đàn ông với bàn tay của Chúa, phóng chiếc Porsche đi sáng hôm đó mà không hề biết được tầm quan trọng lớn lao mà ông vừa làm. Ông tâm sự: “Trong suy nghĩ của tôi, họ sẽ có được hàng triệu người sử dụng Google và rồi họ sẽ hái ra tiền.”
Đằng sau cánh cửa văn phòng 380 đóng kín trong tòa nhà Gates trong khuôn viên trường Stanford, Sergey Brin và Larry Page đã sẵn sàng cho Google chạy thử nghiệm trước khi các anh tài tụ họp. Đó là vào tháng 9 năm 1998, Dennis Allison, giáo sư trường Stanford mời họ đến bàn bạc về công cụ tìm kiếm Google được họ phát minh cùng với sự giúp đỡ của những người khác và tính ưu việt của nó so với các công cụ tìm kiếm nổi tiếng khác trong việc tìm kiếm thông tin trên mạng Internet. Sinh viên cùng các giáo sư khoa tin học đang hồi hộp chờ đợi. Trước cửa phòng họp, Brin và Page quyết định họ không muốn nói về chuyện tiền nong. Đây là lúc nói về các khái niệm, cơ hội để trình bày trước cho lần đầu tiên ra mắt - trong trường Stanford rộng lớn này - làm thế nào họ có thể pha trộn các thành phần khác nhau để tạo nên gia vị đặc biệt cho Google làm nó trở thành công cụ tìm kiếm hiệu quả nhất và nhanh nhất trong việc tìm kiếm thông tin trên web.
Bài nói chuyện của họ là một phần trong một loạt các buổi thuyết trình ngày thứ tư do giáo sư Allison chủ tọa về những tiến bộ và đột phá quan trọng trong lĩnh vực công nghệ. Ông đề cao Brin và Page là bởi tính cách hoạt bát, sự thông minh, sự trưởng thành khác thường của họ dù tuổi còn trẻ, và một tham vọng chuyển hóa thành lòng nhiệt huyết xông pha đương đầu với những vấn đề mà người khác cảm thấy khó khăn. Đối với Brin và Page, thách thức lớn nhất là tăng thêm sinh lực cho Google. Mặc dù giáo sư Allison đã từng gặp rất nhiều chuyên gia tin học, toán học và công nghệ tài năng đến rồi đi, vẫn có điều gì đó khác biệt đối với hai chàng trai này. Ông đã từng chứng kiến sự trưởng thành và ra đi từ mái trường Stanford của các sáng lập viên như Sun Micro Systems, Yahoo, Logitech và các doanh nghiệp nổi tiếng khác. Nhưng các chàng trai Google vẫn có sự khác biệt.
Allison nhận xét: “Đó là những chàng trai đặc biệt. Họ hiện thân cho khả năng hack vi tính loại ưu.”
Bằng cách sử dụng từ “hack”, Allison không có ý ám chỉ tới hành vi phạm tội xâm nhập vào hệ thống vi tính hay phá hoại trang web. Trong giới tin học, đó là thuật ngữ chỉ khả năng viết phần mềm mang tính đột phá và mở ra khả năng sáng tạo mới. Đó là điểm khác biệt quan
trọng. Rất nhiều người ở Stanford có những ý tưởng lớn và rất nhiều được thúc đẩy mạnh mẽ, nhưng rất ít người có thể quản lý được ý tưởng của mình và vượt qua chướng ngại vật trước mắt họ. Điều ông ngưỡng mộ là cách họ nhanh chóng biến ước mơ táo bạo của mình làm thay đổi thế giới.
Allision nói: “Làm thế nào biến ý tưởng của mình trở thành hiện thực chứ không phải kiếm tiền đã thôi thúc họ. Ý tưởng số hóa toàn bộ trang web toàn cầu và hoạt động nó không phải ai cũng dám làm nhưng ai cũng cần nó. Họ đã thành công trong việc ráp chúng lại với nhau và vượt qua những rào cản. Với chút may mắn, nó đã hoạt động thực sự có hiệu quả.”
Đối với Brin và Page, những sinh viên đang theo học bậc tiến sĩ, một chân đã bước vào giới hàn lâm còn chân kia trên con đường thành lập công ty, đây là một cơ hội lớn để họ bàn luận và trình bày những phát hiện của mình trước một tập thể lớn và thu lại được ý kiến phản hồi từ giới hàn lâm này, nơi các khái niệm mới ra đời. Nhiều người đã cảnh báo họ một khi họ rời Stanford để mở công ty, bí kíp cần được giữ kín không để đối thủ cạnh tranh biết được cách thức hoạt động, chiến lược, và thủ thuật kinh doanh của mình. Thậm chí ngay trong phòng 380, họ cũng đã rất sẵn sàng đương đầu với thử thách. Với rất nhiều bộ óc thông minh nghe theo lời họ, họ không có ý muốn nuôi dưỡng đối thủ cạnh tranh.
Brin bắt đầu câu chuyện một cách bình dị: “Tôi là Sergey Brin, còn kia là Larry. Tôi vừa chạy từ đó ra đây.” Anh mở đầu bằng một ví dụ một người chuẩn bị đi du lịch và đánh cụm từ cho thuê xe hơi vào một công cụ tìm kiếm không phải Google. Anh giải thích vấn đề xảy đến với đống kết quả anh ta nhận được là chúng được xếp hạng đơn giản bằng cách đếm số lần cụm từ cho thuê và xe hơi xuất hiện trên các trang web khác nhau. Ngược lại, khi gõ cụm từ cho thuê xe hơi vào Google, trang web này sẽ cho kết quả sát hơn dựa trên cụm từ tương đương. Dưới con mắt chăm chú quan sát của những thính giả hiểu biết sâu rộng, Brin gõ cụm từ đó vào Google và chỉ ra những kết quả sát nhất, đó là những trang web đăng ký chính thức như Avis, National, Dollar, Alamo cùng các trang web khác, được chọn lọc nhanh chóng từ hàng triệu trang web toàn cầu.
Brin giải thích: “Cái chúng tôi cố gắng chứng minh với công cụ tìm kiếm này không phải mang lại cho người tìm kiếm một khối lượng kết quả khổng lồ dựa trên số lần đếm từ trong cụm từ tìm kiếm. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu cách đây gần ba năm. Nghiên cứu đó đã dẫn tới những ý tưởng mới về tầm quan trọng của một trang web và thuật toán PageRank, đây là thành phần cơ bản tạo nên công cụ tìm kiếm Google mà ngày hôm nay tôi trình bày với quý vị.”
Mặc dù trình bày về phương pháp các trang web kết nối với nhau không có gì khó khăn, nhưng
để giải thích làm thế nào có được các kết quả tìm kiếm tối ưu từ việc sử dụng các đường dẫn này kết hợp với hàng chục các yếu tố khác lại khá phức tạp. Nhưng đó là cách tạo ra công cụ tìm kiếm ưu việt hơn. Để đạt được điều đó, cần phải nghĩ theo cách nghĩ của những người điều hành trang web, những người tạo ra các đường dẫn từ ban đầu: những đường dẫn này tìm thẳng tới máy tính của người sử dụng bằng cách đưa ra thông tin có giá trị ở những trang web khác với hy vọng rằng, sẽ có nhiều người ghé thăm trang web chủ của mình qua những đường dẫn đó.
Brin nói: “Hãy để tôi kể cho quý vị những khó khăn thách thức đối với một công cụ tìm kiếm. Bạn phải ghi lại toàn bộ trang web. Khá nhiều dữ liệu. Chúng tôi sẽ chỉ cho quý vị thấy chúng tôi quản lý dữ liệu như thế nào, làm thế nào để tìm ra kết quả tìm kiếm sát hơn, những gì chúng tôi mong chờ trong ba năm phát triển và cả những vấn đề mang tính xã hội.”
Đối với những người có thời gian và muốn hiểu biết sâu hơn những vấn đề kỹ thuật, Brin mời họ đăng ký tham gia một khóa học do anh và Page giảng dạy về các công cụ tìm kiếm và cam kết các học viên có quyền được “truy cập vào nguồn thông tin dồi dào không đâu có trên thế giới.” Còn lúc này đây, Brin và Page dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để giải thích các bước cơ bản trong quá trình họ xây dựng công cụ tìm kiếm Google.
Brin đặt câu hỏi:“Điều đầu tiên để xây dựng một công cụ tìm kiếm là gì?”
Đây là một câu hỏi tu từ, nhưng để đề phòng ai chưa hiểu rõ ý đồ của mình, anh nói tiếp ngay: “Có hàng triệu địa chỉ web trên mạng, hàng trăm triệu trang web. Vậy làm thế nào thu thập được tất cả các dữ liệu? Điều này hóa ra cũng không khó lắm. Về phần mình, chúng tôi tin vào lý thuyết Moore.”
Có sáng kiến chưa chắc quan trọng bằng việc hiểu rõ bản chất lý thuyết Moore. Vào khoảng giữa những năm 1960, một kỹ sư tên Gordon Moore, một trong những sáng lập viên của Intel, dự đoán rằng sức mạnh máy tính sẽ tăng lên gấp đôi trong vòng vài năm tới. Không cần tới sự dự đoán này, xu hướng đi từ các máy tính chủ khổng lồ được sử dụng trong các công ty, trường đại học và chính phủ không bao giờ dẫn tới việc phát minh ra máy tính cá nhân, giúp mỗi người theo kịp xu hướng thời đại. Xu hướng ông dự đoán lặp đi lặp lại nhiều lần trong những năm qua. Cái Brin đang trình bày bây giờ là lý thuyết Moore áp dụng trong việc tạo dựng một công cụ tìm kiếm thông tin trên toàn bộ mạng Internet.
“Tại thời điểm đó, mọi người nhập văn bản, tạo ra các thứ khác, ghi đĩa đã nhanh hơn rất nhiều. Chúng tôi có thể nhét gọn toàn bộ kiến thức của loại người, bất kỳ thông tin nào con
người tạo ra, bỏ vào túi bạn, ngoại trừ các hình ảnh video, trong một vài thập kỷ tới”, Brin tự tin phát biểu. “Mọi thứ đều có thể thực hiện được. Bạn giữ toàn bộ dữ liệu tại một trung tâm. Bạn xử lý dữ liệu qua trung tâm đó, như chúng tôi đã làm.”
Vấn đề ở chỗ mọi người không thể xử lý hàng ngàn kết quả tìm kiếm được. Brin tiếp tục, “Tiếc là, con người giờ không tuân theo lý thuyết Moore nữa. Họ tiến hóa chậm hơn trước. Đó là một vấn đề nghiêm trọng. Thực sự, ta cần phải giải quyết vấn đề này.” Thính giả cười rộ lên.
Nhận được tấm séc 100.000 đô la từ Andy Bechtolsheim và đi đến quyết định dừng việc theo học chương trình tiến sĩ tại Stanford, Brin muốn để cho các chuyên gia thấy được con đường mà anh và Larry đang đi. “Chúng tôi đang tiến tới thương mại hóa Google. Quý vị sẽ thấy điều đó trên trang Google.com trong tương lai gần. Có một số điểm chúng tôi sử dụng giúp công cụ tìm kiếm trở nên hiệu quả hơn. Nhưng tôi sẽ không đi sâu vào một số chi tiết cụ thể.”
Nghe những gì Brin phát biểu, Allison nhận ra rằng cũng giống như lý thuyết khoa học, thứ này nói thì dễ nhưng thực hiện khó hơn nhiều. Allison cảm nhận: nhưng nếu ai đó thực hiện điều này, đó chính là những chàng trai Google - họ đang vững bước thẳng tiến trên con đường của mình.
Công cụ tìm kiếm Google tính đến nhiều yếu tố trong quá trình tìm kiếm thông tin hơn các công cụ tìm kiếm khác trên thị trường. Nó không chỉ đếm các từ hay các đường dẫn rồi đưa ra kết quả. Nó kết hợp thông tin về các đường dẫn và các từ với các tham số khác, theo các phương thức mới và thú vị để tạo ra các kết quả tìm kiếm tốt hơn. Brin lấy ví dụ vấn đề quan trọng là khoảng cách giữa các từ hoặc cụm từ cần tìm trên các trang web, chúng đứng gần nhau hay cách xa nhau, cỡ chữ của chúng có khác nhau không, chúng được viết hoa hay viết thường.
Anh nói: “Chúng tôi cố không bỏ qua quá nhiều thông tin. Chúng tôi luôn đứng từ góc nhìn người sử dụng. Chúng tôi tiêu tốn năng lượng máy tính rất lớn để tạo ra kết quả ưu việt, nhưng điều đó rất đáng giá.”
Để có được kết quả tìm kiếm có chất lượng không chỉ cần các thuật toán và các công thức toán học chính xác trong các phần mềm mà còn cơ bản dựa vào năng lực máy tính lớn hơn bất kỳ công cụ tìm kiếm nào khác trên thị trường đang áp dụng. Larry và Sergey thấy thoải mái khi mọi người không để ý lắm tới thành phần quan trọng này trong công thức tìm kiếm này. Nhưng ngay từ đầu họ hiểu rằng cách duy nhất đem lại kết quả tìm kiếm tối ưu cho người sử dụng là cần đầu tư vào việc mua máy vi tính, mà trước đây chưa ai từng làm. Bộ đôi này không chỉ lập kế hoạch phát triển phần mềm, họ còn dự định tập trung vào mọi khía cạnh của mạng
máy tính, bởi đây không chỉ là một yếu tố quan trọng giúp đem lại kết quả tìm kiếm tốt nhất. Phần cứng và phần mềm có quan hệ mật thiết không thể tách rời, tối ưu hóa cả hai phần này đều rất cần thiết. Họ biết rằng họ sẽ có lợi từ việc giảm giá thành chi phí đầu vào và tăng bộ nhớ của máy tính và năng lực của các thành phần khác. Họ tận dụng khả năng thiên phú của mình để phát triển phần mềm, mua các bộ phận máy tính và lắp ráp hệ thống máy tính để có thể hoàn thành công việc. Mục đích của họ là có được một phương pháp chính thống đem lại kết quả tìm kiếm tốt nhất so với tất cả các công cụ tìm kiếm khác đã và đang hoạt động.
