🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình luật tài chính và luật ngân hàng
Ebooks
Nhóm Zalo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
luạttàT chính
VÀ LUÂT NGÂN HÀNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
80-2012/CXB/128-90/CAND
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
LUẠTTAICHINH
VÀ LUẬT NGÂN HÀNG
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Đ ể thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta m à Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đ ề ra, một trong những yêu cầu quan trọng là phải học tập, nghiên cứu và nắm vững chính sách, pháp luật về tài chính và ngân hàng.
Với mục tiêu đó, Viện Đại học Mở Hà Nội đã mời Tiến sỹ Võ Đình Toàn biên soạn giáo trình này. Cùng với các giáo trình pháp luật khác mà Viện đã biên soạn, Giáo trình Luật tài chính và Luật ngân hàng sẽ cung cấp cho học viên hệ đào tạo từ xa nói chung và học viên ngành Luật từ xa nói riêng những kiến thức pháp luật cơ bản, hệ thống về tài chính và ngân hàng.
Giáo trình được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tham khảo các tài liệu, giáo trình của nhiều học giả, nhà luật học và các cơ sở đào tạo có uy tín về ngành luật.
Các quan hệ do Luật tài chính và Luật Ngân hàng điều chỉnh rất đa dạng và phức tạp. Mặc dù đã cô gắng, nhưng chắc chắn Giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của độc giả.
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
NHẬP MỦN
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài chính và quan hệ quản lý nhà nước đối vói các hoạt động tài chính ngày càng có vai trò quan trọng. Các quan hệ tài chính trong xã hội có thể được chia ra làm hai nhóm chủ yếu: Nhóm quan hệ tài chính mang tính chất là quan hệ dân sự (Ví dụ: Quan hệ vay tiền giữa các công dân để thoả mãn nhu cầu dân sự). Nhóm quan hệ tài chính thứ hai gồm các quan hệ tài chính gắn với các hoạt động kinh tế - thương mại trong nền kinh tế (Ví dụ: Quan hệ cho vay giữa ngân hàng thương mại vối một doanh nghiệp hay quan hệ thanh toán tiền mua bán hàng hoá giữa các doanh nghiệp với nhau...)
Mặc dù hiện nay, quan niệm phân chia hệ thống pháp luật còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng căn cứ vào nội dung diều chỉnh của các quy phạm pháp luật đôi với các quan hệ tài chính và quan hệ quản lý nhà nước về tài chính có thể phân chia chúng thành các bộ phận chủ yếu sau:
Nhóm thứ nhất: Các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài chính không gắn với các hoạt động kinh tế - thương mại. Nhóm thứ hai: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh tế - thương mại của các tổ chức, cá nhân và các quan hệ quản lý nhà nước đôi với các hoạt động tài chính của nhà nước, của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Do sự phát triển đa dạng của các quan hệ kinh tế - thương mại nên các quy phạm pháp luật thuộc nhóm này ngày càng được các nhà nước quan tâm xây dựng và hình thành nên một bộ phận pháp luật có nhiều đặc trưng riêng so với các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài chính mang tính chất dân sự. Bộ phận pháp luật này thường được gọi là pháp luật tài chính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tuỳ thuộc vào sự phân chia hệ thông pháp luật ở mỗi nưốc mà các bộ phận pháp luật tài chính được xem là một ngành luật hoặc chia ra làm các ngành luật.
Hệ thống pháp luật của các nưóc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa được chia thành công pháp và tư pháp thì luật tài chính thuộc công pháp và gọi là thuộc luật tài chính công. Trong một thời gian dài bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công được quan niệm là bộ phận cấu thành của Luật Hành chính. Do đó, cho đến cuối thê kỷ XIX các cuốn sách giáo khoa về Luật Hành chính được ấn hành ở những nước này đều dành những chương cuối viết về luật tài chính công và thuế. Cùng vối sự phát triển của văn minh nhân loại, các hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực tài chính cũng ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Tương ứng vói sự phát triển của hoạt động tài chính của nhà nưóc, bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công cũng được chú trọng hơn. Điểu đó dẫn tới hệ quả là bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản trị tài chính công ngày càng phát triển và có vị trí độc lập tương đốĩ trong hệ thống pháp luật và được gọi là luật tài chính công.
Luật tài chính công là bộ phận thuộc công pháp, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động tài chính của Nhà nưốc, bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu sau:
- Bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước; - Bộ phận pháp luật quy định địa vị pháp lý của các định chế tài chính công quyền (ngân hàng trung ương, ngân khố quốc gia...), của doanh nghiệp công.
Luật tài chính công gắn bó chặt chẽ với luật hiến pháp và luật hành chính. Bởi vì, nội dung điều chỉnh của luật tài chính công về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong hoạt động ngân sách nhà nước, về thực chất là sự cụ thể hoá những nội dung điều chỉnh mang tính nguyên tắc của luật hiến pháp. Mặt khác, xét về nội dung điều chỉnh thì luật tài chính công thực chất là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, trong mối quan hệ vói luật hành chính, luật tài chính công mang đặc tính là " phần riêng" của luật hành chính.
Hệ thống pháp luật Ảng - Lô sắc- xông (hệ thông pháp luật Anh Mỹ) không có sự phân biệt công pháp và tư pháp và cũng không có sự phân chia các ngành luật. Do đó, ý niệm về ngành luật tài chính ỏ những nước thuộc hệ thông pháp luật này không rõ rệt. Thay thế cho việc xác định mô hình ngành luật tài chính vê đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, người ta chú trọng đến đôi tượng điều chỉnh và phương pháp áp dụng các đạo luật thực định điều chỉnh các nhóm quan hệ tài chính phát sinh trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa dựa vào tiêu chí là đôi tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh được phân chia thành các ngành luật, trong đó có luật tài chính. Luật tài chính được định nghĩa là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình lập, phân phối và sử dụng có kế hoạch các quỹ tiền tệ của nhà nước, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của Nhà nưốc xã hội chủ nghĩa.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước xã hội chủ nghĩa nắm độc quyền kinh doanh bảo hiểm và ngân hàng nên các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực này cũng mang đặc tính là quan hệ quản lý nhà nước. Do đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ này, luật tài chính được quan niệm bao gồm các bộ phận:
- Pháp luật về ngân sách nhà nước và thuế;
- Pháp luật về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước và các ngành kinh tế quốc dân;
- Pháp luật về tín dụng nhà nước;
- Pháp luật về bảo hiểm nhà nưóc (bảo hiểm thương mại); - Pháp luật về ngân hàng;
Việc xác định cấu trúc của một ngành luật phụ thuộc vào quan niệm về cấu trúc của hệ thống pháp luật nên tuỳ thuộc vào sự lựa chọn lý thuyết phân chia hệ thông pháp luật mà mô hình các ngành luật được xác định. Ó Việt Nam hiện nay, việc phân chia hệ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
pháp luật còn có nhiều quan điểm khác nhau. Do đó, quan niệm về cấu trúc của mô hình luật tài chính cũng chỉ có ý nghĩa tương đôì. Cuốn giáo trình này được biên soạn trên cơ sỏ xác định đối tượng của môn học là nghiên cứu các quy phạm pháp luật điểu chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước về tài chính và các quan hệ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh tế - thương mại trong nền kinh tế. Cụ thể, môn học luật tài chính nghiên cứu các bộ phận pháp luật sau: - Pháp luật về ngân sách nhà nước và thuế;
- Pháp luật về tài chính doanh nghiệp;
- Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm;
- Pháp luật vê' ngân hàng;
- Pháp luật về thị trường tài chính.
ở Việt Nam hiện nay, việc xác định các bộ phận pháp luật trên đây thuộc cấu trúc của những ngành luật nào còn có nhiều ý kiến rất khác nhau. Tuy vậy, các bộ phận pháp luật này ồ nhiều nước được quan niệm thuộc hai ngành luật trong hệ thống các ngành luật là ngành luật tài chính và ngành luật ngân hàng nên giáo trình này được đặt tên là Giáo trình Luật tài chính và Luật ngân hàng.
Pháp luật tài chính và ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận pháp luật và các quy phạm pháp luật tài chính - ngân hàng được Nhà nước ban hành ỏ nhiều văn bản pháp luật. Do đó, cuốn giáo trình này biên soạn không nhằm mục đích cung cấp cho ngưòi đọc toàn bộ các kiến thức về các quy định của pháp luật tài chính và ngân hàng mà hướng tối việc cung cấp kiến thức lý thuyết cơ bản và các quy định pháp luật chủ yếu để tạo cơ sỏ cho việc tra cứu và áp dụng pháp luật tài chính và ngân hàng.
Giáo trình này do Tiến sỹ luật học, giảng viên chính Võ Đình Toàn biên soạn, mặc dù được nghiên cứu công phu và nghiêm túc nhưng khó tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi mong nhận được những đóng góp của độc giả để Giáo trình Luật tài chính và Luật ngân hàng ngày càng được hoàn thiện.
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHÁN THỨ NHÁT
PHÁP LUẬT
NGÂN SÁCH NHÀ Nước VÀ THUẾ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
C H Ư Ơ N G I
KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ Nưởc,
CHÊ Độ PHÂN CẤP QUẢN LÝ, LẬP, CHẤP HÀNH
VÀ QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ Nước
I. KHÁI NIỆM VÀ HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách nhà nưóc
Ngày nay, thuật ngữ ngân sách được sử dụng phổ biến trong hoạt động tài chính của nhiều loại chủ thể trong xã hội. Nói đến ngân sách là nói đến tổng thu và chi trong hoạt động tài chính của một chủ thể, như ngân sách của doanh nghiệp, ngân sách của nhà nước... Khác với ngân sách của các chủ thể khác trong xã hội, quá trình hình thành và sử dụng ngân sách của nhà nước luôn gắn liền với quyển lực chính trị của nhà nước. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu, trong các văn bản pháp luật ở các nước, ngân sách nhà nước được định nghĩa có những nét riêng.
Trong các đạo luật ngân sách nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa thường định nghĩa ngân sách nhà nưóc là kế hoạch tài chính cơ bản để lập và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước
0 nước ta, Điều lệ Lập, chấp sách ngân sách nhà nước ban hành theo Nghị định sô" 168/CP ngày 20/10/1961 của Chính phủ quy định, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản nhằm lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Đạo luật ngân sách nhà nước đầu tiên của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và sửa bổ sung theo Luật 06/1998/QH10 được Chủ tịch nước công bô' theo Lệnh sô" 5-L/CTN ngày 01 tháng 6 năm 1998. Để thực hiện đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
mới quản lý ngân sách nhà nước, khắc phục nhũng hạn chê của Luật Ngân sách nhà nước năm 1996 và năm 1998, bảo đảm sự phù hợp với nội dung sửa đổi của Hiến pháp năm 2001, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Ngân sách nhà nước ngày 06 tháng 12 năm 2002. Điều I của Luật Ngân sách nhà nưóc quy định: Ngân sách nhà nưốc là toàn bộ những khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Căn cứ vào quy định trên đây của Luật Ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước có các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là văn kiện nhà nước dự tính và cho phép thực hiện các khoản thu và các khoản chi của quốc gia trong một năm. Các khoản thu, chi của ngân sách nhà nưóc được xác định bằng sô" tiền cụ thể trong dự toán ngân sách nhà nước. Các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước ghi trong dự toán phải được cơ quan có thẩm quyền quyết định. Chính vì vậy, các khoản thu, chi ghi trong dự toán mang tính chất quyền lực nhà nưốc và có giá trị pháp lý bắt buộc thi hành. Đồng thời, mọi sự thay đổi, điều chỉnh các khoản thu, chi phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục, thẩm quyên do pháp luật quy định.
Thứ hai, các khoản thu, chi được xác định trong dự toán ngần sách nhà nước và thực hiện nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là các khoản thu, chi của Nhà nưốc đều nhằm phục vụ các lợi ích mang tính quốc gia.
Thứ ba, chu kỳ lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước là một năm. Do chu kỳ là một năm nên mỗi năm Nhà nưốc có một ngân sách. Khoảng thòi gian thực hiện một ngân sách thường trùng với năm dương lịch, ở một sô nước, chu kỳ ngân sách không trùng với năm dương lịch (Anh, Ân Độ, Nepal...).
Điều 14 của Luật Ngân sách nhà nưốc năm 2002 quy định: Năm ngân sách bắt đâu từ ngày 01 tháng 1 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm Dương lịch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ tư, ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Khoản 4, Điểu 84 Hiến pháp 1992 của nước ta quy định, trong các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội có quyền quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Điều 15 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định chi tiết những nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội về quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước...
Việc phê chuẩn dự toán ngân sách nhà nước của Quốc hội được thực hiện bằng nghị quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với mọi chủ thể kinh tê - xã hội liên quan đến quá trình lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra và thanh tra ngân sách nhà nước. Do đó, Nghị quyết của Quốc hội và bản dự toán thu, chi tài chính của quốc gia được xem là một đạo luật và được gọi là Đạo luật ngân sách nhà nước hàng năm (Đạo luật ngân sách thường niên).
0 nhiều nưốc, trong luật thực định có các quy định về giá trị pháp lý của văn kiện nhà nước về dự toán thu, chi tài chính của quốc gia sau khi được cơ quan lập pháp (Quốc hội hoặc Nghị viện) phê chuẩn. Chẳng hạn, sắc luật ngày 02/1/1959 của Chính phủ Pháp có quy định, ngân sách là đạo luật tài chính của năm.
Trước đây, ỏ nưóc ta, theo Điều 4 Điều lệ Lập và chấp hành ngân sách nhà nước ban hành theo Nghị định sô' 168/CP ngày 20 tháng 10 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ quy định: Ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn là một đạo luật.
2. Hệ thống ngân sách nhà nưóc
Hệ thống ngân sách nhà nước có thể xem xét dưới hai phương diện cơ bản là phương diện vật chất và phương diện cấu trúc. Vê' phương diện vật chất, hệ thông ngân sách nhà nước là toàn bộ quỹ ngân sách nhà nước các cấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vê' phương diện cấu trúc, hệ thông ngân sách nhà nước là tập hợp các cấp ngân sách thông nhất từ trung ương đến địa phương. Thông thường ở các nước, các cấp ngân sách trong hệ thông ngân sách nhà nước được tổ chức tương ứng vối các cấp chính quyền nhà nước. Ó các nước tổ chức nhà nước theo hình thức liên bang thì hệ thống ngân sách nhà nước gồm: ngân sách liên bang, ngân sách bang, ngân sách địa phương. Còn các nước tổ chức nhà nước theo hình thức đơn nhất thì hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm hai bộ phận hợp thành là ngần sách trung ương và ngân sách địa phương.
Hệ thông ngân sách nhà nước ỏ nước ta được tổ chức theo nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ. công khai, minh bạch, có phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Các cấp của hệ thông ngân sách nhà nước được xây dựng phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Điều 4 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, ngân sách nhà nưốc bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm: ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân.
