🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình văn học dân gian Ebooks Nhóm Zalo Hll II l w l l j l l ỉ l l l l . vũ ANH TUẤN (Chủ biên) GT.0000 G T 00000271 THU YÊN - TS. NGUYỄN v iệ t h ù n g TA »1 I 1 ■■ ^ ĩ w, , ỉ ịặỆỆỆm0Ệ TS. PHẠM ĐẶNG XUÂN HƯƠNG BIÁŨ TRÌNH ÍP JYẺN -IỆU lĩ LIU U U I^I CD NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM LỜI NÓI ĐẦU Tự học và tự đào tạo là nhu cầu của mỗi công dân trong xã hội học tập. Thông qua con đường tự học, mỗi cá nhân phát triển và tự hoàn thiện mình, đáp ứng yêu cầu và phục vụ xã hội ngày càng hiệu quả. Đièu này càng đúng và cần thiết đối với các giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục - những người chăm lo đến sự nghiệp đào tạo nhân lực, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Tự học, tự đào tạo, bên cạnh những nổ lực cá nhân, không thể không có các tài liệu cần thiết, định hướng những nội dung cơ bản, thiết thực cho nhu cầu học tập. Xuất phát từ quan niệm đó, chúng tôi tổ chức biên soạn bộ giáo trình thiết yếu phục vụ cho nhu cầu học tập, tự học tập của giáo viên ngữ văn phổ thông. Bộ giáo trình hướng tới nội dung học tập của các học phàn được quy định trong chương trình đào tạo Cử nhân sư phạm Ngữ văn. Các giáo trình đèu được biên soạn ngắn gọn, nhưng đảm bảo tính hệ thống và bao gồm những nội dung không thể thiếu trong mỗi môn học. vẫn biết, đế có một lượng kiến thức nhất định cho mỗi môn học, người học phải đọc không ít trang sách - cả giáo trình, cả tài liệu tham khảo - nhưng giá có được những cuốn sách định hướng nội dung kiến thức cần yếu thì người hoc sẽ nhanh chóng hơn trong quá trình tích luỹ kiến thức của mỗi môn học. Đó chính là mục đích cùa bộ giáo trình này - cung cấp những nội dung cốt lõi, những kiến thức và kĩ năng cần thiết của mỗi môn học. Bên cạnh đó, bộ giáo trình này cũng kế thừa các giáo trình đã có và kịp thời bồ sung những kiến thức mới, cập nhật. Với cách biên soạn hướng tới việc đáp ứng các nhu cầu của người học như vậy, chúng tôi cho rằng, mỗi cuốn giáo trình và cả bộ giáo trình này sẽ là những cẩm nang thiết thực giúp người học nhanh chóng nắm được 3 những kiến thức cơ bản của mỗi môn học và cả chương trình học. Với những kiến thức được coi là cốt lõi của mỗi môn học, người học chắc chắn sẽ biết cách bố sung những kiến thức khác ở các tài liệu tham khảo được định hướng trong mỗi giáo trình để có được một hiếu biết đầy đủ và toàn diện về môn học. Mặc dù hướng tới việc tự học và tự đào tạo, nhưng bộ giáo trình này cũng có thế được sử dụng trong việc học tập có hướng dẫn của giáo viên bộ môn, đặc biệt trong xu thế đào tạo theo tín chỉ - khi thời lượng tự học được tăng lên so với thời gian lên lớp thực tế. Bên cạnh đó, bộ giáo trình cũng không chỉ là tài liệu cần thiết cho sinh viên, học viên ngành Sư phạm Ngữ văn mà còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, học viên các ngành cử nhân Văn học, Ngôn ngữ .Việt Nam học và những ngành khác có liên quan. Nhân dịp bộ giáo trình được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Công ty Cố phần Sách Đại học - Dạy nghề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam và các đồng nghiệp đã hỗ trợ và tạo điều kiện để bộ giáo trình đưạc sớm ra mắt bạn đọc. Hi vọng, với cách biên soạn giản dị, ngắn gọn, bộ giáo trình này sẽ giúp ích các bạn một cách hiệu quả trong đièu kiện học tập hiện nay. Lần đầu xuất bản, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng cũng khó tránh khỏi sai sót, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của các đong nghiệp, các bạn sinh viên và các độc giả để lẳn xuất bản sau được hoàn thiện hơn. Thư góp ý xin gửi về Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - 136 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội hoặc Công ty Cố phân Sách Đại học - Dạy nghề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 25 Hàn Thuyên, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Xin chân thành cảm ơn ! KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 4 Phần một: NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN ■ I- VĂN HỌC DÂN GIAN VỪA LÀ VĂN HỌC VỪA LÀ VĂN HOÁ Có một nhà nghiên cứu FOLKLORE (văn hoá dân gian) Việt Nam đã nêu lên một cách hiểu văn học dân gian (VHDG) vừa tinh tế, hóm hinh, vừa thực tế, sâu sắc rằng: Văn học dân gian đối với chúng ta cho đến những năm 80 cùa thế kỉ XX vẫn chi là một người lạ đã từ lâu quen biết. Mặc dù thuật ngữ văn học dân gian đã từng được Vũ Ngọc Phan đưa ra từ năm 1955 nhưng nhận thức về khái niệm, vai trò, đặc trưng và số phận của VHDG trong suốt thời gian từ thập kỉ 60 cùa thế ki trước đến nay vẫn còn là cả một quá trình. Và cùng với nó cũng là cả một quá trình đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu, giảng dạy VHDG trong nhà trường ờ mọi cấp học. Không phải không có lí do mà chi từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), VHDG trong nhà trường mới được chính thức quan niệm là một bộ phận hợp thành chinh thể nền văn học của dân tộc. Trong suốt thời kì phong kiến dộc lập tự chù, VHDG không có chỗ đứng trong nhà trường. Phải đến đầu thế kỉ XX, sau khi công trình Việt Nam văn học sử yếu cùa Dương Quàng Hàm đirợc Rô Giáo due nhà nước thuộc địa dùng làm tài liệu chính thức giảng dạy trong nhà trường, việc nghiên cứu và giảng dạy VHDG mới bắt đầu được chú ý. Bởi vì trong cuốn sách này, lần đầu tiên có một học giả người Việt - Dương Quàng Hàm - đã để nhiều tâm lực biên soạn vào bộ phận VHDG mà ông gọi là văn chương truyền khẩu hoặc văn học bình dân. Cũng trong thời gian trên, góp phần nghiên cứu chuyên sâu vào bộ phận VHDG còn có Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh, Thanh Lãng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi,... và tù đây các khái niệm văn chương truyền khấu, văn học bình dân mới bắt đầu dần dần được định danh lại là văn học dân gian. 5 Từ giữa thế kl XX, khuynh hướng tiếp cận folklore từ góc độ chinh thể nghệ thuật dân gian của trường phái folklore Nga - Xô viết, trong đó thành tố ngữ văn dân gian được nhấn mạnh là một thực thể quyết định tồn tại folklore, đã ảnh hưởng trực tiếp vào giới nghiên cứu văn học Việt Nam. Có thể đây cũng chính là lí do cùa việc quan niệm folklore là văn nghệ dân gian, một loại hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của quần chúng lao động trong trạng thái tự nhiên giữa đời sống. Với quan niệm này, VHDG đã được xem là một thành tố hợp thành folklore. Tuy vậy, có thể nói, nhìn chung ở nước ta, cho đến trước năm 1975, VHDG vẫn được nghiên cứu trong hệ quy chiếu cùa văn học thành văn. Phải đến những năm 80 cùa thế ki XX, sự giao lưu học thuật giữa các nhà nghiên cứu VHDG Việt Nam với khu vực và thế giới mới bẩt đầu và ngày càng trở nên nhộn nhịp. Trường phái nhân học văn hoá Anh - Mĩ đã tạo nên những bước phát triển đột biến cùa khoa học VHDG Việt Nam. Quan niệm VHDG là gì và tác giả VHDG là ai được nhận thức lại trong rất nhiều những cuộc Hội thảo về văn hoá dân gian. Trong đó có một vấn đề đã trở thành trung tâm của những cuộc thảo luận: Folklore là gì?, v ề xuất xứ từ nguyên, FOLKLORE là một thuật ngữ có nguồn gốc phương Tây, do nhà khào cồ học người Anh William J. Thoms (ký tên là A. Krerton) sù dụng lần đầu tiên trong một bài báo công bố trên tạp chí The Athenemm ờ Luân Đôn năm 1846. Folklore có nghĩa từ nguyên là sụ hiểu biết, là trí khôn, là trí tuệ nằm trong nhân dân nhưng nội hàm của nó trong bài báo trên lại rất rộng. Nó không chi gồm những di tích của nền văn hoá vật chất mà còn là những di tích của nền văn hoá tinh thần của nhân dân ở những thòi đã qua, trong đó có văn hoá nghệ thuật. Điều đáng chú ý là trong khung cành thcri ấy, ngay lập tức, thuật ngữ folklore đã được đồng loạt các nhà khoa học xã hội nhân văn sừ dụng. Đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa và quan niệm nông sâu, rộng hẹp khác nhau xung quanh thuật ngữ này xuất hiện. Những vấn đề đối tượng folklore học ựolkloristique), góc độ tiếp cận, các khuynh hướng nghiên cứu, mối quan hệ giữa nó với các khoa học kề cận, xác định vị trí môn học folklore trong các khoa học đã không ngừng được đưa ra tranh luận và phàn biện. Kết quả là sau đó folklore học đã hình thành các trường phái khác nhau: trường phái nhân chủng học văn hoá Anh - Mĩ và Mĩ Latinh; trường phái xã hội học Pháp, Ý, Bi và Tây Âu; trường phái ngữ văn 6 học Nga - Xô viết. Tuy vậy, có thể nói, giữa các trường phái vẫn có một điểm chung đó là quan niệm folklore là một bộ phận của văn hoá dân tộc và đều nhấn mạnh trong một nền văn hoá truyền miệng, tất cà mọi thứ đểu là folklore. Đồng thời ờ những mức độ khác nhau, tất cả họ đều gắn folklore với môi trường diễn xướng. Và họ đều nhất trí cho rang folklore học là một khoa học nghiên cứu về truyền thống. Sự khác biệt giữa các trường phái chi là ở hướng tiếp cận theo những mục đích khác nhau và hệ quả cùa nó là sự lựa chọn và nhấn mạnh từng đối tượng, từng thành tố nghiên cứu có khác nhau. Từ giữa thế ki XX, khuynh hướng tiếp cận folklore học Nga - Xô viết, trong đó thành tố nghệ thuật ngừ văn dân gian được nhấn mạnh như một thực the quyết định tồn tại folklore, đã ảnh hường trực tiếp vào giới nghiên cứu VHDG Việt Nam. Đây là lí do của sự xuất hiện quan niệm folklore là văn nghệ dân gian. Và như trên đã nói, đến đầu thập ki 1980, quan niệm folklore là văn hoá dân gian cũng đã có lí do để nhanh chóng lan toà trên các diễn đàn học thuật. Năm 1983, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian được thành lập. Từ đây, bên cạnh tạp chí Nghiên cứu văn học, tạp chí Văn hoá dân gian bất đầu xuất hiện với những số đầu tiên tập trung thảo luận về quan niệm folklore là văn nghệ dân gian, văn hoá dân gian hay là văn học dân gian. Xét cho cùng, sự phức tạp như thế cùa các tranh luận bắt nguồn từ chính sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu. Sáng tác ngữ văn dân gian có thể được đặt trong nội hàm của cả bấy nhiêu khái niệm kể trên mà vẫn có cơ sờ hợp lí của nó. Gọi là văn học dân gian nếu chi chú ý đến thành tố folklore nghệ thuật ngôn từ; là văn nghệ dân gian nếu chú ý thêm cả yếu tố vũ. yếu tố nhạc trong đó; là văn hoá dân gian nếu quan tâm đến những thành phan phi nghệ thuât khác có quan hệ vói tác phẩm và góp phần vào quá trình hình thành, tồn tại, lưu truyền và biến đổi của tác phẩm. Do đó, có thể hiểu tương đối thống nhất về các thuật ngữ nói trên theo các quan niệm như sau: Văn hoá dân gian tương ứng với khái niệm folklore theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các giá trị văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần được nhân dân sáng tạo, bảo tồn và lưu chuyển qua các thế hệ, trở thành các giá trị truyền thống của một dân tộc, trong đó có văn hoá nghệ thuật phi chính thống ờ mọi thời đại. 7 Văn nghệ dân gian tương ứng với khái niệm folklore nghệ thuật, bao gồm các thành tố nghệ thuật ngữ văn dân gian, nghệ thuật trinh diễn dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian trong tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc trưng của “nhận thức nguyên hợp” hợp thành chinh thể các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp có tính truyền thống của nhân dân. Văn học dân gian tương ứng với khái niệm folklore ngôn từ, là thành phần ngữ văn dân gian trong chinh the folklore nghệ thuật được tiếp cận dưới góc độ thẩm mĩ. Thực tiễn sức song folklore nghệ thuật ở Việt Nam đến nay đã chứng tò thành phần ngữ văn dân gian là bộ phận cốt lõi (phần cứng) tương đối ổn định, dễ nắm bắt và có quá trình phát triển mạnh mẽ, lâu bền nhất cùa nghệ thuật diễn xướng dân gian. Nói cách khác, đó là các thể loại sáng tác dân gian có thành phần nghệ thuật ngôn từ được hình thành một cách lịch sử, có sự bền vững về phong cách, giữ vị trí quyết định sự tồn tại, lưu chuyển và biến đổi của folklore nghệ thuật nói chung trong đời sống văn hoá dân gian. Trong nhà trường Việt Nam, thuật ngữ VHDG là định danh một môn học của khoa học ngữ văn. Có thể định nghĩa: Văn học dân gian cổ truyền là toàn bộ các thể loại sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, được sáng tạo và không ngừng tái tạo lại theo phương thức tập thể qua nhiều đời chọn lọc và gọt giũa của nhân dân, có vị trí như một thành tố quan trọng trong chỉnh thể văn hoá văn nghệ dân gian của cộng đồng dân tộc, có tính nguyên hợp. II- ĐẠC TRƯNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG CÁI NHÌN CHỈNH THẾ 1. Tỉnh nguyên hợp Những thành tựu mới cùa khoa học VHDG trong sự so sánh với văn học viết trên cả hai phương diện bản chất xã hội và bàn chất nghệ thuật đã khẳng định về bản chất VHDG vừa là văn học vừa là văn hoá. Một mặt, từ lí thuyết văn bàn học và thi pháp học VHDG cho thấy văn học dân gian là một loại của nghệ thuật ngôn từ. Có thể nói các thể loại VHDG hoàn chinh như cổ tích, ca dao (trong sự phân biệt với dân ca) và truyện thơ dân gian hiển nhiên mang đặc trưng văn học ở dạng tồn tại cố định. Mặt khác, từ lí thuyết folklore học lại cho thấy VHDG còn là một thành tố cùa văn nghệ dân gian, 8 là một hiện tượng đặc biệt của văn hoá dân gian được sáng tạo một cách thầm mĩ, mang thuộc tính văn hoá, có các biểu hiện giá trị văn hoá. Khi tìm hiêu các thê loại sừ thi, thần thoại, truyền thuyết, tục ngữ, câu đố, vè,... rõ ràng thấy cái lí cùa sự tồn tại và phát triển cùa nó chù yếu không phải từ lí do nghệ thuật mà từ lí do xã hội, chức năng chù yếu của nó không phải chức năng thẩm mĩ mà là chức năng sinh hoạt, thực hành xã hội. Thuộc tính đa chức năng, đa yếu tố (văn học và phi văn học) nổi bật trong thần thoại ở đầu nguồn văn hoá dân gian và trong chèo truyền thống ở đỉnh cao cùa nền văn nghệ dân gian là minh chứng hết sức tiêu biểu cho đặc trưng nguyên hợp cùa VHDG. Đe nhận thức đúng đan và sâu sắc đặc trưng bao trùm này cùa VHDG, phải xét từ đầu nguồn: VHDG của thời kì thị tộc, bộ lạc, hay còn gọi là VHDG của quá trình thứ nhất, trong góc nhìn thể loại, nó có tính chất phổ quát loại hình. Trong cấp độ này, có thể nhận ra rất rõ đặc trưng nguyên hợp của thề loại thần thoại. Sự ra đời của thần thoại có nguồn gốc sâu xa từ nhu cầu sinh tồn cùa con người trong hình thái kinh tế — xã hội nguyên thuỷ. Có nhu cầu tất nảy sinh phát kiến, và chính các sáng tạo vô thức thần thoại đã mờ đầu cơn khát nhận thức muôn thuở có tính nhân loại. Trong tồn tại mong manh đối diện với tự nhiên, con người thời đại thần thoại từng bước tự nhận thức và đối thoại với tự nhiên một cách tự phát. Kết quà thần thoại là nhân hoá tự nhiên để giải thích thế giới, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan được biểu hiện trong cảm hứng sùng bái và khát khao chinh phục. Nhưng thần thoại không chì là sự phỏng đoán bàng trí tuệ mù mờ thấp kém, thần thoại còn là sự hình dung và biểu hiện thế giới bằng hình tượng, là sự trinh bày hồn nhiên, tự phát niềm tin và khát vọng có tính nhân bản. Cái kì vĩ. vô tư cùa the giải các thần trong thần thoại đích thực tự nó được người đời sau cảm nhận ra nhũng vè đẹp không thể bắt chước. Đó chính là cái nên thơ nguyên sơ thần thoại, là nghệ thuật nguyên thuỷ, là tôn giáo sơ khai, là văn hoá buổi đầu. Trong lòng nó chứa đựng vô số những tiền đề của nghệ thuật đời sau, của sừ thi thần thoại, cùa truyền thuyết anh hùng, của cổ tích thần kì và thơ ca nghi lễ. Thần thoại là sản phẩm nghệ thuật được sáng tạo không tự giác bởi một “nhận thức nguyên hợp”. Trong quá trình không ngừng tác động vào ngoại giới cùa thực tiễn sáng tạo văn hoá, con người ngày càng có nhận thức ở những bậc cao hơn về môi trường, về thế giới nói chung và xã hội. “Cùng với quá trình ấy, lí tính 9 ngày càng phát triển. Và hoạt động lí tính gẳn với thực tiễn ấy cũng trải qua các chặng đường từ nguyên hợp (syncrétique) đến phân tích (analytique) rồi đến tồng hợp (synthotyque)” [Đinh Gia Khánh, Văn hoá dân gian là một nghệ thuật nguyên hợp, in trong Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nhiều tác già, NXB Khoa học xã hội, 1989, tr. 13]. Những nhận thức trải nghiệm phân tích và tổng hợp của con người tất nhiên sẽ phản ánh vào VHDG trong quá trình thứ hai. Đó là các thể loại VHDG cùa thời kì dân tộc trưởng thành cùng với sự xuất hiện gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Như một quy luật, trong quá trình tự ngã nhận thức về con người, văn hoá dân gian nảy sinh thần thoại; trong quá trình tự ngã nhận thức về tộc người và cộng đồng dân tộc, văn hoá dân gian này sinh sử thi và truyền thuyết anh hùng; trong quá trình tự ngã nhận thức về thân phận con người, văn hoá dân gian nảy sinh cổ tích, ca dao. Nhưng cổ tích là chuyện cùa uớc mơ muôn thuờ được hư cấu không định lượng, ca dao là tình người vĩnh cừu được dệt thêu không định danh, còn đời sống thì không ngừng vận động, ngày càng phức tạp và đa dạng trên cả hai chiều chính - tà, thiện - ác đan xen giữa những mảnh đời tối sáng, vấn đề thân phận cá nhân được văn học viết định danh, định lượng, định tính trong các điền hình mang đậm cá tính sáng tạo nghệ sĩ và đến với công chúng thông qua sinh hoạt văn hoá đọc. Nhưng văn hoá đọc không dành cho các tầng lớp bình dân. Đời sống văn hoá dân gian vẫn diễn ra bền bi và sôi động trong các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp. Thế giới nghệ thuật cổ tích chi thật sự đẹp lung linh trong ngữ cành văn hoá kể. Thế giới nghệ thuật ca dao chì thật sự động lòng người trong ngữ cảnh văn hoá hát. Câu ca dao “Yêu nhau đứng ở đằng xa/ con mal liếc lại bằng ba đứng gần" chi thật sự được cảm nhận trọn vẹn cái hay, cái đẹp trong con mắt biết đưa tình với ai của người diễn xướng. Sự ra đời và hoàn thiện của thể loại chèo truyền thống nói riêng và loại hình kịch hát dân tộc nói chung cũng như sự xuất hiện thể loại truyện thơ trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật dân gian miền núi là các minh chứng chứng minh rằng: Những hoạt động sáng tác dân gian trong sự trải nghiệm phân tích và tổng hợp của nhân dân trong suốt thời kì chế độ phong kiến song hành cùng văn học viết không phá vỡ được tính nguyên hợp của văn học dân gian. Hơn thế, khảo cứu VHDG được sáng tác trong quá trình thứ hai, trải qua các thời đại đã có ngôn ngữ viết phát triển đa phong cách, vẫn nhận ra đặc trưng 10 nguyên họp cùa VHDG trong quá trình vận động, lưu chuyền, biến đổi phức tạp và hết sức đa dạng. Đặc trưng nguyên hợp trong thần thoại, sử thi cổ sơ và các thể tài thơ ca nghi lễ cổ mới chi là một sự tồng hợp tự nhiên các chức năng tư tường hệ và văn hoá khác nhau trong sự đan lồng các hình thức lao động xã hội, sự kết dính hoạt động thực tiễn và sáng tạo nghệ thuật, phản ánh tôn tại folklore ngôn từ cổ sơ mới chính là sự giao tiếp có tính nghệ thuật trong một nhóm xã hội có giới hạn. Tìm hiểu đặc trưng nguyên hợp trong các thê loại tục ngữ, truyền thuyết, truyện cồ tích và những bài ca trừ tinh dân gian, còn phái xem xét nó trong tất cả các mối quan hệ giữa các thành tựu thấm mĩ cùa những thế hệ ở những thời đại khác nhau và giữa những địa phương khác nhau, quan hệ giữa các thành tố nghệ thuật đã từng dược phân xuất nay lại có cơ hội được thu hút vào một tác phẩm mới trong quá trình sáng tạo nghệ thuật hình thành một thể loại mới... Thế ncn folklore nghệ thuật ngôn từ được sáng tạo và hoàn thiện trong quá trình song hành với văn học viết vẫn là một hệ thống thẩm mĩ độc lập với văn học viết, bao gồm tất cà các thê loại sáng tác truyền miệng mang tính biêu đạt theo lối cồ truyền, tồn tại trong diễn xướng và được sự thừa nhận của nhân dân trong quá trình “chọn lọc tập thể”, sống trong kí ức chung cùa cả cộng đồng và trờ thành ki niệm riêng cùa cà một dân tộc. Nhận thức được đúng đắn, đầy đù và sâu sắc đặc trưng nguyên hợp cùa VHDG trong tất cả các biểu hiện ọủa VHDG giữa đời sống, từ hoạt động sáng tác, hoạt động trình diễn đến hoạt động tiếp nhận, là một yêu cầu có tính nguyên tấc đối với mọi lĩnh vực nghiên cứu của khoa văn học dân gian. 2. Tính truyền miệng Xét từ đầu nguồn, vãn học dân gian được truyền miệng qua hàng ngàn năm, từ thời kỉ dân tộc chưa có chữ viết. Sự truyền miệng các sáng tác nghệ thuật ngôn từ cùa nhân dân đã trờ thành tập quán sinh hoạt, là một nhu cầu văn hoá tự nhiên mà văn học viết không thể thay thể. Trài qua hàng ngàn năm tồn tại song hành với văn học viết, trong các di sản VHDG truyền miệng đuợc ghi chép lại chắc chấn có không ít những sáng tác văn học dân gian cùa các nho sĩ, các trí thức. Đó là kết quà cùa quá trình dân gian hoá có tính quy luật: Những tác phẩm ấy phài là những tác phẩm được sáng tác theo phong cách dân gian, mang tính biểu đạt theo lối cổ truyền. Nó chỉ trờ 11 thành tác phẩm văn học dân gian, như trên đã nói, nếu được sự thừa nhận cùa nhân dân trong quá trình “chọn lọc tập thể” và tồn tại trong diễn xướng. Những tác phẩm đó đã vượt thoát vai trò cá nhân sáng tạo, trở thành những thông điệp không có người phát và sống đời sống dân gian trong thể sống truyền miệng. Trong một số trường hợp đã có sự phát hiện tác giả - cá thể đối với một số tác phẩm nào đó đã được dân gian hoá, song vì những lí do như đã nói ở trên mà sự phát hiện đó tuyệt nhiên cũng không thể thay đổi được những biểu hiện về bản chất xã hội và đặc trung nghệ thuật dân gian cùa các tác phẩm ấy do đòi sống truyền miệng đem lại. Đã có nhà nghiên cứu đưa ra ba dạng thức tồn tại của VHDG. Đó là dạng ẩn trong đầu khôn người già, dạng hiện trong quá trình diễn xướng và dạng cố định sau khi được ghi chép lại bằng vãn bản. Văn học dân gian trong nhà trường là những tác phẩm đã được cố định trên văn bản, nhưng người phân tích những tác phẩm như thế cần phải hiếu ràng, trong đời sống truyền miệng, văn bàn này mới chi là một "khuôn hình”, một “lát cắt đồng đại”. Dạng thúc đầy đủ của nó phải là một liên văn bản. Sự tích hợp các tri thức hiểu biết một tác phẩm VHDG vì lẽ đó cũng phải là kết quả của sự phân tích, so sánh liên văn bán trong các ngữ cảnh diễn xướng truyền miệng giả định mà có thề trong đó các giá trị tu tường - thẩm mĩ đích thực cùa tác phẩm phát sáng. Các tri thức đó đã phán ánh kết quả cùa sự “chọn lọc tập thê” và phải đuợc phát hiện ra từ các mẫu gốc, các biểu tượng gốc, biểu tượng quy ước và nói chung là các bộ công thức truyền thống. Trong tiến trình phát triển cùa VHDG, thể loại với tư cách là một kết cấu nghệ thuật có tính lịch sử - cái kết cấu như thế cũng là một mã văn hoá - bao gồm một tập hợp các công thức truyền thống, được gọi bằng các khái niệm như: mô thức, môtip, biểu tượng. Tính biều diễn trong dạng hiện cùa tác phâm VHDG cũng được tạo nên bởi các phương thức truyền thống: nói, ngâm, hát, kể, diễn. Đó là cách thức truyền miệng đầy tính sáng tạo dân gian, biểu hiện đặc trưng mĩ học dân gian và là thể sống cùa VHDG. Một câu tục ngữ đã được cố định bằng vãn bản ở một không - thời gian nhất định nào đó luôn ở trạng thái tiềm ẩn nghĩa. Ý nghĩa cụ thể, sâu sắc và đẹp đẽ cùa nó chỉ được hiện ra sát hợp và được thăng hoa khi nó được “nói ra” trong một đoạn lời nói. Và nhờ sự có mặt cúa nó, các đoạn lời nói ấy đã được cách điệu khác với lời nói thường và trờ thành một yếu tố có tính nghệ thuật tham gia vào hành vi giao tiếp 12 trực tiếp trong một ngữ cảnh văn hoá xác định. Thế nên có thể nói truyền miệng là phương thức tồn tại cùa VHDG. 3. Tính tập thể Trong ca dao cổ truyền, có thổ nhận ra những câu hát diễn tà trực tiếp hoạt động tập thể sinh hoạt văn nghệ dân gian: Các anh tát một gầu giai Chúng em hai đứa lát hai gầu sòng. Một đàn cò trắng bay lung Bên nam bên nữ la cùng hát lên. Hoặc: Ai có chong nói chồng đừng sợ Ai có vợ nói vợ đừng ghen Đen đây hò hál cho quen Rạng ngày mô ai về nhà nấy há dễ một đèn hai tim. Nhưng khi nói đặc trưng tính tập thể cùa VHDG không có nghĩa là để chi các hình thức sinh hoạt. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tính tập thể của VHDG thấm xuyên trong tất cả các loại hoạt động: hoạt động sáng tác, hoạt động trình diễn, hoạt động thường thức VHDG. Nếu tính truyền miệng là phương thức tồn tại, là thể sống cùa VHDG trong sự toàn vẹn cùa nó, thì tính tập thể là phương thức sáng tác VHDG: tập thể về lí tường và cảm hứng sárg tạo, tập thể về nguyên tắc thẩm mĩ và phong cách thể loại, tập thể về phương thức phương tiện và chất liệu nghệ thuật biểu hiện, tập thể về phương thức tiếp nhận VHDG trong tất cả các mối quan hệ folklore với thực tại giữa dòng đ(Vi chày trôi tìr tìr chậm chạp. Tập the chiêm nghiệm tất cà các vấn đề sinh từ của con người đẻ khái quát nó vào những khuôn đúc trong những mẫu hình muôn thuở. Thế nên khác với văn học viết, mỗi tác phàm VHDG không đơn thuần là hiện tượng mà phải được xem như là một qua trình, trong ngữ cảnh và diễn xướng. Mỗi tác phẩm VHDG đều là kết qua của một hình thức đặc biệt của sáng tạo. Trong văn học viết, sự sáng tạo CÙ£ cá nhân luôn tuân theo những quy luật tâm lí của cá tính nghệ sĩ. Ngược lại. trong sáng tác dân gian, mọi sự sáng tạo cùa các cá nhân đều phải tuân theo nhũng quy luật tâm lí sáng tác tập thể. Như một quy luật, ở đây, các kinh nghiệm nghệ thuật cùa cá nhân không ngừng chảy vào nguồn dự trữ 13 tập thể, và toàn bộ kinh nghiệm tập thể lê tự nhiên trờ thành sờ hữu của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Truyện kể Thần trụ trời có lẽ là một “huyền thoại văn chương” được sáng tạo lại trên cơ sở tích hợp những mẩu kí ức về người khổng lồ sáng thế đã trờ thành ki niệm riêng của toàn dân tộc. Các lớp xã hội - lịch sừ trong truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thuỷ không phải được thu hút vào một văn bàn cố định của một thời đã qua trong cùng một toạ độ thời gian lịch sừ dân tộc. Đó là kết quà sáng tạo cùa tập thể nhiều đời, được nhiều thế hệ bảo tồn, chọn lọc thẩm mĩ và không ngừng tái sáng tạo, có đào thải, làm đầy, làm mới. về phương diện lí thuyết chung, khoa học VHDG có thể xem xét nội hàm đặc trưng tính tập thể của VHDG trên hai mối quan hệ: quan hệ giữa cá nhân với tập thể và quan hệ giữa truyền thống với ứng tác. v ề mối quan hệ thứ nhất, như đã nói ở trên, trước hết, có thể thấy toàn bộ các sáng tác VHDG ờ quá trinh thứ nhất - VHDG cùa thời kì thị tộc bộ lạc - đều có nguồn gốc từ các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của nhân dân. Ở quá trình thứ hai - trong các thòri đại đã có chữ viết và VHDG đã trở thành một bộ phận hợp thành toàn bộ nền văn học dân tộc - tình hình có khác. Bên cạnh các tác phẩm VHDG được bảo tồn và tiếp tục tái sáng tạo trong trí nhớ của các thế hệ sau, phần lớn các tác phẩm VHDG được sáng tác trong quá trình thứ hai thường có nguồn gốc từ các cá nhân khởi xướng. Họ thường phải là những người chảng nhừng có vốn văn hoá dân gian được tích hợp tự nhiên, mà còn có năng khiếu thực hành diễn xướng. Họ có thói quen đi nhiều nơi, gặp nhiều người, lại cỏ tài năng ứng tác và truyền dạy. Trong sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, họ thường có tư cách thủ lĩnh giữ vai trò của người truyền bá, phổ biến và sáng tạo. Thực tế đời sống văn hoá dân tộc đã từng có những nhà văn, nhà thơ đã thành danh, nổi tiếng của nền văn học viết vì những lí do nhất định lại trở về với đời sống bình dân và đóng vai ừò một nghệ nhân dân gian xuất sắc. Họ tham gia vào sáng tác tập thể không phải bằng vốn chữ và sự hiều biết hàn lâm cùa một tác giả văn chương bác học, mà như các nghệ nhân dân gian đích thực, các sáng tác - tập thể của họ được sinh thành từ chính vốn sống và sự nhạy cảm đời thường. Trong các di sàn VHDG cổ truyền, có thể đoán định ờ đó có những truyện cổ tích thần kì đã được nhuận sắc, có không ít những bài ca trữ tình dân gian và truyện thơ dân gian có nguồn gốc cá nhân mang phong cách tập thể trở thành tác phẩm 14 VHDG, vô danh, truyền miệng và xuất hiện dị bản. Có thể so sánh sự tương đồng và dị biệt trong cảm hứng sáng tạo - tập thể từ hai bài ca trữ tinh dân gian: Chàng ơi buông áo em ra Đế em đi chợ kẻo mà chợ trưa Chợ trưa rau nó héo đi Lấy gì nuôi mẹ lấy gì nuôi em. Có thể dễ dàng nhận ra nguồn gốc lời ca trên này sinh trong hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của nhân dân. Hãy nghe bài thứ hai: Ngày xuân em đi chợ hạ Mua cá thu ve chợ hãy còn đông Ai nói với anh rằng em đã có chồng Bực mình đổ cá xuống sông em về... Hiển nhiên, cách chơi chữ trong hai câu trên ở bài này đã chi dẫn người nghe về trình độ và đảng cấp của người sáng tác. Thế nhưng cái phong vị dân gian mộc mạc, đàm thắm ở hai câu sau vẫn cứ lan toả đượm thấm văn hoá chợ quê nơi làng Việt trong nhịp điệu mùa màng. Tác già - tập thể đã dân gian hoá nó. Lẽ tất nhiên quá trinh này sẽ tiếp tục được chọn lọc tự nhiên. Vai trò của từng cá nhân lại tiếp tục được tham gia vào quá trình này một cách có ý thức giữa đời sống cộng đồng, góp phần đổi mới và phát ưiển VHDG trên nền bản truyền thống. Ở mối quan hệ thứ hai, quan hệ giữa truyền thống và ứng tác, tính tập thể biểu hiện trong các hoạt động sáng tác trực tiếp gọi là ứng tác. Trước đây, hoạt động ứng tác diễn ra sôi nồi, thường xuyên, biểu hiện nhu cầu sáng tác và thưởng thức văn học giữa đời sống, trong các hoat động giao tiếp có tính nghệ thuật, đặc hiệt trên các chiếu chèo sân đình và trong các không gian lễ hội. Để gợi hứng hay đưa đẩy nối dài ý tứ trong một cuộc hát đối đáp, người ứng tác thường sử dụng lại một phần các phương tiện, chất liệu đã có sẵn trong các bài hát dân gian. Những yếu tố được sử dụng nhiều lần như thế đã trở thành các công thức có tính truyền thống, giữ vai trò định hướng các cá nhân ứng tác tiếp tục các sáng tạo mới theo truyền thống, v ề sau, những yếu tố ấy đã tự nhiên giữ vai trò vừa định vị tác phẩm, vừa là dấu nối giữa truyền thống với các sáng tạo mới có cùng mẫu đề. Đó là kết quả của sự bắt chước một cách sáng tạo, một biểu hiện khác của tính tập thể trong hoạt động ứng tác VHDG. 15 4. Tính dị bản Đã có nhiều nhà khoa học khẳng định cùng với tính truyền miệng và tính tập thể là tính dị bàn của VHDG. Dị bàn là hệ quà của quá trình tập thể — truyền miệng, nhưng việc nhận thức về nguyên nhân và biểu hiện của tính dị bàn trước nay giữa các nhà nghiên cứu vẫn còn những khác biệt. Từ góc nhìn cùa văn học viết trên các văn bản VHDG đã được giới thiệu, có quan niệm cho đó chảng qua là sự tam sao thất bản. Thật ra như trên đã nói về ba dạng tồn tại của VHDG, tính dị bản thường được xem xét ở dạng thứ ba: dạng văn bản cố định. Những người tuyệt đối hoá vai trò diễn xướng đã từng lên tiếng phù định việc này. Họ cho ràng VHDG ở dạng văn bản hoá chẳng khác gi với một bộ sưu tập những con bướm ép. Những người tuyệt đối hoá vai trò văn bản lại thường chi nghiên cứu sáng tác dân gian dựa trên một văn bản duy nhất, ở dạng tĩnh. Lí thuyết văn bản VHDG đã khẳng định VHDG xét trên góc độ bản chất nghệ thuật là một loại cùa nghệ thuật ngôn từ, đương nhiên có văn bản. Dựa trên tất cà các thành tựu nghiên cứu VHDG trong quá trình vận hành của một tác phẩm truyền miệng - tập thể giữa đời sống, người ta đã chi ra những nét đặc thù cùa văn bản một tác phẩm VHDG. Trên tạp chí Văn hoá dân gian số 3/1990, trong bài viết Một số vấn để li luận chung quanh việc nghiên cứu văn bán văn học dân gian, Trần Đức Ngôn đã sơ bộ nêu lên những đặc tính cơ bản nhất cùa văn bản VHDG, đó là: - Văn bản một tác phẩm VHDG là một liên văn bản (tác phẩm chuỗi). - Trong văn bản tác phẩm VHDG chứa đựng hai loại yếu tố: yếu tố bất biến và yếu tố khả biến. - Văn bản VHDG là một hệ thống mờ. về nguyên tắc, không có bài ca, bản kể cuối cùng. - Văn bản VHDG không mang cá tính sáng tạo. Phong cách nghệ thuật của nó là phong cách tập thể (phong cách tự sự dân gian, phong cách trữ tình dân gian,...). Cũng cần phải nhấn mạnh thêm: Văn bản VHDG là tác phẩm VHDG tồn tại ở dạng cố định, ở đầu nguồn sáng tạo, nó được xây dụng bằng ngôn ngữ của lời nói dựa trên cơ sờ các bộ công thức truyền thống theo nguyên 16 tắc có tính lặp lại (mẫu gốc, môtip, biểu tượng,...). Trong đó, các tầng nghĩa biểu hiện các giá trị tư tưởng thẩm mĩ dâni gian được chế định bởi tính truvền thống dân tộc. Các ý nghĩa truyền thống chi phát sáng trong các ngữ cảnh xã hội có tính quy phạm ổn định trường tồn dưới dạng các mã thâm mĩ. mã ngôn ngữ, mã văn hoá. Tìm hiêu tính dị bàn cùa văn học dân gian phái trên cơ sở thừa nhận các đặc điêm văn bản VHDG nói trên, có ý nghĩa khác biệt với văn bản tác phâm văn học viết. Trong đó, đặc trưng tính dị bản có nguồn gốc sâu xa ở đặc điêm thứ hai và được biêu hiện ra ở đặc điếm thứ nhất. Có thế nêu một ví dụ: Một truyện cổ tích được lưu chuyền từ địa phương này đến địa phương khác ờ những thời gian khác nhau, được kể lại bởi những nghệ nhân khác nhau, trong những ngữ cánh xã hội khác nhau và tất nhiên nó được ghi chép văn bàn hoá ở những không - thời gian khác nhau bởi những nhà sưu tập khác nhau. Kết quả là cái truyện cô tích ấy đã hiện tồn bàng một liên văn bàn. Trong đó, về lí thuyết, ở dạng đầy đù tác phẩm sẽ gồm bản gốc, các bản trung gian và bản mới. Dị bản là các bàn trung gian và bàn mới, hay còn gọi là “ bàn khác” (Nguyễn Xuân Kính). Khác với vấn đề tam sao thất bàn do có sự nhầm lẫn theo trí nhớ, những nét biến đồi khác biệt đề thích nghi, đổi mới ở đây hoàn toàn có thề lí giải khoa hợc bàng các lí do xã hội và lí do nghệ thuật. Trên thực tế nghiên cứu, người ta đã nhận ra có những biến đổi chi như một sự chinh lý đề gia tăng hiệu quà thâm mĩ, nhung cũng có những sự biến đồi phàn ánh một sự vận động mạnh mẽ cùa ý thức dân gian. Nó là kết quà cùa quá trinh đào thải, làm đầy, làm mới. Quá trình này diễn ra liên tục. thường xuyên trong đời sống sinh hoạt văn hoá dân gian. Nhờ đó, VHDG tự dổi mới. phát triển thích nghi và trường tồn mãi cùng với sự phát triền và đôi mới của môi trường hoạt động thục tiễn. Các nghiên cứu trước nay đã khăng định: “Tiến trình văn hoá xét cho cùng là sự thích nghi một cácn chủ động và có ý thức cùa con người với môi trường. Tiến trình văn hoá không ngừng hướng tới một sự thích nghi hoàn hào tức là một sự hài hoà tuyệt đối và lí tưởng giữa con người và môi trường. Nhưng sự hài hoà tuyèt đối và lí tưởng như thế chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ đạt tới” [Đhh Gia Khánh, Văn hoá dân gian là một nghệ ihuật nguyên hợp, in trong Vcư hoá dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu. Nhiêu tác già, NXB Khoa học xã hội, 1989, tr. 15]. Vi lẽ đó mà xuất hiện mâu thuẫn giữa sự chấp nhận 2-GTVt DÃN GIAN A 17 và chối bỏ, đề từ đó tìm cách kế thừa, đồi mới ngày càng đa dạng hơn, tinh vi hom để tiếp tục phát triển. Nhu chúng ta thấy: VHDG vừa là văn học vừa là văn hoá. Quy luật vận hành các tác phẩm văn học dân gian nói riêng, của toàn bộ nền văn học dân gian nói chung nằm trong tiến trình văn hoá của dân tộc. Thế nên tính dị bản cùa VHDG nói chung cũng như số phận một tác phẩm VHDG trong quá trình dị bàn nảy sinh dị bản cũng là một sự vận động hợp quy luật. Đặc trưng dị bản cùa VHDG biểu hiện ở nhiều cấp độ. Có thể đó chỉ là một sự khác biệt trong cách gọi tên một truyện kể. DỊ bản có thể chi là một từ, một mô thức câu mở đầu một bài ca dao, nhưng dị bản còn nhiều khi nằm sâu trong các hình thức cấu trúc tác phẩm giữa các văn bản như là sự khuyết thiếu hoặc khác biệt một số chi tiết, tình tiết, môtip, hình ảnh, biểu tượng, các tầng cùa văn hoá cổ trong hình thức mới, các lớp xã hội lịch sừ từng được thu hút tự do xoay quanh môtip hạt nhân cốt lõi, các cách mở đầu và kết thúc,... Tất nhiên mọi sự biến đổi và thay thế nội tại một thực thể bao giờ cũng có giới hạn. Vượt qua giới hạn nhất định, dị bản trở thành một tác phẩm mới, thậm chí theo đó còn có cả sự chuyển hoá thể loại. Do đó, có thể nói tính dị bàn là một đặc trưng cùa VHDG. Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu bốn đặc trưng cơ bàn của VHDG. Trong một số công trình chuyên khảo, giáo trình khác, có thể chúng ta đã thấy có ý kiến gạt bò dặc trưng dị bản hoặc đặc trung nguyên hợp và thay vào đó là những đặc trưng khác theo quan điểm học thuật cùa người viết, như: tính thực hành, tính địa phương, tính truyền thống dân tộc, tính phổ quát quốc tế,... ỏ những góc độ khác nhau, dặc biệt ở góc nhìn sâu sắc về đặc trưng từng thể loại VHDG cụ thể, ta cũng có thể nhận ra ở mỗi quan niệm đó đều có cái hạt nhân hợp lí. Mọi sự khác biệt và phức tạp như thế đều có căn nguyên chù yếu từ chính sự phức tạp và rất khó nắm bắt cùa thực thể đối tượng nghiên cứu. Ill- VẢN ĐÊ PHÂN LOẠI TRONG NGHIÊN c ứ u VĂN HỌC DÂN GIAN Trên thế giới, folklore là đối tuợng khảo cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Người ta phân loại folklore từ nhiều góc độ tiếp cận với những mục đích học thuật khác nhau thành: folklore khoa học, folklore nghệ thuật, folklore lí trí, folklore tình cảm ,... 18 2.GTVH DẦN GIAN-8 Ờ một số nước như Mĩ, Anh,... đã có những nhà nghiên cứu đem các sáng tác dân gian truyền miệng sắp xếp hỗn hợp vào cùng với một số loại hình văn hoá, tín ngưỡng, phong tục khác nhau như là một tập hợp di sản truyền thống văn hoá phi vật thể để sử dụng làm các dẫn liệu, chứng cứ giải quyết các vấn đề dân tộc học lịch sử, nhân học vãn hoá và văn học trong văn hoá. Theo quan điểm này, folklore ngôn từ không phải là vãn học, mà là một loại hình thái ý thức xã hội đặc biệt gọi là tiền văn học. Ngược lại, ở nhiều nước khác như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc,... từ folklore nghệ thuật truyền miệng lại được quan niệm là một thể loại của nghệ thuật ngôn từ, là vãn học dân gian. Theo quan niệm học thuật này, người ta từng phân loại VHDG theo nguyên tắc kể thừa các cách phân loại kinh điển đối với nghệ thuật ngôn từ cùa Arixtốt và F. Hêghen. Ờ cấp độ khái quát nhất, VHDG cũng được chia thành các loại hình: tự sự dân gian, trữ tình dân gian và sân khấu dân gian. Tuy vậy, khi khảo cứu đến các thể (thể loại) để sắp xếp vào các loại (loại hình) của VHDG lại có vấn đề: Tục ngữ, câu đố, vè nên quan niệm thuộc loại hình nào ở trên. Ở Việt Nam, vào những năm 60 cùa the ki XX, các giáo trình đại học xếp các thể ấy vào một ô riêng gọi là những câu nói đúc kết kinh nghiệm thực tiễn. Năm 1974, Cao Huy Đinh, trong chuyên luận Tim hiếu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, đã đưa ra một bàng phân loại gồm bốn loại hình: văn học kể chuyện đời, văn học phô diễn tâm tình, văn học đúc kết kinh nghiệm thực tiễn và văn học diễn trò. Điều đáng lưu ý ờ đây là với VHDG, Cao Huy Đinh muốn đưa ra một loại hình đặc trưng khác với văn học viết bao gồm các thể lời nói nghệ thuật. Năm 1980, Phan Đăng Nhật công bố chnvên luận về VHDG miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, ông dụa hẳn vào phương thức diễn xướng để phân loại thành: văn học hát, văn học kể, văn học nói,... Trong một số bài báo chuyên biệt về phân loại VHDG cũng trong thời gian này của Hoàng Tiến Tựu, ông lại căn cứ vào những đặc điểm trội về kiểu tư duy trong các phương thức phàn ánh, phương thức biểu hiện để định loại: văn học nói - suy lí, văn học hát - trữ tình,... Năm 1983, trong giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Võ Quang Nhem cho rằng đã đến lúc phải xây dựng danh pháp thể loại và đây mới là vấn đề cơ bản nhất để VHDG Việt Nam có cách gọi tên các thể loại tương ứng với các thuật ngữ quốc tế như nó vốn có. Ông phê phán cách 19 gọi chung các tác phẩm văn vần tự sự trường thiên của các dân tộc là trường ca. Dựa vào đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật trên văn bản cố định, ông chia tách các trường ca thành hai thể loại: sử thi và truyện thơ. Năm 1991, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam tập I, dùng chung cho các trường đại học sư phạm, do Đỗ Bình Trị biên soạn được NXB Giáo dục xuất bản. Lần đầu tiên, vấn đề phân loại VHDG đã được tác giả phân tích, luận giải ti mỉ, công phu trên một khối lượng lớn các nguồn tài liệu lí luận cũng như tác phẩm VHDG trong nước và nước ngoài do điều kiện thực tế đã hội đù các yếu tố có thể. Để nêu lên thực tế cực kì phức tạp, khó khăn cùa công việc này, ông viết: Vì VHDG là một hiện tượng có tính chất quốc tế, người ta đã nghĩ đến việẹ xây dựng một khung phân loại chung cho VHDG toàn thế giới làm tiền đề và điểm xuất phát cho công việc phân loại trên tài liệu VHDG dân tộc. Tuy vậy, đến nay vẫn chưa có một sơ đồ giả thuyết chung nào được chú ý, chưa nói là được coi như đã đạt tiêu chuẩn đó. Thật ra giới nghiên cứu folklore quốc tế, khi đề cập đến vấn đề phân loại, thường chỉ giới hạn vấn đề ở việc phân ioại một thể loại nào đó thành những cấp độ dưới thể loại. Theo ông, cách làm này chi ’‘thuần tuý kinh nghiệm và có ý nghĩa thực dụng”. Nó thường dựa vào tiêu chí đề tài và chù yếu chi có tác dụng giúp người ta dùng để tra cứu. Cho nên, thực tế hơn là phải tiến hành xây dựng những nguyên tắc phân loại chung và dựa vào đấy để phân loại tài liệu VHDG dân tộc, chù yếu là xác định kết cấu thể loại cùa nó. Òng nhấn mạnh: Một định nghĩa thật sụ khoa học, hoàn chinh về một số thể loại VHDG nhất thiết phải khái quát được đặc trưng thể loại cụ thể cùa nó. Và lần đầu tiên, Đỗ Bình Trị đã chỉ ra bốn tiêu chí thể loại gồm các đặc trưng về hệ thống đề tài, về thi pháp đặc thù, về chức năng sinh hoạt - xã hội và về phương thức diễn xướng. Những tác phấm có sự tương đồng, sự thống nhất ở các tiêu chí trên sẽ được xếp vào một thề loại. Sự thống nhất như thế đã thể hiện một cách nhận thức khách quan về thể loại, bởi vỉ thề loại “là một kiểu hình thức nghệ thuật được hình thành một cách lịch sừ, ra đời do nhiệm vụ mà nghệ thuật đặt ra trong sự phản ánh những sụ kiện thực tế, trong sụ biểu hiện thái độ nhất định đối với thực tế”. Theo ông, nguyên tắc phân loại VHDG Việt Nam nên theo ba cấp: cấp thứ nhất trong phân loại vẫn theo cách “chia ba” gồm tự sự, trữ tình và kịch; cấp thứ hai là nhóm thể loại; cấp thứ ba là thể loại. Theo ông, do tính chất phức tạp riêng cùa VHDG, 20 nên đặt ra một cấp trung gian giữa loại và thể loại - đó là nhóm thể loại. Và những thề loại trong cùng một nhóm thể loại thường có những đặc trưng gần giống nhau. Trong trường hợp này, một đặc trưng nào đó trong bốn đặc trưng đã nói ở trên mà nổi lên như dấu hiệu phân biệt chính thì có thể lấy đó làm tiêu chí chung cho cả nhóm.Và dấu hiệu như thế thường là đặc trưng về thi pháp thể loại. Theo đó, ông cho ràng tục ngữ và câu đố có thể xếp vào một nhóm thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian. Bởi vì, cũng như việc phân loại văn học viết, cách “chia ba” cùa Arixtốt và F. Hêghen đã chặt chẽ đến mức bất cứ việc đặt thêm một loại nào nữa ghép vào nó cũng làm cho nó “cọc cạch”, dù là chi với một chút điều chinh. Với ý tưởng đi tới cùng trong việc phân loại VHDG, ông còn đưa ra các kiểu biến thể của thể loại và các biến thể trung gian. Các kiểu biến thề của thể loại ờ các thể lớn nhất như cố tích, ca dao đã từng được khoa học VHDG xác nhận. Các biến thể trung gian cũng là một hiện tượng khá phổ biến trong quá trình quan hệ qua lại giữa các thề loại và có tính lịch sừ cụ thể. Ket quả là trong khung phân loại VHDG Việt Nam của Đỗ Bình Trị, chi riêng loại hình tự sự (truyện kể, thơ ca kể chuyện và lời nói vần vè) đã đuợc chia thành 15 đơn vị ờ cấp độ thể loại thuộc ba nhóm thê loại, ơ loại hình trữ tình gôm 6 đơn vị thê loại thuộc hai nhóm thể loại. Cùng với ba thể loại thuộc loại hình kịch (chèo, tuồng đồ và những trò diễn dân gian), tổng số đơn vị thể loại trong toàn bộ hệ thống đã là 24 đơn vị. Như trên đã nói, đây là kết quà của cả một quá trình phân loại khoa học hết sức ti mi, công phu. về lí thuyết phân loại một đối tượng hết sức phức tạp như thế, tác giả đã luận giải rất mạch lạc, logic và có sức khái quát cao. Nhung chính ông đã viết: “Ve lí thuyết thì vấn đề có vè rành mạch như vậy đấy, nhưng trong thực hành nghiên cứu, vấn đề phân loại VHDU noi chung, ván dè phân loại các thể loại VHDU nói riêng luôn luồn có nhiều vướng mác” [Sđd, tr. 45]. Thế là chi trong khoảng nửa sau của thế kỉ XX, vấn đề phân loại khoa học VHDG Việt Nam đã được chú ý ngay từ khi văn học dân gian chính thức được quan niệm là một bộ phận cùng với bộ phận văn học viết hợp thành toàn bộ nền văn học dân tộc, và qua từng bước chuyển biến nhận thức về vấn đề này, khoa học VHDG Việt Nam đã đạt đến những thành tựu đinh cao. Nhưng như chúng ta đã nhận ra qua phần lược điểm ở trên, tình hình phân loại VHDG vẫn có những ý kiến và quan niệm khác nhau, thậm chí đối 21 lập nhau về các vấn đề cụ thể. Ví dụ ở cấp độ loại hình, nên chia bốn theo đặc trưng VHDG hay vẫn chia ba theo quan niệm VHDG là một loại của nghệ thuật ngôn từ. Và hai thể loại tục ngữ, câu đố - các thể loại lời nói nghệ thuật - có thoả đáng xếp chung thành một nhóm thuộc loại hình tự sự hay không? Đồng dao là một biệt loại ca dao hay là một thể loại riêng? Giai thoại là một thể loại VHDG hay là điểm nối giữa VHDG và văn học viết? Nên phân biệt truyền thuyết dân gian với truyện dịch ra từ các thần tích, thần phả như thế nào? v ề truyện thơ Nôm khuyết danh cũng như tuồng khuyết danh là VHDG hay văn học viết,... Thế nhưng cuộc sống và học thuật như “cây đòi” vẫn tiếp diễn. Và điều này là hết sức quan trọng đối với vấn đề nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường, đặc biệt đối với các bậc học phổ thông. Trong sách giáo khoa Văn 10 được viết sau hội nghị thay sách tại Hà Nội tháng 6-1990 (Chương trình 3B - CCGD), được sử dụng từ năm học 1990-1991 (tái bản lần thứ 8 năm 1998), chúng ta thấy trong bài Đại cương về văn học dân gian, các soạn giả đã bỏ qua cấp độ phân loại loại hình VHDG, chi giới thiệu 12 thể loại trong mục II với tiêu đề các thể loại văn học dân gian, và nhấn mạnh: Thể loại là đơn vị cơ bản của VHDG. Đó là các thể loại: thần thoại, sừ thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, chèo. Năm 2000, sách Văn 10 được chinh lý hợp nhất từ hai bộ sách Văn 10 - Phần Văn học Việt Nam do trường Đại học Sư phạm Hà Nội chù trì biên soạn và Văn học 10, tập 1 do Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì biên soạn, gọi là Văn học 10, tập 1, phần Văn học Việt Nam, được sử dụng từ năm học 2001-2002. Trong sách này, mục V cùa bài Đại cương vế văn học dân gian giới thiệu các thể loại VHDG vẫn giữ nguyên 12 tiêu mục đé giới thiệu cụ thề, nhưng đã có sự chinh lí đáng kể. Tên mục sữa lại là những thề loại chính. Các tiểu mục được giới thuyết rành mạch và có tính học thuật mới. Ở tiểu mục 2, sử thi được bổ sung gọi là sử thi dân gian. Ở tiểu mục 4, cổ tích được bổ sung gọi là truyện cổ tích. Ờ tiểu mục 7, nói về tục ngữ được bổ sung câu: Có thể coi tục ngữ là một thể loại triết lí dân gian. Đặc biệt, với hai tiểu mục 10 (về ca dao - thêm chữ dân ca) và 12 (về Chèo) được viết lại khác trước. Ờ đây, chúng được mờ rộng quan niệm: Ca dao - Dân ca gồm các thể loại trữ tình dân gian (?). Và ở mục 12, từ chỗ chi một thề loại chèo, nay đổi thành các thể loại sân khấu, 22 bao gồm các hình thức ca kịch như chèo, tuồng và một số trò diễn có tích truyện, nghĩa là đã bồ sung vào đây ít nhất là một thể loại nữa, đó là tuồng dân gian. Như vậy là đến sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000, số lượng các thề loại