Khi Dennis Allison lắng nghe bài nói chuyện, ông nhớ lại những giây phút ở Stanford với hai chàng trai này. Ông ngưỡng mộ họ. Họ rất đáng tin cậy và muốn làm những việc nên làm. Bỏ qua khía cạnh kiến thức chuyên môn, bạn sẽ thấy đây là hai chàng trai rất cá tính. Những tính cách này thể hiện trong công việc họ làm, đặc biệt trong những lĩnh vực người khác cần tin tưởng bạn để có cơ sở tin vào sản phẩm bạn tạo ra. Trong con mắt của Allison, họ là những thiên tài máy tính, với nhiều sở thích đa dạng phong phú khác, đó là sự kết hợp rất cần thiết để thành công trong một thế giới rộng lớn. Họ là những người cởi mở, cấp tiến, điều đó có nghĩa là ở Thung lũng Silicon, họ họ ưa thích sự tự do và các hệ thống phần mềm mở, hơn là các hệ thống đóng mà Bill Gates và hãng Microsoft sử dụng. Và họ cũng là những người biết giữ chính kiến.
Allison nhận xét: “Họ không thích một số điều đang diễn ra trong các công ty của Mỹ và không ngần ngại phát biểu điều này.”
Khi tới lượt Page phát biểu, Allison tiếp tục bị ấn tượng bởi các chàng trai Google. Larry có năng khiếu làm giáo viên. Anh có khả năng tìm ra ý chính và biểu đạt theo cách đơn giản dễ hiểu. Đối với Allison, đây là tố chất của một người có lối suy nghĩ rành mạch, hiểu được bản chất vấn đề.
Page trình bày với thính giả yên lặng ngồi dưới: “Mỗi lần bạn tạo ra một đường dẫn. Bạn đã tạo ra một trích dẫn. Nhưng nếu bạn chỉ ngồi đếm các trích dẫn trên web, giống như các công cụ tìm kiếm khác thì bạn cũng gặp rắc rối ngay. Trang web không phải là tác phẩm khoa học, bởi ai cũng có thể lập được trang web.
Anh giải thích: “Một khía cạnh khiến tôi nghĩ tới PageRank là cách thức sử dụng nó. Nó có một bộ phận lướt web ngẫu nhiên. Nó giống như một con khỉ, chỉ cần ai đó ngồi một chỗ và kích chuột vào các đường dẫn cả ngày, không cần tí tẹo thông minh nào. Bạn có thể cho rằng hành động đó gần như hành vi của con người khi lướt web.” Page dừng lại, thính giả gật gù và anh lại tiếp tục.
“PageRank là cách nói cơ bản, nếu ai đó chỉ cho bạn, bạn sẽ hiểu được phần nào tầm quan trọng của họ. Ví dụ có ai đó rất quan trọng chỉ cho bạn. Điều này quan trọng hơn nhiều so với ai đó chỉ cho bạn một trang web ngẫu nhiên. Ví dụ, nếu Yahoo chỉ cho bạn từ trang chủ của Yahoo một đường dẫn nào đó thì đường dẫn đó sẽ thu lại bộn tiền. Nếu bạn chỉ có một đường dẫn từ trang chủ của Yahoo, thế cũng tốt lắm rồi. Dù bạn phải trả cho ai đó một khoản tiền lớn hay trang web của bạn khá tốt. Nếu bạn có một đường dẫn trên trang chủ của tôi, không ai buồn quan tâm lắm.” Sau đó, Page giải thích làm thế nào anh tạo ra được công thức để có được các kết quả tìm kiếm theo thứ tự xếp hạng. “Chúng tôi đánh số cho các trang đó chủ yếu dựa trên tầm quan trọng của chúng. Xếp hạng trang web là phép tính tổng của tất cả những gì dẫn tới trang web đó.”
Page nói, một thách thức cơ bản khác đối với các công cụ tìm kiếm đó là người ta cố gắng đánh lừa để trang web của họ có thứ hạng cao hơn trong danh sách kết quả tìm kiếm được. Công cụ tìm kiếm phải thắng được cái vòng luẩn quẩn này bằng cách phải thông minh hơn những trang web gian dối kia.
Page cho biết: “Người ta cố tình đánh lừa các công cụ tìm kiếm. Bao nhiêu lần quý vị thấy những trang web khiêu dâm lẫn với những trang web khác? Xin quý vị giơ tay. Được rồi. Không nhiều người thừa nhận chuyện này lắm. Đó là một vấn đề lớn đối với các công cụ tìm kiếm. Về cơ bản, người ta kiếm tiền bằng cách làm sao để trang web của họ xuất hiện trong danh sách kết quả mỗi lần ai có nhu cầu tìm kiếm, họ không quan tâm tới việc bạn cần tìm cái gì, họ không quan tâm tới bất kỳ cái gì khác. Họ chỉ muốn ngày càng có nhiều người truy cập trang web của họ. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng.”
Sau khi giúp mọi người nhận thức được vấn đề, Page trình bày quá trình tìm ra giải pháp của mình. Anh nói giải pháp bao gồm một cách thức linh hoạt đánh giá tầm quan trọng thực sự của các trang web. Điều này làm các điều hành viên trang web khó lừa hệ thống tìm kiếm hơn. Với cách tính số lượt người thực sự truy cập trang web đó, Google đã giải quyết được vấn đề này.
Về mặt này, Page không thể không nói đến một ví dụ về công nghệ tìm kiếm chưa hoàn thiện của một công cụ khác. Anh nói: “Các công cụ tìm kiếm hiện tại hoạt động chưa hiệu quả. Nếu bạn gõ chữ AltaVista vào một công cụ tìm kiếm khác liệu bạn có vào được trang chủ của AltaVista không? Có thể là không. Nhưng chúng tôi làm được. Chúng tôi tự làm những việc này. Đó là việc quan trọng nhất cần làm.”
Điều cốt yếu trong phương pháp của Google là chia nhỏ những nhiệm vụ phức tạp thành những phần nhỏ hơn để có thể giải quyết đồng thời. Sử dụng đúng các công thức toán học và luôn sắm
thêm máy tính, Brin và Page đã tạo ra một dây chuyền lắp ráp hiện đại có thể xử lý các công việc như thu thập, đánh số, trình bày thông tin, và cũng tận dụng lý thuyết Moore, đảm bảo rằng càng ngày càng sử dụng nhiều năng lực máy tính để giảm chi phí.
“Chúng tôi tìm kiếm và tải về tất cả các trang web. Chúng tôi tải về khoảng 100 trang mỗi giây.” Page cho biết, “Hoàn thành chu đáo việc này khá phức tạp. Thực tế, chúng tôi lưu trữ tất cả các trang web tải về, ghi lại ra đĩa để đầy trong phòng. Việc này rất có ích cho tra cứu sau này.”
Khi Larry Page hé lộ thêm một chút về nhân tố đã giúp công cụ tìm kiếm Google tốt hơn các công cụ khác, sinh viên và giáo sư trường Stanford lắng nghe đầy say mê.
“Bất kỳ khi nào bạn tìm kiếm hai từ trở lên, chúng tôi để ý tới khía cạnh các từ đó cách nhau bao xa trên một trang web”, anh tiết lộ. Để làm được điều đó, một loạt các công thức trong phần mềm phức tạp sẽ giải quyết. Các công cụ tìm kiếm khác sử dụng phương pháp đơn giản hơn nhiều, do đó không bắt kịp được với tốc độ phát triển như vũ bão của các trang web. Nhưng với các công thức toán học năng động, tải xuống các trang web nhiều hết mức có thể và toàn diện đã giúp Google ưu việt hơn hẳn.
Page giải thích, “Nếu bạn muốn có nhiều dữ liệu hơn, bạn phải lướt web nhiều hơn. Đó là cách dễ dàng để thu thập thông tin.”
Larry và Sergey cũng rất cẩn trọng không hé lộ quá nhiều bí mật về PageRank và Google. Rất có thể gián điệp từ các công ty khác có mặt trong thính phòng và họ không muốn bị ai đó tước đoạt đi công sức họ đã bỏ ra bấy lâu nay.
Về điểm này, Brin quyết định lái chủ đề theo chiều hướng vui vẻ. Theo anh lướt web và đánh số trang web trên mạng, nghe qua có vẻ đây hoàn toàn là vấn đề kỹ thuật nhưng nó cũng rất ly kỳ và thậm chí cả mạo hiểm. Sergey giải thích, từ quan điểm của những người sở hữu các trang web, những người lướt web tải về bị coi là những kẻ xâm nhập không mong đợi.
Brin nói: “Nhưng xét theo khía cạnh khác khi lướt web, chúng tôi cũng gặp rất nhiều điều thú vị. Nếu bạn đang liên hệ với một triệu trang web, về cơ bản, bạn đang liên hệ với một triệu người sở hữu trang web. Do đó, bạn hãy thử tưởng tượng bạn lê gót từ nhà này sang nhà khác, gõ cửa một triệu căn nhà và đưa cho họ địa chỉ thư điện tử của bạn.”
Brin cho biết có một số chủ sở hữu các trang web hơi “khùng”, họ lo ngại Google sẽ phá hoại trang web của họ, trả đũa lại bằng hàng loạt bom thư hay đe dọa đưa ra pháp luật. “Họ nói với
bạn bằng giọng kiện cáo, và chúng tôi không chạm tới các trang web tại Montana. Có thời kỳ, chúng tôi không đụng tới các trang web của Singapore… Thỉnh thoảng bạn gặp những người này và họ sẽ liên hệ với nhân viên quản lý rủi ro tại Stanford - thậm chí bạn còn không biết người đó có tồn tại hay không. Chúng tôi đang tải các trang web về. Họ liên hệ với chúng tôi. Rắc rối chẳng bao giờ kết thúc.”
CHƯƠNG 5. Chia nhỏ và chinh phục
Khi Brin và Page rời trường Đại học Stanford mùa thu năm 1998, theo đuổi việc xây dựng công cụ tìm kiếm tốt nhất thế giới, họ rời máy tính, thiết bị máy móc và đồ chơi của mình sang gara ô tô và một số phòng trong một ngôi nhà có bồn tắm nóng ở gần Công viên Menlo. Người chủ nhà và là người chủ nhà đầu tiên, Susan Wojcicki, biết Brin vì anh đã từng hẹn hò với bạn cùng phòng của cô. Brin và Page có thể thuê diện tích đó với giá 1.500 đô la một tháng nhưng họ đã chọn việc trả 1.700 đô la một tháng để không cần phải trả thêm các khoản phí và thuế nào nữa và mọi việc xuôi chèo mát mái ngay từ đầu. Ngày 7 tháng 9, họ chính thức thành lập Công ty Google. Sau đó, họ mở tài khoản ngân hàng đầu tiên và gửi tấm séc trị giá 100.000 đô la của Bechtolsheim vào đó. Họ thuê một người bạn, Craig Silverstein, bạn đồng môn theo học tiến sĩ tại trường Stanford, làm nhân viên đầu tiên của họ. Silverstein cho biết: “Chúng tôi tìm được một nơi có thêm khoảng không gian phụ và chuyển tới đó, làm việc trong một gara, giống như những buổi ban đầu của Thung lũng Silicon. Wojcicki đột ngột xuất hiện, bởi cô nghĩ mấy chàng trai này chỉ ở dưới gara khi cô không ở đó. Wojcicki nói: “Chúng tôi nghĩ ‘Có lẽ họ chỉ ở đó vào ban ngày khi chúng tôi đi làm. Chúng tôi không hề để ý’. Nhưng thực ra thì họ ở dưới đó 24/24, cả ngày luôn. Cuối cùng, mọi thứ đều tố đẹp. Thêm vào đó, chúng tôi có Internet miễn phí.”
Sau năm tháng, gara của Wojcicki đã không đủ chỗ cho máy móc của Brin và Page, do đó, đầu năm 1999, họ rời văn phòng của mình tới University Avenue ở thủ phủ Palo Alto. Đây là lần thay đổi đầu tiên khởi đầu cho những lần thay đổi sau này đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của công ty. Họ muốn công việc trở nên sống động và vui vẻ, và quyết định phát triển theo hướng đó. Tầng hai của trung tâm một thị trấn đại học đẳng cấp là một nơi lý tưởng, chỉ cách trường Stanford khoảng một dặm và trông sống động hơn so với khu văn phòng. Cả hai chàng trai đều không có ý niệm rõ ràng về việc công ty sẽ kiếm tiền bằng cách nào, mặc dù cả hai đều tự thấy họ có công cụ tìm kiếm ưu việt hơn nên các công ty khác sẽ muốn mua để sử dụng. Hơn tất thảy, họ cảm thấy vui mừng vì đã giúp mọi người tìm kiếm thông tin trên mạng nhanh hơn và hiệu quả hơn. Đó vẫn là động lực chính thúc đẩy họ. Page tâm sự: “Chúng tôi thành lập công ty này bởi chúng tôi chưa hài lòng với công nghệ tìm kiếm hiện tại. Nếu chúng tôi thành công, đó sẽ là công dụng phụ tuyệt vời.”
