🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Goócbachốp - bạo loạn, sự kiện tháng tám nhìn từ bên trong Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. NGUYỄN HOÀI ANH Biên tập: Trình bày bìa: TS. VÕ VĂN BÉ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU PHẠM THÚY LIỄU Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Sửa bản in: Đọc sách mẫu: ĐỖ THỊ TÌNH ThS. NGHIÊM THỊ TUẤN ANH LÔ THỊ OANH NGUYỄN SƠN LÂM NGUYỄN THỊ VÂN PHẠM DIỆU THU VIỆT HÀ Số đăng ký xuất bản: 3099-2021/CXBIPH/6-37/CTQG. Số quyết định xuất bản: 585-QĐ/NXBCTQG, ngày 14/9/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 10/2021. Mã ISBN: 978-604-57-7039-9. Người dịch: - ĐỖ XUÂN DUY - LÊ KHẮC THÀNH - TẠ THỊ THÚY - PHẠM XUÂN SƠN (Dịch từ nguyên bản tiếng Nga) CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi diễn ra cuộc chính biến tháng 8/1991 ở Liên Xô, dẫn đến sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết. Cho đến nay, đã có hàng trăm công trình, hàng nghìn bài viết về sự kiện bi thảm này được công bố trong và ngoài nước, với những nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Nhân 30 năm ngày diễn ra cuộc chính biến, để giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về sự kiện chính trị này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Goócbachốp - bạo loạn, sự kiện tháng tám nhìn từ bên trong dưới hình thức sách điện tử, phi thương mại. Cuốn sách đã được Nhà xuất bản xuất bản lần đầu tiên vào năm 1994, dịch từ nguyên bản tiếng Nga và được đông đảo độc giả đón nhận. Trong lần xuất bản này, dù đã rất cố gắng, nhưng chúng tôi chưa liên hệ được với các tác giả về vấn đề bản quyền. Rất mong nhận được sự cảm thông, chia sẻ của tác giả và bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 8 năm 2021 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 5 6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Cuộc chính biến tháng 8/1991 ở Liên Xô với kết thúc bi thảm của nó được coi là dấu chấm hết cho cuốn biên niên sử của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết. Đã có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về sự kiện này. Xung quanh nó hiện đang còn bao phủ một lớp sương mù với nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp cuối cùng đủ sức thuyết phục: Vì sao có cuộc chính biến? Ai là người khởi xướng và cần đến cuộc chính biến? Có hay không có, cái được gọi là một cuộc đảo chính? Ai là người có lợi trong cuộc đảo lộn lớn này của một cường quốc vĩ đại? v.v. và v.v.. Là những thành viên của Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, trực tiếp tham gia vào sự kiện tháng 8/1991 đồng thời lại là những người bị kết tội phản bội, V. Páplốp - nguyên Thủ tướng cuối cùng của Liên Xô, với “Goócbachốp - bạo loạn, sự kiện tháng tám nhìn từ bên trong”, A. Lukianốp - nguyên Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô, với “Cuộc đảo chính tưởng tượng hay có thật”, và V. Criuscốp - nguyên Chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô (KGB), với “Vị đại sứ của nỗi bất hạnh”, đã cung 7 cấp cho chúng ta các tư liệu, các văn bản, các chứng cứ và lập luận có tính phản biện xung quanh sự kiện tháng 8/1991 ở Liên Xô trong thời gian họ bị giam cầm để chờ ngày đưa ra xét xử. Mục đích của việc làm này, theo các tác giả, là nhằm góp phần xua tan những đám mây mù đang bao quanh sự kiện, vạch rõ thực chất cuộc chính biến, làm sáng tỏ những nguyên nhân đã đưa công cuộc cải tổ của Liên Xô đi chệch quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, dẫn đến thất bại, Đảng Cộng sản Liên Xô bị tan rã và Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết vốn là một siêu cường bị sụp đổ với một tốc độ kỷ lục. Là những người quan sát từ bên ngoài, chúng ta không có điều kiện nắm bắt một cách tường tận những sự kiện đã xảy ra. Chỉ có nhân dân Liên Xô trước đây, những người có lương tri và trách nhiệm cùng những người cách mạng gắn bó máu thịt với hơn 70 năm tồn tại của nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới mới đủ tư cách và thẩm quyền phán xét đúng sai. Và chắc chắn rằng rồi đây, cuối cùng, lịch sử sẽ “kết án” hay “xóa án” cho những ai có liên quan đến một loạt các diễn biến dồn dập đã xảy ra. Tuy nhiên cũng như các lực lượng tiến bộ khác trên thế giới, chúng ta không bàng quan trước những gì đã diễn ra ở Liên Xô trước đây, hơn nữa còn chia sẻ tình cảm với những người Xôviết về những tổn thất lớn lao mà họ phải gánh chịu. Đồng thời chúng ta cũng thấy cần thiết qua sự kiện có tính phản diện này rút ra những bài học bổ ích cho cuộc 8 đấu tranh chung vì hòa bình, hợp tác, hữu nghị và tiến bộ xã hội, vì tương lai tươi sáng của mỗi dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nhu cầu cung cấp các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để rộng đường tham khảo và phán đoán về nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô, do đó, đang được đặt ra một cách nghiêm túc. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cho xuất bản các hồi ký và bài viết của ba tác giả nói trên với tiêu đề chung “Goócbachốp - bạo loạn, sự kiện tháng tám nhìn từ bên trong” chính là nhằm đáp ứng yêu cầu vừa nêu. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 6 năm 1994 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA 9 10 V. PÁPLỐP GOÓCBACHỐP - BẠO LOẠN SỰ KIỆN THÁNG TÁM NHÌN TỪ BÊN TRONG 11 12 Người ta đã viết và nói rất nhiều về những sự kiện diễn ra trong tháng 8/1991. Người lên tiếng nhiều nhất là M.X. Goócbachốp. Ông ta say mê làm điều đó nhằm một mục đích duy nhất là minh oan cho mình, làm ra vẻ mình là một tù nhân, là nạn nhân của “những kẻ bạo loạn”. Điều đó buộc tôi, ngay trong xà lim, phải cầm bút, vượt lên tất cả các bước ngoặt của số phận cá nhân để lại cho những ai muốn nhận biết sự thật một thông tin chân thực về những ngày đó. Cái kết luận mà M.X. Goócbachốp công khai tuyên bố coi chính trị như là một công việc bẩn thỉu là không phải lỗi tại tôi. Ông ta đưa ra kết luận đó phần lớn là dựa vào cái lý lịch của bản thân ông ta. VALENTIN PÁPLỐP 13 14 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tại Mátxcơva, Tòa án tối cao Nga đã bắt đầu xét xử vụ án Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp. Trong số những người bị buộc tội có cả tác giả cuốn sách này là Valentin Xécgâyêvích Páplốp - Thủ tướng cuối cùng của Liên Xô. Vụ xét xử hình sự về thực chất là vụ án chính trị. Nhưng trong lịch sử tòa án chính trị, chưa có một tòa án nào xác định được chân lý. Điều quan trọng hơn đối với xã hội và mỗi công dân là có khả năng nói lên ý kiến của mình về sự bùng nổ chính trị trong tháng 8/1991, bởi vì, khi đánh giá các sự kiện đó, các nhà chính trị ở cấp cao nhất, các phương tiện thông tin đại chúng có lập trường tư tưởng đối lập hoàn toàn và thậm chí cả các đại diện buộc tội (ngay trước phiên tòa!) đã dựng nên và tung ra các huyền thoại và các giả thiết phản ánh những lợi ích của họ. Cuốn sách này giúp bạn đọc rút ra những kết luận trên cơ sở các sự kiện, các văn bản và các chứng cứ của một người đã từng tham gia trực tiếp vào các sự kiện trong tháng 8/1991. 15 Chúng tôi cho rằng những ghi chép đưa ra để bạn đọc phán xét có thể có những sai sót về bút pháp và biên tập, nhưng chúng tôi hy vọng rằng bạn đọc sẽ độ lượng bỏ quá cho, những ghi chép đó có thể đưa lại một phần thông tin chân thực. Những ghi chép này không có tham vọng nêu đủ tình tiết hay có được giá trị văn học. Tác giả là một nhà kinh tế chuyên nghiệp. Mục tiêu duy nhất của ông là đưa ra bằng chứng và khách quan. Mátxcơva, 1993 NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI KINH DOANH 16 GỬI BẠN ĐỌC! Cuốn sách này được viết trong xà lim của nhà tù “Matơrốtxcaia Tisina” và là câu trả lời trực tiếp cho những điều giả dối và xuyên tạc được phát trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, được in trên các trang báo, tạp chí và sách. Đây không phải là hồi ký, hồi ức mà là một sự phân tích tỉ mỉ những sự kiện tháng 8 dựa trên sự quan sát của bản thân và các tài liệu điều tra. Về thực chất, cuốn sách chứa đựng câu trả lời của tôi về một vấn đề chủ yếu: Ai là người thực sự khởi xướng những sự kiện bi thảm tháng 8. Câu trả lời đó đã được nêu rõ qua tên cuốn sách: “Goócbachốp - bạo loạn”. Giờ đây trong cái mớ lời lẽ màu mè, trong cái dàn hòa tấu âm thanh hỗn loạn, người ta tìm cách, như người đời thường nói, - cố sống cố chết che giấu sự thật trước các dân tộc của Liên bang Nga và các nước gần xa. Mặt khác, che đậy sự hèn nhát và sự tính toán ích kỷ của tất cả những kẻ, bằng cách này hay cách khác, đã và đang khao khát vớ bẫm nhờ vào những sự kiện tháng 8/1991. Một số thì cần quyền lực, số khác không chỉ cần quyền lực mà còn muốn 17 có được ánh hào quang của một người tử vì đạo hoặc khí tiết của người anh hùng. Loại thứ ba thì muốn có một chỗ êm ấm. Loại thứ tư thì muốn có được khả năng dễ dàng nhất để được quyền phung phí vô hạn tài sản quốc gia mà không bị trừng phạt, đương nhiên là vì lợi ích của cá nhân. Và các sự kiện đó với thời gian, càng để lâu càng ít có hy vọng đào bới tới chân lý đối với những ai mong muốn tìm ra sự thật. Sẽ có nhiều huyền thoại bị tiêu tan, sẽ có nhiều “anh hùng” bị rơi vòng nguyệt quế. Bởi vậy, ngay những ngày đầu tiên sau khi Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp tự giải tán, lập tức xuất hiện các hồi ức, bình phẩm, những bản tụng ca và tự tuyên dương công trạng hão huyền. Lúc này, người ta áp dụng một đường lối cứng rắn là không cho phép những người đối kháng lên tiếng. Không cho phép luật sư tìm hiểu vụ án, không cho phép nhà báo tiếp xúc với những người bị bắt, không cho phép tù nhân gặp gỡ với người thân thích. Lý do? Để ngăn cản điều tra. Còn những người được gọi là nhân chứng, vừa đặt bút ký cam kết không tiết lộ các tài liệu điều tra, đã ngay lập tức nói và viết cả những gì người ta đã nói hay không hề nói, cả những gì xảy ra và những gì không hề có thực. Phụ họa với những nhân chứng lắm lời đó có cả các nhà thẩm phán và công tố viên - những người được chính nhà nước giao cho nhiệm vụ phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc suy đoán vô tội đối với mỗi công dân của quốc gia. 18 Chuyện gì đã xảy ra? Từ đâu có được sự thống nhất cảm động đến thế và vì mục đích gì? Câu trả lời hết sức đơn giản: đã diễn ra một cuộc chính biến do Goócbachốp và Enxin tiến hành có sự chuẩn bị tỉ mỉ và điêu luyện theo một đơn đặt hàng đặc biệt. Để hiểu được thực chất cuộc chính biến đó, cần phải làm sáng tỏ ai cần cuộc chính biến đó và người đó cần nó để làm gì. Tôi muốn làm sáng tỏ một số sự kiện mà tôi được biết. Mong rằng đây là sự đóng góp nhỏ làm sáng tỏ sự thật mà cuối cùng sẽ được phục hồi. Tôi rất tin vào điều đó. Không phải tôi biết được tất cả mọi chuyện, hiện giờ tôi cũng không có đủ bằng chứng để chứng minh về tất cả những việc đó. Trong các lĩnh vực hoạt động, chính quyền và các cơ quan đặc biệt rất không muốn để lại những dấu vết, người ta làm mọi cái có thể và không thể để xóa sạch dấu vết. Nhưng tôi tin rằng độc giả khách quan có suy nghĩ lành mạnh, có thể tự mình đánh giá các kết luận của tác giả xuất phát từ tính quy luật chung và lôgích sự kiện. Tôi không muốn nhận mình là người vô tư. Ngược lại, tôi có thái độ hết sức thiên vị đối với mọi công việc mà tôi chịu trách nhiệm. Có lẽ trong vấn đề nào đó, tôi có mắc sai lầm, nhưng không phải trong những vấn đề chính. Nhưng những gì tôi biết, không thể xuyên tạc và càng không cho phép tôi làm điều đó. Tôi hy vọng đó là điều chủ yếu đối với độc giả. Tôi cũng xin giải thích thêm một điểm. Cuốn sách này là sự trả lời công khai của tôi cho các