🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình sinh học người và động vật Ebooks Nhóm Zalo Giáo trình Sinh học người và động vật LỜI NÓI ĐẦU Trong những thập niên vừa qua, sự phát triển nhanh chóng của sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã kéo theo những tiến bộ đáng kể của các ngành khoa học liên quan đến sinh học phân tử, công nghệ sinh học, trong đó phải kể đến các ngành nông lâm- sinh- y dược. Trong chương trình đào tạo đại học của các ngành liên quan đến sinh học, Học phần Sinh lý học người và động vật, được xem là học phần cơ sở của nhiều ngành đào tạo như: Chăn nuôi, Thú y, Động vật học, Sinh học, Sư phạm kỹ thuật Nông lâm, Cử nhân điều dưỡng, Bác sỹ đa khoa, Chế biến và bảo quản nông sản, Kinh tế nông nghiệp, Quản tri kinh doanh nông nghiệp, Công nghệ sinh học, Sinh thái học, Tâm lý học v.v…Kiến thức về sinh lý học người và động vật được xem là cầu nối trước khi đi vào các lĩnh vực chuyên môn về cơ thể người và động vật nuôi. Vì vậy, việc biên soạn Giáo trình Sinh lý học người và động vật, để cập nhật các kiến thức khoa học chung về sinh lý, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu của khung chương trình đào tạo đại học vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là việc làm cần thiết. Trong quá trình biên soạn giáo trình này, tập thể tác giả: PGS.TS Nguyễn Đức Hưng, TS Đàm Văn Tiện (Trường đại học Nông Lâm); TS Hoàng khánh Hằng (Trường đại học Y Khoa); ThS Nguyễn Đức Quang, ThS Nguyễn Thị Hải Yến (Trường đại học Khoa học); TS Phan Thị Sang (Trường đại học Sư phạm) thuộc Đại học Huế, dưới sự chủ trì của PGS.TS Nguyễn Đức Hưng đã bám sát khung chương trình đào tạo mới, cập nhật các kiến thức từ nhiều nguồn tài liệu trong và ngoài nước nhằm thể hiện được kiến thức cơ bản, hiện đại và thực tiễn. Ý kiến đóng góp của các chuyên gia tư vấn GS.TSKH Lê Doãn Diên, GS.TS Đỗ Ngọc Liên, PGS.TS Lê Đức Ngọc đã giúp chúng tôi đạt được những yêu cầu nêu trên. Đây là giáo trình chính thức, dùng chung cho nhiều ngành đào tạo tại Đại học Huế và là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, các ngành nông lâm ngư - sinh học -Y dược, cũng như cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực liên quan. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, các đọc giả để lần tái bản sau giáo trình được hoàn thiện hơn. THAY MẶT NHÓM TÁC GIẢ Chủ biên PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HƯNG 1 Chương I LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHỌN GIỐNG VÀ NHÂN GIỐNG, CÔNG TÁC GIỐNG Ở NƯỚC TA 1.1. Lịch sử hình thành môn chọn và nhân giống vật nuôi Giống vật nuôi cũng như cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Do vậy, sự hình thành và phát triển của nó có liên quan với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội. Cũng như các môn khoa học khác, môn chọn và nhân giống được hình thành và hoàn thiện dần theo sự phát triển của xã hội loài người, cùng với những trí thức, kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội và những tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật trong từng thời kỳ. Từ xa xưa, con người đã biết cải tiến các vật nuôi, cây trồng bằng nhân giống và lai giống. Lai lừa đực và ngựa cái sinh ra con la. Trong một số tác phẩm của thời trước, người ta đã biết rằng: một số con sinh ra giống mẹ, một số giống cha và một số quay lại giống ông bà. Ở các nước tư bản châu Âu, Robert Bakewell (1728 - 1795) được xem là một trong những người đầu tiên nổi tiếng về tạo và chọn giống vật nuôi. Ông là người tạo ra giống ngựa Shire, bò sừng dài, cừu Lexte, kiểm tra bò đực qua đời con, chọn đực tốt để gây giống. Lamarck (1744 - 1829) là nhà sinh vật học người Pháp đã đề cập đến vấn đề tiến hóa. Theo ông do tác động của ngoại cảnh, sinh vật có biến đổi nên có tiến hóa và thoái hóa. Các biến dị mới thu được trong phát dục cơ thể có thể truyền lại cho đời sau bằng con đường sinh sản hữu tính và vô tính. Ông gọi đó là tính di truyền thu được “tập nhiễm”, nhưng chưa giải thích được sự tiến hóa như thế nào ? Darwin (1809 - 1882) , dựa vào kết quả quan sát thực tế, tổng kết rất nhiều tài liệu, đã giải thích sự tiến hóa của sinh vật là do di truyền, biến dị, chọn lọc và đấu tranh sinh tồn. Từ đó xây dựng nên thuyết tiến hóa. Thuyết “toàn sinh”, theo ông các tế bào ở các bộ phận cơ thể, kể cả các bộ phận mới biến dị đều chứa các “hạt” mầm. Các “hạt” này qua máu đi vào tế bào sinh dục và truyền lại cho đời sau. Weisman (1834 - 1914), năm 1892 đã đưa ra thuyết “chất chủng 2 liên tục”. Theo thuyết này cơ thể được chia làm hai phần: chất chủng và chất thể. Chất chủng quyết định sự sinh sản và di truyền. Chất thể có tác dụng cung cấp dinh dưỡng và bảo vệ chất chủng. Qua từng thế hệ, chất chủng sinh ra chất thể, chất thể không sinh ra chất chủng, chất thể không liên tục mà chỉ có chất chủng là liên tục. Chất chủng chứa các đơn vị di truyền nằm trong nhiễm sắc thể của tế bào sinh dục, là cơ sở sẵn có truyền từ đời này sang đời khác. Mendel G. (1822 - 1884), năm 1865 cho ra đời công trình “Thí nghiệm của các cây lai” và đưa ra ba qui luật di truyền cơ bản: qui luật tính trội, qui luật phân ly và di truyền độc lập, tổ hợp tự do. Năm 1900, Hugo de Vris, Tcheckmark và Correns đã đưa ra công trình giống với kết quả nghiên cứu của Mendel trước đó 35 năm. Do vậy kết quả nghiên cứu của ba nhà khoa học này là phát hiện lại qui luật Mendel. Johansen (1907), đưa ra khái niệm về quần thể và các qui luật di truyền trong quần thể và dòng thuần. Năm 1908 định luật Hardy-Weinberg ra đời, xác định sự cân bằng và thay đổi tần số gen trong quần thể. Từ thế kỷ XIX, bắt đầu hình thành một hướng sử dụng các qui luật di truyền quần thể vào công tác giống vật nuôi. Các phương pháp thống kê sinh vật học đã được ứng dụng nhiều vào công tác giống. Năm 1921, Wright đã nghiên cứu về sự tương quan di truyền giữa các sinh vật cùng huyết thống và nêu ảnh hưởng của di truyền trong các cách chọn phối khác nhau, tìm ra nguyên nhân, kết quả của các phương pháp đó trên cơ sở toán học. Hiện nay các công trình nghiên cứu của Galton, Wright cùng với luật Hardy-Weinberg là nền móng của di truyền học quần thể. Lush (1945) là một trong những người đầu tiên ứng dụng di truyền quần thể trong ngành chăn nuôi, đã phát triển lý luận của Wright, phân tích sự di truyền các tính trạng số lượng, xác định giá trị giống của con vật và hiệu quả của chọn lọc. Hazel (1945), Handerson, Cunningham (1975) là những người phát triển lý luận chọn lọc theo các tính trạng số lượng và xây dựng được chỉ số chọn lọc được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong công tác giống vật nuôi. Cho đến năm 2000, di truyền học tiếp tục sử dụng các tín hiệu di truyền phân tử, áp dụng phương pháp DNA tái tổ hợp, thực hiện cấy truyền gen (gene transfer) nhằm tạo ra những giống mới, sản phẩm mới có chất lượng cao. Sự phát triển của di truyền học và những sự kiện quan 3 trọng trong sự hình thành khoa học chọn giống động vật theo tiến trình lịch sử đã được xác định theo bảng dưới đây: Thuần hóa vật nuôi. Chọn lọc cá thể, quần thể riêng rẽ. Năm 1800 Tạo giống mới (vai trò của R. Backwell) Năm 1850 Mendel khám phá ra qui luật di truyền Tổ chức chọn lọc theo tiêu chuẩn. Tổ chức chọn lọc theo dòng Năm 1900 Phục hồi qui luật Mendel Xác định nguyên tắc di truyền số lượng Áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bò Năm 1950 Áp dụng di truyền số lượng cho từng chủng Watson và Crick xác định mô hình DNA Henderson áp dụng mô hình BLUP Ứng dụng công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng Thực thi cấy truyền phôi Thời đại “thông tin” về chất lượng con giống và sản phẩm Năm 2000 Sử dụng gen chỉ thị. Xác định mầm giới tính từ đầu. Ghép truyền gen. Thực thi cây truyền gen. Nguồn: Animal Breeding. Australia & USA, 1992. Chọn giống vật nuôi là môn khoa học nghiên cứu các qui luật di truyền được ứng dụng trong công tác giống, tìm ra các phương pháp tạo giống, hoàn thiện và nâng cao năng suất và phẩm chất các giống sẵn có. Giống hay phẩm giống trong chăn nuôi là một nhóm vật nuôi hoàn chỉnh của một loài nào đó, có chung nguồn gốc, được tạo thành bởi lao 4 động sáng tạo của con người trong những điều kiện kinh tế và thiên nhiên nhất định. Có số lượng đầy đủ để tiến hành nhân giống trong nội bộ của nó, có giá trị kinh tế và giá trị làm giống, có những đặc điểm giống nhau về ngoại hình, sinh lý, có những yêu cầu nhất định về điều kiện sinh sống. Những đặc điểm và yêu cầu đó được di truyền ổn định qua các thế hệ và cho phép phân biệt giống này với giống khác. Tất cả các giống vật nuôi hiện nay đều có nguồn gốc từ thú hoang và trải qua quá trình thuần hóa, chọn lọc lâu đời mà được hình thành. Darwin đã chia giống ra làm 2 loại: giống thiên nhiên và giống nhân tạo. Culesop chia giống làm bốn loại: giống cổ, kiêm dụng, cải tiến và thiên nhiên. Hiện nay người ta chia giống làm ba loại: giống nguyên thủy, giống quá độ (đã được cải tiến) và giống gây thành. Giống nguyên thủy là nhóm giống mà các cá thể trong đó còn mang nhiều đặc điểm hoang dã, tác động của con người vào nhóm này hầu như chưa nhiều. Giống nguyên thủy có một số đặc điểm sau: - Tầm vóc nhỏ - Sức sản xuất thấp và kiêm dụng - Sức chịu đựng bệnh tật cao, quen với khí hậu từng vùng, tạp ăn. - Thành thục muộn - Mức độ biến dị không cao (bảo thủ di truyền lớn). - Là sản phẩm của nền kinh tế tự cung, tự cấp. Giống quá độ là nhóm giống được hình thành trên cơ sở giống nguyên thủy. Con người đã đặt ra những tiêu chuẩn qui định cho từng giống và theo từng hướng sản xuất, tác động thông qua biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng từ đó mà chọn lọc, nâng cao. Giống quá độ có một số đặc điểm sau: - Tầm vóc đã được cải tiến hơn so với giống nguyên thủy. - Sức sản xuất đã được nâng lên, nhưng hướng sản xuất phần lớn vẫn kiêm dụng. - Thành thục đã sớm hơn so với giống nguyên thủy. - Các đặc điểm sản xuất đang còn thấp, tính bảo thủ di truyền còn tương đối vững bền. Giống gây thành (giống cao sản) là nhóm giống được tạo ra do lai giữa các giống có một số đặc điểm sau: - Sức sản xuất cao, hướng sản xuất kiêm dụng và chuyên dụng. - Dễ thay đổi dưới ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, nếu điều kiện ngoại cảnh thuận lợi, phù hợp với quá trình sinh trưởng, phát triển 5 của giống thì sẽ cho năng suất cao, ngược lại nếu không thuận lợi sẽ làm giảm năng suất, thậm chí gây ra bệnh tật hoặc bị chết. - Sức chịu đựng bệnh tật kém. - Ðòi hỏi điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc ở trình độ cao. Trong nhóm giống cao sản bao gồm: giống kiêm dụng và chuyên dụng. Giống kiêm dụng là giống có nhiều tính năng sản xuất khác nhau, ví dụ kiêm dụng thịt-sữa; kiêm dụng sữa-thịt (đối với bò), kiêm dụng nạc - mỡ; mỡ - nạc (đối với lợn), kiêm dụng trứng - thịt; thịt - trứng (đối với gia cầm). Giống chuyên dụng là giống chuyên về một tính năng sản xuất, ví dụ bò chuyên sữa, bò chuyên thịt, lợn chuyên nạc, gà chuyên trứng, gà chuyên thịt. Hiện nay trên thế giới có quan điểm thống nhất là trong công tác chăn nuôi nói chung, mục đích cuối cùng là làm sao để vật nuôi cho sản phẩm nhiều nhất mà tiêu tốn thức ăn trên một đơn vị sản phẩm (1 kg thịt, 1 kg sữa, 1 quả trứng...) lại ít nhất. Qua đó chúng ta thấy rằng, khi nói đến một giống vật nuôi tốt đều cũng phải bao hàm ý nghĩa là con giống đó sẽ cho năng suất cao, phẩm chất tốt, đồng thời mức tiêu tốn thức ăn cho một đơn vị sản phẩm phải thấp. 1.2 Công tác giống vật nuôi ở nước ta Ở nước ta từ sau năm 1954 ngành chăn nuôi mới có điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Chăn nuôi vẫn tiếp tục nuôi theo hộ là chính và Nhà nước ban hành một số chính sách khuyến khích tăng gia sản xuất, trong đó có chăn nuôi. Một công tác đáng kể trong giai đoạn này là đào tạo cán bộ khoa học kỷ thuật chăn nuôi, thú y các cấp ở trong nước, ngoài nước nhằm cung cấp nhân lực cho sự phát triển chăn nuôi trong những thời gian tới. Năm 1962, để đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, Nhà nước đã xác định: “... phương hướng chung là tích cực củng cố và phát triển vững chắc chăn nuôi trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và nông trường quốc doanh, hết sức khuyến khích phát triển chăn nuôi trong các gia đình xã viên và nông dân cá thể, đồng thời vận động toàn dân tham gia phát triển chăn nuôi. Ðối với từng loại vật nuôi, coi trọng việc phát triển chăn nuôi trâu bò để cung cấp sức kéo là chủ yếu, tăng cường việc chăn nuôi ngựa; đẩy mạnh chăn nuôi lợn, chú trọng chăn nuôi dê; bước đầu phát triển chăn nuôi thỏ, cừu, chú trọng hơn nữa việc phát triển chăn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng...” Ðối với trâu, một con vật được sử dụng làm sức kéo cổ truyền, ở các 6 vùng miền núi, bán sơn địa có nhiều trâu đã được khoanh thành vùng trâu sinh sản, tổ chức trao đổi, bổ sung con đực giữa các vùng để tránh giao phối cận huyết. Năm 1960-1961, trâu sữa Murah được nhập từ Trung Quốc và năm 1968 - 1970 nhập từ Ấn Ðộ, vì nhu cầu về sữa trâu không cao cho nên công tác giống trâu sữa cũng chưa được phát triển. Các cuộc điều tra cơ bản về giống qui mô lớn lúc bấy giờ (từ năm 1964) được tiến hành ở các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Nội dung điều tra bao gồm: các điều kiện hình thành giống, sự phân bố theo các vùng địa lý, cơ cấu đàn, ngoại hình, khả năng sinh sản, sản xuất... Ở các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã tiến hành kiểm kê, chấn chỉnh cơ cấu đàn, bình tuyển, giám định, xác định giá trị giống theo tiêu chuẩn. Vùng giống bò được khoanh vùng đầu tiên (từ năm 1966) tại Thọ Xuân (Thanh Hóa), giống chủ yếu là bò Vàng. Trong những năm 60 bắt đầu nhập các giống bò hướng sữa: Lang trắng đen, Tam Hà (từ Trung Quốc), được nuôi chủ yếu tại Ba Vì (Sơn Tây). Năm 1970, bò sữa giống Holstein nhập từ Cu Ba được chuyển nuôi tại Nông trường Sao Ðỏ và Mộc Châu. Năm 1975, một phần được chuyển về nuôi thích nghi tại Lâm Ðồng. Trong từng thời kỳ chúng ta có nhập thêm bò Brown Swiss (bò Thụy Sĩ), bò Zebu, bò Sind thuần từ nhiều nước khác nhau. Những giống vốn có đặc tính khác nhau thích nghi lâu đời với khí hậu nhiệt đới để cải tạo bò Vàng Việt Nam, để nuôi thuần và thăm dò lai tạo với các giống sẵn có. Từ những năm 80, một mặt chúng ta duy trì, cải tiến các đàn bò địa phương, củng cố cơ cấu đàn bò ngoại hướng sữa, mặt khác nhập nội một số bò đực giống (Sind, Charolais, Santa Gertrudis, Limousin, Brahaman...) hoặc tinh đông viên của những con đầu dòng để tổ chức lai tạo với bò nền Việt Nam theo hướng thịt-sữa, sữa - thịt. Về bò thịt chuyên dụng, chúng ta đang thử nghiệm nuôi để có sản phẩm thịt hàng hóa ở một vài nơi trên cả nước. Công tác giống lợn từ trước đến nay đã được coi trọng hàng đầu so với các giống vật nuôi khác. Việc điều tra cơ bản, bình tuyển để chọn lọc, xây dựng các vùng giống lợn sinh sản dã được hình thành sớm, qui mô lớn từ những năm 60. Sau đó đến năm 1967, 14 vùng giống bao gồm hàng vạn lợn nái cơ bản đã hình thành ở khắp các tỉnh thuộc châu thổ Sông Hồng. Trong những năm 1960-1970, công tác giống vật nuôi đã được đặt ra sớm, nhưng so với các loại vật nuôi khác, công tác giống