VHDG đã là một hệ thống mở mà theo chúng tôi nhận xét thì có lẽ là để rộng đường quan niệm. Năm 2006, chương trình sách giáo khoa Văn học 10 lại được thay thế bàng hai bộ sách cơ bàn và nâng cao cùng với tên gọi mới: Ngữ văn 10 được biên soạn theo hướng tích hợp ba phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Trong bài Khái quát vể văn học dân gian Việt Nam, phần viết về thể loại cũng gồm 12 tiểu mục cụ thể nhưng lại tiếp tục có sự điều chinh ở các tiểu mục 7, 8, 9 và 11. ở các tiểu mục 7 và 8, với hai thể loại tục ngữ và câu đố, đều được chinh sửa lại “là thể loại lời nói có tính nghệ thuật”. Ờ tiều mục 9 về ca dao dân ca, ngoài việc bỏ đi dấu gạch ngang để thay bằng một dấu phẩy giữa hai thuật ngữ ca dao và dân ca, các soạn giả còn đưa ra quan niệm có khác với sách trước. Nó không còn “là tên gọi chung các thể loại trữ tình dân gian” mà “là thể loại trữ tình bàng văn vần”. Ở mục thuật ngữ Truyện thơ được bổ sung là Truyện thơ dân gian và có cách gọi mới là “thể loại văn vần” thay cho cụm từ ở sách trước gọi là “những truyện kề bằng thơ”. Như vậy, trên đại thể, với văn học dân gian trong nhà trường đến thời điềm hiện nay đã có sự đồng thuận về cơ bản gồm 13 thể loại chính. Ngoại trừ thể loại gọi là trữ tình dân gian (ca dao, dân ca) và tên gọi thể loại tuồng đồ vẫn còn có những ý kiến khác, còn lại 11 thể loại: thần thoại, sừ thi dân gian, truyền thuyết, truyện cô tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, vè, truyện thơ dân gian và chèo đều đã nhất trí danh pháp. Và việc đặt cấp độ loại hình VHDG sang một bên trong bài Khái quát về văn học dân gian Việt Nam ở các cấp học phổ thông cũng là hợp lí và cần thiết. IV- VAI TRÒ CỦA THÉ LOẠI TRONG KHOA HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN Như trên đã nói, nếu lịch sừ văn học viết nói chung đều có cơ sờ chắc chắn để mô tả nó theo các quá trình từ thời ki, giai đoạn, chủ nghĩa, trường phái, trào lưu đến các tác giả, tác phẩm ở những toạ độ xác định, thì lịch sừ VHDG chi được mô tả bằng tiến trình phát triển cùa các thể loại - lịch sử. Tất nhiên cách làm này có cơ sở lí luận và thực tiễn đáng tin cậy, bời vì “từ thời viễn cổ, VHDG đã có sự gấn bó khăng khít và đặc thù với lịch sử” (M. Gorki). Mặt khác, nó cũng có tính khá thi do sự hình thành, lưu chuyển 23 và biến đổi của các hiện tượng VHDG về mặt lịch sừ của nó nhìn chung không có nhảy vọt, mà vừa có tính chất rộng lớn liên tục, vừa chậm chạp trầm lắng, ờ trên, phần lược điểm quá trình phát triển các thể loại VHDG Việt Nam đã cho thấy chi có thể quan sát được nó trên một đại lượng đo thời gian rất lớn. Trong đó, xét trên bình diện không gian văn hoá, không phải không thấy ờ đó có thể có sự đan dệt phức tạp nhiều quá trình chồng lấn hoặc nối tiếp nhau, hoặc xen kẽ nhau trong trạng thái song hành giữa các thể loại cùng tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau. Nhưng trên đại thể, xét trên bình diện thời gian văn hoá, ta vẫn thấy, như một quy luật, mỗi thể loại đều có quá trình nảy sinh và phát triển, nờ rộ và suy tàn. Con người thời cổ đại sống trong, sống cùng, sống với cái môi trường tự nhiên và xã hội buổi đầu mà ngày nay chúng ta gọi là hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỳ. Họ phải đối diện với rất nhiều thách thức cùa thực tại, và không ai khác, chính họ phải đáp ứng. Đối diện với cái nhò bé, mong manh hữu hạn cùa con người là cái khổng lồ, vĩnh viễn, vô hạn của tròn đất, núi sông khiến người ta sùng bái. Kịp đến khi bước vào ngưỡng cừa cùa văn minh thì chính cái tự nhiên câm lặng, dữ dội, bí hiểm, mênh mông, đầy bất trắc thuở ấy đã thúc đẩy tri tuệ con người phải phỏng đoán và hình dung, tường tượng và tái hiện,... Đỏ chính là nguồn gốc văn hoá của thần thoại. Khi con người bước vào thời đại đồng thau và sắt sớm cũng chính là thời điểm quá trình chế ngự và thắng đoạt tự nhiên cùa các nhóm xã hội có giới hạn buổi đầu đã đem lại cho con người những niềm hân hoan tột cùng sau khi họ vượt qua được vài ba thách thức đầu tiên. Cảm hứng sử thi xuất hiện và đó chính là khát vọng thần thoại được thăng hoa một cách có ý thức. Kế đến là những cuộc chiến tranh bộ lạc diễn ra thường xuyên. Sừ thi anh hùng và truyền thuyết ra đời, cuốn theo những mánh vỡ cúa "thần thoại một đi không trở lại”. Một hình thái kinh tế - xã hội mới được thay thế với ba thiết chế: gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Lí tưởng dân chủ thị tộc cũ xung đột gay gắt với hệ tư tưởng mới. Sự tự ngã nhận thức về số phận con người “bao giờ đến được ngày xưa” được trình bày lại một cách thần kì trong những giấc mơ cồ tích. Các thành tựu nghiên cứu VHDG trước nay đã khảng định: Thần thoại ra đời và chi phồn thịnh trong thời đại thần thoại. Sừ thi dân gian chỉ ra đời và toả sáng trong thời đại sử thi. Theo đó, thời đại anh hùng và ý thức dân tộc trưởng thành đè ra truyền thuyết anh hùng và nối 24 dài truyền thuyết lịch sử. Thế ncn nếu "xét riêng sụ phát triển cùa dòng tự sự dân gian, chúng ta sẽ thấy thái độ chọn lựa đối với thực tế trái qua con đường tự sự phản ánh khái quát những quá trình lịch sử cơ bản đến chỗ đi sâu dần vào quá trình lịch sừ cụ thế riêng biệt. Ờ những thể loại ra đời sau cùa tự sự lịch sừ dân gian, tự sự lịch sừ đã phân hoá ra thành những biến cố, hơn nữa đã khúc xạ thành những số phận cá nhân. Những biến cố và số phận cá nhân này đã được lựa chọn theo quan điểm của sự phản ánh và sự đánh giá những quan hệ xã hội” [Đỗ Bình Trị, Sđd]. Nếu xem xét sự phát triên cùa dòng trữ tình dân gian, tất nhiên sẽ thấy có sự phức tạp về mặt lịch sừ giữa các nhóm thê loại, bời sự quên lãng và đứt mạch không thể phục nguyên cùa ngôn ngữ thơ ca dân gian đã thất truyền. Thế nhưng nếu căn cứ vào thành tựu cùa các khoa học liên ngành đê tiến hành phân tích và luận giải trên một khối lượng tài liệu lớn về các câu hát, bài hát dân gian hiện đã sưu tập được thì có khả năng những đặc điềm có tính quy luật cùa các quá trình phát triên nội tại trong thế giới nghệ thuật ca dao cũng sẽ trở nên rành mạch, sáng tỏ. Như vậy, hiển nhiên trong khoa học về VHDG, vấn đề thể loại trớ thành lâm điếm cùa mọi vắn đề. Mỗi thề loại VHDG từ khời thuỷ đều được hình thành và đạt đến đinh cao trong những thời đại khác nhau, theo đuổi những mục đích khác nhau, phản ánh những phương diện xã hội - lịch sử rộng lớn khác nhau bàng những cung cách nghệ thuật biếu hiện ồn định, bền vững khác nhau và đều là một phạm trù lịch sử. Đặc điểm có tính quy luật này về số phận lịch sử cùa các thê loại VHDG cũng đã từng được V.Ia. Propp đề cập trong một công trình nổi tiếng của ông khi bàn về mối quan hệ cùa folklore với thực tại. Vai trò của thê loai trong khoa học VHDG còn cẩn phải đirợc xác định ở cấp độ sâu xét trên các đặc điểm về thi pháp thể loại. Tính đặc thù này biếu hiện trực tiếp trong việc xác định các tiêu chí phân loại thể loại VHDG. Cụ thể là nếu xét VHDG từ góc độ là một loại cùa nghệ thuật ngôn từ, sẽ nhận ra rang ở VHDG chi có sự khác biệt về thi pháp thể loại, nói rộng ra là phong cách thê loại. Đối với văn học viết, giữa các tác phẩm có cùng đề tài, chủ đề, cùng thuộc về một thể loại, và giả định còn được sáng tạo trong cùng một thời gian, không gian xác định nhung nếu là sàn phẩm của những tác giả khác nhau, chúng vẫn có sự khác biệt độc đáo về cấu trúc thẩm mĩ, về bút pháp và giọng điệu,... Ngược lại, ở VHDG, sự khu biệt giữa các tác 25 phẩm trong cùng một thể loại xét trên các góc độ tương đồng như thế hầu như lại thấy rất mờ nhạt. Với truyện cổ tích thần kì, tất cả đều tương đồng về hình thức cấu tạo cốt truyện, về phong cách biểu hiện, về nghệ thuật sắp đặt các tình huống, về cách thức mô hình hoá cấu trúc loại người mang tính quan niệm. Với bài ca trữ tình dân gian, mỗi mẫu đề tương ứng với một hệ thống các công thức truyền thống có giá trị sử dụng như một ngân hàng phương tiện và chất liệu nghệ thuật dùng chung. Với chèo sân đình, các đài từ, dù là ứng tác, cũng phải tuân theo cả một hệ thống các quy tắc của nghệ thuật trình diễn có tính chuẩn mực, ước lệ đến từng chi tiết, đối với từng kiểu loại nhân vật. Phương thức sáng tác tập thể - truyền miệng của VHDG đã quyết định phong cách thể loại của các tác phẩm VHDG. Không mang cá tính sáng tạo, VHDG không có phong cách cá nhân, không cỏ thi pháp tác gia như văn học hiện đại. Không phải là sản phẩm nghệ thuật của một tác giả, mà thân thế và sự nghiệp của người viết dù muốn hay không vẫn có mối quan hệ trực tiếp với một hoàn cành lịch sừ cụ thể, thế nên VHDG cũng không có phong cách thời đại, không có thi pháp thời kì, giai đoạn như văn học trung đại. Thừa nhận tính lịch sừ của thề loại VHDG, sẽ thấy được ở mỗi thể loại đều có sự ổn định bền vững điển hình về phương pháp lịch sử bời nó được sáng tạo theo nguyên tắc có tính lặp lại. Và chính đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt giữa hai hệ thống: thi pháp văn học viết và thi pháp văn học dân gian. Cả hai hệ thống thẩm mĩ này đều được hiểu là tổ hợp những đặc điểm về hình thúc nghệ thuật thành tạo nội dung và mang tính quan niệm. Nhờ nó mà văn học viết và VHDG xây dựng được những bức tranh về cuộc sống, sáng tạo những hình tuợng về con người và những hiện tượng khác nhau của thực tại một cách thẩm mĩ. Điểm khác biệt là ở nguyên tấc tư tường thẩm mĩ. Nếu thi pháp văn học viết là thi pháp văn bàn cố định và là kết quả sáng tạo bằng kĩ thuật của tác già cá thể, được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn điển hình hoá, thì thi pháp VHDG lại là sự tổng hoà của các yếu tố hình thức đặc trưng bằng sự vận động thường xuyên theo nguyên tắc lựa chọn khái quát hoá mà sự khái quát này chi được thừa nhận trong tính truyền thống dân tộc. Nếu thi pháp văn học viết nhấn mạnh yêu cầu cách tân trong sự sáng tạo cùa cá tính nghệ sĩ, chi chấp nhận “cái riêng biệt”, “cái mới lạ”, độc đáo theo xu hướng vượt ra khỏi cái gọi là kí ức thể loại, cái mô hình chung, thì thi pháp VHDG lại chấp nhận “cái quen thuộc”, 26 “cái lặp lại” đã trờ thành sờ hữu chung cùa mỗi thành viên trong cộng đồng, và hom thế nó đã trờ thành ki niệm riêng cùa cà một dân tộc. Hệ luận cùa vấn đề khác biệt thứ hai này là chính nó đã tạo nên các giá trị đặc sác và bền vững trong phẩm chất thẩm mĩ cùa hệ thống thi pháp thể loại VHDG: Tác phẩm VHDG mỗi lần được diễn xướng trong một ngữ cành xã hội nhất định và trong phong cách nghệ nhân đều được xem là một lần tái sáng tạo. Đó là sụ tái sáng tạo mà vẫn không xa lạ truyền thống, và không xa lạ mà vẫn không nhàm chán, vẫn hấp dẫn. Bởi vi cần phải hiểu “những đặc trưng cơ bàn cùa thi pháp VHDG được tập hợp xung quanh nguyên tác của tính lặp lại”. Và sự lặp lại đó chính là sự gặp lại, sự nhận ra, sự trở về với cái đẹp thuần khiết vốn đã được xem là chuẩn mực và được tích hợp trong trường liên tưởng ngữ nghĩa cùa một dân tộc. Đó là cái đẹp mà để cảm nhận được nó, người ta phải trở về trên những lối mòn, những con đường sâu kín tiềm tàng chứa đầy những chân lí cô thời đã được thừ thách cùng với thời gian. Có lê chính các nhà văn thời kì trung đại là những nghệ sĩ nhạy càm trước hết với điều đó. Không phài ngẫu nhiên “tác già thời Trung cồ rất ít khi muốn nghĩ ra được một cốt trụyện gì mới mẻ khác thường. Anh ta thường cố gắng diễn đạt theo cách mới trên một cốt truyện đã có sẵn... giòi đến mức che mờ nguyên tác” (B.L. Riptin). Và "nhà văn Trung cổ không sáng tạo ra những cốt truyện mà dường như chi kể lại và kết hợp lại những môtip xa xưa khi thì bằng văn xuôi, khi thì bàng thơ” (Gipxop). Và “đó chính là nguyên nhân tạo nên một số lượng lớn tác phẩm cải biên của cùng một số cốt truyện trong văn học Trung cồ ở phương Đông và phương Tây. Ờ đây, dễ dàng chấp nhận và thấy rang những cốt truyện mới thường được hình thành trong truyền thống văn học dân gian và từ đó đirợc các nhà văn vay mượn” (B.L. Riptin). Càng gần về thời ki hiện đại, sự cảm nhận và sử dụng như một “sự trở về” như thế trong văn học viết càng trở nên tinh tế, sâu sấc hơn. Trong một số trường hợp, sự vận động sáng tạo lại các giá trị tinh hoa truyền thống VHDG của các tài năng sáng tạo lớn trong lịch sử văn học Việt Nam đã khiến cho tác phẩm cùa họ chẳng những vào được sâu trong lòng người đọc Việt Nam, mà còn đứng vững được trong văn học nhân loại với một vị trí riêng độc đáo. Thế nên vấn đề không phải như trước nay có những người quan niệm về công thức truyền thống - tức là những yếu tố ồn định, điển hình, có tính lặp lại - chẳng qua cũng chi là biểu hiện 27 cùa một loại văn chương cùa tầng lớp văn hoá thấp ở vào cái thời chưa có chữ viết, chi là một cách thức để người ta dễ nhớ, dễ truyền. Trong xã hội hiện đại, một nhà folklore học hàng đầu cùa Mĩ hiện nay là A. Dundes cho rằng: Quan niệm người sáng tác văn học dân gian là người mù chữ trong một xã hội có chữ viết là một quan niệm cũ, không còn phù hợp. Đó là một quan điểm đã lỗi thời của các nhà folklore học châu Âu thế ki XIX. Trong công trình Ai là người sáng lác văn học dân gian, A. Dundes đã bác bỏ những định nghĩa mang tính kì thị đối với các tầng lớp thấp trong thế ki XIX. Sau khi dẫn chứng hàng loạt những mẩu chuyện dân gian đương đại Mĩ, ông viết: Người sáng tác VHDG trong những trường hợp này là những người biết chữ... không một ai là người sáng tác dân gian trong những ví dụ này là nông dân hoặc người ở tầng lớp thấp. Nhiều người chác chắn là những người thành thị và thuộc tầng lớp trung lưu. cần phải nói rõ như vậy nếu người nào đó quan tâm có những phân biệt như vậy hoặc áp dụng cách gọi như vậy. Thực tế có người sáng tác dân gian thành thị và cũng có những người sáng tác dân gian nông thôn. A. Dundes còn bàn đến các sáng tác folklore trong mối quan hệ với các phương tiện truyền thông hiện đại. Theo ông, các công nghệ hiện đại như điện thoại, radio, tivi,... chi làm tăng thêm tốc độ lưu truyền mà không hề làm biến mất văn hoá - văn học dân gian hiện đại. Trong các ví dụ về VHDG đương đại Mĩ ờ một số bài viết khác của A.Dundes cũng cho thấy vẫn chứa đầy những yếu tố lặp lại. Sự lặp lại đó mới chính là đặc điểm cùa cách thức biểu hiện tư tường thẩm mĩ folklore. Và cách thức đó đã trờ thành nguyên tắc sáng tạo đặc thù của thi pháp VHDG, tạo nên những hình thức cấu trúc thẩm mĩ ổn định, bền vững trong từng thể loại VHDG. Do đó, nếu việc nghiên cứu tiến trình phát triển của VHDG cần thiết phải tim hiéu vấn đề “lịch sử - thề loại” (Cao Huy Đinh), thì việc nghiên cứu một tác phẩm VHDG đòi hỏi phải đặt nó vào trong một thể loại - lịch sử (Đỗ Bình Trị). Thế nên để khảng định vai trò của thể loại trong khoa nghiên cứu VHDG, chúng ta không thể không lưu ý đến các ý kiến sau đây của V.Ia. Propp khi ông khàng định “Chừng nào mà những đặc điểm thể loại chưa được nghiên cứu hoặc dù chi là được phác qua thôi, thì chưa thể nghiên cứu đuợc từng tác phẩm nằm trong cơ cấu thể loại ấy”, bởi vì trong khoa học VHDG “Thể loại là đơn vị cơ bản mà mọi nghiên cứu đều phải xuất phát từ đỏ” [V.Ia. Propp, Tuyến tập, Tập II, Folklore với thực tại, 28 Nhóm Chu Xuân Diên dịch. NXB Văn hoá dân tộc và Tạp chí Văn hoá xuất bàn, H„ 2004, tr. 473,474], V- QUÁ TRÌNH PHÁT TRIẾN HOÀN THIỆN CÁC THẾ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM 1. Thời kì dựng nước Nhìn chung, các nhà nghiên cứu văn hoá và lịch sử Việt Nam quan niệm thời kì dựng nước là từ thời đại các Vua Hùng đến giới hạn sự thành tạo Nhà nước Âu Lạc - từng được đánh giá là một trong các nhà nước cổ đại hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, đề có cái nhìn bao quát toàn cảnh văn học dân gian thời kì này, cân phải đây các nghiên cứu về trước thời kì Hùng Vương. Ngày nay, các chứng tích khảo cô học và nhân học văn hoá đã cho phép chúng ta hình dung được ít nhiều về nguồn mạch giống nòi, về đời sống tồ tiên ở những lóp sâu nhất đã được huyền thoại hoá. Đó là các huyền thoại đầu tiên về người không lồ kiến tạo và sau đó là các cặp đôi: ông Đực bà Cái, ông Đùng bà Dà, ông Din bà Nhà, ó«g Chày bà Chày, ông Thu Tha bà Thu Thiên,... chống trời san núi, lấp bể dào sông, đè đất đẻ nước. Đó là các huyền thoại về Bổ Rồng Lạc diệt trừ Mộc tinh, Ngư tinh, Cừu vĩ hồ tinh, ... để mở mang địa bàn sinh tụ. Và sau đó đã đến lúc tất cà các huyền thoại từ vô số những truyện kể về một quà bầu mẹ đến các mẫu kể về ba cái trứng thiêng dều được quy về một mối, thành ra câu chuyện hôn nhân kì thú giữa Vua Rồng xứ Lạc với Mẹ tiên Âu Cơ đè ra đồng bào ta trong bọc trứng trăm con. Thế rồi, cũng thật kì lạ trong số ấy, Hùng Vương thứ nhất lại chính là người con trưởng. Đất nước núi sông lương hạp, mẹ ở lại rừng, cha về phía biển. Những cuộc thiên di từ rừng núi về đông băng diễn ra cùng với sự nghiệp cài tạo đầm lầy, quai đê, lấn biển, làm ruộng nước. Bắt đầu từ điếm đột biến này, quá khứ Việt cổ thời tiền sử đã được truyền thuyết hoá. Từ đây, sẽ thấy toàn bộ hành trình lịch sử không thành văn bản đầy bí ẩn, huyền bí và thơ mộng ấy bắt dầu vận động theo xu thế lịch sử hoá, anh hùng hoá, dân tộc hoá. Trong đó, các huyền thoại kể từ sự kiện suy tôn Hùng Vương thứ nhất trở về trước trờ thành lớp sâu nhất trong “tập đại thành” mở đầu cho khoáng trên dưới 200 mẩu chuyện kể mà ngày nay chúng ta còn ghi chép lại được qua các đời, gọi chung là truyện họ 29 Hồng Bàng và truyền thuyết Hùng Vương. Thần thoại Việt cổ đích thực về cơ bản đã thất truyền, nhưng cái tinh thần của nó đã được thăng hoa thành truyền thuyết. Chính bộ phận này được gọi là những truyện kể dân gian cùa thời kì dựng nước. Phần còn lại trong số đó phải gọi là truyện ve thời kì dụng nước. Và phần lớn tác phẩm về thòi kì này chắc chắn đã được tái tạo lại trong suốt thời kì Bắc thuộc và buổi đầu nhà nước phong kiến độc lập tự chủ. Đó là lớp thứ hai gồm các truyện kể đời sau về thời kì dựng nước và lớp thứ ba bao gồm các truyện kể về những chiến công giữ nước buổi đầu. Trong đó, đứng đầu nhóm thú hai là chuỗi truyện kể về người anh hùng trị thuỷ Sơn Tinh, đứng đầu nhóm thứ ba là chuỗi truyện kể về người anh hùng làng Gióng. Ngoài ra, còn phải tính đến lớp thứ tư gồm những truyện cổ tích đã được chuyển hoá từ truyền thuyết: truyện kể về Lang Liêu hay là Sự tích bánh chưng bánh giầy, truyện kể về Mai An Tiêm hay là Sự tích quà dưa hau, truyện kể về Chừ Đồng Từ hay là Sự tích Đầm Nhất Dạ, Bãi Tự Nhiên,... Và sau đó là điểm nối Văn Lang — Âu Lạc với truyền thuyết về các cuộc chiến tranh Hùng Thục, về truyện chàng rể Sơn Tinh khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán. Có thể xem truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thuỳ là một bản lề khép mờ, vừa có những dấu mốc khép lại VHDG về thời kì dựng nước, vừa mở ra một trang mới. Ở lớp truyện thứ tư, những vấn đề rạn nứt trong quan hệ vua - tôi, cha - con biểu hiện trong đơn vị gia đình tuy vẫn còn mang đậm ý nghĩa rộng lớn quốc gia - dân tộc, nhưng đó chính là dấu hiệu xu thế cổ tích hoá đã nổi đậm. Trở lên trên, có thể thấy sự hình thành nền tự sự dân gian thời kì dựng nước khá rành mạch, sáng tỏ. Sự khuyết thiếu sứ thi người Việt cố đã thôi thúc mấy thế hệ nhà nghiên cứu VHDG Việt Nam tìm kiếm. Có ý kiến cho rằng Đẻ đắt đè nước trước khi là sử thi thần thoại Mường đã là sử thi Mường - Việt cổ. Lại có ý kiến cho rằng âm vang sử thi anh hùng Việt cổ vần còn dư hưởng trong các huyền thoại về các nhân vật “anh hùng văn hoá” dựng nước, trong các truyền thuyết đánh giặc giữ nước, tiếc rằng chúng ta đã không có một Hôme. Dù sao thì cũng có thể khẳng định: Từ ý nghĩa không thể diễn tả hết được bằng lời qua các “hình khắc câm lặng mà như muốn nói năng” chạm trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Đông Sơn,... 30 từ ý nghĩa được càm nhận ra cùa nhiều thế hệ qua các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp nhiều đời trong các Lễ hội Đền Hùng, Hội Rô, Hội Gióng,... có thể khang định vào thời cổ, tổ tiên ta đã từng có những diễn xướng anh hùng ca và các hình thức sinh hoạt ca hát dân gian. Huyền thoại về sự ra đời thể hát xoan Phú Thọ, vẫn còn được kể lại, những hình thức lao động cổ xưa vẫn còn được diễn lại, nhưng những câu hát cổ xưa, những bài ca nghi lễ tế thần, nghi lễ lao động cổ xưa cùng những câu tục ngừ thời ấy thì về cơ bản đã bị thất truyền. 2. Thời kì Bắc thuộc Đây là thời kì nền vàn hoá cơ tầng Việt cổ đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Nhà nước Âu Lạc vừa rơi vào tay Triệu Đà, đất nước bị chia cắt thành hai quận là Giao Chì và Cửu Chân. Nhà Tây Hán chiếm nước Nam Việt của họ Triệu, lại hợp nhất thành lập Giao Châu và chia cát thành 7 quận, 50 huyện. Đến thời Đông Hán. mưu toan đồng hoá của kè xâm lược tiếp tục lộ rõ trong việc san định tiếp bàn đồ địa - hành chính: Giao Châu đuợc mờ rộng gồm cả vùng Lưỡng Quàng, Hải Nam thành ra 9 quận dù vẫn lấy Long Biên làm lỵ sở. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, Mã Viện đàn áp hàng trăm Lạc hầu, Lạc tướng và cướp đi tới 600 trống đồng đem về nấu chảy để đúc ngựa chiến dâng nộp triều đình nhà Hán nhằm “báo công lĩnh thưởng”. Thật ra, việc làm đó cũng không ngoài mưu toan quét sạch gốc rễ văn hoá trời Nam. Từ Mã Viện đến Sỹ Nhiếp dần xoá bỏ chế độ Lạc hầu, Lạc tướng, thiết lập thứ sử, thái thú, huyện lệnh,... áp đặt văn hoá cùa kè xâm lược. Các thiêt chế xã hội cùa các đế chế Hán, Đường từng bước trùm lấp, chèn ép văn hoá Đông Sơn. Nhiều trống đồng đã bị lật ngừa lên làm chậu thau trang trí hình cá và hình tiền đồng Hán. Nhưng đó chì là những biểu hiện bề mặt. Sau hàng trăm năm đô hộ cùa nhà Hán nơi dal Việt, chính sách vờ của kẻ xâm lược như Tiền Hán thư, Hậu Hán thư vẫn phải thừa nhận phong hoá Giao Chỉ vẫn không theo lễ giáo Trung Hoa, tiếng Hán vẫn không thay thế được tiếng Việt. Cuộc đô hộ ngàn năm ấy vẫn chi là tạm thời, vì nó chì có bề dài chứ rất hạn chế về bề rộng và chưa bao giờ có được bề sâu. Đúng như đầu thế k¡ XX có một học giả phương Tây từng nhận xét: Qua Bắc thuộc, nước Việt vẫn như một toà nhà chi bị thay đổi mặt tiền mà không hề bị thay đồi cấu trúc bên trong. Trong bối cành 31 ngàn năm ấy, văn hoá Đông Sơn với truyền thống dãn gian và bàn sắc Việt vẫn bám rễ sâu trong cơ cấu làng Việt, chan hoà trong đời sống văn hoá dân gian. Trong đỏ VHDG vẫn tiếp tục phát triển và đóng vai trò hết sức quan trọng, tích cực tham gia vào nhiệm vụ đề kháng sự đồng hoá cùa văn hoá Hán, củng cố và nâng cao ý thức lịch sử dân tộc, khẳng định sức sống và bàn lĩnh Đại cồ Việt. VHDG thời kì này thật sự là thành trì bất khá xâm phạm cùa tiếng mẹ đẻ, gắn liền với vãn hoá làng Việt sau lũy tre xanh. Hiển nhiên, trước hết, có thể nói là mạch nguồn của đạo lí yêu nước và bán lĩnh bất khuất trước các the lực ngoại xâm từ người anh hùng làng Gióng vẫn chày suốt ngàn năm trong hệ thống truyền thuyết lịch sử nói riêng và toàn bộ dòng văn học tự sự dân gian. Sau Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là truyền thuyết về sự nghiệp của Trưng Nữ Vương và cả một chuỗi truyền thuyết về các nữ tướng của Hai Bà. Tiếp đó là sự bùng nổ thể loại truyền thuyết lịch sử dọc theo dòng sự kiện, từ cuộc nổi dậy của Bà Triệu (đầu thế ki III) đến các cuộc khởi nghĩa xưng vuơng của Lý Bí và Triệu Quang Phục (cuối thế kỉ VI), Mai Thúc Loan (đầu thế ki VIII), Phùng Hưng (cuối thế kỉ VIII),... Các đấng thần linh trên điện thần người Việt như: Tản Viên Sơn Thánh, thần Long Đỗ hay thần sông Tô Lịch, thần Cao Lỗ, Lý Ông Trọng,... cũng nổi giận cùng con cháu mà hiển linh đánh giặc. Nhiều huyền thoại được kể từ thời Văn Lang - Âu Lạc đã được kể lại thành truyền thuyết. Tất nhiên, trong xu thế giao thoa vãn hoá Việt - Hán, nhiều danh xưng thần bản địa đã bị Hán hoá, nhưng sự thờ cúng các anh hùng chống xâm lược và bảo vệ văn hoá Việt vẫn ngày càng phát triển cùng các lễ hội dân gian. Truyền thuyết khơi nguồn lễ hội, lễ hội nuôi dưỡng, chắp cánh truyền thuyết. Đó lá dáu nối quá khứ oai hùng cùa cả một dân lộc da lừng có “đát đai linh thiêng, nhân dân anh hào” trong thực tại đau thương và anh dũng. về diễn trình VHDG thời kỉ Bắc thuộc, còn phải kể đến một dòng chảy khác. Đó là hệ thống truyện tự sự xã hội. Đã có những nhà nghiên cứu khẳng định rất có thể các truyện cổ tích thần kì về người mồ côi, người em, người con riêng, mà nội dung cùa nó gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và gia đình riêng lẻ, đã xuất hiện trong thời kì này. Như trên đã nói, cơ sờ hiện thực này sinh thể loại này chắc chắn đã có dấu hiệu từ cuối thời kì Văn Lang — Âu Lạc với sự xuất hiện hiện tượng cổ tích hoá truyền thuyết 32 (Lang Liêu, Mai An Tiêm, Chứ Đồng Tư, Trầu Cưu, ...), có ý nghĩa mở đầu ý thức phản kháng bất công xã hội, bênh vực và lí tưởng hoá theo truyền thống dân chù thị tộc thuộc về thời Việt cổ. Đến thời kì này, với sự chuyển hoá cùa đời sống kinh tế - xã hội người Việt trong suốt quá trình tiến hoá theo các thể chế xã hội phong kiến ngoại bang trài mười thế kỉ, chắc chắn sự phân hoá giữa các tầng lớp, đẳng cấp trong dời sống Việt càng ngày càng sâu sắc. Một bộ phận người Việt ở tầng lớp trên chấc chắn đã chịu sự ảnh hường văn hoá gia đình phong kiến Hán - Đường. Như một quy luật phổ quát, khi gia đình phụ quyền theo chế độ dòng cha nảy sinh mâu thuẫn về quyền lợi giữa các thành viên trong việc thừa kế tài sản thỉ các nhân vật cổ tích như kiều người em trong truyện Cây khế, người con riêng trong Tấm Cám, người mồ côi trong Thạch Sanh,... xuất hiện. Có điều đáng lưu ý là cho đến tận ngày hôm nay, khi tim hiếu những truyện cổ tích thần kì của người Kinh cũng như của các dân tộc anh em, hầu như hoàn toàn không thấy có sự ảnh hường của văn hoá Hán. Chi có thể nhận ra ở đây ít nhiều một vài sự thẩm thấu của các yếu tố văn hoá ngoại sinh có nguồn gốc phương Nam (Thạch Sanh, Sọ Dừa, Trầu Cau,...). Và điều đặc biệt đáng ghi nhận ở đây là chính trong ý nghĩa toát ra từ những lớp giao thoa văn hoá như thế lại biểu hiện rất đậm đà sắc thám tâm hồn Việt. Không gian cổ xưa cùng những sự kiện, tình tiết chính trong những tác phẩm ấy vẫn đậm đà truyền thống công xã nông thôn nơi làng Việt. Cái sấc thám tâm hồn Việt ấy trong những giấc mơ cổ tích đẹp đẽ ấy chắc chẩn cũng đã đượm thấm trong dân ca - ca dao thời kì này như là một sự nối dòng sinh hoạt ca hát dân gian đã sớm bừng nờ từ thời các vua Hùng. Trong đó, tục kết Chạ (được các nhà nghiên cứu đoán định ra đời từ thời kì này) với các lối hát gắn với chợ quê, bén đò, nơi ruộng đồng gò bãi,... đã sinh thành, dẫu còn đơn giản và có tính địa phương. Điều này là hoàn toàn có thể, khi mà theo sách Giao Châu kí, thời bấy giờ, ở nông thôn đã thấy trẻ mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo và hát các bài đồng dao của người Việt. Hình thức sân khấu kịch hát dân gian như các trò nhại, trò diễn có tích cũng đã xuất hiện. Các nhà nghiên cứu sân khấu dân tộc đã phỏng đoán như thế. Bởi lẽ ngay sau thời kì này, vào đời nhà Đinh (968-981), trong triều đã có chức Ưu bà để dạy múa hát trong quân đội. Tương truyền, bà Phạm Thị Trân, là người được vua Đinh phong cho chức này, cũng là một trong những vị tổ của nghề hát chèo. Nếu 3.GTVH DÀN GIAN-A 33 quả đúng như thế, chắc hẳn VHDG của người Việt thời kì Bắc thuộc đã khá phong phú về thể loại và các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của nhân dân vẫn ngày càng phát triển. 3. Thời kì phong kiến độc lập tự chủ Nhà nước phong kiến Việt Nam thời kì độc lập tự chủ mở đầu sau sự kiện Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, xưng vương và trở về với kinh đô c ổ Loa, hàm ý nối nghiệp xưa Âu Lạc từ cà ngàn năm trước. Trải qua các đời Đinh, Tiền Lê đến sự ra đời Vương triều Lý, thế nước bắt đầu ổn định sau sự kiện Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Văn bàn Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu, 1010) ra đời, đánh dấu sự mở đầu văn học viết dân tộc. Theo quy luật phổ biến diễn ra ờ các nền văn hoá nhiều dân tộc khác trên thế giới, sau khi nền văn học viết xuất hiện, VHDG vẫn tiếp tục đời sống của nó nhưng có sự tách bạch trên nhiều phương diện từ lí do sáng tạo đến cơ sở tư tưởng, từ nguyên tắc phàn ánh đến quan điểm thẩm mĩ. Ờ Việt Nam, tình hình song hành hai bộ phận này có những đặc điểm riêng. Để nhận thức thật rành mạch về vấn đề này, cần phải tìm hiểu sự phát triển các thể loại VHDG trong suốt thời kì tự chù trên hai chặng lớn: từ thế ki X đến thế kỉ XV và từ thế kl XVI đến giữa thế kỉ XIX. Chặng lớn thứ nhất có thể gọi là giai đoạn năm thế ki xây dựng và bảo vệ nhà nước Đại Việt. Không phải ngẫu nhiên, trong khi nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn sử dụng văn tự Hán làm chữ viết chính thức, trong khi thơ văn Lý - Trần đều được sáng tác bằng chữ Hán, nhưng sinh hoạt VHDG vẫn có chỗ đứng trong cung đình (truyện Tuý Tiêu, Hà Õ Lôi, Từ Thức, Trương Chi....) và toàn bộ di sản tự sự dân gian cùa hàng ngàn năm trở về trước lại được các học giả tri thức sưu tập, biên soạn lại bằng chữ Hán. Bên cạnh các phần được gọi là Ngoại ki trong các bộ Đại Việt sử kí (Lê Văn Hưu, 1272), Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên, thế kl XV) có thề xứng đáng gọi là những công trình sưu khảo nồi tiếng, còn có những tác phẩm truyền kì. Đó là Việt điện u linh (thời Trần), Lĩnh Nam chính quái được Trần Thế Pháp khởi xướng từ thòi Trần đến Vũ Quỳnh, Kiều Phú thời Lê kế tiếp nhau biên soạn. Đây là giai đoạn phồn thịnh cùa thể loại truyền thuyết lịch sử. Dựa hẳn vào nguồn truyện kể nơi nơi truyền tụng, tất cà những “truyện cũ viết lại” này đã từng bị “sương mù thời gian bao phủ”, từng được 34 3.GTVH DẦN GIAN B huyền thoại hoá hoặc bị xuyên tạc bởi “sách vở ngoại bang” đã được kể lại một cách hệ thống. Đây là cách khảng định, xác định, tự ngã nhận thức toàn bộ “nền văn hoá buổi đầu”. Trong đó chính sử L ý -T rầ n và nhân dân đều có cùng niềm cảm hứng. Hơn thế, ờ chặng đầu này, trong suốt năm thế ki sôi động với sáu cuộc chiến tranh giữ nước, cùng rất nhiều chiến công hiển hách,... mới chính là cái nền hiện thực luôn tươi rói, cuộn chảy ào ạt sức sống hào hùng của dân tộc và thời đại. Truyền thuyết nối tiếp truyền thuyết, lớp này qua lớp khác kết thành từng chuỗi: từ truyện kể về Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn đến Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Tuệ Tình, Chu Văn An,... Ớ đây, tài năng, đạo đức, nhân cách văn hoá Việt cứ liên tục kết tinh, toả sáng trên mọi phương diện của đời sống. Ở đây, các nhân vật chính đều là các anh hùng dân tộc theo quan điếm chính trị nhân bản, dân là gốc. Họ có thể có dòng dõi hoàng tộc trâm anh thế phiệt, nhưng cũng có thể là những người xuất thân đầu trần chân đất, chăn trâu đan sọt, chài lưới đánh cá. Tất cả đều gắn bó số phận với nhân dân, thành bại và bất từ trong lòng dân. Cũng trong giai đoạn này, còn phải kể đến một khối lượng lớn gồm các truyền thuyết địa danh - một biến thể cùa truyền thuyết lịch sử. Có thể coi đây là ý thức dân gian định vị hành chính để cùng cố cộng đồng làng Việt. Chắc chắn ràng, văn hoá làng Việt Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hình thành từ thời Vãn Lang dã được hoàn thiện qua ngàn năm Bắc thuộc, đến thời đại Đại Việt nó đã phát huy sức mạnh to lớn vào các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đe rồi sau mỗi cuộc binh đao khói lừa, những sự kiện bi tráng và hào hùng gán với tên tuổi và công tích của các hào kiệt muôn phương lại được khấc tạc không chi trong các thần tích, thần phả trong quá trình hao phong hách thân cùa nhà nirác phong kiên mà trirórc hết còn được lưu giữ trong mỗi tên đất, tên làng. Từ đầu thế ki XIII, nhà Lý 'suy vong. Nhiều nơi đã có những cuộc nổi dậy của nông dân. VHDG đặc biệt nhạy cảm với các vấn đề bức xúc, các cuộc đấu tranh xã hội. Thể loại truyện cổ tích đã xuất hiện từ thời Bắc thuộc, nay có điều kiện lại được lưu truyền rộng rãi với một chất lượng mới. Tất nhiên, khát vọng đặc trung cho sự đổi đời và hạnh phúc trong thế giới nghệ thuật cổ tích vẫn là sự lên ngôi hoặc được kết hôn, song trong điều kiện ý thức dân gian đã phát triển ở trinh độ mới do sự tiếp biến chủ động của văn hoá bản địa với vãn hoá ngoại sinh, thì nhiều vấn đề tín ngưỡng, 35 phong tục, nếp xưa đã được khúc xạ theo những cách hiểu mới. Những vấn đề bất công xã hội nếu thời kì trước được lí giải theo quan điểm dân chủ thị tộc, thì đến giai đoạn này ít nhiều đã mang ý nghĩa đấu tranh giai cấp. Nhân vật chính của cổ tích thần kì vốn tượng trưng cho đạo đức trong sáng của xã hội thời cổ đã chuyển hoá, trở thành những biến thể khác nhau và đều mang tính chất của một giai tầng lao động bị áp bức. Đã có những công trình chuyên khảo khàng định những truyện như Trầu Cau, Chừ Đồng Tử ở dạng cồ tích và Thạch Sanh, Tấm Cám, Cây khế, Sọ Dừa,... đã được hoàn thiện trong giai đoạn này. Ngày nay, khi giới nghiên cứu VHDG đã có điều kiện sưu tập được những khối tài liệu lớn về VHDG của các dân tộc thiều số anh em trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam, đã có điều kiện phân tích, so sánh giữa các tác phẩm cổ tích có cùng kiểu dạng, sẽ có thể nhận ra những đặc điểm trong các truyện cổ tích thần kì cùa người Việt đã có sự ảnh hưởng sâu sắc bời văn chương bác học về phương diện kết cấu tác phẩm và nghệ thuật lời văn. Đó là dấu hiệu cho thấy đã có sự trờ về với VHDG cùa một bộ phận trí thức phong kiến hoàn toàn khác với sự tìm kiếm cội nguồn dân tộc trong niềm cảm hứng truyền thuyết. Chi có truyện cổ tích mới có thể giải toả được những ẩn ức trong bề sâu của sự chiêm nghiệm trước những vấn đề cùa tỉnh thức, và sau đó là trước những vấn đề của số phận. Nhà nước phong kiến Đại Việt phát triển đến đinh cao vào khoảng giữa thế kì XV, thế nhung trong nừa đầu thế ki này, người ta có thể thấy rất rõ ngay sau cám khái truyền thuyết trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, đã có thể nhận ra nỗi niềm cồ tích phàng phất trong Quốc âm thi lập cùa cùng một người viết. Thông qua các thể loại khác của VHDG giai đoạn này cũng có thể đoán định được khá chấc chan m ối quan hệ khăng khít và đặc thù giữa văn học dân gian và văn học viết. Đó là có thể căn cứ vào những phẩm chất đặc sắc dân tộc trong Quốc âm thi lập, Hồng Đức quốc ám thi tập (thế kl XV) và sau đó là Bạch Vân quốc ngữ thi lập (thế kl XVI) về phương diện ngữ liệu VHDG để khẳng định thể loại tục ngừ ở giai đoạn này đã đặc biệt phát triển. Và từ mối quan hệ thể loại có tính quy luật giữa lục ngữ với truyện ngụ ngôn dân gian, có thể nói nguồn ngụ ngôn dân gian bằng cả văn xuôi và văn vần tiếng Việt ở giai đoạn này chác cũng đã khá dồi dào. Như trên đã nói, do đặc điểm nội dung phản ánh của hai thể loại này thường không biểu hiện trực tiếp các mối quan hệ folklore với thực tại cho nên nó rất ít khi để lộ ra 36 những dấu hiệu toạ độ lịch sử. về sinh hoạt ca hát dân gian, chắc chắn từ thời Lý -Trần đã phát triền không chi dân ca mà cả sân khấu diễn trò và nhiều hình thức tạp kĩ khác. Ngày nay, các nghiên cứu về lễ hội dân gian đã cho biết nếp sống hội hè lễ tết kết bện có tính chu kì trong nhịp điệu mùa màng cùa nhân dân từ thời kì đầu của Nhà nước phong kiến Đại Việt đã phát triển phồn thịnh. Nói một cách tồng quát, suốt năm thế ki đến trước khi nhà Lê bát đâu phân biệt văn hoá dân gian với văn hoá cung đình (1492) thì sinh hoạt văn hoá cung đình vẫn chan hoà với các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tồng hợp của nhân dân. Trong bối cảnh đó, các hình thức như hát Ai Lao ờ làng Phù Đồng gắn với Hội Gióng, hát dặm Quyến Sơn ờ Hà Nam gắn với nghi lễ thờ Lý Thường Kiệt, hát chèo chài - Hoằng Quỳ ở Thanh Hoá gắn với việc thờ cúng Lê Phụng Hiêu,... chẳc chắn vừa là môi trường nuôi dưỡng sức sống cho truyền thuyết anh hùng, vừa là điều kiện hội nhập các lễ hội văn hoá với các lễ hội lịch sử đê tiếp tục thu hút và sáng tạo ngày càng phong phú các bài hát sinh hoạt dân gian ờ các biến thề khác nhau. Ngày nay, chẳng hạn chi với một loi hát trống quân, trong dân gian vẫn còn lưu giữ ớ bốn trung tâm với bốn biến thế: Trống quân Đức Bác - Phú Thọ gan với sinh hoạt nông nghiệp, trống quân Dạ Trạch - Hưng Yên gắn với sự tích Chừ Đồng Từ, trống quân Thanh Hoá gắn với tục hát trung thu, trống quân Thuận Thành - Bắc Ninh đằm thẳm giao duyên. Nếu chi tìm hiểu qua lời hát, qua trình độ nghệ thuật tiếng Việt trong từng câu lục bát trống quân thì khó có thể nhận ra đây là lối hát đã ra đời từ trong đời sống sinh hoạt của những người lính anh hùng thời Trần thế ki XIII, và nó chỉ mới thực sự phổ biến ra chốn dân gian đời thường vào đầu the kỉ XV trong cuộc khởi nghĩa giành lại dộc lập dân tộc cùa nghĩa quân Lam Sơn. Các nhà nghiên cứu âm nhạc dản gian đã chứng minh lối hát này từng chuyền hoá từ già giao duyên (người nam đóng giả nữ), giả trống phách (gõ vào xoong nồi, gõ vào mạn thuyền) đến hình thức giao duyên đối đáp nam nữ bằng nhịp trống đất trên bãi cỏ xanh đã trải qua được hai thế ki. Ngày nay, nghe trong lời hát trống quân trừ tinh, đằm thắm dường như vẫn còn nguyên cái chất lính sôi nổi, khoè khoắn xét trên góc độ âm nhạc là vì thế. Trên bình diện chung, tính tập thể trong sinh hoạt ca hát dân gian giai đoạn này cũng chác chắn đã có chất lượng mới bời vai trò của những cá nhân xuất sắc ngày càng nổi bật. Đã có những công trinh nghiên cứu đáng tin cậy về sự phát triển của dân ca quan họ 37 Bắc Ninh cũng vào thời kì Lý - Trần, v ề các hình thức hoạt động sân khấu dân gian, các nguồn sử liệu cũng đã cho thấy thể loại hát chèo từ thời Lý đã có thể thức. Ngày nay, người ta vẫn chưa tìm được các chứng cứ xác thực như kịch bản chèo thời Lý - Trần, nhưng sự kiện ra đời của công trình lí luận sân khấu Hỷ phường phả lục năm 1501 của Lương Thế Vinh là một cơ sở quan trọng để xét đoán. Chèo truyền thống cũng như kịch hát dân gian nói chung là một nghệ thuật tổng hợp đinh cao của văn hoá dân gian. Do đó, có thể nói tổng quan ràng, trong sự nghiệp phục hưng văn hoá dân tộc thời kì Đại Việt ở giai đoạn này, văn học dân gian ờ cà hai phương diện văn bản và diễn xướng đã phát triền phồn thịnh. Đời sống thực tiễn của nó đã một mặt chứng tỏ là sự thất bại toàn diện cùa mưu toan đồng hoá văn hoá của phong kiến phương Bắc, mặt khác nó phản ánh mối quan hệ ngày càng sâu sắc giữa văn học dân gian và văn học viết, là điều kiện hết sức quan trọng để VHDG đổi mới về chất lượng và phát triền mạnh mẽ về số lượng. Chặng lớn thứ hai của VHDG thời kì Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập tự chủ được xác định từ thế kl XVI đến giữa thế kl XIX. Xã hội Việt Nam bước sang đầu thế kl XVI, kể từ khi Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê vào năm 1527, bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoàng triền miên. Lê - Mạc giằng co, loạn Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Nhân dân nhiều phen điêu đứng với loạn lạc trong cảnh nồi da nấu thịt. Khởi nghĩa nông dân với sự ủng hộ tinh thần của không ít nho sĩ phong kiến đã bùng nổ và ngày càng rộng kháp trên nhiều vùng miền trong cả nước. Hiển nhiên, trqng hoàn cảnh như thế, chính phong trào nông dân đã trờ thành động lực thúc đẩy sự phát triển mới cùa lịch sử dân tộc. Văn học dân gian tiếp tục sử dụng cái vốn sẵn có của nó, vừa được sụ tác động tích cực của văn học viết, vừa tự thân phát triền trong sự vận hành theo quy luật riêng. Một mặt, cũng như văn học viết, nó gắn liền với ý thức dân tộc trường thành ở tinh thần tự tôn, khí thế ngút trời, bản lĩnh vô song đối diện mọi kè thù xâm lược; mặt khác, nó lại trực tiếp gẩn liền với ý thức dân chủ nhân dân ở tinh thần quật khởi chống bất công và áp bức, ở thái độ phê phán triệt để mọi thói xấu và tội ác xã hội, ở khát vọng nêu cao và gìn giữ mãi mãi các giá trị đạo đức trong sáng của truyền thống dân tộc. Thế nên, nói chung VHDG vừa có ý nghĩa chính trị nhân bản sâu sác, vừa có ý nghĩa thời sự dài lâu qua mọi thời đại. Bản chất xã hội cùa VHDG đã giải thích vì sao ở giai 38 đoạn này - giai đoạn bão táp của phong trào nông dân - lại cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của văn học dân tộc. Trong đó, văn học dân gian truyền thống đã đạt đến độ chín ở tất cả các thể loại trên cả hai phương diện tư tưởng thẩm mĩ và thi pháp đặc thù. Trước hết, truyền thuyết lịch sứ vẫn luôn nổi lên như một dòng chính, tiếp tục cuộn chảy trong toàn bộ tiến trình VHDG Việt Nam. Thực tế này đã trờ thành một đặc trung có tính quy luật ờ cấp độ thể loại. Từ giữa thế ki XV trờ đi, giai cấp phong kiến tập quyền trung ương ngày càng cách bức với đời sống văn hoá dân gian. Dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497), bộ Lễ đã phân định ranh giới “quốc nhạc” với “tục nhạc”. Chính sừ phong kiến ngày càng thể chế hoá theo khuynh hướng “quy công trăm họ vào hồng phúc một nhà” (chữ dùng của Đỗ Bình Trị). Một bộ phận các nhân vật lịch sử đã từng có vai trò đặc biệt quan trọng trong các sự kiện trọng đại có ý nghĩa toàn dân tộc nhưng vì lí do phức tạp cùa một thề chế quan phương đã không được “ghi chép” theo quan điểm cùa nhân dân. Ý thức dân gian đã bồ sung bàng những sáng tạo mới. Dòng tự sự dân gian kể về Nùng Tri Cao, Lê Văn Thịnh, Dương Tự Minh, Trần Quốc Tàng, Lưu Nhân Chú, Mạc Đăng Dung, Phùng Khắc Khoan,... là một điền hình. Và rất khác với chính sử, trong chuỗi truyền thuyết về Lê Lợi và cuộc Khời nghĩa Lam Sơn (cũng như trước đó là chuỗi truyền thuyết về Trần Hung Đạo và chiến thắng Bạch Đằng), người ta thấy nổi bật lên vai trò của người đi cày, người đánh cá, người bán hàng nước,... Tất nhiên, bước phát triển mới đặc biệt của truyền thuyết ở giai đoạn này là sự xuất hiện nhóm truyện kể về các anh hùng nông dân khởi nghĩa. Truyện kể bằng văn xuôi song hành với các truyện kể bằng văn vần mà ngà nay chúng ta gọi là vè lịch sử. vè Quận He, vè Quận Hèo, vè Chùng Llu, vẻ Bu vành, VỀ Bù vợ ba Cai vùng, vẻ Bà Thtéu phó,... ở đây, các nhân vật truyền thuyết không còn “hiển linh, hiển thánh”và tính hiện thực đặc biệt gia tăng tạo nên sự biến đồi bên trong thể loại. Nhiều truyền thuyết được cổ tích hoá. Nằm trong xu thế ấy, truyện cồ tích thần kì tiếp tục lưu chuyển với sự xuất hiện những lớp mới khi mà xã hội đã xuất hiện khuynh hướng quay lưng với thực tại của một bộ phận trí thức phong kiến. Khi con người không làm chù được số phận, cái may mắn ngẫu nhiên lại được người ta kì vọng thì chính là lúc truyện co tích sinh hoạt lên ngôi. Lí tưởng phong kiến hài hoà với 39 nhân dân và dân tộc đã bị chao đảo, biến thành ào giác trong Từ Thức, Trương Chi. Vua hiền tôi sáng ngày nào bỗng chốc đã trở thành hôn quân bạo chúa thì đó cũng chính là lúc chủ nghĩa thần bí chắp cánh cho tư tưởng hoài nghi và tinh thần phản kháng. Cuối thế kl XVI, khi chính sách độc tôn Nho giáo cùa Nhà nước phong kiến đã trở nên quá đà thì cũng là thời điểm tín ngưỡng bàn địa thờ Nữ thần phát triển lên thành tín ngưỡng thờ Mầu. Vân Cát thần nữ trở thành "Mầu nghi thiên hạ” từ thế kl XVII, và niềm tin vào Mầu, khát vọng đi tìm cho được sự an ủi từ Mầu cũng đã nhanh chóng trở thành một dòng cảm hứng mới trong đời sống văn học dân gian. Các truyền thuyết về nữ thần cổ xưa trong giai đoạn này được ý thức dân gian đưa vào nhũng giá trị lịch sử tnới để nêu cao khát vọng tự do, khuyến thiện trừ ác, thực hiện mong muốn của nhân dân về lẽ công bằng, về sự bình đẳng xã hội. Văn hoá làng Việt có lí do để ngày càng phồn thịnh. Và như một phàn ứng dây chuyền, bão táp khởi nghĩa nông dân nổi lên, xã hội phong kiến cơ hồ đi đến giai đoạn suy vong tột cùng, giáo lí, tôn ti lung lay, có cơ sụp đổ đồng loạt, lí trí nhân dân thức tinh. Sự tự giải phóng con người ra khỏi mọi giáo điều, mở đường cho sự phát triển các sáng tác vừa giàu yếu tố duy lí, triết lí, đậm chất hiện thực, vừa thấm đậm sự xót xa về thân phận con người. Bi kịch xã hội len lòi nghiền nát những giấc mơ về hạnh phúc gia đình, làm biến đồi các kiểu kết thúc có hậu vốn là đặc trưng thể loại cổ tích. Có thể thấy những biến thể loại này trong các truyện: Sự tích đá vọng phu, Sự tích miếu vợ chàng Trương, Sự tích ba ông vua bếp, Sự tích ba giọt máu, Sự tích ông Dầu bà Dầu,... Truyện cổ tích sinh hoạt bùng nổ cùng với vè thế sự và truyện cười kết chuỗi. Nhân vật chính trong đó đã có thay đổi. Vai chính nhiều truyện đã là kè sĩ, thương nhân: Bà lớn đười ươi, Con mụ Lường, Cái cân thuý ngân, Chó đá đổ máu, Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng,... Truyện cổ tích sinh hoạt vẫn mô hình hoá cấu trúc loại người và vẫn tiếp tục giải pháp đạo đức bình dân trong sáng để nêu cao khát vọng công bằng dân chủ, để khái quát hoá và định giá các giá trị nhân sinh theo ý thức dân gian cổ truyền, đậm đà tính dân tộc. Đề tài chủ yếu của biến thể này ngày càng được mở rộng cùng với sự biến đổi của đời sống kinh tế- xã hội. Căn cứ vào mối liên hệ nội tại giữa các thể loại trong dòng tự sự xã hội, giữa truyện cổ tích và truyện cười dân gian, có thể đoán định nhiều truyện cổ tích phiêu lưu hài hước vừa có tính phê phán hiện thực, vừa giải trí vui vẻ, vừa ngợi ca 40 người lao động thông minh tài trí mà ngày nay chúng ta gọi là cổ tích hoạt kê (những mẫu kể về những người phụ nữ và những đứa trẻ thông minh, những chàng rề trí xảo có lám mẹo lừa,...) - đã được sáng tạo vào thể ki XVIII trong bối cảnh bùng nổ từng chuỗi truyện cười kể đời các ông trạng bình dân. Những truyện cười lè mà ngày nay được sưu tập lại có lẽ cũng phần lớn liên quan đến bối cành xã hội giai đoạn này, vì nổi bật lên ở những truyện ấy đều là ảnh chiếu cùa giai cấp phong kiến đã lỗi thời. Rất nhiêu những ông to, bà lớn ngày nào đã trớ thành nhân vật nực cười trong những truyện cười bất chợt như thế. nó chẳng khác nào như “những bức hí hoạ” rộng lớn đặt ở khẳp nơi. từ phố phường náo loạn đến đầu chợ bến sông, nơi thôn cùng xóm vẳng. Thế kl XVIII, trên văn đàn văn học viết bùng nổ truyện Nôm mà trong đó, từ nội dung đến hình thức của nó đều chứng tỏ ý thức dân gian đã tác động mạnh mẽ đến ngòi bút kè sĩ. Truyện thơ Nôm bác học được dân gian hoá, được “chế biến lại” thành các tích trò trên sân khấu kịch hát dân tộc. Trong sự tác động qua lại đã trở nên cực kì sâu sắc giữa VHDG và văn học viết, nhiều tích gốc cũng đã được gia tăng nội dung để mang tính thời sự. Trên các chiếu chèo, bắt đầu từ đây, các nhân vật hề chèo đủ mọi kiểu dạng hả hê thoả chí dùng cái cười để lật ngược mọi sự đời giữa hai chiều tối sáng. Đó là dấu hiệu đinh cao của sự phát triền ở tất cả các thể loại văn học trào phúng dân gian, là minh chứng khát vọng dân chủ và sức sống lạc quan - hai phẩm chất nổi bật của văn hoá làng Việt. Ớ một đối cực khác, trong đời sống văn minh thôn dã đã phát triển tính tự quản làng, tính bản sắc làng và tính cộng đồng làng rất ổn định, ca dao, dãn ca cũnK đặc biệt phát triển. Khi khoảng cách văn hoá cung đình và văn hoá dân gian ngày càng nới rộng thì cũng là lúc tình yêu làng quê, tình người trong sáng trong lao động, trên luống cày và bên bếp lửa, dưới sân trăng càng trở nên nồng đượm trong các hội làng, càng có sức lan toả theo mỗi người đi kẻ ở, nơi mà mỗi cây đa, mỗi bến nước, mồi dòng sông quê đều đà trờ thành ki niệm riêng trong từng niềm đau nỗi hận, niềm thương nỗi nhớ. Ngày nay, hầu hết văn bản ca dao, dân ca cổ truyền còn được lưu giữ trong các tài liệu sun tập bàng chữ Nôm đầu thế kỉ XX đều được đoán định ra đời vào khoảng thế kl XVI và bùng nổ trong suốt thế kỉ XVIII. Trong đó. phần lớn các bài hát giao duyên, xét về phương diện nghệ thuật 41 lời văn, có thề nói là những sáng tác đinh cao của thơ ca trữ tình dân gian. Xét về bàn chất xã hội, đây là hiện tượng hết sức không bình thường trong xã hội phong kiến, đặc biệt là trong thời Lê mạt và thời Nguyễn. Nhưng chính cái nghịch lí ấy đã khẳng định VHDG giai đoạn này trở nên cực kì năng động trong ý thức tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội. Cũng giai đoạn này, ở miền núi, trong các mường bản của đồng bào các dân tộc thiểu số Mường, Tày, Thái,... truyện thơ dân gian về đề tài tình yêu cũng phát triển với tư cách một thể loại đặc trưng. Hiện tượng truyện thơ Tày xuất hiện cực ki phong phú như ngày nay chúng ta còn sưu tập được chắc chắn đã có cơ sờ xã hội - lịch sử diễn ra từ thế ki XVIII. Đó là thế ki họ Trịnh từng hàng chục lần kéo quân hành tiến “thào phạt” Cao Bằng, giao tranh với nhà Mạc. Sau đó là khởi nghĩa nông dân cuộn trào từ đồng bằng lên khẳp các vùng rừng núi phía Bắc từ đầu thế kl XVIII sang đầu thế kỉ XIX. Cuộc sống nơi mường bàn từ ngàn năm thanh bình, phảng lặng, cân đối, hiền hoà đã bắt đầu trở nên sôi động trong sự giao thoa văn hoá ngày càng sâu sắc. Nhìn lại mười thế ki VHDG Việt Nam phát triển trong suốt thời kì phong kiến độc lập tự chù, có thể nói: Đen giữa thế kl XIX, trong mối quan hệ khăng khít và đặc thù với văn học viết, VHDG đã đạt đến sự hoàn thiện quá trình phát trien tất cá các thể loại cơ bàn. Chúng ta cũng đã nhận ra ràng, khác với văn học viết, tiến trình lịch sứ cùa VHDG là tiến trình phát triền cùa các thể loại -lịch sử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cao Huy Đinh, Tìm hiêu tiên trình Văn học dàn gian Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, H., 1976. 