thẩm phán và 19 các công tố viên và cho cuộc điều tra mà ngay từ bước đầu tiên đã được tiến hành một cách định kiến, có ý đồ chính trị rõ ràng và không trung thực. Tôi coi sự ra đời cuốn sách này là quan trọng đối với việc xét xử vụ án Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp. Đồng thời cuốn sách này chỉ là một phần của công trình tỉ mỉ và to lớn mà trong đó tôi kể về những mưu kế ngấm ngầm mang tính chất chính trị và phi chính trị đã đóng vai trò khá lớn trong việc làm tan vỡ Liên Xô. Thưa độc giả kính mến, cuốn sách đang nằm trước mặt bạn chỉ là một phần nhìn thấy được của đảo băng trôi. Tôi tin rằng sẽ đến lúc tôi có thể thu hút sự chú ý của công luận bởi câu chuyện tôi viết về thực chất sâu xa của mối thảm họa đã xảy ra ở đất nước chúng ta do lỗi của các nhà lãnh đạo vô nguyên tắc. 20 1. M.X. GOÓCBACHỐP ĐÃ THỀ KHÔNG NÓI RA ĐIỀU GÌ VÀ TẠI SAO? Trong cuộc gặp gỡ của mình với đại diện báo chí, thực tế đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên sau khi từ Phôrôx trở về ngày 22/8/1991, M.X. Goócbachốp như để đề phòng đã nói với họ rằng ông ta sẽ không nói gì với họ cả. Nhưng chỉ những lời nói đó cũng đã nói lên rất nhiều và vì vậy nó cần cho những ai thực sự muốn hiểu và nhận biết thực chất những điều đã diễn ra trong thời gian đó trong đời sống chính trị của Liên Xô. Điều đó cũng được đề cập một cách thoáng qua trong các phương tiện thông tin đại chúng của đất nước. Câu nói đó không còn được thảo luận, cả các nhà báo lẫn các thẩm phán cũng không nêu lên cái gọi là “vụ án Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp”. Trong cuộc thẩm vấn nhân chứng M.X. Goócbachốp ngày 14/9/1991, Phó Đội trưởng Đội Điều tra A.V. Phrôlốp và Tổng Công tố viên Liên Xô là N.X. Trubin, Tổng Công tố viên Liên bang Nga V.G. Xtêpancốp đã không hề hỏi về vấn đề đó. Xét theo các câu thẩm vấn của họ và các câu trả lời của Goócbachốp, đối với cả hai phía đến thời gian đó thì rõ ràng là nhiệm vụ của họ giống nhau: 21 không những cần khẳng định khả năng phản bội Tổ quốc của “những người bạo loạn”, mà còn phải vạch ra thực chất, động cơ thúc đẩy và tính chất đích thực của sự kiện tháng 8/1991, để có cơ sở tuyên bố công khai một sự thật rất khó ăn khó nói về công việc của những người nắm được quyền lực với tư cách là những người chiến thắng như họ đã ngộ nhận vào thời điểm đó. M.X. Goócbachốp đã thề không bao giờ hé môi nói về vấn đề gì? Đó là về vai trò của mình như người cổ vũ tư tưởng, hoạt động, người tổ chức chủ yếu và thực hiện sự kiện ngày 19 - 21/8/1991. Nhưng trong các sự kiện đó, cũng như nói chung trong chính trị, trong mọi hành động đều có lôgích và tính quy luật của nó. Người đứng ở ngoài cuộc thì khó có thể hiểu được. Hơn thế, ý đồ thực sự và những động cơ của hành động thường hoặc là được ngụy trang bằng sự quan tâm đến phúc lợi xã hội, hoặc đơn giản là bị che giấu hoàn toàn. Con người giữ vị trí càng cao trong nhà nước thì càng khôn khéo làm điều đó. Như mọi người đều rõ, mọi cái đều được lặp lại trong lịch sử. Điều cũng rõ ràng là quyền lực thực tế và danh nghĩa sẽ tập trung trong tay một số người do kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, khốc liệt và không thương xót. Và không một ai có thể bảo đảm những nỗ lực như vậy sẽ dẫn tới thành công. Đối với Goócbachốp lịch sử cũng đã được lặp lại với ý là “sự đăng quang” vào tháng 3/1985 22 và chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô hoàn toàn chưa phải là sự kết thúc, như đối với những người tiền bối của ông, mà đó chỉ là giai đoạn của cuộc đấu tranh tàn khốc giành quyền lực thực tế, nhằm giữ vững “ngai vàng”. Sự kiện ngày 19 - 21/8/1991 là một thời điểm cao nhất đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của cuộc đấu tranh đó. Do phản bội lại vũ khí cơ bản của mình, M.X. Goócbachốp đã chuốc lấy sự thất bại của cá nhân. Thắng lợi trên “ghế đệm” ở Phôrôx đối với Goócbachốp là một thắng lợi linh đình. Phản bội lại tất cả mọi người và mọi cái, ông ta cuối cùng chỉ còn lại một mình. Sự đầu hàng “kẻ thù - người đồng đạo” được ký một ngày sau khi ông ta từ “nơi cách ly” trở về Mátxcơva tại diễn đàn Xôviết tối cao Cộng hòa Liên bang Nga. Sau sự đê tiện đó và những sự hạ mình mà ông ta đã đưa lại cho bản thân thì việc tiếp theo chỉ còn lại là công việc có tính kỹ thuật và thủ tục pháp lý. Theo sự xác nhận của N. Vôrônsốp, đại biểu nhân dân Liên bang Nga, thì bài phát biểu mà Goócbachốp đọc tại Quốc hội Nga, chỉ khi lên diễn đàn ông ta mới nhìn thấy. Thay vì đọc bài do các trợ lý của ông ta chuẩn bị, Goócbachốp đã đọc một bài phát biểu do người khác viết. Ở đây không cần đặt ra câu hỏi điều gì đã xảy ra mà chỉ trong một đêm ngài Tổng Bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô buổi tối còn tuyên bố trước toàn thế giới về sự trung 23 thành của mình với những lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đổi mới đảng, ngày hôm sau, với chức Tổng thống hợp pháp của đất nước đã đồng ý vô điều kiện việc cấm đảng cộng sản này hoạt động và không chỉ tuyên bố sự tự trút bỏ trách nhiệm Tổng Bí thư mà còn kêu gọi Ban Chấp hành Trung ương tự giải tán. Đương nhiên, về “những việc vặt vãnh” như Xôviết tối cao Liên Xô và Chính phủ Liên Xô thì không cần phải nói đến. Những nhà lãnh đạo của các cơ quan đó bị tuyên bố là những tội phạm quốc gia. Và quá trình đó, như người ta nói, tiếp tục diễn ra: đến cuối năm ông ta viết một tuyên bố về việc tự rút khỏi chức Tổng thống Liên Xô, chấp nhận việc thủ tiêu Nhà nước. Một trường hợp chưa từng có trong lịch sử thế giới. Tiền hưu trí hàng tháng là 4.000 rúp đã mất giá bằng 40 đôla phải chăng là cái giá của những công trạng như vậy. Tôi tin rằng cặp vợ chồng Goócbachốp không có số tiền nhỏ nhặt đó vẫn có thể sống một cách đàng hoàng ở bất cứ nước nào trên thế giới kể cả trả tiền cho những phụ tá, người phục vụ và bảo vệ. Ở đây có một điều khác quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với ông ta. Goócbachốp đã làm mọi cái để có thể nhanh chóng phá bỏ tất cả các cấu trúc cơ quan nhà nước và xã hội, mà những cơ quan này có quyền hợp pháp yêu cầu ông ta phải phúc trình về các hành động của mình như một tổng thống, như một tổng bí thư. Cái bí mật của nhà chính trị này là ở chỗ 24 ông ta rất sợ việc phải phúc trình hành động của mình. Cần dự đoán và biết rõ tại sao như vậy. Chắc là không phải uổng công mà B. Enxin đã sớm đề nghị ông ta sám hối. Sau cuộc nói chuyện ba tiếng đồng hồ để vĩnh biệt vị Tổng thống Liên Xô thoái vị, ông ta, theo chính ông ta thừa nhận với các nhà báo, thấy muốn nhanh chóng đi rửa chân tay. Vị tổng chỉ huy tối cao đến hội nghị sĩ quan toàn quân đã không kịp tự giới thiệu và bỏ đi không tạm biệt một ai, vì ông ta biết ông ta phải làm gì. Ông ta hiểu rõ rằng cái công trạng được thực hiện trong chính trị không đáng giá một xu. Khi phải từ bỏ nhà nước và đảng, Goócbachốp biết rất rõ rằng, và không thể không biết, ông ta từ lâu đứng đầu các cơ quan đó chỉ có tính chất hình thức và trường hợp tốt nhất là đứng được đến Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô và Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự đổ vỡ của nền kinh tế, sự suy giảm mức sống của nhân dân, nạn thất nghiệp, những cuộc xung đột dân tộc đẫm máu và những người chạy nạn, quy mô chưa từng thấy của tội ác ở trong một nước mà ông ta coi là Tổ quốc mình - rõ ràng là nhân dân Liên Xô không thể tha thứ cho “những công trạng” như vậy. Cái hiện tượng hiếm có về việc Enxin nổi tiếng một cách nhanh chóng như một nhà chính trị - phản biện không phải chủ yếu nhờ những phẩm chất cá nhân “kỳ diệu” của ông ta, mà ở mức độ lớn chủ yếu là do tính vô đạo đức, hoạt động phản dân của Goócbachốp. Một nghịch lý 25 to lớn là ông ta đã biến những tư tưởng đúng đắn và cần thiết, những cải tạo cấp thiết, những mục đích tốt đẹp thành trò hề và tai họa đối với đất nước và nhân dân. (Xin nói thêm, dưới đây sẽ nói tỉ mỉ hơn quan niệm của chúng tôi về mối quan hệ thực tế của cái cặp này). Thêm nữa, còn do cái gọi là “tư duy mới” và “cải tổ” mà những tư tưởng và mục tiêu được các phương tiện thông tin đại chúng và các chính khách phương Tây gán cho là của Goócbachốp, lại có giá trị và đem lại lợi lộc thực tế cho phương Tây. Hoạt động đối ngoại của ông ta đã tạo khả năng cho phương Tây, trong khi không hề nhượng bộ một điều gì, lại đạt được những mục tiêu chiến lược vị kỷ của chúng trong chính trị, giúp chúng giảm bớt gánh nặng đánh thuế để phục vụ cho quân sự và chiếm lĩnh được thị trường tiêu thụ đầy triển vọng và tiếp cận được những nguồn nguyên liệu. Đối với những kẻ hủ lậu phương Tây, ông ta không phải là nhà lãnh đạo của “đế chế cái ác” mà là một người nhân từ, một chiến sĩ đấu tranh vì hòa bình, vì sự ưu tiên cho những giá trị chung toàn nhân loại. Đối với chúng, ông ta là người đã loại bỏ nguy cơ xung đột hạt nhân, tình trạng đối đầu làm kiệt quệ trong chiến tranh lạnh và những cái đó ông ta đã trả giá bằng sự đổ nát của đất nước, phá hoại trong nhiều năm sức mạnh kinh tế của đất nước. Chính bởi vậy, đến tận bây giờ các phương tiện thông tin đại chúng của chúng vẫn ra sức tâng bốc ông ta và biến ông ta thành một “Goócbi trìu mến”. 26 Hai bộ mặt của một con người: kẻ phản bội nhân dân mình và người anh hùng đối với thế giới bên ngoài, trước hết là đối với Mỹ, Đức, Ixraen. Cả hai bộ mặt đó đều có tính khách quan và có căn cứ. Tất cả phụ thuộc vào việc ai là người trả tiền. Chính bởi vậy mà Goócbachốp đã vội vã giao nộp tất cả - cả nhà nước, cả đảng và cả nhân dân. Đó là cái vốn mà người ta đã trả cho ông ta và sẽ còn trả thêm hàng triệu đồng. Đương nhiên sự phúc trình vô tư và những sự điều tra cặn kẽ chỉ có thể làm lu mờ ánh hào quang của người “anh hùng”. Đó là sự mất mát không nhỏ. Chính vì điều đó mà ông ta đã mặc cả. Để làm điều đó và vì điều đó ông ta đã tuyên bố tất cả những nhân vật giữ trọng trách cao nhất của nhà nước và của đảng là những tội phạm quốc gia trước khi kết thúc cuộc điều tra một cách chính thức về các hành động của họ. (Theo bằng cấp, ông ta là luật sư). Hơn nữa, ông ta không dám gặp trực tiếp bất cứ ai trong số họ hoặc là công khai nghe ý kiến của họ. Từ đó, bắt đầu có các cuộc thăm viếng thường xuyên, các bài phát biểu được trả tiền, những cuộc quyên góp thậm chí với những quy mô bé nhỏ hết sức lố bịch, nhận những tước vị và những danh hiệu, vội vã đăng những điều phát lộ đáng ngờ. Điều quan trọng là kịp gặt hái. Nhưng có giấu giếm đến đâu đi nữa thì sự thật bao giờ cũng tìm đường đến với con người, dù cho phải trải qua nhiều năm. Không thể chặn đứng được cuộc sống. 27 2. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SỰ KIỆN THÁNG 8/1991 HAY LÀ MỘT VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH NGƯỜI ANH HÙNG CHỦ YẾU CỦA “LỊCH SỬ” NÀY Trong lịch sử xôviết, tất cả những nhà lãnh đạo nhà nước đầu tiên là giành lấy quyền lực danh nghĩa, còn sau đó mới giành quyền lực thực tế. Cách này hay cách khác, nhưng tất cả họ đều cố gắng thực hiện nhiệm vụ đó vì hiểu nó là quyền lực cá nhân, còn nói chính xác hơn đó là độc quyền. Trên con đường đó tất cả đối thủ cạnh tranh và những người có tham vọng đủ loại, thông thường ai yếu hơn thì bị loại bỏ. Những địch thủ công khai trong tương lai đoàn kết với nhau để tiêu diệt người mạnh nhất và có tài năng nhất. I. Xtalin, N. Khơrútsốp, L. Brêgiơnép cũng đã lên nắm quyền như vậy. Ngoại trừ có hai người. Đó là K. Chécnencô, người mà nói chung không phải là quyền lực. Cả về tuổi tác, cả về trí tuệ, cả về tình trạng sức khỏe. Lúc đó, ông ta không thể trở thành quyền lực. Do vậy K. Chécnencô chỉ thực hiện được một điều duy nhất và chủ yếu mà ông ta có thể 28 làm được và vì việc đó mà người ta bầu ông là kéo dài cái kết cục đấu tranh giành quyền lực tối cao để cho các đối thủ cạnh tranh có thời gian bằng các mưu chước sau hậu trường tích lũy lực lượng cho trận chiến quyết định. Người thứ hai là Iu. Anđrôpốp. Đây là một hiện tượng hết sức đặc biệt bởi vì quyền lực thực tế đã hoàn toàn tập trung vào tay ông trước khi ông nhận được quyền lực danh nghĩa. Về thực chất ông đã hình thành về mặt pháp lý việc bầu ông làm tổng bí thư, thực tế từ lâu ông đã trở thành tổng bí thư. Chính vì vậy mà trong một thời gian tương đối ngắn cầm quyền ông đã để lại một dấu ấn rõ rệt trong lịch sử của đất nước. Goócbachốp không phải là ngoại lệ. “Con đường tiến lên cao” của ông ta về mọi phương diện rất điển hình. Cơ sở của con đường công danh đã được đặt nền móng vững chắc trong thời kỳ Xtalin bằng các công việc tương ứng của thời kỳ đó. Trước hết và cao hơn tất thảy đó là công tác xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà ông ta, người đã tốt nghiệp khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp quốc gia Lômônôxốp, tại khóa họp của Xôviết tối cao Liên Xô, khi trả lời sự trách cứ của các đại biểu, đã hoàn toàn chân thành nói: “Tôi không phải là một luật gia”. Cuộc họp được truyền trên vô tuyến truyền hình khắp đất nước và lời đối đáp đưa ra trong quá trình thảo luận đã gây ra sự giễu cợt nhiều hơn là sự ngạc nhiên. Năm đầu tại trường đại học, ông ta làm Bí thư Đoàn Thanh 29 niên cộng sản khoa, sang năm thứ hai được kết nạp vào Đảng Cộng sản (B) Nga và là đảng ủy viên trường đại học, là người tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Xiônít) dưới khẩu hiệu vạch trần các bí danh. Sau đó, đến lượt các bác sĩ - kẻ phá hoại. Cuộc vận động trong các bức tường của Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva diễn ra, như mọi người đều biết, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của M. Xuxlốp, người trong nhiều năm sau khi A. Giơđanốp mất là nhà tư tưởng chủ yếu của mô hình chủ nghĩa xã hội Xtalin. Phải chăng, ngay lúc đó ông đã phát hiện người đồng hương trẻ tuổi Xtarôpôn, mà khi “đã trưởng thành” thì được giúp đỡ để lọt vào bộ máy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, còn trước đó giúp người “đang trưởng thành” này vào làm việc trong bộ máy của khu ủy. Đúng là nơi xuất phát của thực tiễn sinh viên đã được chọn một cách chính xác - Lubianca đúng là Lubianca. Đúng là không một ai công khai hỏi ông ta về điều đó, còn bản thân Goócbachốp và những người am hiểu về nhân vật này đã không dám giải đoán, ở đó, ông ta đã ký văn bản loại nào. Về sự không tiết lộ các tài liệu là điều chắc chắn, còn về cái khác thì hiện không thể biết. Hiện nay, tôi biết chí ít là V.A. Criuscốp và A.I. Lukianốp chắc chắn được thông báo về điều đó và họ có thể suy nghĩ chắc chắn sẽ nói cho biết về những công việc cá nhân của ông ta thời kỳ đó. 30 Cái chết của Xtalin đã phá vỡ kế hoạch đăng ký cư trú tại Mátxcơva, buộc Goócbachốp phải quay về quê hương xứ sở, nhưng nhất quyết không trở lại công tác thực tiễn. Dù là một chức vô tích sự nhất - Trợ lý cho Trưởng ban Tuyên huấn của Khu đoàn Thanh niên cộng sản Xtarôpôn, nhưng là trong bộ máy. Sống đến 31 tuổi trong “cái tổ ấm đoàn thanh niên cộng sản” không phải ai cũng đạt được. Và bao giờ cũng vậy, “dao động cùng với đường lối”1 đã làm ông ta ghét bỏ đảng đến như vậy vào năm 1991, nhưng vẫn ở trong bộ máy của đảng. Ông ta trở thành một bộ phận, một sản phẩm của bộ máy đó. Dưới thời Khơrútsốp ông ta theo Khơrútsốp, dưới thời Brêgiơnép ông ta theo Brêgiơnép, dưới thời Anđrôpốp ông ta theo Anđrôpốp, ông ta luôn luôn là kẻ hám danh lợi vô nguyên tắc. Tôi chưa bao giờ được nghe nói - quả thực tôi không biết có ai đó được nghe - về Goócbachốp điều gì đó nổi bật so với những người lãnh đạo trung cấp của Đảng. Là người chấp hành và truyền dẫn điển hình các tư tưởng của người khác mà bản thân chỉ có khả năng tiếp tục và cố gắng với khả năng của mình, thực hiện những ý định và tư tưởng của người khác. Luôn luôn ông ta là người thứ hai trong ý nghĩ, là người do dự trong công việc, rất dễ bị ảnh hưởng và áp lực của người khác. 1. Ý tác giả: “Gió chiều nào che chiều ấy”. 31 Trong thời gian giữ chức Bí thư thứ nhất Khu ủy Xtarôpôn, ông ta đã phá vỡ nông nghiệp của khu, nhất là vào những năm 1972 và 1975. Ở thời ông ta, sự phát triển nông nghiệp được thay thế bằng sự trì trệ, đặc biệt là khi so sánh với các kết quả của những người láng giềng. Sự đổ vỡ đã được quy cho bị hạn hán. Ông ta đã phấn đấu thắng lợi cho việc mở rộng các khu phố, sau các cuộc đi thăm các thành phố và làng xóm đã để lại các hè phố bị đào bới, hàng núi các hòn đá nham nhở. Vì các việc đó mà nhân dân đã tặng ông ta một danh hiệu danh dự: ông Cạp mép. Trong số “những thành tựu to lớn” trong các lĩnh vực hoạt động khác, có thể nói đến việc tăng trưởng đáng kể lực lượng sản xuất ngầm do bị tác động bởi hậu quả các hành động của chính quyền trong các nước Cộng hòa Cápcadơ, trước tiên là Grudia và Adécbaigian. Những thông báo nghiệp vụ của cơ quan an ninh Liên Xô thời kỳ đó chứng minh (có thể có sai sót) rằng, “bọn ăn cắp hợp pháp” rất ưa tụ tập ở khu Xtarôpôn và Crátxnôđa. Việc bầu Goócbachốp trong năm 1978 làm người phụ trách nông nghiệp thay thế Ph. Culacốp chết làm rất nhiều người ngạc nhiên và điều đó không hề đáp ứng lợi ích công việc mà người được lựa chọn phải chịu trách nhiệm trước Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô. Rõ ràng là những chuyên gia và những cán bộ Đảng có kinh nghiệm như V. Mêxiát và V. Carơlốp phù hợp hơn 32 nhiều đối với chức vụ đó. Nhưng, như một cán bộ đảng chuyên nghiệp có nhiều kinh nghiệm và là một Trưởng ban của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã giải thích cho tôi rằng cần có người không hiểu biết, nhưng về phương diện cá nhân lại nổi tiếng để ai đó trong số “lão thành” dễ “dạy bảo và góp ý”; là người còn trẻ, biết vâng lời, và điều quan trọng là nghe theo “người lớn tuổi” và không nằm trong băng “maphia Đneprôpêtrốpxcaia”. Thời gian đó, tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn và phân bổ cán bộ đảng, đặc biệt ở cấp cao, còn thuộc về Xuxlốp, còn sự phân chia các nhu cầu thì được thỏa thuận. Thậm chí cái truyền thống không đưa những người được đề bạt cùng một khu, một tỉnh đến một nơi hai lần liền cũng bị phá vỡ. Hoạt động sôi nổi của Goócbachốp với tư cách là cán bộ canh nông chủ yếu của đất nước đã đưa lại “những thành tựu” như chương trình lương thực nổi tiếng buồn thảm của Liên Xô, đã hoàn toàn thất bại, nói đúng hơn là đã chết một cách lặng lẽ vào năm 1990, cũng giống như việc bắt các con sông phía Bắc quay ngược dòng “một cách thành công”, hay công trình xây dựng kênh đào tưới nước “Vônga-Chaigrai”, việc phát triển vùng Viễn Đông, v.v.. Gắn với việc chuẩn bị chương trình lương thực là một sự việc ít ai biết đến nhưng rất đặc trưng đối với Goócbachốp. Thực tế là tất cả các nhà lãnh đạo liên bang và các nước cộng hòa, tất cả những ai có quan hệ 33 đến ngành sản xuất nông nghiệp đều ủng hộ việc phát triển các cơ sở của khu vực nông nghiệp và việc xây dựng những kích thích có hiệu quả để tăng sản xuất sản phẩm nông nghiệp. Sự tất yếu phải có những cải tạo tận gốc là điều rõ ràng. Vấn đề bao giờ cũng là ở chỗ lấy ở đâu ra số vốn cần thiết. Để phân phối lại 3% sự tăng trưởng của thu nhập quốc dân có lợi cho nông nghiệp, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn dành cho nó đòi hỏi phải tiến hành một công tác lâu dài và hết sức kiên trì, phải cải cách hoạt động trong tất cả các khâu của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm cho hoạt động bình thường của tổ hợp nông - công nghiệp. Để có được sản phẩm nông nghiệp với số lượng cần thiết và chất lượng cao theo mức độ cải tổ việc cung ứng vật chất - kỹ thuật, cải tổ sản xuất, bảo quản, chế biến và phân phối phải mất nhiều năm lao động kiên trì. Nhưng Goócbachốp như là “cha đỡ đầu” của chương trình lương thực đã xác định điều chủ yếu trong việc giải quyết vấn đề là tăng giá thu mua. Đối với tất cả các chuyên gia thì một điều rõ ràng là trong điều kiện quản lý tập trung có kế hoạch không dành cho nông nghiệp phương tiện vật chất bổ sung cần thiết để phát triển sản xuất và xây dựng (mà những khả năng như vậy lại không có), thì việc tăng giá thu mua chỉ dẫn đến việc tăng tiền lương và giá thành sản phẩm. Có phải từ bước đó mà về sau ông ta đã ủng hộ các chương trình 400 và 500 ngày của Bôcharốp, Satalin, Iavơlinxki, Gaiđa, 34 những chương trình cũng dựa trên các ảo tưởng về sức mạnh toàn năng của việc tăng giá, nhưng lần này dưới chiêu bài “tự do hóa”. Không quan trọng. Điều chủ yếu là hệ quả tuyên truyền mạnh mẽ, là tăng mạnh danh tiếng trong giây phút đó. Ông ta xuất hiện như là một chiến sĩ đấu tranh vì người nông dân, hiểu thấu các nhu cầu của nông thôn và phấn đấu để đáp ứng những nhu cầu đó. Ở đây trên mức độ nhỏ nhen ông ta đã mơ màng mình là một hình mẫu tiêu biểu của tư duy chỉ huy - mệnh lệnh, của người đứng đầu một công cuộc quan trọng. Chỉ có ranh giới thái ấp là thay đổi mà thôi. Từ những ranh giới theo khu, chúng có được hình dáng ngành - liên bang. Trong thê đội của Iu. Anđrôpốp có những nhà chính trị tháo vát, những nhà thực tiễn có kinh nghiệm, đã trải qua một trường học trong ngành an ninh như G. Aliép, E. Sêvácnátde, thì vị tất có thể nói về những phẩm chất đặc biệt nào đó của Goócbachốp. Thậm chí G. Rômanốp người đã bị Anđrôpốp nhiều lần phê phán kịch liệt vẫn được để lại trong ban lãnh đạo ở vị trí ban đầu có tính cách không hề thua kém Goócbachốp. Ta hãy xem xét quan điểm đối với cách đặt vấn đề về tiến bộ khoa học kỹ thuật và việc chuyển sang quan hệ thị trường. Nhiều yếu tố trong việc giải quyết vấn đề thứ nhất đã được nảy sinh và được Rômanốp thực nghiệm trong các xí nghiệp ở Lêningrát, còn cách tiếp cận mới đối với việc vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thị trường, việc chấp nhận 35 trên thực tế nguyên tắc kết hợp các lợi ích khác nhau thì đã diễn ra ở Grudia. Một hội nghị đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Grudia đã bàn về vấn đề này, các bài đăng trên các báo chí trung ương, kinh nghiệm của Abaski và nhiều cái khác vào thời kỳ đó, khi mà Goócbachốp thậm chí chưa với được đến từ “cải tổ”. Nhìn chung, khi đánh giá những vấn đề đã đề cập ở trên và cả việc phân bố lực lượng, công trạng và ảnh hưởng thì có thể giả định được rằng khả năng Goócbachốp thay thế Anđrôpốp mới cầm quyền không lâu là vấn đề đang được bàn cãi. Chỉ mới có một điểm là còn trẻ theo chứng minh thư và dân tộc là người Nga thì còn quá ít dù cho người ta có quan hệ tốt với anh. Và giờ đây người ta có nói gì đi nữa về việc các ủy viên bộ chính trị thời kỳ đó, thì họ đã luôn luôn nghĩ đến vận mệnh của đất nước, họ nhìn nhận toàn bộ cuộc đời của mình không thông qua lăng kính hướng ngoại. Cuối cùng thì Goócbachốp đã thắng. Ông ta nhận được sự ủng hộ như thế nào, bao giờ và vì sao của A. Grômưcô, một người gia trưởng hoạt động hết sức tích cực, là một vấn đề đặc biệt. Nhưng sự thật vẫn là sự thật - chính sự ủng hộ đó đã giải quyết cuộc tranh chấp giữa các đối thủ, có lợi cho Goócbachốp. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, dù nghị quyết đã được thông qua, và chưa hề có thực tiễn của các 36 cuộc bầu cử có tính chất đối sách, đã phải có một phát biểu giải thích cơ sở nào để có sự lựa chọn đó. Ông ta hết sức đáng ngờ thậm chí đối với đội ngũ cán bộ chứ chưa nói đến các đảng viên thường. Việc giành quyền lực tối cao dễ hơn việc giữ được nó. Hơn nữa việc giành nó lại từ tay người khác, trong trường hợp nói ở đây là Grômưcô, còn giữ nó phải bằng cái đầu và bàn tay của mình. Bởi vậy lịch sử của cái gọi là cải tổ về thực chất là lịch sử của cuộc đấu tranh giành giật quyền lực thực tế và giữ cái đã giành được. Khi nói đến cái đầu của bản thân và quyền lực cá nhân, thì một người đã công khai nói rằng ông ta làm một việc bẩn thỉu (như Goócbachốp nhiều lần đã làm) thì không thể không trả giá. Chính trị theo nhận thức và thực hiện của ông ta là như vậy. Goócbachốp đã trả giá cho sự chao đảo vô tận của mình từ thái cực này sang thái cực khác, cho công việc thiếu tính sáng tạo thực tế, cho sự giả tạo và hèn nhát không dám chịu trách nhiệm về những quyết định đã được thông qua bằng những lợi ích của đất nước, của những người mà họ mong muốn dưới sự lãnh đạo của ông làm được một việc gì đó cần thiết cho đất nước, cho nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà phu nhân của A. Lukianốp là Lútmila Đmitrieva, quen biết gia đình Goócbachốp từ thời ở trường đại học, nói rằng gia đình Goócbachốp không hề có bạn bè. Bà ta biết rõ mình nói điều gì. Tôi cũng có nhận xét như vậy. 37 Việc Goócbachốp phản bội và loại bỏ một người sau khi người đó thực hiện xong nhiệm vụ cần cho ông ta để giữ cái ghế của mình có kết quả hay không điều đó không quan trọng, đến những năm gần đây không một ai trong số những người tiếp xúc với ông ta và trong số những người thân cận của ông ta lại có một sự nghi ngờ nào đó. Mọi người nhận làm công việc này hay công việc khác trước hết, chính là vì sự nghiệp. Họ không ôm ấp ảo tưởng, mà họ xuất phát từ chỗ nếu đất nước cần công việc đó thì còn ai ngoài họ sẽ thực hiện công việc đó. Thêm nữa đó là những người có quan điểm và chính kiến khác nhau. Họ đã từ đầu bị đặt vào thế không có lợi vì một nguyên nhân, đó là quan điểm của họ có ranh giới mà họ cho rằng không thể vượt qua ranh giới đó. (Xin có một sự so sánh không thú vị lắm: giữa tên tội phạm và nạn nhân của hắn. Tên tội phạm thì chỉ có một thứ luật là khao khát. Nạn nhân thì trong khi chống trả sự tấn công được dự định trước lại nghĩ làm sao việc tự bảo vệ không vượt quá điều pháp luật quy định). Một lần vào tháng 6/1991, V. Sécbacốp người phó thứ nhất và người đồng chí của tôi, trong một cuộc nói chuyện đã thông báo rằng Goócbachốp đã gặp ông và muốn biết thái độ của ông về việc ông ta có thể giữ chức Thủ tướng Liên Xô. Chúng tôi có quan điểm giống nhau về mục tiêu và các phương pháp cải cách. Bởi vậy, vào mùa xuân 1991 chúng tôi đã thỏa thuận với nhau nếu 38 xuất hiện sự cần thiết, thì tôi sẽ làm tất cả khả năng của mình để người kế nhiệm của tôi là V. Sécbacốp nhằm bảo vệ mục tiêu và phương hướng cải cách. Đối với tôi, người biết rõ tính cách của tổng thống, không có gì ngạc nhiên khi xuất hiện vấn đề như vậy sau khi nâng giá bán lẻ và đổi tiền. Mấy ngày sau, khi có Hội đồng Liên bang, tôi đã tham dự các cuộc gặp gỡ của Goócbachốp với đại diện các khu vực tự trị, còn sau đó vắng mặt một thời gian do bận một số công việc khác. Khi tạm biệt, tôi nói với ông ta rằng tôi không bỏ ông ta, rằng ông ta có thể tin cậy vào tôi, còn nếu ông ta thấy cần thiết vì công việc thì tôi sẵn sàng từ chức ngay tức khắc. Không hề chớp mắt, ông ta thề rằng ông ta không hề có ý nghĩ gì về vấn đề đó, rằng ông ta nhất quyết không tán thành sự rút lui của tôi, rằng tôi cần phải vứt bỏ ngay ý nghĩ đó ra khỏi đầu mình. Tôi không kể cho ông ta về cuộc nói chuyện với V. Sécbacốp, mặc dù tôi biết qua những đồng chí gần gũi và những người khác, ông ta đã có những cuộc nói chuyện tương tự nhiều lần không chỉ với V. Sécbacốp. Tôi đã rõ những hành động như vậy của ông ta đối với các nhân vật khác. Chẳng hạn, theo lời của N. Rưscốp thì ông đã nhận được đề nghị “lịch sự” của ông ta qua điện thoại trên ôtô khi trên đường đến hội nghị, 15 phút sau, tại hội nghị đó đã thông báo dường như N. Rưscốp đã đồng ý với đề nghị đó. Tôi cho phép mình trình bày tất cả những điều đó để bạn đọc hiểu rằng: sự kiện tháng 8/1991 có lôgích và 39 tiền lịch sử của mình. Khá lâu trước cái ngày đó, chính Goócbachốp đã suy nghĩ, đã chuẩn bị và không chỉ một mình ông ta. Đối với ông ta luôn có những nguyên nhân và mục tiêu cá nhân sâu xa - đó là duy trì và củng cố quyền lực cá nhân của mình bằng bất cứ giá nào. Ông ta cần phải loại bỏ mối nguy cơ đang treo lơ lửng trên đầu, chỉ ra “những kẻ có tội” về sự đổ vỡ trong kinh tế và sự suy sụp của đất nước, thủ tiêu mọi lực lượng lúc đó còn có thể cản trở việc thực hiện các kế hoạch của mình. Sự kiện tháng 8 không phải xuất hiện như là một cái gì đó mới về nguyên tắc. Trong sự kiện đó, một lần nữa thể hiện bản chất của Goócbachốp như là một con người và một chính trị gia. Điều ngắn gọn kể trên đã nói rõ những sự kiện đó chỉ khác sự kiện khác ở chỗ địa điểm hành động, thành phần người tham gia, những sự việc và những biểu hiện khác. Nhưng cách này hay cách khác đều liên quan đến bản chất của nhân vật mà số phận của lịch sử đã đưa lên chiếc ghế tổng thống của một cường quốc vĩ đại. Chỉ có hiểu rõ điều đó thì mới có thể hiểu được lôgích thực sự của sự kiện tháng 8/1991, đánh giá đúng sự thật bức tranh mà hiện giờ với đôi tay không chút ngần ngại vì lợi ích của bản thân, Goócbachốp đang vẽ từng người trong số “những người chiến thắng bị lâm nạn”. 40 3. NHỮNG TIỀN ĐỀ KHÁCH QUAN VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA CẢI TỔ, VÀ ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Tính tất yếu khách quan của những biến đổi trong tất cả các lĩnh vực và đời sống kinh tế - xã hội của đất nước đã chín muồi dần dần trong suốt thời kỳ dài của chiến tranh lạnh và sự đối đầu của hai cường quốc - Mỹ và Liên Xô. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Liên Xô đối với những đồng minh hôm qua không những không suy yếu để buộc phải chấp nhận vô điều kiện những điều kiện hòa bình theo kiểu Mỹ, mà hơn thế còn nhanh chóng khôi phục nền công nghiệp của mình và tăng cường sức mạnh quân sự. Bài phát biểu của U. Sớcsin đọc tại thành phố Phuntơn, phản ánh đường lối nhất quán lâu dài của các giới có quan hệ với nước Nga nói chung và với Liên Xô nói riêng, đã được các giới cầm quyền Mỹ tiếp nhận một cách hoàn toàn hiểu biết và ủng hộ, bởi vì bài phát biểu đó đáp ứng những lợi ích của họ. Bởi vì, tư tưởng chiến tranh lạnh và bức màn sắt, về bản chất lịch sử của nó là sự tiếp tục tư tưởng đội phòng vệ cứu thương và là một tối hậu thư kiểu mà Kécdôn đã đưa ra thời đó, đã được sự ủng hộ tích cực và được phản ánh trong thực tiễn chính trị thế giới trong nhiều năm. 41 Chiến tranh lạnh, gắn với nó là chạy đua vũ trang bị ngắt đoạn từng thời kỳ bởi các cuộc xung đột cục bộ đã có ảnh hưởng to lớn và làm biến dạng sự phát triển kinh tế và hình thành cấu trúc sản xuất. Thực tế là đất nước chúng ta buộc phải tham gia vào cuộc chạy đua sản xuất vũ khí với địch thủ giả định, trong khi đó lại thua kém nó về tiềm lực kinh tế từ 6 đến 8 lần. Vị trí địa lý và địa chính trị thuận lợi của địch thủ giả định đã mua hết các bộ óc và bằng sáng chế trên toàn thế giới có ý nghĩa đặc biệt. Trong cuộc chạy đua, đất nước chúng ta đã phải bỏ ra những khoản chi phí tốn kém nhất để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình trong trường hợp có thể xảy ra các hành động quân sự bằng bộ binh và phải xây dựng lại từ đầu các phương tiện tiến hành chiến tranh cho phép đặt địch thủ có tiềm năng trước nguy cơ thảm bại. Liên Xô trong thời kỳ đó, như mọi người đều biết, chưa có hạm đội có thể có khả năng cạnh tranh nào đó. Còn về không quân xuyên lục địa, không có các căn cứ không quân cần thiết, một nhân tố quân sự thực tiễn chẳng cần phải nói đến. Như vậy về khách quan, thì chiến tranh lạnh đã làm nảy sinh cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân - tên lửa. Hàng nghìn tỷ đôla và rúp móc ở túi nhân dân đã bị thiêu đốt trong cuộc chiến tranh đó mà chủ yếu là Mỹ và Liên Xô. Một phần các chi phí đã trút lên vai nhân dân các nước đồng minh. Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã bị chậm lại, 42 còn trong cơ cấu sản xuất, trong các công trình nghiên cứu khoa học thì các chương trình và nhu cầu quân sự chiếm ưu thế ngày càng nhiều. Có thể có nhiều quan điểm khác nhau, ai thực hiện điều đó ở mức độ lớn và có hiệu quả hơn - Mỹ hay Liên Xô, nhưng có một điều không thể tranh cãi là phần lớn gánh nặng của các chi phí quân sự do sự đối đầu làm nảy sinh là do hai nước đó gánh chịu. Đạt được và duy trì thế cân bằng trong lĩnh vực quân sự trong suốt một thời gian dài đứng trên quan điểm đánh giá về nguồn lực, được thể hiện, ví dụ - tổng số năng lượng chi phí cho các mục tiêu đó, đòi hỏi phải có các chi phí cân bằng nhau. Do vậy, sự khác biệt về vị trí xuất phát của nền kinh tế Mỹ và các đồng minh với nền kinh tế các nước thuộc Hiệp ước Vácsava, trước hết là Liên Xô, chứng minh một cách hiển nhiên rằng sự cách biệt về mức sống của dân cư và với tương quan chất lượng, khối lượng, tiềm năng khoa học - kỹ thuật của các ngành nền tảng, sẽ tăng lên một cách nghiệt ngã. Có thể nói bao nhiêu và nói bất cứ điều gì về sự ưu việt của chế độ xã hội này hay chế độ xã hội khác, về phương thức quản lý này hay phương thức quản lý khác, nhưng việc thiếu vốn đầu tư, thậm chí không cho phép hoàn bù sự hao mòn vật lý của các quỹ sản xuất, dẫn đến việc ngừng dần dần quá trình sản xuất. Điều đó là khách quan và bất cứ một nhà kinh tế nào cũng thấy rõ điều đó. Việc giảm tiền lương 43 và các chi phí cho các nhu cầu sinh hoạt xã hội ngoài mọi cái khác ra còn có một giới hạn khách quan về sinh lý học. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên dần dần cạn kiệt và không được sử dụng đầy đủ. Xin nói thêm, nếu phương Tây quan tâm tới việc mua tài nguyên thiên nhiên của Liên Xô, thì sự xung đột đã phải tìm ra được giải pháp hợp lý từ lâu rồi. V.I. Lênin đã nói rằng nếu đất nước không có một quỹ lương thực tương đối đủ cho các nhu cầu của mình thì những lời nói về độc lập thực sự là vô nghĩa. Còn ở nước ta, tiền thu được do bán vàng, dầu mỏ đã được chi cho những mục đích gì - mọi người đều biết là để mua ngũ cốc và các lương thực khác. Như vậy, mức sống thấp và lạc hậu trong việc sử dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học - kỹ thuật phục vụ cho các nhu cầu sản xuất dân dụng là kết quả đã được định trước của chiến tranh lạnh, cũng giống như việc phá hủy các tòa nhà và giết hại dân thường trong các cuộc oanh tạc vào thành phố. Có thể dự đoán một cách lôgích rằng toàn bộ vấn đề là ở chỗ phát hiện sớm ưu thế quyết định của đối phương - trình độ xã hội thông qua sự cách biệt của dân cư nghèo khổ hoặc là ở trình độ quân sự thông qua tham số chất lượng của kỹ thuật quân sự. Để đo được áp lực và duy trì áp lực đó ở mức độ đòi hỏi thì cần có các cuộc xung đột thường xuyên được gọi là các cuộc xung đột cục bộ, những điểm nóng, v.v.. 44 Điều chúng ta đáng quan tâm là vào giữa những năm 1980, quỹ sản xuất cố định của nông nghiệp chiếm 20,3%, còn công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm chiếm 4,9% tổng giá trị các quỹ đó. Hao mòn vật lý của thiết bị tăng 40%, trong nhiều ngành nền tảng và tại các tổ hợp sản xuất trọng yếu thì là 50 - 60% và hơn nữa. Thời hạn khấu hao bình quân được quy định là 17 năm, nhưng thực tế đã vượt quá 20 năm. Cũng cần phải tính đến giá trị hiệu quả hữu ích của một đơn vị máy móc và thiết bị dự định thay thế bởi vì nó đắt hơn từ 3 đến 5 lần so với máy định loại bỏ. Vì vậy, quá trình tăng trưởng hao mòn vật lý các quỹ cố định đã vượt quá mức tăng trưởng khấu hao giá trị do việc kìm giữ một cách nhân tạo thông qua việc tăng giá. Bề ngoài, quá trình này không được thể