lợn tương đối có hệ thống hợp lý hơn cả. Cũng trong thời gian đó, chúng ta bắt đầu nhập lợn ngoại cao sản: Berkshire, Ðại Bạch, Trung bạch, Landrace... và gần đây tùy từng thời kỳ, nhập nhiều giống lợn thuộc dòng cao sản như Yorkshire, Landrace, New Hampshire, Duroc, Pietrain... có tỷ lệ nạc cao. Từ việc nhập các giống lợn ngoại cao sản, chúng ta dần dần phổ biến công thức lai 7 kinh tế lợn nội × ngoại nhằm tăng nhanh sản phẩm thịt. Nhiều công thức lai nội × ngoại lúc bấy giờ đã trở thành phổ cập đến tận cơ sở sản xuất như Ðại Bạch × Ỉ (1968); Landrace × Lang Hồng (1972); Ðại Bạch × Móng Cái (1972); Yorkshire × Thuộc Nhiêu (1994)... góp phần mở đầu cho công việc nâng cao tỷ lệ nạc trong đàn lợn. Nhìn chung trên toàn quốc đến năm 1975, lợn lai nội × nội; nội × ngoại; ngoại × ngoại đã chiếm 60-70% trên tổng đàn và cho đến nay có vùng (nhất là vùng ven các thành phố) lợn lai các loại đã đạt đến 80%. Năm 1981, giống lợn mới ÐBI-81 ra đời, được Bộ Nông nghiệp công nhận và cho phổ biến rộng rãi. Hiện nay công tác giống lợn đang được tiếp tục mạnh mẽ trên cơ sở kiến thức về di truyền chọn giống trong sinh học hiện đại nhằm khai thác triệt để ưu thế lai, trong việc sản xuất thịt lợn có tỷ lệ nạc cao. Ðối với gia cầm, từ trước đến nay các hoạt động chăn nuôi gà, vịt... thường ở phạm vi hộ gia đình là chủ yếu. Ðến những năm 1958-1960, sau khi bắt đầu nhập một số giống gà Leghorn, Rhodes Island, Plymouth, Sussex... một số giống ngỗng: Sư tử, vịt Bắc Kinh... hình thành chăn nuôi nông trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp, gia đình. Ðến năm 1971, hệ thống nuôi gà công nghiệp được hình thành do Công ty gia cầm Trung ương phụ trách, tổ chức sản xuất kinh doanh gà broiler. Năm 1974, nhập các giống gà cao sản hệ mới từ Cu Ba, sau đó mở rộng nhập từ các dòng cao sản của nhiều hãng gia cầm nổi tiếng trên thế giới. Nhờ vận dụng sáng tạo các phương pháp chọn giống, nhân giống tiên tiến; nhờ khéo sử dụng các nguồn nguyên liệu thức ăn (chủ yếu là protein) trong nước và ngoài nước để tạo nên các khẩu phần thức ăn hợp lý nên đến đầu thập kỷ 90, chúng ta đã tự lực tạo ra được bộ giống thuần chủng hướng trứng (gốc từ gà Leghorn nhập), hướng thịt (gốc từ gà Plymouth, Cornish nhập), nhập thêm các dòng gà thịt hệ mới phát huy hiệu quả ưu thế lai, sản xuất được gà broiler - sản phẩm gà thịt hàng hóa - đạt tiêu chuẩn quốc tế về khối lượng xuất chuồng và thời gian nuôi dưỡng. Gần đây, chúng ta nhập thêm các giống gà Sasso (từ Pháp), Tam Hoàng, Ma Hoàng, Lương Phượng (từ Trung Quốc), Kabir (từ Ixsaen)..., đồng thời nghiên cứu nguồn gen gia cầm sẵn có ở nước ta (gà Ri, gà Ác, gà Ðông Cảo, gà Hồ, gà Mía, gà Rôt Ri, gà Bình Thắng (BT1, BT2), nhằm tạo ra những nhóm gà (thả vườn) thích hợp với chăn nuôi gia đình, trang trại ở các vùng nông thôn. Ngoài những thành tựu khoa học về công tác giống vật nuôi đã nói trên, chúng ta còn nuôi nhiều giống dê, thỏ, vịt, ngan, ngỗng nội, ngoại ở nhiều vùng khác nhau trên toàn quốc. Gần đây, để đa dạng hóa sản phẩm (từ nguồn đa dạng hóa sinh học) chúng ta còn nhập thêm các dòng, nhóm 8 chọn lọc: cá sấu, hươu, nai, đà điểu, bồ câu... đang được nuôi thử nghiệm tại một số trung tâm chăn nuôi. Cho đến nay, trải qua một thời gian dài xây dựng, củng cố, phát triển ngành chăn nuôi, công tác giống vật nuôi đã hình thành một hệ thống nghiên cứu, thông tin, quản lý giống vật nuôi và gia cầm, bao gồm: - Hệ thống quản lý Nhà nước: Cục, Vụ, các Trung tâm, Tổng cục chăn nuôi. - Hệ thống đào tạo và nghiên cứu khoa học: Trường Ðại học,Viện, các Trung tâm nghiên cứu. - Hệ thống sản xuất kinh doanh: Tổng công ty, Công ty, Trung tâm... đến các cơ sở sản xuất trên toàn quốc, đi đôi với phát triển chăn nuôi gia đình tiến dần lên hình thức trạng trại. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, tuy công tác giống vật nuôi vẫn giữ được nề nếp quản lý, nhưng hiệu quả kinh tế của con giống chưa được phát huy cao trong nền kinh tế thị trường. Việc phổ biến các kiến thức về giống và chọn giống theo hướng sinh học hiện đại còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây Nhà nước ta đã có định hướng mới cho ngành chăn nuôi “chuyển từ chăn nuôi tự túc sang chăn nuôi hàng hóa, kết hợp chăn nuôi với công nghiệp chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, đưa chăn nuôi trở thành ngành kinh tế hàng hóa lớn, có hiệu quả cao trong nông nghiệp...” (Nghị quyết về một số chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế... của Chính phủ ngày 15/6/2000). Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, công tác giống và chọn giống vật nuôi vẫn giữ vai trò trọng yếu. Chúng ta đang ra sức chuyển đổi cơ cấu giống, coi trọng chọn giống lợn cao sản, giống bò sữa cao sản, bò thịt chuyên dụng, gia cầm có phẩm chất sản phẩm tốt, phù hợp với thị hiếu của người dân... nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao hơn nữa. 9 Chương II NGUỒN GỐC,THUẦN HÓA VÀ THÍCH NGHI CỦA VẬT NUÔI 2.1. Nguồn gốc của vật nuôi 2.1.1. Nguồn gốc giống lợn Theo nghiên cứu của Voncopialov B. P (1956), L. Coringhe (1961) và nhiều tác giả khác trên thế giới ở nhiều thời kỳ khác nhau, lợn nhà Á Đông là từ lợn rừng thuộc: chủng Sus scorfa; thứ chủng Sus orientalis, Sus vitatus, họ Suidae. Cũng trong loài Sus (bao gồm nhiều chủng và thứ chủng) có nhiều đại diện rải rác khắp các lục địa và chính là nguồn gốc trực tiếp của các giống lợn nguyên thủy còn tồn tại cho đến ngày nay. Chủng Sus scrofa, nguồn gốc trực tiếp của lợn nhà. Chủng này có bốn thứ chủng được phân bố ở các khu vực khác nhau. - Sus scrofa scorfa (lợn rừng Châu Âu) ở vùng Bắc Châu Âu. - Sus scrofa cristatus (lợn rừng vùng Ấn Độ). - Sus scrofa leucomystatus (lợn rừng Viễn đông) - Sus scrofa vitatus (lợn rừng có lông sọc). Phân bố ở vùng chạy dọc ven phía nam Châu Á qua các đảo Srilanca, Indonesia đến các vùng Trung Á Bryden H.A, J.Walker và Mc. Spadden (1957) còn chia họ Suidae thành hai nhánh lớn: - Nhánh Pig có nhiều ở cựu lục địa (Âu, Á, Phi); - Nhánh Peccaries có nhiều ở Tân thế giới (Mỹ). Hình 2.1. Lợn rừng 10 Trong nhánh Pig, ngoài các loài lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, còn có nhiều loại khác, hiện nay chủ yếu còn ở thể hoang, như: - True pigs hay Wild boar có nhiều ở Bắc Phi, Trung Á, Châu Âu; - Diving pigs có nhiều ở Ấn Ðộ, trong loại này có loại có khối lượng nhỏ. - Barbirussa có nhiều lông lá ở Malaysia, Indonesia. - Wart hogs có nhiều ở Nam Phi, đầu to, thân dài. Trong nhánh Peccaries có hai loại đáng chú ý: Collared Peccaries và White Peccaries. Peccaries là loại lợn ở thể hoang, có khi ở lẫn với lợn nhà, là nguồn gốc chủ yếu của các loại lợn nhà Bắc Mỹ. Sơ đồ cây động vật ở lợn. Mammalia Lớp có vú Ungulata Phụ lớp: - một móng Suiformes - Không nhai lại Artiodactyla Neobunodontia Bộ guốc chẵn Suidae Phụ bộ răng cục Sus Họ lợn Sus scorfa Loài Susvitatus Chủng Sus Orientalis Thứ chủng Sus scorfa attila Sus scorfa antiqus. Sau đây là sơ đồ nguồn gốc của các giống lợn hiện nay (Theo Voncopialop B.P, 1955). Lợn rừng Châu Âu Lợn rừng Châu Á (sus scrofa ferus) (Sus orientalis, Sus cristatus, Sus vitatus) Giống lợn địa phương Châu Âu Giống lợn địa phương Châu Á - tai dài - tai dài - tai ngắn - tai ngắn Giống pha tạp từ các giống Á-Âu Giống hiện nay (địa phương, cao sản) 11 Darwin.C, dựa vào các di tích khảo cổ thu được đã nghiên cứu hình dạng sọ, hình dạng cơ thể và các bộ phận khác, viết nên sách “Nguồn gốc của các loài”, đã từng xác định sự tiến hóa của lợn như sau: “Hình dạng đặc thù của sọ và cơ thể là biểu hiện cao nhất của giống thuần hóa. Tính đặc thù không riêng biệt cho một giống mà trái lại, nhiều tiêu chuẩn lại là chung cho tất cả các giống từ thân rộng, vai dài, lưng vổng của giống lợn Anh đến thân nhỏ, tai ngắn của giống lợn Trung Quốc, ở mức độ chọn lọc hoàn chỉnh nào đó, giống nọ gần giống kia ở hình dạng đầu và cơ thể. Kết quả đó hình như là do tác động đối với nhiều giống và chừng mực nào, đích danh là do người ta dùng lợn đó để lấy thịt hay lấy mỡ là chủ yếu. Con vật càng được thuần hóa, kết quả chọn lọc càng làm cho các tính trạng càng khác nhau nhưng cũng chính từ đó có chỗ trùng hợp nhau...” ( Walker, Mc. Spadden, 1957). 2.1.2 Nguồn gốc giống bò Bò, trâu, ngựa đều thuộc lớp Mammalia, bộ Ungulata, trong đó bộ phụ Ruminautia-nhai lại là nhánh quan trọng có nhiều ích lợi nhất cho con người. Trong Ruminautia-Nhai lại có Oxen, Bitson (bò rừng), Yak (bò Tây Tạng), Buffalos (trâu) từ Oxen con người đã thuần dưỡng, chọn lọc, còn lại bây giờ ở các nước trên thế giới, các giống nguyên thủy và giống địa phương như: 2.1.2.1. Châu Âu Giống bò xám Tây Ban Nha, giống bò trắng đông bắc Ý nổi tiếng từ thời Lamã, giống Lang đến trắng Ðức, gốc của giống bò Holstein-Friesian nổi tiếng ở Ðan Mạch, Hà Lan... và nhiều nước khác hiện nay. 2.1.2.2. Ở Ấn Ðộ, Ðông Phi, Ðông Nam Á. Nhánh Humped (sau này còn gọi là Zebu) thuộc loài Bos indicus, hiện nay còn có nhiều giống địa phương. Nhóm Oxen Wild trong đó còn có những con tiêu biểu, dạng nguyên thủy như bò rừng Auroch (còn sống ở các vườn quốc gia của các nước vùng lạnh), bò Gauar (còn nhiều ở chân núi Hymalaya, Ấn Ðộ), bò Bangteng ở Indonesia. Ở Việt nam có nhiều giống bò sữa thịt thuộc Bos indicus và Bos primigenus; bò cày kéo, bò thịt thuộc Bos indicus. - Bos indicus thuộc họ Bovidae, loài Bos taurus, Bos primigenus, Bos indicus. Wagner W.(1926) nhận xét: “Bò u (Bos indicus) có u cao hay thấp tùy từng nơi, từng nhóm, tai rũ, có yếm dưới cổ, cao chân, trán vổng (đối với con đực). Ở Ðông dương bò có u thấp, chiều cao 112-114 cm”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các nước Ấn Ðộ, Pakistan, Mianma, Thái Lan, Ðông dương, Indonesia... là vùng gốc của bò thuộc Bos indicus. Người ta đã chia bò U thành 6 nhóm gồm quãng 30 giống. 12 Nhóm 1: Lông xám, sừng cong vào trong, trán rộng, đầu thanh, trắc diện thẳng hay lõm. Ðại diện là giống Malvi. Nhóm 2: Lông trắng hoặc xám nhạt, sừng ngắn, đầu dài, trán rộng, trắc diện hơi lõm. Ðại diện là các giống Hariana, Ongole. Nhóm 3: Nặng nề, sừng ngang, trán rộng, lông đốm nâu hay trắng, nâu tuyền đậm hay nhạt. Ðại diện là giống Gir. Nhóm 4: Dạng trung bình, hơi lùn, trán gồ, gốc sừng gần nhau. Sừng thẳng hơi ngả về sau, sừng nhọn, chạy nhanh, kéo khoẻ, tính dữ, lông xám, nâu, từ trắng đến đen. Đại diện là giống Sindhi, Sahiwal. Nhóm 5: Hình dạng bé, lông đen, nâu hay màu sẫm, có con có chấm trắng to, sừng hơi uốn vào trong, cho sức kéo, cho sữa. Ðại diện là giống Siri, Lohani. Nhóm 6: Dạng trung bình, lùn. Lông lang trắng có chấm đen hay nâu, có khi trắng tuyền chỉ có vài chấm màu. Dạng này phổ biến ở Pakistan. Bos indicus nhập vào Ðông Dương: mục đích chính của việc nhập này chủ yếu là để lai với bò địa phương, để cải tiến bò địa phương và nuôi thuần chủng. Bò U (Sindhi) nhập vào Ðông Dương, có con cho 10 - 12 lít sữa/ngày, tỷ lệ mỡ hơn 4%. - Bos primigenus. Qua nghiên cứu sọ và hình dáng của sừng, người ta đã phân bò nhà thành sáu loại: Bos taurus primigenus Bos taurus frontosus Bos taurus brachycefalus Bos taurus brachyceros Bos taurus aceratos Bos taurus artoceros Từ cơ sở trên, J.W Surschler (1956) phân thành hai loại: Bos taurus primigenus (sừng dài) và Bos taurus brachyceros (sừng ngắn). Bos primigenus là một nhánh thuộc Bos planifrons được khảo cổ phát hiện thấy ở Ấn Ðộ. Người ta cho rằng Bos planifrons từ Ấn Ðộ lan ra trên đất Á, Âu, từ Ðại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Bos primigenus có thể chia thành hai nhánh lớn: Bos primigenus trochoceros. Bos primigenus nomadnicus. Cần quan tâm đến nhánh Bos primigenus nomadnicus hơn vì từ nhánh này có nhánh nhỏ hơn: Bos primigenus primigenus. Từ lâu người ta cho rằng các loại bò thường, bò u đều thuộc nhóm Taurina tức là Bos taurus của nhánh nhỏ này, trong đó có bò rừng Tua, tổ tiên của các giống bò hiện nay. 13 Hình 2.2 Bò rừng Theo Nobis (1957), thời Neolit, một nhóm thuộc Taurinias (Bos primigenus primigenus) khi di cư qua Trung Âu trở thành nhóm bò đặc biệt (không u, sừng dài) và cũng có thay đổi ít nhiều về dạng hình. Giống bò sữa Holstein-Friesian (mà thường gọi là bò Hà Lan, bò Lang đen trắng) thuộc chủng Bos primigenus, sau này dần dần chia thành nhiều nhánh. Nhánh chính thống, cổ xưa nhất, được hình thành 300 năm trước công nguyên từ hai giống Frisian-Vaterber ở vùng cửa sông Phin. Ðến đầu thế kỷ XVIII-XIX các giống này đã khá phát triển, được nuôi phổ biến ở Hà Lan, cùng với sự cải tiến các đồng cỏ thiên nhiên và sự giao lưu thương mại về bò và sữa. Ðến lúc này, nhánh gốc chính thống cũng đã chia ra thành nhiều nhánh nhỏ, trong đó quan trọng nhất là nhánh Frisian có sắc lông: lang đen trắng; bê mới sinh 40-45 kg; một năm tuổi trên 300 kg; trưởng thành, con cái đạt 550-600 kg, con đực 800-1.000 kg; tăng trọng nhanh, tỷ lệ thịt xẻ 55%. 2.1.3. Nguồn gốc giống trâu Nhiều nhà khoa học cho rằng, trâu nhà hiện nay có nguồn gốc từ trâu rừng Ấn Ðộ (Buffalus arni), từ Ấn Ðộ, trâu được thuần hóa di chuyển khắp một dải Ðông Nam Á. Một luồng di chuyển khác bắt nguồn từ trâu rừng Châu Phi qua Ai cập, qua các vùng Trung Cận Ðông đến miền Nam Châu Âu. Cũng có thể chia trâu làm hai nhóm: trâu sừng dài thường gặp ở Mianma, miền Nam Trung Quốc, Việt Nam; trâu sừng ngắn thường gặp ở Nhật Bản, miền Bắc Trung Quốc, Ai Cập, Italia, miền Nam Châu Âu. 2.1.4. Nguồn gốc giống gà Nguồn gốc của gà nhà Á Ðông hiện nay là gà rừng Gallus gallus. Gà rừng thường bé nhỏ, đẻ dồn theo mùa vụ, trứng nhỏ, có thể bay cao, bay khá xa. Gà nhà có thể đẻ theo mùa vụ hoặc quanh năm, có thể ấp trứng,nhưng cũng có thể mất phản xạ ấp trứng. Dạng hình gà nhà có thể phát triển tùy theo hướng cho thịt hay trứng. 14 Các loại gia cầm khác như: ngan được thuần hóa ở Châu Phi, gà tây ở Mêhicô, ngỗng xám ở Châu Á. Hình 2.3. Gà rừng 2.2. Sự thuần hoá vật nuôi Tất cả các loại vật nuôi hiện nay đều có nguồn gốc từ thú hoang, trải qua quá trình thuần hóa, chọn lọc lâu đời, trong đó có sự tác động tích cực của con người, thú hoang dần dần trở thành vật nuôi. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử, các giống vật nuôi được hình thành, phát triển và hoàn thiện, chúng luôn luôn nằm trong mối quan hệ giữa con người - vật nuôi - môi trường. Thú hoang được thuần hóa nhờ sức lao động cần cù và trí thông minh sáng tạo của con người. Ðể trở thành vật nuôi, thú hoang phải trải qua một quá trình chọn lọc, huấn luyện và cải tiến, nuôi dưỡng theo hướng nâng cao tính năng sản xuất của chúng. Có ý kiến cho rằng, chó được thuần dưỡng trước tiên vì nó giúp cho con người săn bắn. Có người chứng minh rằng, các bộ lạc thời đồ đá cũ chẳng bao giờ dùng chó, có nuôi cũng chỉ để ăn thịt. 15 Herman P (1940) cho rằng dê, cừu là những con vật được thuần hóa trước tiên vì nhu cầu về thịt, lông, len... Nhiều người xác nhận, sự thuần hóa gắn liền với ngành cây trồng, với tín ngưỡng và tôn giáo. Theo E. Halm, thuần hóa bắt đầu từ một nơi đầu tiên. Ðiều đó có thể đúng, như nhiều tài liệu cho rằng, gà được thuần hóa trước tiên ở Ấn Độ, ngan ở Châu Phi, ngỗng xám ở Châu Âu... Vavilop V (1993) và Ia Borưxenco (1953) cho rằng Nam Á, Ấn Độ, Ðông Dương... là một trong những trung tâm Châu Á thuần dưỡng đầu tiên trâu, bò u, dê, lợn, gà... Engel F, xác định: ”... sự thuần hóa không phải là do nhu cầu về tín ngưỡng, cũng không phải ngẫu nhiên mà chính là sự phân công lao động to lớn trong xã hội nguyên thủy của loài người...”