2. V. Guxep, M ĩ học Folklore (Hoàng Ngọc Hiến dịch), NXB Đà Nắng, 1999. 3. V. la.Propp, Tuyển tập (Nhóm Chu Xuân Diên dịch), Tập 1, NXB Văn hoá dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật xuất bản, H., 2003. 4. V. la. Propp, Tuyền tập (Nhóm Chu Xuân Diên dịch), Tập 2, NXB Văn hoá dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật xuất bản, H., 2004. 5. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Chủ biên), Folklore thế giới - một số công trình nghiên cứu cơ bản, NXB Khoa học xã hội, H., 2005. 42 6. Đỗ Bình Trị, Nghiên cứu tiến trinh của lịch sử văn học dân gian Việt Nam, Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành, 1978. 7. Đỗ Bình Trị, Văn học dán gian Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo dục, H., 1991. 8. Võ Quang Nhơn, Văn học dãn gian các dân tộc it người ở Việt Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H., 1983. 9. Nhiều tác giả, Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, H., 1989. 10. Nhiều tác giả, Văn hoá dân gian những phương phàp nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội H„ 1990. 43 Phần hai: CÁC THỂ LOẠI VĂN HỌC DAN ■ g ia n Chương 1 THẦN THOẠI I- NHỮNG VÁN ĐÈ CHUNG VÈ THÉ LOẠI 1. Thuật ngữ, khái niệm, định nghĩa Trong quan niệm của giới folklore học thế giới, “Từ thần thoại {myth) cỏ nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, truyền thoại. Thường người ta hiểu đó là những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các the hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó - thiên nhiên và văn hoá. Hệ thần thoại (mifalogia) là tổng thể những câu chuyện như thế về các thần và các nhân vật, đồng thời là hệ thống những quan niệm hoang đường về thế giới. Từ mifalogia còn được hiểu là khoa học về thần thoại - là thần thoại học” [E.M. Mêlêtinxki (Chù biên), Từ điển thần thoại, Bùi Mạnh Nhị dịch, NXB Bách khoa Xô viết, M„ 1991, tr. 653-654], Tuy nhiên, khái niệm thần thoại còn gần gũi với một khái niệm khác là huyền thoại. Trong một số công trình nghiên cứu biên dịch, có những ý kiến đồng nhất hai khái niệm này. Thật ra không phải thế. Thần thoại là khái niệm nhìn chung đã được học giới nhất trí sử dụng để định danh một thể loại văn học dân gian và là thể loại đầu tiên, ra đời từ buổi bình minh cùa lịch sử loài người, là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là một phạm trù lịch sừ cụ thể. 44 Huyền thoại về cơ bàn và giàn yếu mà nói thì đó chính là nghệ thuật thần thoại ở thời kì đã tự phát định hình một cung cách sáng tạo, một thủ pháp đặc trưng đề từ đó cái cung cách ấy, cái thứ pháp ấy được người đời sau tiếp tục kế thừa, phát triển và hoàn thiện thành một phương pháp sáng tạo nghệ thuật ờ nhiều loại hình khác nhau cho đến tận ngày hôm nay bởi ưu thế không cùng cùa huyền thoại, vương quốc của cảm quan tích cực và thế giới tường tượng thần kì. Mật khác, cũng cần lưu ý phân biệt các cách hiểu từ nguyên theo nghĩa đen cùa từ thần thoại - có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp là truyền thuyết, truyền thoại như đã dẫn ở trên, với khái niệm truyền thuyết (Legend) - được định danh là một thể loại văn học dân gian tiếp chân thần thoại. Không phải ngẫu nhiên, khoa học văn học dân gian đã thừa nhận có vô số những mẫu kể thần thoại đời sau, thần thoại sáng tạo cũng lại là điểm nối trực tiếp với các tác phẩm truyền thuyết anh hùng. Đặc biệt, trong văn học dân gian Việt Nam, đã có nhiều thành tựu nghiên cứu khẳng định các truyền thuyết thời kì Hùng Vương có một bộ phận cũng chính là các mẫu kể thần thoại Việt cổ được lưu truyền và biến đổi theo xu thế lịch sử hoá, anh hùng hoá, dân tộc hoá như một quy luật tất yếu vận hành. Tuy vậy, khác với thần thoại (truyền thoại) là “tập hợp các truyện kế dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo thần linh” (Nguyễn Hùng Vĩ) phản ánh quan niệm và khát vọng cùa các thị tộc, bộ lạc nguyên thuỷ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội con người thời tiền sử, truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian của thời đại anh hùng khi mà ý thức dân gian đã trưởng thành trên các bình diện quốc gia, dân tộc và nhà nước trong suốt quá trình phát triên của lịch sử, có từ thời sơ sử. Tât nhiên, vì thê truyên thuyết không phải là lịch sử. Đi tới một định nghĩa về thần thoại Việt Nam, trước nay đó vẫn còn là một vấn đề có nhiều ý kiến. Những ý kiến như thế không bao giờ được xem là đã bao quát hết được tất cả những thuộc tính và chức năng, phạm vi và đặc điểm cùng những biểu hiện ờ trạng thái tàn dư cùa nó. Bởi lê, với di sàn thần thoại của những dân tộc có chữ viết rất muộn màng như đã thấy ở hầu hết các thành phần dân tộc trên đất nước ta, các minh chứng thần thoại luôn là một đối tượng gây tranh luận giữa các nhà khoa học. 45 Trong khi đó, trên thế giới, thần thoại học đã là một khoa học được nghiên cứu với rất nhiều hướng tiếp cận khác nhau từ thế ki XIX. Từ lâu, người ta đã nói đến những kho tàng đồ sộ, những tác phẩm trứ danh trong di sản thần thoại Hi Lạp - La Mã, thần thoại Ấn Độ, thần thoại Giecmanh,... Những thần thoại ra đời ở khu vực Đông Nam Địa Trung Hài, nơi đã phát sinh nền văn minh Cret - Miken (3000-1000 năm tr. CN), trải qua một quá trình tiến triển hết sức phức tạp và lâu dài dần trở thành thần thoại Hi Lạp, còn gọi là thần thoại cổ điển - một gia tài phong phú, giàu ý nghĩa nhân văn và thẩm mĩ, từng có giá trị phổ biến trong đời sống văn hoá nhân loại xưa cũng như nay. Thần thoại La Mã được xem là mô phỏng lại thần thoại Hi Lạp. Ở Án Độ, các thành tựu nghiên cứu trên thế giới cũng đã từng khẳng định sáng tác dân gian truyền miệng của nhiều tộc người, nhiều địa phương thừa kế lẫn nhau, hoà hợp vào nhau trong quá trinh hình thành dân tộc Ân. Nói đến Àn Độ, người ta nghĩ ngay đến thế giới thần thoại kì ảo đó. Nội dung thần thoại Ản Độ rất phong phú và cũng hết sức hấp dẫn. Theo đó, những giá trị nhiều mặt của thần thoại thế giới nhìn từ góc độ văn học dân gian đã phát lộ trên cơ sở các kết quà được nghiên cứu kĩ lưỡng đến mức có thể xem là những đặc điểm có tính quy luật phổ biến về đặc trưng thể loại, được nhận ra trong một tập hợp tác phẩm có tính mẫu mực. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học đã nhất tri quan niệm: Thần thoại là một thể loại văn học dân gian, một thể sáng tạo nghệ thuật ngôn từ truyền miệng đầu tiên và không tự giác ra dời vào giai đoạn xã hội nguyên thuỷ đã phát triển từ dã man đến văn minh. Đó là một tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, phản ánh quan niệm về thế giới tự nhiên và đòn sống xã hội thời kì thị tộc, bộ lạc, biểu hiện nhu cầu nhận thức và những khát vọng tự nhiên về một cuộc sống tốt đẹp và có tính nhân bản. Thần thoại là minh chứng mở đầu khảng định bàn chất của văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hoá trong tính nguyên hợp điển hình. 2. Nguồn gốc, quá trình và phân loại Thời đại và điều kiện sản sinh thần thoại trong quá trình lịch sừ của nó đã khẳng định nguồn gốc văn hoá của văn học dân gian từ đầu nguồn mạch văn học ở tất cà mọi dân tộc hay có tính nhân loại. Hiển nhiên, ở vào thời kì đầu của loài người, trong giới hạn của hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỳ, chưa thể có thần thoại. Nguồn sống khi 46 con người còn chù yếu dựa vào săn bắn và hái lượm là hoàn toàn lệ thuộc vào giới tự nhiên. Trong sinh hoạt vừa mới thoát khỏi tình trạng bầy đàn hoang dã cùa những cộng đồng nguyên thuỳ mông muội, chắc hẳn con người chưa thể tách mình khỏi cái thế giới tự nhiên còn hỗn mang mờ mịt. Giữa đại ngàn tự nhiên câm lặng và dữ dội, thăm thẳm và mênh mông, con người thụ động chưa thể nhận ra được giới hạn của chỗ đứng chân. Lũ lụt và bão tố, động đất và sóng thần, bệnh tật và thú dữ cùng với hằng hà sa số những hiềm hoạ treo trước trán họ. Sự bất lực và niềm sợ hãi ngàn đời đã từng diễn ra như thế đến một thời điểm nào đó tất sẽ đặt ra cho con người vô số những dấu hỏi lớn về thực tại gắn liền với sự sống và cái chết. Nói cách khác, theo triết học của các khoa học về sinh giới đã khẳng định: Đó là một quy luật trong quá trình tiến hoá vi thế - tiến hoá cùa tư duy - khi những tiến bộ kĩ thuật ngẫu nhiên của con người từ đời này sang đời khác đã đưa con người chạm được những bước đầu tiên vào ngưỡng cửa của thời kì văn minh tất sẽ làm xuất hiện những nhu cầu tự nhiên về lẽ sinh tồn. Và chính những nhu cầu như thế đã thúc đẩy bàn năng con người khát khao nhận thức. Không phải ngẫu nhiên M. Gorki đã từng nêu ý kiến cho ràng: Nhận thức là cơn khát lớn muôn thuở có tính nhân loại. Không phải gì khác, chính nhận thức trong thực tiễn cuộc sống ngay ờ thời âu thơ của nhân loại đã từng bước dẹp đi cái tâm lí khiếp nhược và mặc cảm nhỏ bé, mong manh, hữu hạn của con người trước cái vô hạn, khổng lồ và vĩnh viễn của đại tự nhiên. Ở bước đầu cùa sự nhận thức nguyên thuỷ, sự phỏng đoán bằng trí tưởng tượng cùa con người về thực tại còn hết sức mơ hồ bởi trình độ sàn xuất thấp kém tất yếu đã đè ra những ông thần này, bà thần nọ bằng sự hình dung, tường tượng là có thật. Ví dụ, mọi con người đều phải do chửa đẻ mà thành, thế chắc cà cái thế giới ngoài con người kia cũng phài do đã từng có những cuộc chừa đẻ trong vũ trụ: đỏ cây, đe đất, đẻ nước,... Trong trạng thái vô thức tập thể, con người thời nguyên thuý đã nhân hoá tự nhiên đúng như Trecnưsepxki đã từng khẳng định đại ý: Người man rợ hay nửa man rợ đã không hình dung được cuộc sống nào khác với cuộc sống như họ biết - cuộc sống của con người. Họ tưởng cây cũng biết nói, núi cũng biết đi và tảng đá là một chàng hiệp sĩ hoá thạch, còn dòng sông là một cô tiên nước,... Người man rợ nhìn thấy khắp thiên nhiên một cuộc sống giống như cuộc sống cùa người. Tất cà những hiện tượng thiên nhiên sờ dĩ xảy ra họ đều cho là hoạt 47 động có ý thức của những lực lượng giống người. Từ ý kiến trên, chúng ta có thể hiểu đó chính là cái cốt lõi cùa thuyết “vạn vật có linh hồn”. Từ đó nảy sinh ma thuật, tín ngưỡng vật tổ. Những tín ngưỡng đầu tiên thường gấn với nỗi sợ hãi hoặc niềm biết ơn của con người trước tự nhiên huyền bí. Chẳng hạn, từ các viện dẫn khoa học cùa khoa dân tộc học đã cho chúng ta biết ràng, với chúng ta người đi săn sống bằng nghề săn, nhưng với con người thời ấy họ lại cho rằng chính những con bò tót, những con lợn rừng đã nuôi sống họ. Họ giết con thú nhưng lại yên chí rằng chính chúng đã hiến thân. Con thú trờ thành “vật tổ” là khi trong tâm thức con người xuất hiện tín ngưỡng vật tổ. Đó là thời điểm niềm tin thiêng liêng vào các lực lượng siêu nhiên vô hình đã xuất hiện trong đời sống tâm linh cùa con người, mà người đời sau gọi là tín ngưỡng nguyên thuỷ. Đó mới là cơ sờ cùa ý niệm thần thoại. Bởi vì ý niệm thần thoại, theo quan niệm thần thoại, là một thế loại nghệ thuật đầu tiên và không tự giác cùa con người, chỉ được bất đầu hỉnh thành khi trong bộ óc con người đã có khả năng tư duy hỉnh tượng. Ví dụ: Khi con người ờ nơi hang động, rừng rú, cà thế giới treo trước trán họ với bao điều bí ẩn. Ảnh chiếu của con người đã in vào núi nên mới có đầu núi, lưng núi, sườn núi, chân núi. Phải vì núi chở che con người trong hang động nên con người chưa đù phúc tạp để nghĩ ra là còn có bụng núi, rồi cũng vì núi đã bao đời che chở mạng sống cùa con người nên ý niệm có thần núi xuất hiện, từ thực tế núi đã từng xê dịch nên chác núi cũng biết đi, chảng những thế còn có từng đàn núi biết bay. Con người vốn sợ lừa nhưng dần dần con người nghiệm ra ràng cuộc sống cùa mình cũng không thề không có lửa. Nhưng từ chỗ con người biết quý lừa, biết giữ lừa đến khi con người biết làm ra lửa cũng đồng thời là cả một quá trình con người nhận ra rằng họ chưa bao giờ chế ngự được lừa. Thế nên từ sự ngưỡng mộ và sùng bái lừa, từ những ám ảnh về những hỉnh ảnh co dãn không chừng của lừa mà ý niệm về thần lùa hình thành. Thần núi về sau trở thành phúc thần, còn thần lừa thì mãi mãi vẫn là hung thần, tất cả đều có nguyên do. Ờ điểm khởi phát này, trong tâm thức con người, như trên đã nói, tuy hoàn toàn chưa thể có thần thoại nhưng cái hạt mầm thần thoại đã xuất hiện. Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Để sinh tồn, con người đã không ngừng tác động vào thế giới tự nhiên, tìm cách khai thác tự nhiên. Chẳng hạn, sự tích trữ rau quả trong những hầm đất nhờ năng suất hái lượm 48 cao đã làm nảy sinh ý tường trồng trọt. Sự dồi dào của những con thú săn bắt dùng để dành đã làm náy sinh ý tường chăn nuôi. Những mành tước từ đá dược mài nhẵn đã trở thành cái rìu, những cành cây đã trờ thành ngọn lao vót nhọn. Những thành quả sáng tạo trong lao động như thế đã tạo ra một quá trình tiến hoá thật sự lớn lao về trinh dộ sản xuất và năng lực tư duy. Trong đó, có thể nói, sự xuất hiện năng lực biểu tượng là một bậc tiến hoá vi mô vĩ đại vào bậc nhất của lịch sử nhân loại, là dấu hiệu thuộc tính mang bản chất người trội vượt nhất đê phân biệt với toàn bộ cái thế giới trước người và ở bên ngoài con người. Chính nhờ có năng lực biếu tượng, sự phát triển ngôn ngữ của con người tự nhiên từ ngôn ngữ tình cảm, ngôn ngữ cừ chì động tác đen một thời điếm nhất dịnh đã đem lại cho họ khá năng giao tiếp bang tiếng nói. Ta hãy hình dung, ở thời điêm đó, những tiếng nói đầu tiên đối với con người nó kì diệu đến mức chính con người phái kinh ngạc và sùng bái nó. Những câu phù chú dầu tiên xuất hiện. Những niềm vui thích cần sè chia, đời sống tâm lí đoàn nhóm từ đấy bỗng trờ nên phong phú kì lạ. Những kinh nghiệm được thu nhận trong lao động xã hội cần trao đổi, một toàn cảnh thế giới vô cùng hỗn độn trong mắt người xưa cứ hiện hình dần lên và sáng mãi ra trong thế giới linh thần nội tại cúa con người, trong hình dung, tưởng tượng và trong cà những giấc mơ vừa kinh ngạc kì bí, vừa gần gũi hồn nhiên. Chính những thay đổi thật lớn lao như thế trong vô thức tập thề đã trở thành động lực kích thích bộ óc tự phát làm xuất hiện đồng loạt một vấn đề đặt ra: Ta với cái thế giới hình thế ngoại tại bên ngoài ta kia là một hay là hai? Từ vô số những câu hoi thường ngày của đời sống cụ thể, dã đến lúc con người phải tìm lời giải cho một câu hỏi lớn: Có hay không một cõi khác ở bên trên cái thế giới này, và cái thế giới ấy là sao? Và mối liên hệ giữa con người với cái thế giới ấy là như thẻ nào? Khõng ai khác, chính con người phải cất lên tiếng nói. Và thần thoại chính là cuộc đói thoại đầu tiên giữa chù quan và khách quan, giữa con người với cái “thể giới quanh ta". Tất nhiên, mọi sự phóng đoán về cái thế giới ấy, trong giới hạn của một trí tuệ còn ở thang bậc "mù mờ, thấp kém”, ngay từ đầu không thể đem lại cho con người thời cổ hình ảnh về một thế giới đã có sự sắp đặt. Ờ thời kì đầu tiên, đó là cái thế giới cực kì hồn mang mờ mịt như trên đã nói - một thế giới câm lặng và bí hiểm, chưa có sự sống. Nhưng đến lúc con người bằng tiếng nói tường chừng đã có thể giao tiếp được với vạn vật trong 4.GTVH DÁN GIAN-A 49 giới tự nhiên thì cái thế giới kia bắt đầu trở thành thế giới của các vị thẩn ngự trị trên cõi thiêng. Tư duy suy nguyên xuất hiện: Thần núi, thần sông, thần lứa, thần nước, thần cây, thần gió, thần biến,...chính là những lực lượng đã biến đổi thế giới từ hỗn mang mờ mịt thành một thế giới hỗn độn và rời rạc nhưng đã có sự sống. Phải đến khi tư duy so sánh hình thành, khi trong mát họ đã có trời cao đất dày, đã có sông dài biển rộng, đã có non cao vực thảm, đã có mây bay gió thổi, đã có ngày sáng với mặt trời, đã có đêm tối với mặt trăng và một trời đầy sao,... thì trước câu hỏi về trời và đất, sự hình dung và tường tượng trong thế giới tinh thần nội tại của con người mới đè ra được óng khổng lồ chống trời, bà khống lồ đi san mặt đất - những cặp vợ chồng người khổng lồ - với vai trò của những đấng sáng tạo thần linh. Tư duy đối chiếu giữa cái thế giới tinh thần nội tại trong đầu óc người ta với cái thế giới hình thể hiện hữu bên ngoài kia đã đem đến cho con người một năng lực mới. Theo đó, họ đã biết sắp đặt lại một thực tại khách quan như chính cuộc sống con người theo chiều hướng từ hỗn mang mờ mịt, hỗn độn và rời rạc đến trật tự, hài hoà. Đó chính là con đường chuyển hoá từ các yếu tố có tính thần thoại - những hạt mầm - đến sự hỉnh thành thần thoại đích thực, một hệ thống những truyện kể về thế giới tự nhiên, trong đó chứa đầy những ảnh chiếu thần kì về xã hội con người trong buổi bình minh của nhân loại thời tiền sừ, cùng với cả sự sùng bái, niềm tin lớn lao và khát vọng không cùng của họ. Thế nên, để dựng lại một phác thảo về một/ những con đường hình thành, lưu chuyển và phát triển của thần thoại, nhất định phải xuất phát từ điểm khởi đầu: Một trong những nguyên tắc của sáng tạo nghệ thuật nói chung - tự giác và không tự giác - chính là tưởng tượng. Và cái cơ sở cùa nó chính là năng lực biểu tượng. Thần thoại chính là kết quà của sự tưởng tượng nguyên thuỳ, từ sự nhân hoá tự nhiên để hình dung ra các vị thần, để rồi lại tưởng tượng chính các vị thần đã kiến tạo thế giới. Tất nhiên, nội hàm và các giá trị “thần thoại đời sau” còn là cả một hệ vấn đề phức tạp hơn nhiều, nhưng đặc điểm nói trên mới chính là “cái bát đầu”, là “điểm xuất phát”, là hạt nhân thành tạo nên cái bàn chất của thể loại. Từ đó, lịch sừ văn chương nhân loại mới có các “nguyên sơ tượng”, các “mẫu gốc” và các “biểu tượng gốc” từ thần thoại làm tiền đề nguyên thuỷ cho các loại hình nghệ thuật đời sau. 50 4.GTVH d a n g ia n B Cũng từ những cơ sở khoa học đã nói ở trên, chúng ta hiểu vì sao trong giới nghiên cứu trước nay đã từng đưa ra hàng trăm định nghĩa về thần thoại, nhưng để phân loại người ta khá dễ dàng nhất trí với quan niệm: Thần thoại gồm hai tiểu loại cơ bàn đó là thần thoại suy nguyên và thần thoại đời sau. Thần thoại đời sau là một khái niệm mở và thường được gọi là than thoại sáng tạo. Tuy nhiên về vấn đề phân loại thần thoại Việt Nam từ góc nhìn tổng thể bao gồm cả thần thoại cùa các thành phần dân tộc thiểu số, trong sách Văn học dân gian các dán lộc ít người ờ Việt Nam, Võ Quang Nhơn còn đưa ra một cách phân loại rất cụ thể, chi tiết, ồng viết: “Kho tàng thần thoại cùa các dân tộc anh em rất phong phú. Căn cứ theo những biểu hiện tương ứng về các mặt chủ đề, hinh tượng, môtip.... xuất hiện khá phổ biến trong các thần thoại, ta có thề phân chia hệ thống thần thoại các dân tộc theo các loại hình sau đây: loại truyện kể về việc sinh ra trời, đất, cây cò, núi sông; loại truyện kể về việc sinh ra con người, sinh ra các dân tộc; loại truyện kể về những kì tích sáng tạo văn hoá trong buổi đầu cùa con người; loại truyện kể về những cuộc đấu tranh xã hội trong buổi đầu cùa xã hội có giai cấp” [Võ Quang Nhom, Văn học dân gian các dân tộc ít người ờ Việt Nam, Sđd, tr. 99]. Có thế tham khảo hướng phân loại này khi chúng ta còn có nhiều điều kiện mới để tiếp tục khám phá thêm các giá trị nhiều mặt của kho tàng thần thoại cùa các thành phần dân tộc Việt Nam theo hướng tiếp cận hệ thống và phương pháp liên ngành. 3. Đặc trưng Thần thoại là thể loai điển hình, tiêu biểu nhất về đác trưng nguyên hơn của văn học dân gian, là minh chứng từ cội nguồn sáng tạo văn học dân gian khang định: Văn học dân gian vừa là văn học, vừa là văn hoá theo nghĩa tổng quan nhất cùa khái niệm. Các thành tựu khảo sát và nghiên cứu của khoa thần thoại học từ giữa thế ki XIX đã phát hiện ra bản chất, những quy luật vận động và phát triển của thần thoại thế giới, từ đó khẳng định trước khi là một thể loại VHDG, hệ thống thần thoại đã được quan niệm là văn hoá nguyên thuỷ. Giữa thế ki XX, xuất hiện khuynh hướng đặt lại vấn đề: Những tác phẩm thần thoại có trước, theo đó các yếu tố tín ngưỡng, phong tục. tập quán và nói chung là lối sống mới từ đó hình thành. Cho đến thời 51 điểm hiện tại, những cuộc tranh luận như thế vẫn không có hồi kết. Thực tế đó đã khẳng định tính tổng hợp lự nhiên cùa thần thoại. Ngày nay, chúng ta đều nhận thức được hai quy luật chi phối quá trình hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Thứ nhất, đó là sự chế định của hoàn cảnh xã hội - lịch sử từ đó một hiện tượng nghệ thuật sinh thành. Thứ hai, đó là sự chi phối cùa những quy luật đặc thù trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Thần thoại ra đời, phát triển và tan rã trọn vẹn trong lòng hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỷ, sự đan lồng, kết dính một cách tự nhiên và nguyên sơ giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần trong cùng một hiện tượng nghệ thuật nguyên thuỳ như thế là một thuộc tính tự nhiên. Trong đó, cái ích dụng chưa tách khỏi cái thẩm mĩ ở những sản phẩm văn hoá “chất lượng cao” trong thời đại thần thoại là một phẩm chất đặc thù. Đó cũng chính là sản phẩm của quá trình hoạt động chua tách rời giữa ý thức xã hội và lao động xã hội. Tính nguyên hợp cúa thần thoại còn đặc trưng bời một nhận thức có tính tổng hợp tự nhiên, mà kết quà là trong các hình thái ý thức xã hội đặc thù thần thoại chứa đựng rất nhiều yếu tố: triết học, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, nhân học,... ở trạng thái sơ khai. Thế nên có thể nói, trong cấu trúc thần thoại đã tràn đầy những yếu tố tiền đề nguyên thuỷ cùa các loại hình nghệ thuật đời sau. Tất nhiên, ở thời kì đầu tiên, đó chỉ là những yếu tố rời rạc được thu nhận tự phát trong quá trình con người tác động để khai thác tự nhiên. Song đó cũng không phái là những giá trị đã được giới hạn nhất thành bất biến. Trong quá trình lưu chuyển bởi nhu cầu thích nghi, ứng phó với hoàn cảnh và nhu cầu giao tiếp để từng birớc kiến tạo một thực tại trật tự hài hoà, có ý nghĩa tích cực cho chính cuộc sống con người, tư duy con người cũng tiến hoá từng buớc, đáp ứng niềm mong mỏi vuợt thoát lên trên hoàn cảnh, chế ngự hoàn cảnh. Trong quá trinh đó, con người thuở ấy tự nhiên đã có thần thoại đồng hành. Đó cũng chính là minh chứng đầu tiên về con nguời, trong quá trình sáng tạo văn hoá, luôn luôn vừa ờ tư cách chủ thể, vừa là kẻ mang chứa, biểu hiện và hường thụ ngay cái giá trị do chính mình sáng tạo. Khi tư duy suy nguyên trong cảm quan nhị phân - lưỡng hợp hỉnh thành cũng là thời điểm thần thoại sáng tạo xuất hiện với những cặp đôi có tính biểu tượng. Toàn cành thế giới được hình dung thành vũ trụ phân tầng, trong đó nhân sinh trú ngụ. Trí tưởng tượng trong cảm thức sáng tạo thêu dệt từ chính thực tại thế tục đã cấu thành một thực tại thiêng liêng bởi một thế giới quan sùng bái tự nhiên. 52 Thẩn thoại trong vũ trụ của lời nói, lời kế cùa người đặt truyện nhuần thấm tính thiêng trong tâm thức chù nhân thần thoại đã tham gia một cách tự nhiên vào các sinh hoạt lễ thức và tập tục, các hoạt động lao động và buông xà, các hình thức giải trí và hoá trang, những lời cầu nguyện và câu phù chú cùng các bài ca nghi lễ,... tạo nên một phức thể yếu tố hợp thành. Ket quả là trong suốt thời đại thần thoại, với tư cách một thể loại văn học dân gian - thể loại folklore nghệ thuật ngôn từ đầu tiên và không tự giác của nhân loại - thần thoại ra đời, tồn tại và phát triển như một chinh thể nguyên hợp điển hình. Đặc trưng nguyên hợp của thần thoại là hệ quả cùa một trình độ tư duy đặc trưng cùa con người trong tư cách chù thể sáng tạo văn hoá nguyên thuý. Dạng thức tư duy này được người đời sau định danh là tư duy thần thoại. Thế nên có thể nói, trong những đặc điểm biểu hiện bản chất thể loại này, không thể không nhác đến đặc trưng tư duy thần thoại. Bàn về đặc trưng này, trước nay đã có rất nhiều ý kiến trình bày, luận giải với những lí thuyết đa chiều, khi nhấn mạnh vào khía cạnh duy tâm chủ quan huyền bí, lại có khi khai thác một cách thực chứng trên các dấu hiệu tàn dư thần thoại trong các mối quan hệ folklore với thực tại nhờ các khoa học liên ngành để khẩng định thuộc tính duy vật tự phát - một trình độ tư duy nhận thức khoa học. Tựu trung lại, đó là một kiểu tư duy tống thề, một mặt phàn ánh quan niệm “vạn vật hữu linh” như đã nói ở trên qua ý kiến của Trecnưsepxki - một quan điểm có tính phổ quát và tự nhiên trong vô thức tập thề nguyên thuỷ; mặt khác, nó cũng phàn ánh một kiều nhận thức thực tại còn rất nhiều sai lệch, huyễn hoặc và điều này là có thật. Đúng như Ảngghen đã từng khẳng định: “Cơ sờ của mọi sự nhận định sai lầm ấy về giới tự nhiên, về những thế lực màu nhiệm,... thường thường chi là một yếu tố tiêu cực mà thôi, tức là trinh độ kinh tế thấp kém của thời kì tiền sử thì đé ra những nhận định sai lầm về thiên nhiên”. Có một điều cần phải nhấn mạnh ở đây là cái năng lực tư duy tổng thể nói trên trong quá trình hoạt động sáng tạo thần thoại cũng không ngừng vận động và biến đổi theo quy luật từ hỗn mang, hỗn độn đến trật tự, hài hoà ờ những dạng thức khởi nguyên, trong mối quan hệ hai chiều giữa con người và thế giới tự nhiên, được biểu đạt bằng các hình thức siêu nhiên. Từ những nhận thức ờ cách thức nhân hoá tự nhiên để giải thích thế giới một cách tự phát, con người thời đại thần thoại đời sau lại sử dụng chính cái kết quả do họ sáng tạo ra để nhận thức lại về một thế giới 53 phức tạp và đa dạng hom, trong đó có chính bàn thân con người cùa xã hội buổi đầu tham gia vào quá trình sáng tạo mới. Tư duy suy nguyên thần thoại với sự tham gia cùa trí tưởng tượng hoang đường thời kì đầu tiên đã chắp cánh cho những giấc mơ thần thoại đời sau trở nên tràn đầy khát vọng trẻ thơ về một thực tại phong phú hơn, dịu dàng hơn và đẹp đẽ hơn. K.ết quả là, với thế giới thần thoại do chính con người sáng tạo, lần đầu tiên loài người đã có một thực tại thiêng liêng, trong đó bên cạnh thế giới của những anh hùng thần linh còn có một thế giới khác. Đó là thế giới của những con người cổ đại mang sức mạnh cùa thần linh, được sáng tạo trong niềm ngưỡng mộ thành kính thiêng liêng, tạo nên cái giá trị đặc biệt của đời sống văn hoá tâm linh của con người sẽ còn mãi về sau. Đó cũng chính là điểm thăng hoa của tư duy thần thoại, tạo nên phẩm chất lãng mạn thần thoại “không thể bát chước”. Thế nên nếu có thể khẳng định thần thoại là một thể loại nghệ thuật tự sự bằng lời nói và là thể loại văn học dân gian đầu tiên, không tự giác thì không thể không nhấn mạnh nét đặc trưng có một không hai của dạng thức tư duy tình cảm thẩm mĩ này. Trong đó có sự đan lồng, kết dính một cách tự nhiên giữa sự hoang đường, hư ảo bởi nhận thức sai lệch thực tại với khát vọng bay bổng thần kì trong giấc mơ chinh phục tự nhiên và sáng tạo những kì tích văn hoá buổi đầu của con người thời tiền sử, tạo nên đặc trưng cùa một dạng thức tư duy mà người đời sau gọi là tư duy huyền thoại. Tìm hiểu đặc trưng thần thoại, có thể chi ra những đặc điểm khác trong bản chất và quá trình vận động, phát triển của nó như: đặc trưng về hoàn cảnh phát sinh, đặc trưng về chức năng sinh hoạt thực hành tinh thần, đặc trưng về thi pháp “không hoàn chinh”, nhưng như trên đã nói: Tính nguyên hợp điền hình và tính lãng mạn trong tư duy phức thế huyền thoại mới là những đạc trưng cơ bàn. II- THÀN THOẠI CÁC DÂN Tộc VIỆT NAM 1. Tình hình chung về thần thoại Việt cổ Đã có thời kì vào những năm 80 của thế ki XX, trước sự khan hiếm đến mức cạn kiệt của các văn bản thần thoại được xem là đích thực của dân tộc Kinh, các nhà nghiên cứu VHDG của Việt Nam có ý định loại bò thể loại này hoặc biên soạn gộp cả hai nhóm thần thoại và truyền thuyết vào một thể trong các giáo trình đại học. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định: Câu chuyện về 54 cuộc hôn phối giữa Lạc Long Quân (giống Rồng) - Âu Cơ (giống Tiên - Chim) và môtip một bọc trăm trai mà chúng ta vẫn quen thuộc không còn là một thần thoại đích thực. Đó là kết quả của một quá trình chuyển hoá phản ánh một trinh độ phát triển xã hội đã vượt xa thời đại Việt cổ. Các lớp thần thoại đích thực đều đã hoá thành truyền thuyết, đáp ứng nhu cầu nhận thức về dân tộc phong kiến. Trên “văn bản” được bảo tồn của nó như trong các sách Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sừ kí toàn thư, Lược khảo thần thoại Việt Nam,... tinh thần thần thoại chỉ còn hiện lên khá mờ nhạt trong tính cụ thể cùa kí ức. Có thể nói thần thoại Việt cổ đích thực đã khuất lấp hẳn vào sương mù của thời gian. Đó đây, đôi khi trong các câu chuyện cũ viêt lại, những dâu vết của nó chi còn như những hạt ngọc đã vỡ vụn sau sự đứt gãy không đều cùa toàn bộ hệ thống. Tuy vậy, khoảng mấy chục năm trở lại đây, với sự nỗ lực của mấy thế hệ các nhà sưu tầm, khảo cứu tronề hoàn cành mới điều kiện mới, từng bước chúng ta đã tiếp cận được ngày càng sâu sắc vào vốn cổ dân gian không chi của người Kinh mà còn cùa các cộng đồng dân tộc anh em trên một quốc gia đa tộc người, đa dạng vùng văn hoá từ đồng bằng lên miền núi, trải dài từ Bắc đến Nam, và đã phát hiện ra những mạch nguồn thần thoại đích thực. Bên cạnh một bộ phận tiêu biểu cho thần thoại cùa người Kinh được khôi phục lại trên cơ sở so sánh và đối chiếu theo quan điểm tiếp cận hệ thống liên ngành, chúng ta đã từng bước tích hợp được các mẫu kể thần thoại đích thực từ trong các truyện kể và thơ ca nghi lễ mang tính địa phương thuộc về văn hoá dân gian của một tộc người thiểu số, hay một nhóm tộc người có cùng ngữ hệ vẫn còn được truyền miệng. Tất nhiên, khi mà thời đại thần thoại đã một đi không trở lại, những tác phẩm như thế cũng vân chi là những tàn dư trong kí ức tập thể, trong ki niệm riêng của một dân tộc. Mặc dù vậy, tính hệ thống cùa các nhóm mẫu kể loại này vẫn đem lại cho các nhà nghiên cứu một giá trị học thuật rất đáng kể. Trong đó, bên cạnh những giá trị đặc sắc của văn hoá tộc người, hệ thống thần thoại của các thành phần dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam vẫn bộc lộ rõ những mối tương đồng trong thần thoại Việt cổ nói chung, tạo nên một cơ cấu “thông nhât trong đa dạng”, bời về cơ bản chúng đều có cơ sở cùng nguồn văn hoá Nam Á cổ. Hơn nữa, ngày nay, với sự tiếp cận nghiên cứu liên ngành từ góc độ khoa học VHDG, chúng ta hoàn tỏàn cỏ điều kiện để 55 nghiên cứu giá trị cùa thần thoại Việt trên một phác thảo toàn cành từ những tác phẩm tiêu biểu khác nhau bổ sung cho nhau thành một hệ thống. 2. Những phương diện nội dung CO’ bản 2.1. Thần thoại Việt cổ với những quan niệm về thế giới tự nhiên và nguồn gốc loài người trong xã hội thời tiền sử a) Những quan niệm vẽ thế giới tự nhiên và xã hội buổi đầu Thế giới tự nhiên với vũ trụ đa tầng trong quan niệm của người xưa được nhận thức trong thần thoại Việt cổ ở những thành phần dân tộc khác nhau đều có một đặc điềm nhất quán: Ỏ đầu nguồn cùa sự hình dung, thiên nhiên mới chi được nhân hoá một cách tự nhiên. Tiếp theo, trong tương quan giữa cái vô hạn, vĩnh viễn, vĩ đại cùa tự nhiên với cái hữu hạn, mong manh, nhò bé của kiếp người khi nắng hạn, rừng khô, cò cháy, khi nước dâng, sóng thần, bão tố, sự hình dung của những con người sống trong sợ hãi đã làm xuất hiện nhũng ám ảnh về một thế giới cùa những vị thần khổng lồ. Ở dạng ban đầu, đó là những vị thần mang dáng dấp con người và được con người sử dụng lại chính cái sàn phẩm do minh tưởng tượng ra đề giải thích sự hình thành vũ trụ. Trong tàn dư thần thoại của người Kinh, ngoài mẫu kể về Thần trụ trời được nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi lược khảo lại như ông viết là còn giữ được vài ba ý niệm về thuở hồng hoang mà tất cả chúng ta đều ít nhiều đã nhập tâm từ tuồi ấu thơ: Nhất ông đếm cát/ Nhì ông tát bế/,... thi hầu hết các truyện kể về các vị thần khác như thần Gió, thần Mưa, thần sấm, thần Đất, thần Nước, thần Biến, thần Mặt Trời, Mặt Trăng, ... đều đã ngà màu cổ tích. Người Kinh có Thần Trụ Trời, người Mường có bà Nhan và ông Chống Trời, người Tày có Pựt Luông và người khổng lồ Tài Ngào, người Thái có Then Luông cùng năm Chô Côm, người H ’Mông có Dự Nhung, người Dao có thần Bàn cổ, còn người Ê Đê thì có Ai Điê, người Chăm lại có Tầm Thênh,... Trong vũ trụ quan của con người ờ trình độ đầu tiên, nhờ hoạt động ngẫu nhiên và phi thường của các vị thần mà thế giới vạn vật từ hỗn mang, mờ mịt đã được kiến tạo, từ rời rạc, hỗn độn đã được phân đôi, thế mới có trên trời dưới đất. Ví dụ, người Tày cổ quan niệm vũ trụ ban đầu rất hỗn độn, sau có Pựt Luông phân chia thành ba cõi gồm cõi trên, cõi giữa và cõi dưới, nhưng cõi trên vẫn còn thấp đến nỗi người ở cõi giữa giã gạo mà đầu cái chày đã đụng tới người ở cõi trên. Người ba cõi lúc 56 đầu cũng vẫn thường xuyên đi lại với nhau. Người cõi trên, cõi giữa và cõi dưới chì phân biệt với nhau bằng cách đeo dao. Người cõi trên đeo dao ở trán, người cõi dưới đeo dao ở kheo mắt cá chân, chi có người cõi giữa là mới đeo dao ở thất lưng như ngày nay ta thấy, v ề kích thước cũng có khác, nếu người cõi dưới chi nhò bằng cái lọ đựng rượu của người Tày thỉ người cõi trên lại thật to lớn khổng lồ. Họ là người Trời, họ là những vị thần như vợ chồng Mặt Trời - Mặt Trăng,... vốn ban đầu, Pựt Luông là Đấng tối cao cai quản chung, nhưng sau vì con người có thói phóng uế bừa bãi nên cõi trên phải dâng mãi lên cao. Từ đấy cõi giữa trở nên hỗn độn vì không có người làm chúa tể muôn loài. Pựt Luông mới bày cách giả chết đề biết lòng muôn vật mà chọn ra loài thù lĩnh. Trên đường lên trời khóc Pựt Luông, có một con Rùa vàng lớn bị mắc “khon” (cái cây lớn đồ chắn ngang lối đi) mà không loài nào cứu giúp. Duy nhất chi đến khi con người đi qua mới giúp Rùa vượt "khon”. Vi chịu ơn con người nên Rùa vàng mới mách bảo con người khôn ngoan hơn cả trong lời khóc Pựt. Từ đấy loài người ờ cõi giữa mới trở thành chúa tề của muôn loài, về sau, người Tày còn bổ sung một cõi sống khác là dưới lòng nước, chỉ dành cho người thuồng luồng, nhưng họ không đù “điều kiện” để lập một cõi riêng. Thế nên người Tày mới chi có vũ trụ ba tầng. Giới hạn này cũng phù hợp với vũ trụ quan nói chung cùa con người thời tiền sừ,.mang đặc điềm phố quát nhân loại. Các vị thần thuở ấy mới chi có nhân hình khổng lồ mà chưa có nhân tính như chính con người. Thế còn vi sao mà bầu trời, mặt đất lại trở nên phức tạp, ồn ào và nhộn nhịp thì người xưa chỉ có thể cắt nghĩa được khi trong nhận thức của họ đã xuất hiện những cặp đôi kết hợp ông Dực - bà Cái để chửa đẻ mà sinh ra vạn vật: người Kinh có ông Đùng bà Đà, người Mường có ông Thu Tha bà Thu Thiên, người Tày có Pú Luông - Slao Cài, hậu duệ cùa Pựt Luông, và vợ chồng Tài Ngào, người Thái có ông bà Ải Lậc Cậc, hậu duệ cùa Then Luông và năm Chô Côm. Các vị thần dần dà đã biến đổi từ chỗ mới chỉ có hình thể nhu người đến chỗ đã bắt đầu có “nhân tính”. Khi con nguời đã biết cách khai thác nguồn thức ăn có sẵn trong tự nhiên cũng là khi trên Tây Bắc có Ải Lậc Cậc đuổi cá từ thượng nguồn chín ngọn nước trắng xoá vào trong lòng váy của bà vợ khổng lồ, cũng là khi bên Đông Bắc có ông Tài Ngào dồn thú từ các đinh núi vào trong váy của bà vợ khổng lồ. Chi với một cái dằm gỗ đâm vào đùi Ải Lậc Cậc, người ta đã đục được một con thuyền độc 57 mộc. Chỉ nhổ ra cho hết số cây que vướng vào váy bà Tài Ngào trong một cuộc đi săn, người ta đã xếp chúng lại thành từng đống làm củi mà đã đù dùng để nướng đồ ăn đến vài năm mới hết. Như một lẽ tự nhiên, ước mơ của con nguời đã kết bện thành hình tượng về những cặp đôi làm lụng và no đủ. Tất nhiên, khi trình độ sản xuất đã phát triển lên một bước mới, con người đã bước đầu biết cách tổ chức các hoạt động chăn nuôi và trồng trọt thì những cánh đồng và các bãi chăn thả gia súc cũng được quy công cho các vị thần. Để có những cánh đồng trên bốn xứ Than, Lò, Thanh, Tấc thì ông bà Ải Lậc Cậc cũng phải dày công khai sơn phá thạch. Để có các bàn làng Tày được sắp xếp lại như ngày nay với đủ thứ người khôn nghề khéo của ngon vật lạ trên các cánh đồng trù phú ờ Hoà An, Nguyên Bình, Thất Khê thì ông bà Pú Luông - Slao Cải cũng phải lao động bằng chính đôi vai gánh núi, đôi tay xè đất. Tất nhiên, cách giải thích như thế là một nhận thức chù quan và hoàn toàn được nhào nặn bằng trí tưởng tượng, song nó đã chứng tỏ ít nhất hai khía cạnh hết sức chân thật trong vũ trụ quan thần thoại từ suy nguyên đến sáng tạo. Thứ nhất, nhận thức thế giới quanh ta là “cơn khát muôn thuở có tính nhân loại” (M. Gorki). Thứ hai, sự phản ánh và giải thích thực tại ngay ở thời kì đầu tiên của nhân loại đã không vượt qua được khả năng và trình độ lao động xã hội buổi đầu. Đặc điểm có tính quy luật này cũng được minh chứng với hàng loạt những mẫu kể về sự hình dung loài người đã ra đời như thế nào trong vũ trụ quan thần thoại. b) Những quan niệm vê nguồn gốc loài người và vạn vật buổi đầu Để làm sáng tò vấn đề hình dung về nguồn gốc loài người, không thể không đề cập tới sự nhận thức được vai trò và giá trị cùa lừa khi con người đã trải qua các bước từ sợ lừa, quý lửa, giữ lừa và tự làm ra lửa, biết sử dụng lừa vào đời sống sinh hoạt cộng đồng. Thời kì xuất hiện đo gốm có thể được xem như một cái mốc đánh dấu thời kì đầu khi con người hình thành ý niệm về nguồn gốc muôn loài, trong đó đã chứa đựng ý tưởng giải thích rất kì thú về nguồn gốc loài người. Trong vạn vật, vật gì cũng đều do một Đấng tối cao nặn ra hết thảy, kế đó là được thổi hồn, cho hoạt động. Nhưng chi có loài người là được nặn ra bằng những chất tinh tuý nhất. Người Kinh quan niệm việc tạo ra người là do Mười hai bà mụ, thế nên nhỡ ra mà một trong các nữ thần ấy sơ sảy nhầm lẫn thì sự khuyết thiếu hay thừa thãi một ngón 58 chân ngón tay cũng là sự thường. Tuy nhiên, một quan niệm như thế không thấy phồ biến ở thần thoại các dân tộc thiểu số. Trong thần thoại của các tộc người thiểu số, có lẽ phổ biến nhất là những truyện kể về vật tồ. Tất nhiên, từ ý niệm về vật tổ đến những thần thoại về vật tổ là cả một quá trình như đã nói ở trên. Ví dụ truyện của người Mường về cây si, về chim, về cá, người Ê Đê về cây tre, người Châm và người Raglai về cây cau, cây dừa. Người Mường ờ vùng trung châu Bắc Bộ và vùng núi xứ Thanh có chuyện Dè người từ thân cây si thần tự nhiên mà mọc lên. Người Tày vùng Đông Bắc quan niệm công việc trọng đại này là của Mẹ Hoa, “Mẹ Hoa sinh ra, Mẹ Hoa đặt lại”. Người Chăm ở vùng Ninh Thuận thuộc Trung Bộ cũng có huyền thoại về một ông tổ của họ được sinh ra từ một bẹ hoa cau. Với các tộc người khác như Thái, Khơ mú cũng có những truyện tương tự. Đặc điểm rất nồi bật ở bộ phận thần thoại về nguồn gốc loài người trong thần thoại Việt cổ là ở sự tương đồng kì lạ trong các truyện kể về: thần Rồng, Trứng thiêng (Tiên chim) và Quà bầu tiên của tất cà các thành phần dân tộc có chung nền văn hoá Nam Á cổ, mà hầu hết hậu duệ của họ ngày nay đều là chù nhân của các quốc gia ở Đông Nam Á. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khang định biểu tượng Rồng - là sản phẩm của văn hoá Việt cồ phương Nam, đã được di chuyển vào văn hoá Hán, sau đó mới trở thành biểu tượng Rồng - vương quyền của phong kiến phương Bắc. Dựa theo các thành tựu nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng học văn hoá,... có thể đoán định theo trình tự thời gian: Rồng - Trứng thiêng (Tiên chim) - Quà bầu mẹ. Rất có thể biểu tượng Quà bầu mẹ là vật tổ chung có tính phổ quát nhất ở hầu hết mọi cư dân Nam Á cổ. Tất nhiên, biểu tượng này chỉ có thể xuất hiện trong môi trường văn hoá bầu bí khi đã cực kì phồn thịnh từ sau m ộ i I1Ọ11 hòn g Iliuỹ — cũ n g là m ột ám ánh có tính phò quát Iihân loại — vâ với điều kiện công cụ bằng kim khí đã bắt đầu xuất hiện phổ biến trong đời sống sinh hoạt, v ề mặt tổ chức thiết chế xã hội, từ các tình tiết trong các truyện ấy cũng cho biết đó là thời kì các bộ tộc với vai trò chính thuộc về người phụ nữ đã bắt đầu được thay thế bằng các bộ lạc với vai trò chính thuộc về người đàn ông. Tuy nhiên, tìm hiểu thần thoại Việt cổ trên toàn cõi “vua Rồng xứ Lạc” không thể không trở lại với cặp đôi biểu tượng Rồng - Tiên cùa tộc người Kinh có giá trị vừa thâu hoá, vừa lan toà. Thật vậy, khi khảo luận về nguồn 59 gốc con người từ góc độ thế giới quan Việt cổ trong phạm vi thần thoại, dương nhiên phải tạm thời gạt bỏ hết cái lớp vỏ bọc Hán hoá hết sức muộn màng của đời sau để định danh tính cho các hành động thần thoại thuần tuý - sản phẩm gốc của văn hoá cơ tầng Việt cổ. Từ đó ngược nguồn Nam Á cổ, đưa nó vào hệ quy chiếu văn hoá Nam Á sẽ có thể nhận ra toàn vẹn sức thu hút và lan toả như nói ở trên. Chúng ta sẽ nhận ra trong đó rất nhiều mẫu số chung với vô số các tín ngưỡng cổ, tập quán, phong tục, lối sống cồ xưa của từng thành phần dân tộc. Ở đây, ngoài lí do cùng nguồn là cơ bản, tất nhiên giữa chúng cũng đã có sự giao lưu tự nhiên trong dòng chày của thời gian và không gian thần thoại. Vì thế từ tính loại hình chung của văn hoá Nam Á cổ, chúng ta còn tiếp tục phát hiện ra những giá trị hội nhập hết sức quý báu trong truyền thống vãn hoá Việt cổ với các mẫu gốc trong vô số các huyền thoại về quả trứng thiêng nở ra loài người trên dải đất hình chữ s này, từ núi - biển, non - nước, đến đất và nước tạo nên đất nước. 2.2. Thần thoại Việt cổ với những khát vọng cải tạo, chinh phục tự nhiên và sáng tạo văn hoá thời tiền sử Tìm hiểu về nội dung này trong thần thoại thế giới, như trong hệ thống thần thoại Hi Lạp hay Án Độ, đã chứng tỏ ở đây mới chính là điểm hội tụ những vẻ đẹp lãng mạn nhất trong tư duy tình cảm thẩm mĩ thần thoại. Tuy nhiên, đối với thần thoại Việt cổ, trước đây đã có những ý kiến cho rằng thần thoại của người Kinh đã mất mát quá nhiều, còn lại một số đã chuyển hoá thành truyền thuyết hoặc ngả màu cổ tích, trong khi thần thoại của các thành phần dân tộc anh em thì hầu hết chi là chuyện của một mường, một bàn khiến chúng ta không còn đủ căn cứ để dựng lại toàn cành bức tranh về cuộc sống, những hình tượng về con người một cách trọn vẹn trong vé đẹp thần thoại. Thế nên để tìm hiểu nội dung này, cần có .những liên tưởng khác qua những “hành động thần thoại” của những “nhân vật truyền thuyết”. Đó là sự nghiệp của Bố Rồng Lạc Long Quân dẹp các loài yêu quái, chiến tháng Mộc tinh ờ đại ngàn, Hồ Tinh chín đuôi ờ vùng đầm lầy, Ngư Tinh khổng lồ vùng sông nước ven biển lớn để mở rộng địa bàn sinh tụ. Đó là sự nghiệp cùa thần núi Tàn Sơn Tinh vượt lên trên những con nước lớn để quai đê chặn lũ, dạy dân bẫy thú, đánh cá và làm ra lửa. Đó là sự nghiệp cùa “ông khổng lồ lịch sử” làng Gióng từ góc độ một biểu tượng kép nhiên - nhân thần, thần Kim Quy, thần sông Tô Lịch, thần Long Đỗ,... mà ngày nay, lần 60 theo dấu xưa để lại cùa các vị ấy, ta vẫn hình dung và tưởng tượng ra được những ki tích trong danh thắng núi sông. Nói như thế nhưng bên cạnh những thần thoại đời sau đã chuyển hẳn vào hệ thống truyền thuyết, nếu chúng ta lần ngược trở lại đề tìm hiểu những mẫu kể đơn giàn, mà rất có thề ở dạng ban đầu vốn là thần thoại suy nguyên nhưng đã ngả màu cô tích và ít nhiều đã bị Hán hoá (ví dụ tên gọi ông Trời đã thành Ngọc Hoàng) như các truyện kế về Chàng Quái bắn mặt trời, Gà trống gọi mặt trời hay là Vì sao vịt không ấp trứng nuôi con, Cóc kêu trời mưa hay là truyện Cóc kiện trời, truyện Sự lích thằng Cuội cung trăng, truyện Rắn già ran lột người già người lộn vào săng, A Chức Chàng Ngiru hay là truyện Ỏng Ngâu bà Ngâu, truyện Đứa con cùa thần gió, Lúa than hay là truyện Lúa tự mọc bay về nhà. Ngọc Hoàng chế tạo ra lúa và bông, truyện Cường Bạo đại vương với thần sét và cà một hệ thống kiểu truyện ông Dùng xứ Nghệ với huyền thoại Con sắt đập ngã ông Đùng,... sẽ nhận ra ờ bất kì một sự tích nào đã được dẫn ra ở trên cũng đều có một ý nghĩa kép. Đó là những mẩu chuyện vừa như vẫn còn chứa đựng biết bao băn khoăn, trăn trở cùa con người thời cố đang tim cách giải thích các hiện tượng tự nhiên, muốn bày tò những khát khao, ước muốn thay đồi được những khó khăn vất vả cực nhọc trong cuộc sông vẫn còn quá nhiều lệ thuộc vào cái ngẫu nhiên, đồng thòi vừa như có cái âm hưởng anh hùng ca cúa những con naười đã từne vượt qua được những giới hạn của tự nhiên trong cái hào khí xông lên cùa đoàn quân Cóc kiện trời. Có thể tìm hiểu một mẫu kề về Sự tích thằnẹ Cuội cung trăng-. Đây là một câu chuyện dân gian có kết cấu khá chặt chẽ như một truyện cổ tích mà trước đày có lẽ không một chú bé chăn trâu nào ớ một ngôi làng cổ vùng đồng bang Bac Bộ không “thuộc nằm lòng”. Tính suy nguyên cùa cốt kề thần thoại này là ý muốn giải thích cái vết đen trên mặt trăng, nhưng thấm đượm trong các tình tiết của cốt truyện này lại là những vấn đề cùa nhân sinh. Đó là ước mơ ngàn đời cùa con người đến một ngày nào đó sê tìm ra cây thuốc đề cứu người chết sống lại, đế người sống trẻ mãi không già. Đặc biệt như tiết truyện để chữa bệnh cho vợ mình, Cuội đã có thê thay được cả phủ tạng bên trong của vợ. Tiếc thay, cái sai lầm cùa Cuội vẫn còn là câu chuyện cùa hôm nay. Cuội chi còn biết ngồi trên cành đa ở tận trên cung trăng, thỉnh thoảng lại bứt vài ba cái lá đa thả xuống trần gian. Không biết đó có phải là ý muốn cùa chú Cuội hay không, nhưng nghe nói 61 trong dân gian nếu có người mắc bệnh hủi may mắn nhặt được những cái lá đó mà nhai thì sẽ khỏi bệnh. Đó là những lớp mới về sau để nối dài ý nghĩa ban đầu, cũng là nối dài cái mơ ước ngàn đời cùa nhân dân đã có từ khát vọng thần thoại. Đến một thời kì chú Cuội xuất hiện trong những câu hát dân gian: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa Đe trâu ăn lúa gọi cha ời ời... thì khát vọng của chú Cuội thần thoại đã đồng nhất vào giấc mơ cổ tích của đám trẻ chăn trâu nơi làng Việt. Và hơn nữa, trong khoảng mấy chục năm trở lại đây, chúng ta thấy đã xuất hiện những kho tàng thần thoại của các tộc người miền núi không chi là truyện cùa một mường, một bàn như trước đây quan niệm. Từ những năm đầu thập ki 80 của thế ki XX đến nay, lần lượt đã có thêm nhiều tập truyện cổ miền núi được sưu tầm và xuất bàn. Neu có điều kiện khám phá cụ thể vào trong từng hệ thống thần thoại của mỗi tộc người miền núi trên đất nước chúng ta, sẽ còn phát hiện rất nhiều cốt truyện và nhân vật đậm chất bí ẩn, huyền hoặc và thơ mộng về chủ đề này. Trước hết, đó là những nhóm truyện kể về những thành tựu lao động nương rẫy và khát khao chinh phục tự nhiên vì cuộc sống của cộng đồng. Đó là truyện kể về các cuộc chiến tranh núi - nước, lừa - nước vẫn còn được tìm thấy trong rất nhiều những mẩu chuyện còn thô mộc, đơn giản của các tộc thiểu số anh em. Đó là truyện kể về người Thái, người Xá bắn mặt trời bằng những cánh nò khổng lồ. Đó là những truyện kể về sự tích “chặt chu”, “kéo chu”, săn quạ điên, cá điên của người Mường trong sừ thi thần thoại còn lưu truyền ờ các xứ Mường phía Bắc. Đó còn là những huyền thoại về chàng khổng lồ Prông Pha đạp núi xè đất tìm nguôn nước, diệt ycu tinh trừ hạn hán, lũ lụt cùa người Ẽ Dc ờ phía N am ,... Tất cả đều CÓ chung một âm vang thần thoại ngợi ca những chiến công kì vĩ, hào hùng của các thủ lĩnh anh hùng mang sức mạnh thần linh. Họ đều là những người khổng lồ về ý chí khai sơn phá thạch làm ra đất nước. Sau đó là những nhóm truyện kể về những ước mơ đẹp về một cuộc sống thanh bình, phẳng lặng, cân đối, hiền hoà trong lao động giữa thẳm xanh của rừng núi. Sẽ cảm khái vô cùng với người Tày vùng Đông Bắc khi người ta hình dung cả bầu trời trên cao cũng là một cánh đồng, khi trên đấy đang bừa ngấu thì màn trời đục ngầu khiến người hạ giới thêm ủ ê, khi thóc lúa đã chín vàng là vào những đêm đầy sao, người Tày bảo nhau đó là sân phơi những 62 hạt thóc giống của trời trên cánh đồng bội thu. Người ta cấm kị nhau không được đếm bời vì nếu hạt nào bị đếm, hạt đó sẽ bị lép còn nảy mầm sao được. Ở đây có một logic hồn nhiên: Nhà trời mà đói thì cõi hạ giới cũng không thề no đù. Cùng với logic này, người Tày cổ cho rằng: Ờ cõi trên, ông Trời và bà Trăng cũng là một cặp đôi người khổng lồ làm ruộng nước. Họ cao lớn nên ăn cũng nhiều và cũng phải làm lụng quanh năm mới đù ăn. Quanh năm suốt tháng họ cứ phải đuồi nhau “anh lên núi, em đã xuống đèo” thành ra chẳng có mấy khi gặp mặt. Thế nên mỗi lần nhật thực, nguyệt thực là lúc ông bà ấy phù nhau. Người hạ giới thấy sốt ruột, bèn hò nhau đập vào cái loóng tuốt lúa ngoài ruộng cho người cõi trên mau nhả nhau ra đề còn “đi làm ăn”. Năm nào ông Trời nhả bà Trăng về đằng đầu thì năm ấy được mùa, còn ngược lại thì người ta buồn ra mặt. Có thê tim hiếu như vậy, chúng ta sẽ thấy thêm rất nhiều những cảnh tượng kì thú về sự hình dung cuộc sống lao động nhẹ nhàng hơn và khát vọng đời sống no đủ hơn trong những khu vườn Dinzangca của người H’Mông cũng như những cánh rừng đầy hoa thơm trái ngọt cùa người Xê Đăng. Nếu qua những truyện kể lưu truyền ờ vùng dồng bàng người Kinh mơ ước về những giống lúa thần tự mọc tự trồ bông kết trái, đến ngày bông sây hạt chín lúa tự bay về nhà người, thì trong những truyện này ta cũng thây người miền rừng núi cũng ước ao “cây sinh cá, lá sinh cơm”. Và từ những thần thoại kề trên, dẫu cốt truyện có phần ngắn gọn, đơn giàn, nhân vật có phần mộc mạc, thô dã nhưng đã ít nhiều thấm đượm ý nghĩa nhân văn. Cả một hệ thống như thế đã cho ta thấy: Từ nhiều ngàn năm trở về trước, đất nước chúng ta đã là một trong những cái nôi cùa cây lúa nước và nghề trồng lúa nước đã rất phát triển. Sự phong phú đặc biệt về những sản phẩm từ lúa nước đã minh chứng cho một trinh độ cao của nền văn hoá lúa nước trên đất nước này. Và cái đặc điểm vừa hội tụ, vừa lan toả này cùa thần thoại đã để lại dấu ấn bền vững về sau trong hệ thống truyền thuyết thời Hùng Vương trên kinh đô Phong Châu cùa cả cộng đồng Việt cổ. 3. Những phương diện nghệ thuật sơ khai của thần thoại Việt cổ Thi pháp thần thoại là một đề tài được tranh luận có hay không có. Đã có những nghiên cứu cho ràng không có thi pháp thần thoại, bởi thần thoại là thể loại nghệ thuật ngôn từ đầu tiên và không tự giác. Đồng quan điểm 63 này nhưng cực đoan hom, có ý kiến còn phủ nhận tư cách thể loại VHDG của thần thoại, đưa hản nó vào lĩnh vực văn hoá nguyên thuỷ. Tuy nhiên, chính những thành tựu nghiên cứu tổng hợp về thần thoại trong khoa thần thoại học từ giữa thế ki XIX đã phủ định lại những ý kiến trên. Những thành tựu mới về thần thoại được nghiên cứu trong nửa cuối thế kỉ XX đến nay đã khẳng định tư cách của thần thoại như một thể loại văn học dân gian. Thần thoại là một thế giới nghệ thuật đặc biệt, không thế bắt chước, được sáng tạo một cách tự phát nhưng phương thức, cách thức nghệ thuật của nó lại là cơ sở, tiền đề cùa rất nhiều loại hình nghệ thuật đời sau. Những phương thức, cách thức nghệ thuật ấy là một tổ hợp những đặc điểm về hình thức nghệ thuật thần thoại mà sau này, đến cuối thế kỉ XX, người ta gọi là thi pháp huyền thoại. Ngoài ý kiến tiêu biểu của Mêlêtinxki như chúng ta đã thấy ở trên, có thể kể đến ý kiến khác cùa một nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới về folklore học Mĩ là w . Bascom. Nhà thần thoại học R. Rarer đã lược thuật lại quan niệm cùa ông như sau: “Bascom coi thần thoại là một hình thức cùa truyện kể văn xuôi được các thành viên cùa xã hội có nền văn hoá chứa đựng huyền thoại đó tin là thật. Bascom nhận xét hơn nữa rằng: Huyền thoại có quan hệ với các sự kiện cùa thời quá khứ xa xưa từ một thế giới khác hoặc là sớm hom một thế giới mà huyền thoại liên quan tới. Huyền thoại có một thành phần thiêng liêng (nếu nó không được coi là hoàn toàn linh thiêng) và chúng có nhân vật chính không phải là người. Ông cũng xác nhận ràng, mặc dù có ít huyền thoại hơn là truyện cổ tích và truyền thuyết hiện diện trong nền văn hoá bất kì, nhưng huyền thoại được coi là có tầm quan trọng vượt lên con số của chúng ở chỗ chúng thiêng liêng và cung cấp lí do căn bản cho sự tồn tại và cách làm việc trong nền văn hoá đó. Cuối cùng, òng nói rằng, huyền thoại có chức năng giải thích và nói về căn nguyên” [Claire R. Rarrer, bài Thần thoại, in trong Folklore mộI sổ thuật ngữ đương đại, Ngô Đức Thịnh, F. Proschan (đồng chù biên), bản dịch tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 2005, tr. 216]. Sự hấp dẫn cùa thần thoại có tính chất đặc biệt, đó là sự hấp dẫn của một nghệ thuật nảy nở trên những điều kiện xã hội sơ khai, một nghệ thuật về sau không bao giờ có thể sản sinh được nữa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khảng định thần thoại là một loại sáng tác nghệ thuật cổ đại mà người đời sau không bao giờ bắt chước được. Nhưng sáng tạo cũng là bất chước một cách sáng tạo. Thành tựu cùa văn chương kì ảo :hế giới cuối 64 thế ki XX, trong dó có một bộ phận văn học Việt Nam đương đại, đã chứng tò ưu thê cùa thi pháp huyên thoại như ý kiến cùa nhà nghiên cứu Dặng Anh Đào. đại ý: Có thé nói chính sự trờ về với huyền thoại dã mang lại cho những tác phấm hiện đại chất thơ, vè đẹp hồn nhiên mà bí ẩn, đã khiến những vấn đề cùa cái thường nhật được nâng lên tâm của ý nghĩa siêu hình, hướng cái nhìn lên cao và dê mỗi người dọc lại được thôi thúc tìm cách giài mã những câu hoi muôn đời cùa hiện sinh. Bởi vi những vấn dề ấy, những cách biêu dạt ây đã từng xuất hiện ớ những câu chuyện khai nguyên kiến tạo, trong những công trình nghệ thuật tập thể vô danh. 3.1. Những đặc điểm về hình thức cấu tạo cốt truyện Theo quan điểm cho rang có một hộ thống thi pháp thần thoại, sẽ dỗ dàng nhận ra trong nghệ thuật sáng tạo thể loại này một số yếu tố hình thức biểu hiện tính quan niệm không tự giác nhưnti lại đặc biệt có giá trị tư tưởng - thẩm mĩ dặc trưng thể loại. Trước hết, đó là những yếu tố hình thức của cốt truyện. Hiển nhiên, do bị chế định cùa môi trường văn hoá đặc thù, thần thoại Việt cô không còn báo toàn được tinh hệ thòng, nhưng qua những mẫu ké về các nhiên thần trên điện thần người Việt, có thề nhận ra những đặc điểm tưưng dồng loại hình về hình thức cấu tạo cốt truyện thần thoại chung của nhân loại. Trong dó, mỗi đon vị truyện là một mẫu kê độc lập về một nhân vật, và mỗi nhân vật chì thực hiện một công việc trọng đại có ý nghĩa chức năng không thế bát chước. Sự mờ đầu và kết thúc mỗi sự kiện nhu thế đều không có tính lí do và dược diễn ra trong một không gian đặc biệt gọi là "không gian phi không gian” và một “thời gian phi thời gian”, tạo nên một thế giới nghệ thuật đặc thù. Trong đó, bât cứ một sự kiện nào đã xảy ra đêu có tính ngàu nhiên về không gian vá phi lịch sư về thời gian (thời gian dứt đoạn), đem lại cho người nghe cảm nhận bất cứ một sự kiện nào được ke lại cũng dều bắt đầu từ chỗ phái bẩt đầu. Và kết thúc mỗi mẫu kề như thế dêu không thê thiêu lời người kẻ chuyện có tính suy nguycn. Có thề nhận ra cái hỉnh thức cấu tạo một cốt truyện thần thoại như thế qua những mẫu kề về Thản trụ trời, Thần núi, Thần lửa, Thẩn biên, Mười hai bù mụ, Nữ thần Mặt Trời, Mặt Trăng, ...của người Kinh, khi chúng ta còn có thế dựng lại được cốt truyện khá trung thực vê một nhân vật nhiên thẩn như trong Lược khao thần thoại Việt Nam của Nguyễn Đông Chi từ những “mánh vụn”, 5.GTVH DÂN GIAN-A 65 bao gồm vô số những mẩu truyện có thể được xem là những tàn dư thần thoại đã được chế tác lại bời người đời sau. Cũng phải lưu ý có rất nhiều những mẫu kể như thế đã ngả màu cổ tích, như: Thần gió, Thần sấm, Thần đất, Thần nước, Nữ thần lúa, Cóc kêu trời mưa, Thằng Cuội cung trăng, Chàng Quái bắn mặt trời, A Chức Chàng Ngưu,... (Kinh), Ải Lậc Cậc (Thái), Tài Ngào (Tày),... Đặc biệt, nhiều mẫu kể đã được truyền thuyết hoá sẽ được xem xét trong các chương sau. 3.2. Những đặc điểm về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật Trở lên trên, có thể nói, tính sơ khai cùa nghệ thuật nguyên thuý trong thần thoại thể hiện ở đặc điểm cốt truyện. Tính sơ khai này còn thể hiện đậm nét trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Nếu về phương diện cốt truyện thần thoại, giữa các nhà nghiên cứu còn có những nhận định khác biệt, thì về phương diện này, đều có sự nhất trí cho ràng vấn đề xây dựng hình tượng thần là trung tâm, đó cũng là trung tâm của sụ sáng tạo nghệ thuật của thể loại. Khảo sát thế giới nhân vật thần thoại Việt cồ, dễ dàng nhận ra một đặc điểm có tính phổ quát cùa thần thoại nói chung, đó là thế giới các vị thần trong dáng vóc khổng lồ. Trước hết, đó là sự khổng lồ về thể chất, và trong quá trình vận động cùa thể loại, đều thấy có sự chuyển hoá từ các vị thần ban đầu mới chi có hình thề như người đến khi thế giới thần đã trở nên đông đảo đồng thời mỗi vị thần trong cái thế giới ấy đã cỏ những chức năng riêng trong các mối liên hệ thiết yếu với thế giới con người và các vị thần có vị trí hàng đầu trên điện thần của mỗi dân tộc đã này sinh nhân tính trong hành động vị nhân sinh. Hình tượng đôi vợ chồng Ải Lậc Cậc say mê làm lụng ngày đêm để tạo ra bốn cánh đồng trên cả một vùng Tây Bắc rộng lớn giữa núi non trập trùng hiện lên thật ngời đẹp. Hai ông bà đồ xôi ăn trưa trong cái ninh khổng lồ đặt trên ba ông đầu rau là ba đinh ngọn núi bên Mường Lò, bỗng thấy trâu ăn lúa, ăn mạ bên Mường Thanh bèn véo một nắm xôi ném sang bên ấy. Trâu bỏ đi rồi, nắm xôi khổng lồ trượt xuống lòng con sông Nậm Rốm mà thành một trái núi gọi là Pú Khẩu Chí (núi xôi nướng) vẫn còn đến bây giờ. Tìm hiểu thêm những chuỗi truyện khác từ truyện hai vợ chồng ông bà khổng lồ Pú Luông - Slao Cải (Tày) khai hoang vỡ đất dọc theo những thung lũng vùng bày ngọn suối tạo nên những cánh đồng màu mỡ ở Thất Khê (Lạng Sơn), Hoà An (Cao Bằng) 66 5.GTVH DẦN GIAN-B đến truyện những chàng trai khổng lồ đạp núi xè đất tìm nguồn nước, tiêu diệt yêu tinh, trừ lũ lụt, hạn hán cho người Ê Đê ở Tây Nguyên, cho người Khmer ờ miền Tây Nam bộ,... chúng ta đều nhận ra ở đó hai lớp sáng tạo: Từ nhân hinh hoá tự nhiên theo chiều kích phóng đại bàng trí tường tượng cùa chính bản thân con người trong sự đối sánh với tự nhiên đến sự thần thánh hoá tự nhiên trong niềm ngưỡng mộ tuyệt đối các nhân vật anh hùng trong thế giới các nhiên thần sáng tạo văn hoá. Lẽ tự nhiên, hình tượng thần được sáng tạo từ trong cảm thức con người thời đại mới bước vào ngưỡng cửa văn minh của nhũng cộng đồng xã hội đang tràn đầy hoà khí dân chù thị tộc nên họ thường đều là những nhân vật mang vẻ đẹp vô cùng khoáng đạt trong sự hư cấu vô tư, thần kì, dẫu có ít nhiều nhân tính nhưng đó vẫn là vè đẹp một đi không trở lại. Hình tượng nữ thần có tên gọi là bà Nhần trong một bài ca thần thoại Mường nối tiếng còn lại dến nay là một kiểu mẫu như thế. Có thể nói: “Hình tượng thần thoại bà Nhần dẹp núi non, sắp xếp lại đất đai, sáng tạo ra cây cỏ là một hình tượng mang đậm tính người. Bà Nhan được xây dựng thành một con người kì vĩ, tầm vóc được nâng lên cỡ thiên nhiên (vung dao lên chém xua cả núi, quay chày xáo được cả ba mươi tầng đất, chín mươi tầng đá). Nhưng hành động cùa bà Nhần lại rất bình thường, gần gũi với con người lao động: Bà rút con dao nhọn bảy nắm như là bất kì người đàn bà Mường nào đi hái cùi, đẵn cây; bà cầm chày quay gậy như bất cứ người phụ nữ nào đang giã gạo. Động tác của bà có khi rất mãnh liệt (chặt đất chan chát, chặt cát ầm ầm), nhưng cũng rất dịu hiền, khoan thai như trong tư thế bà trồng cây. Tính nết bà có khi dịu hiền là thế, nhưng cũng có khi bà "nổi giận đùng đùng, tức tối hậm hực” vì thấy núi non che lấp mất lô i ăn ò. Dà N h ân tuy lù m ột vị thân sủng tạo, nhưng cô n g việc củi» bà có khi cũng phải chịu thất bại cay đắng. Bà trồng cây bị sâu cắn chết, không biết cách cứu .chữa, cũng khóc lóc khồ sở y như một con người dưới trần gian vậy: Bà Nhần bỗng khóc sấp khóc ngửa Khóc tỷ tỷ lòng buồn (Đang Vãn Vá) Hơn nữa, tuy là thần bà Nhần vẫn kêu cứu “ơ trời” như bất cứ con người yếu đuối bình thường nào khác” [Võ Quang Nhơn, Sđd, tr. 120]. 67 Tương tự như thế còn có hình tượng mẹ Hoa trong những bài ca thần thoại của tộc người Tày cổ. Thế nên khi tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình tượng thần thoại của các thành phần dân tộc Việt Nam thời cổ xưa, bên cạnh những đặc điểm phổ quát, chúng ta vẫn nhận ra những phẩm chất nghệ thuật đặc thù. Nét phổ quát ở đặc điểm chung như đã thấy, thần trong thần thoại thường chỉ được xây dựng như những nhân vật chức năng. Trong thần thoại suy nguyên, dù thần này hay thần nọ thì mỗi người cũng chi gánh vác một công việc. Kì vĩ và rực rỡ đến chói gắt như thần Mặt Trời cũng chi có việc chiếu sáng. Âm thầm và dữ dội ở chốn thăm sâu như thần Biền thì cũng chỉ có nhịp thở vĩ đại tạo nên hơi thở của biến khơi trong nhịp điệu thuỷ triều,... Thế nhưng đến thần thoại sáng tạo thì khác. Trong mỗi cốt truyện đã ít nhiều phản ánh những thành tựu văn hoá buổi đầu cùa con người thì ở đó đã thấm đượm bàn sắc từng cộng đồng dân tộc trong những môi trường văn hoá khác biệt. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong thần thoại mỗi dân tộc, vì thế, cũng là chúng ta tìm vào nguồn mạch văn hoá dân tộc ờ những trọng điểm hội tụ điền hình. ❖ KÉT LUẬN > Thần thoại là một thể loại vãn học dân gian mang đặc trưng nguyên hợp điền hình và là giá trị sáng tạo nghệ thuật ngôn từ nàm trong chinh thể văn hoá nguyên thuỳ. Tìm hiểu thần thoại ở góc độ ngữ văn dân gian, phải đặt nó trong nền tảng cùa những ngữ cánh văn hoá đặc thù cùa bàn sắc tộc người thời tiền sử. > Di sản văn học thần thoại Việt cổ là một phức thể của 54 thành phàn dân lộc anh cm . H ệ thống thân thoại cùa tộc người đa số K inh (V iệt) CÓ thê nói đã bị đứt gãy bởi sự khúc xạ cùa các luồng văn hoá ngoại sinh trong trường kì lịch sử dân tộc, song trên những nét lớn nó vẫn có sức thu hút và lan toà mạnh mẽ trong các mối quan hệ tự nhiên với từng hệ thống thần thoại riêng của các tộc thiểu số anh em trên tất cả các vùng văn hoá có cùng nguồn gốc văn hoá Nam Á cồ - văn hoá Bách Việt. Nghiên cứu một phức thể thần thoại như đã nói ở trên là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhưng đó mới chính là định hướng có tính đặc thù của khoa học VHDG Việt Nam. 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 E.M. Mẻlêtinxki, Thi pháp huyền thoại, Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. 2 Nguyễn Đổng Chi, Lược khảo về thần thoại Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, H., 1956. 3 Cao Huy Đỉnh, Tim hiểu tiến trình văn học dãn gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H., 1976. 4 Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian các dân tộc ¡t người ở Việt Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H., 1983. 5. Đính Gia Khánh, Trên đường tỉm hiểu văn hoá dân gian, NXB Khoa học xã hội, H„ 1989. 6. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Kho tàng thần thoại Việt Nam, NXB Khoa học xă hội, H., 1995. 7. Nguyễn Vãn Khoả, Thần thoại Hi Lạp, NXB Văn học, H., 2007. 8. Lẽ Chí Quế (Chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng VT, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2004. 9. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Chủ biên), Folklore một số thuật ngữ đương đại, NXB Khoa học xã hội, H., 2005. 10. Hội Folklore châu Á, Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Á trong quá trình hội nhập, NXB Thế giới, 2006. 69 Chương 2 TRUYỀN THUYẾT I- NHỮNG VÁN ĐÈ CHUNG VÈ THỂ LOẠI 1. Thuật ngữ, khái niệm và định nghĩa Trong quan niệm của giới folklore học thế giới, “thuật ngữ legend (truyền thuyết) có gốc từ tiếng Latinh legere - có nghĩa là đọc. Ban đầu, thuật ngữ này ở châu Âu có nghĩa là tên gọi của một đoạn tài liệu đọc để chỉ một cuốn sách chứa đựng những lí giải về cuộc đời các vị thánh được sắp xếp theo trật tự của lịch Thiên Chúa và được đọc trong những ngày lễ thánh với nghi thức thiêng liêng. Tuy vậy, sau đó một thời gian thì vô số những điều huyền diệu về các vị thánh ngày càng trờ nên ngụy tác, xa rời khỏi giáo luật chính thức. Đến cuối thời kì trung đại ở châu Âu, chữ truyền thuyết đã có nghĩa là những câu chuyện không chắc có thực hay là đã được hư cấu. Theo Linda Degh, trong dân gian cũng có một số loại truyền thuyết kể về một vị anh hùng nam hoặc nữ nổi tiếng hay hư cấu lịch sử được trình bày bằng miệng và từng được báết đến trên toàn thế giới. Nó kết hợp những sự kiện lịch sử với các yếu tố huyền thoại và truyện cồ tích theo nhiều cách khác nhau, thích ứng với môi trường văn hoá nhất định. Truyền thuyết dân gian có chung các yếu tố truyền thống vớ i truyền thuyết tôn giáo và anh hùng, được các nhà văn hoá dân gian học xác định là một thể loại văn hoá dân gian” [Linda Degh, Folklore một số thuật ngữ đưcmg đại, bài Truyền thuyết, Sđd, tr. 315]. Ở Việt Nam, trong một thời gian dài cho đến đầu thập kỉ 70 của thế ki truớc, truyền thuyết vẫn còn được xem là một loại truyện kể dân gian có tính nhị nguyên. Đã từng có quan niệm đồng nhất truyền thuyết với lịch sử, và ở một góc độ khác, nó còn được gọi là cổ tích lịch sử. Hơn mười năm sau, khi truyền thuyết đã được sưu tập với một khối lượng đáng kể và đã 70 được học giới quan niệm chính thức là một trong những thể loại văn học tự sự dân gian, thì việc nghiên cứu để xác định bản chất thể loại trên các phương diện từ nội dung tư tường thấm mĩ đến hình thức cấu trúc nghệ thuật cùa truyền thuyết vẫn còn nhiều sự khác biệt giữa các nhà nghiên cứu. Sự phức tạp này có lí do từ bản thân sự phức tạp cùa đối tuợng nghiên cứu. Như trên đã nói, do đặc điểm lịch sừ - văn hoá dân tộc mà sự nảy sinh và phát triển đặc biệt dồi dào, phong phú đến mức "phồn vinh” của thể loại này đã trở thành một dấu ấn đặc thù cùa văn học dân gian Việt Nam. Với đề tài, chủ đề truyền thuyết đa dạng, với khối lượng tác phẩm rất lớn, lại được lưu chuyên và biến đổi hàng ngàn năm trong môi trường truyền miệng trước khi có chữ viết ghi chép lại, có thể nói nhiều truyền thuyết đích thực đã có sự giao thoa thể loại cực kì sâu sắc với thần thoại và cổ tích. Do đó, một mặt phân loại truyền thuvết trong sự so sánh khu biệt với thần thoại và cổ tích đã hết sức khó khăn, mặt khác việc phân loại trong nội bộ thể loại truyền thuyết càng khó khăn hơn. Có thể nêu một ví dụ như sau: Hiện nay, trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 tập I hiện hành, các soạn giả đưa vào chương trình năm tác phẩm được xác định là truyền thuyết gồm các truyện: Con Rồng cháu Tiên, Bánh chưng bánh giầy, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thuỳ Tinh và Sự tích Hồ Gươm. Thế nhưng trong một tài liệu bôi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ sở, truyện Con Rồng cháu Tiên lại được phân tích là một thần thoại, còn truyện Thánh Gióng là cổ tích thần thoại (!). Trong một chuyên khảo khác, truyện Sơn Tinh Thuỳ Tinh được tác giả chứng minh là một thẩn thoại,... Có phải dường như trong truyền thuyết học, mỗi nhà nghiên l ứu lại đưa ra một quan niệm. Vì thế đã có ý kiến cho rằng việc phân loai ở thể loại này chỉ là một giả thiết để làm việc. Thật ra không phải thế, đặc biệt đối với folklore học, việc phân loại thể loại văn học dân gian nói chung cũng như phân loại cụ thể luôn luôn phải là tiền đề hết sức quan trọng của chuyên ngành. Vậy thế nào là truyền thuyết ? Sau đây là một số quan niệm và định nghĩa về truyền thuyết từ góc nhìn truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Trong giáo trình Văn học dân gian của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội do NXB Giáo dục xuất bản năm 1970, chương truyền thuyết do Đỗ Bình Trị chấp bút. Ông đã đưa ra định nghĩa: Truyền thuyết là những truyện 71 cổ dính líu đến lịch sử mà lại có sự kì diệu - là lịch sừ hoang đường - hoặc là những truyện tường tượng ít nhiều gắn với lịch sừ. Sau đó một năm, trong một bài tiểu luận có tựa đề “Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến'’ của Kiều Thu Hoạch, in chung trong cuốn sách Truyền thong anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam của nhiều tác giả do NXB Khoa học xã hội xuất bàn năm 1971, tác giả đã đưa ra một quan niệm về truyền thuyết mà cho đến nay vẫn được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận. Theo ông, “Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó kể lại truyện tích của nhân vật lịch sù hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm cùa nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến cùa nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sừ dụng các yếu tố hư ảo, thần kì như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ không nhàm phàn ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân mà thường phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia, dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sừ cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong trí tưởng tượng và bàng tri tưởng tượng”. Năm 2001, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cùa Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được biên soạn lại do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bán, chù biên là Lê Chí Quế. Trong giáo trinh này, phần truyền thuyết cũng do ông chấp bút, thế nên để đưa truyền thuyết vào cơ cấu thể loại VHDG, tác già đã lược điểm các ý kiến về truyền thuyết từ trước đến thời kì này, và sau khi chỉ ra những nét nổi bật về bản chất truyền thuyết, ông đưa ra định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phán ánh những sự kiện, nhân vật lịch sù, danh nhân văn hoá hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư cáu nghệ thuật thần ki” [Lê Chí Quế, Sđd, tr. 49]. Chúng ta có thể thấy đây là một định nghĩa rất ngắn gọn nhưng vẫn bám sát đặc trung thể loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy VHDG trong nhà trường. 2. Nguồn gốc, quá trình và phân loại thể loại 2.1. Vấn đề nguồn gốc Thời đại này sinh truyền thuyết trong lòng thần thoại sáng tạo được gọi là thời đại anh hùng. Chính “cái bắt đầu” này quyết định bàn chất thể loại, 72 sau đó chúng ta sẽ thấy đây là cơ sờ khoa học đế trong nhà trường — nơi cần một tri thức nên tàng ổn định - phân loại truyền thuyết chủ yếu với hai biến thể: truyền thuyết anh hùng và truyền thuyết lịch sù. Trong đó, giai đoạn sơ khai cùa truyền thuyết cũng có thể coi là giai đoạn quá độ từ thời đại thần thoại sang thời đại truyền thuyết. Và khi một bộ phận thần thoại được lịch sư hoá thì đó cũng là cái mốc đánh dâu sự chuyên hoá thê loại - nó bước sang địa hạt cua truyền thuyết. Đó là khi con người đã hoàn toàn vượt thoát khòi đời sống dã man, kiêu hãnh bước vào thời kì cùa kĩ thuật chế tác đồ đông và đô săt. Nhờ đó con người đã đạt được những thành tựu mới, được đánh dấu bàng những chiến công trong lao động trên địa bàn sinh tụ, khám phá những vùng đât mới. Hơn thế, đó còn lá những chiến công trong các cuộc "chiên tranh thường xuyên” đê mơ mang lãnh thô, khai thác và trao đồi các sàn phẩm hàng hoá. Các bộ lạc trướng thành đứng trước hai khà năng: có thề thôn tính lẫn nhau hoặc sẽ cùng liên kết lại đế vượt qua những thách thức từ các bộ lạc hùng mạnh khác. Đó là thời kì của "thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt” làm thay đồi sâu sắc đời sống xã hội. Hoàn cảnh đó đã tạo nên một không khí thời đại thật sôi động, hào hùng như F. Ángghen nhận xét: "Mỗi thành vicn nam giới cua bộ lạc đến tuồi thành niên đều là một chiến binh". Trong đó, cùng với thời gian đã xuất hiện những cá nhân kiệt xuất tự khẩng định vai trò thù lĩnh. Ket quà là, từ liên minh bộ lạc, nhà nước sơ khai đã ra đời với vai trò đứng đầu thuộc về một anh hùng. Khát vọng tự tôn và niềm hân hoan chiến tháng của cộng đồng làm nảy sinh trong ý thức dân gian những nguồn nhiệt hứng tràn đầy tinh thần cộng cảm. Và sự tôn vinh những con người ưu tú nhất đã tạo nên những giá trị mà trước đó chưa từng có. Đó là ý thức về tiếng nói, ý thức về lãnh thổ, ý thức về quyền lực, ý thừc vè tài sán sáng tạo vãn hoá buồi đầu. Cùng với quá trình đó, chim tìm tổ người tìm tông, uống nước nhớ nguồn, các ý niệm về đất mẹ quê cha, quê cha đất tổ đã phát triển thành ý thúc về đồng bào dân tộc, về non sông đất nước. Sự dồng vọng “tiếng cùa người xưa” vẫn còn âm vang trong những câu hát: Ai đưa la đến chốn này Bên kia là núi bên này là sông... Núi kia ai đắp mà cao Sông kia ai xới ai đào mà sâu... 73 Con người sẽ ra sao nếu không có lịch sử. Ý thức về lịch sừ được hình thành từ sự thôi thúc bên trong mỗi thành viên, trong khát khao đầu tiên là nhận thức cho được giống nòi, nguồn cội để cố kết cộng đồng, để củng cố sức mạnh cộng đồng, để tôn vinh giá trị cộng đồng. Và trong niềm cảm khái tột cùng của chính những nguời tạo nên lịch sừ bắt đầu từ chỗ phải bẳt đầu, truyền thuyết ra đời. 2.2. Quá trình phát triển Đương nhiên cũng như sử thi, truyền thuyết này nở trong lòng thần thoại đã có sự kế thừa thể loại, nhưng sự khác biệt lớn nhất và đầu tiên là ở chỗ: Nếu thần thoại buổi đầu nhân hoá tự nhiên một cách không tự giác để giải thích thế giới thì truyền thuyết buồi đầu lại là sự thần hoá con người để giải thích nguồn cội giống nòi dân tộc và ngợi ca công tích cùa các thế hệ ông cha. Truyền thuyết kế thừa thần thoại về mặt nghệ thuật nhưng phủ định thần thoại về mặt nội dung. Những nhân vật khổng lồ về thể chất trong vai trò các nhiên thần trong thần thoại cũng chuyền hoá thành những anh hùng dân tộc buổi đầu trong vai trò các nhân thần khổng lồ về sức mạnh, ý chí. Đất nước có cương vực cõi bờ, dân tộc ổn định phát triển, người khôn nghề khéo cùa ngon vật lạ này nở, truyền thuyết vinh danh những anh hùng sáng tạo các giá trị văn hoá. Đất nước có giặc ngoại bang xâm lấn, người người trở thành anh hùng, những chàng trai cô gái ra trận, truyền thuyết tôn vinh những anh hùng trận mạc theo cái cách “chép ở lòng dân, bia ở miệng người”. Các tài liệu truyền thuyết còn lại ngày nay đã chứng tỏ, như một quy luật tự nhiên, đã có rất nhiều mẫu kề huyền thoại về các nhiên thần sáng thể đã chuyển hoá thành truyền thuyết anh hùng. Thế nên có thể nói, ngay ở thời đại ch uyển g ia o từ thần thoại sang truyền thuyết đã thấy sự khác biệt v ề bản chất giữa hai thể loại. Bời vì thần thoại thuộc về văn học dân gian của thời kì thị tộc, bộ lạc, còn truyền thuyết thuộc về văn học dân gian của thời kì dân tộc và nhà nước bắt đầu từ thời điểm sơ khai, ờ nước ta, những truyền thuyết buổi đầu này còn được ghi chép lại qua nhiều thời kì khác nhau từ khi có chữ viết với những văn bản cố định khác nhau. Sự khác nhau này có nguyên nhân từ một đặc điểm về “tính không cố định trong hình thức kể chuyện” của thể loại truyền thuyết (khác với cồ tích). Chúng ta sẽ trờ lại đặc điểm này ở phần sau. Ờ đây muốn nhấn mạnh: Đọc lại những văn bản này, 74 có thể thấy có rất nhiều tình tiết vẫn còn ấm nóng hơi thở thần thoại. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà trước nay, các thế hệ truyền đời những câu chuyện như thế vẫn “coi như là thật” với một niềm tin rất thật. Nó đã trờ thành kì niệm riêng cùa cả một dân tộc, nó đã thực sự sống thật trong kí ức chung cùa cà cộng đồng. Bời vi nó được sinh thành, được sáng tạo ra theo yêu câu của lịch sử, là sản phẩm tinh thần đáp ứng mối quan tâm hàng đầu của cà cộng đồng thời tiền sừ để giải quyết những vấn đề từ chỗ bắt đầu cùa lịch sừ dân tộc. Đó chính là các truyền thuyết anh hùng có ý nghĩa đặt tiền đề, nền tảng cho cả một hệ thống truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sử (truyền thuyết lịch sử đích thực) sẽ còn được tiếp nối mãi cùng quá trình phát triển trường thành cùa dân tộc. Từ truyền thuyết anh hùng đến truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết dân gian đã có sự biến đổi về các dạng thức tồn tại và con đường lưu chuyển trong quá trình hỉnh thành và phát triển. Ở dạng ban đầu, nó thường tồn tại giữa đời sống như những “mẩu chuyện” chưa từng được tổ chức trong một kết cấu hoàn chinh. Trong quá trình lưu chuyển, những “mẩu chuyện” về cùng một nhân vật, cùng xoay quanh một sự kiện sẽ được sưu tập và hệ thống hoá thành những mẫu kể hoàn chinh dưới hình thức các văn bản ghi chép, tạo thành kết cấu “chuỗi”. Tất nhiên, trong điều kiện đã có chữ viết, văn học truyền thuyết trong các tác phẩm thời trung đại như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái,... đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn di sản và góp phần vào việc truyền bá cũng như hoàn thiện về mặt hình thức nghệ thuật cùa truyền thuyết dân gian. Trong suốt thời kì phong kiến độc lập tự chủ, truyền thuyết dân gian còn tiếp tục được ghi chép lại hết sức phong phú trong các văn bàn thần tích, thần phả. Đương nhiên, truyền thuyết dân gian đích thực thì vẫn sổng trên cừa miệng cùa người đời giữa dòng đời chảy trôi từ từ, chậm chạp, không có bến bờ. Thế nhưng cũng không thề phủ nhận sự tác động trờ lại hết sức mạnh mẽ của văn chương bác học vào vãn học dân gian trong suốt thời kì trung đại như đã đề cập ở trên. Kết quà là đã có hàng loạt tác phẩm văn học dân gian, trong đó trước hết là những tác phẩm thuộc loại hình tự sự dân gian mà tiêu biểu là truyền thuyết, đã dược sáng tạo lại. về mặt lí thuyết, mọi sự sáng tạo lại trong hình thức diễn xướng hay hình thức văn bản hoá đều là thành tựu chung cùa nhân dân, trong đó có sự tham gia của tầng lớp nho sĩ từ nhân dân mà ra, giàu lòng yêu nước và có tinh thần tự tôn 75 dân tộc, khát vọng dân chù. Sự tác động trực tiếp cùa kiến văn bác học vào văn học dân gian là thông qua hoạt động văn hoá văn nghệ dân gian của chính tầng lớp nho sĩ này. Chính sự tham gia sáng tạo lại cùa họ đã góp phần cực kì quan trọng vào sự hoàn thiện tất cà các thể loại vàn học dân gian trên cơ sờ tôn trọng mọi cách kể và điều được kể đã trở thành phong cách dân gian. Lí thuyết folklore hiện đại đã khảng định một trong những sự khác biệt căn bàn giữa văn học dân gian và văn chương bác học là ở cách kể giữa đời sống và cách kề trên văn bàn. Ở dạng cố định, nhiều truyền thuyết được ghi chép lại trong những điều kiện xã hội - lịch sử khác nhau theo phong cách tự sự dân gian, phù hợp với nhận thức và cảm nghĩ trong ý thức dân gian sẽ lại trở về với đời sống, được nhân dân đón nhận, hoà vào dòng chày tâm lí - xã hội cùa nhân dân, đất nước qua mọi thời đại. Đến thế ki XV, kế thừa những tác phẩm “ghi chép” và “sáng tạo lại” truyền thuyết trong các thế ki trước như đã nói ở trên, bộ Đại Việt sử kí loàn thư cùa Ngô Sĩ Liên tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc sưu tầm, ghi chép truyền thuyết. Ờ đây, truyền thuyết đã được ghi lại trong phần Ngoại kỉ, được sắp xếp lại một cách hệ thống. Đen những năm 70, 80 của thế ki trước, chù yếu nhờ vào công lao của các nhà nghiên cứu địa phương mà những truyền thuyết được kể ở các địa bàn Phú Thọ, Sơn Tây, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Bình Định,... lần lirợt được sưu tầm lại và xuất bản. Đến năm 1999, Lê Văn Kỳ đã có điều kiện tổng kết và nhận xét: Cho đến nay, ít nhất cũng đã có 15 cuốn truyền thuyết với vài trăm truyện lớn nhỏ đủ để khẳng định nó là một thề loại văn học dân gian độc lập. Đầu the ki XXI, một lần nữa và lần này có thể nói về cơ bàn toàn bộ di sàn truyền thuyết của người Kinh đã được sưu tập lại và biên soạn vào hai tập (tập IV và V) trong Tống tập văn học dân gian người Việt được NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 2004. Với quy mô hai tập sách tới 2000 trang (GS. Kiều Thu Hoạch chù biên), bộ sách là biểu hiện sự tập hợp đầy đù nhất về truyền thuyết dân gian tồn tại ờ dạng cố định trên văn bản cho đến hiện nay. Chúng ta cần phài lược điểm như trên bởi vỉ một mặt, khác với thể loại truyện cổ tích vốn dưới mắt các nhà khoa học đều có sự nhất trí tư cách một thể loại nghệ thuật ngữ văn dân gian, thể loại truyền thuyết lại có rất nhiều quan niệm khác biệt; mặt khác, do đặc điểm lịch sử - văn hoá dân tộc Việt Nam, truyền thuyết đã được khẳng định chảng những là một thể loại mà còn là một thể loại lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ vào 76 bậc nhất trong toàn bộ di sản văn học dân gian dàn tộc. Sự hiện diện cùa thê loại truyền thuyết trong tiến trình phát triền văn học dân gian Việt Nam đã được khẳng định là một đặc điểm nối bật, đặc thù, có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ quá trinh phát triển cùa lịch sử tư tưởng - văn hoá Việt Nam. Trong dòng chảy cùa truyền thống vãn hoá dân gian dân tộc, thê loại truyền thuyết đã phát triẽn đến dinh cao trên cá hai phưtmg diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tất nhiên, vì thế các quan điếm phân loại truyền thuyết ờ nước ta trước nay cũng đã trở thành một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. 2.3. Vấn đề phân loại truyền thuyết v ề vấn đề phân loại truyền thuyết trong loại hình tự sự dân gian, đến nay, có thề nói dã cơ bản có sự nhất trí về nguyên tác trong việc xác định các tiêu chí khu biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích như đã nói ở trên. Vấn đề phân loại trong nội bộ thể loại sẽ dược xem xét trên từng văn bàn cụ thể đã được cố định như một “lát cắt đồng đại” trong quá trinh lưu chuyển, đổi mới và phát triển cũa số phận lịch sử từng tác phẩm, ['rong đó không loại trừ có sự chuyển hoá thể loại cùa một tác phẩm từ văn bản này đến văn bản khác. Sự chuyển hoá này đã trở thành một đặc điểm vận động có tính quy luật phổ biến đối với các truyện thần thoại Việt cổ trước thời đại Hùng Vương trong quá trình lịch sừ hoá, anh hùng hoá, dân tộc hoá vào thời đại Mùng Vương, trở thành truyền thuyết thời kì dựng nước và giữ nước buổi dầu. Trong truyền thuyết học, có thê gọi đây là thời đại anh hùng như đã nói ở trên. Đối với hệ thống truyền thuyết thời kì này, có thể nói đúng như Kiều Thu Hoạch đã khái quái hoá về tính lịch sử của nó, về cái gọi là “cốt lõi lịch sử” cùa nó chính là “lịch sừ hư cấu”, là kết quả cùa sự “hư cấu nghệ thuật tạo thành đặc trưng thi pháp thể loại”. Ờ đây, sự kiện và nhân vật cúa nó hoàn toàn không có nguyên mẫu khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật từ chính các nhân vật lịch sử xác thực cụ thể. Đó ià lịch sứ sự kiện do ý thức dân gian hình dung và được phản ánh lại một cách khái quát hoá trong những biểu tượng (cổ mẫu) để giải thích sự hình thành của giống nòi dân tộc, ngợi ca những thành tựu kì vĩ cùa cộng đồng Việt cổ trong quá trình đặt nền móng cơ tầng văn hoá Văn Lang - Âu Lạc. Đây cũng là bộ phận được xem là các truyền thuyết đứng đầu, tiêu biểu và có giá trị nhất. Không 77 phải ngẫu nhiên hầu hết các nhà nghiên cứu đều gọi tên bộ phận này là truyền thuyết anh hùng. Truyền thuyết anh hùng ra đời trong thời đại anh hùng - thời đại hình thành thể loại. Truyền thuyết anh hùng nhìn chung có tính chất hoành tráng, được thăng hoa từ thần thoại và mang âm hường của sử thi dân gian. Theo cách nhận định tràn đầy nhiệt hứng về văn học dân gian Việt cổ thời kì bình minh của lịch sù dân tộc của Cao Huy Đinh, có thể khái quát về bộ phận truyền thuyết anh hùng - mà trong sách Tim hiếu tiến trình văn học dân gian Việt Nam ông gọi là thần thoại, như sau: Hệ thống này không phải hình thành một lúc mà gắn bó hữu cơ với sự phát triển lịch sử hết sức lâu dài đến khi có được nền sản xuất và trình độ phát triển xã hội vào thời các vua Hùng. Đồng thời nó cũng là kết quả cùa một quá trình tổng hợp các luồng tự sự dân gian rộng lớn cùa nhiều cư dân sớm hay muộn đã cấu thành “nước Văn Lang” xưa. Nó phàn ánh theo phương pháp tượng trưng và phóng đại nhưng lại hết sức cô đúc, giản dị về buổi bình minh lịch sừ hào hùng cùa dân tộc. Nó lấy quan hệ giữa đất nước, giống nòi và bộ tộc làm trục cơ bàn, lấy triết lí tự nhiên luận, tình cảm huyết thống và ý thức đoàn thể làm nội dung chính, lấy nhũng nhân vật anh hùng khai sáng văn hoá và bào vệ tập thể làm biểu tượng, lấy thơ ca, diễn xướng và nghi lễ tập thể làm hình thức cảm thụ và giáo dục ý thức lịch sừ truyền đời [Cao Huy Đinh, Sđd, Tim hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H., 1976, tr. 34-35]. Từ đầu những năm 70 của thế ki trước, Cao Huy Đinh quan niệm toàn bộ hệ thống này là thần thoại Việt cổ, từ đó ông phê phán mạnh mẽ quan điểm thời đó cùa một số nhà nghiên cứu cho rằng ờ Việt Nam hiện đã không còn thần thoại đích thực. Đồng quan điểm với Cao Huy Đỉnh về sự tồn tại thần thoại Việt nhưng Đỗ Rình Trj quan niệm đó phải là những sáng tạo có trước thời kì Hùng Vương. Đến Kiều Thu Hoạch thì ông cho rằng giai đoạn sơ khai của truyền thuyết cũng có thể coi là giai đoạn quá độ từ thời đại thần thoại sang thời đại truyền thuyết và quan niệm như trên đã nói. Khi được lịch sử hoá, nó đã bước vào địa hạt của truyền thuyết. Đây là một chi dẫn quan trọng để khu biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích thần ki. Tuy nhiên, khi bước vào vấn đề phân loại nội bộ thành các tiểu loại hoặc bộ phận khác nhau thì còn tuỳ thuộc vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các lớp truyền thuyết được sáng tạo ở những thời kì sau thời đại truyền thuyết anh hùng. Ờ Việt Nam, có thể nói, từ 78 truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thuỳ, thể loại này đã liên tục phát triển mạnh mẽ qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc, đặc biệt là dòng truyền thuyết chống xâm lược. Những nhà nghiên cứu truyền thuyết theo quan điểm xác định chức năng chù yếu cùa thể loại này là “phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sừ có ảnh hưởng quan trọng đối với số phận quốc gia, dân tộc” phân loại theo tiến trình lịch sử. Tiêu biểu cho quan điếm này là Hoàng Tiến Tựu. được biên soạn trong giáo trình Văn học dân gian, tập II dùng cho các trường đại học sư phạm từ đầu những năm 90 của thế kỉ trước. Cũng trong thời điểm này, Đỗ Bình Trị, khi biên soạn giáo trình Văn học dân gian, tập I (cùng bộ sách trên), lại đưa ra hai cách phân loại truyền thuyết. Cách thứ nhất vừa căn cứ theo quá trình lịch sử, vừa căn cứ vào phạm vi đề tài lịch sừ được nhân dân quan tâm. Cách này chia truyền thuyết thành hai bộ phận: những truyền thuyết về thời các vua Hùng và những truyền thuyết về sau thời các vua Hùng. Ờ bộ phận sau lại được phân chia thành các nhóm về anh hùng dân tộc, về danh nhân văn hoá, về anh hùng nông dân. Cách phân loại thứ hai cùa Đỗ Bình Trị lại căn cứ vào sự khác biệt của đối tượng được truyện kể đến và chức năng cụ thể cùa từng bộ phận để chia thành ba biến thể được định danh gồm: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phổ hệ, và truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sử. Trong đó. ông đặc biệt nhấn mạnh: Tất cà các biến thể của truyền thuyết đều kể về điều có thực, đều phàn ánh lịch sử. Trong truyền thuyết địa danh, cái chủ yếu là giải thích tên đất, trong truyền thuyết phổ hệ thì đó là vấn đề cội nguồn. Còn truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sừ là những truyền thuyết có mục đích tái hiện chính bản thân lịch sử. Do đó nó được coi là tmyển thuyết lịch sử đích thực. Và trong các nghiên cửu luận giài cùa ông về thể loại này, Đỗ Bình Trị cũng chù yếu phân tích trên các nguồn tài liệu truyền thuyết thuộc biến thể thứ ba mà ông gọi là truyền thuyết lịch sử. Cũng trong thời gian trên, trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (Giáo trinh Đại học Tổng hợp) do Lê Chí Quế chù biên lại đưa ra một bảng phin loại khác về truyền thuyết gồm ba loại: truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết lịch sử và truyền thuyết về các danh nhân văn hoá. Ờ đây không thấy tác giả biện luận gì thêm về tiêu chí và lí do phân loại. Bên cạnh các cách phin loại như chúng tôi đã lược điềm - vốn là những quan điểm thể hiện trong các bộ giáo trình đại học, từ năm 1971, tác giả Kiều Thu Hoạch đã 79 đưa ra một cách phân loại khác. Theo ông, truyền thuyết có thể chia làm hai loại lớn: truyền thuyết nhân vật và truyền thuyết phong vật (phong tục và sản vật). Trong từng loại lại bao gồm nhiều tiểu loại. Riêng truyền thuyết nhân vật có thể căn cứ vào tính chất cùa câu chuyện mà chia ra thành những tiểu loại khác nhau như: truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết phản diện, truyền thuyết tôn giáo (theo nghĩa rộng). Gần đây, tác giá tiếp tục điều chinh lại cách phân loại trước đó thành ba loại lớn gồm: truyền thuyết nhân vật, truyền thuyết địa danh và truyền thuyết phong vật. Ờ loại lớn thứ nhất, ông lại chia ra: truyền thuyết anh hùng chống xâm lược, truyền thuyết anh hùng văn hoá, truyền thuyết anh hùng nông dân. Còn về loại thứ hai, ông lưu ý “phải được gấn với một nhân vật hoặc sự kiện lịch sử đặc biệt nào đó” đề phân biệt với các loại truyện giải thích địa danh khác theo thần thoại suy nguyên hoặc theo từ nguyên học dân gian, thông tục. Ông nêu lên một vài thí dụ về truyền thuyết địa danh đích thục, chẳng hạn như Sự tích Ngòi Lạt, Sự tích Cầu Giài trong chùm truyền thuyết Tàn Viên hay như Sự tích ho Hoàn Kiếm, Sự tích núi Mục, núi Voi, núi Dầu trong chùm truyền thuyết về Lê Lợi - Lam Sơn. Đối với loại thứ ba, tác già cho rằng thực ra đây chi là cách gọi ước lệ để chỉ một nhóm các truyền thuyết về phong tục và sản vật, chủ yếu là những câu chuyện kề về nguồn gốc các phong tục, kị hèm, hội hè, trò diễn, diễn xướng dân gian,... hoặc các sản vật có gắn với các nhân vật và sự kiện lịch sử. Chẳng hạn như các câu chuyện về nguồn gốc tục đánh cá thờ, nguồn gốc tục cướp kén, nguồn gốc trò tứ dân, nguồn gốc trò ruớc chúa gái,... trong chùm truyền thuyết về Tản Viên ở xứ Đoài; hoặc như những truyền thuyết giải thích nguồn gốc cây cau, nguồn gốc bánh chung bánh giầy, nguồn gốc dưa hấu.... trong nhóm truyền thuyết Hùng Vương. Tuy nhiên, xét cho cùng thì chúng ta vần nhận ra ràng tất cả các mẫu kể đã được tác giả dẫn ra ở trên vẫn thuộc về truyền thuyết nhân vật (theo cách định danh cùa Kiều Thu Hoạch) đã được cố định hoá trên văn bản trong hình thức một kết cấu “chuỗi” - kết cấu đặc trưng thề loại. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng bảng phân loại này đã bám sát đặc trưng thể loại trên cả hai phương diện chức năng và thi pháp. Hơn thế, đi trong sự bề bộn, ngổn ngang tư liệu, cái trước cái sau liền kề, chồng lấn giữa các đơn vị mẫu kể của một thể loại đặc biệt phát triển phồn thịnh suốt chiều dài lịch sử dân tộc hàng ngàn năm, nó đã bao quát được đầy đù những hình thức hiện ra hết 80 sức phong phú, đa dạng cúa thề loại truyền thuyết như nó đã từng ẩn sâu trong kí ức thời gian, và được diễn kề đầy tính lễ thức thiêng liêng trong lịch sử và hêt sức sôi động náo nhiệt giữa đời sống. Đê có thể yên tâm với bàng phân loại truyền thuyết đã được điều chinh lại sau hơn 30 năm từ một tiểu luận đến một “ khải luận” (theo cách gọi tên của tác giả) chẳc chán Kiều Thu Hoạch đã có sự kế thừa và phát triền các thành tựu trong van đề phân loại thể loại này cùa các tác giả trong nước như đã lược điềm ở trên. Hơn nữa, như tác giả cho biết, ông cũng đã có sự tham chiếu với các cách phân loại truyền thuyết trong thế ki XX ờ các nước láng giềng gần gũi như Trung Quốc, Nhật Bàn. vấn đề đê chúng ta cần tồng hợp lại từ các cách thức phân loại truyền thuyết trên đây là việc định danh các nhóm trong một hệ thòng. Điều này chì có tính quy ước về tên gọi. Nói thì vậy, nhưng khi khảo sát. phân tích luận giải hầu như toàn bộ các giá trị nội dung tư tường và hình thức nghệ thuật cũng như các đặc điểm thi pháp thế loại truyền thuyêt dân tộc, các nhà nghiên cứu đêu chù yếu dựa han vào các truyền thuyết đứng đầu - cơ bản thuộc về thời ki Văn Lang - Âu Lạc, và toàn bộ hệ thống truyền thuyết chống xâm lược đã được cố định hoá trên văn bản trong suốt thời kì trung đại. Có điều là nếu Kiều Thu Hoạch gọi đó là truyền thuyết anh hùng thì Dỗ Bình Trị lại gọi đó là truyền thuyết lịch sứ. Theo chúng tôi, như trên đã nói, toàn bộ các truyền thuyết thuộc hai bộ phận trên đều thuộc về truyền thuyết nhân vật. Trong đó, các truyền thuyết "lịch sử hư cấu” đứng đầu, gan với thời kì dựng nước - thời đại anh hùng, thời đại sinh thành thể loại truyền thuyết, nèn gọi là truyền thuyết anh hùng. Các truyền thuyết về đời sau thời Hùng Vương kể từ truyện An Dưưng Vương và Mv Châu Trong Thuý đến hêl thời kì trung đại nên gọi là truyền thuyết lịch sứ. Bộ phận này chính là các truyền thuyết “hư cấu lịch sử”. Đây cũng là bộ phận truyền thuyết dân tộc có giá trị nhất, tiêu biểu nhất về đặc trưng thi pháp thể loại. Trong bộ phận này, có một số mẫu kể mà chù ý của người kể chuyện lại muốn hướng vào công trạng của một danh nhân văn hoá hoặc của một vị tồ nghề,... thì cũng có thề đưa vào một nhóm riêng và định danh pháp là nhóm truyền thuyết danh nhân văn hoá. Cũng có thể nêu lên một nhóm nữa gọi là truyền thuyết về các nhân vậl tôn giáo, nhưng như ta thấy, số lượng những truyền thuyết này không thật nhiều và thường có nội dung không thuần khiết, nên chi có thế xem nhóm này như một biệt loại. 6.GTVH DÃN GIAN A 81