Đã khá nổi tiếng đối với những sinh viên và giáo sư trong trường Stanford, công cụ tìm kiếm của họ giải quyết 100.000 lượt tìm kiếm mỗi ngày. Sự phát triển này hoàn toàn nhờ truyền
miệng, thư điện tử và tin nhắn nhanh: miễn phí, đó là các dạng marketing có tác dụng mạnh mẽ và nhanh chóng mà họ không muốn bỏ lỡ vì giờ họ đã rời trường và bị cô lập hơn. Tháng 1 năm 1999, hai chàng trai đã có bài phát biểu trước khoảng 40 sinh viên và các đại biểu khác tại Stanford, và họ coi đó là cách để giữ liên hệ với các giáo sư. Vào tháng 2 năm 1999, họ gửi một bức thư thông báo tới những người sử dụng và bạn bè của mình.
“Dự án nghiên cứu Google giờ đã trở thành trang web Google.com. Chúng tôi mong muốn đem đến kết quả tìm kiếm với chất lượng cao hơn và cải thiện hơn cho toàn thế giới, và một công ty là hình thức tốt nhất để đạt được mục tiêu đó. Chúng tôi đã tuyển thêm nhiều nhân viên và lắp đặt thêm nhiều máy chủ để mở rộng hệ thống (chúng tôi đã đặt thêm 21 máy tính nữa). Chúng tôi cũng bắt đầu tìm kiếm các trang web thường xuyên hơn, vì vậy kết quả tìm kiếm của chúng tôi vẫn giữ được tốc độ nhanh chóng và cập nhật. Chúng tôi tuyển những người tài năng đem đến công nghệ mới nhất và tuyệt vời nhất cho các trang web.” - Page và Brin viết.
Brin và Page đưa ra 10 lý do bạn nên làm việc cho Google, bao gồm công nghệ tiên tiến, có thể mua cổ phần công ty, miễn phí đồ ăn nhẹ và đồ uống và thị phần hàng triệu người “sẽ sử dụng và đánh giá cao phần mềm này.” Tầm nhìn của họ về hướng phát triển Google rất rộng, mặc dù ban đầu một số đối tác và nhà đầu tư tiềm năng từ chối họ, lòng nhiệt tình của họ tăng cao cùng với số lượng người sử dụng Gooogle. Những người khác bắt đầu để ý. Mặc dù Google vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nó đã được tạp chí PC Magazine xếp hạng Top 100 trang web và Công cụ tìm kiếm hàng đầu trong năm 1998.
Các xu hướng hội tụ lớn giúp Brin và Page tiến xa hơn. Các công cụ tìm kiếm nổi tiếng bao gồm AltaVista, Excite và Lycos đang trong quá trình từ sứ mệnh chính là đầu tư vào việc tìm ra công nghệ tìm kiếm tốt hơn, bởi họ đã bị các công ty lớn hơn nuốt mất hoặc họ theo đuổi dòng tiền thu lại từ quảng cáo từ các công ty “.com” mới niêm yết trên sàn chứng khoán có nhiều tiền hơn trí khôn. Chất lượng kết quả giảm sút làm người truy cập chuyển sang tìm các công cụ tìm kiếm khác hiệu quả hơn, và họ đã tìm ra, ngày càng có nhiều người phát hiện ra Google. Tạp chí PC Magazine đưa Google vào danh sách khiến hàng ngàn người bắt đầu tìm hiểu xem Google là gì và điều này cũng cho các chàng trai một bài học về sức mạnh của phương tiện truyền thông miễn phí: Bởi Thung lũng Silicon ngay bên cạnh chỗ họ tốn hàng triệu đô la để quảng cáo, còn họ không hề quảng cáo trên Super Bowl và các thể loại tiếp thị khuyếch trương, nhưng Google nhanh chóng được mọi người biết tới mà chẳng tốn một xu.
Mọi người lúc đó có tư tưởng: tất cả các trang web trong một là cánh cổng được mọi người lựa chọn trên mạng Internet, nhưng Brin và Page không tin như vậy. Bằng cách cố thỏa mãn nhu
cầu của tất cả mọi người, những cổng này sẽ không đáp ứng được bất kỳ yêu cầu cụ thể hay đặc biệt nào để người ta phân biệt được trang web này với trang web khác, bởi mạng Internet phát triển theo hướng thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Với lối nghĩ tập trung, Page và Brin tin rằng công cụ tìm kiếm trên Internet là vấn đề quan trọng cần được giải quyết và họ có khả năng làm việc đó, cách này sẽ thu hút thêm nhiều người truy cập mới. Để đảm bảo tính chính xác, tốc độ nhanh và độ tin cậy cao trong từng tìm kiếm, hai chàng trai này đã đầu tư hầu hết số tiền họ có được vào việc mua thêm phần cứng vi tính và hầu hết thời gian vào việc thu hút nhân tài và cải thiện phần mềm. Mục tiêu của họ là trở thành công cụ tìm kiếm mạnh nhất, vào đúng thời điểm những công ty khác từ bỏ nó và thậm chí còn chế giễu gọi nó là hàng hóa. Cả hai vẫn kiên định với niềm tin công cụ tìm kiếm là cách quan trọng để tìm kiếm thứ cần tìm trong một thế giới web phát triển ngày càng mạnh mẽ. Do số lượng yêu cầu trên Google ngày càng tăng, họ bắt đầu nhận thấy họ đã tạo ra sự nổi tiếng cho nhãn hiệu và biểu tượng của mình không hề cố ý.
Ngay sau khi chuyển tới văn phòng mới tại Palo Alto, Google đã có 8 nhân viên luôn vất vả để theo kịp sự gia tăng yêu cầu tìm kiếm mỗi ngày. Hệ thống vi tính độc đáo của Google, được lắp ráp từ những linh kiện rẻ tiền và phần mềm tự thửa vào một chiếc “siêu máy tính” nhỏ, tạo cho nó sức mạnh giải quyết các yêu cầu tìm kiếm ngày càng tăng nhanh và cả việc tải về các trang web. Nhưng cũng có những thời điểm tưởng chừng không thể theo kịp với nhu cầu, đó là khi Brin và Page đã tiêu hết khoản tiền 1 triệu đô la đầu tư ban đầu họ có được từ Andy Bechtolsheim và những nhà đầu tư ban đầu và thông qua vay mượn bằng chính thẻ tín dụng. Năm tháng trôi qua, số lượng tìm kiếm mỗi ngày lên tới hơn 500.000 lượt. Rõ ràng là Brin và Page cần có thêm tiền mua máy tính thêm vào hệ thống. Họ càng thêm vào nhiều máy vi tính, họ càng đáp ứng được nhiều yêu cầu. Họ càng đáp ứng được nhiều yêu cầu, công việc kinh doanh của họ phát triển càng thuận lợi. Tuy nhiên, cả hai anh chàng này đều không muốn mất quyền kiểm soát công ty của mình.
Trong môi trường phát triển mạnh mẽ của Thung lũng Silicon đầu năm 1999, thu hút vốn thông qua việc niêm yết giá trên thị trường chứng khoán là một cách dễ dàng đối với Google mặc dù công ty này không tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu niêm yết trên thị trường, Brin và Page không muốn tiết lộ những bí mật kinh doanh và phương pháp riêng của mình, và họ cũng không hứng thú với việc kiếm tiền bằng việc tiếp tục phát triển công cụ tìm kiếm của họ. Thu hút thêm những nhà đầu tư hảo tâm không còn khả thi nữa bởi số tiền họ cần bây giờ rất lớn. Nhưng tự họ cũng không thể phát triển công việc kinh doanh. Họ bắt đầu cấp phép cho các công ty muốn sử dụng công nghệ tìm kiếm vào mạng lưới nội bộ hay ngoại mạng của họ, Công
ty phần mềm Red Hat là khách hàng chính thức đầu tiên. Nhưng đây là một ngoại lệ. Họ cảm thấy khó khăn khi thuyết phục mọi người trả tiền cho dịch vụ tìm kiếm khi mọi người đều cho rằng việc tìm kiếm đó không quan trọng. Cái họ cần là nguồn tiền từ bên ngoài.
Page và Brin phải học hỏi tìm cách giải quyết bài toán tài chính. Họ quyết định thu hút tiền đầu tư thông qua một công ty tài chính mà không làm mất quyền kiểm soát công ty. Có vẻ ban đầu ý tưởng tải về và tìm kiếm tất cả các trang web của Page chỉ là ý tưởng. Nhưng giờ họ hoàn toàn tự tin rằng họ có khả năng biến ý tưởng thành hiện thực. Tất cả mọi người trong Thung lũng Silicon đều tin rằng bất kỳ doanh nghiệp nào ban đầu cũng cần có sự nâng đỡ về mặt tài chính của các công ty đầu tư uy tín trên đường Sand Hill. Tiền được đầu tư đúng chỗ sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh công nghệ. Đồng thời đánh mất quyền kiểm soát công ty vào tay những nhà đầu tư cũng có thể phá hỏng tầm nhìn của các sáng lập viên và mục tiêu dài hạn là tạo ra đột phá trong công nghệ.
Sau khi xem xét tất cả các công ty đầu tư tài chính lớn có thể hợp tác, các chàng trai Google đã tìm hiểu tại sao các công ty lần lượt mất quyền tự kiểm soát. Các nhà đầu tư tài chính đã gian xảo đưa các công ty này lên thị trường chứng khoán và mua hết cổ phiếu ban đầu của công ty đó hoặc buộc họ phải bỏ nhiều tiền vào quảng cáo. Nhờ có những lời khuyên của nhà đầu tư ban đầu am hiểu về công nghệ như Jeff Bezos, giám đốc Amazon.com, Brin và Page đã quyết định hợp tác với hai trong số những công ty đầu tư tài chính tên tuổi và uy tín bậc nhất tại Thung lũng Silicon: Kleiner Perkins Caufield & Byers, và Sequoia Capital. Nếu mọi việc thuận lợi, mục đích của họ là hai công ty này đầu tư vào Google mà vẫn không mất quyền kiểm soát công ty. Trong khi hai công ty đánh nhau để có được quyền kiểm soát, ưu thế và quyền để trở thành nhà đầu tư độc quyền, Brin và Page xây dựng số phận của Google và vẫn giữ vai trò chủ sở hữu chính. Nếu không, hai sáng lập viên này phải tìm nguồn đầu tư khác. Do đó, tại sao lại phải dùng cách mà người ta thường làm? Họ sẽ tự làm theo cách của mình hoặc không làm gì cả. Sẽ không có thoả hiệp nào hết. Đơn giản chỉ có vậy.
Trong kỷ nguyên các công ty trên mạng bùng nổ, cả John Doerr, Giám đốc Kleiner Perkins và Michael Moritz, Giám đốc Sequoia Capital đều mệt mỏi mỗi lần ngồi nghe các bài thuyết trình vô tận bằng PowerPoint về những ý tưởng kinh doanh mới. Việc xác định công ty nào đáng đầu tư trở nên vô cùng khó khăn; khi các ý tưởng hiện lên trên màn hình, họ buộc phải đoán xem trong hàng chục ý tưởng và công nghệ mới xem cái nào thực sự đáng đầu tư. Đối với hai công ty đầu tư khổng lồ trong lĩnh vực tài chính ở Thung lũng Silicon này, Sergey Brin và Larry Page như một luồng không khí mới. Thay vì thuyết trình bằng PowerPoint, họ biểu diễn với công nghệ tìm kiếm của họ làm cho Doerr và Moritz cảm thấy chưa từng bao giờ thấy cái gì hấp dẫn
hơn thế. Hai chàng trai Google tỏ ra thông minh hơn hẳn và vô cùng gai góc. Họ biết tất cả. Tuy nhiên, họ cũng có các mối quan hệ, truyền thống học tập tại trường Stanford, có nhiệt huyết và có mục tiêu xác định trong đời. Không giống với những người bình thường khác, họ có ý tưởng hay nhưng lại không đủ khả năng thực hiện, còn đối với hai chàng trai Google họ sẽ làm đến cùng để thực hiện ý tưởng của mình.
Trở ngại lớn nhất đối với họ là làm thế nào để đánh giá được giá trị của công nghệ tìm kiếm này khi nó không trực tiếp gắn với lợi nhuận kinh doanh và liệu có nhà đầu tư nào thực sự quan tâm tới việc cộng tác với họ khi họ lại vẫn giữ được quyền kiểm soát công ty. Cả Doerr và Moritz đều gặp khó khăn với chiếc lược dài hạn mà Brin và Page muốn khai thác. Cả hai công ty đều đầu tư rất nhiều tiền ở các công ty khác nhau, đặc biệt chú trọng tới các công ty hoạt động trên mạng. Giáo sư trường Stanford, David Cheriton, một chuyên gia được các nhà đầu tư tài chính tín nhiệm, đảm bảo rằng hai chàng trai Google này là những người rất trung thực và làm việc có uy tín khi ông giúp họ sắp xếp cuộc gặp gỡ này. Và còn hơn thế nữa. Mặc dù cách họ tiếp cận công nghệ PageRank và chiến lược phần cứng máy tính cực kỳ nghiêm túc, họ tỏ ra là những chàng trai vô cùng dễ chịu, những người hiểu biết ở mọi lĩnh vực. Họ thật đặc biệt. Điều đó đã khiến nhiều người muốn có họ.
