🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Quan Hệ Quốc Tế (Dành Cho Hệ Đại Học Và Sau Đại Học) Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. CÙ THỊ THÚY LAN Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. LÊ THỊ THANH HUYỀN ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM THÚY LIỄU LÂM THỊ HƯƠNG LÊ THỊ THANH HUYỀN VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/23-365/CTQG. Số quyết định xuất bản: 26-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 4 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6511-1. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th­ viÖn Quèc gia ViÖt Nam Vò D­¬ng Hu©n Gi¸o tr×nh Ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu quan hÖ quèc tÕ : Dµnh cho hÖ ®¹i häc vµ sau ®¹i häc / Vò D­¬ng Hu©n. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 348tr. ; 21cm ISBN 9786045757611 1. Quan hÖ quèc tÕ 2. Ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu 3. Gi¸o tr×nh 327.0721 - dc23 CTH0644p-CIP LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nghiên cứu quan hệ quốc tế là một phân nhánh của chính trị học, nghiên cứu các sự việc và mối quan hệ ngoại giao của thế giới (chẳng hạn như quốc gia, tổ chức chính phủ quốc tế, tổ chức phi chính phủ quốc tế và các công ty xuyên quốc gia...), là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị. Trong nghiên cứu quan hệ quốc tế không chỉ nghiên cứu toàn cầu hóa, các tranh chấp lãnh thổ, khủng hoảng hạt nhân, chủ nghĩa dân tộc, phát triển kinh tế, khủng bố và nhân quyền, mà còn có những nội dung nghiên cứu về kinh tế, lịch sử, luật pháp, địa lý, xã hội, nhân học, tâm lý và văn hoá. Quan hệ quốc tế là vấn đề phức tạp. Để hiểu rõ và đúng đắn quan hệ quốc tế, cần có phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế một cách khoa học. Bộ môn phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế giúp người đọc có phương pháp tìm hiểu và tìm kiếm các quy tắc chung về hiện tượng quan hệ quốc tế và giải thích các hiện tượng có tính định kỳ và thường xuyên trong quan hệ quốc tế. Các phương pháp nghiên cứu hiện nay được hình thành và bồi đắp, xây dựng bởi quá trình lịch sử các học giả quốc tế, các nhà khoa học thảo luận và tìm tòi. Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu về những vấn đề nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn 5 Giáo trình phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế của GS.TS. Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao cung cấp cho người học hệ thống các kiến thức và kỹ năng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, cập nhật nhiều kiến thức khoa học và công nghệ mới, nhiều thông tin thực tiễn thiết thực, bảo đảm cân đối giữa lý luận và thực hành. Giáo trình gồm 3 chương, trình bày đại cương về khoa học và nghiên cứu khoa học; phương pháp nghiên cứu khoa học quan hệ quốc tế; và hướng dẫn cách làm đề tài nghiên cứu khoa học. Đây là công trình nghiên cứu công phu nghiêm túc của tác giả. Tuy nhiên những nội dung về phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế còn khá mới mẻ và đang tiếp tục được nghiên cứu nên có nhận xét, kết luận còn cần tiếp tục được nghiên cứu, thảo luận. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Hà Nội, tháng 3 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước "chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp"1, Bộ Ngoại giao đã thành lập Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ đối ngoại, thuộc Học viện Ngoại giao. Trong những năm qua, Trung tâm đã mở hàng nghìn lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ không chỉ cho cán bộ Bộ Ngoại giao mà còn cho cả các bộ, ban ngành khác và các địa phương. Chất lượng của các lớp được đánh giá tốt, hiệu quả cao. Tuy nhiên, một trong các khó khăn của công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ đối ngoại là khâu giáo trình, sách, tài liệu hướng dẫn học. Hầu hết các môn học còn thiếu loại sách công cụ vô cùng quan trọng này. Hơn nữa, một số giáo trình hiện có còn không ít khiếm khuyết. Điều đó hạn chế rất nhiều chất lượng công tác bồi dưỡng, đào tạo lại. Chính vì vậy, việc viết giáo trình, sách hướng dẫn học tập, nhất là tài liệu tham khảo là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.156. 7 Một trong những môn học trong chương trình bồi dưỡng cán bộ đối ngoại là "Phương pháp nghiên cứu khoa học quan hệ quốc tế". Hiện nay, môn học này chưa có giáo trình hay sách hướng dẫn học tập. Việc biên soạn Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học quan hệ quốc tế thực sự cấp bách cho cả hệ đào tạo đại học và sau đại học chuyên ngành Quan hệ quốc tế. Với sự hỗ trợ tích cực của Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ đối ngoại, từ kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu hàng chục năm của bản thân, tôi đã dành thời gian hoàn thành cuốn sách Giáo trình Phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Giáo trình sẽ trang bị cho học viên/sinh viên một cách tương đối hệ thống các kiến thức và kỹ năng công tác nghiên cứu khoa học một cách khoa học, lôgích, đảm bảo cân đối giữa lý luận và thực hành, phù hợp với thực tiễn và cập nhật những tri thức mới nhất của khoa học và công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập chuyên ngành Quan hệ quốc tế. Giáo trình gồm 3 chương: Chương I: Đại cương về khoa học và nghiên cứu khoa học Chương II: Phương pháp nghiên cứu khoa học quan hệ quốc tế Chương III: Hướng dẫn làm đề tài nghiên cứu khoa học Ngoài ra, phần phụ lục có một số tài liệu bổ ích cho người đọc như Phương pháp dự báo, Mẫu thuyết minh đề 8 tài nghiên cứu khoa học - công nghệ, Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ, Quy chế đào tạo thạc sĩ,… Giáo trình chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Tác giả mong muốn nhận được nhiều góp ý để có thể chỉnh sửa, bổ sung cho những lần tái bản sau. Tác giả trân trọng cám ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để cuốn sách được ra mắt bạn đọc. GS.TS. VŨ DƯƠNG HUÂN 9 Chương I ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC I. NHẬN THỨC VỀ KHOA HỌC 1. Khái niệm khoa học Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khoa học, như tiếp cận nội dung, tiếp cận nhận thức, tiếp cận hoạt động, tiếp cận triết học và theo nghĩa thông thường. Do có các cách tiếp cận khác nhau nên dẫn đến các khái niệm khác nhau. Xin đơn cử vài ví dụ: Triết học Mác - Lênin xem khoa học là một trong các lĩnh vực của ý thức xã hội mà ý thức xã hội là "phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định"1. Ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mĩ, ý thức khoa học, v.v.. Tồn tại xã hội có vai trò quyết định đối với ý thức xã hội. Tuy nhiên, ___________ 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 143. 11 ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, có khả năng tác động trở lại đối với tồn tại xã hội và tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức. "Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra hệ thống chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng, những nguyên lý khái quát, những giả thuyết, học thuyết,... Khoa học không những hướng vào giải thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế giới. Khoa học làm cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ lợi ích của mình"1. Một đặc điểm quan trọng của khoa học là những luận điểm, nguyên lý là hệ thống chân lý khách quan. Chân lý chỉ có một, được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn là nguồn gốc, tiêu chuẩn của nhận thức, là nhân tố kích thích phát triển khoa học. Quy luật đặc biệt của nhận thức khoa học là tư tưởng khoa học tiên tiến thường đi trước thời đại, vượt lên trên trình độ và yêu cầu của thực tiễn. Khoa học không có giới hạn trong sự phát triển vì tư duy con người không có giới hạn trong nhận thức. Khoa học có tính độc lập tương đối so với các hình thức ý thức xã hội khác. Tất cả các hình thái ý thức có liên hệ với nhau và đều là đối tượng nghiên cứu của khoa học. 1.1. Khoa học là một hệ thống các tri thức về thế giới khách quan. Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về ___________ 1. Phạm Viết Vượng: Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997, tr.13. 12 quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Có hai loại tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hằng ngày, trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học. Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Tri thức khoa học thường được biểu hiện dưới dạng các khái niệm, quy luật, định luật, định lý, học thuyết,... Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành 13 và bộ môn khoa học như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,... Như vậy, tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện. Với nhận thức như trên, các nhà khoa học Xôviết, đưa ra khái niệm: "Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội, tư duy, hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội"1. Đây là cách tiếp cận nội dung được đông đảo các nhà nghiên cứu chấp nhận. Định nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã được hệ thống hóa. 1.2. Khoa học là hoạt động xã hội đặc biệt. Với cách tiếp cận hoạt động, khoa học được hiểu là một hoạt động đặc biệt của con người, giống như hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Mục đích của hoạt động khoa học là khám phá bản chất, các quy luật vận động của thế giới để vận dụng vào sản xuất và đời sống xã hội. Thực chất hoạt động khoa học là phát minh, sáng tạo ra tri thức mới cho loài người. Ngoài ra, khoa học còn được hiểu theo nghĩa thông thường. Khoa học là sự sắp xếp hợp lý, lôgích theo trật tự. Ở đây muốn nói đến nếp sống khoa học. ___________ 1. Đại bách khoa toàn thư Liên Xô, Nxb. Bách khoa toàn thư, Mátxcơva, 1981, quyển XIX, tr. 24. 14 Trong Tiếng Việt, "khoa học", "kỹ thuật" và "công nghệ" đôi khi được dùng với nghĩa tương tự nhau hay được ghép lại với nhau (chẳng hạn "khoa học kỹ thuật"). Tuy vậy, khoa học khác với kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật là việc ứng dụng kiến thức khoa học, kinh tế, xã hội và thực tiễn để thiết kế, xây dựng và duy trì các cấu trúc, máy móc, thiết bị, hệ thống, vật liệu và quá trình. Còn công nghệ là sự tạo ra, sự biến đổi, sử dụng kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt được một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể. 2. Đặc điểm của khoa học Trước hết, khoa học gắn rất chặt với thực tiễn nên khoa học có tính thực tiễn. Tính thực tiễn của khoa học thể hiện ở chỗ khoa học có nguồn gốc từ thực tiễn, được kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn và phải được vận dụng vào thực tiễn. Đặc điểm thứ hai của khoa học là sản phẩm của khoa học phải được chứng minh bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học. Một đặc điểm khác của khoa học là có tính tiên đoán, tính dự báo. Những tư tưởng khoa học tiên tiến thường đi trước thời đại, vượt lên trên những yêu cầu của hiện tại. Với sự am tường về lịch sử - văn hóa dân tộc, dịch học phương Đông, phép biện chứng duy vật,... Hồ Chí Minh đã có những dự báo chính xác về Chiến tranh thế giới thứ 15 hai và cách mạng Việt Nam. Ví dụ: Trả lời câu hỏi: Năm nay tình hình thế giới và trong nước sẽ thế nào? Trong bài "Năm mới, công việc mới" trên báo Việt Nam độc lập, số 114, năm 1942, Bác khẳng định: "Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại; Anh - Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự do"1. Gia Cát Lượng, thời Tam Quốc của Trung Quốc, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thời hậu Lê nước Việt Nam ta cũng có những dự đoán thiên tài. Một đặc điểm nữa của khoa học là không có giới hạn trong sự phát triển. Khoa học luôn luôn vận động và ngày càng hoàn thiện cùng với khả năng nhận thức và trình độ phát triển của khoa học. Cuối cùng, là thành tựu nghiên cứu khoa học ngày càng được ứng dụng nhanh hơn vào thực tiễn. 3. Tiêu chí một bộ môn khoa học Để được gọi là một bộ môn khoa học cần phải đáp ứng các tiêu chí sau2: Thứ nhất, một bộ môn khoa học cần có đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là bản thân sự vật, hiện tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học. ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.250-251. 2. Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1999, tr.19-20. 16 Bộ môn khoa học nào cũng có đối tượng nghiên cứu riêng. Nếu cùng một sự vật, hiện tượng thì bộ môn khoa học phải nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: đối tượng nghiên cứu của lịch sử quan hệ quốc tế xem quan hệ quốc tế như kết quả hoạt động trên trường quốc tế của chủ thể, nhất là chủ thể quốc gia - dân tộc và các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Lịch sử quan hệ quốc tế không đơn thuần là tổng hợp lịch sử chính sách đối ngoại của các chủ thể riêng biệt. Nhiệm vụ của bộ môn khoa học này chỉ ra rằng, các sự kiện hay các sự kiện quốc tế khác đã xảy ra như thế nào và tại sao? Lực lượng chính trị nào gây ra chúng, ảnh hưởng của chúng đến tiến trình, kết cục của các sự kiện. Tuy nhiên, nhiệm vụ của lịch sử quan hệ quốc tế là cũng là nghiên cứu chính sách đối ngoại của các nước, vì các nước là chủ thể tham gia quan hệ quốc tế. Không nghiên cứu chính sách đối ngoại của các nước riêng biệt thì lịch sử quan hệ quốc tế có thể trở thành sơ đồ trừu tượng. Để làm sáng tỏ chính sách đối ngoại của các nước đòi hỏi phải khám phá mối liên hệ hữu cơ giữa chính trị đối nội và chính trị đối ngoại, làm rõ đặc điểm giai cấp của chính trị và chỉ ra cuộc đấu tranh giai cấp, đảng phái về các vấn đề chính trị đối ngoại. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử ngoại giao hay lịch sử nghệ thuật ngoại giao là nghiên cứu phương pháp, thủ thuật hoạt động của quốc gia, các chủ thể khác trên trường quốc tế theo chiều dài lịch sử. Thí dụ, lịch sử ngoại giao Việt Nam, lịch sử ngoại giao Liên bang Nga, lịch sử ngoại giao thế giới,... 17 Thứ hai, một bộ môn khoa học cần có một hệ thống lý thuyết, bao gồm những khái niệm, phạm trù, học thuyết, định lý, quy luật,... Trong hệ thống lý thuyết, ngoài phần lý thuyết riêng, còn có hệ thống lý thuyết kế thừa của bộ môn khoa học khác. Ví dụ, lịch sử quan hệ quốc tế có nhiều khái niệm, phạm trù, lý thuyết, có thể kể đến khái niệm quan hệ quốc tế, quốc gia - dân tộc, chủ thể, diễn viên, người tham gia quan hệ quốc tế, trật tự thế giới, cục diện thế giới, hệ thống quan hệ quốc tế, lý thuyết an ninh, lý thuyết hội nhập, lý thuyết cân bằng quyền lực,... Thứ ba, một bộ môn khoa học cần có một hệ thống phương pháp luận. Phương pháp luận là lý thuyết về phương pháp và là hệ thống các phương pháp. Hệ thống phương pháp bao gồm hệ thống phương pháp luận của riêng bộ môn và hệ thống lý thuyết kế thừa từ bộ môn khoa học khác. Phương pháp luận của lịch sử quan hệ quốc tế là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa Mác về quan hệ quốc tế, chủ nghĩa kiến tạo... Quan điểm Đảng ta về các vấn đề quốc tế, đối ngoại cũng làm nhiệm vụ phương pháp luận. Thứ tư, một bộ môn khoa học cần có mục đích ứng dụng. Bất kỳ bộ môn khoa học nào cũng đặt mục đích ứng dụng lên đầu tiên. Nhà nghiên cứu luôn đặt mục đích khi tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách máy móc, bởi vì nghiên cứu cơ bản nhiều khi chưa biết được mục đích ứng dụng, thậm chí không thể đặt mục đích ứng dụng. Chúng ta nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao Việt Nam, lịch sử ngoại giao thế giới 18 để làm gì? Cũng như tất cả các nước trên thế giới, chúng ta nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao Việt Nam, lịch sử ngoại giao thế giới,... làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định, trước hết là đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Thứ năm, một bộ môn khoa học cần có lịch sử nghiên cứu. Mỗi bộ môn khoa học đều có lịch sử, quá trình hình thành, phát triển riêng. Trong trường hợp bộ môn khoa học được tách ra từ bộ môn khác, thì lịch sử gồm giai đoạn trước khi tách và sau khi tách ra. 4. Phân loại khoa học Phân loại khoa học là sự phân chia các bộ môn khoa học thành nhóm các bộ môn khoa học theo một tiêu thức nào đó. Mục đích phân loại khoa học để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức. Việc phân loại khoa học là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở xác định cấu trúc tri thức, đồng thời xác định vị trí của từng bộ môn khoa học trong hệ thống tri thức, là cơ sở phân loại ngành đào tạo, thông tin tư liệu và hoạch định chính sách, tổ chức quản lý. Ngoài ra, phân loại khoa học cũng là cơ sở xác định con đường đi đến khoa học. Phân loại khoa học luôn cần hoàn thiện, bổ sung và phát triển cùng với quá trình phát triển của khoa học Trong lịch sử phát triển của khoa học đã có những cách phân loại sau đây: 4.1. Phân loại khoa học thời cổ đại: Aristoteles (384 – 322 trước Công nguyên) là một nhà triết học và bác học 19 thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học (rhetoric), ngôn ngữ học, kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học và được mệnh danh là "cha đẻ của khoa học chính trị". Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristoteles là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại. Ông đã đưa khoa học thành khoa học lý thuyết, khoa học thực hành và khoa học sáng tạo. Epiquya (341 - 270 trước Công nguyên) là một trong những nhà triết học lớn thời kỳ Hy Lạp hóa. Ông sinh ra và lớn lên ở đảo Xamos, thuộc Hy Lạp cổ đại. Ngay từ năm 14 tuổi ông đã bắt đầu nghiên cứu các khoa học. Năm 18 tuổi, Epiquya đến Aten, chịu ảnh hưởng nhiều của các nhà triết học ở đây như Democritos. Ông đã chia khoa học thành vật lý học là học thuyết về tự nhiên; lôgích học là học thuyết về con đường nhận thức và đạo đức học là học thuyết về cách đạt tới hạnh phúc của con người. 4.2. Phân loại khoa học thời trung cổ: Khoa học được được phân chia thành thần học, lôgích học và ngữ pháp; và khoa học tự nhiên phụ thuộc vào các khoa học trên. 4.3. Phân loại khoa học thời cận đại: Francis Bacon (1561 - 1626), Tử tước St Alban là một nhà triết học, chính khách và tiểu luận người Anh. Năm 1603, Bacon được 20 phong tước hiệp sĩ. Ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa duy nghiệm và phương pháp khoa học cùng chủ nghĩa kinh nghiệm. Ông chia khoa học thành lịch sử, thơ ca và triết học. Saint Simon (1760 - 1825) là nhà triết học, kinh tế học người Pháp, người đầu tiên đề xướng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Ông coi khoa học là một chỉnh thể, gồm khoa học tự nhiên, vật lý hữu cơ và vật lý vô cơ. Khoa học xã hội là một bộ phận của khoa học tự nhiên và ông gọi là vật lý xã hội. Friedrich Hegel (1770 - 1831) - nhà triết học người Đức, được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức. Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là về lôgích phân tích, biện chứng, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Ông chia khoa học tự nhiên thành cơ học, hóa học và cơ thể học. Tóm lại, trong lịch sử phát triển của khoa học, người ta đã nhận thức được sự cần thiết phải phân loại khoa học. Tuy đã có nhiều cố gắng song vẫn chưa có cách phân loại hợp lý và triệt để. 4.4. K. Marx (1818-1883) và F. Engels (1820-1895) cho rằng, mỗi khoa học phản ánh một hình thức vận động của vật chất. Sự phân loại khoa học chính là sự phân loại các hình thức vận động của khách thể phù hợp với tính nhất quán, bản chất bên trong của chúng. Mối liên hệ, chuyển hóa giữa các khoa học phản ánh sự chuyển hóa, phát triển các hình thức vận động của thế giới. Như vậy, F. Engels đã phân loại khoa học theo biện chứng của quá trình phát triển của khách thể. 21 Việc phân loại khoa học phải dựa trên các tiêu chí nhất định: Thứ nhất, phân loại khoa học dựa trên cách tiếp cận. Cách tiếp cận phải đảm bảo tính khách quan, nghĩa là dựa vào đối tượng mà nó nghiên cứu; đồng thời đảm bảo tính phối thuộc. Đó là tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước và bao hàm tri thức có trước. Thứ hai, phân loại khoa học theo phương pháp hình thành khoa học. Đó là cơ sở lý thuyết hình thành khoa học. Ví dụ, khoa học tiền nghiệm được hình thành trên những tiền đề hoặc hệ tiền đề như hình học, lý thuyết tương đối; khoa học hậu nghiệm hình thành trên quan sát hoặc thực nghiệm (xã hội học, vật lý thực nghiệm); khoa học phân lập được hình thành trên sự phân chia đối tượng nghiên cứu quá trình phân tách một bộ môn khoa học từ một bộ môn khoa học đang tồn tại và quá trình kết hợp các bộ môn khoa học riêng lẻ thành một bộ môn khoa học mới đặt ra vấn đề phân loại khoa học. Ví dụ: triết học tách thành các bộ môn triết học, lôgích học, thần học, thiên văn học và toán học hay kinh tế học và chính trị học thành kinh tế chính trị học, chính trị và địa lý thành địa - chính trị,... khảo cổ học được tách từ lịch sử, cơ học được tách từ vật lý; khoa học tích hợp hình thành trên cơ sở hợp nhất hai hay nhiều bộ môn như kinh tế học chính trị, hóa lý... Thứ ba, phân loại khoa học theo đối tượng nghiên cứu. Theo cách này, một loạt bộ môn khoa học ra đời từ triết học và toán học. Việc phân loại khoa học phụ thuộc vào 22 mục đích nhận thức và mục đích sử dụng. Do quan điểm tiếp cận như vậy mà có nhiều cách phân loại khoa học khác nhau: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và triết học hoặc khoa học tự nhiên (nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, kể cả đời sống sinh học), khoa học xã hội (nghiên cứu hành vi con người và xã hội); khoa học hình thức, bao gồm toán học; khoa học ứng dụng (nghiên cứu và ứng dụng). Thứ tư, phân loại theo nguồn gốc hình thành khoa học: khoa học lý thuyết, khoa học thực nghiệm, khoa học biện chứng. Thứ năm, phân loại theo kết quả hoạt động của con người: khoa học ký ức, khoa học tư duy, khoa học suy luận, khoa học viễn tưởng. Thứ sáu, phân loại khoa học theo mục đích ứng dụng: khoa học mô tả, khoa học phân tích, khoa học tổng hợp, khoa học hành động, khoa học sáng tạo. Thứ bảy, phân loại theo mức độ khái quát hóa: khoa học cụ thể, khoa học trừu tượng, khoa học tổng quát, khoa học đặc thù,... Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) phân loại khoa học thành năm lĩnh vực: khoa học tự nhiên và khoa học chính xác, khoa học kỹ thuật, khoa học nông nghiệp, khoa học về sức khỏe, khoa học xã hội và nhân văn1. ___________ 1. Phạm Viết Vượng: Phương pháp nghiên cứu khoa học, Sđd, tr.30. 23 Ngày nay, các ngành khoa học có xu hướng được chuyên sâu hóa, nghĩa là phân nhánh thành những ngành hẹp. Ví dụ: ngành lịch sử quan hệ quốc tế, một bộ môn chuyên ngành của khoa học quan hệ quốc tế phân thành những môn rất hẹp như an ninh quốc tế, lý thuyết an ninh, an ninh châu Á - Thái Bình Dương, an ninh châu Âu, các vấn đề toàn cầu,... Tất cả các "chuyên ngành hẹp" đó thực ra chỉ là những chuyên đề của quan hệ quốc tế đương đại mà thôi. II. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Khái niệm nghiên cứu khoa học 1.1. Định nghĩa Nghiên cứu khoa học là một hoạt động phức tạp, như tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,... thu được từ các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, trên cơ sở đó sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Đó là hoạt động trí tuệ nhằm cải tạo thế giới. Theo cách tiếp cận trên, các tác giả Giáo trình công tác nghiên cứu khoa học trong ngành ngoại giao đưa ra định nghĩa: "Nghiên cứu khoa học là lao động để tạo ra những giá trị mới chưa từng có trong vốn tích lũy của nhân loại; hoặc nói cách khác, nghiên cứu khoa học là lao 24 động tạo ra cái mới nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới"1. Như vậy, bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới. 1.2. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học: Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới không chỉ nhằm nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới và một khoa học đích thực là khoa học luôn vì cuộc sống của con người. Chủ thể của nghiên cứu khoa học là nhà khoa học (cá nhân và tập thể). Phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp nhận thức thế giới (quan điểm tiếp cận, quy trình, thao tác cụ thể tác động vào đối tượng, công cụ đặc biệt,...). Sản phẩm nghiên cứu khoa học là hệ thống thông tin mới và giải pháp cải tạo thế giới. Nhiều ý tưởng khoa học tiên tiến đi trước thời đại còn có vai trò dẫn dắt sự phát triển thực tiễn. Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, bổ sung, hoàn thiện,... Giá trị của khoa học nằm ở tính thông tin, tính ứng dụng, khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Thông tin phải khách quan, tin cậy, có thể kiểm chứng. ___________ 1. PGS.TS. Nguyễn Phương Bình, ThS. Nguyễn Tử Lương (biên soạn): Giáo trình một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao, Hà Nội, 2002, Học viện quan hệ quốc tế xuất bản nội bộ, tr.14-15. 25 Quy trình nghiên cứu khoa học phức tạp, mâu thuẫn, luôn có những xu hướng, trường phái, giả thuyết, dự báo trái ngược nhau. Trong nghiên cứu khoa học, yếu tố mạo hiểm, thất bại, thành công, rủi ro... đều có thể xảy ra và khó hạch toán kinh tế. 2. Chức năng của nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học có các chức năng sau đây: 2.1. Mô tả: Trình bày kết quả nghiên cứu một sự kiện hay một hiện tượng khoa học sao cho đối tượng nghiên cứu được thể hiện đến mức độ nguyên bản tối đa. Tri thức mô tả thu được qua quan sát, điều tra. Mô tả là biện pháp quan trọng, giúp cho việc giải thích. 2.2. Giải thích: Trình bày một cách tường minh bản chất của đối tượng nghiên cứu, chỉ ra các đối tượng ấy đã tuân thủ một phần hay toàn bộ các quy luật chung của sự phát triển hiện thực. Khoa học không chỉ phản ánh trung thực các sự kiện, hiện tượng của hiện thực khách quan mà còn chỉ ra nguồn gốc phát sinh, phát triển, mối quan hệ của sự vật, hiện tượng với các sự vật và hiện tượng khác, với môi trường xung quanh, điều kiện, nguyên nhân, hệ quả đã hoặc sẽ xảy ra. Để giải thích được cần có tài liệu đầy đủ, chính xác, rõ ràng, lập luận chặt chẽ về đối tượng. Giải thích chính xác đến đâu còn phụ thuộc vào năng lực của nhà nghiên cứu và mức độ bộc lộ của đối tượng. 2.3. Phát hiện: Khám phá bản chất, quy luật vận động, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Phát hiện đồng nghĩa với phát minh, với quá trình sáng tạo ra chân lý 26 mới, làm phong phú thêm tri thức của nhân loại. Phát hiện khoa học là trình độ nhận thức sáng tạo cao nhất của con người. Kết quả là tìm ra các khái niệm, phạm trù, lý thuyết, học thuyết, quy trình công nghệ mới,... Đó là những tri thức có giá trị đối với lý luận và thực tiễn. 3. Các loại hình nghiên cứu khoa học Hiện nay, có hai cách phân loại nghiên cứu khoa học: theo chức năng nghiên cứu và theo tính chất sản phẩm nghiên cứu. 3.1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu i) Nghiên cứu giải thích là nghiên cứu nguyên nhân hình thành sự vật, hiện tượng và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Giải thích nguồn gốc, động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả và quy luật quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. ii) Nghiên cứu mô tả nhằm đưa ra hệ thống tri thức về nhận dạng sự vật, hiện tượng, phân biệt sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Cần mô tả hình thái, động thái, các đặc trưng về định tính, định lượng của sự vật, hiện tượng. iii) Nghiên cứu dự báo nhằm nhận dạng sự vật, hiện tượng trong tương lai. Dự báo có thể đúng, có thể sai. Nếu đúng 50-70% là khả quan. Dự báo sai lệch do nhiều nguyên nhân, khách quan cũng như chủ quan, nhất là khách quan như kết quả quan sát, luận cứ bị biến dạng do tác động của các sự kiện khác, biến động của môi trường. Ví dụ dự báo trật tự thế giới giữa thế kỷ XXI, sẽ là trật tự 27 hai cực hay đơn cực hoặc đa cực. Dự báo việc Trung Quốc thực hiện giấc mộng Trung Hoa đến giữa thế kỷ XXI, khi Trung Quốc kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa... iv) Nghiên cứu sáng tạo là nghiên cứu tạo ra một sự vật mới, chưa từng tồn tại cho đến lúc đó. 3.2. Phân loại theo tính chất sản phẩm nghiên cứu Phân loại theo tính chất sản phẩm cũng chính là căn cứ vào mục đích nghiên cứu. Theo tiêu chí này, chúng ta có các loại hình nghiên cứu sau đây: i) Nghiên cứu cơ bản là loại hình nghiên cứu nhằm tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới cho nhân loại. Tri thức cơ bản là tri thức nền tảng cho mọi quá trình nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo. Nghiên cứu cơ bản nhằm phát hiện động thái, thuộc tính, cấu trúc, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng; những hướng đi lớn (nghiên cứu nguồn gốc của sự sống, nghiên cứu lịch sử, xu thế, đặc điểm quan hệ quốc tế thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, nghiên cứu trật tự thế giới, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ bản về các tổ chức, diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC,... nghiên cứu mô hình kinh tế, nghiên cứu vật lý, hóa học, nghiên cứu tìm ra loại nguyên liệu mới, tìm ra những công cụ toán học mới, v.v). Kết quả nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát hiện, phát minh dẫn đến hình thành một hệ thống lý luận có giá trị tổng quát. Nghiên cứu cơ bản luôn cần và đi trước các loại hình nghiên cứu khác. 28 Có hai loại nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu cơ bản thuần túy là nghiên cứu phát hiện ra tri thức mới, những lý thuyết mới dù chưa có địa chỉ ứng dụng và nghiên cứu cơ bản định hướng, là nghiên cứu nhằm tìm ra tri thức mới, giải pháp mới đã có địa chỉ ứng dụng. ii) Nghiên cứu ứng dụng là loại hình nghiên cứu mục tiêu, vận dụng những tri thức cơ bản để tạo ra quy trình công nghệ mới, nguyên lý mới trong quản lý kinh tế - xã hội. Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng quy luật đã phát hiện để giải thích một sự vật, hiện tượng, tạo ra những nguyên lý về các giải pháp và đưa các giải pháp đó áp dụng vào cuộc sống và sản xuất. Không có tính ứng dụng thì mọi nghiên cứu khoa học đều không có ý nghĩa. Tuy nhiên, nhiều kết quả ứng dụng vẫn ở trong phòng thí nghiệm, còn một khoảng cách khá xa để đến được với xã hội bởi tính kinh tế, tính thuận tiện, tính địa phương cũng như khả năng sản xuất hàng loạt chưa cho phép. Để đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sản xuất và đời sống phải tiến hành nghiên cứu triển khai. iii) Nghiên cứu triển khai là loại hình nghiên cứu có mục tiêu, tìm khả năng áp dụng đại trà các nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống xã hội. Ðây mới là ý nghĩa chính của khoa học, là sự vận dụng các quy luật có được từ nghiên cứu cơ bản và vận dụng các nguyên lý thu được từ nghiên cứu ứng dụng để đưa ra các mẫu hình với những tham số khả thi về kỹ thuật. Khi triển khai, người ta thường chia làm hai giai đoạn: 29 Giai đoạn thứ nhất, triển khai trong phòng thí nghiệm, labo công nghệ, xưởng thực nghiệm hay nhà kính đối với nghiên cứu nông nghiệp,... Giai đoạn thứ hai, triển khai đại trà nhằm kiểm chứng giả thuyết về hình mẫu trên một quy mô nhất định. Nghiên cứu triển khai được áp dụng trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật cũng như khoa học xã hội. Thí dụ, nghiên cứu triển khai về thí nghiệm một phương pháp dạy học, nhất là học ngoại ngữ hay áp dụng một mô hình mới,... Ví dụ: Nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan đại diện gọn, nhỏ, hiệu quả thì nhà lý luận tổ chức nghiên cứu các vấn đề tổ chức bộ máy cơ quan đại diện Việt Nam trong lịch sử, kinh nghiệm của các nước. Đây là nghiên cứu cơ bản. Các nhà lý luận tổ chức, thực hiện thí điểm một số cơ quan đại diện gọn, nhỏ tại các địa bàn khác nhau trên thế giới với hoàn cảnh, điều kiện không giống nhau,... Đây là nghiên cứu ứng dụng. Các nhà lý luận tổ chức, đánh giá mô hình cơ quan đại diện gọn, nhỏ. Nếu được đánh giá là mô hình hiệu quả thì sẽ triển khai mô hình ra toàn thế giới. Đây là nghiên cứu triển khai. iv) Nghiên cứu dự báo là phát hiện những khả năng, xu hướng mới, triển vọng của sự vật, hiện tượng. Dự báo quốc gia dựa trên kết quả phân tích, tổng hợp số lượng lớn các thông tin khách quan, đồng thời dựa vào nhu cầu và khả năng phát triển xã hội hiện đại. Nghiên cứu dự báo có ba cấp: 30 Cấp 1: Dự báo cho 15-20 năm; Cấp 2: Dự báo cho 40-50 năm; Cấp 3: Dự báo cho một thế kỷ. Tuy nhiên, trên thực tế, các dự báo của chúng ta cho đến nay thường là dự báo ngắn. Ví dụ dự báo 5-10 năm hoặc 20 năm; chuẩn bị Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, chúng ta xây dựng Dự báo kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2045. 4. Đề tài nghiên cứu khoa học 4.1. Khái niệm đề tài Đề tài nghiên cứu khoa học là một vấn đề khoa học có chứa nội dung thông tin chưa biết, cần phải nghiên cứu, làm sáng tỏ. Vấn đề khoa học, về bản chất là một sự kiện, hiện tượng mới phát hiện mà khoa học chưa biết, là một sự thiếu hụt của lý thuyết hay mâu thuẫn của thực tiễn đang cản trở bước tiến của con người, mà kiến thức cũ, kinh nghiệm cũ không giải thích được, đòi hỏi các nhà khoa học làm rõ. Như vậy "đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với lý luận hay thực tiễn. Đề tài phải có tính mới mẻ, giải quyết được vấn đề sẽ làm cho khoa học phát triển, sẽ bổ sung cho kho tàng tri thức nhân loại những thông tin mới. Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài"1. Đề tài là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học do một người hoặc một nhóm người thực hiện. ___________ 1. Phạm Viết Vượng: Phương pháp nghiên cứu khoa học, Sđd, tr.106. 31 4.2. Các loại đề tài nghiên cứu khoa học Đề tài nghiên cứu khoa học rất đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung, với các cấp quản lý khác nhau. Theo loại hình nghiên cứu khoa học, có đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai, nghiên cứu dự báo và trong nghiên cứu ngoại giao có đề tài nghiên cứu động thái. Theo tính chất có đề tài lý thuyết, đề tài thực nghiệm, đề tài kết hợp. Theo trình độ đào tạo có: khóa luận của cử nhân, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Khóa luận cử nhân là kết quả học tập của sinh viên trong quá trình đào tạo tại trường đại học, tập dượt để trở thành nhà khoa học. Đó là cơ sở quan trọng để nhà trường công nhận tốt nghiệp. Tuy nhiên, có những khóa luận xuất sắc có thể nâng lên thành luận văn thạc sĩ hay luận án tiến sĩ. Luận văn thạc sĩ là công trình khoa học có giá trị thực tiễn. Luận văn thường hướng vào giải quyết một vấn đề thực tiễn của ngành. Luận văn thạc sĩ là một bước để tiếp tục bậc học tiến sĩ. Luận án tiến sĩ là công trình nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh. Kết quả nghiên cứu là đóng góp mới, có giá trị khoa học và thực tiễn. Theo cấp độ quản lý có đề tài cấp cơ sở; cấp bộ, cấp tỉnh, thành phố và chương trình khoa học công nghệ quốc gia với nhiều nhánh, gồm nhiều đề tài cấp nhà nước. Đề tài cấp nhà nước có thể là đề tài độc lập. 32 III. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NGÀNH NGOẠI GIAO Theo Nghị định số 26-NĐ/CP của Chính phủ ngày 14/3/2017 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao, trong nghiên cứu khoa học, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm: "Chủ trì nghiên cứu, tổng hợp, đề xuất các vấn đề có tính dự báo, chiến lược liên quan đến tình hình thế giới, quan hệ quốc tế, luật pháp quốc tế, quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Nam và các lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao"1. Căn cứ vào phân loại nghiên cứu chung và xuất phát từ đặc thù của ngành, có thể chia nghiên cứu ngoại giao thành năm loại hình chủ yếu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu động thái, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu xu thế (dự báo) và nghiên cứu nghiệp vụ2. 1. Nghiên cứu cơ bản Là thu thập, xử lý thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến quốc gia, tổ chức quốc tế, vấn đề quốc tế lớn và nhân vật liên quan. Ví dụ nghiên cứu về quốc gia, trước hết, phải nghiên cứu vị trí địa lý (diện tích, dân số, địa hình, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, giao thông, v.v.) để ___________ 1. Thuvienphapluat.vn 2. Vũ Khoan: Vài ngón nghề ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 25. 