hiện rõ do sản xuất kỹ thuật quân sự đã hòa lẫn với ngành chế tạo máy dân sự trong các tài liệu thống kê và kế hoạch. Điều đó tạo điều kiện khẳng định đã tuân thủ những cân đối kinh tế chủ yếu của sự phát triển nền kinh tế trên cơ sở sử dụng những thành quả của tiến bộ khoa học - kỹ thuật bằng cách tăng cường sản xuất sản phẩm ngành chế tạo máy. Trên thực tế thì ngành chế tạo máy trong khoảng 15 năm đã phát triển chậm hơn hai lần so với sự tăng trưởng chung của sản xuất công nghiệp ở trong nước, do vậy việc nhập cảng thiết bị hàng năm phải chi trung bình gần 15 tỷ rúp là điều kiện cần thiết để duy trì các quá trình tái sản xuất. Những số liệu 45 trên về khách quan nói lên rằng: kỹ thuật và quy trình công nghệ cũ kỹ, lao động chân tay chiếm tỷ lệ cao, mức sống tương đối không cao của dân cư là nguyên nhân chính, chứ không phải do ý chí, nguyện vọng và sự không thành thục của cá nhân nào đó. Một đất nước phải chi phí 34 - 36% toàn bộ thu nhập quốc dân cho nhu cầu quân sự thì không thể có tình hình kinh tế - kỹ thuật và xã hội khác được, thậm chí dù cho có một người tài giỏi lãnh đạo. Nhưng để tìm ra một lối thoát xứng đáng và giữ cho đất nước khỏi rơi vào thảm họa đúng là cần có những thiên tài và chủ yếu là phải có những người thực sự yêu nước. Tôi còn có thể kể nhiều về các quá trình đổ vỡ, giống như những di căn ung thư thâm nhập vào các khâu quan trọng khác nhau của nền kinh tế và đời sống chính trị - xã hội. Ví dụ, khi bắt tay soạn thảo chương trình cứu vùng đất bạc mầu thì mới vỡ lẽ là tuổi bình quân của thợ lái máy nông nghiệp của Nga là 58 tuổi, thợ vắt sữa là 52 tuổi. Nhưng đó là đề tài của một câu chuyện khác. Việc chẩn đoán bệnh tình của nền kinh tế của chúng ta nếu được đặt ra một cách đúng mức sẽ đưa ra được lời giải đáp cho câu hỏi phải chữa chạy như thế nào. Ở đây, chúng ta tìm hiểu căn bệnh đang bám hút vào một cơ thể suy nhược được nuôi dưỡng bằng thức ăn hôi thối được gọi với cái tên là “món Goócbachốp”. Do vậy, có thể hiểu được là còn có một khả năng khác nào đó, một lối thoát khác cho đất nước. Bởi vì, sau thất bại trong cuộc chiến 46 tranh Nga - Nhật năm 1905, ký Hiệp ước Poócxmút, nước Nga đã có thể đạt được bước nhảy vọt chưa từng thấy trong sự phát triển của mình cho đến tận chiến tranh năm 1914. Nhưng khi đó, có Nga hoàng là X. Vitte. Goócbachốp và Sêvácnátde đưa ra ý tưởng và nội dung một đối sách được gọi là cải tổ và tư duy mới làm cho đất nước phải đầu hàng hoàn toàn và vô điều kiện với việc băm vằm nó ra thành từng mảnh. Giờ đây, họ khẳng định rằng trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, họ chỉ nhìn thấy có một mục đích là đập tan nhà nước chuyên quyền. Thế còn trách nhiệm? Những lời thề với nhân dân? Họ đều câm lặng. Không thể bỏ qua vấn đề đối đầu, chạy đua vũ trang và hậu quả của nó. Người ta đã dẫn ra những nhân tố đó một cách tổng quát và riêng lẻ và sẽ còn dẫn ra để làm cơ sở bào chữa cho các hành động của nhiều chính khách “cải tổ”, của những người bằng phương tiện thông tin đại chúng, văn học và nghệ thuật, đã quét lên toàn bộ lịch sử của Liên Xô một màu sơn đen và nhiều khi lại còn ca tụng toàn bộ 300 năm trị vì của dòng họ Rômanốp và còn sốt sắng đến mức nói chung không còn thấy một cái gì là trong sáng, là nhân văn cả: đế chế của cái ác, theo như Rigân, trong vai diễn của diễn viên câm đóng vai phụ. Và của cả những người từ các diễn đàn các cuộc mít tinh, các đại hội, các khóa họp như một dàn hợp ca về chủ nghĩa sôvanh nước lớn, về sự áp bức và thậm chí về sự diệt 47 chủng của Liên Xô, của Đảng Cộng sản Liên Xô, của hệ thống hành chính - mệnh lệnh đối với các dân tộc của họ. Năm 1989, sự việc đã dẫn đến chỗ tất cả các nước cộng hòa trong Liên bang Xôviết đều làm những bản thống kê “không thể bác bỏ” rằng thu nhập quốc dân sản xuất ra trên lãnh thổ của họ đã bị chuyển đi các nước khác. Không một nước nào nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ của nước khác. Ví dụ, Grudia đã tính toán rằng hằng năm số họ đưa ra khỏi nước cộng hòa vượt hơn số họ nhận từ nước Nga là 1 tỷ rúp. Và của cả những người nhìn thấy toàn bộ gốc rễ của cái ác là sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, và bênh vực cho nguyên tắc thần thánh bất di bất dịch của sở hữu tư nhân. Và của cả những người ủng hộ đa đảng và đòi cấm Đảng Cộng sản Liên Xô hoạt động và còn của rất nhiều người khác. Tất cả những ai cố ý hay không cố ý góp phần vào việc thủ tiêu cường quốc vĩ đại, đưa đầu nó ra băm vằm giống như Quốc vương Muhamét đã đưa toàn bộ nền văn minh cổ đại của Trung Á để tiêu diệt và bắt làm nô lệ. Ở đây, lịch sử đã được lặp lại. Nếu xem xét một cách khách quan thì sẽ thấy rằng sự tính toán theo sơ đồ của các nhà lý luận và các nhà chiến lược chiến tranh lạnh tin cậy đến mức trở nên không có căn cứ trong cuộc sống, xét trên quan điểm tâm lý - đạo đức. Trước hết cần chú ý đến một sự thật không thể tranh cãi là một người Mỹ bình thường sẽ không hề cảm thấy 48 một sự hài lòng nhỏ nhoi nào nếu mức sống của anh ta giảm sút hoặc những vấn đề sinh hoạt, kinh tế và xã hội tích tụ chưa được giải quyết, chậm hơn so với nước Nga. Cũng vậy, anh ta không hề thấy mủi lòng khi anh ta giờ đây sống tốt hơn không phải hai lần mà là năm lần so với người Nga. Mỗi người chỉ so sánh với cái gì họ đã có và sẽ có. Người Nga trở nên khổ sở hơn, nhưng anh ta (người Mỹ) cũng chẳng sướng hơn. Hiện nay đã xuất hiện nhiều nước, chẳng hạn như nước Đức, nơi dân cư trước đây thua kém Mỹ về mức sống, nay đã vượt Mỹ, điều đó làm cho người dân Mỹ phải nộp thuế lo lắng và trở thành một nhân tố chính trị trong cuộc đấu tranh giành quyền lực. Việc Mỹ nhận gánh vác các chi phí quân sự đã tạo ưu thế đầu tư vốn to lớn cho Nhật Bản và Đức, và kết cục đã làm xuất hiện những trung tâm mới của các lực lượng và các đối thủ cạnh tranh trong nội bộ cái gọi là liên minh phương Tây. Thời đại đối đầu càng kéo dài bao nhiêu thì những xung đột nội tại ở Mỹ càng chín muồi bấy nhiêu và Mỹ sẽ chịu những tổn thất đáng kể trong cuộc cạnh tranh với các đồng minh. Điều đó, về khách quan, đòi hỏi phải có hòa bình, phải giảm quy mô đối đầu vì lợi ích của hai cường quốc vĩ đại - những người đứng đầu thế giới hiện đại. Ta hãy lấy tỷ giá đồng đôla làm ví dụ. So với đồng mác Tây Đức vào thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1985 nó giảm hơn 42%, còn so với đồng yên Nhật Bản, nó giảm 50%. Khối lượng tổng sản phẩm quốc dân 49 của Mỹ cũng trong thời gian đó tăng 13,8 lần, trong khi đó Cộng hòa Liên bang Đức tăng 15,2 lần và Nhật Bản tăng 18,1 lần. Trong thời kỳ cầm quyền của Khơrútsốp và Brêgiơnép, Kennơđi và Níchxơn, những thỏa thuận hòa bình đã trở thành vấn đề hết sức cấp thiết của nền chính trị thế giới, trước hết là đối với Mỹ và Liên Xô. Nhưng những nhà hoạt động chính trị nêu trên đã đặt lên hàng đầu trong mọi điều kiện những lợi ích của đất nước và dân tộc mình, tin tưởng vào sức sống chắc chắn và sức mạnh kinh tế của đất nước mình. Việc Goócbachốp xuất hiện với tư cách nhà lãnh đạo của Liên Xô trong điều kiện tìm kiếm những con đường hai bên có thể chấp nhận được để khắc phục sự đối đầu tên lửa - hạt nhân đối với Mỹ là phần thắng trong cái thước cuộn. Họ sẽ phải đương đầu với một nhà lãnh đạo của cường quốc chưa được rèn luyện và giáo dục để tận tâm tìm kiếm các giải pháp xứng đáng, tìm cách sử dụng tối đa mọi khả năng để giữ gìn tài sản và uy tín quốc gia, luôn nghĩ về đất nước, về tương lai của nó chứ không phải về quyền lợi bản thân. Thay vì bạn đồng hành là một nhà yêu nước kiên định, lại là một người có quyền lực vô hạn ở trong nước mình nhưng không biết sử dụng quyền lực đó ra sao. Choáng váng vì những thành công trên bước đường công danh đã đẻ ra khát vọng hành động trên phạm vi thế giới. Quả là các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản (B) Nga - Đảng Cộng sản 50 Liên Xô đang học sống trong cộng đồng thế giới. Nhưng, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một người cộng sản lại chủ động làm phát triển và hoàn thiện chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, không chỉ ở các nước tư bản chủ nghĩa mà còn cả trong phe xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, Goócbachốp chưa dám công khai nói với đảng và nhân dân là mình đang định làm gì, cho đến lúc người ta buộc ông từ chức để đi lang thang khắp thế giới nhặt mấy chục đồng xu sứt. Được vũ trang bằng thuật ngữ “cải tổ” dưới thời ông ta, mọi khó khăn và những vấn đề chưa được giải quyết được thổi bùng lên và điều chủ yếu là người ta muốn đập tan ban lãnh đạo ở tất cả các cấp và trong tất cả các bộ phận. Khẩu hiệu điển hình của thời kỳ cách mạng văn hóa ở Trung Quốc “nổ súng vào bộ tư lệnh” đã có được nội dung hoàn toàn mới và cụ thể ở Liên Xô. (Quả là, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đủ sáng suốt để loại bỏ những người lãnh đạo ghê tởm của “cuộc cách mạng” đó, và sau đó không cần một chiến dịch tuyên truyền rùm beng ở nước ngoài “về cải tổ và tư duy mới” - đã suy nghĩ và thực hiện trong thực tế mô hình kinh tế cho phép không chỉ bảo đảm ăn mặc đầy đủ cho một dân tộc hơn một tỷ người, mà còn cung cấp cho chúng ta “đang nghèo khổ” lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng. Họ vẫn giữ vững được toàn vẹn lãnh thổ của một cường quốc vĩ đại và cả đảng cộng sản. Giá mà chúng ta học được thì tốt). Như vậy, trong chiến dịch này “chỗ dựa tương lai 51 và sự bảo đảm để đưa các cuộc cải cách dân chủ ở Nga tiến lên” được các phương tiện thông tin đại chúng thân chính phủ của chúng ta ở trong nước và ở nước ngoài giới thiệu. Trong lúc đó, Bí thư thứ nhất Thành ủy Mátxcơva là Enxin chỉ trong chưa đầy hai năm ở cương vị này đã hai lần thay thế tất cả các nhà lãnh đạo các tổ chức đảng, các Xôviết quận và bắt tay vào vòng ba của “cải tổ”. Ở Mátxcơva thì đỉnh cao của cải tổ là đấu tranh chống “tệ uống rượu”. Trên toàn quốc diễn ra sự thay thế các cán bộ lãnh đạo đảng và nhà nước giống như một cuộc thanh trừ. Thậm chí, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Hội nghị Trung ương năm 1989 đã khéo léo đưa cùng một lúc 130 ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết ra khỏi trung ương. Thật là một trường hợp chưa từng xảy ra! Cái nhãn “không chịu tự tu chỉnh” có thể dán cho bất cứ ai cũng như hôm nay, “dân chủ” mới không cần xem xét, không cần bằng cớ, gọi tất cả những người phản biện là những người ủng hộ việc quay lại hệ thống độc tài, hành chính - mệnh lệnh, là những người có tư duy đế chế, v.v.. Hiện nay, nói chung, khó có thể hiểu được trong số các đảng và phong trào ai là người như thế nào. Những người tả trở thành hữu, còn hữu thì gọi mình là tả, số khác thì càng tả hơn hoặc càng hữu hơn, cao lên và cao lên, và cuối cùng không ai hiểu một cái gì hết. Nhưng toàn bộ sự đa dạng và sự mâu thuẫn đó 52 của các lập trường chính trị chỉ đối với người vô học mới cảm thấy đó như là kết quả của sự giải phóng về tinh thần và đùng một cái tự do báo chí, tự do ngôn luận được tung ra dưới cái gọi là công khai. Thực tế thì quá trình đó có sự định hướng và được quản lý và bao gồm hai chiến dịch làn sóng nối tiếp nhau một cách chặt chẽ. Làn sóng thứ nhất: Goócbachốp sử dụng các biện pháp truyền thống của bộ máy trong cuộc đấu tranh nội bộ đảng, bằng bàn tay của B. Enxin, M. Xôlômansép, E. Ligachốp loại bỏ các bí thư thứ nhất khỏi chức vụ và đưa xuống hàng thứ hai, tiếp sau đó đưa xuống hàng thứ ba. Còn họ, những người hàng thứ ba đến phần mình lại bị thanh trừ trong các Xôviết đại biểu nhân dân, trước hết là trong các ủy ban hành chính. Bằng bàn tay của Rưscốp, Goócbachốp đã thay thế ban lãnh đạo các cơ quan