Moritz gặp Brin và Page lần đầu qua David Filo, Giám đốc Yahoo từ khi họ còn là sinh viên tại trường Stanford. Moritz và công ty tài chính của ông, Sequoia Capital, đã đầu tư vào Yahoo 2 triệu đô la và gặt lại 32 triệu đô từ việc tung ra IPO của Yahoo năm 1996. Vào khoảng thời gian đó, Brin và Page đang thu thập thông tin để thành lập công ty, bao gồm các phương pháp định giá và các kỹ thuật khác, để họ lập ra bản thỏa thuận với trường Stanford để hỗ trợ việc cấp bằng phát minh cho PageRank và giúp họ được cấp phép trong trường. Họ cũng được khuyên nên gặp gỡ một số nhà đầu tư tài chính ngay từ đầu, trước khi họ cần tới tiền. Moritz nhớ lại: “Họ tới văn phòng tôi và họ rất tò mò muốn biết thành lập công ty thì bắt đầu thế nào. Nhưng thế hơi nhanh, chúng tôi gặp rất nhiều cuộc trao đổi như vậy. Sau đó, tôi cũng không quan tâm lắm tới cuộc trao đổi lần đó.”
Năm 1999, Google bắt đầu thiếu tiền đầu tư, một trong số các nhà đầu tư tốt bụng, một Giám đốc tài chính tại Thung lũng Silicon tên là Ron Conway đã liên hệ với Moritz và nhờ ông này sắp xếp cuộc hẹn gặp với Brin và Page.
Moritz nói: “Ron Conway nhắc lại tôi mới nhớ ra họ. Tôi cũng từng biết tới họ qua những người ở Yahoo. Hồi đó là mùa xuân năm 1999, do đó mọi thứ được chuẩn bị rất quáng quàng. Vào thời điểm đó, mọi thứ thật gấp gáp.”
Moritz thấy ấn tượng với màn trình diễn công cụ tìm kiếm Google. Ông nhớ lại: “Chúng tôi gặp gỡ vài lần tại Sequoia và tại văn phòng nhỏ của họ trên một con phố chính ở Palo Alto. Họ đang cho chạy bản Google beta, do đó việc kiểm tra tính ưu việt của Google so với các công cụ tìm kiếm khác khá dễ dàng. Ý tưởng kinh doanh ban đầu của họ không hề dính tới việc cho thuê quảng cáo trên trang web. Mục đích của họ là cho các công ty hoạt động trên mạng khác thuê công nghệ của mình.”
Sao Moritz có thể đánh giá được tiềm năng của họ? Giải đáp cho câu hỏi này liên quan tới thủ thuật của một trong số những nhà tài chính hàng đầu tại Thung lũng Silicon khi ra quyết định: đó là một nghệ thuật chứ không đơn giản chỉ là khoa học. Thêm vào đó, việc đang là một nhà đầu tư của Yahoo cũng góp phần quan trọng, chứng minh một điều có nhiều mối quan hệ cũng có ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định đầu tư.
Moritz giải thích: “Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra quyết định đầu tư sai lầm. Chất lượng dịch vụ mà Google đem lại tốt hơn tất cả những công cụ tìm kiếm khác. Đó là lý do tại sao chúng tôi đầu tư vào đây. Khi mạng Internet phát triển, việc tìm kiếm sẽ trở nên vô cùng quan trọng, chứ không giảm đi một chút nào. Hai chàng trai này, Larry và Sergey, là những chàng trai rất thông minh. Chúng tôi có thể thu được lợi nhuận từ việc mạng Internet phát triển mạnh mẽ. Hơn nữa, Yahoo lại có quan hệ cho thuê lại công nghệ với khá nhiều công ty có công cụ tìm kiếm. Họ có quan hệ với Open Text, AltaVista và Inktomi. Còn Google là công ty có công nghệ tìm kiếm cuối cùng họ hợp tác.
Ông cho biết: “Yahoo rất quan tâm tới Google, làm công cụ đẩy mạnh dịch vụ của họ. Họ giúp chúng tôi trở thành nhà đầu tư của Google vì họ biết rằng việc này sẽ có lợi cho Yahoo.” Theo Moritz, Công ty Sequoia muốn đầu tư vào Google một phần để hỗ trợ Yahoo - “đối với chúng tôi, đầu tư vào đây để hỗ trợ Yahoo. Không ai hiểu rằng năm 1999 công nghệ đã phát triển tới thế nào. Google là đối tác tiềm năng của chúng tôi. Đối với chúng tôi, Internet đã đem lại hai ứng dụng hữu hiệu: một là thư điện tử và hai là công cụ tìm kiếm. Họ đã tạo ra một công cụ tìm kiếm ưu việt hơn hẳn.”
Moritz nói ông nhận ra Brin và Page đúng là những người họ cần có. Ông đã chứng kiến rất nhiều công ty được thành lập từ hai sáng lập viên, những người có cùng chí hướng, do đó khả năng thành công thường cao hơn từng người riêng biệt. Ví dụ như Microsoft được thành lập từ hai sáng lập viên Bill Gates và Paul Allen. Hay đối với Apple, hai sáng lập viên là Steve Jobs và Steve Wozniak. Yahoo cũng vậy. Và rất có thể Google cũng thành công như vậy. Ông nhận xét: “Họ là một cặp rất thông minh. Điều đó là hiển nhiên. Trong công việc kinh doanh, chúng tôi
gặp rất nhiều kiểu người, điều này giúp chúng tôi có khả năng phán đoán những người có tố chất đặc biệt, một phần là do những gì họ đã và đang làm và một phần là do cách thức họ thể hiện mình. Họ mang hoài bão lớn, một điều kiện tiên quyết cho bất cứ ai muốn thành lập công ty. Tin chắc vào khả năng của mình là điều cần thiết để vượt qua những khó khăn trở ngại.”
Trong khi Moritz tập trung để ý tới Brin và Page và công cụ tìm kiếm họ đã phát minh, John Doerr thuộc Lleiner Perkins lại để ý tới sự năng động lâu dài của Internet và tiềm năng của Google đem lại trong quá trình phát triển của Internet. Còn hơn cả các nhà đầu tư mạo hiểm khác, Doerr sẵn sàng đầu tư lớn vào các công nghệ đem lại lợi nhuận từ việc sử dụng Internet ngày càng gia tăng. Trong thời kỳ bùng nổ các công ty hoạt động trên mạng, ông không bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ truyền thống rằng mọi thứ đang bị thổi phồng cường điệu quá mức mà ông khẳng định rằng tiềm năng của mạng Internet thậm chí còn to lớn hơn những gì con người nhận thức được. Doerr là một nhà đầu tư mạo hiểm, ông đã thu lại lợi nhuận khổng lồ từ việc đầu tư vào các hãng Compaq Computer, Sun Microsytems và Amazon.com trước khi mọi người kịp nhận ra khái niệm phát triển những công ty này. Thực tế, ông đã có liên hệ với Google thông qua Jeff Bezos, sáng lập viên của Amazon, một trong những nhà đầu tư ban đầu và đồng thời là nhà cố vấn đằng sau Brin và Page. Hai chàng trai Google cũng biết đến kinh nghiệm và địa vị của Doerr, một nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng ở Thung lũng Silicon; họ biết nếu ông đầu tư vào Google, ý tưởng và hoài bão của họ sẽ chuyển hóa thành các hợp đồng kinh doanh. Doerr trước đây từng là nhà đầu tư ban đầu của America Online, nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn nhất thế giới và giờ là khách hàng tiềm năng khổng lồ của Google. Larry và Sergey rất mong có được số tiền từ những hợp đồng kinh doanh kiểu này đem lại. Đó là thành tố quan trọng nếu họ muốn biến giấc mơ xây dựng công cụ tìm kiếm toàn diện và hiệu quả nhất toàn cầu. Một khoản đầu tư từ công ty Kleiner Perkins, do Doerr đứng đầu, đánh dấu cho sự thành công ban đầu của họ.
Mùa xuân năm 1999, Moritz và Doerr đều quyết định chắc chắn họ muốn trở thành nhà đầu tư của Google. Brin và Page thấy đúng như kế hoạch của họ đã định, nhưng vướng phải một vấn đề nan giải: cả hai nhà đầu tư từ chối hợp tác đầu tư vào Google, do đó Google gặp phải rủi ro tuột mất cả hai “con cá sộp”. Cả hai đều muốn trở thành nhà đầu tư độc quyền của Google. Bởi hai công ty đều rất lớn nên không bên nào muốn nhượng quyền kiểm soát cho đối thủ và cả hai đều chẳng thiết nếu không chiếm được đa số. Điều này không có tác dụng, nhất là trong một xã hội có trên có dưới như ở Thung lũng Silicon. Cả hai công ty Kleiner Perkins và Sequoia đều là những công ty đầu tư rất lớn vào các công ty khác. Do đó, họ không quan tâm đến những công ty mới thành lập mà phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đây không phải là cách kiếm được nhiều lợi
nhuận nhất trong đầu tư kinh doanh mạo hiểm, ít nhất thì không phải đối với những công ty danh tiếng nhất trên đường Sand Hill này.
Brin và Page rơi vào tình huống khó xử. Một mặt, họ cần tiền gấp và có hai công ty tài chính sẵn sàng đầu tư. Mặt khác, họ có thể có tiền đầu tư mà không mất quyền kiểm soát công ty nếu họ có thể thuyết phục cả hai công ty này cùng đầu tư. Điều này thật nan giải, nhưng đó lại là hướng họ quyết định theo đuổi, thậm chí điều đó có nghĩa là họ có thể tuột mất hai nhà đầu tư lớn này. Thật may mắn cho Google, hai nhà đầu tư hảo tâm ban đầu của họ, Ron Conway quen biết Moritz còn Ram Shriram quen biết Doerr. Do đó, họ giúp Larry và Sergey giải quyết công việc khó khăn này. Ngày tháng trôi qua, hai chàng trai này nhận ra tại sao các nhà đầu tư mạo hiểm được đặt biệt danh các nhà đầu tư “ăn tươi nuốt sống”, và họ cho rằng tốt hơn cả là không dính líu gì tới cả hai nhà đầu tư này.
Brin và Page hỏi Conway - một nhà tài chính có rất nhiều mối quan hệ làm ăn - liệu có thể sắp xếp một nhóm các nhà đầu tư hảo tâm thay thế hai nhà đầu tư này. Thu hút được một nhóm các nhà đầu tư thụ động đồng nghĩa với Larry và Sergey sẽ vẫn nắm được quyền kiểm soát công ty. Họ kể cho Conway biết đó là kế hoạch họ định làm, thêm vào đó thời gian cũng là một nhân tố quan trọng bởi họ đang dần hết tiền đầu tư.
Tuy nhiên, thay vì liên hệ với các nhà đầu tư hảo tâm, Conway liên lạc với Shriram. Họ quyết định nói với Moritz và Doerr rằng nếu họ không tìm ra cách nào để bắt tay hợp tác, các chàng trai Google sẽ tự làm lấy và họ rất nghiêm túc trong việc này.
Mặc dù tại thời điểm đó, cả hai công ty tài chính Kleiner Perkins và Sequoia đều dừng đầu tư ở một loạt các doanh nghiệp để đầu tư vào các công ty hoạt động trên mạng mới thành lập, hồi chuông vang lên trong đầu họ: có cái gì đó cực kỳ tiềm năng ẩn ở bộ đôi này. Các công ty đầu tư mạo hiểm thường bỏ qua lòng tự trọng của mình. Chỉ vài ngày, Conway và Shriram đã thuyết phục được họ. Kliener Perkins và Sequoia, mỗi bên sẽ đầu tư 12,5 triệu đô la và Google, tổng cộng số tiền đầu tư là 25 triệu và mỗi bên góp một nửa, và đều tán thành với yêu cầu của Larry và Sergey rằng họ vẫn được quyền kiểm soát chính. Tuy nhiên, bởi họ đầu tư một khoản rất lớn vào Google như vậy, Doerr và Moritz đã thêm một điều kiện để được sử dụng số tiền đầu tư đó: họ phải cam kết sẽ thuê một nhà quản lý có kinh nghiệm để giúp họ biến công cụ tìm kiếm này thành một bộ máy kiếm tiền thực thụ. Đây là một đòi hỏi rất hợp lý bởi thực tế công ty cũng chưa có một kế hoạch kinh doanh gì cụ thể. Do đó, Brin và Page sẵn lòng đồng ý, với điều kiện họ có được số tiền 25 triệu đô la để đầu tư và có quyền kiểm soát công ty, họ sẽ nhất trí và tạo điều kiện để thuê một ai đó làm giám đốc điều hành để công việc kinh doanh trôi chảy.
Nhưng có điều là: họ không có ý định thuê ai đó để rồi họ lại phải báo cáo công việc với người đó.
Ngày 7 tháng 6 năm 1999, chưa đầy một năm sau khi họ rời khỏi Stanford, Brin và Page đưa ra thông cáo báo chí, thông báo hai công ty tài chính Kleiner Perkins và Sequoia Capital đã đồng ý đầu tư 25 triệu đô la vào Google. Trong khuôn viên trường Stanford và xung quanh vùng Palo Alto, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên. Đó quả là một khoản tiền lớn. Cả hai công ty tài chính này đều chưa từng hợp tác đầu tư, nhưng Doerr và Moritz đã cùng tham gia vào Hội đồng quản trị của Google. Hai chàng trai này, những người luôn tự tin hơn những sinh viên cùng lớp, đã có được một số tiền khổng lồ mà dường như không mất gì đổi lại. Điều đó chứng tỏ hai chàng trai Google đã có được một vụ làm ăn lý tưởng: họ có được tiền để xây dựng công cụ tìm kiếm họ đam mê, vừa giữ được quyền kiểm soát công ty.