. Trong số những vật nuôi được thuần hóa đầu tiên và có ý nghĩa đối với con người đó là con ngựa và lừa. Việc thuần hóa ngựa có ý nghĩa lớn đối với lịch sử tiến hóa của con người. Ngựa nhà hiện nay có nguồn gốc từ ngựa rừng. Nơi thuần hóa ngựa rừng sơ khai là rừng thảo nguyên Ðông nam châu Âu, vùng thượng nguồn Donetstre vào cuối thời văn hóa Tripon, xuất hiện vào 3000 năm trước công nguyên. Một trung tâm thuần hóa nữa là vùng rừng thảo nguyên Siberi ở thời đại Neolit. Ngựa được dùng để thồ, kéo chiến xa, về sau được dùng để cưỡi. Cùng với con ngựa, con lừa được thuần hóa ở vùng Ðông nam Ai cập, Ngay thời cổ Hy lạp, người ta dùng lừa để chuyên chở, đập lúa và để cưỡi. Bò rừng đại diện cho loài nhai lại, thường gặp ở vùng Evravi Châu Phi và Bắc Mỹ. Bò hoang cổ xưa có được coi là có quê hương ở Ấn độ, sau đó lan qua Cận đông, Bắc Phi vào thời kỳ băng hà (Lehmann, 1949). Bò U cổ xưa đã được tìm thấy vào năm 3000 trước công nguyên ở vùng Mesopotamic rồi lan qua Ả rập, Ai Cập và Ðông Phi. Có ý kiến cho rằng, sự thuần hóa bò rừng được tiến hành rất sớm ở vùng Ðông Ðịa Trung Hải, Iran và Ấn Độ. Trung Âu cũng là nơi bò rừng được thuần hóa sớm, về sau Herman còn phát hiện bò được thuần hóa sớm ở Ai cập. Bò u hiện nay có khả năng thích nghi cao với khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới. Bò u là dạng bò rừng đặc biệt. Banten, Epstein cho rằng bò u và bò thường có nguồn gốc từ bò rừng Taurina, có những đặc điểm cấu trúc xương sọ giống nhau. Bò u được chia làm 2 nhóm: một nhóm có u ở cổ, đó là một khối thịt, nhóm thứ hai có u thịt mỡ ở vùng vây. Về sau người ta đã phát hiện ra hai nhóm này có liên hệ với nhau. Ðối với con lợn: sự thuần hóa lợn rừng có ý nghĩa đối với con người, nó được thuần hóa cách đây 1,5 đến 2 triệu năm vào thời đại đồ đá hoặc giữa thời đại đồ đá mới. Chúng được thuần hóa ở nhiều nơi trên thế giới. Theo L. Corinhe (1961), phần lớn các giống lợn có ở Châu Âu từ những năm 1800 đều có máu của lợn Á Đông, do các nhà tạo giống người 16 Anh lai tạo. Các giống lợn này chính là nguồn gốc của các giống cao sản hiện nay trên thế giới. 2.2.1. Những tác động của con người làm thay đổi đặc điểm của thú hoang. Sự tác động của con người trong quá trình chuyển thú hoang thành vật nuôi, đem đến kết quả làm cho vật nuôi và thú hoang khác nhau về cơ bản. Vật nuôi phục vụ lợi ích của con người nhiều hơn. Trước khi được thuần hóa, vật nuôi ở vào trạng thái tự nhiên, thường xuyên giữ được trạng thái cân bằng trong quần thể, giữa các quần thể trong môi sinh, chịu sự tác động của chọn lọc tự nhiên. Còn chọn lọc nhân tạo là cả quá trình dài làm biến đổi bản thân con vật, tạo nên quần thể mới cân bằng trong môi trường mới. Trước khi được thuần dưỡng, thú hoang ở trạng thái chọn lọc tự nhiên, có biến đổi thường xuyên, nhưng chậm chạp. Còn chọn lọc nhân tạo là quá trình lâu dài, không ngừng, làm biến đổi bản thân con vật, tạo nên những quần thể vật nuôi sống ổn định trong môi trường sinh thái mới. 2.2.1.1. Con người đã làm thay đổi điều kiện sinh tồn của thú hoang + Khi còn thú hoang: tự kiếm ăn, tự bảo vệ, chống lại các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, chống lại các kẻ thù khác nên phải di chuyển nhiều, chọn cây cối rậm rạp làm nơi ẩn náu. + Khi thuần hóa giữa người và vật đã xuất hiện mối tương quan sinh vật mà trong đó con người đóng vai trò tích cực. Con người đã tạo nên cho con vật những điều kiện sinh tồn mới. Con người trở thành chỗ dựa có lợi cho vật nuôi, cơ thể vật nuôi thay đổi để thích nghi được điều kiện sống gần người. Con người đồng thời trồng trọt, khai phá rừng núi, khai thác sông ngòi làm ảnh hưởng đến địa bàn phân bố của thu hoang, thay đổi khí hậu vùng, cấu trúc đất đai, nguồn thức ăn thiên nhiên của thú hoang dần dần giảm sút. Con người làm thay đổi số lượng và chất lượng thức ăn của thú hoang. + Khi còn thú hoang: tự nuôi sống bằng cỏ cây, quả hạt sẵn có trong thiên nhiên nên thường khỏe mạnh, gân guốc, nhanh nhẹn. Nhưng khi điều kiện sống thay đổi hoặc bị kẻ thù chèn ép thú hoang thường gầy yếu, phát sinh dịch bệnh, có khi chết hàng loạt, tiệt chủng. + Khi thuần hóa, con người tạo nên những đồng cỏ mới, cải tạo đồng cỏ thiên nhiên, tìm và trồng những loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao. Vật nuôi phụ thuộc vào nguồn thức ăn do con người cung cấp, và được nuôi theo giai đoạn, theo định hướng sản xuất khác nhau. Do đó khả năng sinh sản, sức sản xuất ngày càng được nâng cao. 17 2.2.1.2 Con người đã làm thay đổi chế độ nuôi dưỡng và sinh hoạt của thú hoang + Khi còn thú hoang: sống tự do trong thiên nhiên, sống thành bầy đàn, sinh sản theo mùa, di động kiếm ăn theo con đầu đàn, phù hợp với lối sống tự kiếm ăn, tự bảo vệ. Bản năng tự bảo vệ đã được hun đúc trong phạm vị bầy, đàn. Tuy bảo tồn được chủng loại, nhưng cũng gây tại họa do phản xạ mù quáng, không tự đủ sức chống chọi với những thay đổi của thiên nhiên. + Trở thành vật nuôi: chủ yếu được nuôi dưỡng trong chuồng, nuôi phân loại, nuôi theo giai đoạn, nuôi theo định hướng sản xuất, được con người huấn luyện theo từng tính năng sử dụng của nó. Từ đó mà hình thành các giống vật nuôi kiêm dụng và chuyên dụng. Vật nuôi cao sản trở thành cổ máy cho sữa, cho trứng, cho thịt. 2.2.1.3. Con người đã làm thay đổi những điều kiện khí hậu của thú hoang + Khi còn thú hoang: sống ngoài thiên nhiên nên các đặc điểm ngoại hình biến đổi để thích nghi với điều kiện khí hậu mà trong đó nó sinh sống. + Con người tạo nên các tiểu khí hậu chuồng trại, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của vật nuôi. Khả năng miễn kháng, tự vệ sẵn có của vật nuôi trong thiên nhiên giảm đi, nên vật nuôi rất nhạy cảm với sự thay đổi của khí hậu bên ngoài, dẫn đến khả năng chống bệnh bị kém đi. Mặt khác việc thay đổi tiểu khí hậu phù hợp với việc khai thác khả năng sản xuất của con vật, buộc vật nuôi phải nhanh chóng thích nghi với nuôi dưỡng của con người, làm cho cơ thể vật nuôi cũng dễ “uốn” theo hướng sản xuất mà con người đã xác định cho các loại vật nuôi. Con người không những tác động vào điều kiện nuôi dưỡng mà còn tác động ngay từ kiểu di truyền của cha mẹ để có đời con theo định hướng sản xuất. 2.2.1.4. Con người đã chọn lọc để giữ lại những con tốt + Thú hoang thích nghi với điều kiện tự nhiên là do tác động của chọn lọc tự nhiên. + Vật nuôi được giữ lại nuôi dưỡng thường là khỏe mạnh, ban đầu vừa dễ nuôi, vừa sinh sản nhiều, về sau còn giữ lại những con có hình dáng thích hợp với tính năng sản xuất. Qua một quá trình chọn lọc lâu dài, trong một giống vật nuôi, người ta thường thấy những con vật có cùng một dạng hình. Sự chọn lọc nhân tạo đã tạo nên đồng dạng về kiểu hình. Nghĩa là các con vật trong cùng một giống có cùng một hướng sản xuất thì có cùng một màu sắc, tầm vóc, hình dáng và có cùng tính năng sản xuất trong một điều kiện nuôi dưỡng nhất định. Màu sắc, hình dáng ... đồng dạng trở 18 thành đặc thù của con vật, của giống và cũng là phương tiện nhận dạng con vật, nhận dạng giống. Do chọn lọc tự nhiên và thích nghi lâu đời mà thú hoang có kiểu di truyền phong phú, được hình thành theo lối tự nhiên. Con người không những chọn lọc theo kiểu di truyền biểu hiện ra ở kiểu hình mà còn tác động, nhất là về mặt dinh dưỡng và vào quá trình sinh sản của con vật. Con người tiến hành chọn những con đực tốt, loại thải những con đực xấu, bảo quản dài ngày tinh đông viên, cho ấp trứng nhân tạo, phá vỡ tính mùa vụ trong sinh sản... Hiệu quả của chọn lọc, tích lũy lâu dài, bắt đầu từ khi con vật còn ở dạng phôi tử, chính là yếu tố tạo nên kiểu di truyền phong phú mà sau này khi trưởng thành con vật có biểu hiện kiểu hình theo định hướng sản xuất. Tiêu chuẩn chọn lọc cùng với tiêu chuẩn dinh dưỡng luôn luôn thay đổi, luôn luôn nâng cao, tác động mạnh đến sinh lý, đến trao đổi chất của con vật, càng tạo nên cho con vật có dạng hình thích hợp, nâng cao được khả năng sinh sản, khả năng sản xuất của nó. Thông qua chọn lọc mà con người bồi dưỡng những tính trạng có ích, như sản lượng sữa cao, tỷ lệ mỡ sữa cao, tỷ lệ nạc cao, tăng trọng nhanh, sản lượng trứng cao..., biến những tính trạng đó vốn có ở mức độ thấp ở thú hoang thành các tính trạng đạt giá trị cao hơn ở vật nuôi. Có khi con người biết lợi dụng những đột biến có lợi (giống bò thịt không sừng, cừu thịt ngắn chân...) để nâng cao sức sản xuất của con vật. Sau khi chọn lọc cá thể, con người còn khéo chọn đôi giao phối, tức là khéo kết hợp những đặc tính tốt của bố mẹ cho thế hệ con. Có thể nói việc chọn lọc vật nuôi đi với chọn phối và cải tiến dinh dưỡng là những yếu tố cơ bản thúc đẩy nhanh quá trình thuần hóa làm cho vật nuôi khác xa tổ tiên của chúng là thú hoang. 2.2.2. Những thay đổi của thú hoang qua quá trình thuần hóa Như trên chúng ta đã thấy, vật nuôi hiện nay đều đã trải qua một quá trình thuần hóa. Sự thuần hóa đó không phải là do nhu cầu về tín ngưỡng và cũng không phải ngẫu nhiên mà chính là do sự phân công lao động trong xã hội nguyên thủy của loài người. Trải qua quá trình thuần hóa mà nhiều vật nuôi ngày nay đã trở thành những phẩm giống cao sản. Trải qua quá trình thuần hóa lâu dài, vật nuôi bắt nguồn từ thú hoang đã có nhiều thay đổi. 2.2.2.1. Thay đổi về mặt ngoại hình Ngoại hình và hình vóc của thú hoang rất phù hợp với ngoại cảnh thiên nhiên, nhất là tầm vóc đã thay đổi rõ rệt: bò rừng xưa rất cao lớn, đến thời kỳ đồ đá bò được thuần hóa thì tầm vóc có bé hơn. Ðến nay một 19 số giống được chọn lọc và nuôi dưỡng tốt cũng có thân hình vạm vỡ (bò thịt Santagestrudis, Simental...). Bò rừng cái có bộ vú phát triển vừa phải, bò nhà có bộ vú phát triển, không những cung cấp đủ lượng sữa nuôi con mà còn cung cấp sữa hàng hóa. Khi thuần dưỡng thú hoang, con người chú trọng làm giảm tính hung dữ của thú hoang, khi chọn lọc, con người giữ lại những con đực khỏe nhưng hiền lành, dễ sai khiến. Khi nuôi dưỡng con vật bao giờ con người cũng chú trọng làm thế nào cho sản phẩm của con vật đáp ứng được nhu cầu của con người. Vì vậy mà da lợn nhà có thể mỏng hơn lợn rừng; mỡ, nạc có thể nhiều hơn nhưng xương lại có thể bé đi. Sự thay đổi theo định hướng sản xuất của con người có thể làm cho vật nuôi bé hơn hoặc cũng có thể lớn hơn tùy theo tác động của chọn lọc và nuôi dưỡng nhiều hay ít. 2.2.2.2. Các bộ phận của cơ thể và chức năng của nó thay đổi rõ rệt Hình vóc, nhất là tầm vóc đã thay đổi rõ rệt. Bò rừng xưa rất cao lớn. Ðến thời kỳ đồ đá, bò nhà mới được thuần hóa lại có tầm vóc bé hơn. Ðến nay một số phẩm giống bò nhà được chọn lọc và được nuôi dưỡng tốt lại có thân hình vạm vỡ. Dáng hình thay đổi theo hướng sản xuất: bò sữa có dạng hình nêm, bò thịt có hình chữ nhật, lợn Landrace hướng nạc có hình dạng giống như quả thủy lôi... Lông da của thú hoang cũng thay đổi nhiều: thỏ rừng lông cứng và thô, thỏ nhà lông dài và mịn. Xương của vật nuôi thường bé nhỏ hơn thú hoang Cơ thể thú hoang là một hệ thống cơ cấu trong đó các chiều và độ lớn của từng cơ quan cùng chức năng của nó hòa hợp với nhau. Do nhiều nguyên nhân sinh lý, hình vóc thay đổi mà kéo theo sự thay đổi tương ứng của từng phần cơ thể cũng như độ lớn của bộ phận đó. Trâu cày ngực rộng và lưng dài; lợn béo má thỏng và bụng sệ; gà chọi cổ cao và cựa sắc... Các bộ phận bên trong của vật nuôi và chức năng của nó so với thú hoang có đặc điểm khác nhau rõ rệt. Bò rừng tiết sữa đủ để nuôi con, lượng sữa bò nhà còn là sản phẩm hàng hóa. Thú hoang sinh sản theo mùa vụ, vật nuôi có thể đẻ quanh năm, gà có thể mất hẳn tính ấp. Ðặc biệt sự thuần hóa đã ảnh hưởng nhiều đến phản xạ thần kinh: bê nghé biết cày sau khi được vực, lợn đực nhảy giá gỗ để khai thác tinh... Các bộ phận của thú hoang dần dần thay đổi cũng thích ứng với môi trường sinh lý, sinh hóa và sinh học mới. Lợn rừng đẻ ít con, lợn nhà số con được nâng lên, gà rừng một năm đẻ vài chục quả trứng, gà nhà đẻ hàng trăm trứng trong năm. Bộ phận và chức năng của con vật không những chừng mực nào thay đổi mà bản thân con vật trở thành nguyên liệu, 20 sản phẩm hàng hóa có tiêu chuẩn, có thể sản xuất theo dây chuyền như lợn hướng nạc, gà dò vỗ béo, ngỗng nhồi lấy gan... Tuy nhiên cần chú ý nhiều thay đổi đã nói ở trên có lợi cho con người, nhưng có khi không có lợi cho bản thân con vật và xa hơn nữa có hại cho bản thân loài như bò cao sản dễ bị lao, gà công nghiệp không ấp trứng... Con người giải quyết mâu thuẩn đó bằng cách nuôi dưỡng, chăm sóc, chọn lọc và bảo tồn những giống tốt. Tất cả những thay đổi trên không những chứng minh sự thuần hóa lâu dài của thú hoang mà còn nói lên trí thông minh, sáng tạo, bàn tay lao động cần cù của con người đã biến thú hoang thành công cụ, phương tiện phục vụ sản xuất, phục vụ lợi ích của con người. 