Ngân sách trung ương bao gồm dự toán kinh phí của các bộ, ban, ngành thuộc bộ máy nhà nưốc trung ương, dự toán kinh phí của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính tri- xã hội thuộc diện được Nhà nước cân đối kinh phí hoạt động, gồm:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Liên đoàn Lao động Việt Nam;
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam;
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Hội Nông dân Việt Nam.
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã và các đơn vị hành chính tương đương có Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước là một hệ thông thống nhất. Ngân sách nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước cấp dưới là một bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên, ngân sách địa phương và ngân sách trung ương hợp thành ngân sách nhà nước. Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định: Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Các cấp chính quyền địa phương có quyền hạn rộng rãi trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của cấp mình nhưng quyền quyết định những vấn đề cơ bản và quan trọng về ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
II. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, QUAN HỆ PHÁP LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯÓC
1. Khái niệm pháp luật ngân sách nhà nưốc
Ngân sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội ỏ mỗi quốc gia, đối với việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nưốc.
Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất về quan điểm cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải sử dụng ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực hiện chức năng của Nhà nước. Đồng thòi, nhà nước cần phải sử dụng ngân sách nhà nước làm công cụ điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, tác động đối với sự vận động của xã hội đi theo hướng tích cực.
Hoạt động ngân sách nhà nước làm phát sinh nhiều loại quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước, giữa Nhà nước vối các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Để các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ngân sách của nhà nưốc phát sinh và vận động phù hợp với lợi ích của nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng pháp luật đê điểu chỉnh chúng. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động ngân sách của Nhà nưác tạo thành pháp luật ngân sách nhà nưóc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Pháp luật ngân sách nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra ngân sách nhà nước và trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật ngân sách nhà nưóc được phân chia thành các bộ phận sau:
Thứ nhất, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra về ngân sách nhà nước, vê' nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nưốc. Các quy phạm pháp luật này chứa ỏ các loại văn bản pháp luật sau:
- Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; - Gác nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nươc, các đạo Luật về tổ chức bộ máy nhà nưóc, Luật Ngân sách nhà nưốc được Quốc hội thông qua năm 2002, các văn bản quy định chi tiết và hưóng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nưổc do Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành;
- Một số văn bản pháp luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước; Thứ hai, nhóm các quy phạm pháp luật quy định hình thức, nội dung, phương thức thực hiện các khoản thu ngân sách nhà nước, ở nước ta hiện nay, các hình thức thu ngân sách nhà nước rất đa dạng. Do đó, các quy phạm pháp luật quy định về thu ngân sách chứa ở nhiều loại văn bản pháp luật như các luật về thuế, các văn bản pháp luật về các chế độ thu phí, lệ phí...Nhóm quy phạm pháp luật này gọi là pháp luật thu ngân sách nhà nước hay chế độ thu ngân sách nhà nưốc.
Thứ ba, nhóm các quy phạm pháp luật quy định hình thức, nội dung, phương thức thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật quy định chế độ chi ngân sách nhà nưốc cho đầu tư xây dựng, chi cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ tư, nhóm các quy phạm pháp luật quy định về quản lý quỹ ngân sách nhà nưốc. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật quy định vê quản lý vôn ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nưóc.
2. Quan hệ pháp luật ngân sách nhà nưóc
2.1. K h á i niệm
Hoạt động của ngân sách nhà nước làm phát sinh các quan hệ xã hội giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đê các quan hệ xã hội này phát sinh, phát triển phù hợp vói ý chí của Nhà nước, Nhà nước sử dụng pháp luật đế điêu chỉnh chúng. Sự điều chỉnh của pháp luật đôi với các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động ngân sách của Nhà nước làm cho các quan hệ đó trỏ thành các quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước.
Quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước có các đặc điếm chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nhà nưóc luôn luôn là một bên tham gia quan hệ luật ngân sách nhà nưốc. Nhà nước thực hiện quyền năng chủ thể quan hệ pháp luật ngân sách nhà nưóc thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Nhà nước thực hiện thu ngân sách nhà nưốc dưới hình thức thuế thông qua Cơ quan tài chính và hệ thông Kho bạc nhà nưóc (ở một sô" nước gọi là ngân khô' quốc gia).
Thứ hai, hành vi của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước luôn bị chi phối bởi mục đích của nhà nưốc là lập, phân phôi và sử dụng quỹ ngân sách thuộc sở hữu nhà nước. Ví dụ: Công dân tham gia quan hệ thu ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm mục đích của Nhà nước là lập quỹ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước mang tính chu kỳ. Điều này xuất phát từ tính chu kỳ của hoạt động ngân sách của Nhà nưốc là gắn với dự toán ngân sách hàng năm. Mỗi năm một dự toán ngân sách nhà nước được lập, chấp hành và kết thúc bằng việc quyết toán, năm tiếp theo dự toán ngân sách lại được lập chấp hành, quyết toán, trong chu kỳ ấy hàng loạt quan hệ pháp luật ngân sách phát sinh và chấm dứt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2. Cấu trúc q u an h ệ p h á p lu ật ngăn s á c h n h à nước 2.2.1. Chủ th ể của quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước Nhà nước là chủ thể thường xuyên của quan hệ pháp luật ngân
sách nhà nước. Nhà nước có thể thực hiện quyển chủ thể với tư cách chủ thể quyền lực chính trị hoặc với tư cách là chủ thể bình đẳng tham gia quan hệ với các chủ thể khác. Ví dụ: Khi Nhà nước thực hiện việc thu thuế thì nhà nước tham gia quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước với tư cách chủ thể quyền lực, còn khi nhà nước tham gia quan hệ vay dần trong quan hệ tín dụng Nhà nước thì Nhà nước (bên vay) và bên cho vay hoàn toàn bình đẳng vói nhau về tư cách chủ thể.
Cơ quan nhà nước, các tô chức, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, các doanh nghiệp là chủ thể của nhiều loại quan hệ pháp luật ngân sách nhà nưốc. Ví dụ: Một doanh nghiệp tham gia quan hệ pháp luật ngân sách khi nộp thuế; một tô chức tham gia quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước trong trường hợp mua công trái xây dựng Tổ quôc...
Cá nhân công dân Việt Nam, người nước ngoài có thể trỏ thành chủ thể quan hệ pháp luật ngân sách trong nhiều trưòng hợp như nộp thuế, nộp lệ phí hay nộp các khoản đóng góp tự nguyện cho Nhà nước...
2.2.2. Khách th ể quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước Khách thể quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước là các hành vi mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Các hành vi mà các chủ thể thực hiện trong quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước luôn hướng tới đôi tượng cụ thể như lợi ích vật chất (Ví dụ: khoản tiền thuế) hay một công việc (Ví dụ: xây dựng bản dự toán ngân sách nhà nước, lập báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước...). Do các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ngân sách của Nhà nước luôn luôn được các quy phạm pháp luật điều chỉnh nên hành vi mà các chủ thể thực hiện luôn gắn liền với quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các hành vi xử sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
của các chủ thể trái vối quyền và nghĩa vụ pháp lý đểu bị xem là vi phạm pháp luật.
2.2.3.Quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Tuỳ thuộc vào từng quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước cụ thể mà các chủ thể có quyền và nghĩa vụ. Ví dụ: Doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế nhưng có quyền được hoàn thuế trong trường hợp quyết toán có số thuê nộp thừa.
Về phương diện xây dựng pháp luật, do toàn bộ hoạt động ngân sách của Nhà nước gắn liền với mục tiêu lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách của nhà nưốc nên việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nưóc.
3. Nguyên tắc quản lí ngãn sách nhà nưỗc
Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo chung của Nhà nước trong việc ban hành và áp dụng các quy phạm pháp luật để quản lý ngân sách nhà nước, trong việc áp dụng các biện pháp để bảo đảm thực hiện hoạt động quản lý ngân sách nhà nưốc. Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định: “Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công trách nhiệm gắn vói quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành,các cấp.
Tập trung dân chủ là một trong những yêu cầu cơ bản của tổ chức và hoạt động của Nhà nưốc ta. Trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, nguyên tắc này đòi hỏi phải bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành thống nhất của chính quyền trung ương, đồng thòi, trao quyền hạn và nhiệm vụ cho địa phương tương thích với nhiệm vụ của chính quyền địa phương trên tết cả các mặt hoạt động ngân sách của nhà nước: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, chế độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
trao quyền hạn tổ chức quản lý ngân sách; phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi. Mặt khác, trong tổ chức và quản lý ngân sách phải đảm bảo dân chủ nhưng không trái với yêu cầu bảo đảm sự tập trung thống nhất.
Công khai và minh bạch trong quản lý ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm quản lý có hiệu quả và ngân sách nhà nước được sử dụng đúng mục đích là phục vụ lợi ích quốc gia. Công khai quản lý ngân sách nhà nước có nghĩa là với cách thức thích hợp phải bảo đảm nhân dân biết về quản lý ngân sách của Nhà nước. Công khai trong quản lý ngân sách phải gắn với yêu cầu là việc quản lý phải rõ ràng (minh bạch). Công khai và minh bạch trong quản lý ngân sách nhà nước là yêu cầu cụ thể của nguyên tắc hiến định: Tất cả quyền lực nhà nưốc thuộc về nhân dân.
Việc quản lý ngân sách nhà nước phải có sự phân công, phân cấp giữa các ngành, các cấp theo phương châm trách nhiệm gắn vối quyền hạn. Điều này có nghĩa là hệ thông ngân sách nhà nước gồm nhiều bộ phận hợp thành và do nhiều cấp, ngành tham gia quản lý nhưng quyền hạn quản lý tương ứng vối trách nhiệm.
III. CHẾ Đ ộ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là phân định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà nước trong hoạt động ngân sách của nhà nước, phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước.
Thực chất việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc phân chia quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích giữa chính quyền nhà nưóc trung ương với các cấp chính quyền địa phương. Các nước trên thế giới thường áp dụng hai mô hình cơ bản về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Mô hình thứ nhất, Chính quyền trung ương quản lý và nắm toàn bộ quyền hạn về ngân sách và không có ngân sách địa phương. Các cấp chính quyền địa phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỉ thực hiện chi tiêu theo mức kinh phí được cấp mà không có nhiệm vụ, quyền hạn về lập, chấp hành ngân sách nhà nưốc. Mô hình này áp dụng ở những nước thực hiện cơ chê hành chính tập quyền. Mô hình thứ hai, các cấp chính quyền trung ương và địa phương đều có nhiệm vụ, quyển hạn vê' ngân sách. Chính quyên Trung ương nắm giữ các khoản thu lớn và đảm nhiệm các khoản chi mang tính toàn quốc còn chính quyền địa phương được giao quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực hiện ngân sách của địa phương mình. Ngày nay, mô hình thứ hai là mô hình được nhiều nước áp dụng.
Việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cơ sỏ đê Nhà nưốc điều hành toàn bộ hệ thông ngân sách. Do đó, việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước mang tính hợp lý sẽ đảm bảo phát huy vai trò của ngân sách nhà nước về nhiều mặt.
Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 của Nhà nước ta, ngân sách nhà nước được phân cấp theo các nguyên tắc sau đây: Thứ nhất, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải đảm bảo vai trò và hiệu lực quản lí cụạ chính quyền trụng ương, đồng thời phát huy quyền chủ động, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương.
Chính quyền trung ương là cấp quản lí thông nhất các chính sách chế độ về ngân sách nhà nưốc trong phạm vi cả nước. Các cấp chính quyền địa phương trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn mà pháp luật quy định, thực hiện việc áp dụng các chính sách, chế độ của Nhà nước ỏ địa phương.
Những nguồn thu cơ bản được tập trung vào ngân sách trung ương đế Nhà nước thực hiện nhiệm vụ chi mang tính toàn quốc. Ngân sách địa phương được phân định nguồn thu để thực hiện các nhiệm vụ chi phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính qụyền địa phương.
Thứ hai, phân cấp quản lý ngân sách phải phù hợp vối phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, với tổ chức hệ thông chính quyền nhà nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ ba, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, sô' bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm.
Tập hợp các quy phạm pháp luật quy định vê phân cấp quản lý ngân sách nhà nước tạo thành chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nưốc, gồm các nhóm quy phạm pháp luật sau:
- Các quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà nưốc trong hoạt động ngân sách nhà nước.
- Các quy phạm pháp luật phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
2. Nội dung chế dộ phân cấ p quàn lý ngãn sách nhà nước
2.2ế T rách nhiệm , quyền h ạn củ a c á c cơ q u an ch ín h quyên n h à nước tron g h o a t đôn g n gân sá c h củ a n h à nước Trách nhiệm quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà nước được quy định tại các Điều 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
2.1.1. Quốc hội
Với vị trí và vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền hạn và nhiệm vụ quyết định những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất về ngân sách nhà nưốc.
Cụ thể hoá Điều 83 và Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 tại Điều 15 quy định cụ thể quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, cụ thể là:
1. Làm Luật và sửa đổi Luật trong lĩnh vực tài chính - ngân sách; 2. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quổc gia để góp phần phát triển kinh tế, đảm bảo cân đối thu chi ngân sách nhà nưốc; 3. Quyết định dự toán ngân sách nhà nước với tổng sô" chi, mức bội chi và nguồn bù đắp;
4. Quyết định phân bổ ngân sách trung ương;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
5. Quyết định các chương trình, dự toán quốc gia quan trọng được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước;
6. Quyết định điểu chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trưòng hợp cần thiết;
7. Giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nưóc hàng năm, các chương trình, dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng;
8. Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
2.1.2. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ trong lĩnh vực ngân sách nhà nước được quy định tại Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá tại Điều 20 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
Hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm nhiều cấp, có tính thống nhất của toàn bộ hệ thống vừa có tính độc lập của mỗi cấp ngân sách. Điều đó đặt ra yêu cầu cho quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước phải có sự quản lý, điều hành thống nhất.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quổc hội và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước, Chính phủ được giao các nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng trong lĩnh vực ngân sách trên các mặt: Xây dựng pháp luật, tổ chức xây dựng dự toán ngân sách nhà nước, tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước, tổ chức quyết toán ngân sách nhà nước.
Về xây dựng pháp luật trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn trình Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội, các dự án luật, pháp lệnh về ngân sách nhà nưóc; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền.
Ngoài ra, Chính phủ còn có nhiệm vụ, quyền hạn trình để Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành các văn kiện về tài chính - ngân sách.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vê' xây dựng dự toán ngân sách nhà nước, mặc dù dự toán ngân sách nhà nước các cấp do các cấp chính quyền xây dựng nhưng để bảo đảm tính thông nhất của ngân sách cụa quốc gia, Chính phủ được giao nhiệm vụ, quyền hạn tô chức việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước và trình Quốc hội quyết định. Ví dụ: hàng năm Thủ tướng Chính phủ quyết định việc lập dự toán ngân sách nhà nưốc năm sau, Bộ Tài chính căn cứ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ sẽ ra văn bản hướng dẫn các ngành, các cấp lập dự toán ngân sách của cấp mình, ngành mình. Sau khi dự toán ngân sách của cả nước được lập, Chính phủ trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Tổ chức thực hiện ngân sách nhà nưốc (chấp hành ngân sách nhà nưổc) là hoạt động thuộc chức năng hành pháp của quyền lực nhà nước. Do đó, Chính phủ có nhiệm vụ, quyển hạn của cơ quan hành pháp trong việc tổ chức thực hiện ngân sách nhà nưốc. Ví dụ: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ, quyển hạn thông nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phôi hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành và địa phương trong thực hiện ngân sách; Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán ngân sách.