Page đã phát biểu trong một bài diễn văn trang trọng: “Chúng tôi rất vui mừng khi có được những nhà đầu tư tầm cỡ giúp chúng tôi xây dựng công ty. Chúng tôi có kế hoạch phát triển công ty và công nghệ nhanh chóng và mạnh mẽ để chúng tôi có thể tiếp tục cung cấp dịch vụ tìm kiếm tốt nhất trên mạng.”
Brin bổ sung thêm những đánh giá lạc quan, thể hiện sự tự tin của anh hơn bao giờ hết: “Một công cụ tìm kiếm hoàn hảo có thể thực hiện và hiểu được tất cả các thông tin trên thế giới. Đó chính là mục tiêu Google hướng tới.”
Thông cáo báo chí cho biết hệ thống PageRank đang chờ lấy bản quyền sáng chế của họ, hệ thống dùng để sắp xếp thứ tự kết quả từ công cụ tìm kiếm bao gồm 500 triệu biến và hai tỷ thuật ngữ. Điều này cho phép tính chính xác và chất lượng tìm kiếm tốt chưa từng có, giúp các nghiên cứu của trường Đại học Stanford được mở rộng, tìm kiếm được nhiều thông tin từ trang web hơn. Trên thực tế, nếu thông cáo báo chí này không bao gồm cả những lời phát biểu của Doerr và Moritz thì một số sinh viên và giáo viên trong trường Stanford sẽ không tin và coi đó chỉ là trò bịp bợm.
Moritz phát biểu: “Google sẽ trở thành công cụ tìm kiếm hàng đầu trên mạng. Công ty của Larry và Sergey có khả năng gây dựng long trung thành từ những người sử dụng Internet với Google.”
Doerr bổ sung: “Tìm kiếm là một công việc rất khó khăn, do đó liên tục cải tiến công nghệ là điều rất quan trọng. Mỗi ngày có tới hơn 100 triệu trang web được người ta tìm kiếm trên mạng. Làm sao tìm ra nhanh chóng thông tin chính xác là một việc mà những người sử dụng
mạng quan tâm ở mọi lĩnh vực. Google đã đổi mới công nghệ tìm kiếm và hướng sự tập trung tới người sử dụng.”
Thông cáo báo chí này bao gồm cả chi tiết về nguồn vốn cũng như các thông tin thêm về Google, danh sách đầy ấn tượng liệt kê các nhà đầu tư của Google, cùng tốc độ tăng trưởng 50% mỗi tháng. Tất cả những điều này làm cho Google tỏa sáng toàn cầu, giúp công ty quảng bá được tiếng tăm của mình ngày càng sâu rộng thông qua phương tiện truyền thông đại chúng không tốn một xu. Ngày hôm sau, Sergey và Larry gửi thư điện tử tới tất cả bạn bè của mình: “Tháng này quả là tháng tuyệt vời đối với chúng tôi bởi chúng tôi đã có tiền để tiếp tục cải thiện Google ngày một hiệu quả hơn. Số lượng người sử dụng Google ngày càng tăng (nhờ có các bạn) và chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng để đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Thậm chí tháng này chúng tôi đã cài đặt thêm máy chủ để giúp người sử dụng tìm kiếm được nhanh chóng hơn (chúng tôi cũng đã đặt hàng thêm 80 máy tính, thay vì chỉ có 21 chiếc như trước đây.) Chúng tôi cũng đã nghiên cứu để không có những trang web “lạ” chui vào danh sách kết quả tìm kiếm và cũng đang nghiên cứu để cho ra những chức năng mới mà chúng tôi hy vọng sẽ thỏa mãn người sử dụng Google.”
Đây quả là một thời kỳ khó khăn đối với Google và hai sáng lập viên. Tuy nhiên, bản thông cáo báo chí và các bản tin đã đăng tải toàn bộ nội dung công việc của họ, giới thiệu về công cụ tìm kiếm và những lời phát biển về tương lai của Google, tuy nhiên lại không hề đề cập vấn đề chính. “Google định kiếm tiền thế nào?” vẫn còn là điều bí mật.
CHƯƠNG 6. Lễ hội Burning Man
Cuối tháng 8 năm 1999, cùng với nhân viên Google và bạn bè, Larry và Page thực hiện chuyến hành trình bằng ô tô tới sa mạc Black Rock hoang vắng trải dài bang Nevada. Họ để lại sau lưng Internet và không dùng cả di động liên lạc, cũng chẳng có nơi nào bán thức ăn hay nước uống, do đó họ mang theo thực phẩm dự trữ cho cả tuần. Nhưng họ không đơn độc: cùng với họ, còn có rất nhiều chuyên gia công nghệ ở mọi lĩnh vực, các nghệ sỹ - những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, các học giả - những người theo chủ nghĩa vô thần, cũng tham gia vào chuyến đi này - tổng cộng có khoảng 18.000 người. Không bị tắc nghẽn giao thông trên những con đường chật hẹp phía bắc Reno, hay thời tiết khắc nghiệt lúc chỉ 40oF lúc tăng tới 110oF, họ đi tới một thành phố không có tên trên bản đồ, nơi người ta chỉ trú lại một thời gian ngắn. Năm nào cũng vậy, họ tổ chức một lễ hội gồm những loại hình nghệ thuật độc đáo và tiệc tùng vui vẻ. Sergey và Larry đều cảm thấy lễ hội này rất vui nhộn nên không bao giờ bỏ lỡ dù công việc kinh doanh mới có đòi hỏi cấp thiết tới mức nào. Thêm vào đó, một số khách hàng trung thành và một số đối tác tiềm năng của Google cũng có mặt tại đây. Lễ hội thu hút họ tới một nơi thơ mộng này mang một cái tên rất hấp dẫn:
Lễ hội Burning Man (Lễ hội Người đàn ông trên dàn hoả thiêu)
Chỉ riêng cái tên thôi cũng làm người ta liên tưởng tới niềm đam mê nhiệt huyết và lễ nghi đạo giáo. Một người nộm được gọi là “Người đàn ông” treo cao tới hơn 40 feet, thắp sáng bằng đèn nê-ông làm sáng cả một vùng trời phía tây, lôi cuốn Larry, Sergey và những người có mặt tại lễ hội trên sa mạc này. Không ai có thể diễn tả hình nộm đó tượng trưng cho cái gì cụ thể hay ý nghĩa của lễ hội này là gì. Tất cả là để mọi người có cơ hội được tụ tập và thể hiện mình.
Cuộc hành hương tới miền đất đầy nắng gió, bụi bặm này đã trở thành một nghi thức truyền thống vào cuối hạ hàng năm đối với người dân Bay Area, đặc biệt là Thung lũng Silicon. Tất cả mọi người, từ những kỹ sư khó tính tới những hoạt náo viên đều thoát khỏi cuộc sống thường nhật để trở về với “vùng tự trị tạm thời” tự do trên sa mạc. Bạn bè và những cặp uyên ương cũng tới đây, tìm hiểu lẫn nhau. Những con phố tạm thời được tạo thành nơi hai chàng trai ghé qua tại lễ hội Burning Man được đặt theo tên các hành tinh trong hệ mặt trời, còn các ngã tư tạo thành những chiếc đồng hồ mặt trời trên sa mạc. Xe tải, xe nhà, lều bạt, địa điểm cắm trại xuất hiện bao quanh thành phố này. Và ở trung tâm là “Người đàn ông”, đứng sừng sững trơ trọi, đối mặt với những dãy núi gần đó.
Lễ hội Burning Man không cầu kỳ nhưng vẫn có nguyên tắc nhất định. Không ai được mua bán thứ gì, trừ một cửa hàng bán cà phê và đá ở trung tâm, góp phần bảo vệ môi trường của sa mạc là điều cơ bản. “Thái độ với môi trường là điều phân biệt lễ hội Burning Man với lễ hội Woodstock”, Harley K.Bierman, nhà tổ chức lễ hội người bảo vệ thế giới, cho biết: “Lễ hội Burning Man là một thử nghiệm mang tính xã hội nơi toàn bộ thành phố được xây dựng, định cư, rồi lại biến mất. Đó là tác phẩm nghệ thuật lớn nhất trong suốt sự kiện này - nghệ thuật sống không bỏ thứ gì sót lại”.
Trước khi Larry và Sergey lên đường tới lễ hội Burning Man, họ đã tạo ra một số thử nghiệm nghệ thuật trên trang chủ của Google. Nhận thấy cơ hội truyền cho logo một sức sống mới bằng cách dùng đầu của một người đàn ông thay cho chữ “o” thứ hai trong chữ Google. Đối với người bình thường, logo hình người đàn ông mắc vào, trông hơi thô và lắp ghép hơi gượng gạo. Nhưng với những người trong cuộc, nó đánh dấu bước cải tiến của Google.
Cảm hứng bất chợt về sửa đổi thiết kế đã dẫn đến một thay đổi hợp lý. Khi tham dự lễ hội ấn tượng này, họ vô tình nghĩ ra biểu tượng mới cho Google. Đối với nhân viên Google, lần đầu tiên trang trí logo đã xóa bỏ khoảng cách giữa họ - những người đến sa mạc tìm cách liên hệ với người sử dụng trong trường hợp phương thức tìm kiếm có lỗi và không ai ở đó để sửa chữa. Marisa Mayer, một kỹ sư mới tham gia vào Google mùa hè đó, nhớ lại, biểu tượng người đàn ông đó đã có ý nghĩa hiện thực hơn bất kỳ thứ gì khác, nó chứng tỏ “tất cả chúng ta đã có mặt tại lễ hội đó”.
Lễ hội bắt nguồn hết sức tình cờ khi một nhóm người đốt cháy một hình nộm gỗ cao 8 foot trong một lễ hội trên bãi biển tại San Fransia mùa hè năm 1986. Trước khi Larry và Sergey đến Bắc Califorlia tham dự lễ hội này trong những năm 1990, nó đã trở thành một lễ hội văn hóa, giải thoát hàng ngàn người khỏi cuộc sống trần tục - theo lời của Larry Harvay.
Khi đến thăm lễ hội, Brin và Page đã lấy cảm hứng từ những hình tượng nghệ thuật kỳ vĩ, chúng là sự kết hợp hài hoà giữa sự sáng tạo và kỹ thuật, giữa tài năng thiên bẩm và công nghệ. Đề tài của năm 1999 là “Bánh xe thời gian” và những khoảng không gian đa dạng bao quanh hình nhân đã được định hình về mặt nghệ thuật, dựa trên khả năng nó có thể diễn tả được điều gì đó về hiện tại, quá khứ và tương lai hay không. Nhanh chóng tiếp cận với thiên niên kỷ mới là cơ hội để thể hiện mối quan hệ giữa ý tưởng mới và những yếu tố khác.
Brin và Page không giống như những nghệ sỹ hay kỹ sư thích kên kế hoạch tỉ mỉ cho vài tuần hoặc vài tháng, họ thích sự bất ngờ hơn. Page nói:“Ít dự định thì hay hơn”.
Larry thích đi dạo quanh lễ hội với chiếc máy ảnh và ghi lại những khoảnh khắc trong lễ hội. Không thể ghi lại quá nhiều cảm xúc cùng lúc được. Trong số những bức ảnh chụp người, có một bức ảnh ghi lại được toàn cảnh lễ hội về sau được treo tại trụ sở chính của Google. Nhà tổ chức triển lãm “Cát bụi thời gian” gợi ý Larry và Sergey tự mình khám phá hành trình quanh đồng hồ mặt trời - đồng hồ phát ra lời các học giả nổi tiếng định nghĩa về thời gian. Ngoài ra, còn có “Cây xương” dựa trên ba câu chuyện hoang tưởng kinh dị về bánh xe thời gian, được tạo nên hoàn toàn từ xương trắng. Xung quanh hình nhân còn có thể thấy “L2K”, vòng đèn 2.000 bóng đèn flash được đặt dưới đất và nối với 8 ắc-quy của xe đánh gôn. Cách trưng bày này, giống như lễ Burning Man, đẹp nhất vào buổi đêm khi lửa và các tác phẩm nghệ thuật rực rỡ, những điệu nhảy và tất cả các thể loại âm nhạc, biến đổi khung cảnh và kích thích sự khám phá.
Đối với nhiều người, hiểu biết về lễ hội Burning Man bao gồm cả rượu mạnh và ma tuý. Nhưng Larry và Sergey không phải là những người như vậy. Thay vào đó, họ thấy được sự hấp dẫn của sinh lực và sự khéo léo, cơ hội gặp những chú hề, những nghệ sĩ nhảy tuyệt vời hoặc là những người bạn cũ. “Đó là cơ hội tuyệt vời để tìm hiểu những cách suy nghĩ và tác động khác nhau”, Brad Templeton, Chủ tịch của Tập đoàn Electronic Frontier Foundation, nói khi anh tham gia vào lễ hội cùng Brin và Page. “Bạn đến đó để sáng tạo và hiểu được giá trị sáng tạo của người khác. Bạn đến lễ hội không chỉ để so sánh với cuộc sống bình thường mà với cả thế giới đang vận hành xung quanh.”