trung ương, các bộ và các tổng cục. Hầu như toàn bộ thành phần Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô và bộ máy của nó bị thay thế hoàn toàn. Dưới khẩu hiệu cải tổ, người ta làm tất cả mọi chuyện - từ đấu tranh cho sự tỉnh táo đến bịa đặt ra sự vạch trần, tố cáo và tạo dựng, thổi bùng các vụ án hình sự. Điều chủ yếu là thay thế con người, những người mới tương đối trẻ hơn và trong một số trường hợp là những người có học thức nếu xét trên quan điểm kỹ trị, họ có một phẩm chất chủ yếu là thiếu kinh nghiệm trong các lợi ích chính trị của 53 quốc gia, chưa bao giờ đứng trên Goócbachốp trong thứ bậc đảng và nhà nước. Làn sóng thứ hai: A. Iacốplép thúc đẩy sử dụng I. Phlôrốp, E. Iacốplép, M. Pôntôraních, I. Láptép, V. Côrôchích, A. Nuikin và những người khác. Làn sóng này dâng lên dần dần bằng cách thường xuyên hâm nóng thái độ thiếu thiện chí đối với ban lãnh đạo đảng trước đây, bị buộc tội là “chủ nghĩa Xtalin tội lỗi” và đối với ban lãnh đạo hiện nay bị buộc tội là quan liêu bất hảo (tất nhiên, ngoại trừ Goócbachốp...), xa rời đảng, xa rời nhân dân và sử dụng các đặc quyền đặc lợi trong khi nhân dân thì nghèo khổ. Những người mới nổi lên bề ngoài thì không nhất trí một cách tự phát ở giai đoạn một, họ không thể tập hợp lại với nhau để tạo ra trong ý thức quần chúng một bản đúc - sự thống nhất của đảng. Điều đó giống như một dấu hiệu và sự biện bạch cho việc không thực hiện bất cứ quyết định nào của chính quyền trung ương. Điều chủ yếu là thổi phồng những lời đồn đại dưới khẩu hiệu: “Nói về công việc của chúng ta”. Người ta không cần hỏi bất cứ ai về bằng cứ. Toàn bộ lịch sử trong thời kỳ Xôviết đều đen tối, các nhà lãnh đạo đều là những tội phạm nếu không bị xử bắn thì bị bỏ tù. Các khó khăn nói chung không còn là do khách quan mà người ta coi chỉ là hậu quả của sự không thành thạo của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mà sự lãnh đạo kinh tế dựa trên hình thức sở hữu toàn dân. Từ đó, vẽ ra cho nhân dân 54 thấy một con đường đơn giản, nhanh nhất để tiến đến cuộc sống tốt đẹp hơn - không phải bằng sản phẩm cao, không phải bằng đầu tư, không phải bằng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, như người Đức, người Mỹ, người Nhật, người Trung Quốc đã làm, mà là đập tan bộ máy đảng, thay thế lãnh đạo và các đại diện chính quyền. Người ta đã tung ra một câu chuyện cổ tích về một ông vua nhân từ và chiếc đũa thần, nhưng lại ám chỉ câu chuyện xảy ra trong đời sống kinh tế - xã hội nước Nga cuối thế kỷ XX. Lại tước đoạt và phân chia, lại những ảo tưởng về khả năng có bước nhảy vọt to lớn không cần lao động. Do vậy, có nhiều người tụ tập ở các cuộc mít tinh, bởi vì nó gắn với ý thức của họ, bởi vì dễ dàng hô lên một vài khẩu hiệu, một vài lời kêu gọi giả dối, bởi vì, không cần chứng minh điều gì hết, không phải ngẫu nhiên mà các cán bộ khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học, các nhà báo, những người phụ trách các chương trình truyền hình, các luật sư, loại như G. Pôpốp, A. Xốpchắc, O. Lachít, A. Aganbegian, V. Métvêđép, X. Satalin, P. Buních, v.v. lại trở thành những nhà tư tưởng của đám đông tiểu tư sản đó. Nhưng họ lại không nói cần xây dựng như thế nào, làm thế nào để thay thế các thiết bị đã cũ kỹ, làm thế nào để buộc người ta làm việc đủ 8 giờ, hết mình và chỉ nhận lại theo lao động đã bỏ ra. Mà họ chỉ toàn nói, có thể là giả danh khoa học, những lời nói rỗng tuếch, về hệ thống tồi, phân phối tồi, về người lãnh đạo tồi, 55 về cuộc sống thấp kém, về các kết quả kinh doanh tồi. Người ta hô hào những điều mà mọi người đã biết: cần làm cho cuộc sống tốt hơn, bởi vì mọi người đã mệt mỏi, bởi vì người ta đã chờ đợi quá lâu, người ta không muốn và không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Và điều đó diễn ra trong điều kiện ở những người ở “hàng thứ ba” lên nắm quyền nhưng chưa có quyền lực. Bản thân họ không thể chống trả và lập lại trật tự, bởi vì chưa nắm được đầy đủ các thủ đoạn cầm quyền, mặt khác từ trên lại giữ tay họ không cho họ sử dụng được quyền lực dù ở mức nào đó. Tất cả đều vì cải tổ, dưới ngọn cờ của cải tổ. Anh là người đầu tiên có thể làm được thì hô to hơn những người khác: danh dự và chính quyền. Không một ai dự định thực hiện điều đã hứa và chịu trách nhiệm về công việc không hoàn thành. Tiến hành phân tích và thống kê số liệu thì tổng giá trị của những lời hứa hẹn trước bầu cử, chỉ riêng của các đại biểu nhân dân được bầu năm 1989 vào Xôviết tối cao Liên Xô đã lên đến con số gần bằng khối lượng thu nhập quốc dân trong hai năm. Cả hai chiến dịch đó ban đầu dường như hỗ trợ cho nhau. Ở nơi nào do những nguyên nhân nào đó người ta không thể gạt bỏ, cho chuyển công tác hay cho về hưu vì tình trạng sức khỏe (đó là công thức mà các nhà kinh điển của bộ máy yêu thích!), thì ở đó, người ta sử dụng việc bôi tội gắn với các hình thức và phương pháp lãnh đạo lỗi thời nền kinh tế, là có liên quan đến việc vi phạm sinh thái, 56 là không quan tâm đến con người, là đặc quyền đặc lợi. Một thủ đoạn ưa chuộng là “thể hiện ý nguyện của nhân dân” tại các cuộc mít tinh hay các cuộc tuần hành với các đòi hỏi buộc ai đó của cơ quan chính quyền Xôviết hay một nhân vật cụ thể phải từ chức, những người mà ban lãnh đạo trung ương đột nhiên thấy, đương nhiên là đã cân nhắc kỹ, phải loại bỏ. Nhưng khi cái công việc mờ ám thay thế loại thứ nhất xuống loại thứ ba về cơ bản đã hoàn thành, thì những người thi hành công việc đó không những trở thành không cần thiết, mà còn nguy hiểm. Bởi vì họ là những người lựa chọn, đề bạt khẳng định loại thứ nhất mới đó. Những bạn bè thời sinh viên, những đồng nghiệp trong công tác ở bắc Cápcadơ trình độ vẫn dừng lại trong các ghế ở loại thứ ba. Nhưng đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của họ - đánh bóng cho cái chỉ số trung bình “cao” của lãnh tụ. Và cả thê đội của E. Ligachốp cũng trở nên nguy hiểm. Chức vụ “Hồng y giáo chủ xám” trong Bộ Chính trị - đó là quyền lực thực tế, trong bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành lực lượng số một. Như tôi nói ở trên, Goócbachốp chỉ muốn nắm quyền lực một mình. Vì vậy, ông ta cần phải biến “Hồng y giáo chủ xám” thành “Hồng y giáo chủ tại gia”. A. Iacốplép - theo tôi biết rõ - là người thiết kế chủ yếu đường lối chính trị của “cải tổ” và là người lãnh đạo thực hiện nó. E. Ligachốp lại ở hàng đầu, không chỉ đe dọa quyền lực thực tế tương lai 57 của Goócbachốp mà còn cả quyền lực danh nghĩa. Trong những năm 1986-1988 ông ta có quyền lực nhiều hơn so với Goócbachốp và Iacốplép. Về quan điểm tư tưởng, chí ít qua cái được công khai tuyên bố, và cả theo lôgích cuộc sống thì E. Ligachốp và Iacốplép không thể cùng tồn tại với nhau - hai con gấu không bao giờ có thể cùng sống trong một cái hang. Thế là bắt đầu cuộc tấn công vào E. Ligachốp. Ligachốp mạnh hơn và đương nhiên nguy hiểm hơn, và vì vậy cần phải tiêu diệt. Trong một thời điểm, người ta quy cho E. Ligachốp phải chịu trách nhiệm về chiến dịch chống uống rượu đã làm lung lay đến tận gốc hệ thống tài chính - ngân sách và tiền tệ - tín dụng của đất nước vốn đã hết sức yếu kém. Người ta đã cố gắng im lặng không nhắc đến sự đóng góp về tư tưởng và thực tế của Goócbachốp vào công việc đó, và cho đến nay vẫn im lặng. Chính quyết định và không chỉ một, do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là tổng bí thư thông qua. Ở trung ương, chỉ có Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Xô, Bộ Tài chính Liên Xô, Thứ trưởng Bộ Thực phẩm Liên Xô phụ trách sản xuất rượu và nước giải khát là phản đối. Cú đấm được tính toán chính xác. Kinh nghiệm của thế giới về việc thi hành luật cấm rượu đã dạy ta rằng việc cấm đoán buộc nhân dân nhịn rượu là không có lợi, mà lại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc hình thành các tổ chức maphia và sự làm giàu của chúng. 58 Những kết quả chiến dịch đó ở Liên Xô không phải chờ đợi lâu như kinh nghiệm thế giới đã có. Goócbachốp và Iacốplép không thể không biết đến kinh nghiệm đó, nhưng đã giải quyết một nhiệm vụ khác mà để giải quyết nhiệm vụ đó họ sẵn sàng trả bằng bất cứ giá nào. Lại không phải là lấy tiền từ túi của mình. Số phận của E. Ligachốp đã được định trước. Công việc cải tổ bộ máy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô hoàn thành, trước hết là Ban Bí thư với kết quả là E. Ligachốp bỗng nhiên trở thành người phụ trách nông nghiệp. Như vậy, làn sóng thứ hai đã đuổi kịp và phủ lên làn sóng thứ nhất. 59 4. NHỮNG NHÂN VẬT MỚI TRONG SỰ KIỆN THÁNG 8 TƯƠNG LAI Để hiểu rõ sự kiện tháng 8/1991 cần phải phân biệt quan điểm thực của những người sẽ tích cực tham gia sự kiện đó. Trước hết là Enxin. Như mọi người đều biết, nhân vật này được mời làm việc trong Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô với vai trò người tổng chỉ huy của cả nước, theo sáng kiến và khuyến nghị của chính E. Ligachốp, chứ không phải ai khác. Đó là một nhà hoạt động điển hình của đảng, có tiểu sử điển hình, có cách tư duy và kinh nghiệm của chế độ hành chính - mệnh lệnh. Ông được cử đến Mátxcơva với tư cách người được chỉ định, giữ chức vụ Bí thư thứ nhất Thành ủy của Đảng Cộng sản Liên Xô để tham gia chính làn sóng đầu tiên mà chúng ta đã nêu ở trên. Nhiệm vụ của ông là phải xóa sạch toàn bộ di sản của Grisin. Mátxcơva vốn là lò đào tạo cán bộ đảng cho cả nước và nhất là cho giới cầm quyền chóp bu. Ngoài ra, ở thủ đô có một tổ chức đảng lớn nhất, bao gồm cả các tổ chức đảng của tất cả các cơ quan chính quyền trung ương. Công bằng mà nói, 60 nhà xây dựng1 Enxin là một kẻ phá hoại tài ba. Vẻn vẹn chưa đầy hai năm, tổ chức đảng Mátxcơva đã bị ông đập nát về căn bản. Vả lại, so với những người đứng đầu các khu vực khác thì có lẽ các nhân vật đứng đầu ở Mátxcơva không phải đứng hàng thứ ba, mà đúng hơn là hàng thứ tư. Nhưng, bởi vì đó là các cán bộ của ông ta, của Enxin, nên mọi người phải luôn nhớ điều đó. Chiến dịch tuyên truyền chống lại E. Ligachốp được mở đầu ở Mátxcơva, được sử dụng những hình thức “xuống đường” khác thường đối với kẻ tiểu nhân Nga, chỉ có thể thực hiện được với một điều kiện do chính Enxin - người được giới thiệu, phản bội lại người tiến cử mình. Việc ông bị kết tội tại Hột nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô là hoạt động phân liệt và làm tan rã cán bộ đảng, chẳng có ý nghĩa gì đối với Goócbachốp. Đa số các quan sát viên lúc đó đều không biết, không hiểu và không nhận định được điều chính yếu - việc Enxin trừ khử cán bộ của V. Grisin và của E. Ligachốp là theo đặt hàng của Goócbachốp, dù việc đó cũng có lợi cho mình. Hiện giờ khó mà nói được rằng, lúc đó ông có dự đoán gì xa hơn không. Nhưng chính việc triệt phá cán bộ theo đặt hàng đã bảo đảm cho Enxin có một “ô che”. Cấp bậc Bộ trưởng của Liên Xô với chức vụ Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban xây dựng nhà nước 1. Enxin vốn là kỹ sư xây dựng (ND). 61 Liên Xô đã được dành sẵn cho ông. Tất cả những đặc quyền, đặc lợi mà sau này ông phản đối, kêu gào rất to trước công chúng - xe “Hải Âu”, biệt thự, phòng khám bệnh, khẩu phần, phiếu nghỉ v.v., tất cả ông đều được giữ nguyên. Công việc quá nhàn theo chức vụ đảm đương. Tôi - với tư cách là một thành viên của Đoàn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, không hề thấy một văn bản nào, nghe một bài phát biểu nào của ông tại các phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Nhưng thời gian và cơ sở vật chất thì ông có, và phải thừa nhận rằng, ông đã sử dụng không tồi những thứ đó cho hoạt động tổ chức - chính trị phục vụ lợi ích của mình. Goócbachốp có biết được điều đó hay không? Có thể là ông ta biết. Và điều đó cũng hợp với ý ông. Rõ ràng là trong thời gian đó họ đã phối hợp hành động với nhau. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng vào thời điểm đó, Goócbachốp chưa đánh giá hết nguy cơ đối với mình vì ông cho rằng, thông qua A. Iacốplép, bản thân ông vẫn kiểm soát được toàn bộ cái gọi là phe đối lập tự do chủ nghĩa. Điều khá quan trọng là cuộc tranh chấp quyền lực chính trị lúc ấy tập trung xung quanh những vấn đề cải cách kinh tế, chủ yếu là cải cách quản lý kinh tế. Những nhân tố khách quan do mở rộng quy mô và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đòi hỏi phải thực sự phi tập trung hóa quản lý. Sự siêu tập trung không chỉ mang lại quá nhiều lợi ích ưu tiên cho các bộ, ngành, gây ra thiệt hại 62 cho các địa phương. Nếu đánh giá một cách đồng bộ thì thấy rằng toàn bộ các nghị quyết riêng rẽ dù có hiệu quả cũng không tạo ra sự tăng trưởng chung, không những gây tổn thất mà còn trì hoãn quá trình thực hiện các nghị quyết quản lý vi mô, làm giảm tính xác đáng do sự xa rời của cơ quan quản lý với đối tượng quản lý cả về mặt thời gian và không gian. Còn trong điều kiện hiện nay, không thể xây dựng ngay một hệ thống có hiệu quả, dù chỉ là trên lý thuyết, để kết hợp các lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, nhằm nâng cao tính hiệu quả chung, bằng cách dựa vào những chỉ tiêu hiện vật được xem là nhân tố phát triển chính nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật và ứng dụng những thành tựu của nó vào sản xuất. Từ đó nảy sinh sự cần thiết khách quan không chỉ của việc phi tập trung hóa theo kiểu phục hồi và hiện đại hóa các nông trang tập thể trong giai đoạn mới, như một số vị lãnh đạo đã đề xuất (ví dụ N. Maxlennhicốp - Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Liên bang Nga, Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước Cộng hòa Liên bang Nga), mà cần có sự thay đổi ưu tiên dành cho các đối tượng quản lý. Yêu cầu sử dụng các quan hệ hàng - tiền và những đòn bẩy giá trị vốn có của chúng trong quản lý đã được đưa lên hàng đầu. Quá trình chuẩn bị cho cuộc cải cách đó đã được triển khai theo đường lối của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô dưới sự lãnh đạo của A. Iacốplép, V. Métvêđét, V. Bônđin. 63 Vấn đề cán bộ do G. Radumốpxki đảm nhận từ năm 1985, I. Prôxchiacốp và A. Miliucốp chịu trách nhiệm tổ chức triển khai theo định hướng của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Cuối cùng, năm 1987, tất cả dự thảo được tập trung lại và biến thành các Nghị quyết của Hội nghị toàn thể tháng 6 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Những nghị quyết này do một nhóm soạn thảo dưới sự lãnh đạo của A. Iacốplép, V. Métvêđép, L. Abankin, V. Bônđin, V. Môdin. Tham gia nhóm này có A. Aganbegian, A. Anchiskin, G. Pôpốp và một số chuyên gia khác, trong đó có các cán bộ trong bộ máy Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Về phía Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô có tôi và X. Xitarian tham gia. Còn Enxin, X. Satalin, G. Ialinxki và cả E. Gaiđa đều không hề tham gia quá trình soạn thảo. Nhờ tham gia quá trình chuẩn bị Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6/1987 và chương trình của N. Rưscốp năm 1990 nên tôi có thể nói rằng, cả Enxin và Goócbachốp đều không phải là những nhà kinh tế, nhà lý luận và nhà thực tiễn, không phải là những “nhà thị trường”, đều không hiểu rõ thị trường là gì và quản lý nó như thế nào, có thể và cần phải dùng nó để đạt được điều gì, huống chi là thực hiện điều đó ra sao trong thực tiễn. Do đó, những bất đồng của họ về cải cách không phải là những bất đồng về quan điểm và nguyên tắc, mà chỉ là những mâu thuẫn trong 64 quá trình tranh giành quyền lực chính trị cao nhất cho bản thân. Vì vậy, những bất đồng, mâu thuẫn ấy tất yếu sẽ nảy sinh. Nền kinh tế của cả nước, phúc lợi của nhân dân đã trở thành những con tin của cuộc tranh giành quyền lực chính trị, thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa các tư tưởng và quan niệm, cuộc đấu tranh vì những cải cách dân chủ chống lại hệ thống hành chính - mệnh lệnh. Mỗi người tự coi mình và tuyên bố mình là người dân chủ và người cải cách, còn đối phương thì được gọi là người bảo thủ, quan liêu, quan cách. Nhưng, trong thời kỳ đó, họ cũng sẵn sàng hòa hợp khi cần loại bỏ người thứ ba. Đó là thực chất những dao động của cả Goócbachốp lẫn Enxin, những yêu sách và thỏa thuận không ngừng diễn ra giữa họ với nhau. Do thực hiện hai chiến dịch thanh trừng tàn bạo, trước hết là đối với các nhà hoạt động chính trị của các nước cộng hòa và địa phương, nên ở các địa phương đã xuất hiện quan niệm cho rằng trung ương không còn là chỗ dựa, là người bảo vệ những lợi ích cho các nhà lãnh đạo của họ nữa. Trái lại, trung ương đã trở thành một nhân tố nguy hiểm, đe dọa họ. Vậy là, từ con ngựa thành Tơroa dưới tên gọi “cải tổ” đã xuất hiện những cuộc chiến tàn phá Liên Xô đến tận nền tảng của nó. Sau khi bị trung ương bỏ mặc, các nhà hoạt động ở các nước cộng hòa và các địa phương đã tìm chỗ dựa cho mình ở nơi sở tại, thoạt đầu là do tình thế bắt buộc, sau đó 65 ngày càng có ý thức hơn. Chủ nghĩa biệt lập, chủ nghĩa phân biệt và chủ nghĩa dân tộc đã được đa số họ dùng làm vũ khí, phương tiện duy nhất để tự cứu mình và quyền lực của mình, về sau đã phát triển thành mục tiêu tự chủ, ly khai, đề cao và tự khẳng định từng bộ phận trên cơ sở phá hoại và hủy diệt tổng thể. Các đơn vị lãnh thổ - quốc gia được hình thành với tốc độ và kết quả khác nhau theo con đường đó. Bắt đầu từ những vấn đề quốc ngữ, văn hóa dân tộc, phục quyền và kêu gọi sám hối, bồi thường, rồi họ không thể dừng lại được, khi còn chưa đi đến cùng, đến phân lập toàn bộ. Để ngăn chặn được quá trình phát triển của chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến cần phải có chính quyền cứng rắn và sức mạnh. Nhưng Goócbachốp lại không muốn. Hơn thế nữa, ông đã bằng mọi cách thúc đẩy quá trình tan rã, làm suy yếu tất cả các lực lượng chính trị và nhà nước, phân tán họ. Thi hành nguyên tắc “chia để trị” đã giúp ông ta cơ hội đứng vững trên đầu ngọn sóng. Nhưng khi quá trình suy sụp của đất nước đã đi quá xa và trở thành không quản lý nổi, thì cơ hội duy nhất để cứu nguy là dựa vào quân đội và an ninh. Bởi vậy, chính Goócbachốp đã dẫn tình hình đến chỗ cần thiết phải có tình trạng khẩn cấp. Đó cũng là điều mà từ lâu ông đã ý thức được và chuẩn bị sẵn sàng. Điều này được nói lên bằng những sự thực hiển nhiên, qua nhiều cuộc họp do ông điều khiển, trong đó tôi có được tham gia một số cuộc. 66 Khi chuẩn bị nghị quyết về cải cách kinh tế cho Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6/1987, những người soạn thảo đều thống nhất ý kiến muốn thực hiện cải cách này trên thực tế, thì trong những biện pháp tổ chức cần quyết định một bước đi rất quan trọng - tập trung vào tay một người các chức Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Nói thẳng ra là đất nước, cường quốc của chúng ta, như con thuyền lớn, cần có sự thay đổi tất yếu về đường lối, phải củng cố kỷ cương về mọi mặt, tập trung ý chí và nỗ lực vào những thời điểm quyết định nhất. Nếu không làm thế thì con thuyền hoặc sẽ bị lật đổ, hoặc sẽ đi theo con đường cũ, hoặc hoàn toàn lạc đường và biến thành thứ đồ cũ han gỉ. Nhưng, khoảng một tuần trước khi tiến hành Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, những người soạn thảo cải cách kinh tế thuộc nhóm của G. Radumốpxki (Ban Tổ chức của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô) biết rằng người đặt hàng, tức là Goócbachốp, đã không chấp nhận hướng tổ chức lại quản lý nhà nước và cần phải khẩn trương sửa chữa lại văn kiện. Tuy nhiên, nếu nói rằng điều đó là không thể thực hiện được thì còn hơi vội. Nói cách khác, không phải sự tập trung quyền lực, mà do thiếu khả năng hiện thực để cải cách theo hướng đó vào thời điểm ấy là nguyên nhân của sự phủ nhận. Thêm vào đó, một điều khá tiêu biểu là vấn đề cải cách 67 kinh tế đến tháng 6/1987, sau Hội nghị toàn thể cán bộ tháng Giêng mới được đưa ra xem xét mặc dầu, theo tôi biết thì việc chuẩn bị đã được tiến hành đồng thời, nếu không nói là sớm hơn. Đó chính là một trong những nguyên nhân chậm trễ thực hiện cải cách. Sau khi không giải quyết vấn đề quyền lực thực tế bằng phương thức thông thường, Goócbachốp đã làm một cuộc cải cách không phải vì mục tiêu, mà dùng phương tiện để đạt được mục tiêu. Chung quanh cuộc cải cách này đã dâng lên một làn sóng thứ hai mà tôi đã viết. Còn ở các địa phương, về thực chất đã diễn ra quá trình đánh lộn sòng các khái niệm, trong đó phi tập trung hóa quản lý và tự do cho người sản xuất đã bị công khai đổi thành chủ nghĩa trung phái chính trị. Các nước cộng hòa bắt đầu nói đến việc trung ương kìm hãm cải cách, và họ có ý muốn, biến một trung ương thành ít nhất là 15 trung ương. Những thay đổi thực sự bằng cách chuyển sang các quan hệ thị trường bị đẩy xuống hàng thứ hai không làm cho ban lãnh đạo của họ quan tâm lắm. Điều đó thể hiện rất rõ khi thành lập cộng đồng các quốc gia độc lập, người ta mới vỡ lẽ ra rằng, chẳng một nước cộng hòa nào có chương trình cải cách thị trường thực sự. Có lẽ, chỉ trừ nước Cộng hòa Udơbếch, nơi mà Tổng thống I. Karimốp, nhà kinh tế chuyên nghiệp, trước khi trở thành nguyên thủ quốc gia đã làm Bộ trưởng Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Udơbếch, Chủ tịch Ủy ban 68 Kế hoạch nhà nước Udơbếch và đã tích lũy khá đầy đủ kinh nghiệm để phân biệt rõ các mô hình phát triển thị trường và phi thị trường. Bởi vậy, thiết nghĩ rằng, ông hoàn toàn hiểu rõ nền cải cách gì và như thế nào trong nước để phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội riêng của nước mình. Nhưng tất cả các nước cộng hòa đều lo ngại nước Nga, vì họ cho rằng, dựa vào tiềm lực kinh tế của mình nó vẫn có thể trở thành một trung tâm như trước, nếu không nói là còn cứng rắn hơn, nhưng trong mọi trường hợp vẫn kém uy tín nhất. Lợi dụng sự đối kháng giữa những người cộng sản và những người dân tộc, giữa chủ nghĩa phân lập và chủ nghĩa trung phái, là chiến lược cơ bản của Goócbachốp vì sự sống còn về mặt chính trị của mình. Bởi vậy, hoạt động chính của ông ta là trừ khử các lực lượng và phong trào chính trị không để cho bất cứ ai có được ưu thế quyết định. Chính sách đó đã mang lại kết quả. Các nước cộng hòa vốn bị ràng buộc ở mức quyết định các quan hệ sản xuất, quản lý với trung ương và Nga, đều không thể hợp nhất để chống trung ương, nhưng chính trung ương mà đại diện là Goócbachốp lại không muốn giải quyết một cách triệt để và hợp lý các quan hệ giữa Nga với các nước cộng hòa. Lúc này ông ta tập trung chú ý vào việc làm suy yếu các lực lượng chính trị bằng cách đối đầu họ với các lực lượng chính trị ở Nga, trước hết là đảng cộng sản và những người dân chủ tương lai. Và, ở đây Goócbachốp đã làm tất cả để cuốn hút Enxin ra khỏi “cõi hư vô chính trị”. 69 Sau khi tạo cho Enxin điều kiện và thời gian để tập hợp lại lực lượng và thay đổi êkíp, ông vẫn luôn giúp Enxin. Nguyên tắc “lạy Chúa, hãy giúp cho kẻ yếu hèn” đã có hiệu lực. Về điều này, người ta không nói và không viết ra, nhưng bao giờ sự phù hộ đó cũng đến trong thời điểm cần thiết nhất: từ những mệnh lệnh thường ngày cho cục an ninh và cơ quan kiểm duyệt đến những thay đổi chiến lược trong các trận chiến chính trị. Chẳng hạn, xin dẫn ví dụ về cuộc đấu đáng nhớ trong đời sống chính trị của chúng ta, giữa B. Enxin và I. Pôlôxcốp với tư cách là những người tranh cử chức Chủ tịch Xôviết tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga tại Đại hội đại biểu nhân dân Nga, khi những cuộc bỏ phiếu nhiều lần sau nhiều ngày tranh luận và phối hợp ngấm ngầm đã mang lại thế ngang bằng hoàn toàn và thậm chí người ta còn dự đoán Pôlôxcốp sẽ thắng cử. Chiến dịch bôi nhọ đôi khi đến mức lố bịch, hèn hạ nhại lại những khuyết tật của thân thể, giọng nói, lối phát biểu, họ tên của ông1 cũng đã không làm ông thất bại. Và bỗng nhiên, điều hoàn toàn bất ngờ là I. Pôlôxcốp rút khỏi danh sách ứng cử viên. Câu nói theo kiểu của một nhân vật nổi tiếng trong phim hoạt hình - con mèo Lêôpôn vang lên “nào các bạn, chúng ta hãy sống hòa thuận” không thuyết phục nổi 1. Pôlôxcốp: tiếng Nga có nghĩa là súc miệng (ND). 