Sau khi thực hiện các khoản thu, chi trong một năm ngân sách, cần có sự đánh giá và tổng kết, hoạt động này gọi là quyết toán ngân sách nhà nước. Việc quyết toán ngân sách được thực hiện ở tất cả các đơn vị có thu, chi ngân sách. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ, quyển hạn chỉ đạo các ngành, các cấp lập quyết toán ngân sách và trình quyết toán ngân sách nhà nưốc để Quốc hội xem xét và phê chuẩn.
Ngoài các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ, ồ cấp chính quyền nhà nước trung ương, Luật Ngân sách nhà nước còn có các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực ngân sách của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của uỷ ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
uỷ ban khác của Quốc hội, của Chủ tịch nưốc, của Bộ Tài chính, các bộ, ngành.
2.1.3. Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nưốc ỏ địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong lĩnh vực ngân sách nhà nưốc được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ở Điều 120. Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp trong lĩnh vực ngân sách.
Hội đồng nhân dân các cấp có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định dự toán thu, chi ngân sách địa phương và giám sát thực hiện ngân sách địa phương. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định việc điều chỉnh ngân sách địa phương.
So với Luật Ngân sách năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998), nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đã được mở rộng nhằm phát huy tính chủ động của chính quyền địa phương trong hoạt động ngân sách. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền: quyết định phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi các cấp ngân sách ở địa phương; quyết định tỷ lệ điều tiết ngân sách các cấp ở địa phương. Ngoài ra, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn có quyền quyết định thu phí, lệ phí, phụ thu và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; quyết định phân cấp chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương do uỷ ban nhân dân cùng cấp trình. (Xem Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước).
2.1.4. uỷ ban nhân dân
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong lĩnh vực ngân sách, theo Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Uỷ ban nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng vối vị trí, vai trò của nó trong bộ máy nhà nước trên các mặt: Tô chức xây dựng dự toán ngân sách, tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách địa phương. Ngoài ra, uỷ ban nhân dân còn có các nhiệm vụ, quyền hạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác như: Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính - ngân sách, báo cáo về tình hình ngân sách địa phương v.v... (Xem Điều 26 Luật Ngân sách nhà nước).
2.2. N guồn thu, n hiệm vụ ch i củ a c á c c ấ p n gân sá c h 2.2.1. Nguồn thu
Nguồn thu của các cấp ngân sách được thực hiện theo ba chế độ: thu 100%, thu phân chia theo tỷ lệ, thu bổ sung.
Khoản thu 100% là khoản thu mà pháp luật quy định một cấp ngân sách được hưỏng toàn bộ sô’ thu.
Luật Ngân sách nhà nước năm 1996 (sửa đổi năm 1998) quy định cụ thể các khoản thu 100% cho tất cả các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách (ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã và các đơn vị hành chính tương đương). Để đảm bảo chủ động cho chính quyền nhà nước ở các địa phương (các tỉnh) trong việc điều hành ngân sách, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 chỉ quy định cụ thể các khoản thu 100% cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương mà không quy định cụ thể khoản thu 100% cho các cấp ngân sách thuộc các cấp ngân sách địa phương. Điều 34 Luật Ngân sách nhà nưốc năm 2002 quy định, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách của chính quyền địa phương.
Khoản thu phân chia theo tỷ lệ là khoản thu mà nhiều cấp ngân sách được hưởng sô" thu từ một khoản thu theo tỷ lệ phần trăm (%) ‘ìo cơ quan có thẩm quyền quy định.
Tỷ lệ hưỏng khoản thu theo tỷ lệ giữa các cấp ngân sách được ấn định từ 3 đến 5 năm. Chính phủ quy định tỷ lệ được hưỏng khoản thu giữa ngân sách trung ương với ngân sách từng tỉnh, thành phô' trực thuộc trung ương. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định hưỏng tỷ lệ được hưởng khoản thu giữa ngân sách cấp tỉnh vối ngân sách từng huyện, quận, thị xã, thành phô' trực thuộc tỉnh và ngân sách từng xã, thị trấn.
Riêng đốì với một sô' khoản thu, Luật Ngân sách nhà nước quy định tỷ lệ tối thiểu được hưồng sô" thu cho từng cấp ngân sách thuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngân sách địa phương. Ví dụ: Ngân sách xã, thị trấn được hưỏng tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuê nhà, đất; thuế môn bài từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trưổc bạ nhà, đất.
Khoản thu b ổ sung là khoản thu mà ngân sách nhà nước cấp trên bổ sung cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo cân đối thu, chi ngân sách, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội được giao, được duy trì ổn định từ 3 đến 5 năm. Theo quy định của pháp luật, thu bổ sung có hai loại là thu bổ sung cân đốỉ và thu bổ sung có mục tiêu.
Thu bổ sung cân đối là khoản thu của ngân sách cấp dưới nhằm đáp ứng các khoản chi bình thường của ngân sách cấp đó trong năm ngân sách. Việc sử dụng khoản chi này vối mục đích gì là quyền của ngân sách cấp đó.
Thu bổ sung có mục tiêu là khoản thu của ngân sách cấp dưới nhằm thực hiện một mục tiêu xác định. Ví dụ: bổ sung nhằm thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình tăng lương cho người lao động V .V .. Ngân sách được cấp bổ sung không được quyền thay đổi mục đích chi.
2.2.2. Nhiệm vụ chi
Nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách được pháp luật quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao của mỗi cấp chính quyền nhà nưóc.
Ngân sách trung ương phải thực hiện những khoản chi nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ mang tính toàn quốc. Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương gồm nhũng khoản chi nhằm bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi địa phương.
Ví dụ: Đôi với các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao... nếu do cơ quan trung ương quản lý thì nhiệm vụ chi thuộc ngân sách trung ương, nếu cơ quan quản lý là cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cấp xã thì nhiệm vụ chi thuộc các cấp ngân sách tương ứng với cơ quan quản lý của địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước quy định, trường hợp cơ quan quản lý nhà nưốc cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưối thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
Các khoản thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách được quy định cụ thể tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
IV. CHẾ Đ ộ LẬP, CHẤP HÀNH, QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Lộp dự toán ngân sách nhà nưóc hàng nãm
Lập dự toán ngân sách nhà nước là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các chỉ tiêu dự kiến thu, chi trong một năm đ ể đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Kết quả của việc lập dự toán ngân sách nhà nước thể hiện bằng bản dự toán ngân sách nhà nước. Bản dự toán ngân sách nhà nước được tổ chức xây dựng, tổng hợp từ cơ quan thu, đơn vị sử dụng ngân sách theo biểu mẫu nhà nước.
Mục đích thu, chi nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong việc lập dự toán ngân sách nhà nước là dấu hiệu cơ bản để phân biệt dự toán ngân sách nhà nưốc vối kế hoạch tài chính của các chủ thể khác như của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.v.v...
Lập dự toán ngân sách nhà nước là giai đoạn đầu tiên của hoạt động ngân sách của Nhà nước trong niên hạn ngân sách. Luật Ngân sách nhà nước của các nước đểu quy định cụ thể và chặt chẽ trình tự, thủ tục, thời gian, thẩm quyền lập dự toán ngân sách nhà nước. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, vào cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước trong việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước có những đặc điểm riêng.
Ở nhiều nưốc theo chế độ đại nghị, mặc dù về nguyên tắc, thẩm quyền xây dựng dự toán ngân sách nhà nưóc thuộc Chính phủ nhưng Bộ trưởng Bộ Tài chính có nhiều quyền hạn mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tính chất độc lập với Chính phủ. Ví dụ: Bộ trưởng Bộ Tài chính có quyền xét duyệt dự toán kinh phí của các bộ. Nếu có sự bất đồng quan điểm vê dự toán kinh phí giũa Bộ trưởng Bộ Tài chính vối một Bộ trưởng khác thì Thủ tưống Chính phủ sẽ đóng vai trò trọng tài. ở những nước theo chê độ Tổng thống, việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước được giao cho bộ phận chuyên trách ngân sách trực thuộc Tổng thông.
0 nước ta, theo quy định của Hiến pháp, của Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ là cơ quan có nhiệm vụ, quyển hạn lập và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước. Quá trình xây dựng dự toán ngân sách nhà nưổc ở nước ta được thực hiện như sau:
Hàng năm, căn cứ quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội và dự toán ngân sách nhà nưóc năm sau, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hưống dẫn về yêu cầu, nội dung, thòi hạn lập dự toán ngân sách nhà nưóc và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho các bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh. Trên cơ sở đó, các bộ, các cơ quan trung ương, uỷ ban nhân dân các cấp trên, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể củá ngành, địa phương hưống dẫn và thông báo số kiểm tra cho các đơn vị trực thuộc hoặc Uỷ ban nhân dân cấp dưới.
Sô' kiểm tra là chỉ tiêu thu, chi mang tính hướng dẫn đặt ra giới hạn thu, chi cho các ngành, các cấp. Sô kiểm tra đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng dự toán ngân sách của các ngành, các cấp. Bởi vì, sô' kiểm tra được xây dựng trên cơ sỏ những cân đối lớn của nền kinh tế, phản ánh khả năng khai thác nguồn thu và nhiệm vụ chi trong năm ngân sách của quốc gia được cụ thể hoá bằng những con sô" để các ngành các cấp căn cứ vào đó mà xây dựng dự toán ngân sách.
Trên cơ sở nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh; chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể của năm; kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế - xã hội; các chế độ chính sách và pháp luật về thu, chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngân sách nhà nưốc; tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm trước và sô' kiểm tra, các ngành, các cấp tổ chức xây dựng dự toán ngân sách của cấp mình, ngành mình.
Theo nguyên tắc thông nhất, dự toán ngân sách nhà nước được xây dựng từ cấp ngân sách thấp nhất. Dự toán ngân sách cấp dưới là bộ phận hợp thành của dự toán ngân sách cấp trên.
Dự toán ngân sách của đơn vị trực thuộc bộ, ngành, cơ quan trung ương hợp thành dự toán ngân sách trung ương.
Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trong việc thu, chi ngân sách phải tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách trong phạm vi nhiệm vụ được giao và gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Cơ quan tài chính cùng cấp ở địa phương xem xét dự toán ngân sách của các cơ quan, đơn vị cùng cấp và dự toán ngân sách của cấp chính quyền cấp dưới, tổng hợp lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương để báo cáo Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình Hội đồng nhân dân cùng cấp.
uỷ ban nhân dân các tỉnh lập dự toán ngân sách địa phương báo cáo thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, cho ý kiến, gửi Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan để tổng hợp, lập dự toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ.
Sau khi dự toán ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao, uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
Đôi với ngân sách trung ương, Bộ Tài chính chủ trì phổỉ hợp với các Bộ, căn cứ vào dự toán thu chi do các bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh lập, dự toán chi theo ngành, lĩnh vực chi, chương trình quốc gia cho các bộ, cơ quan quản lý chương trình quốc gia lập, nhu cầu trả nợ và khả năng vay, lập dự toán thu, chi ngân sách trung ương.
Điều 40 Luật Ngân sách nhà nước quy định, Bộ Tài chính xem xét dự toán ngân sách của cơ quan trung ương, dự toán ngân sách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
các địa phương, tổng hợp và lập dự toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ.
Dự toán ngân sách nhà nưốc do Chính phủ trình Quốc hội, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nưóc năm sau trước ngày 15 tháng 11 năm trưóc.
Trong trường hợp dự toán ngân sách nhà nước chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách nhà nưốc vào thời gian do Quốc hội quy định.
Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội và nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội về ngân sách, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, ngành; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho từng tĩnh.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. Hội đồng nhân dân cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách năm sau của cấp mình chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách.
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, uỷ ban nhân dân quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
2. Chấp hành ngân sách nhà nưóc
Chấp hàn h ngân sách nhà nước là tổ chức thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách nhà nước đã được quyết định.
Hoạt động ngân sách nhà nưốc làm phát sinh nhiều mối quan hệ giữa Nhà nước vối các pháp nhân, thể nhân trong xã hội. Tuy vậy, do tính chất hoạt động chấp hành ngân sách là hoạt động mang tính quyền lực nhà nưóc của cơ quan hành pháp nên quyền hạn, nhiệm vụ tổ chức thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước thuộc hệ thông cơ quan hành pháp. Các pháp nhân và thể nhân khác không có quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
của chủ thể chấp hành ngân sách, họ chỉ có quyền và nghĩa vụ liên quan đến thực hiện pháp luật ngân sách nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn thống nhất quản lý ngân sách nhà nưốc, uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện ngân sách địa phương.
Để đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu thu, chi ngân sách nhà nước trên thực tế, pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ, của Ưỷ ban nhân dân các cấp, của các cơ quan chức năng của Nhà nước trong việc thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước.
Nội dung chấp hành ngân sách nhà nước bao gồm:
- Tổ chức và thực hiện thu ngân sách nhà nưóc;
- Tổ chức và thực hiện chi ngân sách nhà nưóc.
3. Quyết toán ngân sách nhà nước
Quyết toán ngân sách nhà nước là thực hiện tổng kết, đánh giá việc chấp hành ngân sách nhà nước.
Quyết toán ngân sách nhà nước được thực hiện từ cấp đơn vị có nhiệm vụ thu, chi ngân sách. Trình tự các bưóc thực hiện quyết toán ngân sách nhà nước tương tự như xây dựng dự toán ngân sách nhà nước.
Cuối năm ngân sách, Bộ Tài chính có trách nhiệm hưóng dẫn việc lập báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng các nội dung ghi trong dự toán năm được duyệt và theo mục lục ngân sách nhà nước (Bảng ghi các mục chi cho các ngành, các địa phương).
Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tài chính, thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ thu, chi ngân sách lập quyết toán thu, chi ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên. Thủ trưỏng các đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết toán thu, chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, lập quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Cơ quan tài chính các cấp ồ địa phương xét duyệt quyết toán thu, chi ngân sách của các cơ quan cùng cấp, thẩm tra quyết toán ngân sách cấp dưói, tổng hợp lập quyết toán ngân sách địa phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
trình uỷ ban nhân dân cùng cấp để Uỷ ban nhân dân xem xét, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, báo cáo cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
Bộ Tài chính xem xét quyết toán thu, chi ngân sách của các cơ quan trung ương, thẩm tra quyết toán ngân sách địa phương, tong hợp, lập quyết toán ngân sách Nhà nước trình Chính phủ để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội phê chuẩn.
Việc Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nưốc mang giá trị pháp lý là sự thừa nhận kết quả chấp hành ngân sách và sự chấp thuận những khác biệt giữa kết quả thực tế với dự toán ngân sách nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 và Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 đều ghi nhận quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội đối vối việc phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nưóc.