33 từ đó làm rõ vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế của nước đó, thấy được những thuận lợi, khó khăn tác động đến đảm bảo an ninh - quốc phòng và phát triển kinh tế, cũng như quan hệ quốc tế. Tiếp đó, phải nghiên cứu chế độ chính trị như chế độ cộng hòa hay quân chủ, đại nghị hay cộng hòa tổng thống. Đồng thời, phải nghiên cứu sâu quan hệ giữa các nhánh quyền lực, luật lệ, cơ chế vận hành của bộ máy chính quyền. Đặc biệt, lưu ý cơ chế hoạch định chính sách đối ngoại - an ninh đối ngoại,... Về kinh tế, phân tích vị thế địa - kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, thể chế và chính sách kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại, thuế quan,... Về lịch sử, cần phải nghiên cứu kỹ các sự kiện lớn, những mốc quan trọng trong lịch sử của quốc gia đó liên quan đến bước chuyển chiến lược, trong đó có chiến lược đối ngoại, chiến lược ngoại giao. Về văn hóa, cần quan tâm tìm hiểu truyền thống văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc để từ đó hiểu cách ứng xử của dân tộc đó trong quan hệ quốc tế và cách thức đàm phán. Đồng thời, phải nghiên cứu về khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh,... Một nội dung quan trọng khi nghiên cứu một quốc gia là phải nghiên cứu kỹ, sâu quan hệ giữa Việt Nam và quốc gia đó, nhất là quan hệ trong giai đoạn gần đây về chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, giao lưu nhân dân,... 34 2. Nghiên cứu chiến lược “Chiến lược là nghệ thuật xác định mục tiêu, sắp xếp, quy tụ lực lượng và đề ra giải pháp nhằm đạt đến một mục đích nhất định bằng con đường có lợi nhất, tạo ra trạng thái phát triển mới của một lĩnh vực (chiến lược chuyên ngành), toàn xã hội (chiến lược quốc gia) hoặc toàn thế giới (chiến lược toàn cầu) trong một thời kỳ nhất định”1. Từ “chiến lược” lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Nghĩa gốc của từ đó là thống soái, chỉ huy quân đội. Từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khái niệm chiến lược mới được coi là khoa học và nghệ thuật sử dụng các nguồn lực để giành mục tiêu chiến tranh. Ngày nay, khái niệm chiến lược được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau. Chiến lược là kế hoạch tổng thể gồm bốn đặc trưng: dài về thời gian, rộng về phạm vi, cao về tầm vóc và đa dạng về lĩnh vực. Thí dụ: về thời gian, ngắn nhất đối với chiến lược cũng là từ 5 - 10 năm, còn dài là chiến lược tầm nhìn. Thí dụ: chiến lược giấc mộng Trung Hoa của Trung Quốc đến năm 2049 được chia làm hai giai đoạn: 2012- 2035 và 2035-2049. Ngoài chiến lược, người ta còn sử dụng khái niệm “đại chiến lược” hay “chiến lược lớn”. ___________ 1. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.150. 35 Đại chiến lược là một khái niệm thường được các học giả quan hệ quốc tế và chiến lược gia quân sự dùng để chỉ một tổ hợp các nguyên tắc và quan điểm mang tính định hướng chính sách đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia1. Nội dung cơ bản của nghiên cứu chiến lược là: i) Tìm hiểu bối cảnh quốc tế và trong nước của chiến lược. Đó là nhân tố nền tảng hình thành chiến lược; ii) Xác định mục tiêu chiến lược, chính là lợi ích quốc gia - dân tộc. Thông thường, chiến lược có nhiều mục tiêu, song cần xác định mục tiêu nào là chính, mục tiêu nào là phụ. Ngoài ra, phải lưu ý có mục tiêu công khai, có mục tiêu bí mật. Phải phân tích phán đoán tìm ra mục tiêu thật sự; iii) Có chiến lược có nhiều nhánh, nhất là đại chiến lược có các chiến lược thành phần. Phải xác định các chiến lược thành phần và mục tiêu của chúng; tìm hiểu các phương hướng chiến lược; iv) Tìm hiểu, sắp xếp lực lượng trong chiến lược; ai là đồng minh, ai là chính, ai là phụ, ai là đối thủ, đối thủ chính, phụ; v) Các công cụ, thủ đoạn, mưu kế sách lược; nguồn lực thực hiện chiến lược,... Nghiên cứu chiến lược là trọng tâm nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã lập Tiểu ban Việt Nam để nghiên cứu các vấn đề chiến lược phục vụ đàm phán Paris. Những năm 80, đã nghiên cứu chiến lược quốc tế Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô, Nhật, ___________ 1. Nghiencuuquocte.net, ngày 04/3/2017. 36 gần đây đã nghiên cứu để xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, chiến lược ngoại giao văn hóa, và đặc biệt là chiến lược đối ngoại của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 3. Nghiên cứu dự báo Vận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu động thái để xác định chiều hướng phát triển của sự kiện, đồng thời đề ra các giải pháp ứng phó. Người ta còn gọi loại hình nghiên cứu này là “nghiên cứu để nghiên cứu”1. Nghiên cứu dự báo đưa ra những vấn đề mới, định hướng mới cho nghiên cứu khoa học. Các phương thức dự báo: dự báo trên cơ sở nghiên cứu lôgích phát triển nội tại của chính vấn đề sự kiện; dự báo trên cơ sở phân tích nguyên nhân, tác động và sự tương tác giữa các vấn đề, sự kiện; dự báo từ sự đòi hỏi của tình hình đất nước, tình hình quốc tế và khu vực có tác động qua lại lẫn nhau. Dự báo thường thông qua phương pháp đưa ra các kịch bản. Để lựa chọn kịch bản tối ưu có thể sử dụng phương pháp SWOT; tìm điểm mạnh (trengths); điểm yếu (weaknesses); cơ hội (opportunities) và thách thức (threats) trong mỗi kịch bản. Từ đó, xác định kịch bản nào có khả năng xảy ra nhất. Ngoài ra, có thể dự báo các vấn ___________ 1. Học viện Quan hệ quốc tế: Giáo trình một số vấn đề cơ bản của nghiệp vụ ngoại giao, Sđd, tr.46. 37 đề quốc tế bằng phương pháp chuyên gia, phương pháp Delphi1. Phương pháp Delphi là kỹ thuật thông tin liên lạc có cấu trúc, có nguồn gốc từ phương pháp dự đoán đối xứng và dự báo tương tác dựa trên bảng trả lời câu hỏi của các chuyên gia. Các chuyên gia sẽ được khảo sát ý kiến một cách độc lập cũng như không biết ai trả lời thế nào. 4. Nghiên cứu nghiệp vụ ngoại giao Công tác ngoại giao có rất nhiều nghiệp vụ như: luật pháp quốc tế, lãnh sự, báo chí, lễ tân, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa,... Nhiều nghiệp vụ đã thể hiện trong các điều ước và thông lệ quốc tế. Cán bộ ngoại giao phải nghiên cứu, nắm chắc các luật lệ và vận dụng sáng tạo các luật lệ, bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời đóng góp phát triển các luật lệ tại các hội nghị và diễn đàn quốc tế. Nghiên cứu nghiệp vụ vô cùng quan trọng. Ví dụ: lễ tân ngoại giao. Lễ tân ngoại giao là nghiệp vụ cụ thể, gồm các thủ tục, hình thức, nghi lễ trong hoạt động đối ngoại. Lễ tân ngoại giao không phải là nội dung chủ yếu của hoạt động ngoại giao nhưng rất quan trọng, cần thiết, ___________ 1. Delphi là thánh địa nằm ở sườn núi Parnassus, Hy Lạp, nơi đây có một số nhà tiên tri giỏi. Năm 1969, khi nghiên cứu dự báo nền kinh tế - xã hội Hoa Kỳ tới năm 2000. O. Helmer và D. Gordon đã sử dụng phương pháp điều tra hỏi ý kiến về triển vọng nền kinh tế Hoa Kỳ. Các ông đặt tên phương pháp này là phương pháp Delphi. 38 không thể thiếu trong hoạt động ngoại giao. Có hoạt động ngoại giao là có lễ tân ngoại giao, đó là những nghi thức trong việc đón, tiễn và giao tiếp với khách quốc tế. Nhiều tập quán và lễ tân ngoại giao được hình thành qua một quá trình lâu dài trong quan hệ quốc tế. Nhiều quy định đã được cải tiến và hoàn chỉnh thông qua các hội nghị quốc tế. Lễ tân ngoại giao là một bộ phận cấu thành của hoạt động đối ngoại, xuất phát từ đường lối đối ngoại, thể hiện và phục vụ đường lối đối ngoại của một quốc gia. Lễ tân ngoại giao không chỉ là lễ tiết, nghi thức mà còn là nghệ thuật lôi cuốn tình cảm của khách nước ngoài. Lễ tân ngoại giao là công tác phức tạp, quan trọng, tế nhị. Do vậy, cần vận dụng mọi hình thức thủ tục lễ tân sao cho phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước mà không trái với các quy định của lễ tân quốc tế. Cán bộ ngoại giao phải nắm chắc các quy định của Luật ngoại giao, lãnh sự và tập quán quốc tế để vận dụng linh hoạt, uyển chuyển, sáng tạo trong công tác lễ tân của quốc gia mình, đồng thời góp phần phát triển các nguyên tắc đó tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế. Lễ tân ngoại giao là sự vận dụng tổng hợp toàn bộ các quy định, tập quán lễ tân quốc gia và quốc tế được công nhận trong giao tiếp quốc tế và hoạt động đối ngoại, phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước. Nghiên cứu những vấn đề lãnh sự, công tác báo chí, ngoại giao văn hóa, công tác thông tin đối ngoại,... cũng là nghiên cứu nghiệp vụ rất quan trọng của ngoại giao. 39 5. Nghiên cứu động thái Trong nghiên cứu ngoại giao, loại hình nghiên cứu động thái là sự kết hợp giữa nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Đây là loại hình nghiên cứu rất đặc thù của ngoại giao. Nghiên cứu động thái là "tìm hiểu, nắm bắt những sự kiện diễn ra hằng ngày trong quan hệ quốc tế, hoạt động đối ngoại, chính sách đối nội, đối ngoại của nước mình cũng như của các nước, tổ chức quốc tế, các khu vực và trên thế giới, kể cả các tổ chức phi chính phủ có tác động đến các quan hệ đối nội, đối ngoại của nước mình, của khu vực và thế giới, nhằm đề ra kế hoạch xử lý hằng ngày, biện pháp đối sách trước mắt, tích lũy kinh nghiệm và triển khai thực hiện giải quyết các vấn đề nảy sinh"1. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nêu khái niệm ngắn gọn về nghiên cứu động thái là "thu thập và xử lý thông tin về những sự kiện quốc tế diễn ra thường xuyên để hiểu rõ bản chất, nguồn gốc của chúng, làm căn cứ đề xuất chủ trương ứng phó"2. Sự khác nhau của hai khái niệm này là ở chỗ, các sự kiện của nước mình có là đối tượng của nghiên cứu động thái không? Các tác giả của Giáo trình Một số vấn đề cơ bản của nghiệp vụ ngoại giao thì cho rằng các sự kiện của nước mình cũng là đối tượng nghiên cứu động thái, còn tác giả Vũ Khoan thì không. Đúng là nhiều sự kiện diễn ra trong nước đương nhiên ___________ 1. Học viện Quan hệ quốc tế: Giáo trình Một số vấn đề cơ bản của nghiệp vụ ngoại giao, Sđd, tr.44. 2. Vũ Khoan: Vài ngón nghề ngoại giao, Sđd, tr.30. 40 cũng là sự kiện quốc tế, ngành ngoại giao chỉ nghiên cứu phản ứng của thế giới và khu vực đối với sự kiện đó, tác động của sự kiện đối với thế giới và khu vực, nghĩa là xem các nước đánh giá sự kiện đó như thế nào? Thí dụ: chúng ta cần nghiên cứu phản ứng của thế giới và khu vực đối với các sự kiện diễn ra ở Việt Nam như Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 01/2016), Hội nghị cấp cao APEC-2017 tại Đà Nẵng (tháng 11/2017), Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (tháng 9/2018),... Nghiên cứu động thái cần phải trả lời các câu hỏi như diễn biến của sự kiện (sự kiện xảy ra ở đâu, khi nào); nguyên nhân dẫn đến sự kiện (nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trước mắt); tác động của sự kiện đối với nước sở tại, đối với khu vực và quốc tế; phản ứng của dư luận quốc tế đối với sự kiện. Đồng thời, phải làm rõ bản chất của sự kiện, xu hướng (triển vọng) phát triển của sự kiện. Đặc biệt, tác động của sự kiện đối với nước ta và kiến nghị đối sách... Nghiên cứu động thái được triển khai ở cả các cơ quan đại diện nước ta ở nước ngoài cũng như tại các đơn vị của Bộ Ngoại giao ở trong nước. Các loại hình nghiên cứu của ngoại giao đều có quan hệ biện chứng với nhau. Nghiên cứu cơ bản là nền tảng cho các loại hình nghiên cứu còn lại, là cơ sở cho nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu dự báo và nghiên cứu động thái. Nghiên cứu cơ bản có vai trò chi phối bởi tính quy luật, giúp nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu dự báo và 41 nghiên cứu động thái đi đúng hướng, chính xác và nhạy bén. Ngược lại, nghiên cứu động thái cung cấp cho nghiên cứu cơ bản các dữ liệu, hiện tượng và sự kiện thực tế để phân tích, chứng minh và so sánh. Nghiên cứu chiến lược làm sâu sắc hơn nghiên cứu cơ bản, còn nghiên cứu dự báo lại vạch ra những vấn đề mới cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu dự báo là sự vận dụng kết quả, là sự tiếp tục các loại hình nghiên cứu khác. Tính chính xác và kịp thời của nghiên cứu dự báo phụ thuộc vào kết quả của nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu động thái. Ví dụ: muốn dự báo chính xác chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam Á đến năm 2035 chỉ có thể dựa trên cơ sở nghiên cứu toàn diện hệ thống chính sách đối ngoại của Trung Quốc nói chung và chính sách đối với khu vực Đông Nam Á nói riêng. Ngoài ra, còn theo dõi những hoạt động triển khai chính sách trong thực tiễn,... Trong tổng thể quá trình này, công tác nghiên cứu tài liệu đóng vai trò rất quan trọng. Đó không phải là công việc chỉ làm một lần hay chỉ là một quá trình đơn tuyến, mà được lặp đi lặp lại nhiều lần, với nhiều mức độ và mục đích khác nhau. Khi mới bắt đầu, công tác nghiên cứu tài liệu giúp lựa chọn đề tài, đánh giá phạm vi các nguồn tài nguyên hỗ trợ, đặt vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, công tác nghiên cứu tài liệu giúp củng cố các luận cứ, luận chứng, bổ sung các đánh giá phê bình khoa học. Khi kết thúc nghiên cứu: 42 giúp tạo hình mẫu, tiêu chuẩn để soạn thảo và trình bày kết quả nghiên cứu. Không có quy tắc tuyệt đối trong mọi trường hợp. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có những quy tắc cần tuân theo. Cách tốt nhất là đọc nhiều, tìm hiểu nhiều để biết được những quy tắc cùng tồn tại song song, xen kẽ, có những mối liên hệ, ràng buộc nhau, để có thể đưa ra được sự lựa chọn phù hợp nhất trong từng hoàn cảnh, từng tình huống thực tế. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học 1.1. Khái niệm “Phương pháp là công cụ, giải pháp, cách thức, thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công nghệ để thực hiện công việc nghiên cứu khoa học"1. Phương pháp nghiên cứu khoa học không chỉ là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn vì chính phương pháp quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp là một trong những vấn đề quan trọng nhất của bất kỳ khoa học nào, bởi vì nghiên cứu khoa học suy cho cùng là để thu được nhận thức mới và vận dụng nhận thức đó trong hoạt động thực tiễn. Đây cũng là vấn đề ___________ 1. P.A. Sugancov: Quan hệ quốc tế, Nxb. Novaia Skola, Mátxcơva, 1996, tr.74 (tiếng Nga). 43 phức tạp hàng đầu khi chuẩn bị nghiên cứu và là kết quả của chính công tác nghiên cứu. Ngay từ khi phân tích, phân loại và đánh giá tài liệu, nhà nghiên cứu đã cần đến phương pháp nghiên cứu. Bản chất của nghiên cứu khoa học là từ những hiện tượng, sự kiện để tìm ra các quy luật của chúng. Nhưng bản chất không bao giờ dễ dàng lộ ra, vì vậy, nhận thức được bản chất và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp chính là sản phẩm của nhận thức đúng quy luật đối tượng nghiên cứu. Đến lượt mình, phương pháp là công cụ hiệu quả để tiếp tục nhận thức sâu hơn và cải tạo tốt hơn đối tượng nghiên cứu. Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp chính là cách thức để nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo. 1.2. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào đối tượng cụ thể. Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có tính chủ quan. Tính chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu và sử dụng chúng để khám phá đối tượng nghiên cứu. 44 Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và luôn xuất phát từ đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng và như vậy phương pháp có tính khách quan. Tính khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu chỉ ra cách chọn phương pháp làm việc. Trong nghiên cứu khoa học, chủ quan phải tuân thủ khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới. Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại, nếu lựa chọn phương pháp nghiên cứu đúng đắn, phù hợp sẽ dễ dàng và nhanh chóng đạt được mục đích nghiên cứu hơn. Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung cũng quy định phương pháp. Trong mỗi đề tài nghiên cứu khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học đều có hệ thống phương pháp riêng. Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt. Đó là hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu khoa học chính là phát hiện được hay không lôgích tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. 45 Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn có các công cụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại hỗ trợ. Phương tiện và phương pháp gắn kết chặt chẽ với nhau. Người ta căn cứ vào đối tượng nghiên cứu, để chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu để chọn phương tiện phù hợp... Phương tiện kỹ thuật hiện đại giúp đảm bảo các quá trình nghiên cứu đạt được độ chính xác cao. 1.3. Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học Hệ thống phương pháp nghiên cứu khoa học phong phú và phức tạp. Để tiện áp dụng trong thực tế, người ta có một số cách phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: Dựa vào lĩnh vực áp dụng, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia thành: phương pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học; phương pháp chung dùng cho một số ngành và phương pháp đặc thù chỉ dùng cho một lĩnh vực cụ thể. Dựa vào việc vận dụng công nghệ thông tin, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia thành: nhóm phương pháp thu thập thông tin, nhóm phương pháp xử lý thông tin và nhóm phương pháp trình bày thông tin. Dựa vào tính chất và trình độ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia thành: nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương pháp giải thích và nhóm phương pháp sáng tạo. 46 Dựa vào trình độ nhận thức khoa học và cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia thành: nhóm phương pháp thực tiễn và nhóm phương pháp lý thuyết. Ngoài ra, còn có thể chia phương pháp nghiên cứu khoa học thành: nhóm phương pháp thực nghiệm và phi thực nghiệm,... Tuy nhiên, việc phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học chỉ là tương đối. 2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học 2.1. Khái niệm Phương pháp nghiên cứu khoa học liên quan đến ba vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau: phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu cụ thể và lôgích tiến trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp luận là "lý luận về các phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo hiện thực; hệ thống các nguyên tắc, biện pháp vận dụng các nguyên lý, lý luận vào việc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong một ngành khoa học nào đó,... Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất, áp dụng cho mọi bộ môn khoa học là phương pháp luận triết học. Phương pháp biện chứng duy vật..."1. Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận ___________ 1. Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2003, t.3, tr.521. 47 nên thường mang màu sắc triết học, song không đồng nghĩa với triết học. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là vận dụng các quan điểm triết học để tiếp cận và nhận thức thế giới khách quan. Phương pháp luận là một hệ thống với ba cấp độ: i) Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là nền tảng tư tưởng cho mọi tư tưởng học thuật, chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức với tất cả lĩnh vực khoa học. Quan điểm duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận chung và chuyên ngành. ii) Quan điểm phương pháp luận chung cho một số lĩnh vực khoa học như khoa học xã hội và nhân văn. iii) Quan điểm phương pháp luận riêng cho một bộ môn, chuyên ngành như phương pháp luận sử học, luật học, kinh tế học, quan hệ quốc tế,... Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có hai cách tiếp cận khác nhau dưới góc độ phương pháp luận. Khoa học tự nhiên là khoa học thực nghiệm nên cách nghiên cứu thường quy nạp, đi từ các sự kiện cụ thể, rồi khái quát thành lý luận. Khoa học xã hội là khoa học thực chứng. Khi nghiên cứu phải tích lũy nhiều sự kiện phong phú, đa dạng để từ đó khái quát, hệ thống hóa và rút ra quy luật chung. Giải thích sự kiện phải tuân theo quan điểm nhất quán, nghĩa là triết học. Đối với khoa học xã hội, "nhu cầu phương pháp luận là nhu cầu thường xuyên, nó đi bước trước khi bắt tay vào thao tác nghiên cứu cụ thể"1. ___________ 1. Phạm Viết Vượng: Phương pháp nghiên cứu khoa học, Sđd, tr. 65. 48 2.2. Các quan điểm phương pháp luận chung cho nghiên cứu khoa học i) Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên nền tảng thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa quan điểm duy vật và phép biện chứng trong nhìn nhận thế giới. Thế giới quan khác nhau dẫn đến các phương pháp luận khác nhau. Phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản, là cơ sở lý luận, phương pháp nhận thức thế giới. Phép duy vật biện chứng duy vật là cơ sở chung của tất cả nhận thức khoa học. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của thế giới chỉ ra tính vô hạn của thế giới và tính hữu hạn của sự kiện, hiện tượng cùng mối liên hệ phức tạp giữa chúng. Nguyên lý đòi hỏi quán triệt tính hệ thống, toàn diện trong nghiên cứu. Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi không ngừng và có xu hướng phát triển. Nghiên cứu khoa học đòi hỏi xem xét sự kiện, hiện tượng trong trạng thái vận động, phát triển và biển đổi không ngừng. Ba quy luật: thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, phủ định của phủ định và biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất nhắc nghiên cứu khoa học phải theo quan điểm toàn diện, phát triển của lịch sử để tìm nguồn gốc, động lực, con đường và xu thế phát triển của sự vật, sự kiện và hiện tượng. 49 Sáu cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, nội dung và hình thức, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực, bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc của sự vật, hiện tượng của thế giới. Như vậy, nghiên cứu khoa học là phải đứng trên lập trường duy vật biện chứng và vận dụng 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù vào trong quá trình nghiên cứu. ii) Quan điểm hệ thống - cấu trúc trong nghiên cứu khoa học Quan điểm hệ thống - cấu trúc là một luận điểm rất quan trọng trong phương pháp luận nhận thức. Hệ thống bao giờ cũng có cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố lại có cấu trúc nhỏ hơn. Hệ thống nhỏ nằm trong hệ thống lớn. Đó là môi trường. Môi trường và hệ thống có quan hệ biện chứng. Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể ổn định và vận động theo quy luật tổng hợp. Thành tố là một bộ phận của hệ thống, có tính xác định về chất, có chức năng riêng. Các thành tố có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo thành một thể thống nhất. Tính chỉnh thể là tính cơ bản nhất của hệ thống. Các đối tượng mà chúng ta nghiên cứu tồn tại ở các trình độ khác nhau (đơn giản hay phức tạp), song đều là một hệ thống. Tính hệ thống là thuộc tính quan trọng của thế giới, là thông số quan trọng để đánh giá trình độ của hệ thống. 50 Tính hệ thống là công cụ phương pháp luận, bởi vì nghiên cứu đầy đủ các thuộc tính và quy luật của hệ thống là cơ sở xây dựng quy trình nhận thức cho mọi đối tượng phức tạp. Tính hệ thống có giá trị thực tiễn vì có thể vận dụng vào sản xuất, nghiên cứu khoa học,... Quan điểm hệ thống - cấu trúc là luận điểm phương pháp luận quan trọng, yêu cầu xem xét đối tượng toàn diện trong nhiều mối quan hệ trong sự vận động, phát triển, trong hoàn cảnh cụ thể để tìm bản chất và các quy luật vận động của đối tượng. Bản chất quan hệ hệ thống - cấu trúc thể hiện: - Nghiên cứu các vấn đề phức tạp phải xem xét toàn diện, nghiên cứu kỹ từng bộ phận, tìm ra tính hệ thống của chúng. - Nghiên cứu đầy đủ các mối quan hệ giữa các thành tố, tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống. - Nghiên cứu quan hệ của đối tượng với môi trường, tìm ra quan hệ chi phối, tính quy định của môi trường và phát triển các điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. iii) Quan điểm lịch sử - lôgích Là quan điểm quan trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Quan điểm này đòi hỏi phải nghiên cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phải tìm hiểu nguồn gốc nảy sinh, quá trình diễn biến của sự vật, hiện tượng trong không gian hoàn cảnh cụ thể. Lịch sử và lôgích là hai phạm trù thống nhất với nhau. Nghiên cứu phải từ lịch sử đi đến phát hiện điều tất yếu của lịch sử. 51 Đó chính là tất yếu khách quan của sự phát triển lịch sử. Thực hiện quan điểm này giúp nhà nghiên cứu nhìn nhận được toàn bộ đối tượng nghiên cứu từ phát sinh, phát triển đến kết thúc. Đồng thời, giúp phát hiện bản chất, quy luật phát triển tất yếu của đối tượng. Đảm bảo quan điểm lịch sử lôgích trong nghiên cứu khoa học cũng chính là tôn trọng lịch sử khách quan, điều kiện của mọi diễn biến của đối tượng, phát hiện các quy luật phát triển của sự thật lịch sử. iv) Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính lịch sử - xã hội. Diễn biến của hiện thực là khách quan, phức tạp, nhiều khuynh hướng, mâu thuẫn nhau. Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm ra phương pháp tốt nhất để cải tạo thực tiễn, phục vụ con người. Thực tiễn vừa là nguồn gốc, động lực, vừa là mục tiêu, tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu khoa học. Quan điểm thực tiễn yêu cầu nghiên cứu khoa học phải: - Phát hiện những mâu thuẫn, khó khăn, trì trệ, yếu kém, lựa chọn những vấn đề cấp thiết để nghiên cứu. - Phân tích, làm rõ bản chất các vấn đề. Thực tiễn là minh chứng cho lý thuyết, làm lý thuyết sinh động. Thông tin từ thực tiễn trở thành lý thuyết khi biết khái quát, tìm ra quy luật phát triển của thực tiễn. - Lý luận và thực tiễn phải luôn song hành. Lý luận soi sáng thực tiễn, thực tiễn làm giàu lý luận. Lý luận chỉ có giá trị khi được thực tiễn kiểm nghiệm. Ngược lại, thực tiễn tạo sức sống cho lý luận. 52 Đồng thời, phải lưu ý các quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất; quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; lý luận hình thái kinh tế - xã hội, vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử,... Trên đây là các quan điểm phương pháp luận ở cấp độ cao nhất, với sắc thái triết học, nền tảng tư tưởng, chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức của tất cả các bộ môn khoa học. 2.3. Cấu trúc phương pháp luận nghiên cứu khoa học Cấu trúc gồm khái niệm, luận đề, luận chứng, luận điểm, lập luận, luận cứ. Khái niệm là một phạm trù của lôgích và được định nghĩa là một hình thức tư duy nhằm chỉ rõ thuộc tính bản chất vốn có của sự vật. Nhờ đó, người ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Khái niệm gồm nội hàm: là tất cả các thuộc tính bản chất, vốn có của sự vật; ngoại diên là: tất cả cá thể có chứa thuộc tính có trong nội hàm. Một khái niệm được biểu đạt bởi định nghĩa. Định nghĩa một khái niệm là tách ngoại diên của khái niệm đó ra khỏi khái niệm gần nó và chỉ rõ nội hàm. Ví dụ khái niệm "ngoại giao" có nội hàm là đàm phán, công cụ chính sách đối ngoại của nhà nước, các biện pháp phi quân sự,... của quốc gia trong quan hệ với các chủ thể khác trên trường quốc tế, còn ngoại diên là các hoạt động của người đứng đầu nhà nước, chính 53 phủ, bộ trưởng ngoại giao, các cơ quan quan hệ đối ngoại, các đoàn đại biểu đại diện quốc gia,... Luận đề là một "phán đoán" hay một "giả thuyết" cần được chứng minh nhằm trả lời câu hỏi chứng minh điều gì? Trong nghiên cứu, luận đề cũng là việc đặt ra những vấn đề cần giải quyết. Luận điểm là những suy nghĩ cần được chứng minh. Lập luận là đưa ra những lý lẽ để thuyết phục. Luận chứng là phương pháp để xác định mối liên hệ giữa các luận cứ và giữa luận cứ và luận đề, nhằm trả lời câu hỏi "chứng minh bằng cách nào?". Luận cứ là những số liệu, dữ liệu thu thập được từ các thông tin, tài liệu tham khảo, quan sát, điều tra hay thực nghiệm nhằm trả lời câu hỏi: "chứng minh bằng cái gì?". Suy luận, theo lôgích học, suy luận là một hình thức tư duy từ một hay một số phán đoán đã biết (tiền đề) để đưa ra một phán đoán mới (kết đề). Phán đoán mới chính là giả thuyết khoa học. Có ba hình thức suy luận: - Suy luận diễn dịch là hình thức suy luận đi từ cái chung đến cái riêng. Ví dụ: chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh quốc tế, Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS theo tư tưởng của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, vậy IS đe dọa hòa bình, ổn định và an ninh thế giới. - Suy luận quy nạp là hình thức suy luận đi từ cái riêng đến cái chung. Ví dụ: chủ nghĩa khủng bố đe dọa hòa bình thế giới; al Qaeda là tổ chức khủng bố quốc tế; vì vậy al Qeada đe dọa hòa bình thế giới. 54 - Suy luận loại suy là hình thức suy luận xuất phát từ sự giống nhau của hai đối tượng để đi đến kết luận. Ví dụ: Chủ nghĩa dân tộc cực đoan của bè lũ Pol Pot gây hại cho nhân dân Campuchia; chủ nghĩa dân tộc cực đoan này hoàn toàn có thể gây hại cho quan hệ Việt Nam - Campuchia. V. CÁC BƯỚC CƠ BẢN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Nghiên cứu khoa học là hoạt động được tổ chức đặc biệt với một lôgích gồm trình tự các bước chặt chẽ. Đó là các bước sau*. 1. Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu - Xác định tên đề tài. - Làm đơn xin tham gia tuyển chọn và xây dựng thuyết minh đề tài đối với đề tài nghiên cứu khoa học. Đối với luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học là việc soạn thảo đề cương nghiên cứu. - Bảo vệ thuyết minh đề tài trước hội đồng tuyển chọn và giao đề tài trực tiếp. Đối với luận án, luận văn là việc bảo vệ đề cương trước hội đồng xem xét đề cương. Đối với khóa luận cử nhân thì cần phải được giáo viên hướng dẫn xem xét, phê duyệt đề cương khóa luận. - Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu cụ thể. ___________ * Ở Chương này chỉ trình bày khái quát. Nội dung chi tiết sẽ được trình bày cụ thể ở Chương III. 55 2. Giai đoạn triển khai nghiên cứu - Lập thư mục các tài liệu liên quan đến đề tài. - Sắp xếp các tư liệu, tài liệu. - Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài để làm tổng quan tình hình nghiên cứu, đồng thời ghi chép những nội dung cần thiết khi cần kham khảo. - Xây dựng lý thuyết của đề tài. - Sắp xếp các ghi chép theo chương, tiết, mục của đề cương đã được phê duyệt. 3. Giai đoạn viết đề tài - Nghiên cứu những ghi chép được. - Viết nháp từng chương, tiết, mục, tiểu mục. - Tổng hợp các chương, mục. Nếu đề tài do nhiều người làm, chủ biên phải chỉnh sửa sao cho các chương, mục, tiểu mục đều có cách hành văn, kết cấu thống nhất, đảm bảo lôgích. - Sửa chữa bản thảo đề tài trên cơ sở góp ý của người hướng dẫn, chuyên gia. - Hoàn thiện bản thảo đề tài. - Bảo vệ ở bộ môn đối với luận án tiến sĩ và sửa chữa, bổ sung luận án sau bảo vệ. 4. Giai đoạn nghiệm thu, bảo vệ đề tài - Hoàn thiện bản thảo (đề tài). Hoàn thiện bản thảo bao gồm: mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,... theo đúng quy định của Nhà nước. 56 - Đối với đề tài nghiên cứu khoa học, hoàn thành các sản phẩm khác như báo cáo tóm tắt, Báo cáo kiến nghị (nếu có) và báo cáo tình hình tổ chức, thực hiện và kết quả. Tự đánh giá về đề tài. Đối với luận án tiến sĩ, cần có tóm tắt luận án. - Bảo vệ cấp cơ sở. - Sửa chữa, chỉnh lý, bổ sung đề tài, luận án tiến sĩ trên cơ sở góp ý của hội đồng nghiệm thu cơ sở. - Nghiệm thu chính thức đối với đề tài nghiên cứu khoa học, bảo vệ cấp trường đối với luận án tiến sĩ và luận văn cao học. - Hoàn thiện các sản phẩm khoa học sau nghiệm thu, bảo vệ chính thức và nộp. 5. Công bố sản phẩm Từ sản phẩm nghiên cứu khoa học, có thể in thành sách và viết một vài bài báo khoa học gửi các tạp chí chuyên ngành. Đối với nghiên cứu sinh, cần có một vài bài báo khoa học liên quan đến đề tài được đăng tại các tạp chí khoa học trước khi bảo vệ cơ sở. VI. NHỮNG PHẨM CHẤT CẦN CÓ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Để trở thành nhà nghiên cứu khoa học, cần có những phẩm chất nhất định: 1. Trình độ chuyên môn Không thể nói rằng nghiên cứu khoa học là công việc của những người có học thức song những người chưa đủ 57 trình độ học vấn tối thiểu thì không thể nghiên cứu khoa học được. Nếu vì lý do nào đó mà những người này cần nghiên cứu khoa học thì chắc chắn họ phải đọc thêm, học hỏi thêm về chuyên môn. Nếu không, những gì họ tìm thấy (là mới, là đúng) cũng chỉ có thể dừng lại ở kinh nghiệm. Những kinh nghiệm quý báu ấy cần được kiểm tra, xác định phạm vi ứng dụng,... bởi người có chuyên môn. Ðôi khi người nghiên cứu khoa học không những cần có kiến thức về lĩnh vực mình nghiên cứu, mà còn cần trau dồi đủ kiến thức về những lĩnh vực gần gũi hoặc có liên quan. Đồng thời, người làm công tác nghiên cứu khoa học cần có kỹ năng sử dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật để công việc được tiến triển nhanh hơn, kết quả chính xác hơn. 2. Phương pháp làm việc khoa học - Có khả năng và phương pháp tư duy. - Có khả năng phát hiện vấn đề và nhìn nhận vấn đề để bắt đầu nghiên cứu. - Có khả năng thu thập và xử lý, số liệu: thu thập số liệu bằng phương tiện gì, cách thu thập, cách phân tích, sàng lọc, lựa chọn số liệu,... - Có khả năng xây dựng kế hoạch, làm việc khoa học, tiết kiệm thời gian và kinh tế. - Có khả năng trình bày vấn đề khoa học: có kỹ năng trình bày rõ ràng, dễ hiểu. 3. Các đức tính của một nhà khoa học chân chính - Say mê khoa học, nhiệt huyết. 58 - Nhạy bén với sự kiện xảy ra. - Cẩn thận. - Kiên trì nghiên cứu, cần cù, chịu khó. - Trung thực với kết quả nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, GS. Nguyễn Văn Tuấn, Việt kiều ở Ôxtrâylia trong một công trình nghiên cứu đã lưu ý rằng, nhà khoa học phải rèn cho mình văn hóa và đạo đức khoa học. Ông viết: "Theo định nghĩa của giới xã hội học, văn hóa bao gồm những quy ước, giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên. Hoạt động khoa học dựa vào một số quy trình, quy ước đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận và lấy làm chuẩn, và do đó, hoạt động khoa học tạo nên văn hóa khoa học"1. Văn hóa khoa học có những đặc điểm sau: thói quen đặt câu hỏi, "nói có sách, mách có chứng", tôn trọng sự thật khách quan, làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan, hệ thống hóa những gì mình biết, không giấu giếm, dân chủ khoa học, kế thừa và trách nhiệm xã hội2. Mặt khác, nhà khoa học phải rèn cho mình sáu nguyên tắc đạo đức khoa học. Đó là các nguyên tắc: thành thật tri thức, cẩn thận, tự do tri thức, cởi mở và công khai, ghi nhận công trạng thích hợp, trách nhiệm trước công chúng3. ___________ 1, 2, 3. Nguyễn Văn Tuấn: Đi vào nghiên cứu khoa học, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr.80, 81-96, 97-103. 59 Câu hỏi hướng dẫn ôn tập: 1) Khái niệm khoa học? 2) Tiêu chí bộ môn khoa học? 3) Nghiên cứu khoa học? 4) Phân loại nghiên cứu khoa học? 5) Đề tài nghiên cứu khoa học? 6) Đặc điểm nghiên cứu khoa học trong ngoại giao? 7) Thế nào là phương pháp nghiên cứu khoa học? 8) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học? 9) Những yêu cầu đối với người nghiên cứu khoa học? 60 Chương II PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ CHỦ YẾU I. CÁC BỘ MÔN KHOA HỌC QUAN HỆ QUỐC TẾ Trước khi trình bày các phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, chúng ta cần làm rõ khoa học quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội đặc biệt, có đặc điểm riêng, nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người, liên quan đến môi trường quốc tế. Quan hệ xã hội vượt biên giới quốc gia, có những thay đổi lớn và trở nên vô cùng phức tạp bởi trong môi trường quốc tế các cơ chế hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nội bộ quốc gia. Đây là khái niệm phức tạp. Khái niệm quan hệ quốc tế như một phạm trù khoa học lần đầu tiên do nhà khoa học người Anh Jeremy Bentham (1748-1832) đưa ra. Quan hệ quốc tế mà ông nói đến là quan hệ giữa các chính phủ, các quốc gia. Dưới các góc độ khác có những định nghĩa về quan hệ quốc tế khác nhau. "Quan hệ quốc tế là ngành nghiên cứu về những quan hệ xuyên biên giới nói chung, do đó 61 bản chất của những quan hệ này có tính mở"1. "Quan hệ quốc tế có thể được mô tả là những phương thức các quốc gia trên thế giới, các nhóm người và thậm chí là các cá nhân tương tác và gây ảnh hưởng với nhau. Sự tương tác này xảy ra giữa các chủ thể khác nhau, bao gồm các chính phủ trên thế giới; các chủ thể phi nhà nước, các tổ chức quốc tế, tập đoàn đa quốc gia, tổ chức phi chính phủ và cá nhân; cấu trúc xã hội bao gồm kinh tế, văn hóa và chính trị của nhà nước; những tác động về mặt địa lý và lịch sử"2. "Quan hệ quốc tế là hệ thống quan hệ được nảy sinh và tồn tại nhờ hoạt động qua lại giữa các quốc gia, cũng như các chủ thể khác của quan hệ quốc tế. Tác động qua lại của các hoạt động tương tác đó có tính khách quan. Quan hệ quốc tế vô cùng phức tạp, có tính tổng thể, nên không hoàn toàn chính xác khi chỉ nói đến một lĩnh vực cụ thể nào đó. Chúng bao gồm tất cả hoạt động thực tiễn của con người: từ trao đổi chính trị, kinh tế, quân sự đến thi đấu thể dục - thể thao,... Và sợi chỉ đỏ xuyên suốt quan hệ quốc tế là quan hệ chính trị"3, lợi ích và hoạt động của nhà nước, quan hệ quyền lực. ___________ 1. Chris Brown and Kristen Ainley: Understanding international relations, Palgrave Macmilan, New York, 2005, p. 7. 