2.3. Sự thích nghi của vật nuôi 2.3.1. Khái niệm về thích nghi của vật nuôi Thích nghi là kết quả của phản ứng cơ thể con vật trong điều kiện sống mới và những tác động của con người để điều chỉnh phản ứng đó. Nghiên cứu thích nghi cũng là nghiên cứu về sự thay đổi những chỉ tiêu về ngoại hình, sinh lý, khả năng sản xuất, khả năng chống chịu của con vật trong điều kiện sống mới so với môi trường cũ của nó và tác động của con người làm cho con vật thích ứng với điều kiện sống mới, nâng cao được sức sản xuất. Vấn đề thích nghi của vật nuôi đã được quan tâm từ khi loài người bắt đầu thuần hóa thú hoang. Sự thích nghi của vật nuôi gắn liền với sự giao lưu, trao đổi đồng thời cũng làm phong phú thêm nguồn gen của từng khu vực. Các kiến thức về thích nghi dần dần được tích lũy lại, đi từ nhận xét về thay đổi ngoại hình, sinh lý đến các chức năng quan trọng như cho sữa, sinh sản... của con vật. Việc theo dõi thích nghi còn đi sâu vào những diễn biến trao đổi chất của con vật đang thích nghi như các dạng hemoglobin, các tiểu phần protid huyết thanh... mục đích là tìm ra được thực chất thay đổi về trao đổi chất và xác định mối tương quan giữa tính di truyền của con vật với điều kiện môi trường mới. Cũng không phải chỉ nghiên cứu ở đời con vật đang thích nghi mà cả ở những đời con của nó được sinh ra trong môi trường mới. Darwin nói “cơ thể hữu cơ ở trạng thái tự nhiên có thể thay đổi theo nhiều hướng khác nhau dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống lâu dài của nó”. Trong quá trình thích nghi sự phản ứng của cơ thể vật nuôi là một biểu hiện rất quan trọng để đánh giá sự thích nghi. Nghiên cứu thích nghi cũng là nghiên cứu tác động của con người đối với sinh vật để chế ngự, sửa đổi thiên nhiên tạo nên môi trường làm cho con vật thích ứng được với điều kiện mới, nâng cao được sức sản xuất. 21 Thích nghi là kết quả của hàng loạt những quá trình sinh hoá phức tạp trong cơ thể con vật nhờ đó mà nó có thể sống phù hợp với các điều kiện của môi trường mới. Nếu con vật được nuôi trong môi trường khác xa với môi trường cũ của nó đã sống mà không thích nghi được nó sẽ gầy mòn, kém sinh sản, dễ mang bệnh tật và cuối cùng sẽ chết. Trong trường hợp này thường xẩy ra khi chuyển con vật từ vùng ôn đới đến vùng nhiệt đới. Con vật có khả năng phát triển và sinh sản, sản xuất khác nhau trong điều kiện nhất định, có loại thích hợp với khí hậu lạnh, có loại thích hợp với khí hậu ôn đới, có loại với khí hậu nhiệt đới. Vấn đề thích nghi của vật nuôi không những là một vấn đề lý luận đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, mà còn là một vấn đề có tầm ứng dụng rất lớn. Nghiên cứu các loại ngựa, thỏ sinh đôi, Walton, Hamnond (1938) đã thừa nhận rằng điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng đến các tính trạng số lượng nhưng vật nuôi vẫn chịu ở mức độ có giới hạn gọi là “điểm cao sinh lý”. Ðáng chú ý là những quan điểm thích nghi về sự tương tác giữa kiểu di truyền với môi trường trong điều kiện nhiệt đới và á nhiệt đới. Vật nuôi dễ thích nghi ở những vùng mà khí hậu nói chung không khác xa bao nhiêu so với khí hậu vùng gốc của nó, hoặc tiểu khí hậu ở vùng thích nghi đã được cải tiến rất nhiều. Cho nên có thể gặp ở nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới cũng với những giống vật nuôi đó. Chẳng hạn ở những nước Châu Âu, Mỹ, Canada, Argentina, Nhật, Úc, Tân Tây Lan ... đều thấy có ngựa Anh thuần chủng và ngựa Ả rập. Bò sữa cao sản Holstein và lợn Landrace Ðan mạch trong thế kỷ XX đã được nuôi phổ biến trên khắp thế giới, trừ những vùng quá lạnh, quá nóng hoặc những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Seath D.M, Miller (1947) nghiên cứu thấy bò Lang đen trắng khi nhiệt độ bên ngoài lên 27,30C thì thân nhiệt lên 39,70C trong khi đó bò Jecsey chỉ là 39,30C. Ngày nóng bức bò Holstein tìm chỗ bóng mát, trong lúc đó bò Jecsey vẫn ung dung gặm cỏ và di động bình thường trên đồng cỏ. Ngoài khí hậu ra, dinh dưỡng cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến thích nghi của vật nuôi. Bisschop (1938) nghiên cứu trên ba phẩm giống bò trong điều kiện của Nam Phi cho rằng thiếu phospho trong thức ăn đã hạn chế sản lượng sữa. Moun (1961) nhận xét bò Hà lan ở Singapore mỗi ngày vắt được 11 kg sữa nếu nuôi nhốt, còn nếu nuôi thả rông trên đồng cỏ chỉ vắt được 4,1 kg. Ðáng chú ý trong vấn đề thích nghi của vật nuôi ở vùng nhiệt đới là bệnh tật đối với vật nuôi nhập từ vùng ôn đới. Bò nhập thường rất dễ mắc bệnh lao, lê dạng trùng và tiên mao trùng, lợn hay mắc bệnh về đường 22 sinh dục, ghẻ, lở...Vì vậy, một mặt cần tiến hành những biện pháp phòng trừ dịch bệnh tốt nhất cho vật nuôi nhập, mặt khác cần chọn lọc giữ lại từ quần thể, những cá thể có sức chịu đựng bệnh tật cao nhất. Thích nghi của vật nuôi được thể hiện ở các mặt sau: - Thay đổi về ngoại hình, sinh lý đến chức năng như tiết sữa, sinh sản ... của con vật. - Những biến đổi về trao đổi chất của con vật đang thích nghi. Khi nghiên cứu thích nghi không những cần phải xem xét bản thân con vật đang thích nghi mà còn cả đời con của nó được sinh ra trong môi trường mới, xem xét sự thay đổi so với giống gốc, sự thay đổi đó có lợi gì cho con người và có hại gì cho con vật. Nghiên cứu xác định mối tương quan giữa tính di truyền của con vật với điều kiện môi trường sống mới. Cho đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề lai các giống nhập với giống địa phương. Trong quá trình nghiên cứu thích nghi của bò, các tác giả đã cho thấy lượng sữa nói riêng và sức sản xuất nói chung của con lai chưa vượt được sản lượng sữa giống gốc cao sản, nhưng điều đáng chú ý là con lai có sức chống bệnh cao và chịu đựng được nhiệt độ và độ ẩm khá tốt. Rhoad (1945) cho biết con lai giữa bò u với bò Châu Âu chịu nắng khá tốt. Hutchison (1857) tổng hợp công tác lai tạo giữa bò U với bò Châu Âu ở Mỹ trong vòng 20 năm cho thấy con lai từ bò Jecsey với bò Sind có lượng sữa hoặc ngang với bò Châu Âu hoặc hơn giống gốc Jersey ở chu kỳ sữa thứ ba. Tất cả những kết quả nói trên không những chứng minh lai giữa các giống nhập với các giống địa phương là một biện pháp giúp cho các giống nhập thích nghi có hiệu quả cao mà còn chứng tỏ phạm trù lai tạo để thích nghi. Sự thích nghi không những thể hiện ở con vật từ một vùng lạnh đến vùng nóng hay ngược lại mà ở trong một nước từ cao xuống vùng thấp và ngược lại. Vấn đề này cũng phải được đặt ra vì mỗi vùng đều có tiểu khí hậu riêng của vùng đó. Xuất phát từ thực tế đó, qua nhiều thực nghiệm người ta thường xác định khả năng thích nghi của vật nuôi theo phương pháp biểu đồ khí hậu. Ví dụ của Wright (1915), lấy biểu đồ khí hậu của các nước Srilanca, Ấn Ðộ và Pakistan. Ngoài biểu đồ khí hậu, cũng có thể xác định các vùng có nhiệt độ trung bình hàng năm tương ứng với độ cao so với mặt biển để nuôi hoặc nhập các giống bò từ vùng ôn đới (Wrright, 1945). 23 Nhiệt độ 0C 25,0 - 20,0 - 15,0 - 10,0 - 5,0 - -- 305 610 915 1220 1525 1830 Độ cao so với mặt biển (m) -Không thích hợp với bò Âu Châu; - Thích hợp với bò Âu Châu; - Vùng có thể nhập bò ôn đới. Hình 2.4. Biểu đồ khí hậu (theo Wright, 1945) Cũng từ quan điểm thích nghi theo khí hậu, đối với các loại vật nuôi nhất là đối với bò sữa, người ta thường nghiên cứu thích nghi của chúng qua mức độ sản xuất trong những điều kiện khí hậu khác nhau. Rhodes (1944) đã thể hiện phản ứng về mặt sinh lý đối với khí hậu qua công thức sau: 100 - 10 (BT - 101,0), trong đó BT là thân nhiệt trung bình khi thí nghiệm, 101,0 0F là tương ứng 38,40C là thân nhiệt bình thường của vật nuôi; 10 là hệ số về mức độ thay đổi của thân nhiệt; 100 khả năng giữ thân nhiệt bình thường. Ví dụ: thân nhiệt của bò khi theo dõi là 103,8 0F thì khả năng chịu nóng của bò bằng: 100 - 10 (103,8 - 101,0) = 72. Con số kết quả càng gần 100 bao nhiêu thì khả năng chịu nóng càng cao bấy nhiêu. 2.3.2. Cơ sở để đánh giá thích nghi Crapxencô, (1963) chia mức độ thích nghi của vật nuôi làm 3 loại: - Giống thích nghi được trong điều kiện sống mới, sinh trưởng và phát dục bình thường. - Giống thích nghi chưa hoàn toàn đối với điều kiện sống mới, nên sau một vài đời nuôi thuần chủng mới bình thường được. - Giống không thích nghi được với điều kiện sống mới, qua một vài đời thì thoái hóa hoặc thậm chí bị sinh bệnh và chết. Vật nuôi không thích 24 nghi thường biểu hiện giảm sức sản xuất, sức sinh sản, bệnh tật mới xuất hiện, tăng tỷ lệ chết.... 2.3.3. Ứng dụng của thích nghi trong công tác giống vật nuôi Những lý luận về thích nghi trên đã được con người ứng dụng trong công tác giống vật nuôi, điều này có ý nghĩa lớn đối với nước ta trong việc nhập các giống cao sản cũng như trong việc chọn lọc và nhân giống vật nuôi. Một trong những hoạt động của con người để thích nghi vật nuôi là dùng những giống nhập mà thường là những giống cao sản để cho lai với các giống có sẵn trong nước hoặc cho lai những giống cao sản nhập có mức độ thích nghi không giống nhau. Ví dụ: khi nhập bò cao sản để cho lai với bò địa phương kết quả nghiên cứu cho thấy lượng sữa và sức sản xuất nói chung của con lai chưa vượt hẳn giống cao sản nhập, nhưng con lai đã có sức chống bệnh cao, chịu đựng nhiệt độ, độ ẩm cao. Nếu con lai tiếp tục có thêm nhiều tỷ lệ máu của giống gốc cao sản mà được chọn lọc và nuôi dưỡng tốt thì năng suất của con lai sẽ ngày càng tốt hơn và gần với giống cao sản. Vật nuôi nhỏ dễ thích nghi hơn vật nuôi lớn, vì tuy vật nuôi nhỏ có cường độ trao đổi chất mạnh hơn tính theo đơn vị diện tích bề mặt cơ thể, nhưng diện tích bề mặt của vật nuôi lớn tiếp xúc với môi trường ngoài lớn hơn vật nuôi nhỏ. Thời gian sinh trưởng, phát dục, sinh sản của vật nuôi lớn cũng dài hơn, nên sự thích nghi có khó hơn và việc theo dõi nghiên cứu cũng đòi hỏi thời gian dài hơn. Sự thích nghi cũng là một yếu tố quan trọng để xác định mẫu phải chọn. Thích nghi, con vật sẽ có năng suất cao hơn, nếu nó được nuôi dưỡng đầy đủ và các điều kiện khác được đảm bảo. Nếu các điều kiện khác kém thuận lợi như thức ăn xấu, mùa đông rét ẩm, mùa hạ khô cằn ...thì trước tiên phải chú ý đến khả năng sinh sản và chống bệnh của vật nuôi. Trong quá trình nhập vật nuôi, để cho con vật nhanh chóng thích nghi với điều kiện mới, cần chú ý mấy vấn đề sau: - Nên chú trọng nhập vật nuôi còn non, chưa trưởng thành, vì cơ thể dễ “uốn nắn” phù hợp với điều kiện sống mới. Trong điều kiện phải nhập vật nuôi đã trưởng thành thì ban đầu phải nuôi dưỡng chúng theo các điều kiện (dinh dưỡng, tiểu khí hậu ...) gần giống với môi trường xuất phát của nó. - Cần chuyển vật nuôi đến những vùng có khí hậu thích hợp. Ví dụ nhập giống có nguồn gốc ôn đới nên nuôi ở vùng có khí hậu gần với ôn đới (Mộc Châu, Lâm Đồng ...). - Trong quá trình nuôi thích nghi cần so sánh những chỉ tiêu sản xuất của con vật mới nhập với những con hiện còn ở vùng gốc để tiến hành 25 chọn lọc. Tuy nhiên trong quá trình thích nghi, trong quần thể vẫn có những con đột xuất thích nghi nhanh. Ðó là những cá thể cần được chú ý chọn lọc và nhân giống. - Ngoài việc nhập nuôi thuần chủng giống cao sản, nhiều nước cũng đã dùng các giống nhập cho lai với các giống địa phương. Ðó là cách nuôi thích nghi tích cực, nhất là trong điều kiện nuôi thích nghi vật nuôi thuần gặp khó khăn. - Khi nhập vật nuôi cần chuyển từ từ con vật qua các môi trường trung gian gần giống với môi trường gốc để vật nuôi dễ thích nghi. 2.4. Một số giống vật nuôi ở nước ta 2.4.1. Giống lợn 2.4.1.1. Lợn Ỉ Phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Lợn Ỉ nuôi chóng béo, cho nhiều mỡ, xương nhỏ, phàm ăn dễ nuôi, chịu được kham khổ, mắn đẻ, mỗi lứa đẻ trung bình 8-10 con. Lợn Ỉ chia làm 2 chủng: Ỉ Mỡ và Ỉ Pha. Hình 2.5. Lợn Ỉ Mỡ 26 Lợn Ỉ Mỡ có nơi gọi là Ỉ Nhăn, Ỉ Bọ Hung. Loại này được nuôi nhiều ở Nam Ðịnh, trước đây có nhiều ở các tỉnh Miền Bắc, lợn Ỉ này chỉ tồn tại đến năm 1990. Ðặc điểm hình thái: lợn có lông, da đen bóng, lông nhỏ, thưa, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy sệ, chân thấp, mõm ngắn, bụng sệ, bụng quét đất, chân đi bàn. Khối lượng sơ sinh 0,4 kg/con, nuôi 1 năm tuổi đạt 36 kg/con; 3 năm tuổi đạt 50 kg/con. Lúc 4-5 tháng tuổi có thể phối giống. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 8-11 con, cao nhất là 16 con. Mỡ nhiều (48% so với thịt xẻ), độ dày mỡ lưng 3,76 cm, tích luỹ mỡ sớm. Lợn Ỉ Pha cũng còn gọi là Ỉ Bột, Ỉ Sống bương, được nuôi nhiều ở Nam Ðịnh và các tỉnh Phía Bắc như Thanh Hoá, Hà Nội. Hình 2.6. Lợn Ỉ Pha Lợn có đặc điểm là lông thưa, thô. Lông, da đen nhưng không đen bóng như lợn Ỉ Mỡ. Ðầu to vừa phải, trán gần phẳng, mặt nhăn, vòng cổ 27 và má chảy sệ khi béo, mõm ngắn, bụng ít sệ, thân dài, chân dài và cao hơn so với lợn Ỉ Mỡ. Khối lượng lợn sơ sinh 0,42 kg/con, nuôi 1 năm tuổi đạt 48 - 50 kg/con; 2-3 năm tuổi đạt 60-75 kg/con. Lúc 4-5 tháng tuỏi có thể phối giống. Mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa đẻ 8-11 con, cao nhất là 16 con. Mỡ nhiều, tích luỹ sớm, tỷ lệ thịt mỡ/thịt xẻ 42,5%, độ dày mỡ lưng 3,66 cm. Lợn Ỉ Pha thực sự đáp ứng yêu cầu sản xuất của nông dân vùng Hải Hưng, cũng như các tỉnh khác ở đồng bằng Sông Hồng. Lợn Ỉ còn tham gia vào chương trình lai kinh tế với lợn Ðại bạch và lợn Berkshire, mà kết quả là hai giống lợn mới ÐBI-81 và BSI-81 đã được công nhận. Hiện nay lợn Ỉ đang được nuôi giữ, bảo tồn quĩ gen vật nuôi Việt Nam. 2.4.1.2. Lợn Móng cái Nguồn gốc là lợn Quảng đông-Trung quốc du nhập sang nước ta ở vùmg Móng Cái, Ðầm Hà, Hà Cối, Ðông Triều, Quảng Ninh. Giống lợn này đã sống và thích nghi lâu đời ở vùng này mà ngày nay ta vẫn gọi là lợn Móng Cái. Về sau, do có tính ưu việt: mắn đẻ, tầm vóc lớn hơn lợn Ỉ, tăng trọng khá, số con đẻ ra/lứa nhiều ... đã làm cho lợn Móng Cái phát triển nhanh chóng ra khắp các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, Trung Du và miền núi phía Bắc. Sau ngày thống nhất đất nước, lơn Móng Cái được đưa vào các tỉnh miền Trung và Tây nguyên, Nông trường Hà Tam (tỉnh Gia lai), Nông trường Phước An (tỉnh Ðăclăc)... Lợn Móng Cái có lông màu lang đen trắng, đầu và lưng có màu đen, ở giữa trán có chấm trắng hình tròn hoặc hình thoi, có dải trắng vắt ngang vai kéo dài xuống bụng và bốn chân, lưng và mông có mảng đen hình yên ngựa (nên người ta vẫn gọi là lang yên ngựa), đây là đặc trưng nổi bật của giống. Ở chổ tiếp giáp giữa lông đen và trắng có khoảng mờ, rộng khoảng 2 cm (da đen, lông trắng). Dòng Móng Cái xương to thì phần trắng vắt qua vai thường hẹp hơn, so với Móng Cái xương nhỏ và xương nhỡ, có trường hợp ở giữa vành trắng vắt qua vai có vùng đen ở giữa như là một hòn đảo đen nằm giữa vành lông da trắng. Lợn Móng Cái xương to có tai to và cụp về phía trước, còn lợn Móng Cái xương nhỏ và nhỡ thì tai đứng và bé. Lợn Móng Cái được chia làm ba nhóm: - Móng Cái xương to - Móng Cái xương nhỏ - Móng Cái xương pha 28 Hình 2.7. Lợn Móng Cái Lúc 7-8 tháng tuổi có thể phối giống, mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 10-14 con, tỷ lệ mỡ/thịt xẻ là 35 - 38%. Khéo nuôi con, sớm thành thục. Khối lượng sơ sinh 0,45- 0,50 kg/con, khối lượng cai sữa 6,0-8,0 kg/con. Mổ thịt ở khối lượng 100 kg, cho 79% móc hàm, tỷ lệ nạc 38,6%, dày mỡ lưng 4,5 cm. Mổ thịt ở khối lượng 63-65 kg (lúc 9 tháng tuổi) có tỷ lệ móc hàm 78,0%, tỷ lệ nạc 44,1% , dày mỡ lưng 3,6 cm. Lợn Móng Cái là nái nền cơ bản để lai với lợn đực Ðại Bạch và Landrace cho sản phẩm con lai nuôi thịt chủ yếu hiện nay ở miền Bắc Việt Nam. Trong chiến lược nạc hóa đàn lợn, ngoài phần sử dụng lợn ngoại thuần nuôi ở các hộ nông dân, thì con lai giữa lợn Móng Cái và các đực ngoại nhập chiếm tỷ lệ cao nhất và góp phần quan trọng trong việc nâng cao sản lượng thịt lợn ở các tỉnh miền Bắc nước ta. Sử dụng nái lai F1 (Ðại bạch x Móng Cái) hoặc (Landrace x Móng Cái) làm nền để tạo con lai 3/4 máu ngoại nuôi thịt, nhằm nâng cao năng 29 suất chăn nuôi và tỷ lệ nạc trong thành phần thịt xẻ lên 48 - 49% là hướng đi rất đúng đắn hiện nay. 2.4. 1.3. Lợn Mường Khương Lợn được nuôi ở Huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Phân bố chủ yếu ở 3 xã: Cao Sơn, Tả Thàng, La Pan Tẩn, Huyện Mường Khương. Lợn có da, lông màu đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu, đuôi và chân. Lông thưa và mềm. Mõm dài, thẳng hoặc hơi cong. Trán nhăn, tai hơi to, cụp rũ về phía trước. Lợn có tầm vóc to nhưng mình lép, bốn chân to, cao vững chắc. Lưng hơi cong, bụng to nhưng không sệ, mông hơi dốc. Khối lượng lợn sơ sinh 0,6 kg/con, trưởng thành 90 kg/con, có con nặng đến 120 kg. Lợn này thành thục muộn, phối giống lúc 10-11 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1,2-1,5 lứa, mỗi lứa 7-8 con. Hình 2.8. Lợn Mường Khương 2.4.1.4. Lợn Mẹo Lợn Mẹo có nơi gọi khác là lợn Mèo. Lợn này có nguồn gốc là lợn của người H’Mông và phân bố ở vùng núi cao các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Yên Bái. Lợn có da, lông màu đen, lông dài và cứng. Thường có 6 điểm trắng: bốn chân, trán và đuôi. Một số có loang trắng ở bụng. Ðầu to, rộng, trán dô và thường có khoáy trán, mõm dài, tai nhỏ và hơi chúc về phía trước. Vai, lưng rộng, phẳng hoặc hơi vồng lên. Mông cao hơn vai. Bụng to nhưng không sệ. Chân cao, thẳng, vòng ống thô, đi đứng trên hai ngón trước. Khối lượng sơ sinh 0,48 - 0,50 kg/con, trưởng thành 110 - 120 kg/con. Lợn bắt đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa đẻ 6-7 con. Nuôi ở vùng đồng bằng có thể đẻ 9-10 con/lứa. 30 Hình 2.9. Lợn Mẹo Con đực trưởng thành có khối lượng tương đối lớn hơn con cái, phần bụng nhỏ và thon hơn con cái trưởng thành. Hiện nay lợn Mẹo đang được quan tâm nghiên cứu, bảo tồn quĩ gen vật nuôi Việt Nam. 2.4.1.5 Lợn Thuộc Nhiêu. Thuộc Nhiêu là tên một làng thuộc xã Dương Ðiềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Lợn Thuộc Nhiêu được lai chọn tự phát từ những năm 20 của thế kỷ thứ XX, cho đến nay nó đã trở thành quần thể chủ yếu, được nuôi rộng khắp trong các gia đình ở những vùng ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1900, người Hoa đã đưa lợn địa phương từ Trung Quốc vào vùng ven biển châu thổ sông Cửu Long, từ đó lai với lợn địa phương. Những con lai này được tiếp tục lai với lợn Crainnais (Pháp) do người Pháp mang sang năm 1920, lợn lai được dân địa phương đặt tên là lợn Bồ xụ (bồ: to; xụ: tai cụp).. 