Trong trường hợp quyết toán ngân sách chưa được Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn thì Chính phủ, Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán phải tiếp tục làm rõ những vấn đề Quốc hội, Hội đồng nhân dân yêu cầu để trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân vào thời gian do Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định.
V. CHẾ Đ ộ QUẢN LÝ QUỶ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Quản lý quỹ ngân sách nhà nước là tổ chức thu nhận, phân phối và kiểm soát vốn ngân sách nhà nước trên cơ sở k ế hoạch, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
Quản lý quỹ ngân sách nhà nước là hoạt động có các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý quỹ ngân sách nhà nước là hoạt động quản lý nhà nưốc (thuộc hoạt động chấp hành và hành chính nhà nước). Do đó, chỉ có các cơ quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ mới được phép tiến hành hoạt động quản lý quỹ ngân sách nhà nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ hai, mục đích của hoạt động quản lý quỹ ngân sách nhà nước là nhằm lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nưốc. Thứ ba, căn cứ để thực hiện hành vi quản lý quỹ ngân sách nhà nước là dự toán ngân sách nhà nưốc đã được cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn và pháp luật của Nhà nước. Ví dụ: để cấp phát vốn sử dụng cho chi tiêu của một trường đại học công lập, cơ quan tài chính và cơ quan Kho bạc Nhà nước phải căn cứ vào dự toán kinh phí ngân sách cấp cho đơn vị này và các quy định của Nhà nước vê' định mức tiêu chuẩn chi tiêu ngân sách.
2. C á c co quan nhà nước quàn lý quỹ ngân sách nhà nưỏc
2.1. K ho b ạ c n h à nước
các nước, tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức hệ thông định chế tài chính công quyền mà chức năng của cơ quan quản lí quỹ ngân sách nhà nước có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên, ở các nưốc đều có một cơ quan trực tiếp quản lý quỹ ngân sách nhà nưốc nên người ta thường ví nó là người thủ quỹ của quốc gia.
ở Việt Nam, theo Nghị định số 235/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, Kho bạc Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng thủ quỹ của ngân sách nhà
nước, được tổ chức theo hệ thông thống nhất bao gồm ba cấp: - Kho bạc nhà nưổc trung ương: chịu trách nhiệm thốrrg nhất quản lý quỹ ngân sách trung ương;
- Kho bạc nhà nước cấp tỉnh: quản lý quỹ ngân sách tỉnh và cấp tương đương;
- Kho bạc nhà nước cấp quận, huyện: quản lý quỷ ngồn sách quận, huyện và cấp tương đương, quỹ ngân sách cấp xã. Nội dung quản lý quỹ ngân sách của Kho bạc nhà nước gồm: - Tham gia kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước;
- Tổ chức thu nhận, cấp phát vốn thuộc ngân sách nhà nước và kiểm soát thu, chi ngân sách nhà nước;
- Thực hiện các nghiệp vụ quản lý khác liên quan đến quản lý quỹ ngân sách như tổ chức thanh toán cho các tổ chức thuộc diện mỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tài khoản tại Kho bạc nhà nước, trực tiếp thực hiện các khoản vay và cho vay của Nhà nước.
2.2. Các co quan khác
Việc quản lý quỹ ngân sách nhà nước đòi hỏi phải có sự tham gia của một số cơ quan khác như: cơ quan tài chính chức năng (Bộ Tài chính, Sồ Tài chính - vật giá...). Cơ quan thuế, cơ quan Hải quan, cơ quan quản lý vốn đầu tư của Nhà nưóc, cơ quan quản lý vốn tài sản của Nhà nưóc tại các doanh nghiệp và hệ thông các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Trong sô' các cơ quan này, hệ thông cơ quan tài chính chức năng có liên quan chặt chẽ vối việc quản lý quỹ ngân sách nhà nước và được xem như ngưòi kế toán trưởng của quốc gia. Ngoài các cơ quan trên đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn thực hiện các dịch vụ tài chính cho Chính phủ trong việc quản lý tài khoản tiền gửi của Kho bạc nhà nước.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Nghiên cứu các dấu hiệu cơ bản của ngân sách nhà nước?
2. Những nội dung cơ bản của chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước?
3. Những nội dung cơ bản của chế độ lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
C H Ư Ơ N G II
PHÁP LUẬT VÊ THU NGÂN SÁCH NHÀ Nước
Mục I
KHÁI NIỆM THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, c ơ CẤU CÁC KHOẢN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Thu ngân sách nhà nước là hoạt động chấp hành ngân sách nhà nước nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội vào quỹ ngân sách nhà nước.
Thông qua hoạt động thu ngân sách, nhà nưâc phân phôi và sử dụng nguồn tài chính ngân sách để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều đó thể hiện ở chỗ, hoạt động thu ngân sách của Nhà nước là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện hoạt động thu ngân sách nhà nưốc thì làm phát sinh các mối quan hệ xã hội giữa Nhà nưốc vối các pháp nhân, thể nhân trong xã hội. Các quan hệ này, về bản chất là các quan hệ phân phốỉ. Phổ biến trong các quan hệ thu ngân sách nhà nưóc, Nhà nước tham gia quan hệ vói tư cách chủ thể quyền lực chính trị. Điều này xuất phát từ chỗ, ngày nay ở nước ta cũng như phổ biến trên thế giới, nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nưốc là thuế - khoản thu do Nhà nước ấn định và mang tính chất bắt buộc. Tuy vậy, trong một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
sô' quan hệ thu ngân sách nhà nước, Nhà nước thực hiện hoạt động thu không vối tư cách chủ thể quyền lực chính trị. Chẳng hạn, trong quan hệ nhà nước nhận lợi tức cổ đông từ công ty cổ phần mà Nhà nưóc tham gia; Nhà nưóc vay nhân dần để bù đắp thiêu hụt của ngân sách nhà nước... Mặc dù vậy, cần thấy rằng, khác với hoạt động thu tài chính của các chủ thể kinh tế- xã hội khác, hoạt động thu ngân sách của Nhà nước luôn luôn được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật do chính Nhà nước ban hành.
0 nước ta, do mục tiêu và nhiệm vụ mà Nhà nước đặt ra, do bản chất của quan hệ thu ngân sách nhà nưốc là quan hệ phân phôi của cải nên đòi hỏi Nhà nưốc phải có các hình thức và biện pháp thu phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng nguồn thu. Đồng thòi đòi hỏi Nhà nưóe phải giải quyết hợp lý lợi ích vật chất giữa Nhà nưóc với các chủ thể khác trong xã hội. Nếu lợi ích này không được giải quyết hợp lý sẽ gây những tác động xấu đốỉ với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội.
Thu ngân sách nhà nước về phương diện kinh tế được xem là một mặt của khâu ngân sách nhà nưóc.
Các khoản thu ngân sách nhà nước thể hiện bằng các đơn vị tiền tệ là kết quả của hoạt động thu ngân sách nhà nước. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nưốc năm 2002, tất cả các khoản thu của ngân sách nhà nước phải được hạch toán đầy đủ vào ngần sách nhà nước.
2. C o cấu c á c khoản thu ngân sách nhà nưỏc
Các khoản thu ngân sách nhà nưốc theo quy định của pháp luật là nguồn của cải phải được tập trung vào quỹ ngân sách nhà nưốc và Nhà nước là chủ sỏ hữu chúng.
Điều 2 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức cá nhân; các khoản viện trỢ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Căn cứ vào bản chất pháp lý của quan hệ thu nộp, các khoản thu của ngân sách nhà nước được phân chia làm hai loại: các khoản thu hoàn trả và các khoản thu không hoàn trả.
Khoản thu ngân sách nhà nước hoàn trả là khoản thu được tập trung vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước nhưng sau một thời gian nhất định Nhà nước trả lại cho người nộp.
Khoản thu ngân sách nhà nước không hoàn trả là khoản thu được tập trung vào ngân sách nhà nưóc để sử dụng cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, không tr,ả lại cho người nộp.
Dựa vào nội dung kinh tế, các khoản thu của ngân sách nhà nước được phân chia thành hai nhóm lớn.
Nhóm I: Thu từ thuế, phí, lệ phí
Các khoản thu thuộc nhóm I như các khoản thu từ thuế (thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất nông nghiệp...), thu từ phí, lệ phí (lệ phí trước bạ, phí giao thông...)-
Nhóm II: Thu ngoài thuế.
Các khoản thu nhóm II như: lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần, liên doanh; tiền bán, cho thuê tài sản nhà nước, viện trợ...
II. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯÓC
1. Khái niệrti
Pháp luật thu ngân sách nhà nước là bộ phận cấu thành của pháp luật ngân sách nhà nước, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà niíóc với các pháp nhân và thể nhân trong quá trình nhà nước thực hiện hoạt động thu ngân sách nhà nước.
Mục đích của hoạt động thu ngân sách của Nhà nưốc là lập quỹ ngân sách nhà nước. Do đó, quan hệ thu ngân sách nhà nước tác động trực tiếp đến lợi ích vật chất của các bên tham gia quan hệ. Để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các pháp nhân và thể nhân trong một trật tự phù hợp với ý chí của Nhà nưốc, đòi hỏi Nhà nưốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
cần ban hành các quy phạm pháp luật làm quy tắc xử sự cho các bên tham gia quan hệ thu ngân sách nhà nước. Bộ phận pháp luật này gọi là bộ phận pháp luật thu ngân sách nhà nước.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật thu ngân sách nhà nước gồm: - Quy định hình thức, nội dung cấc khoản thu và phương thức thực hiện;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ thu nộp; - Quy định các hình thức khen thưởng, khuyến khích vật chất đối với tổ chức và cá nhân thuộc diện khen thưởng hoặc chế tài áp dụng đổi với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật thu ngân sách nhà nước; Các khoản thu ngân sách nhà nước có nguồn hình thành rất đa dạng như lợi tức kinh doanh, thu nhập từ tiền công lao động v.v... và đối tượng nộp (người nộp) cũng gồm nhiều loại như đối tượng bắt buộc, đối tượng tự nguyện... Do đó, các biện pháp bảo đảm thực hiện các khoản thu được pháp luật quy định cũng rất khác nhau. Ví dụ: đối vối khoản thu là thuế, Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước, còn đối với các khoản của Nhà nước vay dân, Nhà nưốc thực hiện trên cơ sở giáo dục, tuyên truyền, vận động.
2. Phân loại quy phạm pháp luật thu ngân sách nhà nưóc
Theo nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật ngân sách nhà nước được phân chia làm các nhóm sau đây:
Nhóm I, các quy phạm pháp luật quy định các khoản thu thuế. Đây là bộ phận pháp luật có vai trò quan trọng nhất của pháp luật thu ngân sách nhà nước. Bởi vì, sau cuộc cải cách chê độ thu ngân sách nhà nước được tiến hành từ cuối năm 1989, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước ở nước ta. Các văn bản pháp luật thuế được ban hành dưới nhiều hình thức như luật, pháp lệnh, các văn bản do Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành.
Nhóm II, các quy phạm pháp luật quy định các khoản thu là phí, lệ phí.
Nhóm III, các quy phạm pháp luật quy định các khoản thu ngoài thuế, phí, lệ phí. Các khoản thu của ngân sách nhà nưóc ngoài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuế, phí, lệ phí rất đa dạng như: thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, thu từ viện trợ, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sỏ hữu nhà nước...
Mục II
PHÁP LUẬT THUẾ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THUẾ
1. Định nghĩa
Thuế là khoản tiền m à các pháp nhân và th ể nhân có nghĩa vụ nộp cho Nhà nước, không mang tính hoàn trả và sự đối giá, quy định bằng văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành. Thuế cố các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế là công cụ tập trung tài chính của Nhà nưóc mang tính bắt buộc.
Ngay khi Nhà nước thoát thai từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, thuế là hình thức Nhà nước sử dụng để tập trung một bộ phận của cải xã hội vào trong tay mình, thay thế cho hình thức công nộp mang tính tự nguyện trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Tính bắt buộc của thuế là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt thuế với các hình thức mà dân cư trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ đóng góp cho các tù trưởng, tộc trưởng của các bộ lạc. Tính bắt buộc của thuế thể hiện ở chỗ, việc nộp thuế không dựa vào sự tự nguyện của dân cư mà dựa vào sự cưỡng chế của Nhà nưóc.
Trong xã hội hiện đại, thuế vẫn được nhà nước sử dụng làm công cụ chủ yếu để tập trung một bộ phận của cải xã hội để lập quỹ ngân sách nhà nước và thuế vẫn mang bản chất pháp lý cố hữu là do Nhà nước đặt ra và được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy cưõng chế của Nhà nước.
Thứ hai, thuế là khoản thu của ngân sách nhà nước không mang tính hoàn trả trực tiếp và sự đốì giá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khi Nhà nước thu thuế, các khoản tiền thuế mà các tổ chức, cá nhân nộp cho Nhà nưốc, Nhà nước không bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải hoàn trả lại. Hay nói cách khác, khoản tiền thuê mà Nhà nưốc thu mang tính vĩnh viễn. Đặc điểm này của thuê cho phép phân biệt thuế với các khoản tiền mà Nhà nước vay, sau một thời gian người cho vay được Nhà nước trả lại.
Để thu thuế đối với xã hội, Nhà nước đặt ra các quy định bắt buộc các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải thực hiện việc nộp thuế cho Nhà nước. Việc thực hiện thu, nộp này xuất phát từ ý chí của nhà nước mà không phải là sự đền bù giá trị giữa ngưòi thu và người nộp. Bởi vì, Nhà nước thu thuế mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm đền bù cho người nộp lợi ích vật chất có tính tương xứng. Còn đối với người nộp, họ thực hiện việc nộp thuê do nghĩa vụ mà pháp luật quy định chứ không phải do được thụ hưởng các lợi ích từ phía Nhà nước. Chính vì vậy mà thuế được xem là khoản thu của ngân sách nhà nước không mang tính đôl giá (đôì phần).
Thứ ba, thuế do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định. Ngày nay, các nưốc trên thê giới đểu thực hiện nguyên tắc: thuế do cơ quan lập pháp quy định, sửa đổi, bãi bỏ. Nguyên tắc này ra đòi cùng vối sự hình thành chế định ngân sách nhà nước trong lịch sử. Cho đến hậu kỳ của chế độ phong kiên, trật tự thu, chi tài chính của Nhà nước vẫn là chê độ độc quyền của vua chúa. Giai cấp tư sản hình thành trong lòng xã hội phong kiến, họ đại diện cho những tư tưởng tự do đương thời. Giai cấp tư sản đấu tranh giành được thắng lợi trong việc thiết lập một trật tự mới trong thu, chi tài chính của Nhà nước phong kiến: mọi khoản thuê phải được sự ưng thuận của đại diện nhân dân, tách các khoản chi tiêu của gia đình vua, chúa phong kiến với các khoản chi tiêu mang tính quốc gia.