2. Boniface E S Iddi A. M. Makombe: “Tranh luận về sự liên đới của lý thuyết quan hệ quốc tế với thế giới thứ ba”, Nghiên cứu quốc tế, số 2(93), tr.146. 3. GS.TS. Vũ Dương Huân: Về chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 37. 62 Đa số các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trên giới đều gọi đó là khoa học quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, có những cơ sở đào tạo gọi chuyên ngành này là quốc tế học (nghiên cứu quốc tế) hoặc chính trị quốc tế1. Khoa học quan hệ quốc tế là một chuyên ngành gồm nhiều bộ môn khoa học. 1. Lịch sử quan hệ quốc tế Đối tượng nghiên cứu của lịch sử quan hệ quốc tế là quan hệ quốc tế với kết quả hoạt động trên trường quốc tế của các chủ thể nhà nước, phi nhà nước, nhất là chủ thể quốc gia - dân tộc và các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Lịch sử quan hệ quốc tế không đơn thuần là số cộng lịch sử chính sách đối ngoại của các chủ thể riêng biệt. Nhiệm vụ của bộ môn khoa học này là nhằm chỉ ra rằng, các sự kiện, quá trình quốc tế đã xảy ra như thế nào và tại sao? Lực lượng chính trị nào tạo ra các sự kiện đó, ảnh hưởng của chúng đến tiến trình, kết cục của thế giới. Bên cạnh đó, nhiệm vụ của lịch sử quan hệ quốc tế còn là nghiên cứu chính sách đối ngoại các nước, vì các nước là chủ thể tham gia quan hệ quốc tế. Không nghiên cứu chính sách đối ngoại các nước riêng biệt thì lịch sử quan hệ quốc tế có thể trở thành sơ đồ trừu tượng. Để làm sáng tỏ chính sách đối ngoại của các nước đòi hỏi phải khám phá mối liên hệ hữu cơ giữa chính trị đối nội và chính trị đối ngoại, làm rõ ___________ 1. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội có khoa Quốc tế học, Học viện Báo chí và tuyên truyền có khoa Quan hệ chính trị quốc tế. 63 đặc điểm giai cấp của chính trị và chỉ ra cuộc đấu tranh giai cấp, đảng phái về các vấn đề chính trị đối ngoại. Hiện nay, do yêu cầu của việc giảng dạy nên có xu hướng tách một số chuyên đề quan hệ quốc tế đương đại thành các học phần độc lập của ngành quan hệ quốc tế như các vấn đề toàn cầu, an ninh thế giới; quan hệ giữa các cường quốc, chính trị quốc tế hiện đại, v.v.. Thực ra, đây chỉ là các nội dung của bộ môn lịch sử quan hệ quốc tế. Lịch sử bao giờ cũng gắn với thời sự. 2. Lịch sử ngoại giao hay lịch sử nghệ thuật ngoại giao Đối tượng của bộ môn khoa học này là nghiên cứu phương pháp, thủ thuật hoạt động ngoại giao của quốc gia, các chủ thể khác trên trường quốc tế theo chiều dài lịch sử. Ngoại giao là phương tiện thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là hoạt động của nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao và cơ quan chuyên trách về đối ngoại ở trong nước, cơ quan đại diện ở nước ngoài, các đoàn đại diện quốc gia tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế đa phương nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, cũng như bảo vệ quyền lợi và lợi ích quốc gia trên trường quốc tế. Bản chất của ngoại giao là tiến hành thương lượng, đàm phán. Đường hướng chung của hoạt động ngoại giao do lãnh đạo quốc gia xác định và bộ ngoại giao trực tiếp thực hiện. 3. Chính sách đối ngoại Việt Nam Chính sách đối ngoại là tổng thể những chiến lược, sách lược, chủ trương, quyết định và những biện pháp do 64 nhà nước hoạch định và thực thi trong quá trình tham gia tích cực, có hiệu quả vào đời sống quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới và pháp luật quốc tế”1. Chính sách đối ngoại là sự tiếp tục của chính sách đối nội, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, đạt được sự thịnh vượng về kinh tế, hay bảo vệ và tối đa hóa lợi ích quốc gia nói chung, thông qua các con đường như hợp tác, cạnh tranh, xung đột, hoặc thậm chí là chiến tranh. Vai trò của chính sách đối ngoại ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, khi không quốc gia nào có thể tồn tại biệt lập và sự giao lưu, hợp tác ngày càng được chú trọng. Phân tích chính sách đối ngoại, trước tiên là phân tích mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm chính sách đối ngoại, đồng thời phân tích công cụ, biện pháp chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại của một quốc gia thường được hoạch định bởi bộ máy lãnh đạo cấp cao của quốc gia đó. Mỗi quốc gia khác nhau, mỗi thể chế chính trị khác nhau lại có cấu tạo bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại khác nhau. Từ đó, có các mô hình hoạch định đối ngoại khác nhau. Nếu lấy tiêu chí là chủ thể chính sách đối ngoại thì có mô hình tập thể quyết sách, cá nhân quyết ___________ 1. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, GS.TS. Dương Xuân Ngọc, TS. Lưu Văn An (Chủ biên): Giáo trình quan hệ chính trị quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.263. 65 sách và tổ chức quyết sách. Khi hoạch định chính sách đối ngoại, cần phải tính đến các nhân tố như vị trí địa - chiến lược của quốc gia, mục tiêu quốc gia, sức mạnh tổng hợp quốc gia, đặc điểm tình hình quốc tế và khu vực, tình hình chính trị nội bộ,... Hòn đá tảng trong hoạch định chính sách đối ngoại của quốc gia là lợi ích quốc gia - dân tộc. Khi phân tích chính sách đối ngoại phải tính đến cấp độ phân tích, gồm cấp độ quốc tế, cấp độ quốc gia và cấp độ cá nhân. Trong môn học chính sách đối ngoại Việt Nam có hai học phần: “Phân tích chính sách đối ngoại” và “Lịch sử chính sách đối ngoại Việt Nam”. Đi liền với môn “Phân tích chính sách đối ngoại” là môn “Lịch sử chính sách đối ngoại Việt Nam”. Môn Lịch sử chính sách đối ngoại Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu quá trình phát triển đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam qua các giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Mỗi giai đoạn, thời kỳ đều cần làm rõ bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước dẫn đến đường lối, chính sách đối ngoại. Nội dung đường lối, chính sách đối ngoại gồm mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm chính sách đối ngoại, đồng thời phải phân tích việc triển khai đường lối, chính sách đối ngoại và đánh giá đường lối, chính sách đối ngoại (thành công, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm rút ra). Trong việc giảng dạy hai bộ môn này đôi khi cần kết hợp chúng với nhau. 4. Ngoại giao học Là một bộ môn khoa học mới, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn, Ngoại giao học là một bộ môn quan 66 trọng của khoa học quan hệ quốc tế. Đối tượng nghiên cứu của ngoại giao là ngoại giao và quy luật chung của ngoại giao, lấy thực tiễn ngoại giao làm cơ sở và dùng lý luận ngoại giao soi đường. Ngoại giao vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Công tác ngoại giao cũng là bộ môn khoa học thuộc chuyên ngành quan hệ quốc tế và rất gần với ngoại giao học. Có nước coi ngoại giao học và công tác ngoại giao là một vì cùng nghiên cứu ngoại giao và các quy luật chung của ngoại giao. Tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, công tác ngoại giao được giảng dạy cho hệ đại học, song ngoại giao học lại được giảng dạy cho hệ cao học chuyên ngành quan hệ quốc tế. 5. Lý luận quan hệ quốc tế Một bộ môn khoa học khác và cũng là một bộ môn khoa học mới của khoa học quan hệ quốc tế là lý luận quan hệ quốc tế. Có nhà khoa học đặt tên cho bộ môn này là nhập môn quan hệ quốc tế1. Lý luận quan hệ quốc tế "là khoa học về những tính quy luật chung và riêng của sự vận động và phát triển hệ thống quan hệ quốc tế. Lý luận quan hệ quốc tế có nhiệm vụ trả lời các câu hỏi: quan hệ quốc tế là gì; bản chất tự nhiên, thực chất và cấu trúc, xu thế chính và tính quy luật của sự phát triển. Những xu thế cơ bản, tính quy luật vận động và phát triển quan hệ quốc tế là đối tượng nghiên cứu của lý luận quan hệ quốc tế. Lý luận ___________ 1. Hoàng Khắc Nam: Giáo trình nhập môn quan hệ quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016. 67 quan hệ quốc tế nghiên cứu quan hệ quốc tế như là một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội cũng như sự thống nhất biện chứng những nhân tố và tiểu hệ thống của nó”1. 6. Phân tích sự kiện quốc tế Đây là bộ môn khoa học mới của khoa học quan hệ quốc tế liên quan đến nghiên cứu động thái trong ngành Ngoại giao. Nhiệm vụ của bộ môn này là thu thập và xử lý thông tin về những sự kiện, quá trình quốc tế đã và đang diễn ra, đánh giá bản chất, xu hướng vận động, tác động đến khu vực, quốc tế và tác động đến nước ta; đồng thời kiến nghị các biện pháp ứng phó. Bộ môn này đang được giảng dạy tại Học viện ngoại giao và Học viện Khoa học quân sự. Bộ môn khoa học này có vai trò quyết định trong giải quyết các nhiệm vụ thuộc nghiên cứu động thái. Phân tích sự kiện quốc tế là thông qua các phương pháp và kỹ năng theo dõi, xử lý các sự kiện quốc tế để phân tích nguồn gốc, nguyên nhân của sự kiện, đánh giá bản chất, các xu thế phát triển của sự kiện, nhất là tác động của sự kiện đến thế giới, khu vực, cũng như đối với nước ta và kiến nghị chủ trương, đối sách. Đồng thời, học phần này cung cấp kỹ năng làm sử ký, báo cáo điểm tin, báo cáo chuyên đề, báo cáo tình hình sở tại từ 6 tháng, một năm, đặc biệt cách dự thảo điện mật của cơ quan đại diện gửi về “Trung tâm”. ___________ 1. V.U. Anchiukhina - Moskovchenco, A. A.Dlobi, M. A. Khrustaliev: Cơ sở lý luận quan hệ quốc tế, Mátxcơva, 1988, tr. 60 (Tiếng Nga). 68 7. Kinh tế - chính trị quốc tế Đây là bộ môn khoa học rất mới, nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc tế, hầu như chưa được đưa vào chương trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, hiện có nhiều cách hiểu khác nhau về môn học này. Có người hiểu kinh tế - chính trị quốc tế là nghiên cứu nền tảng chính trị của các hoạt động kinh tế, những cách thức mà các chính sách của chính phủ tác động đến hoạt động của thị trường. Có ý kiến khác lại cho rằng, trọng tâm của kinh tế - chính trị là nghiên cứu các cơ sở kinh tế của các hoạt động chính trị, cách thức mà lực lượng kinh tế tác động và góp phần định hình chính sách chính trị của chính phủ. Tuy nhiên, hai cách hiểu này không mâu thuẫn nhau, trái lại lại bổ trợ cho nhau bởi chính trị/nhà nước và kinh tế/thị trường là hai chủ thể luôn có sự tương tác với nhau ở cấp độ trong nước cũng như quốc tế. Ngoài ra, đất nước học như Trung Quốc học, Nga học, Hoa Kỳ học, Nhật Bản học, khu vực học (ASEAN học, EU học)…, chiến lược quân sự cũng là những bộ môn thuộc khoa học quan hệ quốc tế được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về quan hệ quốc tế của nước ta và trên thế giới. 8. Luật quốc tế gồm công pháp quốc tế, tư pháp quốc tế và luật kinh tế quốc tế Luật quốc tế được định nghĩa là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm pháp lý được các quốc gia và chủ 69 thể khác tham gia quan hệ pháp lý quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng, nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau (trước tiên và chủ yếu là giữa các quốc gia) và trong những trường hợp cần thiết được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể của luật quốc tế thi hành và bằng sức đấu tranh của nhân dân và dư luận tiến bộ thế giới. Tất cả các lĩnh vực quan hệ pháp lý giữa các quốc gia thuộc đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế, nhưng những quan hệ pháp lý giữa công dân và pháp nhân phát sinh trong đời sống quốc tế lại thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. 9. Kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại Kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại nghiên cứu sự phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia, phân tích dòng chảy hàng hóa, dịch vụ và thanh toán giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới, chính sách định hướng cho các dòng chảy này, ảnh hưởng của chúng đối với phúc lợi của 70 quốc gia. Sự phụ thuộc kinh tế của các quốc gia này ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh giữa các quốc gia. Kinh tế học quốc tế nghiên cứu học thuyết thương mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế, thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán, kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở. Học thuyết thương mại quốc tế phân tích cơ sở và những thông tin thu nhập từ thương mại quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phân tích nguyên nhân, ảnh hưởng của trở ngại thương mại và chủ nghĩa bảo hộ mới. Nghiên cứu thị trường ngoại hối trên khía cạnh là hệ thống cho sự trao đổi đồng tiền một quốc gia này với một quốc gia khác. Trong khi đó, cán cân thanh toán đo lường phần nhận được và chi trả của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Cuối cùng, kinh tế vĩ mô trong kinh tế mở phân tích cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán trong sự tác động, phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia với sự khác nhau của các hệ thống tiền tệ và ảnh hưởng của chúng lên phúc lợi của quốc gia. Học thuyết và chính sách thương mại quốc tế là khía cạnh kinh tế vi mô của kinh tế học quốc tế, vì chúng phân tích các quốc gia cụ thể, được xem xét như một đơn vị riêng và với giá cả của hàng hoá cụ thể. Trên phương diện khác, cán cân thanh toán nghiên cứu phần nhận được và chi trả trong khi các chính sách điều chỉnh ảnh hưởng mức thu nhập và chỉ số giá chung, mô tả các khía cạnh kinh tế vĩ mô của kinh tế học quốc tế, đó là nói kinh tế vĩ mô trong kinh tế mở hay tài chính quốc tế. 71 Kinh tế học quốc tế lại chia thành hai mảng lớn là thương mại quốc tế và tài chính quốc tế. Thương mại quốc tế nghiên cứu các lý luận về thương mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế. Tài chính quốc tế nghiên cứu về tỷ giá hối đoái, đầu tư quốc tế, các thể chế tài chính quốc tế. Kinh tế đối ngoại là ngành học nghiên cứu về mối quan hệ trao đổi, giao thương giữa hai lãnh thổ, địa giới khác nhau trên toàn thế giới. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, quan hệ tiền tệ, tín dụng quốc tế và các dịch vụ quốc tế khác. 10. Truyền thông quốc tế và văn hóa đối ngoại Khái niệm truyền thông (communication) theo nghĩa gốc tiếng Latin là chia sẻ. Truyền thông quốc tế hàm nghĩa là chia sẻ tri thức, tư tưởng và niềm tin giữa những người khác nhau trên khắp thế giới, bởi vậy có thể trở thành một trong các yếu tố đóng góp vào việc giải quyết xung đột ở cấp độ toàn cầu và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế, đa phần các kênh truyền thông quốc tế lại không được sử dụng vào những mục tiêu trên mà chủ yếu tập trung vào thúc đẩy lợi ích kinh tế, chính trị của các cường quốc trên thế giới, những người đang nắm giữ và kiểm soát các phương tiện truyền thông toàn cầu1. ___________ 1. Thussus D. K: Intenatoinal communication: continuity and change, London Arlold, 2000, p.3. 72 Đối tượng của truyền thông quốc tế chính là các dòng thông tin luân chuyển xuyên qua các rào cản biên giới cùng các thể chế và luật lệ điều tiết chúng. Dĩ nhiên, yếu tố của truyền thông nói chung vẫn được đề cập trong truyền thông quốc tế, chẳng hạn như quy trình truyền thông, chủ thể, công chúng, v.v.. Có những trùng hợp nhất định giữa truyền thông quốc tế và thông tin đối ngoại. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thông tin đối ngoại là hình thức phổ biến của truyền thông quốc tế. Hoạt động thông tin đối ngoại đã giúp hình thành các tuyến thông tin xuyên biên giới giữa các quốc gia, nhằm tuyên truyền, quảng bá, giải thích và thuyết phục công chúng nước ngoài liên quan đến thái độ, đường lối, chính sách... của quốc gia thực hiện hành vi truyền thông. Tuy nhiên, có hai nhân tố cơ bản đang thay đổi bức tranh về truyền thông quốc tế thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Đó là: i) Sự xóa bỏ của rào cản địa lý do một cực của Chiến tranh lạnh sụp đổ. Thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa với những mối quan tâm chung và tình trạng tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường... ii) Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, công nghệ thông tin, giúp nhân loại tiến hành giao tiếp vượt qua các trở ngại vốn dĩ gắn với không gian và thời gian địa lý. Hệ quả là toàn cầu hóa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Không gian hoạt động (bao gồm cả không gian giao tiếp) của các chủ thể sống (ở mọi cấp độ từ cá thể cho đến cộng đồng) đang được mở rộng, 73 vượt ra khỏi biên giới của các nhà nước - dân tộc. Vì vậy, hầu hết các hình thức (các phương tiện) truyền thống của truyền thông đang chuyển hóa dần theo hướng rũ bỏ tính chất địa phương để mang tính chất quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa đang tạo ra các dòng thông tin xuyên quốc gia mà không cần xem các nguồn thông tin có mục tiêu "đối ngoại" hay không, trở thành sân chơi chung mà ở đó các nhà nước, công ty, cộng đồng và cá thể đều có thể tham dự với những "quy ước và luật lệ tự xây dựng" tương ứng. Với thực tiễn đó, có thể gọi mọi hoạt động "thông tin đối ngoại" của nhà nước là truyền thông quốc tế, nhưng chiều ngược lại thì không. Ngày nay, tham dự truyền thông đại chúng ngoài nhà nước còn có tác nhân phi nhà nước... Và nội dung của truyền thông quốc tế cũng rộng hơn rất nhiều, bao hàm chính trị, kinh tế, xã hội văn hóa, quân sự,... Hiện nay, chưa có sự nhất trí trong giới nghiên cứu về vị trí bộ môn Truyền thống quốc tế trong chuyên ngành Quan hệ quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng, truyền thông quốc tế chưa phải là bộ môn khoa học độc lập vì nó là kết quả giao thoa của nhiều ngành khoa học như giữa quan hệ quốc tế và truyền thông. Tại Hoa Kỳ, ở đại đa số các trường đại học, truyền thông quốc tế được giảng dạy như một bộ môn của ngành Quan hệ quốc tế hoặc ngành Chính trị học. Trong khi đó ở châu Âu, truyền thông quốc tế được tiếp nhận như một môn khoa học độc lập, cùng với truyền thông quốc tế, người ta giảng dạy các môn học chuyên sâu như toàn cầu hóa, liên văn hóa. 74 Văn hóa đối ngoại được xác định là tổng thể các hoạt động ứng xử, giao lưu, hợp tác về văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, khu vực cộng đồng này với khu vực cộng đồng khác nhằm giới thiệu những tinh hoa và giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú và lan tỏa giá trị văn hóa quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Truyền thông quốc tế và văn hóa đối ngoại nhằm đào tạo và cung cấp cho thị trường lao động những cán bộ có khả năng làm công tác thông tin đối ngoại, báo chí, ngoại giao văn hóa, quan hệ công chúng của các bộ, ban, ngành, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp trong nước và quốc tế; và có khả năng sử dụng tiếng Anh một cách thành thạo. Kiến thức về truyền thông quốc tế và văn hóa đối ngoại với nền tảng là truyền thông đại chúng; nhấn mạnh tính chất giao tiếp xuyên biên giới của truyền thông đại chúng thông qua các ngôn ngữ phổ biến trên thế giới, như tiếng Anh, tiếng Pháp,… những nội dung đó được cung ứng qua các phân ban chuyên sâu có tác dụng bổ trợ lẫn nhau là: truyền thông đại chúng; ngoại giao văn hóa; quan hệ công chúng (PR). Kỹ năng nghiệp vụ chuyên ngành này bao gồm: kỹ năng tổng hợp, phân tích tin tức quốc tế, kỹ năng đưa tin, phỏng vấn báo chí, tổ chức họp báo, tổ chức sự kiện, quảng bá, tuyên truyền đối ngoại, xây dựng chiến lược truyền thông, quản lý khủng hoảng truyền thông, giao tiếp liên văn hóa, tác nghiệp ngoại giao văn hóa; kỹ năng 75 nghiên cứu khoa học, kỹ năng tư duy phản biện và kỹ năng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp chuyên ngành. Kỹ năng mềm khác bao gồm kỹ năng quản lý, kỹ năng chủ trì hội nghị, kỹ năng thiết kế chương trình nghị sự, quan hệ công chúng, thiết kế các sản phẩm truyền thông, quảng cáo, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin,... 11. Quan hệ chính trị quốc tế Song song với nền chính trị nội bộ trong từng nước, tồn tại một nền chính trị ở quy mô toàn cầu, trong đó các chủ thể tương tác qua lại để đạt mục đích nhất định, tổng hòa những quan hệ đó tạo nên quan hệ chính trị quốc tế. Đây là cách tiếp cận dưới góc độ chính trị học. Chính trị là một phạm trù rộng lớn của nhiều chuyên ngành khoa học xã hội. "Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước"1. "Tất cả chúng ta là những sinh vật chính trị”. Aristoteles đã nghĩ ra cụm từ này từ lâu... Chính trị là gì? “Chính trị là bất cứ tình huống xã hội nào mà trong đó quyền lực được đưa vào"2. Có hai nội dung cốt lõi từ định nghĩa này. Thứ nhất, chính trị là lĩnh vực đặc thù của xã hội, tức là chỉ nảy sinh trong tương tác giữa người với người. Thứ hai, quyền lực là phạm trù trung tâm của ___________ 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị: Tập bài giảng chính trị học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr.7. 2. Jack Godwin: Trò chơi quyền lực tại nơi làm việc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016, tr.8-9. 76 chính trị, bản chất của chính trị là giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước trong xã hội loài người. Do đó, quan hệ quyền lực là quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quyền lực; là quan hệ giữa một bên (chủ thể) nhận thức, ý thức được lợi ích của mình, quyết tâm thực hiện lợi ích đó, thể hiện thành ý chí chi phối, còn bên kia thừa nhận, chấp nhận ý chí ấy1. Để thực thi quyền lực, về cơ bản, chủ thể có ba sự lựa chọn chính: i) Chủ thể A sử dụng sự đe dọa hoặc phần thưởng để thay đổi hành vi của chủ thể B theo hướng chống lại những ưu tiên và chiến lược của B; ii) Chủ thể A kiểm soát chương trình hành động theo hướng hạn chế sự lựa chọn chiến lược của chủ thể B; iii) Chủ thể A tạo ra và định hình niềm tin, nhận thức, sự ưu tiên của chủ thể B2. Từ cách tiếp cận trên có thể vận dụng vào nghiên cứu chính trị quốc tế. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, quan hệ chính trị quốc tế không đồng nghĩa với quan hệ quốc tế, có nhiệm vụ khu biệt quan hệ quốc tế trong lĩnh vực chính trị với quan hệ quốc tế ở những lĩnh vực khác. Đây là lĩnh vực nghiên cứu tương đối độc lập. Có một số định nghĩa về quan hệ chính trị quốc tế. Các tác giả Học viện Báo chí và Tuyên truyền viết: "Quan hệ chính trị quốc tế là ___________ 1. Lê Minh Quân (chủ biên): Giáo trình quyền lực chính trị, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2017, tr.23-24. 2. Joseph S. Nye Jr.: The Future of Power, Public Affaires, New York, 2011, p.14. 77 quan hệ được nảy sinh, hình thành và phát triển do sự tác động qua lại giữa các chủ thể chính trị quốc tế, trong quá trình tham gia vào đời sống chính trị quốc tế vì mục đích, lợi ích quốc gia, khu vực và quốc tế"1. Một định nghĩa khác, ngắn gọn hơn: quan hệ chính trị quốc tế là quan hệ quyền lực giữa các chủ thể tham gia chính trị quốc tế. Định nghĩa này bao hàm ba đặc tính của quan hệ chính trị quốc tế là tính xã hội, tính quyền lực và tính quốc tế. Một số cơ sở đào tạo đại học ở nước ta như Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Chính trị học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội có nhận thức như trên về chính trị quốc tế và thiết kế chương trình đào tạo với học phần “Chính trị quốc tế” mà không phải là quan hệ chính trị quốc tế. II. PHƯƠNG PHÁP LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN VÀ CẤP ĐỘ NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ 1. Phương pháp luận quan hệ quốc tế Chương I đã đề cập khái niệm phương pháp, phương pháp luận và các quan điểm phương pháp luận chung cho nghiên cứu các ngành khoa học. Đó là quan điểm duy vật biện chứng; hệ thống - cấu trúc; lịch sử - lôgích; và thực tiễn. Để nghiên cứu khoa học quan hệ quốc tế, ___________ 1. Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An: Giáo trình quan hệ chính trị quốc tế, Sđd, tr.14. 78