31 Hình 2.10. Lợn Thuộc Nhiêu Lợn Thuộc Nhiêu được hình thành do lai giữa lợn Yorkshire có lông da màu trắng với lợn Bồ Xụ từ năm 1930. Ðược Nhà nước công nhận giống vào năm 1990. Lợn được nuôi ở xã Thuộc Nhiêu, Dương Ðiền, tỉnh Tiền Giang và ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Ðông Nam Bộ. Lợn có lông, da màu trắng. Có bớt đen nhỏ trên da. Tai to, đứng. Thân hình to, tròn, đuôi bé. Chân nhỏ, thon. Khối lượng lợn sơ sinh 0,6 - 0,7 kg/con, nuôi đến 10 tháng tuổi đạt 100 kg/con. Lợn trưởng thành 140-160 kg/con. Bắt đầu phối giống lúc 7-8 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 8-10 con. 2.4.1.6. Lợn Ba Xuyên Lợn Bồ xụ lại được lai tiếp với Berkshire (1932-1936). Con lai này có màu da đen, lông đốm đen - trắng và được những người chăn nuôi phát triển nhân đàn thành giống Ba Xuyên. Lợn Ba Xuyên phổ biến ở vùng Vị Xuyên (Sóc Trăng), còn gọi là heo bông (lang trắng đen). Lợn Ba Xuyên có rãi rác ở các tỉnh: Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Long An và Ðồng Tháp. Lông, da có bông đen, trắng xen kẽ nhau. Ðầu to vừa phải, mặt ngắn, mõm hơi cong, trán có nếp nhăn, tai to vừa và đứng. Bụng to nhưng gọn, mông rộng, chân ngắn, móng xoè, đi bằng móng, đuôi nhỏ và ngắn. Khối lượng lợn sơ sinh 0,40 - 0,45 kg/con, ở 10 tháng tuổi đạt 95 kg, trưởng thành 140 - 170 kg, có con nặng đến 200 kg. Bắt đầu phối gống lức 6-7 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa đẻ 8-9 con. Ðộ dày mỡ lưng 4,35 cm. 32 Hình 2.11. Lợn Ba xuyên 2.4.1.7 Một số giống lợn nhập nội Song song với việc sử dụng các giống lợn địa phương, chúng ta đã nhập nhiều giống lợn cao sản. Từ năm 1964, ở miền Bắc đã nhập lợn Ðại Bạch từ Liên Xô, lợn Berkshire từ Trung Quốc. Năm 1977 nhập lợn Yorkshire, Landrace và Duroc từ Cu Ba. Vào những năm 1980 nhập thêm một số giống lợn Ðại Bạch, Landrace, Yorkshire, D.E, Cornwall... và một số dòng lợn Hybrid từ các nước Ðông Âu cũ và Liên Xô. Ở miền Nam, sau 1975 tiếp tục sử dụng các loại lợn còn lại như Landrace, Large white, Yorkshire, Duroc, Poland China, Chester White... và các giống lợn nhập từ miền Bắc chuyển vào. Gần đây ở cả 2 miền cũng 33 đã nhập thêm một số giống hay dòng như Landrace, Yorkshire, Duroc, Pietrain ... từ các nước Tây Âu, Nhật Bản, Cu Ba ... Chúng ta nhập các giống cao sản, ban đầu cũng nhằm mục đích cải tạo và lai với giống địa phương. Dần dần nhập cả đực lẫn cái với số lượng lớn hơn để tạo giống thích nghi với điều kiện của nước ta và có sản phẩm chất lượng cao. 2.4.1.7.1. Giống lợn Yorkshire, có tên khác là Ðại bạch (Yorkshire Large White) Yorkshire là tên một vùng lãnh thổ Ðông Bắc nước Anh. Nhân dân vùng này có tập quán nuôi lợn chăn thả trên đồng cỏ. Giống này được nhập vào nước ta từ Liên Xô (cũ) (1964), Cu Ba (1970), Nhật Bản (1986), Bỉ (1986), Mỹ (2000). Lợn được nuôi ở các miền Bắc, Trung, Nam ở nước ta. Lợn có lông, da trắng tuyền, tai đứng, trán rộng, mặt gãy. Bốn chân chắc, khoẻ, thân hình vững chắc, nhìn ngang thân có hình chữ nhật, mình dài, mông vai nở, lưng thẳng, bụng thon. Lợn đực nặng 250 - 320 kg/con. Lợn cái nặng 200 - 250 kg/con. Bắt đầu phối giống lúc 8 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2,0 - 2,1 lứa, mỗi lứa 10-13 con. Tỷ lệ nạc 52-55%. Từ năm 1994 đến nay phong trào nuôi lợn ngoại thuần chủng đã phát triển ở vùng đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, nên số lượng lợn Yorkshire thuần ở nước ta đã tăng lên một cách nhanh chóng. Hình 2.12. Lợn đực giốngYorkshire 34 Hình 2.12. Lợn cái giống Yorkshire 2.4.1.7.2. Lợn Landrace Giống lợn Landrace có thành tích sản xuất như hiện nay là giống lợn Landrace có nguồn gốc từ Ðan Mạch. Từ những năm 1840, Ðan Mạch đã nhập nhiều giống lợn từ các nước Anh, Ðức, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Trung Quốc... để cải tạo giống lợn trong nước. Giống lợn Landrace được hình thành từ sự lai tạo giữa các giống lợn Youtland có nguồn gốc Ðức và giống lợn Yorkshire có nguồn gốc Anh. Từ năm 1896 ở Ðan Mạch có Trung tâm giống lợn đầu tiên, do đòi hỏi của thị trường thịt lợn, cần có lợn nhiều nạc. Từ năm 1900, lợn Landrace được chọn lọc theo hướng chóng thành thục, có dạng hình thủy lôi, phần mông rất phát triển, tỷ lệ thịt đùi (jambon) cao. Từ năm 1907-1919, theo hướng chọn lọc này, lợn Landrace đã đạt mức tăng trọng 546 g/ngày với 3,73 đơn vị thức ăn. Năm 1972-1973, mức tăng trọng đạt 735g/ngày với 3,0 đơn vị thức ăn. Ngày nay, lợn Landrace có mức tăng trọng bình quân từ 750 - 800 g/ngày, tùy theo yêu cầu chăn nuôi của từng nước, độ dày mỡ lưng ở xương sườn 10 là 3,09 cm, tỷ lệ nạc từ 56 % trở lên. Ở các nước phát triển như Anh, Ðức, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Ðiển, các nước Bắc Mỹ... đều có giống lợn Landrace theo dạng hình riêng của mình. Lợn Landrace được nhập vào nước ta từ Cu Ba (1970). Năm 1985 - 1986 nhập lợn Landrace từ Bỉ và Nhật Bản, Mỹ. Lợn được nuôi ở nhiều nơi trong nước ta. Lợn có lông, da trắng tuyền, tai to mềm, cụp che lấp mặt, đầu dài, thanh. Thân dài, mông nở, mình thon, trông ngang giống hình cái nên hoặc quả thuỷ lôi. Khối lượng lợn sơ sinh 1,2 - 1,3 kg/con. Lợn đực trưởng thành 270 - 300 kg/con. Lợn cái 200 - 230 kg/con. Trong điều kiện nóng ẩm, lợn Landrace có khả năng thích nghi kém hơn lợn 35 Yorkshire. Bắt đầu phối giống lúc 7-8 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2,0 - 2,2 lứa, mỗi lứa đẻ 10-12 con. Tăng trọng nhanh, 6 tháng tuổi đạt 100 kg/con. Tỷ lệ nạc đạt 54- 56%. Lợn Landrace được sử dụng để lai kinh tế với lợn nội. Công thức lai phổ biến hiện nay là 1/2 máu lợn Landrace, 1/4 máu lợn Ðại Bạch và 1/4 máu lợn Móng Cái. Con lai 6 tháng tuổi có thể đạt 100 kg, tỷ lệ nạc từ 48% trở lên. Hình 2.13. Lợn đực, cái giống Landrace 2.4.1.7.3 Lợn Hampshire Ðây là giống lợn của Mỹ được ghi vào sổ giống năm 1904. Giống lợn Hampshire được coi là điển hình về sự tiến hóa nhanh và sự hướng tới một kiểu lợn thịt (bacon) dưới ảnh hưởng của một cường độ chọn lọc cao, được thực hiện từ năm 1956. Lợn Hampshire có màu lông, da đen, vai, ngực, hai chân trước có đai màu trắng. Tai thẳng, đầu to vừa phải, mõm 36 thẳng, thân dài, to, bốn chân chắc, khoẻ. Hình 2.14. Lợn Hampshire Khả năng sinh sản thấp hơn lợn Yorkshire và Landrace, mỗi lứa đẻ 7-8 con. Khả năng tăng trọng 730 g/ngày, nuôi thịt ở 178 ngày tuổi đạt xấp xỉ 100 kg, độ dày mỡ lưng ở xương sườn 10 là 2,31 cm, diện tích thân thịt 33,66 cm2. Ở Mỹ, giống lợn Hampshire được coi là giống lợn chính, có tác dụng rất lớn trong những năm sau đại chiến thế giới lần thứ II, nhất là những năm từ 1952-1956. Ở Thuỵ sỹ, lợn Hampshire đẻ 8,46- 9,18 con/ ổ. Các giống lợn mới như Minesota số 1 có 45% máu Hampshire và 55% máu Landrace. Giống Belksville số 2 có 5% máu Hampshire. Ở Việt Nam, lợn này được nhập từ trước ngày đất nước thống nhất, hiện nay được nuôi ở một số tỉnh phía Nam. 37 2.4.1.7.4. Lợn Duroc Lợn Duroc có nguồn gốc từ Mỹ, có tên là Duroc-Jecsey. Lợn được hình thành từ khoảng 1860 với sự tham gia của các giống lợn nhập nôi: lợn đỏ Guinea, lợn đỏ Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha. Lợn Duroc có lông màu hung đỏ hoặc nâu thẫm, 4 mũi chân và mõm đen. Tai rũ về phía trước, chân chắc, khoẻ. Thân hình vững chắc, bộ phận sinh dục lộ rõ. Lợn trưởng thành, con đực nặng 300 - 350 kg, con cái năng 200 - 250 kg. Mỗi lứa đẻ 7-8 con. Nuôi 175 ngày đạt 100 kg. Tỷ lệ nạc 58,0 - 60,4%. Từ năm 1947, lợn được phổ biến nhất ở Mỹ, đặc biệt là ở các vùng trồng ngô ở miền Nam và các nước Mỹ Latinh. Lợn có khả năng chống chịu nắng, nóng khá tốt, nên có thể chăn thả trong khu rào quây, có mái che ở chổ cho ăn và trú nắng lúc trưa. Hiện nay, lợn Duroc có khả năng tăng trọng 785 g/ngày. Nuôi 173 ngày, đạt trọng lượng xấp xỉ 100 kg, độ dày mỡ lưng ở xương sườn 10 là 3,09 cm, diện tích cơ thăn là 30,45 cm2, khả năng sinh sản 9,3 con/lứa. Lợn Duroc được nhập vào nước ta từ trước ngày đất nước thống nhất, năm 1978 lợn được nhập từ CuBa, Mỹ (2000). Lợn được nuôi ở các tỉnh phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang...) và một số lượng nhỏ được nuôi ở các tỉnh phía Bắc. Hình 2.15. Lợn Duroc 2.4.1.7.5. Lợn Pietrain Giống Pietrain này xuất hiện ở nước Bỉ vào khoảng năm 1920 và mang tên làng Pietrain. Giống này được công nhận là giống mới năm 1953 tại tỉnh Brabant và năm 1956 cho cả nước. Từ năm 1950, lợn Pietrain đã xâm nhập vào Pháp. Năm 1955 lần đầu tiên được nhập vào miền Bắc nước Pháp, năm 1958, lần đầu tiên được ghi vào sổ giống quốc gia. Lợn được nhập vào nước ta từ các nước khác nhau như Bỉ, Pháp và 38 Anh. Lợn được nuôi ở các tỉnh phía Nam và một số ít ở phía Bắc. Hình 2.16. Lợn Pietrain Lông, da lợn Pietrain có những đốm màu sẫm đen và trắng không đều trên toàn thân, tai đứng, mông, vai rất phát triển, trường mình. Thân hình vững chắc, cân đối. Lợn đực trưởng thành nặng 270 - 350 kg/con. Lợn cái nặng 220 - 250 kg/con. Mỗi lứa đẻ 8-10 con. Tăng khối lượng nhanh, nuôi ở 6 tháng tuổi đạt 100 kg/con. Tỷ lệ nạc 60 - 62%. Nhược điểm là mẫm cảm với stress liên quan tới halothan. 2.4.2. Giống trâu 2.4.2.1. Trâu Việt Nam (trâu nội) Trâu nước ta thuộc về trâu đầm lầy, có sắc lông đen, có con lông trắng (trâu bạc). Trâu bạc là do bạch tạng, có sắc da hơi hồng, mắt đỏ. Trâu được phân bố ở miền núi, trung du phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây nguyên và Nam Bộ. 39 Trâu có sừng tạo thành hai cánh cung chĩa ra phía sau, thân sừng hình chữ nhật, mặt trên và dưới có các sọc ngang. Ðầu to, trán phẳng, hẹp, mặt ngắn, mõm rộng, tai to và rộng, cổ dài, thẳng. Thân ngắn, chân thấp, vai đầy, ngực lép, bụng to, mông thấp, đuôi ngắn, móng xoè. Căn cứ vào tầm vóc người ta chia làm 3 loại. - Trâu to (trâu Ngố): Trâu cái có khối lượng 400 kg, trâu đực 450 kg, đực thiến trên 500 kg - Trâu vừa: Trâu cái có khối lượng 350-400 kg, trâu đực 400-450 kg, đực thiến 450-500 kg - Trâu nhỏ (trâu Ré):Trâu cái có khối lượng 300-350 kg, trâu đực 350- 400 kg, đực thiến 400-450 kg. Bắt đầu phối giống lúc 3 năm tuổi,Thời gian mang thai 320 - 325 ngày. Khối lượng sơ sinh 20-30 kg/con. Hình 2.17. Trâu Việt Nam Tuy nhiên tầm vóc của trâu có thể thay đổi tùy theo sự phân bố ở các vùng địa lý và được chú ý chăm sóc. Nhìn chung trâu miền núi có tầm vóc to hơn trâu đồng bằng. Nhược điểm của trâu là sinh sản chậm. Qua nghiên cứu thấy tỷ lệ đẻ của trâu khoảng 40%, có nơi rất thấp (20%). 2.4.2.2. Trâu Murrah Từ năm 1971 chúng ta có nhập giống trâu Murrah từ Trung Quôc và năm 1978 nhập từ Ấn Ðộ. Hiện nay đang được nuôi ở Trung tâm Nghiên cứu Trâu và Ðồng cỏ Bến Cát (Bình Dương), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi miền núi (Thái Nguyên) nhằm mục đích tận dụng sức kéo, lấy thịt và lấy sữa. Trâu có da, lông đen bóng, lông thưa và ngắn, ở cuối đuôi có chòm lông màu trắng sát dưới chân. Ðặc điểm rõ nhất là sừng ngắn, tạo thành 40 hai cánh cung xoắn chĩa về phía sau và vễnh lên phía trên. Thân hình vạm vỡ, trâu đực cao. Khối lượng sơ sinh 30 kg/con. Trâu đực trưởng thành 650 - 730 kg/con, trâu cái 350 - 400 kg/con. Bắt đầu phối giống lúc 3 năm tuổi, 65% trong tổng số trâu cái đẻ 1 năm 1 lứa. Thời gian mang thai 320 - 325 ngày. Sản lượng sữa 5 kg/ngày, tỷ lệ mỡ 6,8%. Qua theo dõi thấy trâu Murrah dễ nuôi, ít bệnh tật, trâu có nhiễm các bệnh sán lá gan, tiêm mao trùng... nhưng ở thể nhẹ. Chúng ta đã tiến hành cho lai trâu Murrah với trâu Việt Nam để thăm dò khả năng sinh sản, cho sữa, cho thịt và sức kéo. Con lai F1 sinh ra thường có màu lông đen tuyền, có 2 vệt trắng dưới cổ, nhưng lớn lên mất dần. Trâu lai 12 tháng tuổi đạt 175 kg, 24 tháng tuổi đạt 315 kg. Hình 2.18. Trâu Murrah 2.4.3. Giống Bò 2.4.3.1. Bò Vàng Việt Nam Bò địa phương Việt Nam có nguồn gốc từ bò Zebu Ấn Ðộ (Bos Indicus) và bò không u Trung Quốc. Phân bố tương đối tập trung ở các vùng có yêu cầu sức kéo trên đất cát nhẹ, vùng Duyên Hải miền Trung, miền núi và Trung du phía Bắc Tây nguyên và Ðồng bằng Sông Hồng. Còn ở một số vùng khác phân bố rãi rác và không nhiều. Bò có sắc lông màu nâu-vàng, đậm hay nhạt tùy từng quần thể ở từng vùng, gọi chung là bò vàng, phía trong đùi và yếm có màu hơi vàng nhạt. Bò cái phía trước thấp, sau cao nhưng bò đực thì ngược lại. Bò Vàng có nhược điểm là chậm thành thục, sinh sản muộn, bắt đầu phối giống lúc 15 - 18 tháng tuổi. Bò vàng Việt Nam có ưu điểm là thích nghi lâu đời với khí hậu nhiệt đới, chịu được kham khổ khi thức ăn thiếu thốn và nuôi dưỡng kém, chống chịu bệnh tật tốt. Nhược điểm là tầm vóc nhỏ, sản lượng thịt và sữa thấp. Khối lượng sơ sinh 14-15 kg/con. Bò cái sinh sản có đặc điểm là chân thấp (cao vây 100 - 104 cm), mình ngắn (dài thân chéo 113 -115 cm), mình lép (rộng ngực 27 -31 cm), khối lượng bình quân chỉ đạt khỏang 41 180 - 200 kg, bình quân toàn đàn 140 -160 kg, sản lượng sữa đạt 300 - 400 kg/chu kỳ 6-7 tháng cho sữa, chỉ đủ để cho con bú, tỷ lệ thịt xẻ thấp 43 - 44%. Khối lượng đực giống cũng nhỏ, khoảng 210 -280 kg. Hiện nay, bò vàng Việt Nam dùng để cho lai với các giống bò Zebu khác để nâng cao tầm vóc và sức sản xuất. Hình 2.19. Bò Vàng Việt Nam 2.4.3.2 Một số giống bò nhập nội. 2.4.3.2.1. Bò lang trắng đen Hà Lan (Holstein Friesian- HF) Là giống bò sữa nổi tiếng nhất thế giới, được tạo ra ở Hà Lan từ thế kỷ thứ XIV và không ngừng được cải tiến về phẩm chất và năng suất. Mãi đến thế kỷ thứ XV bò lang trắng đen Hà Lan mới được bán ra khỏi nước, tù đó có mặt ở khắp thế giới. Các nước nuôi bò lang trắng đen thuần, hay dùng bò HF lai tạo với bò địa phương để tạo ra bò lang trắng đen của nước mình và mang những tên khác nhau như: Bò lang trắng đen Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Cu Ba, Trung Quốc... 42 Bò đực giống tốt, nặng khoảng 1000 kg, bò cái nặng khoảng 450 - 600 kg. Bê sơ sinh cân nặng 35 - 40 kg. Bò có kiểu hình đặc trưng cho loại hình sữa. Thân hình tam giác, phần sau phát triển hơn phần trước, thân mình hẹp dần về phía trước, giống như hình cái nêm. Bầu vú phát triển, da mỏng, đàn hồi, lông màu đen xen với vạt trắng. Ðặc biệt vòng đai trắng sau bả vai và lồng ngực. Sản lượng sữa bình quân 5000 - 6000 lít/chu kỳ vắt sữa 305 ngày. Con kỷ lục đạt trên 18000 lít, tỷ lệ bơ 3,5 - 3,7%. Hầu hết các nước phát triển đều nuôi giống bò Hà Lan, vì giống này không những có sản lượng sữa cao, mà còn có khả năng cho thịt lớn. Bê đực nuôi thịt công nghiệp đạt trọng lượng 400 - 450 kg lúc 15 tháng tuổi, tỷ lệ thịt xẻ 55 - 58%. Ưu thế của bò lang trắng đen Hà Lan là không những cho sản lượng sữa cao mà còn có khả năng cải tạo các giống khác theo hướng sữa. Hình 2.20. Bò Holstein Friesian (HF) 2.4.3.2.2 Bò Jersey Bò Jersey được tạo ra bằng cách lai giữa bò Normandie và bò địa phương thuộc đảo Jecsi nước Anh từ gần 300 năm trước. Ðây là giống bò 43 chuyên dụng sữa, được tạo ra ở vùng có khí hậu ôn hòa, cỏ tươi xanh quanh năm. Bò Jersey có thân hình nhỏ, đầu thanh, mắt lồi, sừng nhỏ có màu ngà, cổ thanh và dài, yếm lớn nhưng mỏng, mình dài, bụng to, lông ngắn và thưa, có màu nâu sáng, có con lông xám đậm hoặc đen nâu, đôi khi có đốm trắng ở bụng và chân. Da mỏng, hông rộng, bầu sữa lớn, gân sữa to và gấp khúc, kéo dài lên đến nách trước, bốn núm vú cách xa nhau. Bốn chân thấp và hơi mảnh. Tính tình hiền lành, dễ thích nghi với khí hậu nước ta và cũng ít bệnh tật. Hình 2. 