Ngày nay, các nhà nước đểu thực hiện nguyên tắc thuế do cơ quan lập pháp quy định, sửa đổi, bãi bỏ là vì thuế là nguồn thu chủ yêu của quổc gia và việc thu thuế của Nhà nước ảnh hưởng nhiều mặt đối với nền kinh tê và đòi sống xã hội ở mỗi quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ tư, thuế phản ánh nhiều quan hệ lợi ích và tồn tại trong sự tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Nhà nước sử dụng pháp luật làm phương tiện chuyển tải ý chí về lợi ích của mình trong việc thu thuế đốì với xã hội. Tuy vậy, cũng như pháp luật nói chung, ý chí nhà nước thể hiện trong các qui định về thuế không hoàn toàn mang tính chủ quan của Nhà nưốc mà ý chí đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tô' như sự phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể, tương quan lực lượng giữa các giai cấp, trình độ dân trí...
2. Phân loại thuế
Căn cứ vào người thực tế chịu thuế, thuê được phân làm hai loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
T huế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp một phần thu nhập của người nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Đôì với loại thuế này, khi người nộp thuế nộp thuê cho Nhà nước có nghĩa là họ trích một phần thu nhập của mình để nộp. Thuế trực thu được thể hiện dưới hình thức thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
T huế gián thu là loại thuế mà khi Nhà nước thu thuế thì người nộp thuế theo quy định của pháp luật không phải là người chịu thuế trên thực tế. Bỏi vì, sô' thuế mà người nộp thuế nộp cho Nhà nước là một bộ phận cấu thành của giá cả hàng hoá, dịch vụ. Do đó, khi người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ mua hàng hoá, nhận dịch vụ thì giá cả hàng hoá, dịch vụ mà họ thanh toán cho người bán bao gồm cả tiền thuế. Chính vì vậy, theo quy định của pháp luật, người bán hàng, người cung cấp dịch vụ là người phải nộp thuế nhưng thực chất là họ "nộp thuế hộ" cho ngưòi tiêu dùng. Các hình thức thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt...
Căn cứ vào nguồn thu nhập chịu thuế, ngưòi ta phân chia thuế làm hai loại là thuế đốì vói người tiêu dùng và thuế đối với thu nhập. T huế đối với người tiêu dùng là hình thức thuế Nhà nước sử dụng để động viên vào ngân sách nhà nước một số tiền mà dân cư sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng cho tiêu dùng. Ví dụ: một người có thu nhập nếu người đó sử dụng thu nhập để mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ của xã hội thì họ phải chịu thuế đối với phần thu nhập của mình. Thông thường thuế đánh vào sự tiêu dùng của xã hội là thuế gián thu.
T huế đối với thu nhập là hình thức thuế nhà nưốc sử dụng để động viên một phần thu nhập của ngưòi có thu nhập vào ngân sách nhà nưóc, không phân biệt người có thu nhập sử dụng thu nhập hay không. Ví dụ: thuế thu nhập cá nhân
Ngoài ra, căn cứ vào tài vật chịu thuế, người ta còn phân chia thuế làm các loại như thuế đánh vào tài sản (thuế tài sản, thuế nhà, đất, thuế tài nguyên...).
II. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT THUẾ, PHÂN LOẠI QUY PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ, ẢNH HƯỎNG CỦA PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VÓI ĐÒI SỐNG XÃ HỘI
1. Khái niệm pháp luật thuế
Theo quy định của Hiến pháp nước ta, Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn quy định, sửa đổi, bãi bỏ các thứ thuế.
uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Theo khoản 4 Điều 91 của Hiến pháp năm 1992, uỷ ban thưòng vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn ra pháp lệnh về các vấn đề được Quốc hội giao.
Thực tiễn pháp lý ỏ nước ta cho thấy, theo quy định của Hiến pháp, có hai loại văn bản pháp luật quy định sửa đổi, bãi bỏ các thứ thuế: các văn bản do Quốc hội ban hành và các văn bản do Ưỷ ban thường vụ Quôc hội ban hành. Các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành về thuế là các đạo luật thuế, như: Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp... Các văn bản quy phạm pháp luật do uỷ ban thường vụ Quốíc hội ban hành được thể hiện dưới hình thức Nghị quyết, pháp lệnh về thuế, như Pháp lệnh Thuế nhà đất, Pháp lệnh Thuế thu nhập đôi vối ngưòi có thu nhập cao... Để thực hiện các luật của Quốc hội, Nghị quyết, pháp lệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
của Uỷ ban thường vụ Quốíc hội về thuế, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết. Để thực hiện nghị định của Chính phủ về thuế, Bộ Tài chính ra thông tư hoặc cùng một số bộ, ngành chức năng ban hành thông tư liên bộ. Tất cả các văn bản trên đây đều là văn bản chứa quy phạm pháp luật thuế. Hệ thống các văn bản pháp luật này tạo thành luật thuế, một bộ phận của pháp luật thu ngân sách nhà nước.
Tóm lại, pháp luật thu ế là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện thu thu ế đối với xã hội.
2. Phân loại quy phạm pháp luật thuế
Trong các cách phân loại thì việc phân loại theo nội dung điều chỉnh của các quy phạm pháp luật thuế thưòng tương tự vói cách sắp xếp các điều luật của văn bản pháp luật thuế. Theo nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật thuế được phân làm các nhóm sau:
Nhóm I, gồm các quy phạm pháp luật quy định nguyên tắc chung về thu, nộp thuế, đối tượng nộp thuế, đối tượng không thuộc diện nộp thuế. Nhóm này thường gọi là những quy định chung.
Đốì tượng nộp th u ếlầ người có nghĩa vụ nộp thuế (pháp nhân, thể nhân). Quy phạm pháp luật quy định đốì tượng nộp thuế xác định ai, trong những điều kiện nào thì phải nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Đối tượng chịu th u ếìầ hàng hoá, dịch vụ, tài sản, thu nhập mà các tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc chiếm hữu thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Ví dụ\ Luật thuế tiêu thụ đặc biệt quy định các tổ chức sản xuất, nhập khẩu các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá, xăng... thì phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đôi tượng không thuộc diện chịu th u ế là hàng hoá, dịch vụ, tài sản, thu nhập có các đặc điểm tương tự đối tượng chịu thuế nhưng pháp luật quy định tổ chức, cá nhân có sản xuất, kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
doanh, tiêu dùng, xuất, nhập khẩu hoặc sở hữu, chiếm hữu không phải nộp thuế.
Nhóm II, các quy phạm pháp luật quy định căn cứ thuế: đối tượng tính thuế, thuê suất.
Đối tượng tính thu ế chỉ ra Nhà nước đánh thuế vào cái gì. Ví dụ: đô'i vối thuế giá trị gia tăng, đối tượng tính thuế là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đối vối thuế thu nhập doanh nghiệp đốỉ tượng tính thuế là thu nhập tính thuê bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập khác.
Thuế suất là mức thuế nhà nước thu theo đốì tượng tính thuê. Thuế suất có hai loại: thuế suất tỷ lệ phần trăm và thuế suất cố định.
Đối với sắc thuế mà pháp luật quy định áp dụng thuế suất tỷ lệ thì sô" thuế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của đối tượng tính thuế.
Ví dụ: Theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, thuê' suất thu ế thu nhập doanh nghiệp là thu ế suất tỷ lệ phần trăm. Đối với cơ sở kinh doanh trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam thì N hà nước thu 28 % thu nhập thuộc diện chịu thuế.
Đối vối sắc thuế mà pháp luật quy định áp dụng thuế suất cố định thì sô' thuế được xác định theo số tuyệt đối tương ứng với các bậc của đối tượng tính thuế. Ví dụ: biểu thuế sử dụng đất nông nghiệp; biểu thuế tuyệt đối đối vối xe ôtô cũ nhập khẩu, V.V..
Bảng tổng hợp các thuế suất gọi là biểu thuế. Biểu thuế gồm các loại: biểu thuế thông thường, biểu thuế luỹ tiến.
Biểu thu ế thông thường là loại biểu thuế mà việc áp dụng mức thuê suất không phụ thuộc quy mô của đối tượng chịu thuế. Biêu th u ế luỹ tiến là loại biểu thuế mà mức thuế suất áp dụng tăng dần theo quy mô của đôi tượng tính thuế. Biểu thuế luỹ tiến gồm hai loại: biểu thuế luỹ tiến từng phần và biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Biểu thuếluỹ tiến từng phần là loại biểu thuế mà mức thuế suất áp dụng tăng dần tương ứng vối từng phần của đối tượiig tính thuế. Ví dụ: biểu thuế thu nhập thường xuyên đôl với thuế thu nhập cá nhân.
Biểu thuếluỹ tiến toàn phần là loại biểu thuế mà mức thuế suất áp dụng sẽ tăng lên ở bậc cao hơn đôi với toàn bộ đối tượng tính thuế thuộc định mức mà pháp luật quy định.
Ngoài đốỉ tượng tính thuế và thuế suất, do nội dung kinh tế của một sô" sắc thuế mà pháp luật không trực tiếp quy định đôi tượng tính thuế nên muôn xác định số thuế phải nộp của đôi tượng tính thuế, phải căn cứ vào một sô' căn cứ khác như giá tính thuế, số lượng hàng hoá tính thuế...
Nhóm III, các quy phạm pháp luật quy định chế độ kê khai, thời hạn, trình tự, thủ tục thu, nộp thuế.
Để đảm bảo việc thu đúng, thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước thì việc áp dụng chế độ kê khai thuế đóng vai trò quan trọng. Pháp luật của các nước thường có các quy định chặt chẽ về chế độ đăng ký và kê khai thuế. Chẳng hạn, cuôì thập kỷ 80 của thế kỷ trước, ỏ Thuỵ Điển hàng năm có khoảng 6,5 triệu tò khai thuế thu nhập cá nhân trong tổng dân số 8,3 triệu ngưòi.
Theo quy định của pháp luật nước ta, tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hoặc có thu nhập, tài sản thuộc diện chịu thuế phải đăng ký thuế, chấp hành chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn và cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc thu thuế cho cơ
quan thu.
Thời hạn thu thuế đối với từng sắc thuế được pháp luật quy định cụ thể. Thời hạn thu, nộp thuế quy định trong các văn bản pháp luật thuế được xác định phù hợp với đặc điểm của từng sắc thuế.
Hoạt động thu thuế là hoạt động gắn liền với quyền lực nhà nước. Do đó, chỉ những cơ quan thu mà pháp luật quy định mối được tiến hành hoạt động thu thuế. Để chông thất thu ngân sách nhà nưốc, pháp luật quy định, tách khâu tính thuế và khâu thu nhận thuế trong tổ chức thu ngân sách nhà nưóc nói chung và thu thuế nói riêng, về mặt nguyên tắc, các khoản thu thuế phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước. Đổi vói các trường hợp vì lý do khách quan và khoản thu thuê từ các đôi tượng được pháp luật cho phép thì cơ quan thu (khâu tính thuế) có thể thu trực tiếp, nhưng phải nộp vào Kho bạc Nhà nưóc (khâu thu nhận) theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Theo quy định của pháp luật, đối tượng nộp thuê có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ các thủ tục kê khai và nộp thuế theo thông báo thuế hoặc quyết định thu của cơ quan thu.
Nhóm IV, các quy phạm pháp luật về giảm thuế, miễn thuế. Thực tiễn áp dụng chế độ giảm thuế hoặc miễn thuế ỏ nhiều nước đã chứng minh rằng, việc vận dụng các quy định về miễn, giảm thuế thường dẫn đến tình trạng lợi dụng pháp luật, thông đồng giữa nhân viên thuế vụ và đối tượng nộp thuế để xâm phạm tiền thuế của Nhà nưốc. Tuy vậy, để thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, nhiều nước vẫn duy trì chê độ miễn, giảm thuế.
Ở nưốc ta, chế độ miễn, giảm thuế được áp dụng nhằm duy trì hoạt động bình thường của đôi tượng nộp thuế, khuyến khích kinh tế hoặc thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước. Chế độ miễn, giảm thuê áp dụng đôx với cáe đôì tượng nộp thuê luôn gắn liền với các sự kiện pháp lý và được giới hạn trong những khoảng thòi gian xác định.
Nhóm V, các quy phạm pháp luật về khen thưởng, xử phạt Chế độ khen, thưồng được áp dụng đối vói tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ thu thuế, đối vái ngưài phát hiện, tố giác các vụ vi phạm pháp luật thuế, có công lao trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Đôi với hành vi vi phạm pháp luật thuế, pháp lụật quy định hai hình thức cưỡng chê nhà nước là cưỡng chê hình sự và cưõng chê hành chính.
3. Yêu cầu và khả năng tác động của pháp luật thuế đối vối nến kinh tế và đòi sống xà hội
Cũng như các bộ phận khác thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, pháp luật thuê cũng có tác động đối với hạ tầng cơ sỏ theo hai hưóng tích cực và tiêu cực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nếu pháp luật thuế do Nhà nước ban hành không phù hợp với thực tế xã hội và sự vận động của nền kinh tế trong những điều kiện lịch sử cụ thể thì nó sẽ ảnh hưỏng tiêu cực đến sự phát triển. Do đó, hoạt động lập pháp đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước là phải xây dựng hệ thông pháp luật thuế vừa dựa trên những chuẩn mực mang tính phổ biến vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong những giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
Từ thế kỷ XVII, nhiều nhà nghiên cứu đã luận chứng cho quan điểm về tiêu chuẩn của một chế độ thuế khoá hợp lý.
Ngày nay, trên thế giới không có một văn kiện nào mang tính chính thức ghi nhận về tiêu chuẩn chung của một chế độ thuế khoá. Quan điểm của các nhà nước về tiêu chuẩn của chê độ thuế thường được thể hiện trong các nhiệm vụ khi xây dựng chế độ thu thuế của nước mình.
Về phương diện lý thuyết, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chế độ thuế của một quốc gia sẽ phát huy được vai trò tích cực khi nó thoả mãn được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, chế độ thuế phải giải quyết một cách hợp lý lợi ích của nhà nước và lợi ích của đối tượng nộp thuế.
Ngày nay, ỏ các nưóc, thuế đều là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, để giải quyết nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước không có nghĩa là Nhà nưốc tăng nặng gánh thuế đối với xã hội một cách vô hạn độ mà Nhà nước phải tính đến lợi ích của nhà kinh doanh, dân cư trong xã hội. Bởi vì, lịch sử chế độ thuế khoá ở các nước đã chỉ ra rằng, một chế độ thuế khoá nặng nề sẽ không kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, gây khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nưóc. Đồng thòi, chế độ thuế khoá nặng nề sẽ kích thích tình trạng trôn thuế.
Thứ hai, chế độ thuế phải đảm bảo sự bình đẳng của các pháp nhân và thể nhân trưâc pháp luật.
Sự bình đẳng của chế độ thuế không có nghĩa là mọi đôi tượng (pháp nhân, thể nhân) trong xã hội đều chịu thuế theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình quân mà việc thu thuế của Nhà nước phải căn cứ vào khả năng tài chính của đôi tượng nộp. Điều đó có nghĩa là những người có khả năng tài chính giông nhau (có cùng mức doanh thu, có cùng thu nhập chịu thuế, khai thác sô' lượng và chất lượng tài nguyên giông nhau...) thì sô' thuê' phải nộp cũng giông nhau. Để đảm bảo sự bình đẳng của các pháp nhân và thể nhân trước pháp luật thuế, đòi hỏi các quy định của pháp luật thuế có giá trị pháp lý áp dụng thông nhất.