Larry và Sergey khó khăn lắm mới nhận ra một số đồng nghiệp ở Thung lũng Silicon trong trang phục hóa trang hoặc vẽ lên người. Tamara Munzner, một bạn học ở Stanford, nói: “Trông thật ngốc nghếch và quá nhiều bất ngờ.” Brin và Page có thể trườn qua một hố dài 30 foot gọi là “hố đen”, cưỡi một con voi da cam đi vòng quanh trên một chiếc xe đạp hoặc nhìn một bức tượng động được sáng tạo dựa trên hình ảnh của một người đang chạy khi cháy. Sean Anderson, một bạn học khác của họ ở Stanford, nói: “Chúng được tạo ra nhờ sự hoang dã đầy sáng tạo và kỹ thuật”.
Brin và Page luôn tin tưởng chắc chắn về điều tạo ra văn hóa phong phú, tính cộng đồng và đạo đức trong một công ty non trẻ, và khung cảnh tự nhiên hoàn toàn không thương mại của lễ hội Burning Man - nơi này quảng cáo hoàn toàn bị cấm - đã cho họ thấy triển vọng của công ty. Stewart Brand, một con người hiện đại và là bạn của cả hai nói: “lễ hội có giá trị ở tính sáng tạo chứ không có một chút giá trị nào về mặt tiền bạc”. “Một tỷ phú chẳng thể mua gì cho họ trong lễ hội ngoại trừ một tách cà phê”.
Điều kiện làm việc khắc nghiệt thử thách Larry, Sergey và những người khác. Họ phải dựa vào
nhau để sống. Bằng cách cùng chia sẻ và làm việc theo nhóm, không khí tại lễ hội Burning Man có những yếu tố văn hóa giống như họ tạo ra ở Google. Sergey và Larry cũng rất thích triết lý “chỉ quan tâm tới người tham gia” của lễ hội này và cách thức lễ hội giúp mọi người xóa bỏ rào cản của mỗi người. Brand nhận xét: “Cả Sergey và Larry đều tìm thấy nguồn cảm hứng lớn từ lễ hội này.” Ông còn cho biết thêm họ thích “đi lang thang tới khi nào mệt nhoài mới ngủ.”
Vào đêm cuối cùng, trong màn đốt lửa và pháo hoa tưng bừng, họ đốt sáng “Người đàn ông” bởi lễ hội đã đi tới cao trào. Chỉ một lúc trước khi nghi lễ diễn ra, một nhóm gồm những người thuộc Công ty Google, Templeton và một số người khác diễn cảnh phản đối. Họ diễu hành vòng quanh và hô to: “Không được thiêu người đàn ông! Không được thiêu người đàn ông!”. Sau đó, khi hình nộm bị nhóm lửa, họ vứt các biểu ngữ vào trong đống lửa, rồi hoà vào dòng người nhảy múa xung quanh đống lửa rực cháy.
Templeton tâm sự: “Nghi lễ thiêu Người đàn ông thật ngoạn mục. Sau khi người đàn ông bị thiêu rụi, mọi người ào tới và nhảy múa, hát hò và một số người còn cởi bớt quần áo nếu trời không quá lạnh. Bạn chẳng thể có được cảm giác này lần nữa ở bất kỳ đâu trên thế giới”.
Hai tháng sau lễ hội Burning Man, đó là tối thứ Bảy, đêm lễ Halloween, Marissa Mayer ở lại văn phòng muộn, cố gắng hoàn tất nốt một số công việc tại Google trước khi đi nghỉ tại châu Âu. Cô vẫn đang viết thư lúc hai giờ sáng khi Sergey gọi với ra: “Marissa, nhìn này, nhìn này!”. Brin, với dư âm của lễ hội Burning Man vẫn cháy sáng, đã thiết kế ra biểu tượng cho Google với chủ đề ngày lễ Halloween là hai quả bí ngô thay thế hai chữ “o” trong từ Google.
Mayer chẳng thấy ấn tượng gì hết. Cô nghĩ trông nó thật tệ.
“Ta hãy tải biểu tượng mới này lên trang web”, Sergey nói.
Mayer hỏi lại ngay: “Anh muốn tôi tải cái này lên trang web ư? Anh có thấy một chữ “o” bị làm sao không?” Một trong hai quả bí ngô không nằm ở chính giữa, làm cho một chữ màu đỏ ở dưới hiện ra. Brin đáp: “Chúng ta đang sống trong không khí Halloween. Chúng ta nên cho cả thế giới thấy rằng mọi người ở Google quan tâm tới Halloween”.
Hóa ra những người sử dụng Google lại rất thích hình hai quả bí ngô ngộ nghĩnh. Google đã nhận được rất nhiều hồi âm, thậm chí còn được đề cập trên Slashdot là trang web công nghệ cần đọc số 1.
Giờ đây, Sergey có những ý tưởng khác thay đổi hình nền cho biểu tượng Google làm cho người sử dụng ngạc nhiên và hứng thú. Anh muốn trang hoàng những ngày lễ khác, làm dài hơn, kết
hợp với các câu chuyện, chẳng hạn như quá trình một cái cây phát triển trong một tuần. Có người khuyên Brin không nên làm vậy nhưng người sử dụng lại thích thú những hình trang trí của Google, họ muốn có nhiều thay đổi hơn nữa. Ngay lập tức một hội đồng gồm Mayer và hai người nữa được lập ra để quyết định xem những ngày lễ và sự kiện nào hấp dẫn để làm hình trang trí. Ban đầu, họ chọn ngày quốc khánh của một số nước, nhưng những hình này không được người sử dụng ủng hộ. Họ nhận ra các ngày mang tính chất tôn giáo cũng vậy, do đó họ chuyển sang hướng những ngày lễ chung, ví dụ như Tết, ngày Thế giới, Olympic, và thường xuyên tải lên một hay hai hình một tháng.
Tháng 11 năm 2001, Mayer tìm hiểu về lễ hội Dwali, một lễ hội rước đèn của Ấn Độ để làm hình biểu tượng. Tạo ra các biểu tượng hấp dẫn được toàn thế giới là một việc vô cùng thú vị. Cô muốn biết liệu lễ hội Dwali có phải là một lễ hội tôn giáo hay không và muốn chắc chắn rằng đó không phải là một lễ hội tôn giáo. Nhưng vào ngày 13 tháng 11, một ngày trước khi biểu tượng mới này được tải lên trang web, một đồng nghiệp thông báo cho Mayer biết lễ hội Dwali dựa trên tín ngưỡng của người Hindu và họ có thể phản đối. Mayer thất vọng, đành tra trên mạng lịch ngày lễ và phát hiện ra rằng ngày hôm sau là ngày sinh nhật của Claude Monet. Cô lý giải rằng những họa sỹ cũng có sức hấp dẫn trên toàn thế giới, vì vậy họ có thể cho chạy biểu tượng của Monet trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, mẹ cô cũng là một giáo viên dạy họa.
Mayer liên hệ với Dennis Hwang, một kỹ sư tin học có kiến thức về nghệ thuật, trở thành họa sỹ chuyên sáng tác biểu tượng cho Google. Biểu tượng đầu tiên Hwang vẽ trong lần thực tập hè năm 2000 tại Google; sau khi làm việc chính thức tại công ty, anh dành hàng giờ mỗi tuần để trau chuốt các tác phẩm của mình. Nhưng hôm đó Hwang bị ốm nên Mayer quyết định thử tự làm, sử dụng chương trình đồ họa GiMP gắn với công cụ lọc “impressionism” (Ấn tượng). “Chả khác gì Monet”, Mayer nhìn vào tác phẩm và tự khen mình:“Dennis lo lắng vì chúng tôi định tải nó lên trang web”. Do đó, dù sốt tới 380C, đêm đó ở nhà, Hwang vẫn dành 20 phút để tự làm bản Monet.
Biểu tượng Monet, giờ vẫn là một trong những biểu tượng Hwang ưa thích, là một trong những thành công của Hwang, trở thành truyền thống kỷ niệm ngày sinh của các danh họa bằng các biểu tượng với Google. Danh mục biểu tượng giờ đây đã mở rộng ra bao gồm các nhà khoa học, các khám phá nổi tiếng, thậm chí cả những người nổi tiếng trong ngành giải trí. Nhưng không phải ai cũng được chào đón nồng hậu như vậy: do tiểu sử của Salvador Dali đã khiến Google phải bỏ biểu tượng của Dali xuống chỉ sau vài giờ cho chạy trên trang web. Nhưng hầu hết các biểu tượng đều đem đến niềm vui cho người sử dụng Google trên toàn thế giới, thậm chí có người ngày nào cũng lên trang web của Google chỉ để xem đã có biểu tượng mới chưa. “Các
biểu tượng này nắm bắt được thị hiếu của mọi người”, Mayer nhận xét.
Hiển nhiên rằng, các biểu tượng này cũng góp phần làm tăng thị phần thư điện tử gửi tới cho họ bởi có những thư rất buồn cười. Có một số người sử dụng Google thấy biểu tượng khác lạ của Google tưởng rằng Google đã đổi biểu tượng. Khi Hwang tạo ra biểu tượng kỷ niệm ngày sinh nhật danh họa Michelangelo, dùng hình tượng David nổi tiếng thay cho chữ “l” và biến cả biểu tượng thành một khối đá được chạm trổ, một người sử dụng đã không biết điều này và gửi đến một lời nhận xét thẳng thừng:“Rockman sucks”.
Vào khoảng thời gian khi Marissa Mayer mới được tuyển dụng năm 1999, Google cũng đang tìm kiếm một kỹ sư có khả năng phân tích, thử nghiệm và cải tiến cách trình bày cho trang web của công cụ tìm kiếm này. Mặc dù quá trình này bao gồm các yếu tố không liên quan, chẳng hạn như cỡ và phông chữ, nhưng nó lại rất quan trọng giúp người sử dụng ghi nhớ được trang web và khuyến khích họ tiếp tục sử dụng trang web đó.
Sau khi xem bản tóm tắt lý lịch, sếp của Mayer nhận ra rằng cô là người phù hợp nhất. Sinh ra tại bang Wisconsin, Mayer có bằng thạc sỹ tin học tại trường Stanford và đã từng theo học khoa ngôn ngữ và tâm lý. Cô được đưa cho những hướng dẫn khắt khe về việc giải quyết cách thức giao diện của Google. Sếp nói với cô: “Đừng đưa ra những ý tưởng mới mẻ. Cô không được phép nêu ý kiến. Nhiệm vụ của cô là thu thập dữ liệu.”
Tại thời điểm đó, thiết kế web của Google trông đơn giản nhưng việc kiến trúc sư bí mật của nó làm lại rất phức tạp. Những người lần đầu tiên sử dụng thường ngạc nhiên bởi cách trang trí đơn giản của Google. Đối lập hoàn toàn với những trang web lộn xộn đang được ưa chuộng, Google sáng sủa và thanh đạm. Cách thức tiếp cận “càng ít càng nhiều” đã tạo hiệu quả tuyệt vời: Larry và Sergey đã nỗ lực hết sức mình tăng tốc tối ưu ở mọi công đoạn xây dựng công cụ tìm kiếm, một trang chủ phải tải nhiều hình họa sẽ làm giảm tốc độ của nó.
Người sử dụng rất thỏa mãn với tốc độ của Google và những người phải tìm kiếm nhiều trên trang web này đã bắt đầu hình thành một mối liên hệ chặt chẽ với nó. Một số người trở nên thân thiết với giao diện của Google do đó chỉ cần có thay đổi nhỏ họ cũng nhận ra. Mayer nhanh chóng tiếp thu sự nhạy bén và thậm chí cả sự ám ảnh của người sử dụng. Một thành viên thuộc Tiểu ban kiểm tra đã gửi tới cho Google thư điện tử nặc danh thường xuyên, liệt kê con số, chẳng hạn như 37 hay 43. Rồi Mayer và các đồng nghiệp phát hiện ra nó chỉ ra số từ xuất hiện trên trang chủ của Google - điều này chứng tỏ có người nào đó luôn quan tâm theo dõi Google, do đó không thể lơ là khâu thiết kế.
Vào tháng 12, Mayer đã thực hiện một trong những thay đổi lớn đầu tiên trong khâu thiết kế của Google: phông chữ mới. Sau khi thực hiện mệnh lệnh thu thập dữ liệu, chứ không phải đưa ra ý kiến, cô đã nghiên cứu rất nhiều loại phông chữ khác nhau xem loại nào dễ đọc nhất trên màn hình vi tính và cuối cùng thấy rằng đó là phông Verdana, loại phông chữ không có chân. Tại thời điểm đó, Google đang sử dụng loại phông chữ có chân, nhưng Mayer nhận ra rằng các loại phông chữ không có chân (chân là phần đế nhỏ có ở một số chữ) giúp việc tìm kiếm kết quả dễ dàng hơn. Hôm đó, bỏ công việc ra khỏi đầu, Mayer cùng các nữ kỹ sư khác dành nửa ngày tới dự tiệc trà ở một khách sạn xinh đẹp tại San Francisco. Nhưng chỉ vài tiếng sau, cô quay lại bởi phông chữ gặp sự cố. Phông Vernada không đúng cỡ chữ! Cỡ chữ bị giảm xuống còn 2 point (chấm)! Làm sao Google có thể mất chân chữ và trở thành không có chân chữ?! Có ai đó làm hại Google...! Phản ứng mãnh liệt của mọi người làm Mayer ngạc nhiên, nhưng cô đã có được một bài học quan tựong cho việc thay đổi thiết kế trong tương lai: bạn cần dữ liệu, nhưng bạn cũng cần thử nghiệm nó.
Tháng sau, Google mời 16 người xuống tầng hầm của tòa nhà Gates Building trong trường Stanford, tại đó có một nhóm gồm bốn thành viên thuộc công ty quan sát hành vi của họ. “Chúng tôi xếp hai người ngồi vào một máy tính, do đó họ ngồi nói chuyện với nhau chứ không phải là nói chuyện với chúng tôi”, Mayer giải thích. Những người thử nghiệm được yêu cầu sử dụng Google để tìm kiếm câu trả lời cho một câu hỏi nhỏ: Quốc gia nào giành được nhiều huy chương vàng nhất tại thế vận hội Olympic năm 1994? Họ nhập đường dẫn www.google.com, trang chủ của Google hiện trên màn hình, rồi sau đó họ ngồi đợi. 15 giây trôi qua... 20 giây... 45 giây. Mayer không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng cô không muốn can thiệp ngay. Cuối cùng, cô hỏi họ. Các bạn còn đợi chờ điều gì vậy? Họ trả lời: Chờ phần còn lại của trang chủ tải hết xuống. Mayer nhớ lại: Mọi việc diễn ra y như vậy cho tới hết ngày. “Thường các trang web chứa đủ mọi thứ, di chuyển, nhấp nháy, hay chớp sáng, làm cho bạn phải ngồi đợi cho tới khi mọi thứ hiện hết lên màn hình”. Từ việc thử nghiệm ban đầu không thành công này, nhóm của Mayer đã đưa ra một kết luận rằng họ cần phải đề dòng thông báo bản quyền và ghi chú cuối trang, không phải vì mục đích pháp lý mà giúp người sử dụng biết được rằng “Hóa ra cả trang này chỉ có từng này thứ thôi. Xin hãy tiếp tục công việc tìm kiếm”.
Nhóm của Mayer đã học được rất nhiều điều trong ngày hôm đó về các cách khác để cải thiện trang chủ của Google. Một người thử nghiệm băn khoăn với họ rằng liệu Google có phải là một công ty hợp pháp không bởi trang web của công ty này trông không chuyên nghiệp gì cả. Sau khi Mayer kể cho cô này biết rằng công ty có rất nhiều nhân viên, “cô ấy hỏi tôi rằng tôi có phải thuộc khoa tâm lý ngụy trang bằng cách vờ lập ra một công ty đặt tên là Google?”
Khi Google tìm ai đó có khả năng quản lý hệ thống máy tính của họ, Larry và Sergey đã thuê một bác sỹ phẫu thuật não, bác sỹ Jim Reese, người có chứng chỉ ngành y ở cả trường Harvard và Yale Medical School. Ông đã từng làm việc tại phòng thí nghiệm của trường Stanford trước khi ông gia nhập Công ty Google năm 1999, trở thành nhân viên thứ 18. Được gọi là Trưởng bộ phận điều hành của Google, Reese quản lý các thể loại phần cứng máy tính khác nhau của công ty.
Mùa thu năm 1999, Google bắt đầu sắm sửa đồ mới. Được hai công ty tài chính đầu tư một số tiền khổng lồ và được họ khích lệ, Sergey và Larry đã có được nguồn tài chính họ cần để phát triển công ty mạnh mẽ. Đối với Google, để đạt được một vị trí đem lại lợi nhuận đáng kể, công ty cần phải mua thêm các linh kiện máy tính và tăng bộ nhớ để Google có thể mở rộng mạng lưới của mình.
Họ không còn cần phải lùng sục kiếm máy vi tính ngoài các bãi chứa hàng của trường Stanford. Họ đã đạt tới một mức cao hơn: nhảy lên xe và lái tới Fry's, trung tâm thương mại điện tử khổng lồ trong Thung lũng Silicon. Ở đó, họ mua các loại máy vi tính khác nhau, đĩa, bộ nhớ. Về Googleplex, họ dỡ những chiếc máy rời ra, vứt bỏ những bộ phận không cần thiết làm tốn năng lượng và nguồn lực của máy tính. Sau đó, họ lắp ráp các máy tính thành hệ thống, nối với nhau bằng dây nối, phần mềm và một chất liệu đặc biệt giúp Google có tốc độ cao.
“Chúng tôi muốn mỗi đồng đô la bỏ ra đều tạo ra được năng lực máy tính tốt nhất có thể”, Jeffrey Dean, một trong những kỹ sư Google lôi kéo được về từ trung tâm thí nghiệm đã sản sinh ra công cụ tìm kiếm Alta Vista, tâm sự.
Dean và một số nhân viên Google khác kể lại câu chuyện họ làm thế nào để lắp ráp những chiếc máy vi tính rẻ tiền thành một chiếc “siêu vi tính”. Anh kể, thay vì bỏ ra một khoản tiền khổng lồ 800.000 đô la để mua một hệ thống tối tân của IBM, họ vào trang RackSaver.com, nơi chỉ với 250.000 đô la họ có thể mua được 88 chiếc máy vi tính cung cấp năng lực xử lý tương ứng và dung lượng bộ nhớ còn lớn hơn vài lần. Họ còn sử dụng hệ thống điều hành mở Linux chứ không mua phần mềm quản lý của Microsoft. Những khoản tiết kiệm này giúp Google có tính cạnh tranh hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh, thậm chí cả với những đối thủ có tiền đầu tư tương ứng từng đồng một với họ. Đối với mỗi đồng đầu tư, Google có được năng lực máy tính gấp ba lần so với các đối thủ cạnh tranh.
Bởi các máy tính chính của Google không gắn liền với hệ thống bảo vệ và loại bỏ phần thừa như những chiếc siêu máy tính của IBM, họ dễ thất bại hơn. Giống như những chiếc máy tính thông thường họ lắp ráp lại, những chiếc máy tính của Google có thời hạn trong vòng 2 đến 3
năm trước khi chúng cần được thay thế. Thậm chí cả những chiếc máy tính khỏe mạnh cũng sẽ yếu đi sau một vài năm, và lúc đó chúng trở nên chậm hơn các chiếc máy tính mới dùng. Với số lượng máy tính Google đang sử dụng, mỗi ngày có tới vài chiếc không thể sử dụng tiếp. Sergey và Larry quyết định giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng phần mềm, bỏ qua những chiếc máy tính hỏng thay vì thay thế và vứt chúng đi.
Trở lại với bác sỹ Reese, người đã từ bỏ làm nghề phẫu thuật thân thể con người để chuyển sang hỗ trợ phát minh phần mềm giúp Google trở nên nhanh hơn và đáng tin cậy hơn trước bất kỳ vấn đề gì. Bằng cách truyền dữ liệu và nhiệm vụ tới một số lượng lớn máy tính đặt ở các vị trí khác nhau, ông và nhóm của mình đã thiết lập một hệ thống có thể giải quyết được sai phạm mà không bị rối. Với công cụ quan trọng của Googleware này, bác sỹ Reese- bác sỹ phẫu thuật não - có thể giám sát toàn bộ hệ thống vô giá này chỉ từ một địa điểm, thay vì phải liên tục đi tuần tra các trung tâm dữ liệu của Google.
Hầu hết các máy tính của Google đều được lắp đặt trong các trung tâm lớn này - đó là những kho hàng giống nhau, được điều chỉnh nhiệt độ phù hợp, thuê các công ty lắp đặt thiết bị, nối mạng và an toàn. Vào thời điểm cuối những năm 1990, cạnh tranh khốc liệt, các trung tâm dữ liệu kiểu này đòi giá thuê theo foot vuông còn đắt hơn cả lượng điện họ tiêu thụ, tạo động lực để Google tính cách xếp càng nhiều máy tính chồng lên nhau được càng tốt. Đây là một cách Reese và nhóm của ông nghĩ ra để tiết kiệm chi phí. Nhưng giá điện cũng tăng cao, một vài trung tâm dữ liệu bị phá sản và Google buộc phải dời máy tính của họ tới chỗ khác. Sau một vài lần thực hiện, họ quyết định lắp bánh xe vào các giá đựng máy tính của mình.
Sau khi mua sắm thêm thiết bị, Google đã mở rộng từ 300 chiếc máy tính từ hồi Reese mới gia nhập công ty lên thành 2.000 chiếc chỉ sau một tháng, và vào mùa hè năm sau, con số đó đã tăng lên gấp đôi. Với kiểu mở rộng như vậy, nhiệm vụ cấp bách của Google là phải xây dựng hệ thống thải hồi dư thừa, nhờ đó nếu một nhóm máy tính bị hỏng - hay ra đi vĩnh viễn vì động đất - các nhóm máy tính khác vẫn lưu trữ dữ liệu trên Internet và các dữ liệu khác để lấp vào chỗ trống. Tại thời điểm đó, Google có hai trung tâm dữ liệu ở phía bắc California và một trung tâm thứ ba ở khu Washington DC, sau đó mở thêm rất nhiều trung tâm nữa trên toàn nước Mỹ và ra cả thế giới.
Lợi ích của việc lưu lại bản sao dữ liệu tất cả mọi thứ ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng khi một đám cháy xảy ra ở một trong những trung tâm dữ liệu của Google. Larry và Sergey không cần tham dự lễ hội Burning Man, mà đây đã thực sự là một đám cháy. Khi sáu xe cứu hoả phun nước vào đám cháy, các hệ thống sao lại của Google đã tiếp quản mọi thứ, giúp Google tiếp tục
chuyển tại các kết quả nhanh chóng. Và khi hàng chục ngàn người tìm kiếm thông tin không hề biết rằng đã có vụ cháy xảy ra, Google đã tự chứng minh cho độ tin cậy của mình.
CHƯƠNG 7. Danny Sullivan xuất hiện
Danny Sullivan, một nhà báo 30 tuổi làm việc cho Thời báo Los Angeles và The Orange County Register, một trong những người đầu tiên tham gia vào cơn sốt Google cuối những năm 1990. Anh từ bỏ thế giới giấy mực của báo chí và bắt đầu làm việc với một người bạn thiết kế web đang làm việc tự do. Ở California, nơi Sullivan sinh ra và gắn bó gần như toàn bộ cuộc đời mình, dường như ai cũng biết sử dụng Internet, tìm hiểu web hoặc chuẩn bị làm việc cho một trang Web. “Internet rất rộng lớn và tôi muốn là một phần trong đó” Sullivan nói. Trớ trêu thay, thời điểm anh quyết định thay đổi lại đến vào một ngày không lâu sau khi anh tạo ra một vụ hoảng hồn, khi một khách hàng nóng nảy, sở hữu một trang web ghi công việc tại The Orange County Register nổi giận với Sullivan và khách hàng của anh bởi trang web của khách hàng này không hiện đủ trong kết quả tìm kiếm thông tin. Vụ khách hàng nổi giận này làm cho Sullivan mất tự chủ. Anh thực ra thuộc tuýp người thân thiện và lý trí, chưa từng bị chê trách, thêm vào đó, anh cũng không hiểu chuyện gì xảy ra.
Cơn tức giận của khách hàng là chất xúc tác thúc đẩy anh tìm hiểu cách thức công cụ tìm kiếm thông tin thu thập dữ liệu và phân loại kết quả tìm được. Nhiều tháng tiếp theo, Sullivan lùng sục khắp trang Web, đặt ra nhiều câu hỏi và ngày càng bị cuốn hút bởi thế giới ẩn sau bộ công cụ kiếm. Một trong số những điều anh phát hiện là kết quả tìm kiếm tự động do Alta Vista gửi đi nhưng các dữ liệu tìm thấy lại thường bị lướt qua và bị bỏ qua những thông tin hiện rõ trước mắt. Chưa biết nguyên nhân tại sao nhưng không thể để tiếp tục xảy ra tình trạng này khi trang web lớn mạnh hơn. Bây giờ, Sullivan nhận ra anh sắp phải đối mặt với một vấn đề lớn, anh hiểu điều quan trọng mà các chủ trang web cần phải hiểu nếu họ muốn tạo ra lượng thông tin trao đổi và thu hút sự chú ý. Anh công bố nghiên cứu mang tên “Hướng dẫn phương thức tìm kiếm thông tin của những chuyên gia web” trên Internet, trong đó giải thích rằng quảng cáo tìm kiếm thông tin là một lĩnh vực kinh doanh phức tạp. Mặc dù lúc đó có nhiều phương thức tìm kiếm thông tin song chúng vẫn còn nhiều hạn chế - như sao chép trang web chậm và thường bỏ qua những dữ liệu quan trọng. Dù cải thiện kh ả năng phân loại của tất cả các phương thức tìm kiếm là một ý kiến nhưng vẫn còn nhiều vấn đề có thể xảy ra theo nhiều cách khác nhau có liên quan. Vì vậy, Sullivan đề xuất trong nghiên cứu của mình rằng những người thiết kế trang web nên dựa trên AltaVista, Excite và một vài phương thức điều hành khác thay cho một mớ các phương thức thị trường. Đây là một lời khuyên hợp lý.
Không may, công ty mà Sullivan định đến làm việc đã bị phá sản ngay trước khi bản báo cáo
của anh ta được đưa lên mạng. Tuy nhiên, Sullivan đã ở đúng nơi đúng lúc. Nghiên cứu của anh nhận được nhiều phản ứng tích cực và bắt tay vào tự kinh doanh, trở thành một người tư vấn với trang web mang tên Califia.com.
Mạng Internet giúp anh có thể tư vấn ở mọi nơi, anh và vợ - một người gốc Anh, chuyển từ California đến London năm 1997 để họ có thể ở gần gia đình hơn. Anh cũng bắt đầu cho ra mắt bản tin nội bộ trực tuyến “Đồng hồ tìm kiếm”. Dựa trên hưởng ứng mạnh mẽ từ nghiên cứu đầu tiên và những cuộc đối thoại bất ngờ được đưa lên trang web, Sullivan thấy rằng mạng Internet là nơi một cá nhân đơn lẻ với khả năng chuyên môn trong một lĩnh vực riêng biệt có thể sống bằng cách viết các bản tin nội bộ trực tuyến. Các bản tin của anh không giống những bản tin truyền thống, chúng không mất chi phí phân phối và anh có thể gửi đi ngay tức thì và nắm được toàn diện hệ thống tìm kiếm thông tin. Tính quần chúng của các bản tin tăng lên nhanh chóng. Tháng 11 năm đó, Sullivan bán “Đồng hồ tìm kiếm” cho hãng truyền thông Jupiter, một trong những mạng thông tin nghiên cứu và chuyển tin tức trực tuyến, nhưng vẫn giữ lại tên trang web và trở thành người đứng đầu tinh thần của mục tìm kiếm. Ngay sau đó, anh nhận vai trò là người dẫn chương trình trong chuyên mục của mình khi đến một số thành phố lớn dẫn chương trình hội nghị hàng năm bàn về “Chiến lược của phương pháp tìm kiếm”.
Sullivan biết rằng anh cần đến thăm Thung lũng Silicon thường xuyên để bắt kịp những bước phát triển mới và gặp gỡ những người mới tham gia vào lĩnh vực tìm kiếm thông tin. Được biết về sự ra đời của Google năm 1998, anh băn khoăn liệu kỹ thuật tìm kiếm thông tin sinh ra ở Stanford này có trở thành một công cụ kinh doanh được không dưới sự chỉ đạo của Brin và Page, cho dù hiện tại nó đang gây ấn tượng mạnh. Anh nhớ lại: “Họ dường như không quan tâm đến việc làm cách nào để kiếm ra tiền.”
Ban đầu, năm 1999, khi nhận được số vốn đầu tư 25 triệu đô la, Google biết đến dưới dạng màn hình rada với vòng tròn những người hâm mộ. Nhưng trong một thời gian dài ngay sau khi cái tên Google được phần nào biết đến và công cụ tìm kiếm này nhận được sự hưởng ứng từ hàng triệu người sử dụng máy tính miễn phí trên khắp thế giới thì công ty phải vật lộn với việc kiếm tìm vốn. Sau khi hai công ty là Red Hat và Netscape từ chối mua Google, không ai muốn bỏ tiền ra để mua bản quyền Google nữa. Một năm sau đó, Kleiner Perkins và Sequoia Capital đầu tư vào công ty này, nhưng có vẻ những kẻ đa nghi đã đúng khi cho rằng họ đang lãng phí một khoản tiền lớn. Lý do là trong cuộc hội thảo năm 1999 về chiến lược phương thức tìm kiếm thông tin do Danny Sullivan dẫn chương trình tại San Francisco, khi Sergey Brin được giới thiệu, mọi người đã chú ý nhưng những nhà đầu tư của Google lại không ấn tượng gì, anh chỉ xuất hiện rồi biến mất rất nhanh trên sân khấu.
“Ban đầu ý tưởng kinh doanh này nhằm mục đích bán bản quyền sử dụng kỹ thuật cơ bản của công cụ tìm kiếm này cho các công ty và liên doanh máy tính khác”, Sequoia’s Michael Moritz nói. “Nhưng trong năm đầu tiên, chúng tôi đã cùng nhận ra thị trường chúng tôi đang theo đuổi khó khăn và phức tạp hơn dự tính ban đầu”.
“Những cuộc thảo luận và đàm phán với khách hàng tiềm năng bị kéo dài. Do có một hội đồng cạnh tranh lành mạnh nên chúng tôi không phải chịu những áp lực bán hàng trực tiếp, tuy vậy rất khó để thuyết phục khách hàng trả theo giá chúng tôi đưa ra. Rõ ràng là, theo đuổi con đường này đầy chông gai”.
Brin và Page không thất vọng. Họ biết rằng họ có một công cụ tìm kiếm thông tin tốt và họ tìm cách thúc đẩy mối quan hệ với Danny Sullivan giúp họ giới thiệu nó trên khắp thế giới mà không mất chi phí quảng cáo. Việc này đã đem lại hiệu quả. Những lời giới thiệu tích cực trên trang web của Sullivan và những bức thư điện tử được gửi tiếp sau đó là một trong những cách hiệu quả để Google tự giới thiệu bản thân mà không cần quảng cáo. Đó là một mối quan hệ có lợi cả cho chủ thầu, cho Google và cả Danny Sullivan.
Mặc dù Google đã đạt trung bình bảy triệu lượt tìm kiếm mỗi ngày vào cuối năm 1999, nhưng khoản thu từ những lượt sử dụng bản quyền vẫn còn rất nhỏ. Dù vậy, Brin và Page không quan tâm đến việc làm giàu, họ không muốn Google bị xáo trộn. Nếu công việc tự duy trì được thì họ có thể chú tâm hoàn thiện phiên bản quản lý thông tin của mình để phục vụ miễn phí cho người sử dụng trên toàn thế giới.
Hai người họ luôn băn khoăn làm cách nào để sắp xếp tất cả mớ thông tin tải được từ mạng Internet một cách tốt nhất. Bất kỳ điều gì làm hại đến lòng tin của người sử dụng đều không được họ chấp nhận, ngay cả khi điều đó đem lại rất nhiều tiền cho Google. Họ không thích quảng cáo, ngay cả trong lời đề tựa trên một tờ rơi giới thiệu năm 1998 về công nghệ của Google cũng viết: “Công cụ tìm kiếm thông tin thu lợi từ quảng cáo cũng gần như một công cụ quảng cáo”, họ viết vậy và cho rằng “phương thức tìm kiếm thông tin càng tốt nếu khách hàng càng ít phải đọc quảng cáo trong khi đang tìm thông tin cần thiết”. Nhưng quảng cáo cũng là một loại thông tin mà người sử dụng cần. Có lẽ không phải tất cả các quảng cáo đều xâm hại đến khách hàng.
Yahoo là một trang web lớn dựa vào quảng cáo, coi việc tìm kiếm những thông tin cơ bản là một phần phụ đã thỏa thuận với mọi người. Công việc chính của Yahoo là trở thành trang web thư điện tử cho hàng triệu người sử dụng và cung cấp cho họ một dịch vụ sở hữu chung tuyệt vời. Khi nó trở thành một trang web tìm kiếm thông tin, Yahoo thường tạo ra và liệt kê những
đường dẫn nhưng không thể lưu những trang web nó đã tìm thấy, đường dẫn khi đó ít tác dụng hơn. Để giải quyết vấn đề này, Yahoo dựa vào những hãng khác, như Inktomi, để thoát khỏi tiếng là một trang web tìm kiếm thông tin tồi và làm tăng kết quả Yahoo tìm được cho người sử dụng. Còn Công ty Microsoft lại không coi tìm kiếm khách hàng là cơ hội kinh doanh và đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác. Cả MSN của Microsoft và American Online đều nhận thấy thư điện tử là cách thức tốt để tạo khán giả cho các quảng cáo, họ coi tìm kiếm thông tin là một chức năng ít quan trọng hơn trong tất cả các chức năng của mình, họ dựa vào những trang web khác để cung cấp những kết quả tìm kiếm thông tin.
Trong khi đó, Danny Sullivan cẩn trọng theo dõi Larry và Sergey nắm bắt cơ hội thuê những nhà công nghệ sáng giá và tập trung làm một việc: tìm kiếm thông tin. Thu nhập của Google có thể không tăng nhanh nhưng sức mạnh tri thức của người lao động lại tăng nhanh. Thay vì trả cho những kỹ sư này khoản tiền lương lớn thì Google trả cho họ khoản lương bình thường và hàng ngàn cổ phần có thể có giá trị khi công ty làm ăn phát đạt. Đó là loại đặt cược đặc trưng của Thung lũng Silicon do những kỹ sư thông minh thực hiện. Sergey và Larry tự mình phỏng vấn tất cả các nhân viên tiềm năng, thuê những con người tài năng và sa thải những người khác. Việc nắm quyền kiểm soát giúp Google tồn tại trong khi nhiều công ty công nghệ khác phá sản. Những áp lực đè lên Google do thiếu vốn chưa là gì so với áp lực trong những công ty cổ phần đã bán cổ phần cho nhà đầu tư với giá cao chỉ để biết được rằng có chữ “.com” trong tên chưa đủ để đảm bảo sự tồn tại, rằng họ đang đối mặt với nguy cơ bị các nhà đầu tư này nuốt chửng.
Với một công cụ tìm kiếm xuất sắc và chất lượng nhân viên ngày càng tăng, Brin và Page đã tìm cách giữ cho Google ngày càng phát triển mà không mất đi những nguyên tắc kinh doanh tốt đẹp. Ngoài việc tập trung vào kinh doanh bản quyền công cụ tìm kiếm này, họ đã quyết định kiếm lời bằng cách cho phép quảng cáo. Google vẫn tiếp tục miễn phí cho tìm kiếm thông tin - giống như mạng truyền hình miễn phí cho phần giải trí và tin tức, và vẫn kiếm tiền bằng cách bán những phần quảng cáo không quá phô trương trên trang kết quả tìm kiếm.
Về phần mình, Sullivan không coi tất cả các quảng cáo đều xấu, nhưng anh cho rằng kết quả tìm kiếm thông tin miễn phí được phát đi bởi một công cụ tìm kiếm thông tin không nên bị ảnh hưởng bởi quảng cáo hay bất kỳ khoản tiền nào khác. Và anh cũng đặc biệt lên án bất kỳ công cụ tìm kiếm nào bán phần quảng cáo hoặc nhận tiền để đảm bảo kéo theo hoặc chứa một trang web trong phần kết quả miễn phí. Anh thông báo cho người đọc “Đồng hồ tìm kiếm thông tin” biết mình đã tìm ra cách giải quyết vấn đề. Một vài công cụ tìm kiếm do thiếu tiền đã nhận tiền để đổi lấy việc đặt trang đó trong phần kết quả tìm kiếm nhưng Brin và Page coi
việc đó là tồi tệ và tránh nhận mọi khoản tiền như thế. Họ cũng không thích những đoạn quảng cáo khoa trương quá đáng rải khắp trên mạng Internet. Những vẫn còn một cách kiếm tiền khác: chạy những dòng chữ quảng cáo khi có yêu cầu riêng của người sử dụng.
“Chúng tôi sẽ có tiền và lợi nhuận”, Brin nói vậy khi nói chuyện với sinh viên cũng như nói với chủ tịch công ty. “Không hề có các mẩu quảng cáo và không hề có chuyện lượng truy cập giảm. Tôi tin rằng quảng cáo chính là câu trả lời.”
Có một công ty thu hút được sự chú ý của Brin bởi một lý do đơn giản: nó kiếm tiền bằng cách bán những đoạn quảng cáo kèm theo kết quả tìm kiếm thông tin, đó là GoTo.com, sau đổi tên là Overture Inc. Mặc dù hầu hết các khách hàng đều chưa bao giờ nghe thấy tên của Overture, nhưng nó cung cấp những quảng cáo kèm theo kết quả tìm kiếm tại Yahoo, America Online, EarthLink và những trang web lớn khác trên mạng. Thực tế, để đáp lại những lời than phiền vì quá nhiều mẩu quảng cáo thì những trang web có quảng cáo đã đưa thêm những trò chơi hấp dẫn, và có một cái đang phát triển. Brin và Page bắt đầu nghiên cứu Overture và ngay lập tức phát hiện ra những khía cạnh tiếp cận của nó thật đáng kinh sợ. Ngoài ra, Overture còn bán bảo hành rằng những trang web sẽ được chứa trong các kẻ tìm web thường xuyên hơn nếu các nhà kinh doanh trả thêm phụ phí cho chúng. Những chàng trai của Google có hai sự lựa chọn: họ có thể thuê Overture bán các phần quảng cáo được hiện lên trong các kết quả tìm kiếm trên Google.com hoặc họ sẽ tự bán những phần quảng cáo này.
Quyết định việc này không khó. Google tự viết tất cả các phần mềm của mình và xây dựng trên chính máy tính của công ty. Nếu Sergey và Larry tin vào bất kỳ điều gì thì đó là điều họ tự làm được bằng chính khả năng của mình. Nếu họ có thể chinh phục được dự án tài chính rắc rối trên đường Sand Hill thì sao họ lại không thể tự bán những phần quảng cáo và giữ 100% số tiền họ kiếm được thay vì chia sẻ chúng với Overture? Tự làm cũng cho họ quyền quyết định toàn bộ và tránh được những mâu thuẫn tiềm tàng cũng như bất kỳ điều gì có thể làm xấu đi tiếng tăm và tên tuổi của Google. Vì vậy, cả hai quyết định cố gắng cạnh tranh với Overture về mặt quảng cáo, mà họ đã bắt đầu từ năm 1998 nhưng bị gián đoạn một vài lần. Chiến lược kinh doanh mới rất đơn giản: tiếp tục cung cấp dịch vụ tìm kiếm miễn phí và kiếm lời bằng cách quảng cáo. Vấn đề chính là làm rõ rằng họ không nghiêng về phần quảng cáo.
“Rõ ràng là những cống hiến và mạo hiểm của họ chỉ vì mục đích muốn làm một việc đúng đắn”. Sullivan nói.
Brin và Page đã nói chuyện với nhiều người trước khi bắt tay vào con đường quảng cáo để đảm bảo rằng họ không mắc bất kỳ sai lầm nào. Họ bị thuyết phục rằng chỉ khi có sự phân biệt rõ