21. Bò Jersey Bò cái trưởng thành nặng 360- 400 kg, bò đực 650 - 700 kg, bê sơ sinh 25 - 30 kg. Năng suất sữa trung bình của bò Jecsey thuần là 2800 - 3500 kg/chu kỳ cho sữa 300 ngày, tỷ lệ bơ rất cao 5,6 - 6,0%, nên thường được sử dụng, để nâng cao tỷ lệ mỡ sữa của các giống bò khác. Ðặc biệt bò Jersey có chu kỳ sữa dài, có con vắt đến 12 - 14 tháng. 2.4.3.2.3. Bò Zebu giống Red Sindhi Bò Zebu (bò U) phổ biến ở Ấn Ðộ và Pakistan, có cùng nguồn gốc với bò ta (Bos Indicus). Giống bò Red Sindhi được nhập vào nước ta từ những năm 20, là giống bò Ấn Ðộ có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường của nước ta. Bò Zebu Ấn Ðộ có nhiều giống: Sahiwal, Red Sindhi, Ongle, Hariana, Brahman ..., trong đó có giống bò Sahiwal và Red Sindhi là hai giống bò nhiệt đới có sản lượng sữa khá, giống bò Red Sindhi từ 1400 - 2100kg/chu kỳ cho sữa. Bò Sahiwal từ 1600 - 2700 kg.chu kỳ sữa. Màu lông nổi bật là màu đỏ cánh dán, tai to và sụp, con đực có u vai nổi cao, trán gồ, yếm thỏng, bao qui đầu của con đực dài và thỏng xuống, âm hộ con cái lớn và có nhiều nếp nhăn. 44 Hình 2.22. Bò Red Sindhi Bò đực giống Red Sindhi thuần, khi nhập vào nước ta có khối lượng 500 - 550 kg, bò cái sinh sản 350 - 400 kg, sản lượng sữa (theo tài liệu của Ấn Ðộ) 1400 - 2100 kg/chu kỳ vắt sữa, tỷ lệ mỡ sữa trên 5%. Nhiều nước, nhất là những nước nhiệt đới, dùng bò Red Sindhi để cải tạo bò địa phương, hoặc dùng bò giống này làm nền cho lai với các giống chuyên dụng sữa, thịt để tạo thành các giống bò cho sửa, cho thịt phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nước. 2.4.3.2.4.Bò Brahman Bò Brahman được nhập vào nước ta từ Cu Ba, được nuôi ở các tỉnh Ninh Bình, Hà Tây, Bình Ðịnh và một số nơi khác. Lông bò có màu trắng bạc hoặc trắng xám, đầu hơi dài, trán dô, tai to rủ đưa ra phía sau, u to. Yếm rộng, nhiều nếp gấp, ngực sâu nhưng hơi lép, chân cao, đuôi dài. Khối lượng sơ sinh 24 kg/con, lúc 12 tháng tuổi bò đực nặng 211 kg; bò cái 177 kg/con. Lúc trưởng thành, bò đực nặng 800 kg/con, bò cái 450 kg/con. Tuổi đẻ lứa đầu khá muộn vào lúc 40 tháng. Thời gian mang thai 286 ngày; khoảng cách lứa đẻ là 18 tháng. Thuộc loại giống bò thịt. 45 Hình 2. 23. Bò Brahman 2.4.3.4 Các bò lai hướng sữa 2.4.3.4.1 Bò lai Sind Hình 2.24. Bò Laisind 46 Trong những năm 1923-1924 một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta ở cả hai miền đất nước, quá trình lai tự nhiên giữa bò đực giống Red Sindhi với bò ta tạo thành nhóm bò Lai Sind. Bò Lai Sind càng có nhiều tỷ lệ máu Red Sindhi thì khả năng cho thịt càng nhiều hơn, sức cày kéo khỏe hơn và khả năng cho sữa cũng cao hơn. Do vậy, luôn có xu hướng lai thêm máu bò Red Sindhi, quen gọi là Sind hóa. Hiện nay, bò lai Sind có ở khắp các tỉnh trong cả nước. Bò Lai Sind có nhiều đặc điểm gần giống như bò Red Sindhi: đầu dài, trán dô, lông màu vàng cánh dán, tai cụp, yếm phát triển, u vai cao (nhất là con đực), chân cao, mình ngắn, bầu vú phát triển vừa phải, âm hộ có nhiều nếp nhăn. Bò đực Lai Sind (với độ máu Red Sindhi cao) cân nặng 400 - 450 kg. Bò cái sinh sản nặng 250 - 320 kg, bê sơ sinh nặng 18 - 25 kg. Lượng sữa bình quân đạt khoảng 800 - 1200 kg/ chu kỳ vắt sữa 240 ngày, cá biệt có những con trong một chu kỳ vắt sữa cho đến trên 2000 lít. Ngày cao nhất có thể đạt 8 - 10 lít. Tỷ lệ bơ sữa rất cao: 5,1 - 5,5 %. Bò cái Lai Sind đã khắc phục được nhược điểm của Bò Vàng, đã tập trung được những đặc điểm quí của cả hai giống Bò Vàng và Red Sindhi. Bò cái Lai Sind đủ điều kiện để phối với đực các giống chuyên sữa, chuyên thịt cao sản, tạo ra con lai có khả năng cho sữa, cho thịt cao hơn. 2.4.3.4.2 Bò lai Hà Lan F1(1/2 HF) Bò lai Hà Lan đời 1 (F1) được tạo ra bằng cách lai giữa bò đực Hà Lan với bò cái Lai Sind. Hầu hết bò lai F1 có màu lông đen, nếu có vết lang trắng thì rất nhỏ ở dưới bụng, bốn chân, khấu đuôi và trên trán. Hình 2.25. Bò lai F1 (1/2 HF) Bò đực F1 trưởng thành nặng 500 - 600 kg, bò cái nặng 350 - 420 kg. Bê sơ sinh nặng 25 - 30 kg. Sản lượng sữa đạt 2500 - 3000 kg/chu kỳ. 47 Thờì gian cho sữa có thể kéo dài đến trên 300 ngày. Ngày cao nhất có thể đạt 15 - 20 lít, tỷ lệ bơ 3,6 - 4,2 %. Bò lai F1 chịu đựng tương đối tốt đối với điều kiện nóng, ít bệnh tật, có thể ăn nhiều cỏ xanh nên không đòi hỏi nhiều thức ăn tinh. Bò F1 mắn đẻ. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 13 - 14 tháng. Tuổi phối giống lần đầu bình quân là 17 tháng, có khi sớm hơn (13 -14 tháng). Tuổi đẻ lứa đầu bình quân lúc 26 -27 tháng. Do các ưu điểm trên, ở những vùng mới bắt đầu chăn nuôi bò sữa, bò F1 được xem như đàn bò chủ lực. 2.4.3.4.3. Bò lai Hà Lan F2 (3/4 HF) Bò lai Hà Lan F2 được tạo ra bằng cách lai bò đực giống Hà Lan (nhảy trực tiếp hay thụ tinh nhân tạo) với bò cái lai Hà Lan F1. Về ngoại hình, bò lai F2 gần giống với bò Hà Lan thuần, với màu lông lang trắng đen. Bò đực F2 trưởng thành cân nặng 600 - 700 kg. Bò cái nặng trung bình 400 - 450 kg. Bê sơ sinh cân nặng 30 - 35 kg. Nhìn chung năng suất sữa của bò lai F2, nếu được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, cao hơn bò lai F1, có thể đạt 3000 - 3500 lít hoặc cao hơn trong 1 chu kỳ khai thác 305 ngày. Tỷ lệ mỡ sữa từ 3,2 - 3,8%. Hình 2. 26. Bò lai F2 (3/4 HF) Bò lai F2 tỏ ra kém chịu đựng với điều kiện nóng, ẩm hơn bò lai F1. Tuổi đẻ lứa đầu thường vào lúc 27 tháng tuổi. 2.4.3.5. Bò Santa Gertrudis Giống bò này được tạo nên ở vùng Santa Gertrudis, bang Texas (Mỹ), một nơi có khí hậu khô, nóng, do kết quả lai tạo gữa Sorthorn và Brahman. Bò có thể chất vững chắc, tầm vóc to lớn, thịt, cơ nổi rõ, lông 48 đỏ nâu. Trưởng thành, bò cái nặng 600 - 650 kg, bò đực 800 - 1.000 kg. Tỷ lệ thịt xẻ khoảng 65%. Giống này thích hợp với những vùng khô, nóng và được công nhận giống từ năm 1940. Hình 2. 27. Bò Santa Gertrudis 2.4.3. Bò Charolais Giống bò Charolais xuất phát từ những giống cũ địa phương, vùng Charolais (Pháp), da lông màu kem sữa, có pha máu bò Ximantan loang và Ximantan trắng. Vùng ban đầu khá phổ biến loại bò này là hai địa phương của hai sông Allier và Loire. Vùng này có khí hậu ôn hòa, có đồng cỏ tốt quanh năm. Bò Charolais có màu lông vàng, có thể nhạt dần đến trắng tuyền. Con cái nặng 850 - 900 kg, con đực nặng 1.000 - 1.200 kg, ba năm tuổi, bò có thể đạt 850 kg. Cơ thể sâu, rộng, cao 140 cm, phần lưng, mông phát triển (biểu thị rõ bò hướng thịt). Hình 2.28. Bò Charolais 49 2.4.4. Giống dê 2.4.4.1. Dê Cỏ Dê Cỏ có nguồn góc lâu đời ở nước ta, phân bố rộng rãi trong cả nước và được nuôi tập trung ở vùng miền núi trung du phía Bắc, núi đá Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây ...Màu lông chủ yếu là đen, vàng, nâu và cánh gián. Một số dê có hai sọc nâu hoặc đen ở mặt, có một dãi lông đen kéo dài dọc lưng, bốn chân có đốm đen. Khối lượng dê sơ sinh 0,8 - 1,8 kg/con. Dê đực trưởng thành 35 - 40 kg, dê cái 25 - 30 kg/con. Dê bắt đầu phối giống lúc 7-8 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1,5 lứa. Mỗi lứa đẻ 1,4 con. Dê động dục nhiều vào các tháng 3-5 và 9-12 hàng năm. Hình 2.29. Dê Cỏ 2.4.4.2. Dê Bách Thảo Dê Bách Thảo là tên của một giống dê được gọi thống nhất từ các tên Bắc Thảo, Bát Thảo, Bắc Hải, Bách Thảo, do Hội nghị nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê họp tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11 năm 1992 thống nhất đặt ra, xuất phát với nghĩa đơn thuần là giống dê này có thể ăn được hàng trăm thứ cây, cỏ khác nhau: “bách thảo”. Hình 2.30. Dê Bách Thảo (đực) 50 Hình 2.31. Dê Bách Thảo (cái) Cũng như các giống dê khác, dê Bách Thảo là vật nuôi nhai lại nhỏ. Chúng thuộc loài dê Cappra), nằm trong bộ phụ dê, cừu (cappra rovanae) với hai chi Caprina và Hemitragus, chúng thuộc họ sừng rỗng (Bovidae), bộ phụ nhai lại (Ruminatia), bộ guốc chẵn (Artio dactila), lớp có vú (Manaria). Về nguồn gốc dê Bách Thảo, cũng như các giống dê Việt Nam chưa được phân loại cũng như bị pha lẫn với các giống dê nước ngoài. Người ta cho rằng, dê Bách Thảo là giống dê được nhập vào nước ta từ hàng trăm năm nay và đã lai tạp với các giống dê Beetạl, Jamnapari của Ấn Ðộ, Ampine, Sanean của Pháp, vì vậy dê Bách Thảo cũng có màu sắc lông da khác nhau. Ða số có màu đen, hai sọc dọc theo mặt, bốn cẳng chân, bụng và dưới đuôi màu trắng, một số con có màu loang trắng, đen tuyền hoặc màu nâu, màu ghi. Lông dê Bách Thảo ngắn mượt, sự chênh lệch về độ dài của lông ở các phần cơ thể không đáng kể. Lông của con đực dài và thô hơn con cái, đầu thô, dài, sống mũi dô, tai hơi cụp xuống, miệng rộng và khô, phần lớn là không có râu cằm. Dê có sừng chiếm trên 60%, sừng của dê nhỏ, thường chếch về phía sau. Nhìn chung con cái có đầu, cổ thanh hơn con đực. Dê Bách Thảo khác hơn so với dê khác là tính tình hiền lành, sạch sẽ, dễ gần và thích đùa nghịch với con người, có thể nuôi nhốt hoàn toàn. Dê Bách Thảo tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Nam Trung Bộ: Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa. Khối lượng dê sơ sinh 2,5 - 2,8 kg/con. Dê đực trưởng thành 65-80 kg/con, dê cái 40-45 kg/con. Bắt đầu phối giống lúc 7-8 tháng tuỏi. Mỗi năm đẻ 1,5 lứa, mỗi lứa đẻ 1,7 con. Chu ký vắt sữa dài 5 tháng, mỗi ngày một dê cho 0,8 - 1,3 kg sữa. Sản lượng sữa 205 kg/chu kỳ. 51 2.4.4.3. Cừu Phan Rang - Hình 2. 32. Cừu Phan Rang Theo người dân địa phương thì đàn cừu đã có hơn 100 năm nay, do người Chà Là (Ấn Ðộ ) mang tới. Cũng có vùng nói là do những tu sĩ người Pháp mang tới cho giáo dân. Ðây là giống cừu thịt xuất xứ từ các nước nhiệt đới, có nhiều khả năng là từ Ấn Ðộ, nới có khí hậu nóng. Cừu thuộc loại hình đuôi ngắn, dẹt. Theo bản đồ phân bố cừu của C. Dervendra và G.B Meloroy thì giống cừu này thường thấy ở Ấn Ðộ, Pakistan và một sô nước Châu Phi. Qua nhiều năm, con cừu ở đây đã thích nghi với điều kiện tự nhiên, khí hậu cũng như tập quán chăm sóc nuôi dưỡng của người dân Phan Rang (Ninh Thuận) nên được gọi là cừu Phan Rang. Cừu Phan Rang có màu trắng (80%), một số ít có màu lông nâu (11%), một số còn lại có lông nâu điểm trắng hoặc trắng điểm nâu hoặc lông đen. Một số con có mặt đen hoặc trắng, nhưng phần lớn là mặt trắng, có điểm một vệt trắng ở sống mũi và hai dải đen ở hai bên má, toàn thân cừu phủ một lớp lông, lông phần hông dài khoảng 11-12 cm, lông phần lưng khoảng 8 cm. Lông nhỏ, mịn mà không xoăn, lông cừu đực thô hơn cừu cái (nhưng không rõ như ở dê). Ðầu, cổ cừu ngắn, mũi dô, không sừng, không có râu cằm, thân hình trụ, ngực sâu và nở, bụng to, gọn, mông nở, 4 chân nhỏ và khô, móng hở, vú nhỏ và treo, núm vú ngắn (2 cm). Cấu tạo con vật thể hiện hướng thịt. Trọng lượng sơ sinh của cừu Phan Rang là 2,20 kg, lúc 3 tháng tuổi: 13,98 kg. Trưởng thành, bình quân con cái nặng 38,96 kg, con đực 42,64 kg. Cừu là loài vật nuôi sớm thành thục, 5 tháng tuổi đã có biểu hiện phối giống, nhưng người ta thường sử dụng con đực vào lúc 10 tháng tuổi. Cừu cái 6 tháng đã động dục, tuổi phối giống đầu tiên thường 9 - 10 tháng, thời gian mang thai khoảng 150 ngày, chu kỳ động dục khoảng 16 - 52 17 ngày, cừu đẻ 1 con chiếm tỷ lệ khoảng 75,8% còn lại là sinh đôi trở lên. Cừu được nuôi chủ yếu là lấy thịt. 2.4.5. Giống gia cầm. 2.4.5.1. Giống gà Ri. Phân bố rộng từ Bắc chí Nam, vì bị pha tạp nhiều nên sắc lông có nhiều loại. Phần lớn gà Ri có màu lông vàng rơm, chân vàng, đầu nhỏ, thanh, có mào đơn . Gà trống có lông màu đỏ tía, cánh và đuôi có lông đen, dáng chắc khỏe, ngực vuông và mào đứng. Các nghiên cứu trước đây đều cho rằng gà Ri có ưu điểm thích nghi tốt với đặc điểm khí hậu của Việt Nam, phù hợp với phương thức chăn nuôi đơn giản, tự kiếm ăn. Nhược điểm của gà Ri là tầm vóc nhỏ, tốc độ sinh trưởng chậm, sản lượng trứng không cao do bản năng ấp, khối lượng trứng bé. Hình 2. 33. Gà Ri Gà có đặc điểm mọc lông, phát dục sớm, thịt thơm ngon, thích nghi với khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới, ít mẫn cảm đối với bệnh cầu trùng, bạch lỵ, đường hô hấp ...Gà Ri nhỏ con (khối lượng sơ sinh: 28,5 - 31,8g; 6 tuần tuổi đạt bình quân 327,6g; 12 tuần tuổi: 824,4 - 1163,0g; 16 tuần 53 tuổi: 1057,4 - 1862,3g; 19 tuần tuổi: 1192,6 - 2050,0g, đòi ấp trứng mạnh, tiêu tốn thức ăn/đơn vị tăng trọng hoặc chục quả trứng còn cao (2 tuần tuổi: 2,47 kg/1 kg tăng trọng; 4 tuần tuổi: 3,68 kg/1 kg tăng trọng; 6 tuần tuổi: 3,91 kg/1 kg tăng trọng). Gà Ri nuôi trong dân thường đẻ từ 80-100 quả/năm, tỷ lệ đẻ trong tháng không ổn định (khi cao, khi thấp) trong 1 chu kỳ đẻ. Trọng lượng trứng bình quân 44,2g. 2.4.5.2. Gà Ðông Tảo (Ðông Cảo) Nguồn gốc và phân bố nhiều ở xã Ðông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Gà có đặc điểm nổi bật là chân to và thô, gà mới nở có lông trắng đục. Gà mái trưởng thành có lông màu vàng nhạt, nâu nhạt. Gà trống có lông màu mận chín pha đen, đỉnh đuôi và cánh có màu lông đen ánh xanh. Mào kép, nụ hoa hồng, bèo dâu. Hình 2. 34. Gà Ðông Tảo Thân hình to, ngực sâu, lườn rộng, dài. Xương to, dáng đi chậm chạp, nặng nề. Khối lượng mới nở 38-40 g/con. Mọc lông chậm. Lúc trưởng thành con trống nặng 4,5 kg/con, con mái nặng 3,5 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 160 ngày tuổi. Nếu để gà đẻ rồi tự ấp, 10 tháng đẻ 70 quả. 54 Khối lượng trứng 48-55 g/quả. Gà có tốc độ sinh trưởng nhanh, nhưng sinh sản (đẻ và ấp nở, nuôi con) thấp. Gà mái có tính đòi ấp cao. Gà Ðông Tảo là giống gà thịt ở nước ta, có khả năng sinh trưởng nhanh, sức khỏe tốt, đây là vốn gen quí dùng để lai với các giống gà khác sẽ cho gà Broiler có năng suất cao. Tuy nhiên, có yếu điểm là khả năng sinh sản kém. 2.4.5.3. Gà Hồ Xuất phát từ làng Lạc Thổ, Thị trấn Hồ, xã Song Hồ, huỵện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sự hình thành và phát triển gà Hồ gắn liền với tập quán cổ truyền, với nền văn hiến vùng quê Kinh Bắc cổ kính. Nơi sản xuất ra tranh Ðông Hồ, đã đi vào lịch sử và được lưu truyền cho đến ngày nay. Qua giao lưu buôn bán ở các chợ, qua lễ hội, con gà Hồ được chuyển đến các địa phương khác nhau trên miền Bắc, pha tạp lẫn với gà Ri, gà Ðông Tảo. Gà trống có đầu hình công, mình hình cốc, cánh hình vỏ trai, đuôi hình nơm, da chân đổ nành, mào xuýt, diều cân ở giữa, bàn chân ngắn, đùi dài, vòng chân tròn các ngón tách rời nhau, da vàng, màu lông mận chín hay mận đen. Con mái có màu đất thó hay màu quả nhãn, ngực nở, chân cao vừa phải, mào xuýt, thân hình chắc chắn. Khối lượng mới nở 45 g/con, lúc trưởng thành con trống nặng 4,5 - 5,5 kg/con; con mái nặng 3,5 - 4,0 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 185 ngày tuổi. Một năm đẻ 3 - 4 lứa, mỗi lứa đẻ được 10-15 quả trứng. Khối lượng trứng 50-55 g/quả. Hình 2. 