Thực tê ở nhiều nước cho thấy, để thực hiện một sô" chính sách kinh tế - xã hội của mình, các nhà nước thường áp dụng những ưu đãi đặc biệt vói một sô' đối tượng làm cho sự bình đẳng trước pháp luật thuế chỉ có ý nghĩa tương đối.
Ở nưốc ta nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 4 năm 1989 về cải cách chế độ thu ngân sách nhà nưốc đã đặt ra nhiệm vụ là Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết và quản lý vĩ mô đối với kinh tế và đời sống xã hội, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nưốc và áp dụng đối với tất cả các thành phần kinh tế; thuế được quy định bằng văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Thứ ba, chế độ thuế phải bảo đảm hiệu quả kinh tế. Bản chất pháp lý nguyên thuỷ của thuế là công cụ mà nhà nưóc sử dụng nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội để lập quỹ ngân sách của nhà nưốc. Do đó, việc xây dựng chế độ thuế khoá phải hướng vào mục tiêu tài chính. Thực tiễn pháp lý cho thấy, ngày nay, các nhà nưốc đều xem mục tiêu động viên tài chính vào ngân sách nhà nước là mục tiêu hàng đầu, có vị trí ưu tiên trong các mục tiêu đặt ra đối với chế độ thuê. Chẳng hạn, khi dự kiến ban hành một sắc thuế mới, người ta đều phải tính toán những chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra để thu thuế...
Thứ tư, chê độ thuế tạo ra khả năng thực hiện chính sách điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế và đòi sốhg xã hội. Việc thu thế của Nhà nước ảnh hưỏng tối mọi mặt của nền kinh tế và đòi sông xã hội. Chính vì vậy, chế độ thuế tạo ra khả năng để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhà nước thực hiện chính sách điều tiết đốỉ với nền kinh tế vá đời sống xã hội.
Về mặt kinh tế, bằng việc ban hành và áp dụng chế độ thuế, nhà nước có thể tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, tác động đến cung - cầu của nền kinh tế thông qua các quy định có tính chất ưu đãi hoặc đôi xử hà khắc hơn đối với một số ngành nghề, hoạt động kinh doanh, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
Về mặt xã hội, thông qua chế độ thuế, Nhà nước tác động một cách mạnh mẽ đối với tiêu dùng và sử dụng thu nhập của dân cư, điều tiết thu nhập giữa các tầng lóp xã hội. Ví dụ: để điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, Nhà nước đánh thuế thu nhập dân cư.
4. Áp dụng điếu ưóc quốc tế vể thuế
Điều ưóc quốc tế về thuế là các thoả thuận giữa các chủ thể luật quốc tế về thuế.
Về nguyên tắc, các thoả thuận trong điều ước quốc tế về thuế mà quốc gia ký kết hoặc tham gia được ưu tiên áp dụng so với các quy định của luật quốc gia. Các thoả thuận này gồm hai loại chủ yếu là thoả thuận về thuế quan (thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu); thoả thuận về tránh đánh thuê hai lần.
Thoả thuận về thuế quan gồm nhiều loại như thoả thuận về ưu đãi thuế, ví dụ Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (Còmmon Effective Preferential Tariff -CEPT);
Thoả thuận về trị giá hải quan mà điển hình là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (General Agreement On Tariff And Trade - GATT). Các thoả thuận về thuế quan nhằm hạn chế hoặc dỡ bỏ hàng rào thuế quan dùng để thực hiện chính sách kinh tế của từng quốc gia trong xuất, nhập khẩu, khuyến khích giao lưu thương mại quốc tế.
Thoả thuận về tránh đánh thuế hai lần, còn gọi là tránh đánh thuế trùng, nhằm loại bỏ tình trạng hai hay nhiều quốc gia áp dụng một loại thuế trực thu trên cùng một khoản thu nhập hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
tài sản chịu thuê của cùng một đối tượng nộp thuế. Nguyên nhân của tình trạng đánh thuế trùng là do pháp luật của các quốc gia cùng xác lập nghĩa vụ thuế đối với thu nhập và tài sản của một đôi tượng nộp thuế. Ví dụ, pháp luật của hai nước đều quy định, doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc từ nước sở tại hay do đầu tư ỏ nước ngoài. Với quy định này, nhà đầu tư của một nước đầu tư sang nước khác sẽ chịu thuê thu nhập của cả nước mang quốc tịch và của nước đầu tư đối vối khoản thu nhập có được do đầu tư ỏ nước ngoài. Ngày nay, các nước thường cùng nhau ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần dựa vào mẫu hiệp định thuế thu nhập và tài sản của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Phương pháp loại trừ tình trạng đánh thuế trùng là: a) nước này không đánh thuế thu nhập nếu thu nhập đã chịu thuế ở nước kia. b) Chỉ đánh thuế vào phần thu nhập chưa chịu thuế nếu nưâc đã thu thuế có mức thu thấp hơn. Ví dụ: Nhà đầu tư mang quốc tịch nưóc A đầu tư vào nưốc B. Nếu nước B đánh thuế thu nhập 28% nưóc A đánh thuế thu nhập 30% thì nhà đầu tư chỉ phải nộp thuế cho nưốc A theo mức 2%, vì họ đã phải nộp thuế theo mức 28% tính trên thu nhập theo quy định của pháp luật nưốc B.
III. PHÁP LUẬT THUẾ HIỆN HÀNH Ỏ VIỆT NAM
1. Chế độ thuế giá trị gia tàng
1.1. S ự cầ n thiết áp d ụ n g ch ê độ t h u ế g iá trị g ia tă n g ở Việt N am
Kể từ năm 1990 ỏ nưóc ta, chế độ thu thế doanh thu được áp dụng thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế. Nhược điểm lớn nhất của chế độ thuế doanh thu là nhà nước tính thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của cơ sỏ kinh doanh nên dẫn đến tình trạng thuê bị đánh trùng lặp qua các khâu từ sản xuất đến tiêu dùng. Mặt khác, thuê doanh thu là thuế gián thu nên khi Nhà nước tính thuế trên toàn bộ doanh thu qua các khâu gây nên tình trạng thuế đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
trùng lên thuế, làm tăng giá cả hàng hoá dịch vụ, tác động xấu đến năng lực tiêu dùng của xã hội.
Thuế giá trị gia tăng (tiếng Anh gọi là Value Added Tax viết tắt VAT) cũng là hình thức Nhà nước thu thuế đối với doanh thu của các cơ sỏ sản xuất kinh doanh nhưng không phải với toàn bộ doanh thu phát sinh mà thuế được tính trên phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ qua mỗi khâu từ sản xuất đến tiêu dùng. Do đó, mô hình thuế giá trị gia tăng khắc phục được nhược điểm trùng lặp trong thu thuế của chế độ thuế doanh thu.
Trên thế giới, ở nhiều nước trưốc đây áp dụng chế độ thu thuế doanh thu (thuế bán hàng) đã chuyển sang áp dụng mô hình thuế VAT. Quốc hội khoá IX nước ta tại kỳ họp thứ 11, thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng. Theo quy định tại Điều 28 Luật Thuế giá trị gia tăng, chế độ thu thuế giá trị gia tăng thay thế chế độ doanh thu kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1999.
Để khắc phục một số hạn chế của Luật Thuế giá trị gia tăng, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 3 (năm 2003) đã thông qua Luật sô' 07/2003 sửa đổi, bổ sung một sô' điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004. Lần sửa đổi gần đây nhất là Luật sô' 57/2005 sửa đổi, bổ sung một sô' điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và luật thuế giá trị gia tăng ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Điều 1 của Luật Thuế giá trị gia tăng quy định: thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 1.2. P hạm vi áp d ụ n g
Chế độ thu thuế giá trị gia tăng có phạm vi áp dụng rộng rãi. Tuy vậy, do tính phức tạp của việc tính thuế mà các nước quy định những cơ sở kinh doanh loại nhỏ không thuộc diện nộp thuế nhằm giảm bớt chi phí quản lý và nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp luật thuế trong tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nước thưòng căn cứ vào các tiêu chuẩn doanh thu kinh doanh để xác định cơ sỏ kinh doanh loại nhỏ. Chẳng hạn, ở một sô' nước Luật thuế giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
trị gia tăng quy định các doanh nghiệp có doanh thu dưới mức quy định sau đây không thuộc diện nộp thuế: Canada là 300.000 CAD, ở Thuỵ Sỹ là 200.000 SEK, ỏ Singapore là 1.000.000 SPD.
Do hoạt động quản lý thuế VAT phức tạp nên thông thường ỏ các nưốc khi chuyển từ chế độ thuế doanh thu sang thuê VAT thường thực hiện bước quá độ. Ví dụ: ỏ Trung Quốc, thuế VAT được ban hành và áp dụng thí điểm vào năm 1980 vối các sản phẩm như xe ôtô, tàu biển, sau đó Nhà nước mở rộng dần phạm vi sản phẩm thuộc diện chưa chịu thuế.
Điều 2, Luật Thuế giá trị gia tăng của nước ta quy định: đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá chịu thuế.
Hàng hoá, dịch vụ chịu thuế là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ỏ Việt Nam trừ các trường hợp sau: 1. Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
2. Sản phẩm là giông vật nuôi, giông cây trồng, bao gồm: trứng giông, con giông, cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền ở các khâu nuôi trồng, nhập khẩu và kinh doanh thương mại.
3. Sản phẩm muôi được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muốỉ i-ốt.
4. Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp; thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; máy bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuê của nước ngoài thuộc loại trong nưốc chưa sản xuất được dùng cho sản xuất, kinh doanh; thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, phương tiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu khí.
Trường hợp cơ sỏ nhập khẩu dây chuyền thiết bị, máy móc đồng bộ thuộc diện không chịu thuế GTGT nhưng trong dây chuyền đồng bộ đó có cả loại thiết bị, máy móc trong nưốc đã sản xuất được thì không tính thuế GTGT cho cả dây chuyền thiết bị, máy móc đổng bộ.
5. Nhà thuộc sỏ hữu Nhà nước do Nhà nước bán cho ngưòi đang thuê.
6. Chuyển quyển sử dụng đất.
7. Dịch vụ tín dụng và quỹ đầu tư, bao gồm: hoạt động cho vay vốn; bảo lãnh cho vay; chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá; bán tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ, cho thuê tài chính của các tổ chức tài chính, tín dụng tại Việt Nam; các hoạt động chuyển nhượng vốn và hoạt động kinh doanh chứng khoán.
8. Bảo hiểm nhân thọ; bảo hiểm học sinh; bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh.
9. Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng dịch bệnh, điều dưõng sức khoẻ cho người và dịch vụ thú y.
10. Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao mang tính phong trào, quần chúng, tổ chức luyện tập, thi đấu không thu tiền hoặc có thu tiền nhưng không nhằm mục đích kinh doanh; hoạt động biểu diễn nghệ thuật như: ca múa, nhạc, kịch, xiếc, biểu diễn nghệ thuật khác; dịch vụ tổ chức biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim các loại. Nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim video tài liệu: đối vối phim nhựa không phân biệt chủ đề loại phim; đôi với phim ghi trên băng hình, đĩa hình chỉ là phim tài liệu, phóng sự, khoa học.
11. Dạy học, dạy nghề bao gồm dạy văn hoá, ngoại ngữ, tin học và dạy các nghề khác.
12. Phát sóng truyền thanh, truyền hình theo chương trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
13. Xuất bản, nhập khẩu và phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa (kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử), giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa học kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc thiểu số, tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động; in tiền.
14. Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư, duy trì vưòn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phô', chiếu sáng công cộng, dịch vụ tang lễ.
15. Duy tu, sửa chữa, xây dựng các công trình văn hoá, nghệ thuật, công trình phục vụ công cộng, cơ sỏ hạ tầng và nhà tình nghĩa bằng nguồn vôh đóng góp của nhân dân và vốn viện trợ nhân đạo, kể cả trường hợp được Nhà nước cấp hỗ trợ một phần vốn không quá 30% tổng vốn thực chi cho công trình.
16. Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân trong nội thành, nội thị, trong các khu công nghiệp hoặc giữa các thành thị vối các khu công nghiệp lân cận theo giá vé thông nhất do cơ quan có thẩm quyền quy định.
17. Điều tra cơ bản của Nhà nước do ngân sách nhà nước cấp phát kinh phí để thực hiện: bao gồm điều tra, thăm dò địa chất khoáng sản; tài nguyên nước, đo đạc, lập bản đồ, khí tượng thuỷ vãn, môi trường.
18. Tưới tiêu nưóc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; nưóc sạch do tổ chức, cá nhân tự khai thác tại địa bàn miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa để phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa;
19. Vũ khí, khí tài chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh do Bộ Tài chính cùng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an xác định cụ thể. Đôi với vũ khí, khí tài được mua, sản xuất bằng nguồn vốn ngân sách, việc không tính thuế phải được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách.
20. Hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau: hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng cho các cơ quan nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nưóc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; quà biếu, quà tặng cho cá nhân ỏ Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ; đồ dùng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng mang, theo ngưòi trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế; đồ dùng của ngưòi Việt Nam sống định cư ỏ nước ngoài khi vê' nước mang theo.
Hàng hóa bán cho các tổ chức quốc tế, người nước ngoài để viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam.
21. Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh, mượn đường qua Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công với nước ngoài.
22. Vận tải quốc tế; hàng hoá, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế và dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài.
-Vận tải quốc tế bao gồm vận tải hành khách, vận tải hàng hoá dưới các hình thức từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Hàng hoắ, dịch vụ cung ứng cho vận tải quốc tế là hàng hoá, dịch vụ do các cơ sỏ kinh doanh tại Việt Nam bán trực tiếp cho các phương tiện vận tải quốc tế của Việt Nam và của nước ngoài để sử dụng trực tiếp cho hoạt động của phương tiện vận tải quốc tế theo quy định của Bộ Tài chính.
23. Chuyển giao công nghệ theo quy định tại Chương III của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đốì vối những hợp đồng chuyển giao công nghệ có kèm theo chuyển giao máy móc, thiết bị thì việc không tính thuế chỉ thực hiện đối với phần giá trị công nghệ chuyển giao; phần mềm máy tính, trừ phần mềm máy tính xuất khẩu.
24. Dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet phổ cập theo chưong trình của Chính phủ.
25. Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng và các loại vàng chưa được chế tác thành các sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm khác. Vàng dạng thỏi, miếng và các loại vàng chưa chế tác được xác định phù hợp với các quy định quốc tế.
26. Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai thác chưa chê biến thành sản phẩm khác quy định cụ thể dưới đây: Dầu thô; Đá phiến, cát, đất hiếm; Đá quý; Quặng măng-gan, quặng thiếc, quặng sắt, quặng crôm-mít, quặng êmênhít, quặng a-pa-tít.