70 một ai trong số những người ủng hộ ông. Hầu như tất cả những người cộng sản đều nhận định đó là một cú đánh lén, một sự phản bội trắng trợn. Nhưng, thế thì ai đã phản bội? I. Pôlôxcốp chăng? Sau này, mùa xuân năm 1991 vào lúc giải lao tại hội nghị trọng thể ở Nhà hát lớn, Ivan Kudơmích1 đã đứng lại với tôi sau hội trường. Chúng tôi chỉ có hai người. Chúng tôi đã bàn với nhau về việc tìm cho ông một vị trí thích hợp trong nội các Liên Xô với tư cách là một chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất và thu mua lương thực. Về mặt nghề nghiệp tôi thấy không có vấn đề gì, nhưng tôi còn chưa đồng ý về việc bổ nhiệm và điều này ông ấy cũng đã biết. Tôi chỉ đặt ra cho I. Pôlôxcốp một câu hỏi: Ý kiến ông phát biểu tại đại hội là do quyết định của riêng mình hay của tập thể và vì động cơ gì? Câu trả lời chỉ vẻn vẹn: trong một cuộc nói chuyện bằng điện thoại, Goócbachốp cho biết là ý kiến của các ủy viên Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô “khuyên” tôi nên rút khỏi danh sách ứng cử viên, bất chấp mọi phản đối và nghi ngờ của I. Pôlôxcốp. Kỷ luật đảng đã thắng và đây không phải là lần đầu và cũng chẳng phải là lần cuối cùng được Goócbachốp dùng vào những mục đích riêng gây thiệt hại cho chính bản thân đảng. 1. Ivan Kudơmích Pôlôxcốp (ND). 71 5. “ĐỘI QUÂN THỨ NĂM” TRONG HÀNH ĐỘNG Những hành vi của Goócbachốp có thể là rất khó tin được, nếu như tách chúng ra khỏi tiến trình chung và lôgích các sự kiện. Mà những sự kiện đó là như thế này. Ngày 12/6/1990, Xôviết tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga ra tuyên bố về độc lập, về hiệu lực tối cao của các đạo luật của các nước cộng hòa so với các đạo luật của liên bang, ra các nghị quyết về các hệ thống tài chính - tín dụng và thuế, sự kiện đó đã phá vỡ cơ sở quyền lực kinh tế của Chính phủ Liên bang. Tiếp đó, sau phong trào bãi công của thợ mỏ do ban lãnh đạo chính trị Nga đứng đầu là Enxin khởi xướng và tài trợ, sau những lần lớn tiếng kêu gọi chuyển tất cả các xí nghiệp và các cơ quan nằm trên lãnh thổ Nga trả cho Nga thì nguy cơ làm tê liệt nền sản xuất đã buộc nội các Liên Xô phải lo cứu nền kinh tế khỏi sự sụp đổ và cứu nhân dân khỏi nạn đói thay cho việc tiến hành công cuộc cải tổ triệt để nền kinh tế theo con đường cải cách đã định. Có thể nào tin được rằng trong giờ phút nguy kịch, Goócbachốp không chỉ giúp đỡ, mà đúng hơn là đã nhấc bổng kè thù không đội trời chung của mình lên khỏi cơn 72 sóng dữ. Nhưng đó là sự thực và về lôgích là nhất quán, bởi vì Goócbachốp và Enxin ngày càng trở nên không thể chịu nổi nhau về phương diện cá nhân - cái ghế tối cao bao giờ cũng chỉ có một, và vì nó là tối cao nên không bao giờ không có kẻ thù, họ chỉ làm mỗi một việc là phá hoại. Mỗi kẻ phá hoại vì những ý tưởng và mục đích riêng, mặc dầu trên con đường đó họ đã hành động trong một đội ngũ thống nhất, đồng thời lần lượt thay phiên nhau cả về hướng đánh hoặc thông thường hơn là phối hợp cả về mặt thời gian và không gian những đòn đánh vào đối phương chung - Liên Xô - từ hai phía. Thật bất hạnh đối với đất nước, hướng phá hoại chính lại là kinh tế và gắn với nó là mức sống của nhân dân. Những người lãnh đạo kinh tế - từ giám đốc, chủ tịch ủy ban và những chuyên gia chung quanh họ cho đến Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô là những người đầu tiên cảm thấy và hiểu được nguy cơ đe dọa sự tồn tại của nhà nước, nguy cơ đối với những cơ sở bảo đảm đời sống của nhân dân, nằm trong chương trình hành động của “những người cải tổ” mà thói ngạo mạn cá nhân đã tô vẽ ra. Điều đó đã được thể hiện rõ ngay từ khi chuẩn bị thành lập quốc hội cuối cùng của Liên Xô. Đã xảy ra một sự kiện chưa từng có là - những công dân có toàn quyền của Liên Xô đã bị người ta tước mất quyền được trở thành người đứng trong danh sách ứng cử chỉ vì họ giữ chức bộ trưởng trong Chính phủ Liên bang. 73 Vì sao nghề nghiệp khác lại không bị cấm? Mà chính những bộ trưởng ở nước ta bao giờ cũng là những người có uy tín nhất trong đội ngũ giám đốc và kỹ sư - kỹ thuật. Vậy mà người ta đã coi họ ngang với những người can án và những người mất trí. Thế nhưng các viện hàn lâm, các hội và các liên đoàn thì lại chỉ được phép đề cử chứ không phải ứng cử, đại biểu mang tên nhân dân. Chủ trương này đã bị phản công một cách ngấm ngầm ngay tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ nhất vào năm 1989, khi đằng sau hội trường - các nhà công nghiệp, các nhà nông học và nhiều người khác nữa đã kiên trì đến phút chót thuyết phục N. Rưscốp đồng ý ra tranh cử chức Tổng thống Liên Xô. Hầu như tôi đã tin chắc rằng, bất chấp hàng trăm đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, của công đoàn, của đoàn thanh niên và của các tổ chức xã hội, kể cả hội những người chơi tem và các hội hữu nghị mà phần lớn được chỉ định nhằm phối hợp với Goócbachốp, Tổng thống Liên Xô sẽ là N. Rưscốp, mong sao ông ấy đồng ý. Người ta đã nói thẳng với ông rằng, chẳng cần phải làm gì cả, “vì Anh chúng tôi sẽ làm tất cả”, chỉ cần anh nói. “Vâng”. Ông đã không biết giữ mình và vì lòng trung thành, tháng 12/1990, ông đã nhận được phần thưởng nhồi máu cơ tim và từ chức. Không gì có thể quên và không ai có thể quên. Bởi vì không phải ngẫu nhiên mà đại biểu N. Ôbôlenxki tự mình ứng cử chống lại Goócbachốp, đã thu được 20% số phiếu. 74 Dĩ nhiên người ta bỏ phiếu không phải vì N. Ôbôlenxki, mà là để chống Goócbachốp. Nghĩa là nguy cơ từ phía những người lãnh đạo kinh tế còn nguy hiểm hơn cá nhân Enxin. Tức thì Goócbachốp đã dùng tay Enxin để phản công, tung ra loạt đòn đánh lén vào các cơ quan đầu não - các bộ, các cơ quan kế hoạch, tài chính và ngân hàng. Có thể nhớ lại việc tổ chức cuộc bầu cử tổng thống ở Nga. Enxin đã là người được ái mộ nhưng vẫn chưa có ưu thế áp đảo. Vòng bầu thứ hai đã trở nên thực tế hơn. Lúc này mặc dầu N. Rưscốp đã được đề cử, Goócbachốp vẫn tiếp tục giới thiệu V. Bacatin. Nguyên do là bạn phải tự thể hiện mình là một nhà hoạt động chính trị tự lực trong tương lai. Bacatin tự cho rằng, ông chẳng hề có một cơ hội nào đắc cử và nhiệm vụ của ông chỉ là để kéo bớt số phiếu về mình. Số phiếu của ai vậy? Chính ông đã vô tình chơi N. Rưscốp một vố, tước mất số phiếu của ông ấy. Tình hình cũng như vậy khi tổ chức bầu cử thị trưởng Mátxcơva và lựa chọn những đối thủ đối với G. Pôpốp. Hoặc lấy ví dụ ở Ucraina, nơi mà các đại diện của Rukhơ đã tiến hành một chiến dịch ác liệt chống lại việc bầu Bí thư Đảng Cộng sản Ucraina V. Ivascô làm Chủ tịch Xôviết tối cao của nước cộng hòa, đổ vấy rằng ông cũng như tất cả những người cộng sản, dường như đều đặt lợi ích của trung ương Mátxcơva và Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên lợi ích của nhân dân Ucraina. Về thực chất, 75 người ta đã buộc ông phải cam đoan rằng những lợi ích dân tộc, mà theo phát ngôn của các phương tiện thông tin đại chúng, là lợi ích dân tộc chủ nghĩa, sẽ được ông đặt cao hơn tất cả các lợi ích khác, và dù là người cộng sản đi nữa, thì ông vẫn phải luôn bắt đầu từ sự ưu tiên đó trong các chính sách của mình. Nhưng số phiếu hiển nhiên và chắc chắn là sẽ nghiêng hẳn về phía ông. Thắng lợi của những người cộng sản Ucraina và những người muốn giữ nước Nga trong một quốc gia thống nhất dường như đã là tất yếu. Thế mà bỗng nhiên, đúng một tuần sau, V. Ivascô được triệu về Mátxcơva, và nhanh chóng trở thành người giữ chức phó của Goócbachốp về công tác đảng. Tại sao và nhằm mục đích gì? Lẽ nào một tuần trước đó, Goócbachốp không biết rằng ông cần V. Ivascô ở Mátxcơva, hoặc giả không dự đoán được sức mạnh, luận cứ và xung lực mới, lực lượng mới mà ông đã giáng xuống đầu Rukhơ, để mở ra khả năng tiến hành ở đây một vòng đấu tranh chính trị mới, với những người đã đánh mất quan điểm và tính chủ động sáng tạo, sút kém về đạo đức, dù đó là những người đang cùng đứng trong hàng ngũ đảng với mình. Dĩ nhiên là Goócbachốp biết. Nhưng ông ta không cần một thành trì cộng sản ở Ucraina. Ông ta vẫn chưa quên những lời tán dương bất đắc dĩ đối với V. Sécbixki về lực lượng cán bộ ở nước cộng hòa này và tinh thần đoàn kết cùng với tính kiên định của họ. 76 Tuy nhiên, để mở đường cho Enxin, về thực chất là để bảo đảm thắng lợi cho ông ta ở nước Nga, Goócbachốp cũng đã tiến hành công việc phá hoại quyền lực và uy tín của Enxin. Ông ta đã đưa ra một cơ chế mà nhờ đó trung ương bị sụp đổ bởi chính các nước cộng hòa trong liên bang, tất cả được lặp lại như sao y bản chính. Tôi đã chứng kiến cuộc gặp gỡ cuối cùng và trao đổi riêng của Goócbachốp với các đại diện của các khu tự trị, về dự phiên họp Hội đồng Liên bang tháng 7/1991. Tôi là người có mặt ngoài dự kiến, có thể nói như một người thừa. Nội dung cuộc trao đổi đề cập đến mối quan hệ qua lại với nước cộng hòa, đến cá nhân Enxin, tất cả đều thống nhất là sẽ giúp đỡ và ủng hộ. Thực chất, đó là cuộc phổ biến chỉ thị. Cùng lúc đó, trước mắt Goócbachốp đặt ra một nhiệm vụ có tầm quan trọng rất lớn: bằng mọi cách phải giành được sự kiểm soát cá nhân đối với quân đội và an ninh. Nhiệm vụ này trong quân đội được đặt lên vai Đ. Iadốp, người được bổ nhiệm trọng trách thứ trưởng, và sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; trong Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô thì dồn lên vai V. Criuscốp, còn sau đó là V. Bacatin (tuy không lâu), trong Bộ Nội vụ Liên Xô là V. Bacatin và về sau là B. Pugô. Ba trong bốn người này sau này là những thành viên của Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp. Một lần nữa xin nhắc lại các sự kiện. Sự kiện Nagornưi Carabắc được bắt đầu từ đâu? Từ việc bàn 77 luận về cuộc phỏng vấn giật gân ở Pari đối với Viện sĩ A. Aganbegian, cố vấn của Goócbachốp. Ở đây, tôi chỉ nói những gì mà chính mình đã nghe được. Tôi biết Aben Aganbegian là một người rất thận trọng, hay cân nhắc và hiểu biết nhiều. Ông chưa bao giờ có những tuyên bố chính trị không đúng lúc kiểu như vậy. Vậy mà bỗng nhiên có cuộc phỏng vấn, theo tôi được biết không trái ý Goócbachốp, không có một tuyên bố nào, không bác bỏ những tin đồn đại. Đấy là tôi còn chưa nói rằng một người thuộc tầm cỡ như vậy không có quyền ra những tuyên bố chính trị không ăn khớp với người lãnh đạo của mình hoặc không trùng với đường lối và quan điểm của ông ta. Nhưng trong trường hợp, nếu vì những nguyên nhân nào đó vẫn cứ xảy ra điều đáng tiếc, thì chính người lãnh đạo phải có trách nhiệm tuyên bố trước công chúng và sa thải vị cố vấn đó. Huống hồ là sự vu khống thì lại càng cần phải bác bỏ. Sự việc lại chẳng xảy ra như thế. Tiếp theo là sự kiện Bacu. Mặt trận nhân dân đã ra đời bởi vì người ta đã khen ngợi và khuyến khích. Những người ngồi đợi sự bắt bớ, thì buổi sáng vẫn còn được mời đến đàm thoại, mặc dầu chính họ đã cho rằng sự việc thế là thất bại. Số người ủng hộ mặt trận đã từng bước nhanh chóng phát triển. Hoặc giả chúng ta hãy nhớ lại sự kiện Pribantích và Tbilixi. Thoạt đầu là sự xúi giục hành động kiên quyết, rồi đến thành lập các ủy ban cứu nguy, chiếm đài phát thanh và đài truyền hình. Tiếp đến 78