35. Gà Hồ (trống) 55 Hình 2. 36. Gà Hồ (mái) 2.4.5.4. Gà Rốt Ri Do Viện Chăn nuôi lai tạo nên từ 2 giống gà Rhode và gà Ri (Việt Nam), năm 1985 được công nhận là nhóm giống. Gà có lông nâu nhạt, mào đơn, chân vàng. Khối lượng gà lúc 9 tuần tuổi 660 g/con, 19 tuần tuổi 1,5 kg/con đến 44 tuần tuổi đạt 1,9 kg/con. Tuổi đẻ trứng đầu là 135 ngày. Khối lượng trứng 49 g/quả. Năng suất trứng 1 năm đạt 180 - 200 quả/mái. Hình 2. 37. Gà Rốt Ri 2.4.5.5. Gà Bình Thắng. Gà Bình Thắng do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Bình Thắng, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam lai tạo nên từ hai dòng gà Goldline 54 và Rốt Ri (Việt Nam). Gà có lông màu nâu nhạt, mào đơn, chân vàng. Lúc 5 tháng tuổi gà trống nặng 2,0 - 2,2 kg/con 56 và gà mái nặng 1,5 - 1,7 kg/con. Năng suất trứng một năm đạt 180 - 200 quả/mái. Hình 2.38. Gà Bình Thắng 2.4.5.6. Gà nhập nội. 2.4.5.6.1. Gà Leghorn Nguồn gốc từ nước Anh, nhập vào nước ta từ Cu Ba năm 1974 với 3 dòng BVx, BVy và L3, được nuôi ở Hà Tây và nơi số nới khác. Gà có đặc điểm lông màu trắng, đầu nhỏ, mào và tích phát triển. Mào gà mái ngã về một phía gần như che kín mắt. Khối lượng gà trống 2,5 kg, gà mái 1,8 kg/con. Trứng có vỏ màu trắng. Năng suất trứng 280 quả/mái/năm. Ðây là giống gà hướng trứng. Chăm sóc đòi hỏi thức ăn phải giàu đạm, tiêu tốn thức ăn thấp, không có bản năng ấp trứng. Hình 2. 39. Gà Leghorn (trống) 57 Hình 2. 40. Gà Leghorn (mái) 2.4.5.6.2. Gà Rhode Island. Lông có màu vàng đỏ, có thể có lông đen ở đuôi. Dạng hình lưng thẳng, dài, rộng, ức nở, rộng, sâu tạo cho gà đi ưỡn về phía trước. Ðùi phát triển, cao vừa phải, mào thẳng đứng, trứng màu nâu. Con trống có trọng lượng 3,5 kg, con mái 3,0 kg, sản lượng trứng 180-200 quả/năm, hướng sản xuất thịt-trứng. Hình 2. 41. Gà Rhode Island 2.4.5.6.3. Gà Brown Nick Là dòng gà trứng cao sản ở Mỹ, được nuôi nhiều ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam, phía Bắc. Lúc mới nở gà trống có lông màu trắng, gà mái màu nâu có 2 sọc ở lưng. Khối lượng mới nở 36 g/con, trưởng thành 1,8 kg/con. Bắt đầu đẻ 58 lúc 18 tuần tuổi. Sản lượng trứng 305 - 325 quả/56 tuần. Khối lượng trứng 62 - 64 g/quả. Hình 2.42. Gà Brown Nick 2.4.5.6.4. Gà Tam Hoàng Ðược nhập từ Trung Quốc, muôi nhiều ở khắp mọi nơi trong nước ta. Lông gà con mới nở không đồng nhất về màu sắc, màu lông biểu hiện chính là màu vàng (62%) sau đó đến màu xám (23%) và một số màu khác với tỷ lệ ít, khoảng cách sai khác giữa màu lông mất dần theo tuổi. Gà trưởng thành chủ yếu là màu vàng. Da chân vàng, mào đơn đỏ, ngực nở, đùi to. Khối lượng mới nở 42 g/con, lúc 20 tuần tuổi con trống 2,0 - 2,2 kg/con, con mái 1,6 - 1,8 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 126 - 130 ngày tuổi, thời gian đẻ một lần kéo dài đến 6-7 tháng, sản lượng trứng 130 - 155 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 48 - 50 g/quả. Tỷ lệ phôi 93 - 95%. Hình 2.43. Gà Tam Hoàng 2.4.5.6.5. Gà Lương Phượng Ðược nhập từ Trung Quốc được nuôi rộng rãi ở khắp nơi trong nước ta. Gà có màu lông đa dạng: vàng đốm đen ở vai, lưng và lông đuôi. Lông 59 cổ có màu vàng ánh kim, búp lông đuôi có màu xanh đen. Hai dòng mái có màu đốm đen cánh sẻ là chủ yếu. Hình 2.44. Gà Lương Phượng Dòng trống chủ yếu có màu vàng nâu nhạt - đốm đen. Chân màu vàng, mào đơn đỏ tươi. Thân hình cân đối. Khối lượng gà lúc 20 tuần tuổi con trống 2,0 - 2,2 kg, gà mái 1,7 - 1,8 kg/con. Tuổi dẻ đầu tiên 140 - 150 ngày, sản lượng trứng 150 - 160 quả/mái/năm. 2.4.5.6.6. Gà Kabir Gà có nguồn gốc từ Israen được nhập vào nước ta từ năm 1997, được nuôi nhiều ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung ...Các dòng khác nhau có ngoại hình và màu lông khác nhau: nâu, nâu vàng có sọc, màu hoa mơ...Khối lượng gà mới nở 41 g/con, lúc 8 tuần tuổi đạt 920 g/con, lúc 25 tuần tuổi nặng 2,8 kg, gà mái nặng 2,2 kg/con. Năng suất trứng của đàn bố mẹ 170 quả /mái/70 tuần tuổi. Khối lượng trứng 59 g/quả, tỷ lệ nuôi sống 97%. Hình 2. 45. Gà Kabir 60 2.4.5.6.7. Gà Sasso Là dòng gà thịt của Pháp được nhập vào nước ta từ năm 2002, được nuôi nhiều ở Tam Ðảo (Vĩnh Phú), trại thực nghiệm Liên-Minh (Hà Tây) và một số nơi ở miền Bắc. Dòng trống: con trống lông màu nâu, con mái lông màu trắng. Dòng mái lông màu nâu. Dòng thương phẩm có lông màu nâu vàng hoặc nâu đỏ; chân, mỏ và da màu vàng. Khối lượng lúc 9 tuần tuổi nặng 2,5 kg/con. Dòng trống: Ðàn ông bà có năng suất trứng 65 tuần đạt 180 quả, khối lượng trứng 50 g/quả. Hình 2. 46. Gà Sasso 2.4.6. Giống Vịt 2.4.6.1. Vịt Cỏ Vịt cỏ (hay còn gọi là vịt đàn, vịt tàu) là một trong những giống vịt được nuôi lâu đời và phổ biến ở nước ta. Phân bố phổ biến khắp mọi miền đất nước, chiếm 85% trong tổng đàn, tập trung nhiều ở các vùng lúa nước. Trong vòng 10 năm trở lại đây, vịt có xu hướng chủ yếu phân bố ở Ðồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung, ở các tỉnh phía Nam có số lượng vịt giảm dần và được thay thế bằng vịt Anh Ðào. Nguồn gốc bắt nguồn từ vịt trời, qua quá trình thuần hóa tự nhiên tạo thành giống vịt cỏ thích nghi với đời sống chăn thả hiện nay. Do con người không có tác động chọn lọc, nên giống vịt này đang bị pha tạp nhiều. Vịt có lông màu vàng, có con màu xanh, màu cà cuống có chấm đen, có con đen nhạt. Vì bị pha tạp nhiều nên có nhiều màu lông khác nhau. Vịt có đầu thanh, mắt sáng, linh lợi, mỏ dẹt, khỏe và dài, mỏ thường có màu vàng, có con mỏ màu xanh cà cuống lấm chấm đen, có con màu tro. Cổ dài, mình thon nhỏ, ngực lép. Chân hơi dài so với thân, chân 61 thường màu vàng, có con màu nâu, một số con màu đen (những con này toàn thân có màu da xám). Những con màu lông khác thì có da trằng hơi vàng. Dáng đi nhanh nhẹn, kiếm mồi giỏi, tỷ lệ nuôi sống cao. Hình 2. 47. Vịt Cỏ Khối lượng mới nở 42 g/con. Lúc trưởng thành con trống nặng 1,6 kg, con mái nặng 1,5 kg/con. Mỗi năm có thể đẻ từ 150 -250 quả, tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng. Khối lượng trứng 65 g/quả, 70-80 ngày tuổi có thể giết thịt. 2.4.6.2. Vịt Bầu Giống to con, ngon thịt, nặng trung bình 2,0-2,5 kg, 6 tháng tuổi bắt đầu đẻ trứng, trứng nặng 50-60 g. Vịt phổ biến hầu hết các địa phương ở nước ta, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là loại vịt Bầu bến (Hòa Bình), vịt Phủ Quì (Nghệ An). Vịt Bầu Bến có nguồn gốc ở vùng Chợ Bến, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, hiện nay được nuôi ở nhiều nơi như Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá và một số mơi khác. Vịt có thân hình bầu bỉnh, đầu to, cổ dài. Con mái có màu nâu-vàng xen lẫn. Con trống có màu cánh sẻ phía đầu, lưng. Tuy nhiên vẫn có một số con có màu khác. Chân màu vàng, thỉnh thoảng có chấm đen. Khối lượng mới nở 42 g/con. Lúc trưởng thành, con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,3 - 1,7 kg. Vịt bắt đầu đẻ lúc 154 ngày tuổi. Khối lượng trứng 64 - 66 g/quả. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ 134 - 146 quả. Tỷ lệ phôi 95 - 96%. Tỷ lệ nở đạt 80%. Vịt Bầu Quì có nguồn gốc từ huyện Quì Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay được phân bố ở các huyện Quì Châu, Quế Phong, Vinh (Nghệ An), Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá. 62 Vịt có thân hình gần giống vịt Bầu Bến. Khối lượng trưởng thành con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,4 - 1,7 kg/con. Vịt bắt đầu đẻ lúc 162 - 168 ngày tuổi. Trứng nặng 70 - 75 g/quả. Tỷ lệ phôi 96 - 97%. Tỷ lệ ấp nở đạt 80%. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ đạt 122 - 124 quả. Hình 2. 48. Vịt Bầu Bến Hình 2. 49. Vịt Bầu Quì 2.4.6.3 Một số giống vịt khác Những năm gần đây, chúng ta có nhập một số giống vịt ngoại như: giống vịt Khaki-Campbell, CV-Super Meat, CV-2000 ...để nhân thuần, lai với các giống địa phương và với các giống cao sản khác. Vịt CV-Super M. Vịt được nhập vào Việt Nam từ năm 1989. Hiện nay được nuôi nhiều ở các vùng Ðồng bằng Sông Cửu Long và Ðồng bằng Sông Hồng. Vịt có lông màu trắng tuyền. Chân và mỏ màu nâu vàng. 63 Hình 2. 50. Vịt CV-Super M Hình 2. 51. Vịt Khaki-Campbell Khối lượng mới nở 54 g/con. Lúc trưởng thành con trống nặng 3,2 - 3,8 kg/con, con mái nặng 3,2 - 3,5 kg/con tuỳ theo dòng chọn lọc. Giết thịt ở 49 ngày tuổi có khối lượng 2,8 kg/con, tỷ lệ thịt xẻ đạt 86%. Ðến 40 tuần tuổi đẻ 200 quả. Khối lượng trứng 79 - 82 g/quả. Là giống vịt chuyên thịt. Vịt Khaki-Campbell là giống vịt cao sản về trứng. Lông màu xám, kaki. Tầm vóc không lớn: 2,2-2,5kg/con trống; 1,6-1,7 kg/con mái. Sản lượng trứng cao 280-300 quả/ năm, khối lượng trứng 58-64 g/quả. Thích hợp vớI điều kiện chăn nuôi ở nước ta. 2.4.7. Các giống ngan, ngỗng • Ngan nội có nguồn gốc xa xưa từ Nam Mỹ, được nhập vào nước ta từ lâu, được nuôi nhiều ở nhiều nơi thuộc vùng Ðồng bằng Sông Hồng. Có 3 loại màu lông: trắng (ngan Ré), loang trắng đen (ngan Sen) và 64 màu đen (ngan Trâu). Ngan Ré có khối lượng lúc 4 tháng tuổi con mái 1,7 - 1,8 kg/con, con đực 2,8 - 2,9 kg/con. Hình 2.52. Ngan nội Ngan Sen có khối lượng lúc 4 tháng tuổI, con mái 1,7 - 1,8 kg/con, con đực 2,9 - 3,0 kg/con. Ngan Trâu có tầm vóc to, thô, dáng đi nặng nề. Sau 5 tháng ngan bắt đầu đẻ. Một năm đẻ 3 - 5 lứa, năng suất trứng 50 - 75 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 65 - 67 g/quả. • Ngan Pháp R51 có nguồn gốc từ Pháp, nhập vào Việt Nam từ năm 2001. Hiện nay được nuôi ở một số địa phương: Hà nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá..... Ngan 1 ngày tuổi có lông màu vàng rơm, chân, mỏ có màu hồng hoặc trắng, trên đầu có đốm đen hoặc nâu. Ðến tuổi trưởng thành, ngan có màu lông trắng. Mọc lông đầy đủ lúc 11 - 12 tuần tuổi, 4-5 tháng tuổi thay lông. Khối lượng mới nở 55 g/con; 12 tháng tuổi đạt 3,5 kg; 24 tháng tuổi nặng 4,0 kg/con. Tuổi đẻ 5% lúc 200- 205 ngày. Khối lượng trứng 75 g/quả. Năng suất trứng 110 quả/mái. Tỷ lệ ngan nở loại 1/tổng số trứng ấp là 80%. • Ngan Pháp R71 có nguồn gốc từ Pháp và được nhập vào Việt nam năm 2001 được nuôi ở Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc... Ngan 1 ngày tuỏi có màu lông vàng rơm, có hoặc không có đốm đen trên đầu. Chân, mỏ màu hồng. Khi trưởng thành ngan có màu lông trắng. Khối lượng ngan mới nở 53 g/con, lúc 12 tuần tuổi nặng 3,6 kg, 24 tuần tuổi nặng 4,2 kg/con. Tuổi đẻ 5% lúc 203 ngày. Năng suất trứng/mái/2 chu kỳ 185 - 195 quả. Khối lượng trứng 80 g/quả. Tỷ lệ phôi 93%, tỷ lệ nở loại 1/tổng số trứng ấp là 81%. • Ngan Pháp siêu nặng có nguồn gốc từ Pháp được nhập vào Việt Nam năm 1998, được nuôi ở nhiều nơi như: Hà Nội, Hưng Yên, Hà 65 Bắc, Hà Tây... Ngan có lông màu trắng tuyền. Mào và tích tai màu đỏ. Khối lượng ngan lúc 1 tuần tuổi 150 g/con, lúc 6 tuần tuổi 1,8 kg và lúc 12 tuần tuổi con trống nặng 4,4 kg, con mái nặng 2,7 kg/con. Sau 165-185 ngày ngan bắt đầu đẻ. Năng suất trứng 95 - 100 quả trong 28 tuần. Khối lượng trứng 80 g/quả. Hình 2. 53 . Ngan Pháp R51 Hình 2. 54. Ngan Pháp R71 Hình 2. 55 Ngan Pháp siêu nặng 66 • Ngỗng Xám là con lai giữa ngỗng Cỏ (Ngỗng Sen) với các giống ngỗng khác như ngỗng Sư Tử Trung quốc, ngỗng Rheinland, được nuôi nhiều ở Ðồng bằng Sông Hồng, nhiều nhất là ở Hà Tây. Có 3 loại màu: lông màu xám có loang trắng từ cổ tới bụng, chân, mỏ màu xám chiếm 60%; lông xám hoàn toàn, mỏ có đốm trắng, ống chân vàng, bàn chân xám chiếm 20%; lông xám có loang trắng, da chân màu vàng hoặc xám chiếm 20%. Khối lượng lúc 11 tuần, con mái nặng 3,8 kg, con trống nặng 4,3 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 240 ngày tuổi. Mỗi năm đẻ 3-4 lứa, mỗi lứa đẻ 10 quả. Khối lượng trứng nặng 180 g/quả. Hình 2. 56. Ngỗng Xám • Ngỗng Sư Tử có nguồn gốc từ Trung quốc, được nuôi ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Sông Hồng và tập trung ở Hà Tây. Lông màu xám, đầu to, mỏ den thẩm, mào màu đen và to (đặc biệt là con đực). Mắt nhỏ màu nâu xám. Phân trên cổ có yếm da. Thân hình dài vừa phải, ngực khá to nhưng hẹp. Khối lương con cái 5-6 kg, con đực nặng 6-7 kg/con. Thành thục lúc 8-9 tháng tuổi. Năng suất trứng 55 - 70 quả/mái/năm. Hình 2.57. Ngỗng Sư Tử 67 • Ngỗng Rên Lan (Reinland) có nguồn gốc từ vùng Reinland của Ðức. Ðược nhập vào Việt Nam năm 1976 từ Hungari. Ngỗng được nuôi ở nhiều nơi thuộc vùng Ðồng bằng Sông Hồng như: Gia Lâm, Ðông Anh (Hà Nội), Cẩm Giàng, Khoái Châu (Hưng Yên), Yên Phong, Việt Yên ( Băc Giang), Vĩnh Yên, Vĩnh Lạc (Vĩnh Phúc). Ngỗng có lông màu trắng tuyền. Khối lượng cơ thể lúc 77 ngày tuổi, con mái nặng 3,6 kg, con trống nặng 4,0 kg/con. Thành thục lúc 7,5 tháng tuổi. Năng suất trứng 57 quả /mái/năm. Tỷ lệ phôi 88-92%, tỷ lệ nở/phôi 75,4%. Ngỗng được nuôi để lấy thịt, vỗ béo lấy gan và lấy lông. Hình 2. 58. Ngỗng Rheinland 68 68 Chương III NGOẠI HÌNH VÀ THỂ CHẤT CỦA VẬT NUÔI 3.1. Khái niệm về ngoại hình Ngoại hình là hình dạng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khỏe, hoạt động của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể, cũng như khả năng sản xuất của vật nuôi và là đặc trưng của một phẩm giống. Sức khỏe của con vật là thể hiện quá trình hoạt động bình thường của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Con vật khỏe mạnh thì biểu hiện ra bên ngoài lông mềm, đàn hồi, dáng điệu nhanh, mắt tinh. Thể chất có liên quan đến sức khỏe của con vật, có thể chất tốt thì suốt đời thường khỏe mạnh, có sức sản xuất cao trong những điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Từ xưa người ta đã chú ý đến ngoại hình. Ở thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, người La mã cho rằng: con vật có lông màu sẫm thì khỏe, chịu đựng được tốt hơn con vật có lông màu nhạt. Người Ả rập, Trung quốc ở thế kỷ thứ III đã biết dựa vào các đặc điểm ngoại hình để chọn ngựa hay, ngựa tốt. Ở Việt Nam, Lê Quí Ðôn cũng có viết về kinh nghiệm chọn vật nuôi theo răng, lông, đuôi và da, chọn lợn giống “Bạch xỉ xơ mao đoản vĩ, thông bì”. Có thể nói đó là khai niệm sơ khai về chọn vật nuôi theo ngoại hình Quan điểm dựa vào lông da nhằm mục đích là nhận biết được giống và sơ bộ nhận xét về sức khỏe của con vật. Trong quá trình hình thành, khái niệm về ngoại hình còn có nhiều thuyết khác nhau. Seyzin đưa ra nguyên tắc hình thái, dựa vào một hình dạng tiêu chuẩn, lý tưởng rồi căn cứ vào đó mà so sánh. Từ thế kỷ thứ XIX, người ta đưa ra quan điểm là sức sản xuất của con vật liên quan đến một số bộ phận nhất định trên cơ thể, từ đó có quan niệm là phải chọn những con vật theo những bộ phận có liên quan đến sức sản xuất, nhưng nếu đánh giá con vật thông qua sức sản xuất sẽ có những hạn chế, vì: - Phải đánh giá con vật trước khi nó cho sản phẩm. - Có một số tính trạng sản xuất có liên quan với giới tính. - Có những tính trạng chỉ có thể xác định được khi giết con vật. Vì vậy phải đánh giá con vật kết hợp giữa ngoại hình và sức sản xuất. Darwin có thuyết “Phát triển không cân đối”, theo thuyết này thì cơ thể động vật chỉ phát triển mạnh theo một chiều hướng, còn các chiều hướng khác sẽ bị hạn chế, nghĩa là chỉ có một số bộ phận liên quan trực tiếp theo hướng đó sẽ phát triển rất mạnh còn một số bộ phận khác sẽ kém phát triển làm cho cơ thể mất cân đối. Sự phát triển quá mức của một số 69 bộ phận hoặc một chức năng sẽ làm ảnh hưởng đến bộ phận, chức năng khác. Ví dụ: bò sữa mông và vú phát triển quá mức thì lồng ngực bị lép. Lợn tích lũy mỡ nhiều có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Ðặc trưng của phẩm giống trước tiên bao giờ cũng thể hiện qua ngoại hình, nhất là đối với màu sắc lông da, hình dạng các bộ phận bên ngoài có liên quan trực tiếp dến sức sản xuất. Qua đó, ở một chừng mực nhất định ngoại hình là đặc trưng của phẩm giống gắn với các tính năng sản xuất của nó. 3.2. Ðặc điểm ngoại hình của vật nuôi theo các hướng sản xuất Vật nuôi có hướng sản xuất khác nhau thì có ngoại hình cũng khác nhau. Sự khác nhau đó biểu hiện rõ rệt trên các cơ quan, bộ phận của cơ thể, đặc biệt là các bộ phận trực tiếp với hướng sản xuất. Ðó là ngoại hình theo hướng sản xuất. 3.2.1 Ngoại hình của vật nuôi hướng lấy thịt Vật nuôi hướng lấy thịt có đặc điểm ngoại hình như sau: thân nở về bề ngang và bề sâu, bắp thịt phát triển tốt, tầng mỡ dưới da nổi rõ. Ðầu ngắn, rộng, cổ ngắn và thô, vai và ngực nở, lưng, hông phải phẳng, rộng và nhiều thịt. Mông rộng, dài. Ðùi ngắn, nở và thẳng, da, lông mềm và mịn. Nói chung vật nuôi cho thịt thường có ngaọi hình giống như khối hình chữ nhật. Hình 3.1. Ngoại hình bò hướng thịt 3.2.2 Ngoại hình của vật nuôi hướng cho sữa Vật nuôi hướng cho sữa thì phần sau phát triển hơn phần trước, tuyến sữa (bầu vú) phát triển tốt. Bộ máy tiêu hóa, hô hấp tuần hoàn đều 70 phát triển tốt. Ðầu hẹp, mặt dài và khô, sừng thanh, cổ dài và thanh, ngực sâu, dài, nhưng không rộng như vật nuôi cho thịt. Xương sườn xa nhau và xiên. Lưng thẳng nhưng không nhiều thịt. Ðùi dài, da mỏng, đàn hồi, tầng mỡ dưới da không được dày quá, lông mượt, dày và cứng. Bầu vú to, hình báp úp, đáy phải rộng. Núm vú hình trụ tròn, dài và cách xa nhau, tĩnh mạch vú nổi rõ, đàn hồi. Nhìn chung ngoại hình của vật nuôi lấy sữa giống như một cái nêm. Hình 3.2. Ngoại hình bò hướng sữa 3.2.3 Ngoại hình vật nuôi hướng cày kéo Ngoại hình của vật nuôi hướng cày kéo phải có đặc điểm sau: xương cốt phải khỏe và phát triển, tổ chức bắp thịt rắn chắc, da dày và chắc, bốn chân to, khỏe và dài vừa khỏe. Ðầu dày, cổ có nhiều thịt, ngực sâu, vai dài và xiên, lưng ngắn, phẳng và rộng, mông nở và nhiều thịt, khớp đùi, móng chắc chắn và khỏe. Hình 3.3. Ngựa kéo nặng 3.2.4. Ngoại hình của vật nuôi hướng lấy lông 71 Cừu loại lấy lông có ngoại hình gần giống với vật nuôi hướng cày kéo. Loại cừu này có xương cốt rất phát triển, da phát triển, da dày và chắc. Cừu lấy lông có đầu rộng, lông gáy mọc dày, cổ không qúa ngắn (có 3-4 nếp nhăn tạo thành yếm trước ngực), vai rộng, sườn tròn, mông, khum, đùi khỏe, so với cừu thịt thì thân mình dài hơn một ít. Hình 3. 4. Ngoại hình cừu cho lông Ðối với gà việc đánh giá ngoại hình theo 2 hướng: cho trứng và cho thịt. Gà cho thịt thường có mỏ ngắn, khỏe, mắt to, đầu ngắn, mào và dái tai đỏ. Thân mình có khối chữ nhật đầy đặn, đùi to, lườn dài và rộng, lông mượt, cựa ngắn, da mềm. Gà chuyên trứng cần chú ý bụng to, chân thấp, đùi bé, đầu nhỏ, cổ dài và thanh, mắt tinh và khô, phần sau phát triển hơn phần trước. Trên đây là những đặc điểm ngoại hình của vật nuôi theo hướng sản xuất, cần phải biết để làm chuẩn, đồng thời để phân biệt giữa các loại. Các vật nuôi cùng loại, cùng hướng sản xuất cũng có ngoại hình khác nhau, nhất là các bộ phận cơ thể phát triển ở mức độ khác nhau. 72 Hình 3.5. Ngoại hình gà hướng trứng Hình 3.6. Ngoại hình gà hướng thịt Trong cùng một giống thì các cá thể đực và cái về ngoại hình có sự khác nhau. Con đực thường to lớn hơn con cái, dáng thô và hung dữ hơn, linh hoạt hơn con cái. Những đặc điểm sai khác về ngoại hình giữa con đực và con cái được biểu hiện rõ rệt nhất là ở giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên, chúng ta không thể hoàn toàn căn cứ vào ngoại hình để đánh giá về sức sản xuất của vật nuôi. Chỉ có thể dùng ngoại hình để phân biệt và phán đoán khả năng sản xuất của chúng. Ngoại hình sự phát triển của các cơ quan, bộ phận bên ngoài chỉ mới nói lên được hướng sản xuất, còn chưa cho chúng ta biết cụ thể về số lượng và chất lượng đối với các chỉ tiêu của sức sản xuất. Căn cứ vào ngoại hình chúng ta có thể nói một cách dễ dàng rằng con vật này thuộc loại hình cho sữa, con vật kia thuộc loại hình cho thịt. Nếu chúng ta muốn đánh giá một cách chính xác cho bao nhiêu kilôgram sữa, bao nhiêu kilôgram thịt... thì phải theo dõi và tiến hành thử nghiệm sức sản xuất. Khi xem xét ngoại hình chúng ta có nhận xét tương đối chính xác về sức khỏe, sự phát dục của cơ quan, bộ phận bên ngoài có bình thường hay không, vật nuôi thuộc giống nào và theo hướng sản xuất nào. Căn cứ vào ngoại hình, chúng ta có thể nhận xét điều kiện nuôi dưỡng, quản lý, chăm sóc có phù hợp với yêu cầu của vật nuôi hay không. Căn cứ vào ngoại hình chúng ta có thể nhận biết được vật nuôi không mắc một khuyết điểm nào đó. Những hiểu biết về ngoại hình cần thiết để nhận xét vật nuôi thuộc về giống này hay giống khác. 73 Những hiểu biết về ngoại hình có ý nghĩa lớn trong việc chọn lọc và giám định vật nuôi làm giống. Khi chọn giống chúng ta cần chọn những vật nuôi phát dục tốt, thể chất khỏe mạnh, đặc trưng về giới tính, những bộ phận có liên quan đến hướng sản xuất phải phát dục tốt. 3.3 . Thể chất của vật nuôi 3.3.1. Khái niệm về thể chất Khi đánh giá vật nuôi, người ta không những chỉ chú ý đến ngoại hình mà còn phải chú trọng đến thể chất. Vật nuôi có hướng sản xuất khác nhau thì không những khác nhau về ngoại hình mà còn khác nhau cơ bản về cấu tạo của từng cơ quan và hệ thống các cơ quan. Cơ thể là một chỉnh thể, tất cả các bộ phận có liên quan chặt chẽ với nhau và kết hợp với nhau hết sức nhịp nhàng. Thể chất là đặc điểm về cấu tạo cơ thể và sự phản ứng của cơ thể đối với điều kiện ngoại cảnh. Nói một cách toàn diện thể chất của vật nuôi là sự tổng hợp những đặc tính di truyền và sinh lý, giải phẩu của cơ thể được hình thành trong điều kiện ngoại cảnh, có liên quan chặt chẽ với hướng sản xuất. Paplop chỉ rõ: cơ thể có liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh và sự liên hệ đó do hệ thần kinh trung ương khống chế. Do đó loại hình hoạt động của hệ thần kinh quyết định sự hình thành đặc điểm thể chất. Với quan niệm như thế chúng ta cho rằng, sự hình thành thể chất phải thông qua cả hai mặt: di truyền và ngoại cảnh. Thể chất một mặt là kết quả của sự hình thành và củng cố nhờ quá trình trao đổi chất của cơ thể, có nghĩa là cường độ trao đổi chất càng cao, sự hấp thu dinh dưỡng càng nhiều, khả năng tích lũy các chất để tạo nên mô cơ, xương càng mạnh, thì thể chất càng khỏe. Chính vì vậy mà những biểu hiện ra ngoài của một cơ thể có thể chất tốt là sức khỏe tốt, sức sinh sản cao, sức sản xuất cao và tuổi thọ. Mặt khác nói đến thể chất cũng là nói đến sức mạnh, sức chịu đựng, sự thích nghi của cơ thể trong những điều kiện thiên nhiên và kinh tế nhất định cũng như khả năng miễn kháng của cơ thể đối với bệnh tật và các điều kiện bên ngoài. Như vậy không thể nào xác định và đánh giá thể chất tách rời các điều kiện sinh tồn của con vật. Còn về mặt di truyền cần hiểu thể chất của một con vật còn được hình thành theo những đặc tính di truyền của các đời trước. Ví dụ: trâu cày có thân hình khỏe mạnh, cơ thể cân đối, các cơ quan, bộ phận phát triển tốt, vững chắc thì con của nó cũng có thân hình khỏe mạnh, vững chắc. Tóm lại, sự hình thành thành thể chất là do tác động của ngoại cảnh và di truyền. Phải có quan niệm thể chất một cách đầy đủ, chúng ta mới có thể đánh giá thể chất 74 của con vật đúng đắn, đồng thời mới có thể tác động đến thể chất của vật nuôi theo hướng có lợi nhất cho sản xuất. 3.3.2. Phân loại thể chất Nhiều nhà chăn nuôi đã nghiên cứu vấn đề thể chất trong công tác chọn giống và nhân giống vật nuôi. Ðáng chú ý là những công trình nghiên cứu của P.N. Culesop, E.A Bocdanop xuất phát từ qui luật “cơ thể phát triển cân đối” của Darwin là: Toàn bộ cơ thể trong quá trình sinh trưởng và phát dục đều có liên quan chặt chẽ với nhau đến nỗi, dù những thay đổi nhỏ ở bất cứ bộ phận nào đi nữa nếu mà chúng được tích lũy qua quá trình chọn lọc thì những bộ phận khác cũng bị ảnh hưởng. P.N Culesop đã nghiên cứu sự tương quan giữa các bộ phận chính trong cơ thể con vật và đã xác định được những đặc điểm về thể chất liên quan đến sản xuất. Culesop cho rằng: ở cừu hướng sản xuất khác nhau có sự khác nhau về cấu tạo và sự tương quan các bộ phận khác nhau trong cơ thể, đặc biệt trong mối tương quan giữa cấu tạo các cơ quan, lông, da, tổ chức dưới da, cơ, xương, các bộ phận bên trong (tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, tuyến sữa ). Ở cừu thuộc hướng cho lông, các bộ phận bên trong, da và xương phát triển mạnh, còn lớp mỡ và thịt ít phát triển, nhưng bộ máy tiêu hóa (chủ yếu do nuôi dưỡng bằng thức ăn thô), các bộ phận bên trong (tuần hoàn, hô hấp) do chăn thả trên đồng cỏ nên vận động nhiều, do đó lại rất phát triển. Ở cừu thuộc hướng thịt thì tổ chức dưới da, hệ thống bắp thịt phát triển mạnh, còn xương, da ít phát triển hơn so với cừu thuộc hướng cho lông. Vật nuôi lấy thịt được nuôi dưỡng chủ yếu bằng thức ăn tinh, chúng thành thục sớm, nhưng các cơ quan bên trong nhất là tiêu hóa phát triển kém. Ở cừu hướng cho sữa thì những bộ phận như da, mô liên kết, thịt và xương tương đối ít phát triển, tổ chức dưới da ít phát triển: da mỏng, lớp mỡ và thịt dưới da phát triển kém, xương cốt rắn chắc, không to nặng. Các bộ phận bên trong như tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, tuyến sữa rất phát triển. Bảng 3.1. Sự phát triển các bộ phận cơ thể ở các loại bò khác nhau (Theo P.N Culesop) Loại vật nuôi Bò kéo Bò thịt Bò sửa Tương quan giữa các bộ phận của cơ thể (%) - Khối lượng - Thịt sau khi mổ 100,0 51,77 100,0 66,20 100,0 43.48 75 - Da 7,17 5,67 6,43 - Nội tạng còn nguyên vẹn 18,00 9,00 27,40 Chúng ta thấy ở bò kéo phần da và xương phát triển mạnh, ở bò thịt thì phần thịt sau khi mổ cao hơn, còn ở bò sữa thì các bộ phận bên trong (nội tạng) thì lại phát triển mạnh hơn. Căn cứ vào lý luận trên mà Culesop chia thể chất vật nuôi thành bốn loại: thể chất thô, thanh, săn (chắc) và sổi (nhão). Ở vật nuôi có thể chất thô thì da, cơ và xương phát triển mạnh, mỡ ít phát triển. Do đó vật nuôi có thể chất thô thường ít dùng để vỗ béo mà thường dùng để làm việc (cày kéo đối với trâu, bò, ngựa và dùng để lấy lông đối với dê, cừu). Vật nuôi có thể chất thanh có đặc trưng da mỏng, xương nhỏ, chân nhỏ, đầu thanh. Những loại bò sữa cao sản và các loại ngựa cưỡi nổi tiếng trên thế giới đều thuộc loại thể chất này. Vật nuôi có thể chất chắc thì nhìn bên ngoài, hình dáng có góc, có cạnh, các khớp xương nổi rõ, da thịt cứng cáp, xương rắn chắc. Lớp mỡ thường ít phát triển. Loại vật nuôi có thể chất chắc thường được sử dụng để làm việc, vắt sữa (không phải cao sản). Thể chất sổi thì trái với ba loại nói trên, vật nuôi có thể chất sổi được biểu hiện ở lớp mỡ dày, có nhiều mỡ bao ở nội tạng, da nhão, thịt không rắn, xương không chắc. Vật nuôi có thể chất sổi thường được dùng để lấy thịt và mỡ, như bò thịt, lợn lấy thịt, lấy mỡ... Tuy nhiên trong thực tế chăn nuôi ít khi gặp các loại vật nuôi thuần túy chỉ thuộc một loại thể chất mà thường ở dạng kết hợp như thô-săn, thô -sổi, thanh - săn, thanh - sổi. - Loại hình thể chất thanh-săn: xương nhỏ, nhưng chắc, tổ chức cơ rắn, tầng mỡ dưới da mỏng, da mỏng, chắc, lông dày đàn hồi và mượt, đầu thanh, đùi cứng cáp, mông chắc, khỏe. Vật nuôi có sức sống dồi dào, thần kinh nhạy cảm, khả năng trao đổi chất mạnh, không tích lũy nhiều mỡ. Loại ngựa cưỡi có tốc độ nhanh, bò sữa cao sản thuộc loại thể chất này. Loại hình thể chất thanh-sổi: tổ chức cơ và mỡ dưới da mịn và rất phát triển, da mỏng, mịn nhưng nhão, lông mềm như tơ, đầu nhẹ, ngắn, tính tình trầm tĩnh, hệ thần kinh kém nhạy cảm, sức sống không dồi dào, khả năng trao đổi chất kém, dễ vỗ béo. Bò thịt chuyên dụng và lợn nuôi thịt thuộc loại thể chất này. Loại hình thể chất thô-săn: Vật nuôi có thân hình vạm vỡ, thô kệch, cơ gân nổi rõ, lông thô, xương thô, nhưng chắc, đầu nặng và bốn chân rất phát triển, da dày nhưng chắc, lớp mỡ dưới da mỏng, tổ chức cơ săn và rất phát triển, hệ thần kinh nhạy cảm vừa, có sức sống dồi dào và khả năng làm việc lớn. Bò và ngựa kéo thuộc loại thể chất này. 76 Loại hình thể chất thô-sổi: Vật nuôi xương to, có ngoại hình thô kệch, xương cốt nặng nề nhưng không chắc chắn, tổ chức cơ lỏng lẻo, da dày nhưng nhão, lông thô, đùi thô và nặng, thần kinh yếu, sức sống kém, trao đổi vật chất kém. Vật nuôi thuộc loại hình thể chất này thành thục muộn, không phù hợp với các hướng sản xuất, ít có giá trị về kinh tế. Bocdanop E.A cho rằng: “Thể chất là mối tương quan đặc biệt trong sự phát triển mô và cơ, nên cần phải nghiên cứu các bộ phận ấy liên quan đến sức khỏe, sức sản xuất của con vật”. Theo ông, nên phân thể chất thành ba loại: - Loại thanh và săn, thường là thể chất của bò sữa, cừu lông mịn và ngựa cưỡi. - Loại sổi, thường là thể chất của vật nuôi cho thịt. - Loại chắc, thường là thể chất của vật nuôi cày kéo. Ngoài ra người ta còn phân loại thể chất theo cấu tạo các cơ quan: loai thể chất tiêu hóa, hô hấp. - Loại thể chất tiêu hóa: Vật nuôi thuộc loại hình thể chất này có xương sườn mở thẳng, lồng ngực ngắn và rộng, chổ tiếp giáp giữa xương sườn và xương sống làm thành góc độ rộng. Phần trước của thân mình cũng rộng như phần sau, tạo cho cơ thể có hình dáng giống hình chữ nhật hay giống một khối hình bình hành. Cổ ngắn, da mỏng và nhão, lông mềm, mịn, lớp mỡ dưới da phát triển mạnh, cường độ trao đổi chất chậm, rất dễ vỗ béo. Vật nuôi lấy thịt, một phần của giống ngựa kéo nặng thuộc loại hình thể chất này. 77 Hình 3.7. Loại hình tiêu hoá Hình 3.8. Loại hình hô hấp - Loại hình hô hấp: Vật nuôi có lồng ngực sâu, dài ra hai bên, nhưng hẹp, khoảng cách giữa các xương sườn hơi hẹp, chổ tiếp giáp giữa xương sườn và xương sống làm thành góc độ nhọn. Lồng ngực phía trưóc hẹp, phình rộng ở phía sau. Cổ và mũi dài. Với cấu tạo cơ thể như thế nên hô hấp có điều kiện phát triển mạnh, phù hợp với các loại vật nuôi có quá trình trao đổi chất mạnh và có liên quan đến sức sản xuất của con vật. Loại bò sữa cao sản, ngựa chạy nhanh, trâu cày dẻo dai thuộc loại thể chất này. I.P Pavlop khi nghiên cứu quá trình hoạt động của hệ thần kinh chó, ông đã phân ra ba đặc điểm và từ các đặc điểm ấy đi đến phân loại thể chất. Ba đặc điểm đó là: + Sức mạnh của quá trình hoạt động của hệ thần kinh + Sự cân bằng giữa các quá trình hưng phấn và ức chế. + Tốc độ chuyển từ trạng thái hưng phấn sang ức chế và ngược lại. Từ đó ông chia thể chất thành nhiều loại. Bảng 3.2. Phân loại hoạt động thần kinh theo I.P Pavlop Sức mạnh của các quá trình hoạt động thần kinh Sự cân bằng giữa hưng phấn và ức chế Tốc độ chuyển Loại thể chất Yếu Mạnh Không thăng bằng Thăng bằng - Chậm - Nhanh Nhanh Chậm Buồn bả Nóng nảy Linh hoạt, dữ Bình thản Cách phân loại theo Pavlop ứng dụng vào vật nuôi có khó khăn vì tuy hoạt động của hệ thần kinh vật nuôi có nhiều quá trình như trên, nhưng