27. Sản phẩm là bộ phận nhân tạo dùng để thay thê cho bộ phận của người bệnh; nạng, xe lăn và dụng cụ chuyên dùng khác dùng cho ngưòi tàn tật.
28. Hàng hoá, dịch vụ của nhũng cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tôi thiểu Nhà nước quy định đối với công chức nhà nước. Thu nhập được xác định bằng doanh thu trừ chi phí hợp lý hoạt động kinh doanh của cá nhân kinh doanh đó.
Cơ sỏ kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế thì không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng mà phải tính vào giá trị hàng hoá, dịch vụ hoặc nguyên giá tài sản cô' định hoặc chi phí kinh doanh.
1.3. Căn c ứ tính th u ế
Thuế giá trị gia tăng được tính dựa trên hai căn cứ là giá tính thuế và thuế suất.
1.3.1. Giá tính thuế
Giá tính thuế giá trị gia tăng được qui định như sau:
- Đôi với hàng hoá, dịch vụ do cơ sỏ sản xuất kinh doanh trong nước bán ra là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng.
- Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuê tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuê tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuê giá trị gia tăng. - Đối vối hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ỏ nưốc ngoài:
+ Đôi v<£ hằng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng (+) vởi thuế nhập khẩu (nếu có) cộng (+) thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có);
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
+ Đối với dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ỏ nước ngoài là giá thanh toán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa có thuế giá trị gia tăng.
- Đôi với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ, giá tính thuế là giá của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này.
- Đôi với hàng hoá dịch vụ có tính đặc thù dùng các chứng từ chỉ ghi giá thanh toán như: Tem thư, vé cước vận tải, vé số... giá tính thuế được xác định theo công thức sau:
_. „ , , , , Giá thanh toán Giá tính thuẽ = — --------— ;---- ;----- (1 + thuễ suất)
Giá tính thuế đối vói hàng hoá, dịch vụ theo quy định trên bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, còn các khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh thu theo chế độ nhà nưóc quy định khôrig tính vào doanh thu của cơ sở kinh doanh thì không tính vào giá tính thuế.
- Đốỉ với các hoạt động có tính đặc thù, pháp luật thuế giá trị gia tăng có quy định cách xác định giá tính thuế cụ thể. Chẳng hạn: đối vối hoạt động thuê tài sản là sô' tiền thuê phải thu từng kỳ; Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá, tính theo giá bán trả một lần, không tính theo sô" tiền trả từng kỳ; Đối với gia công hàng hoá là giá gia công...;
Theo qui định của Luật Thuế giá trị gia tăng thì trong trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh số mua, bán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bô' tại thòi điểm phát sinh doanh sô' để xác định giá tính thuế.
1.3.2. T hu ế suất
Mức thuế suất thuế giá trị gia tăng gồm 3 mức 0%, 5%, 10% áp dụng theo từng nhóm hàng hoá, dịch vụ như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, kể cả hàng gia công xuất khẩu, hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng xuất khẩu.
Dịch vụ xuất khẩu là dịch vụ đã được cung cấp trực tiêp cho tô chức, cá nhân ở nước ngoài và tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu bao gồm hàng hóa xuất khẩu ra nưóc ngoài, hàng hóa xuất khẩu vào khu chế xuất hoặc hàng hóa xuất khẩu cho doanh nghiệp chê xuất và trường hợp cụ thể khác được coi là xuất khẩu theo quy định của Chính phủ.
Các trường hợp sau không thuộc đôi tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo thuế suất 0% là vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế; dịch vụ du lịch lữ hành ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; tín dụng, đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán ra nước ngoài; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai thác chưa qua chế biến thuộc đôì tượng không chịu thuế giá trị gia tăng; Hàng hóa, dịch vụ bán cho doanh nghiệp chế xuất và khu chế xuất gồm: bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính, viễn thông, tư vấn, kiểm toán, kế toán, vận tải, bốc xếp, cho thuê nhà, văn phòng, kho bãi, hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cho cá nhân người lao động, xăng dầu bán cho phương tiện vận tải phải chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng theo mức thuế suất quy định áp dụng đối vối hàng hóa tiêu dùng tại Việt Nam.
Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu gồm 21 nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại khoản 2, Điều 8, Luật Thuế giá trị gia tăng như:
- Nưốc sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt, trừ nước sạch thuộc diện không chịu thuế và các loại nước giải khát thuộc nhóm thuế suất 10%.
- Phân bón, quặng để sản xuất phân bón; thuốc trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưỏng vật nuôi, cây trồng.
- Thiêt bị, máy móc và dụng cụ chuyên dùng cho y tế; bông và băng vệ sinh y tế; thuốc chữa bệnh, phòng bệnh; sản phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
- Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập là các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, compa dùng để giảng dạy, học tập và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm.
- In các loại sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, trừ in tiền.
- Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ loại sách thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng; băng từ, đĩa đã ghi hoặc chưa ghi chương trình.
- Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi; thuỷ sản, hải sản đánh bắt chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế làm sạch, ướp đông, phơi sấy khô, bóc vỏ ỏ khâu kinh doanh thương mại.
- Thực phẩm tươi sông, lương thực, lâm sản (trừ gỗ, măng) chưa qua chế biến ở khâu kinh doanh thương mại, trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế.
- Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường gồm gỉ đưòng, bã mía, bã bùn.
- Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá là các loại sản phẩm được sản xuất, chế biến từ nguyên liệu chính thuộc nhóm đay, cói, tre, nứa, song, mây, cọ, dừa.
- Bông sơ chế.
- Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác. - Dịch vụ khoa học và công nghệ trừ các dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.
- Dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp bao gồm các hoạt động như cày, bừa đất sản xuất nông nghiệp; đào, đắp, nạo, vét kênh, mương, ao, hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi, trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu, bệnh; thu, hái, sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp.
- Than đá, đất, đá, cát, sỏi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Hóa chất cơ bản; sản phẩm cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng); khuôn đúc các loại; vật liệu nổ; đá mài; giấy in báo; bình bơm thuốc trừ sầu; mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp, gồm dầm cầu bê tông, dầm và khung nhà bê tông, cọc bê tông, cột điện bê tông, ông cống tròn bê tông, hộp bê tông các loại, pa-nen và các loại cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn, bê tông thương phẩm; lốp và bộ săm lốp CÖ từ 900 - 20 trổ lên; ống thuỷ tinh trung tính (ống tuýp và ống được định hình); lưới, dây giềng và sợi để đan lưối đánh cá.
- Sản phẩm luyện, cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý, trừ vàng nhập khẩu.
• Máy xử lý dữ liệu tự động và các bộ phận, phụ tùng của máy (bao gồm cả các loại máy vi tính và các bộ phận, phụ tùng của máy vi tính).
- Duy tu, sửa chữa, phục chế di tích lịch sử - văn hoá, bảo tàng. - Vận tải, bốc xếp; nạo vét luồng, lạch, cảng sông, cảng biển; hoạt động trục vớt, cứu hộ;
- Phát hành và chiếu phim video (trừ phát hành và chiếu phim video tài liệu).
Mức th u ế suất 10% áp dụng đối với các hàng hoá, dịch vụ còn lại (những hàng hoá, dịch vụ thuộc đôi tượng chịu thuế nhưng không thuộc hàng hoá, dịch vụ có thuế suất 0%, 5% nêu ỏ trên) như: Dầu mỏ, khí đốt, quặng và sản phẩm khai khoáng khác; Điện thương phẩm do các cơ sỏ sản xuất, kinh doanh điện bán ra; sản phẩm điện tử; sản phẩm cơ khí tiêu dùng, đồ điện; Sản phẩm hoá chất, mỹ phẩm; Sợi, vải, sản phẩm may mặc, thêu ren; băng vệ sinh phụ nữ và bỉm trẻ em; Sữa, bánh, kẹo, nước giải khát và các loại thực phẩm chế biến khác; Sản phẩm gốm, sứ, thuỷ tinh, cao su, nhựa; gỗ và sản phẩm bằng gỗ ; xi măng, gạch, ngói và vật liệu xây dựng khác (trừ các loại sản phẩm thuộc nhóm thuế suất 5%); Xây dựng, lắp đặt; Nhà, kết cấu hạ tầng kỹ thuật của các cơ sở được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đầu tư xây dựng để kinh doanh; Cho thuê nhà, văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
phòng, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải; Dịch vụ tư vấn pháp luật và các dịch vụ tư vấn khác; Dịch vụ kiểm toán, kế toán, khảo sát, thiết kế; Chụp ảnh, in ảnh, phóng ảnh; in băng, sang băng, cho thuê băng; quay video; sao chụp; Khách sạn, du lịch, ăn uống; Hàng hóa, dịch vụ thuộc đôi tượng chịu thuê' tiêu thụ đặc biệt; Đại lý tàu biển; Dịch vụ môi giói; Các loại hàng hoá, dịch vụ khác...
1.4. P h ư ơ n g p h á p tính th u ế giá trị g ia tăng
Luật Thuế giá trị gia tăng quy định hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp. 1.4.1. Phương pháp khấu trừ thuế
Theo phương pháp này, sô' thuế phải nộp bằng thuê' giá trị gia tăng đầu ra trừ (-) thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ bán ra nhân (x) với thuế suất.
Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng tổng số thuế giá trị gia tăng đã thanh toán được ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu.
Ví dụ: để sản xuất 100 chiếc tivi có mức giá bán ra chưa thuế là 3 triệu đồng/chiếc, chi phí của doanh nghiệp sản xuất đã thể hiện thuế giá trị gia tăng ỏ hoá đơn đầu vào như sau:
- Khấu hao tài sản cô' định: 10 triệu đồng
- Nguyên liệu, linh kiện lắp ráp: 9 triệu đồng
- Dịch vụ mua ngoài: 1 triệu đồng
Như vậy, thuế giá trị gia tăng đầu ra là: 100 X 3000000 X 10% = 30 triệu đồng
Thuế giá trị gia tăng đầu vào là: 10 + 9 + 1 = 20 triệu đồng Vậy, thuế giá trị gia tăng phải nộp là 30 - 20 = 10 triệu đồng 1.4.2. Phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này, sô' thuế phải nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng. Trị giá gia tăng bằng giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra trừ giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng chỉ áp dụng đôi với các đối tượng sau:
- Các cá nhân sản xuất kinh doanh và các tổ chức cá nhân nưốc ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện vê kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế;
- Các cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý...
Do phương thức thu thuế có tính đặc thù của chế độ thuế giá trị gia tăng nên pháp luật quy định về việc sử dụng hoá đơn chứng từ như sau:
- Việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ đều phải có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật;
- Các cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tô' quy định, trong đó ghi rõ giá bán, khoản phụ thu và phí thu thêm, khoản thuế giá trị gia tăng, giá thanh toán. Trong trường hợp hoá đơn không ghi khoản thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng được xác định bằng giá thanh toán theo hoá đơn nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng;
- Đô'i với các loại tem, vé được coi là chứng từ thanh toán đã in sẵn giá thanh toán tem, vé đó đã bao gồm thuế giá trị gia tăng. 1.5. Đ ă n g ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán t h u ế
Cơ sồ kinh doanh, kể cả các cơ sồ trực thuộc của cơ sò đó phải đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng vói cơ quan thuế trực tiếp quản lý, theo hưống dẫn của cơ quan thuế. Trong trưòng hợp sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh, cơ sở kinh doanh cũng phải khai báo vói cơ quan thuế trước khi sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh.
Nhũng cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng nếu thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, sổ kê toán, tự nguyện đăng ký áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuê thì cơ quan thuê xem xét để thực hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thuế giá trị gia tăng nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định sau: - Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách nhà nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế; - Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuê giá trị gia tăng theo từng lần nhập khẩu.
Thòi hạn thông báo và thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng đốỉ với hàng nhập khẩu thực hiện theo thòi hạn thông báo và thời hạn nộp thuế nhập khẩu.
- Thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định sô' thuế phải nộp của tháng đó. Thòi gian kê khai chậm nhất là 3 tháng kể từ tháng phát sinh.
- Thuế giá trị gia tăng nộp vào ngân sách nhà nưóc bằng đồng Việt Nam.
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. Năm quyết toán tính theo năm dương lịch. Việc hoàn thuế giá trị gia tăng chỉ thực hiện trong các trường hợp sau:
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quý nếu sô' thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý lớn hơn số thuế đầu ra hoặc được hoàn thuế đầu vào của tài sản cô' định theo quy định của pháp luật;
- Quyết toán thuế khi sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản có thuê nộp thừa;
- Quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thủ tục và thẩm quyền giải quyết hoàn thuê được thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính.
2. Chế độ thuế tiêu thụ đ ạ c biệt
2.1. K h á i niệm
Thực chất thuế tiêu thụ đặc biệt còn gọi là thuế tiêu dùng cao cấp, là thuế thu đối với thu nhập sử dụng cho tiêu dùng một số hàng hoá, dịch vụ nhằm điều tiết tiêu dùng của xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
về hình thức, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ được Nhà nưốc quy định trong danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (hay thuê tiêu dùng cao cấp) là đối tượng có nghĩa vụ nộp thuế. Tuy vậy, tiền thuế nằm trong giá cả hàng hoá, dịch vụ nên về thực chất, người chịu thuế không phải là ngưòi sản xuất kinh doanh, người nhập khẩu mà ngưòi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ là ngưòi chịu thuế. Do đặc tính này nên khi thu thuế tiêu thụ đặc biệt tiền thuê đưa vào ngân sách nhà nước là từ thu nhập sử dụng cho tiêu dùng của xã hội.
Trước cải cách thuế năm 1990, ỏ nước ta thuế tiêu thụ đặc biệt gọi thuế hàng hoá, áp dụng đô'i với thành phần kinh tế tập thể và cá thể.
Chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990. Theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt được ban hành năm 1990, các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm: thuốc hút, rượu, bia, pháo, bài lá, vàng mã. Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt Quốc hội thông qua ngày 05/07/1993 bỏ hai mặt hàng là bài lá, vàng mã trong danh mục hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 28/10/1995 quy định thêm hai mặt hàng thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là xe ôtô nhập khẩu và xăng dầu các loại.
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt được Quốc hội thông qua ngày 20/05/1998, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 và Luật số 08/2003/QHll sửa đổi, bổ sung một sô' điều của đạo luật này được Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ 3 thông qua có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2004, quy định các hàng hoá dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm có:
- Thuốc lá điếu, xì gà;
- Rượu các loại;
- 0 tô các loại dưới 24 chỗ ngồi;
- Xăng các loại, nap-ta, chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác pha chế xăng. V
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trỏ xuống; - Bài lá;
- Vàng mã, hàng mã;
- Kinh doanh vũ trưòng, mát xa, karaokê;
- Kinh doanh ca-si-no, trò chơi bằng máy giắc-pot;
- Kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe;
- Kinh doanh gôn: bán vé hội viên, vé chơi gôn;
Việc quy định hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tuỳ thuộc vào chính sách điều tiết tiêu dùng của Nhà nưốc. Thuế tiêu thụ đặc biệt thuộc loại thuế gián thu. Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt Nhà nước động viên một bộ phận thu nhập của ngưòi tiêu dùng vào ngân sách nhà nưỏc, thực hiện hướng dẫn và điều tiết tiêu dùng của xã hội. Khả năng điều tiết của thuế tiêu thụ đặc biệt thể hiện ở chỗ, do tính gián thu nên về mặt hình thức người kinh doanh là người nộp thuế nhưng người thực tế chịu thuế là người tiêu dùng.
Tóm lại, thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế thu đôì với tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh dịch vụ được Nhà nước quy định trong danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. 2.2. P h ạ m vi áp d ụ n g
Đốỉ tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt gồm các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hoá, kinh doanh dịch vụ, nhập khẩu các mặt hàng thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Như vậy, đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt gồm hai loại: - Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hoá, kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
Cơ sỏ sản xuất hàng hoá, kinh doanh dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt vào ngân sách nhà nước tại nơi sản xuất, kinh doanh.
Nguyên tắc chung của chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt là mỗi mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
một lần. Do đó, cơ sở sản xuất khi nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ thuê tiêu thụ đặc biệt đã được nộp ỏ khâu trưốc (nếu có). Theo quy định của pháp luật, cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khi tiêu thụ trong nưóc dưới mọi hình thức: bán, đổi hàng, tiêu thụ nội bộ, biếu, tặng.
Cơ sỏ nhập khẩu mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế thuế tiêu thụ đặc biệt khi nhập khẩu. Hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trong các trưòng hợp sau đây: 1. Hàng hóa do các cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, ủy thác cho cơ sở kinh doanh xuất khẩu để xuất khẩu. Trường hợp cơ sỏ kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nưỏc thì cơ sở kinh doanh xuất khẩu phải kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
2. Hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau:
- Hàng hoá nhập khẩu là hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; Quà tặng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho các cơ quan nhà nưâc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân. Quà tặng được xác định trong mức quy định của Chính phủ; Đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưỏng tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao do Chính phủ Việt Nam quy định phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; Hàng hoá mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế nhập khẩu;
- Hàng hoá chuyển khẩu quá cảnh, mượn đường qua Việt Nam theo các hình thức:
Hàng hóa chuyển thẳng từ cảng nưốc xuất khẩu đến cảng nưốc nhập khẩu, không đến cảng Việt Nam; Hàng hóa đến cảng Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam mà đi thẳng tới cảng nưốc nhập khẩu; Hàng hóa đưa vào kho ngoại quan rồi chuyển đến nước khác, không làm thủ tục nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
khẩu vào Việt Nam theo Quy chế kho ngoại quan; Hàng quá cảnh, mượn đường qua cửa khẩu, biên giói Việt Nam trên cơ sở hiệp định đã ký kết giữa hai Chính phủ hoặc ngành, địa phương được Thủ tướng Chính phủ cho phép;
- Hàng hóa tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và hàng hóa tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu trong thòi hạn chưa phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Hàng hóa nhập khẩu để bán miễn thuê cho các cơ quan và ngưòi nước ngoài ở Việt Nam được hưởng tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao theo chế độ quy định được miễn thuế nhập khẩu; Hàng hóa nhập khẩu để bán miễn thuế ở các cửa hàng miễn thuê tại các sân bay, bến cảng, nhà ga quốc tế và các cửa khẩu biên giới.
2.3ễ Căn c ứ tính và p h ư ơ n g thức thu th u ế tiêu thụ đặc biệt Căn cứ tính th u ế đôi vối hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là sô' lượng hàng hoá, giá tính thuế đơn vị hàng hoá và thuế suất.
Giá tính thuế đối với hàng sản xuất là giá do cơ sỏ sản xuất mặt hàng đó bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và chưa có thuế giá trị gia tăng.
Giá tính thuế với hàng hoá nhập khẩu là giá trị thuế nhập khẩu, cộng (+) thuế nhập khẩu.
Biểu thu ế tiêu thụ đặc biệt gồm các thuế suất tỷ lệ % quy định áp dụng có tính phân biệt giữa các nhóm hàng hoá, dịch vụ và cả hàng hoá dịch vụ trong cùng một nhóm. Mức thuế suất cao hay thấp thể hiện mức độ điều tiết của Nhà nước đối với từng loại hàng hoá.
Thuế suất th u ế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, dịch vụ được quy định trong biểu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Việc áp dụng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một sô" hàng hóa, dịch vụ được pháp luật quy định cụ thể như sau: Đôi với hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt không phân biệt hàng hóa nhập khẩu hay hàng hóa sản xuất trong nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
STT Hàng hoá, dịch vụ Thuế suất (%) 1- Hàng hoá
1. Thuốc lá diếu, xì gà
a) Xi gà 65
b) Thuốc lá điếu
- Năm 2006-2007 55
-Từ năm 2008 65
2. Rươu
a) Rượu từ 40 độ trở lên 65
b) Rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ 30
c) Rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả, rượu thuốc 20
3. Bia
a) Bia chai, bia hộp 75
b) Bia hơi, bia tươi
- Năm 2006-2007 30
-Từ năm 2008 40
4. Ổ tô
a) ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống 50
b) ồ tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi 30
c) 0 tô từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi 15
5. Xăng các loại, nap-ta (naptha), chế phẩm tái hợp và các
chê' phẩm khác dùng để pha chế xăng 10
6. Điều hoầ nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống 15 7. Bài lá 40 8. Vàng mã, hàng mã 70 II- Dich vu
1. Kinh doanh vũ trường, mát-xa, ka-ra-ô-kê 30 2. Kinh doanh ca-si-nô, trò chơi bằng máy giắc-pót 25 3. Kinh doanh giải trí có đặt cươc 25 4. Kinh doanh gôn: bán thẻ hội viên, vé chơi gôn 10 5. Kinh doanh xổ số 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mặt hàng rượu thuốc không phân biệt theo độ cồn. Cơ sở sản xuất rượu thuốc phải có giấy phép sản xuất rượu thuốc và giấy chứng nhận đăng ký tên, mác nhãn, chất lượng sản phẩm rượu thuốc do cơ quan y tế hoặc cơ quan có thẩm quyên cấp. Đối vối rượu thuốc nhập khẩu phải được cơ quan y tế hoặc cơ quan có thẩm quyền xác định là rượu thuốc. Nếu không có đủ những giấy tờ quy định trên đây thì cơ sở sản xuất, kinh doanh phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo thuế suất của loại rượu có độ cồn tương ứng.
Hàng mã thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không bao gồm loại hàng mã là đồ chơi trẻ em và các loại hàng mã dùng để trang trí. Thời hạn thu, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định phù hợp với từng loại hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng sản xuất trong nưốc hay hàng nhập khẩu.
2.4. C h ế độ giả m thuế, m iễn th u ế tiêu thụ đặc biệt Cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngò được xem xét miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc miễn thuế, giảm thuế được giải quyết theo năm xảy ra thiệt hại. Mức giảm thuế được xác định trên cơ sỏ sô' thiệt hại do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngò gây ra nhưng không quá 30% số thuế phải nộp theo luật.
Trường hợp bị thiệt hại nặng không còn khả năng sản xuất, kinh doanh và nộp thuế thì được xét miễn thuế tiêu thụ đặc biệt. Bộ Tài chính hưống dẫn thủ tục, trình tự, thẩm quyền xét miễn thuế, giảm thuế đổi với từng trường hợp cụ thể.
3. Chế dộ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
3.1. K h á i n iệm
Thuế thu đốỉ với hàng hoá xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới một quốc gia thường gọi là thuế quan, ở Việt Nam thuế quan gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Các quốc gia sử dụng thuế quan để tạo thu nhập cho ngân sách nhà nước và thực hiện chính sách kinh tê như khuyến khích xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
khẩu, bảo hộ nền sản xuất trong nước, thu hút đầu tư... Trong điểu kiện kinh tế thê giới phát triển theo xu hưống toàn cầu hoá thì pháp luật của các nước vể thuê quan được xây dựng phù hợp với xu thê hội nhập quốc tế. Do đó, các quy định của pháp luật quốc gia về thuê xuất khẩu, thuế nhập khẩu bị chi phối bởi các cam kết quốc tế nên vai trò của nó trong việc thực hiện chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nưốc cũng bị hạn chế.
Ở nưóc ta, Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch ban hành ngày 29/12/1987. Đạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu, nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch nên có sự phân biệt áp dụng chế độ thu thuế đổi với hàng mậu dịch vối các loại hàng hoá xuất, nhập khẩu phi mậu dịch.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và sửa đổi, bô sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một sô điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 05/07/1993, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 20/5/1998 có phạm vi áp dụng rộng hơn so với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch ban hành năm 1987. Theo đó, Nhà nước thu thuế thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt hàng hoá là xuất, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Luật Thuế xuất khẩu, thuê' nhập khẩu hiện hành được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Luật này được đánh giá là có nhiều điểm mới tiến bộ, thể hiện được sự hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với kinh tế thế giới.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vừa mang tính chất thuế gián thu vừa mang tính chất thuê trực thu tuỳ thuộc vào việc áp dụng trong các trường hợp cụ thể.
3.2. P hạm vi áp d ụ n g
Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là tổ chức, cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuế. Để xác định tổ chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải căn cứ vào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Đôi tượng nộp thuế theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, bao gồm:
- Chủ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
- Tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; - Cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh; gửi hoặc nhận hàng hoá qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
Bên cạnh đó, luật còn cho phép chủ hàng hoá có quyền uỷ quyền nộp thuế. Đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh và nộp thay thuế, bao gồm:
- Đại lý làm thủ tục hải quan trong trưòng hợp được đối tượng nộp thuế uỷ quyền nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; - Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trưòng hợp nộp thay thuế cho đội tượng nộp thuế;
- Tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thay thuế cho đối tượng nộp thuế là khách hàng của mình.
Hàng hoá thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải là hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu vực phi thuế quan và từ khu vực phi thuế quan đưa vào thị trường trong nước.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định, hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu không thuộc diện chịu thuế trong các trường hợp sau:
- Hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào khu phi thuế quan và hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài hoặc hàng hoá từ khu phi thuế quan này đưa sang khu phi thuế quan khác trong lãnh thổ Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hàng chuyển khẩu theo các hình thức sau:
+ Hàng hoá được chuyển thẳng từ cảng nưóc xuất khẩu đến cảng nước nhập khẩu không đến cảng Việt Nam;
+ Hàng hoá được chở đến cảng Việt Nam mà đi luôn đên cảng nước nhập khẩu;
+ Hàng đưa vào kho ngoại quan rồi chuyển đến nước khác không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam theo quy chế quản lý kho ngoại quan;
• Hàng viện trợ nhân đạo; hàng hóa viện trợ không hoàn lại; - Hàng hóa là phần dầu khí thuộc thuế tài nguyên của Nhà nước khi xuất khẩu.
Chế độ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định, đối tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể là chủ sỏ hữu hàng hoá xuất, nhập khẩu hoặc là ngưòi nhận uỷ thác của chủ sở hữu.
3.3. Căn c ứ tính và p h ư ơ n g thức thu t h u ế xu ấ t khẩu, th u ế n hập khẩu
Theo Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm:
1. Sô' lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu;
2. Giá tính thuế;
3. Thuê suất của mặt hàng chịu thuê quy định trong biểu thuế. 3.3.1. Giá tính thu ế xuất khẩu, thu ế nhập khẩu
Theo quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (General Agreement On Tariff And Trade - GATT) thì giá dùng để tính thuế quan gọi là trị giá hải quan.
Trị giá hải quan về bản chất là trị giá giao dịch của hàng hoá chịu thuê xuất, nhập khẩu. Trị giá giao dịch được xem là trị giá hải quan được xác định theo các chuẩn mực sau:
a) Trị giá giao dịch thực tế trong điều kiện bình thưòng (trị giá phổ biến và hợp lý tronơ giao dịch tại những thời điểm cụ thể).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
b) Nếu hàng hoá không thể xác định được trị giá giao dịch thực tế trong điều kiện bình thường thì áp dụng trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá cùng loại hay giông hệt cùng địa điểm và thời gian giao dịch.
c) Nếu hàng hoá không thể xác định trị giá hải quan như trên (a hoặc b) thì theo cách xác định bảo đảm tính hợp lý của cơ quan hải quan.
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, trị giá tính thuế được quy định như sau: Đối với hàng hóa xuất khẩu, trị giá tính thuế là giá bán tại cửa khẩu xuất (giá FOB, giá DAF), không bao gồm phí bảo hiểm (I) và phí vận tải (F)
Đôi vối hàng hóa nhập khẩu, trị giá tính thuế là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự sáu phương pháp sau đây xác định trị giá tính thuế:
Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu
Trị giá giao dịch là giá mà người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hoá được bán để xuất khẩu tói Việt Nam, sau khi đã được điều chỉnh một sô' nội dung theo quy định của pháp luật và phù hợp với tập quán quốc tế.
Giá thực tê đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán được xác định bằng tổng sô' tiền mà người mua đã thanh tóan hay sẽ phải thanh toán, trực tiếp hoặc gián tiếp cho ngưòi bán để mua hàng hoá nhập khẩu, bao gồm các khoản sau đây:
+ Giá mua ghi trên hoá đơn thương mại. Trưòng hợp giá mua ghi trên hoá đơn thương mại có bao gồm các khoản giảm giá cho lô hàng nhập khẩu phù hợp thông lệ thương mại quốc tế, thì các khoản này được trừ ra để xác định trị giá tính thuế. Bộ trưỏng Bộ Tài chính quy định cụ thể việc khấu trừ khoản giảm giá này ra khỏi trị giá tính thuế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
+ Các khoản tiền người mua phải thanh toán nhưng chưa tính vào giá mua ghi trên hoá đơn thương mại, bao gồm: Tiền trá trưốc, tiền đặt cọc cho việc sản xuất, mua bán, vận chuyển, bảo hiêm hàng hoá; Các khoản thanh toán gián tiếp cho người bán như: khoản tiền người mua trả cho người thứ ba theo yêu cầu của người bán; khoản tiền được thanh toán bằng cách bù trừ nợ.
Điều kiện áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuê theo trị giá giao dịch bao gồm:
+ Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá sau khi nhập khẩu, ngoại trừ các hạn chế sau: Hạn chế vê' việc mua bán, sử dụng hàng hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam; Hạn chê về nơi tiêu thụ hàng hóa sau khi nhập khẩu; và những hạn chế khác nhưng không làm ảnh hưởng đến trị giá của hàng hóa.
+ Giá cả hoặc việc bán hàng không phụ thuộc vào những điểu kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không thể xác định được trị giá của hàng hoá cần xác định trị giá tính thuế;
+ Sau khi bán lại hàng hoá, người nhập khẩu không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ sô' tiền thu được do việc định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá mang lại, không kể các khoản diều chỉnh quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13 Nghị định này;
+ Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch. - Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giông hệt.
Phương pháp này được áp dụng khi hàng hoá nhập khẩu không xác định được trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt. Hàng hoá nhập khẩu giống hệt phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Lô hàng nhập khẩu giống hệt được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn