🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình luật dân sự Việt Nam - Quyển 1 Ebooks Nhóm Zalo P G S . T S. BINH VÃN THANH (C hủ hiên ) TS. PHẠM VĂN TUYẾT ___________________ GIÁO TRÌNH Luật dân sự \iệ t Nam (Q U V Ể 1 \ 1 ) NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DUC VIÊT NAM PGS. TS. ĐINH VĂN THANH (Chủ biên) TS. PHẠM VÃN TUYẾT GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN Sự VIỆT NAM • • I (QUYỂN 1) (Tái bản lần thứ nhất) NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam giữ quyển công bô' tác phẩm. 59-2011/CXB/16-93/GD Mã số : DZK.01 b 1 -ĐTH Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜ I G IỚ I TH IỆU Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để các chủ thể xác lập, thục hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cẩu vật chất trong sinh hoạt, tiêu dùng hoặc trong sản xuất, kinh doanh. Đây là những quan hệ xã hội có tính chất phổ biến trong cuộc sống của mỗi người dân, của mỗi cơ quan, tổ chức trong hoạt động quản lý hoặc trong sản xuất, kinh doanh. Xác định được ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự trong việc thúc dẩy nền kinh tê' - xã hội phát triển, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX, Quốc hội nuớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật dân sự ngày 28 tháng 10 năm 1995 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1996). Sau gần mười năm thực hiện, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật dân sự mới, ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2006). Với ý nghĩa đó, Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục quy định: "Bộ luật dân sụ có nhiệm vụ bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùa cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, bào đàm sự bìnlĩ đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dàn sự, góp phàn tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thán cùa nhân dán, thúc đẩy sự phát triển kinh t ế - x ã h ộ i,ậ. Bộ luật dân sụ nãm 2005 đã tiếp tục pháp điển hoá một bộ phận quan trọng các quan hệ xã hội trong lĩnh vục tài sản và nhân thân, tạo cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy dân chủ và bảo đảm công bằng, quyền con người vé dân sự; quy định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thê khác trong giao lưu dãn sự; xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách úng xử cùa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Từ kết quả khảo sát tình hình thực thi các quy định trên thực tế, Bộ luật dàn sự năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung nhũng quy định không còn phù hợp, sửa đổi nhũng quy định còn mang tính chất chung chung; loại bò các quy định mang tính chất hành chính trong quan hệ dãn sự (tại những phần tircmg úma); sứa đổi những bất cặp. 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn mâu thuẫn liên quan đến các đạo luật khác như quy định về quyẻn sử dụng đất của cá nhân, tổ chức và viộc chuyển quyển sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2003; các quy định liên quan đến đối tượng sờ hữu công nghiệp; sửa đổi để bảo đảm tính tương thích với các điéu ước quốc tế, thông lệ, tập quán quốc tế, nhất là các quy định vẻ hợp đổng, sờ hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Là một bộ luật lớn, có tới 777 điều luật và với những đặc trung riêng vẻ đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, nên nếu chỉ đọc Bộ luật dân sự thì sẽ khó có thể hiểu toàn bộ các quy định trong Bộ luật và sẽ khó khăn trong vận dụng cũng như áp dụng. Khoa học Luật dân sự không chỉ là những quy định cụ thể trong từng điẻu luật mà còn có sự liên quan, chi phối của ngay chính các điểu luật trong Bộ luật dân sự và trong các vãn bản pháp luật có liên quan được Bộ luật dân sự dẫn chiếu. Nhằm dáp ứng kịp thời nhu cầu học tập của học viên hệ Đào tạo từ xa và những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy quan tâm, Viện Đại học Mở Hà Nội tổ chức biên soạn cuốn "Giáo trình Luật dân sự Việt N am ’’ theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan. Tham gia biên soạn giáo trình là những giảng viên có kinh nghiệm và đã giảng dạy nhiẻu năm tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Do mục đích ban đẩu, giáo trình được biên soạn cho đối tượng học viên hệ từ xa là chủ yếu. Tuy nhiên, cuốn giáo trình này cũng rất bổ ích đối vói sinh viên hộ đào tạo chính quy và các hộ đào tạo tập trung khác. Mặc dù đã có nhiẻu cô' gắng trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các dộc giả, học viên, và các đồng nghiộp để chỉnh lý cho lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn. NHÓM TÁC GIẢ 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Chương I KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT DÂN SựVIỆT NAM A. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DAN s ự v iệ t n a m I. KHÁI QUÁT CHUNG VỂ PHÁP LUẬT DÂN s ự Bộ luật dân sự dầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá IX thông qua toàn văn ngày 28 tháng 10 năm 1995 với 838 điều luật (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996 được công bố theo Lệnh của Chủ tịch nước số 44/L-CTN ngày 9/11/1995). Bộ luật này dã được thay thế, ban hành mới tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 được công bô' theo Lệnh của Chủ tịch nước số 06/2005/L-CTN ngày 27/6/2005) vẫn là một đạo luật thành văn lớn nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam với 777 điều luật. Theo một nghĩa rộng, pháp luật dân sự còn bao gồm cả một phần Luật đất đai, Luật thương mại, Luật ngân hàng (phần liên quan đến việc vay và cho vay), Luật lao động... Trong quá trình điều chỉnh các quan hộ tài sản với những tính chất đặc trưng riêng thì Luật dân sự có thể được xem là “đạo luật gốc”, quy định các nguyên tắc cơ bản. Các vấn đề cơ bản nhất được quy định trong Bộ luật dân sự nhưng Luật dân sự còn bao gồm cả một hệ thống các văn bản pháp luật của nhũng cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Quy định, giải thích, hướng dẫn áp dụng về một vấn đề cụ thể nào đó trong quá trình thực hiện. Vì vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ liên quan nhiều đến các văn bản này. Theo sách “Chỉ dẫn áp dụng các quy định khác của Bộ luật dân sự” của Viộn nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2000 thì các văn bản pháp luật có liên quan này được in trong một cuốn sách có độ dày đến 2.280 trang. Khi tìm hiểu khái quát chung về pháp luật dân sự nói riêng, trước hết cần hiểu: Luật dân sự chi điều chỉnh các mối quan hệ của con người với nhau trong cuộc sống hàng ngày, các quan hệ vể đời sống, sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh... Mối quan hộ trao đổi giữa các chủ thể dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tự do ý chí luôn là trọng tâm và là nền tảng cho sự tồn tại của xã hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Luật dân sự ngày càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là từ khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) ngày càng tăng. Theo số 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn liệu đuợc công bố trên các phương tiộn thổng tin đại chúng tại trang web tintuconline, vietnamnet/vn/vn/kinhte/182209 ngày 20/1/2008 thì dòng vốn FDI năm 2007 đầu tu trực tiếp vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, dự kiến năm 2008 có thể dao động từ 21-25 tỷ USD. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất đặc trưng và sự cần thiết phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật dân sự với nhóm quan hệ xã hội là một vấn đề không thể thiếu trong một nền kinh tế hàng hoá. Đây là cơ sở để thực hiện mục đích duy trì, phát triển quan hệ xã hội trong các lĩnh vực tài sản, nhân thân và quan trọng là duy trì một “trật tự pháp lý” trong trao đổi hàng hoá, lưu thông dân sự. Nhà nước "với bản chất là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế” 1 cao nhất sử dụng pháp luật để duy trì xã hội trong một trật tự nhất định cũng chỉ là để bảo đảm cho các hoạt động của các chủ thể trong đòi sống xã hội được tiến hành bình thường trong sự bảo đảm ổn định, an toàn pháp lý, trong đó có quan hệ trao đổi hàng hoá - tiền tệ. Không ai có thể phủ nhận rằng, con người (với tính cách là một thực thể trong đời sống xã hội) muốn tồn tại và phát triển lại không cần đến những điểu kiện sinh hoạt nhất định. Đó là những điều kiện vật chất thiết yếu bảo đảm cho sự sinh tồn như: Lương thực, thực phẩm để ãn; nhà để ở; các phương tiện đê’ đi lại; các phương tiện thông tin, liên lạc; các hoạt động giải trí, dịch vụ... Các điều kiện vật chất, tinh thẩn ngày càng phong phú và đa dạng cùng vói sự phát trién của xã hội, của nền sản xuất hàng hoá và với nền vẫn minh tiến triển không ngừng, nhằm thoả mãn và đáp ứng các nhu cầu của con người trong suốt quá trình tồn tại. Muốn thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng trong một xã hội văn minh, các chủ thể phải thoả thuận, xác lập với nhau những giao dịch dân sự nhất định để đạt đuợc mục đích đó. Trong một cộng đổng xã hội có sự phân công lao động ngày càng cao, cùng với sự tiến bộ không ngừng trong việc áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật, con người đã tạo ra một khối lượng vật chất ngày càng nhiều cho xã hội. Song song với việc tạo ra một khối lượng của cải vật chất đó, nhu cầu về cuộc sống của mỗi con người cũng ngày càng đa dạng, phong phú và không ngừng được nâng cao. Mỗi cá nhân muốn thoả mãn các nhu cầu mọi mặt về vậl chất, tinh thần văn hoá; thoả mãn các nhu cẩu trong sản xuất, kinh doanh hoặc phục vụ sinh hoạt tiêu dùng... phải thông qua các hoạt động trao đổi, giao dịch với những cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Nghĩa là, họ phải thiết lập những quan hệ với cá nhân tổ chức khác bằng những quan hệ dân sự. Thông qua các quan hệ đó, các cá nhân và các chú thể mới có thê’ thoả mãn các nhu cầu cùa mình. (] ) Xem: G iáo trình Lý luận N hà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội NXB Công an nhãn dân năm 2000. tr. 203. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Ví dụ: Để thoả mãn nhu cầu vể chỗ ờ, cá nhân đó phải tham gia vào quan hệ mua bán nhà hoặc thuê nhà... Để thoả mãn nhu cầu tồn tại như: ăn, uống, quần áo mặc cá nhân đó phải tham gia những quan hệ mua bán, trao đổi sản phẩm ở các quầy hàng lương thực, thực phẩm hoặc ở các siêu thị, chợ thị trường tự do... Khi cần vốn để sản xuất, kinh doanh nếu chủ thể là doanh nghiệp phải tham gia các quan hệ vay tại các tổ chức Ngân hàng, tín dụng; trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội phải có những giao dịch cung ứng sức lao động, nguyên liệu, vật liệu, hoá chất v.v... Trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta đều thấy rằng, đối với những quan hệ trao đổi tài sản giản đơn, giá trị trao đổi không lớn, thông thường được thực hiện theo thói quen và tập quấn. Đối với những quan hệ trao đổi này thường được thực hiện trực tiếp bằng lời nói khi thoả thuận, cam kết giữa các chú thể và rất ít khi xảy ra tranh chấp. Nhưng đối với tài sản có giá trị lớn, việc trao đổi phức tạp (thường có đối tượng là bất động sản) thì pháp luật phải quy định các trình tự, thú tục nhất định, nhằm hướng dẫn và buộc các bên tham gia quan hệ đó phải tuân theo để bảo đảm sự ổn định và an toàn pháp lý các quan hệ đó. Việc quy định của Luật dân sự Irong các chế định cụ thê đểu nhằm mục đích "Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xứ của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thê' về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự). Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích cùa Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điểu kiện đáp ứng nhu cẩu vật chất và tinh thần cúa nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005). Đẽ’ điều chinh nhũng quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân, nhằm duy trì chúng theo một trật tự nhất định, Nhà nước ban hành các quy tắc xử sự hoặc thừa nhận những xử sự theo tập quán tiến bộ và được Nhà nước bảo đàm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế. Các quy tắc xứ sự được Nhà nước ban hành hay thừa nhận nhằm điểu chính các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được gọi là quy phạm pháp luật dãn sự. Thông qua sự tác động của các quy phạm pháp luật dân sự đối với các quan hệ xã hội, sẽ làm cho các quan hệ xã hội trở thành quan hệ pháp luật dân sự. Đây là căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ tài sản và một sô quan hệ nhân thân theo một trình tự và theo một sự dự liệu nhất định. Vì vậy, pháp luật dân sự là tống hợp những nguyên tắc và các quy phạm có nhiệm vụ điều chinh các quan hệ tài sản về sở hữu. về nghĩa vụ dân sự và hợp đổng dân sư. thừa kế, chuyên quyển sử dụng đất, quvền sở hữu trí tuệ và chuyển 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn giao công nghệ, một số quan hệ vể nhân thân. Pháp luật dân sự còn quy định địa vị pháp lý của từng loại chủ thể, cách thức ứng xử và những giới hạn ứng xử của từng loại chủ thể trong các giao dịch dân sự. Là một ngành luật độc lập trong một hệ thống pháp luật thống nhất nhưng pháp luật dân sự không mang tính chất “trừng trị”, “răn đe” không bắt buộc các chủ thể nhất thiết phải tuân theo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh hoặc là một sự cấm đoán tuyệt đối; tính chất “cưỡng chế” trong Luật dân sự cũng có những đặc trưng riêng. Sự tuỳ nghi trong cam kết, thoả thuận của các chủ thể nhằm xác lập những quyền, nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự được Nhà nước tôn trọng và luôn được sự bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong nhiều trường hợp, với tính chất là một quy phạm pháp luật nhưng nó lại có nội dung hướng dẫn, chì dẫn để các chủ thể khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự biết và làm theo, bao gổm cả việc thỏa thuận chế tài hoặc trách nhiệm trong những trường hợp cần thiết. Do đó, pháp luật dân sự - vói tính chất là một ngành luật độc lập, có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh với những nét đặc trưng riêng và mang tính chất bao quát phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ để điều chỉnh những nhóm quan hộ xã hội nhất định. IIễ ĐỐI TƯỢNG ĐIỂU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN s ự V IỆT NAM 1. Khái niệm Theo truyền thống và theo thông lệ trong khoa học pháp lý, mỗi ngành luật đều có đối tượng nghiên cứu và đối tượng điểu chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Đó là nhóm quan hệ giữa “người với người” có những tính chất và nội dung tương tự. Nhóm quan hộ xã hội giữa “người với nguời” đó gọi là đối tượng điều chỉnh của một ngành luật nhất định. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là một trong những tiêu chí cơ bản để phân định các ngành luật khác nhau trong một hệ thống pháp luật. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự-theo khoa học Luật dân sự, là những nhóm quan hệ xã hội giữa “người với người”, phát sinh trong cuộc sống hàng ngày. Đó là nhóm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, trao dổi, tiêu dùng... nhằm thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của các chủ thể trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong sinh hoạt, tiêu dùng của đời sông xã hội. Đây là những quan hệ rất phức tạp và đa dạng trong cộng đồng xã hội. Khác với những môn khoa học pháp lý khác, khi nghiên cứu về quan hệ giữa “người với người” trong lĩnh vực tài sản và nhân thân, Luật dân sự nghiên cứu các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân tương đối toàn diện và mang tính chất tổng thể; xác định địa vị pháp lý của từng loại chủ thể khác nhau trong các quan hệ đó. Đối tượng nghiên cứu của Luật dân sự là những vấn đề có tính chất chung, cơ bản của một ngành luật “gốc”, có cơ chế điéu chinh, nguyên tắc áp dụng và vói những quy luật riêng. Phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự trong đời sống xã hội rất phong phú và đa dạng. Tại đoạn 1 Điều 1 Bộ luật dân sự đã xác định phạm vi điều chỉnh của Luật dân sự khá bao quát là quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, gọi chung là quan hệ dân sự. 2. Các nhóm đối tượng điều chinh Theo truyẻn thống và theo thông lệ nếu xét dưới góc độ quan hệ xã hội giữa “người vói người", khoa học pháp lý phân chia pháp luật dân sự điểu chỉnh hai nhóm quan hệ cơ bản sau dây: a. Quan hệ tài sản * Khái niệm Quan hộ tài sản trong giao lưu dân sự là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản nhất định như: Tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng hoặc các quyền về tài sản. Quan hệ tài sản trong Luật dân sự bao giờ cũng gắn liền với một tài sản hoặc một quyền tài sản nhắt định, trừ một sô' ngoại lệ nhất định. Quan hệ tài sản trong Luật dân sự là nhóm quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất của giao lưu dân sự. * Đặc điểm Xuất phát từ những đặc thù của giao lưu dân sự, quan hệ tài sản do pháp luật dân sự điều chinh có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Quan hệ tài sản quy định trong Luật dân sự rất phong phú, đa dạng và có nhiều loại quan hệ có tính chất khác nhau. Theo nghĩa rộng và đầy đủ, nó không chỉ được ghi nhận dưới góc độ sở hữu mà còn bao gồm cả nhũng quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh trong quá trình trao đổi, lưu thông được các chủ thể thực hiện thông qua các giao dịch dân sự. Nghĩa là, quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự được quy định và ghi nhận trong trạng thái “tĩnh tại” và cả trong trạng thái “vận động” của lưu thông dân sự. Chù thê tham gia vào các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh cũng đa dạng, bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác... Trong một sô trường 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn hợp, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nhưng với tư cách là một chủ thể đặc biệt. Phạm vi các quan hệ tài sản trong Luật dân sự bao gồm: Các quan hệ vể sờ hữu; các quan hệ vẻ mua bán, trao đổi, cho vay, cho thuê... các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu dùng; các quan hệ vẻ dịch vụ như: Gửi giữ, vận chuyển hành khách, vận chuyển hàng hoá, gia công; các quan hệ vẻ uỷ quyền, về bảo hiểm; các quan hệ là những giao dịch một bên (còn gọi là hành vi pháp lý đơn phương) như: Thừa kế, hứa thưởng và thi có giải v.v... Trong điều kiện hiện nay, hàng hoá còn có thể được hiểu là: Sức lao động, các giấy tờ có giá trị, các quyền tài sản... (bao gồm cả quyên tài sản trong các quan hệ vể sờ hữu, hợp đồng; trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ). - Quan hệ tài sản trong Luật dân sự luôn gắn với quan hệ sản xuất và bị quan hệ sản xuất chi phối. Mặc dù vậy, quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự không phải chỉ là quan hệ có tính chất “vật chất thuần tuý” mà còn có tính chất ý chí. Mỗi quan hệ tài sản cụ thể trong Luật dân sự luôn phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của chù thể; phản ánh những mục đích và động cơ nhất định cúa chù thể khi tham gia quan hệ dân sự. Do dó, các quan hệ tài sản trong Luật dân sự luồn luôn có tính chất ý chí. Điểu đó dược thể hiện trong các quan hệ dân sự là: Trước hết, quan hệ tài sản luôn phản ánh và ghi nhận ý chí của các chủ thể tham gia trong tất cả các quan hệ dân sự cụ thể. Trong thực tế, tiển để để hình thành quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự dựa trên cơ sở thống nhất ý chí chung của các bên. Các quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự chính là sự ghi nhận và biểu hiện ý chí của các chủ thể ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định. Pháp luật dân sự tôn trọng ý chí của các chủ thể trong quá trình cam kết, thoả thuận để xác lập giao dịch dân sự nhưng trong giao lưu dân sự ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước. Nghĩa là, phải phù hợp với những quy định chung của pháp luật dân sự. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý cùa Nhà nước với nhiều hình thức sở hữu và hình Ihức kinh doanh khác nhau thì việc quy định của pháp luật dân sự là “công cụ pháp lý” có hiệu quả để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, tác động đến các giao dịch dân sự là rất cần thiết. Sự bảo đảm của pháp luật là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển và ổn định giao lưu dân sự trong lĩnh vực tài sản. Đóng thời, vì lý do an ninh, quốc phòng trong một số trường hợp nhất định Nhà nước quy định giới hạn cẩn thiết đê các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự cần phải biết những hạn chế dó và phái tuân theo. - Do tính chài trao đổi cùa các quan hệ dân sự, nên quan hệ tài sản do Luật dãn sự điểu chinh luôn có tính chất “hàng hoá-tiẻn tệ” với đặc trung cơ bán là tính chất giá trị và phải tính được bầng tiền. Không thê được coi là tài sán nêu tư bản 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn thân “nó” không có tính giá trị, không xác định được bằng tiền. Mục đích và mong muốn của các chủ thể trong giao luu dân sự chính là lợi ích, được thể hiện qua giá trị sử dụng của hàng hoá; nhưng muốn có được giá trị sử dụng thì phải thực hiện sự trao đổi bằng giá trị của hàng hoá; chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phẩn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như hiện nay thì các tài sản (bao gồm cả quyẻn tài sản) phần lớn được thể hiện dưới dạng hàng hoá và có giá trị trong trao đổi. Tuy nhiên, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 và Điều 200 Bộ luật dân sự nãm 2005 thì không thể trở thành hàng hoá. Việc chuyển quyền sử dụng đất (là loại quyền tài sản đặc biệt) sẽ được thực hiện theo một trình tự, thủ tục riêng, được quy định tại Phần thứ năm, Bộ luật dân sự và pháp luật vể đất đai. - Quan hệ tài sản bị quy luật giá trị chi phối, nên dặc trưng của các quan hệ tài sản mà pháp luật dân sự điều chỉnh còn được thể hiện ờ tính chất đền bù tương đương trong trao đổi. Các chủ thể tham gia trong các giao dịch dân sự cụ thể có thê’ có những dộng cơ, mục đích khác nhau nhung đẻu thống nhất ý chí với nhau trong việc thực hiện giá trị trao đổi trong quan hệ dân sự. Một trong những nguyên tắc cơ bản khi thực hiện trao đổi giá trị chính là sự đền bù ngang giá trị. Một chủ thể của quan hệ dân sự cụ thể muốn hưởng, muốn nhận một giá trị tài sản thì phải đổi bằng một giá trị tương đương và ngược lại. Đó là nguyên tắc cơ bản trong trao đổi hàng hoá của giao lưu dân sự. Nguyên tắc này là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy giao lưu dân sự và nền sản xuất phát triển. Tuỳ thuộc vào tính chất của từng giao dịch dân sự cụ thể và sự cam kết, thoả thuận của các chủ thể trong giao lưu dân sự mà tính chất đền bù tương dương có thê’ là: Việc trao đổi giá trị là một khoản tiền phải trả cho bên kia, là tài sản (trong hợp đổng trao đổi) hoặc các vật có giá trị khác giữa các bên khi tham gia giao dịch dân sự. Điểu này hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí, nội dung cụ thể mà các chủ thể cam kết, thoả thuận với nhau trong quá trình xác lập giao dịch dân sự. Trong lĩnh vực dân sự còn có một sô' quan hệ tài sản không có tính chất đền bù tương đương hoặc có tính chất trao đổi ngang giá trị theo quy luật giá trị. Đó là các quan hệ: Cho mượn, tặng cho, cho vay không lấy lãi, thừa kế, sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật không mang tính chất kinh doanh đê kiếm lợi nhuận v.v... Các quan hệ này cũng là đối tượng điểu chính của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nhóm các quan hệ dân sự trẽn đây không phải là cơ bản và phổ biến trong pháp luật dân sự. Ngoài ra, cũng cần thấy rằng, không phải toàn bộ các quan hệ tài sản trong đời sống xã hội đều do Luật dân sự điều chinh. Việc xác định quan hệ đó có phái là đối tượng điều chính cúa pháp luật dân sự hay không còn tuỳ thuôc vào các yếu tố: 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Tính chất của giao dịch đó, đặc trưng của chủ thể khi tham gia giao dịch, quyền bình dẳng và vấn đé tự do cam kết, thoả thuận giữa các chủ thể trong giao dịch... Ví dụ: Cũng là quan hộ tài sản nhưng việc mua bán hàng hoá với nuớe ngoài sẽ do Luật đầu tư hoặc Luật thương mại điều chỉnh. Những quan hệ mua bán nhưng với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận của các thương gia, các doanh nghiệp thương nghiệp sẽ do Luật thương mại điếu chỉnh. Việc cấp đất, cho thuê đất có thời hạn liên quan đến các thủ tục hành chính và sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại do Luật đất đai quy định. b. Nhóm quan hệ nhân thân * Khái niệm Ngoài việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, pháp luật dân sự còn điều chỉnh một số các quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội. Quan hệ nhân thân chính là những quan hệ được hình thành từ một giá trị tinh thần của một cá nhân hoặc một tổ chức và luôn gắn liền với cá nhân hoặc tổ chức đó. Quan hệ nhân thân trong Luật dân sự có thể gắn liền với tài sản hoặc không gắn liền với tài sản. Các quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội, tùy theo tính chất cũng được nhiều ngành luật khác nhau trong một hộ thống pháp luật điều chỉnh. Tuỳ thuộc vào tính chất của ngành luật đó mà viộc điều chỉnh các quan hệ nhân thân sẽ được thực hiện bằng những phương pháp, cách thức khác nhau. Ví dụ: Ngành luật hành chính quy định về viộc xác định các quyền nhân thân trong lĩnh vực phong tặng các danh hiệu cao quý của Nhà nuớc cho một cá nhân hoặc tổ chức như: Tặng thường các loại huân chương, huy chưcmg; phong tặng các chức danh hoặc danh hiệu trong các lĩnh vực khoa học, văn hoá, nghệ thuật... Ngành luật hình sự quy định là tội phạm và áp dụng trách nhiệm pháp lý hình sự bằng một hình phạt đối với những người có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, vu khống, làm nhục hoặc xúc phạm người khác... * Đặc điểm Các quan hệ nhân thân do pháp luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau đây: - Đó là những quan hệ xã hội luôn luôn gắn liền với một chủ thể xác định (như tính chất và tên gọi của nó); - Các quyền lợi về nhân thân của một chù thể theo nguyên tắc của pháp luật dân sự không tách rời chủ thể đó để chuyển dịch cho chú thể khác thông qua các giao dịch dân sự cụ thể; - Đa số các quan hệ nhân thân là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự không có tính chất “giá trị kinh tế” và không có nội dung tài sản. 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng các biện pháp truyền thống như: Buộc chấm dứt hành vi vi phạm, cổng khai xin lỗi, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng... nhằm phục hổi tình trạng ban đầu như trước khi bị vi phạm. Trong một số trường hợp khi người có quyền nhân thân bị xâm phạm ngoài quyền tự mình cải chính, còn có quyền yêu cầu được bảo vệ. Toà án có thể buộc người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm phải bổi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần (khoản 3 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005). * Các loại quan hệ nhân thân trong Luật dân sự Các quan hệ nhân thân do pháp luật dân sự điều chỉnh có thể chia thành hai nhóm cơ bản sau đây: - Một là: Nhóm các quan hệ nhân thân có mối liên hệ trực tiếp (hoặc gián tiếp) với các quan hệ tài sản. Trong nhóm quan hệ này, tính chất nhân thân là tiền dề dể làm phát sinh các quan hệ tài sản (hoặc các quan hệ tài sản dược xác định trên cơ sở đã xác định cụ thể các quan hệ nhân thân). Ví dụ: Các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Tác giả có thể đặt tên gọi cho công trình khoa học, đặt tên cho tác phẩm văn học, nghệ thuật; tác giả cố thể ghi tên thạt của tác giả hay chỉ ghi bút danh, bí danh để đứng tên trong tác phẩm vãn học, nghộ thuật, công trình khoa học của mình. Các quyển này chính là các quyền về nhân thân của chủ thể. Cùng với những quyền nhân thân trên đây, tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học còn được hưởng một khoản tiền nhuận bút, tiền thưởng hoặc tiền thù lao nhất định từ các công trình, tác phẩm đó theo quy định chung của pháp luật. - Hai là: Nhóm các quan hệ nhân thân không có liên quan đến các tài sản. Đó là quan hệ nhân thân thuần tuý không có mối liên hệ với quan hệ tài sản nhưng có tính chất khá phổ biến trong đời sống xã hội, như: Tên gọi và quyền thay đổi tên gọi; hình ảnh và quyền của cá nhân đối với hình ảnh; nhân phẩm; uy tín; danh dự và các quyền được bảo đảm; bí mật đời tư; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được hiến và nhận bộ phận cơ thể; quyền xác định lại giới tính; quyền tự do cư trú, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, tự do sáng tạo v.v... và một số quyền nhân thân khác lần đầu được quy định cụ thể tại mục 2 Chương III Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 2005. Trước đây, để bảo vệ nhóm quan hệ nhân thân này Luật dân sự quy định chỉ áp dụng các biện pháp: Tự mình cải chính hoặc yêu cầu người vi phạm phải xin lỗi; cải chính công khai. Bởi vì danh đự, uy tín, nhân phẩm của một cá nhân hoặc 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn một tổ chức không thể xác định được bằng tién và sự cưỡng chế của Nhà nước cũng không mang tính chất tài sản. Luật chì quy định nếu một người có hành vị xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm... của người khác mà gây thiột hại vể tài sản thì phải bổi thường thiệt hại đó. Ngày nay, để bảo vệ quyển nhân thân, ngoài viộc ghi nhận các biện pháp đặc trưng và truyền thống của pháp luật dân sự như trước đây, Bộ luật dân sự còn quy định, người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyển: “Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm phải bổi thường thiệt hại vật chất và thiệt hại ve tinh thần” (khoản 3 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005). Như vậy, người xâm phạm đến quyền nhân thân của người khác ngoài việc phải khắc phục những hậu quả về tinh thần, còn có thể phải bổi thuờng những thiệt hại vể vật chất. Đây là một trong những quy định mới mà trước khi ban hành hai Bộ luật dân sự chưa có văn bản pháp luật nào quy định. Tương tự như các quan hệ tài sản, pháp luật dân sự không điều chỉnh toàn bộ các quan hệ nhân thân của đời sống xã hội. Chẳng hạn, điều chỉnh quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái sẽ do Luật hôn nhân và gia đình điểu chỉnh. Luật dân sự chỉ quy định những vấn đề cơ bàn, có tính chất nguyên tắc chung vể hôn nhân và gia đình. III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỂU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN s ự l ẳ Khái niệm Mỗi một ngành luật trong một hệ thống pháp luật không những có đối tượng điều chỉnh riêng biệt mà còn có cả phương pháp điều chỉnh với những đặc trưng riêng. Phương pháp điều chình của một ngành luật cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác. Phương pháp điều chình của một ngành luật trong một chừng mực nhất định có tính chất chủ quan và phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Tuy nhiên, trong các quan hệ dân sự, Nhà nước không thể tuỳ tiộn đặt ra phương pháp, cách thức tác động lẽn các quan hệ dân sự thế nào cũng được. Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của một ngành luật phụ thuộc khách quan vào tính chất và đặc điểm các quan hệ xã hội do ngành luật đó điều chỉnh. Với sự đa dạng về các quan hệ trong đối tuợng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh cùa pháp luật dân sự cũng có những đặc trưng riêng và rất phong phú. Phương pháp điểu chỉnh của Luật dân sự được lựa chọn trên cơ sờ bản chất và đặc điểm cùa các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong pháp luật dân sự. Cơ sờ đê xác lặp các quan hệ dân sự là: Tự nguyện, bình đẳng giữa các chù thể và quyền tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận cùa các chú thể trong giao lưu 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn dân sự. Ngoài ra, các chủ thể của Luật dân sự còn có quyền thoả thuận với nhau cả vẻ những nội dung chưa (hoặc không) được quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự, bao gổm cả chế tài và cả trách nhiệm dân sự. Theo nguyên tắc chung của pháp luật, phương pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự là những biện pháp, cách thức phù hợp để thông qua đó pháp luật tác động đến xử sự của các chủ thể trong các quan hệ xã hội (trong pháp luật dân sự là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân). Nhờ có sự tác động này, các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân đã phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt theo ý chí của chủ thể trẽn cơ sở ý chí của Nhà nước được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật dân sự cụ thể hoặc theo một trật tự nhất định; quyén và nghĩa vụ của các chủ thể luôn được bảo đảm thực hiện. 2. Đăc điểm Do tính chất đặc thù vể đối tượng điều chình, phương pháp điểu chỉnh của pháp luật dân sự có những đặc điểm sau đây: - Trước hết, trong mọi giao lưu dân sự, yếu tố bình đẳng giữa các chủ thể về phương diện pháp lý là một đặc điểm có tính chất đặc trưng. Trong giao lưu dân sự không có sự phân biệt địa vị xã hội, tình trạng tài sản, dân tộc, giới tính, tôn giáo...; không bẻn nào có quyén ra lệnh cho bên nào; chủ thể trong các giao dịch dân sự cụ thể luôn độc lập với nhau và không phụ thuộc vào chủ thể khác. Đây là một trong những nguyên tắc quar. trọng trong phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. Điểu 5 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: “Trong quan hộ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt vể dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ vãn hoá, nghẻ nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau". Tính chất độc lập và bình đẳng giữa các chủ thể về tài sản và quyền tự định đoạt của các chủ thể là yếu tô' quyết định có ý nghĩa quan trọng; bời lẽ, các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh luôn có tính chất hàng hoá-tiền tệ. Muốn thực hiện được việc “trao đổi ngang giá” và “đển bù luơng đương” trong các giao dịch có tính chất hàng hoá-tiền tộ thì mỗi chủ thể phải thực sự bình đẳng; có quyền tự định đoạt theo ý chí của mình trên cơ sở độc lập về tài sản. Không có sự bình đậng, độc lập vể tài sản và chủ thể không có quyền tự định đoạt thì cũng khõng thê thực hiện được tính chất dền bù tương đương-ngang giá trị trong giao dịch dân sự. Ngoài ra, sự bình đảng và độc lập vể tài sản cùa các chú thể trong giao lưu dân sự còn được thể hiện ngay cả trong trường hợp mà giữa các chủ thể còn có các mối liên hệ không có tính chất bình đảng (như trong quan hệ hành chính, lao động...). Dù rằng chù thể đó có sự “phụ thuộc” nhất định trong các quan hệ khác 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn nhimg đã thoả thuận xác lập với nhau một giao dịch dân sự thì các chủ thể vẫn có quyền bình đẳng và độc lập. Điểu đó chứng tỏ rằng, yếu tố bình đẳng và độc lập của các chủ thể trong giao lưu dân sự có tính chất tuyột đối. Nếu không bảo đảm tính chất bình đảng và độc lập giữa các chủ thể thì đó không phải là quan hệ dân sự; hoặc nếu giao dịch dân sự đó được xác lập thì cũng có thể bị coi là vô hiệu. -T h ứ h a i là, quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia giao lưu dân sự luôn được bảo đảm. Có thể thấy rằng đây là sự thể hiện tiếp theo của tính chất bình đẳng giữa các chủ thể trong giao lưu dân sự. Các quan hệ pháp luật dân sự suy cho cùng là việc thực hiện những mục đích, động cơ theo ý chí và mong muốn của mỗi một chủ thể trong giao dịch dân sự. Vì vậy, việc tham gia vào các giao dịch cụ thể nhất định là do chủ thể tự quyết định căn cứ vào khả năng, mục đích và nhu cầu của chủ thể đó. Nghĩa là, các chủ thể có quyền tự mình lựa chọn sự cần thiết hay không cần thiết khi tham gia các giao dịch dân sự. Quyền tự định đoạt của chủ thể còn được thể hiện: Các chủ thể có toàn quyền thoả thuận và quyết định việc lựa chọn biện pháp, cách thức thực hiện quyén và nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự cụ thé. Pháp luật dân sụ còn cho phép các chủ thể tự mình đặt ra (trong trường hợp pháp luật chưa có quy định) biện pháp, cách thức thực hiện quyẻn và nghĩa vụ dân sự; thoả thuận với chủ thể khác vẻ các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (theo các quy định chung tại mục 5 chương XVII Phần thứ ba Bộ luật dân sự); hình thức trách nhiêm pháp lý khi có sự vi phạm; cách thức áp dụng trách nhiệm dân sự... khi có một bên đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nội dung các điểu khoản mà chủ thể đó đã tự nguyện cam kết, thoả thuận. Quyền tự định đoạt của các chủ thể dược pháp luật dân sự tôn trọng và bảo vệ. Các chú thể được thực hiện quyền này theo sự tuỳ nghi và theo ý chí của mình nhưng phái chú ý tới các yêu cầu của pháp luật về giới hạn các quyền đối vói từng loại chủ thế khác nhau trong những giao dịch dân sự khác nhau. Về nguyên tắc, các chủ thể của Luật dân sự được quyền tự định đoạt, tự do lựa chọn cách thức, biện pháp thực hiện quyển dân sự và nghĩa vụ dân sự nhưng quyển tự định đoạt dó không phải là hoàn toàn không bị một giới hạn nào. Giới hạn quyển của chù thể trong giao lưu dân sự chính là: “Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 10, Bộ luật dân sự năm 2005). Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có quyền tự do cam kết, thoả thuận nhưng “mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” (điểm b khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Quyền tự định đoạt của chủ thể trong giao lưu dân sự cũng được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước đã đuợc quy định tại Điều 4 Bộ luật dân sự: “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối vói các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng". Ngoài ra, khi xác lập quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự các chủ thể còn phải tuân theo các căn cứ, cách thức, trình tự, thủ tục do Bộ luật dân sự và các vãn bản pháp luật khác quy định. Giao dịch dân sự khi xác lập không dược trái với các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật (Điểu 11 Bọ luật dân sự năm 2005). - T h ứ ba là, trách nhiệm tài sản cũng là đặc điểm đặc trimg về trách nhiệm pháp lý trong phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự chủ yếu là các quan hệ tài sản có tính chất hàng hoá-tiền tệ và những quan hệ nhân thân, nên sự vi phạm của một bên có thể dẫn đến sự thiệt hại về tài sản hoặc tinh thẩn cho phía bên kia. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về vật chất. Trong việc bảo vệ quyền nhân thân, luật cũng quy định: Khi người có quyền nhân thân bị vi phạm họ cũng có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại về vật chất (khoản 3 Điều 25 Bộ luật dàn sự năm 2005). Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền". Đây là những tiền đề pháp lý để các bên phải có trách nhiệm với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ trong Luật dân sự thông thường là các nghĩa vụ tài sản, vì vậy trách nhiệm dân sự cũng thường là trách nhiệm tài sản. Trong Luật dân sự, trách nhiệm pháp lý có thể do Luật dán sự quy định hoặc do các chủ thể tự cam kết, thoả thuận với nhau khi xác lập giao dịch dân sự. Nhưng dù được hình thành từ cơ sỏ nào, chúng cũng đều có giá trị pháp lý ngang nhau trong quá trình áp dụng. Đây là đặc trung chỉ có trong pháp luật dân sự. Trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định trước hoặc do các chú thể cam kết, thoả thuận trong các giao dịch dân sự cụ thê khi được áp dụng bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước đều có nội dung tài sản với mục đích nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu (tình trạng trước khi có sự vi phạm) hoặc nhằm khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần cho bẽn chù thể bị vi phạm. Trách nhiệm tài sản chính là trách nhiệm cùa các chủ thê trong các quan hệ pháp luật dân sự khi hành vi của họ đã gây ra thiệt hại (gồm cả những thiệt hại về vật chất và tinh thần) và có đú các điều kiện theo yêu cầu cùa pháp luật dân sự. Trách nhiệm tài sản trong pháp luật dân sự thể hiện ờ việc: Bồi thường bằng tiền hoặc khắc phục những hậu quà xấu về mặt vật chất như sửa chữa, đổi vật khác, thay thế bằng các tài sản cùng loại khác... 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn - Thứ tư, trong giao luu dân sự các chủ thể có quyẻn bình đẳng, quyền tự định đoạt khi cam kết, thoả thuận xác lập giao dịch dân sự, nên đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là tự thoả thuận và hoà giải. Khi có tranh chấp nếu các bên không tự hoà giải và thoả thuận với nhau được thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Tòa án vẫn tiếp tục hoà giải để các bẽn tự nguyện chấp hành nghĩa vụ. Khi không thể hoà giải được nữa thì các cơ quan nhà nưóc có thẩm quyền và Tòa án mới áp dụng đến biện pháp cưỡng chế. Pháp luật dân sự nghiêm cấm không đuợc dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp hoặc khi tham gia quan hệ dân sự (Điều 12 Bộ luật dân sự nãm 2005). Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhất thiết phải thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyẻn và thực hiện theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Thứ năm, khi các bên không thể thoả thuận hoặc hoà giải với nhau được thì bên có quyền bị xâm hại (bao gồm quyền tài sản và các quyẻn nhân thân) có quyển khởi kiện bằng đơn kiện theo quy định của pháp Luật tố tụng dân sự để yêu cẩu Toà án bảo vệ. Trong đơn khởi kiện để yẽu cầu Toà án bảo vệ, người có quyển bị xâm phạm phải nèu rõ sự vi phạm của phía bên kia và các yêu cầu của mình; người khởi kiện có trách nhiệm cung cấp những chứng cứ cần thiết liên quan đến việc khới kiện nhầm tạo thuận lợi cho quá trình chứng minh khi giải quyết tranh chấp. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì chứng minh là nghĩa vụ của các đương sự. Theo quy định của pháp Luật tố tụng dân sự nếu quan hệ đó đúng thẩm quyền giải quyết, Toà án sẽ thụ lý và giải quyết để khôi phục lại các quyển đã bị xâm phạm, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản. Quyền khởi kiện theo trình tự tố tụng dân sự tại Toà án là quyền tố tụng có ý nghĩa thực tế của mỗi công dân, tổ chức; là phương tiện pháp lý quan trọng nhàm bảo đảm cho các chủ thể của pháp luật dân sự sử dụng trong những trường hợp cẩn thiết để bảo vệ kịp thời các quyển, lợi ích của mình khi bị xâm phạm. IV. LUẬT DÂN S ự VÀ KHOA HỌC LUẬT DÂN s ự 1. L uật dân sự - một ngành luật thực định a. Khái niệm Luật dân sự dù được xem xét ở những góc độ khoa học khác nhau, đều luôn dược xem là một ngành luật thực định. Pháp luật dân sự (bao gồm cả các văn bản có liên quan đến việc áp dụng) là một hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự để điéu chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội. Nhờ có sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật dân sự lên các quan hệ xã hôi tác động lên ý chí của các chù thể tham gia quan hệ dân sự mà các quan hê xã hôi 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn trở thành quan hệ pháp luật dân sự: Đuợc phát sinh, thay đổi và chấm dứt theo một trình tự nhất định do Bộ luật dân sự quy định. Với tính chất là một ngành luật thực định, trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan được kết cấu theo truyền thống: Gồm nhiều chế định riêng biệt, mỗi chế định có tính chất và nội dung tương tự; trong mỗi chế định lại có nhũng nguyên tắc riêng biệt và có nhiẽu quy phạm pháp luật khác nhau điểu chỉnh các hành vi dân sự cụ thể của các chủ thể. Để tránh sự trùng lặp của kỹ thuật lập pháp, trong Bộ luật dân sự dã dành toàn bộ Phần thứ nhất với tên gọi: “Những quy định chung”, dể quy định những vấn đề bao quát, có tính chất chì đạo và áp dụng cho tất cả các chế định trong pháp luật dân sự. Ngoài ra, các chế định cụ thể trong Bộ luật dân sự như: Chế định tài sản và quyền sở hữu, chế dịnh nghTa vụ dân sự và hợp đổng dân sự, chế định thừa kế, chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ... đều là một nhóm các điểu luật cụ thê’ (các quy phạm pháp luật) quy định về những nội dung riêng biệt có tính chất tương tự trong sự liên kết có tính chất tổng thể theo một căn cứ và cơ sớ khoa học. Ví dụ: Trong hợp đổng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, vay tài sản và các hợp đồng dân sự thông dụng khác... tại chương XVIII, Phần thứ ba, Bộ luật dân sự không có quy định cụ thể nào trong các quy định vể quyẻn và nghĩa vụ của các chủ thể khi có sự kiện giám hộ. Nhưng khoản 3 Điều 69 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản cúa người dược giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người đuợc giám hộ và có sự đồng ý cùa người giám sát việc giám hộ”. Điều đó có nghĩa là: Trong tất cả các hợp đồng dân sự thông dụng nếu vi phạm quy định trên đây sẽ đương nhiên vô hiệu, không được pháp luật dân sự thừa nhận và không có giá trị pháp lý. Trong mỗi chế định cùa Bộ luật dân sự (hoặc trong văn bản pháp luật có liên quan) mỗi điểu luật là một quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện như các ngành luật thực định khác. Tuy nhién, tính chất bắt buộc cùng các chế tài Irong Luật dân sự có đặc irưng riêng nhung đó vẫn là nhũng quy phạm pháp luật của một ngành luật thực định. Tính chất thực định thể hiện là: Khi có tranh chấp dân sự, Toà án và các cơ quan nhà nước có thám quyền sẽ áp dụng những quy định cụ thê của pháp luật dân sự đê giải quyết tranh chấp nếu trong hợp đồng các bên không có thoả thuận. Các quy định trong các điéu luật luôn có giá trị điều chính trực tiếp các quan hệ dân sự bàng những phương pháp riêng; hoặc các chủ thể trên cơ sở hướng dẫn, chỉ dẫn của các điều luật phái tuân theo, trừ khi pháp luật có những quy định khác. 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn b. So sánh Luật dân sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam Vối những đặc điểm, đặc trưng vé đối tượng và phương pháp điểu chình của mỗi một ngành luật, khoa học Luật dân sự phân biệt ngành luật này với ngành luật khác trong một hệ thống pháp luật. Việc phân biệt này có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, nhất là trong việc áp dụng pháp luật tại các cơ quan nhà nước có thâm quyền. Tuy nhiên, cần thấy rằng việc so sánh trong nhiều trường hợp nó chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi lẽ, pháp luật của Nhà nước là một hệ thống thống nhất, thê hiện ý chí của Nhà nước và giữa chúng thuờng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhằm điều chỉnh các quan hộ xã hội tồn tại trong một chế độ xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử... nhất định. Việc so sánh Luật dân sự với một số ngành luật khác chỉ có ý nghĩa tương đối về lý luận và trong học thuật. * Luật dân sự và Luật tố tụng dân sự Luật dân sự và Luật tố tụng dân sự là hai ngành luật có liên quan mật thiết với nhau. Luật tố tụng dân sự quy định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự; hôn nhân và gia đình. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ tô' tụng phát sinh giữa cơ quan tiến hành tô' tụng, người tiến hành tố tụng (bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân...) với những người tham gia tô' tụng (đưcmg sự, những người có quyền và lợi ích liên quan, cơ quan giám định...) trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Trong Luật tố tụng dân sự quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với những đương sự và người tham gia tố tụng khác là quan hệ quyền uy-phụ thuộc. “Quyền tự định đoạt của đương sự” trong pháp Luật tố tụng dân sự cũng được bảo đảm nhưng tính chất hoàn toàn khác so với quyền tự định đoạt và bình đẳng pháp lý của chủ thể trong pháp luật dân sự. Nói cách khác, các chủ thể khi tham gia tô' tụng dân sự không có sự bình đẳng. Theo thông lệ, pháp Luật tố tụng dân sự được coi là pháp luật về “hình thức", còn pháp luật dân sự được coi là pháp luật về “nội dung". * Luật dân sự và Luật kinh t ế (còn gọi là Luật thương mại) Đây là hai ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản trong đời sống xã hội. Nhưng tính chất tài sản được phân biệt ở một góc độ khác nhau và trong một chừng mực nhất định có những tính chất, nội dung khác nhau. Luật kinh tế, thương mại còn bao gồm một phần nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại. Ngày nay, sự phân biệt giữa Luật dân sự và Luật kinh tế, thương mại chỉ có ý nghĩa tương đối trone lĩnh vực học thuật; tiêu chí để phân biệt chúng vẫn đang 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn còn là để tài tranh luận sôi nổi trong giói nghiên cứu khoa học pháp lý từ nhiéu thập kỷ nay. Trước đây, một trong những cơ sở để phân biệt chúng là: Luật kinh tế chỉ điều chỉnh các quan hộ tài sản giữa các chủ thể là pháp nhân, trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ và chì tiêu kế hoạch chung theo sự quản lý, chỉ đạo của Nhà nuớc. Quan hệ tài sản trong Luật kinh tế nhằm mục đích “sản xuất, kinh doanh", còn quan hệ tài sản trong Luật dân sự nhằm chỉ nhằm mục đích thuần túy là “sinh hoạt, tiêu dùng". Hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tiêu chí để phân biệt chúng như trước dây không còn phù hợp và rất khó giải thích về phương diện lý luận. Khái niệm “sinh hoạt, tiêu dùng” truyền thống trước đây của Luật dân sự ngày càng được mở rộng. Vì rằng, Luật dân sự đã điều chỉnh một số quan hệ tài sản trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại. Vi dự. Cho phép mua nhà để sử dụng vào mục đích khác (Điều 455 Bộ luật dân sự năm 2005). Thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác (Điều 500, Bộ luật dân sự năm 2005). Các quy dịnh vẻ quyền sở hữu công nghiêp và chuyển giao công nghệ (quy định tại Phẩn thú sáu, Bộ luật dân sự năm 2005)... Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh hợp đổng kinh tế ngày 29/9/1989 (nhưng hiộn nay Pháp lệnh đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006 theo quy định tại Nghị quyết của Quốc hội sô' 45/2005/QH11 kỳ họp thứ 7, Khóa XI) thì một hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế phải có hai điều kiện sau đây: - Hai bên ký kết đẻu có mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và vấn đề này còn được quy định trong luật thương mại. Vì vậy, trong hộ thống pháp luật thời kỳ đó điểu chỉnh các quan hệ về hợp đồng ở Việt Nam có tới ba loại: Hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại. - ít nhất một bên chủ thể trong hợp dồng là doanh nghiệp có đãng ký kinh doanh hợp pháp. Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội dồng Bộ trưởng (nay là Hội đồng Chính phủ) đã giải thích rõ: Nếu một bên không kinh doanh sẽ là hợp dồng dân sự. Vì vậy, chỉ được coi là hợp dồng kinh tế và do Luật kinh tế điều chỉnh khi hai bẽn chủ thể giao kết đều có mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và có ít nhất một bén trong hợp đổng là doanh nghiệp. * Luật dân sự với Luật hôn nhân và gia đình Các quan hệ do Luật dân sự điều chỉnh mang tính chất tài sản và một sô' quan hệ nhân thân nhưng các quan hệ do Luật hôn nhân và gia đình điều chinh lại 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn chủ yếu mang tính chất nhân thân. Đó là quan hệ tình cảm giữa vợ và chổng; giữa cha mẹ và con; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; vé việc giám hộ giữa các thành viên trong gia đình... Thời kỳ Pháp thuộc, hôn nhân và gia đình là một chế định của Luật dân sự, được quy định trong các bộ dân luật thời kỳ này. Các quan hộ tài sản do Luật hôn nhân và gia đình điẻu chỉnh là quan hệ có đặc điểm “không có sự độc lập vẻ tài sản” giữa các chủ thể. Khối lượng quan hê tài sản trong hôn nhân và gia đình nói chung không lớn, không có sự đa dạng và phức tạp như các quan hệ tài sản trong Luật dân sự. Tài sản của vợ chổng trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chổng (trừ những tài sản riêng mà họ có thoả thuận và theo những căn cứ do pháp luật quy định). Những tranh chấp vể tài sản phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như: Quan hệ tài sản riêng giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ và các con; những tranh chấp vẻ tài sản trong thời kỳ hôn nhân còn tổn tại và khi ly hôn... mà các quy phạm pháp luật cùa Luật hổn nhân và gia đình năm 2000 không đủ để Toà án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng thì sỗ áp dụng các quy phạm tương ứng của pháp luật dân sự dể giải quyết tranh chấp. * Luật dân sự và Luật đất đai Những quan hệ do Luật đất đai điều chỉnh là quan hệ phát sinh trong viộc quản lý và sử dụng đất dai theo quy định của Nhà nước. Khách thể của quan hộ pháp luật về đất dai được giới hạn trong diện tích đất thuộc khối điền thổ (lãnh thổ) chung của Nhà nước. Phương pháp diều chỉnh của Luật đất dai tương tự như cùa Luật hành chính. Bên nhận đất đê sử dụng phải tuân theo những chế độ, quy định cụ thể của từng loại đất, hạng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Chủ thể nhận đất sử dụng không có quyền tự do cam kết, thoả thuận như trong Luật dân sự mà phải tuân thú những quy định chung, bao gồm cả việc kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển quyền sử dụng đất với tính chất là một quyền tài sản lại được coi là một quan hệ pháp luật dân sự. Trình tự và thù tục khi chuyển quyền sử dụng đất phải thực hiện theo quy định tại Phần thứ năm, Bộ luật dân sự năm 2005 và pháp luật về đất đai. * Luật dân sự và Luật hành chinh Cơ sở đẽ’ phân biệt hai ngành luật này chú yếu dựa vào đặc tnmg của phương pháp diều chinh. Đặc trưng trong phương pháp điều chính cùa Luật hành chính là tính chất mệnh lệnh: Quyền uy-phục tùng. Trong Luật hành chính khỏnc có sư bình đáng pháp lý giữa các chù thể tham gia quan hệ hành chính. Cụ thế là. không có sự bình đẳng vé quyền và nghĩa vụ giữa các chù thê. Trong quan hệ pháp luât 22 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn hành chính, một bên chủ thể luôn là cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền ra mộnh lệnh, còn bên kia phải phục tùng và chấp hành mệnh lệnh đó. Ví dụ: Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền trong việc quản lý trật tự xây dựng đô thị: Cho phép tổn tại hay phá bỏ công trình xây dựng vi phạm các quy định vể xây dựng, xây dựng không phép... Những quan hệ xã hội do Luật hành chính điểu chỉnh giới hạn trong lĩnh vực chấp hành, điều hành và quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước. Trong việc điều hành và quản lý nhà nước có thể có những vấn đề liên quan đến tài sản, nhân thân... nhưng việc điều chinh sẽ được thực hiện bằng phương pháp với đặc diểm như đã trình bày ở trên. Trong thực tế, có một số quan hệ tài sản do hai ngành luật này cùng điều chình nhưng ở góc độ khác nhau và có tính chất hoàn toàn khác nhau. Đối với các quan hệ tài sản, Luật hành chính chi quy định những thể lệ về hành chính nhằm quản lý, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Luật hành chính quy định các vấn để liên quan đến tài sản như: Thủ tục cấp phát và thu hồi vật tư, tiền vốn; thẩm quyển của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc quản lý nhà vắng chủ, vô chú, tài sản không có ai là chú sở hữu; quy định thế lệ vể trưng thu, trưng mua, trưng dụng tài sản v.v... trong những trường hợp cần thiết do pháp luật quy định. * Luật dân sự và Luật hợp tác xã Luật hợp tác xã điều chỉnh mối quan hệ thuộc nội bộ hợp tác xã trong các lình vực: Tổ chức hợp tác xã (về đại hội xã viên, bầu ban quản trị, chủ nhiệm được quy định trong điểu lệ), các quan hệ vẻ lao động, về thuê khoán tài sản, vể phân phối sán phẩm hoặc phân chia lợi nhuận trong quá trình sản xuất, kinh doanh của nội bộ hợp tác xã. Điểu này phụ thuộc vào tính chất khác nhau của các loại hình hợp tác xã được quy định cụ thể trong điều lệ. Luật dân sự chỉ điều chình những quan hệ tài sản của hợp tác xã trong quá trình lưu thông, trao đổi có tính chất dân sự giữa các bên. Trong quan hệ dân sự này hợp tác xã với tư cách là chủ thế trong các giao dịch với những chú thể khác dể xác lập. thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự như: Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các quan hệ mua bán, trao đổi nông sán, lâm sản, hải sản; các hợp đổng gia công, đặt hàng, dịch vụ, làm đất gieo trồng... theo các lĩnh vực khác nhau. * Luật dán sự và Luật hình sự Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ và duy trì các quan hệ xã hội bằng việc quy dịnh những hành vi nào dược coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội có tính chất tội phạm và quy định những hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm dó. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong luật hình sự là hình phạt do các 23 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Toà án nhân dân quyết định khi xét xử nhằm mục đích buộc những người phạm tội phải trực tiếp chịu trách nhiệm pháp lý đối với xã hội, với cộng đồng và với Nhà nước để duy trì một trật tự xã hội nhất định. Chức năng cơ bản của hình phạt trong trách nhiộm hình sự chủ yếu nhằm mục đích: Trừng trị, giáo dục nguời phạm tội và răn đe, phòng ngừa tội phạm, được quy định trước trong Bộ luật hình sự. Trong pháp luật hình sự không có sự “thoả thuận” về trách nhiệm pháp lý như trong trách nhiệm dân sự. Tính chất bình đẳng ưong pháp luật hình sự hoàn toàn khác tính chất bình đẳng trong pháp luật dân sự: Các bị cáo chỉ bình đẳng trước pháp luật tại Tòa án và được xét xử công bằng. Trong pháp luật dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban đẩu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra. Đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong Luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và chỉ mang tính chất tài sản. Trách nhiệm dân sự có thể được quy định trong pháp luật dân sự nhưng cũng có thể do các chủ thể thoả thuận trong quá trình cam kết, thoả thuận xác lập các giao dịch dân sự (chủ yếu là dối với các quan hệ về hợp đổng). Một điểm khác biệt quan trọng nữa là, trong Luật hình sự ưách nhiệm pháp lý chỉ có thể áp dụng cho cá nhân (theo nguyên tắc cá thể hoá hình phạt), còn trong Luật dân sự trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng không những cho cá nhân mà còn áp dụng cho cả pháp nhân, tổ chức và các chủ thể khác khi có hành vi vi phạm. 2. Khoa học Luật dân sự - một ngành khoa học pháp lý a. Khái niệm Nói đến tính chất khoa học là nói đến các căn cứ, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của một ngành luật. Với tính chất là một ngành luật thực định nhưng Luật dân sự (theo nghĩa rộng còn gồm các văn bản pháp luật có liên quan của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) còn là một ngành khoa học pháp lý. Vì vậy, trong thực tế nếu chỉ đọc các quy định của Bộ luật dân sự mà không nghiên cứu các cơ sờ khoa học, sự lý giải, hướng dẫn hoặc giải thích... thì việc hiểu, vận dụng và đặc biệt là việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu thống nhất. Với tính chất là khoa học Luật dân sự, việc nghiên cứu phân tích, tổng hợp theo một phương pháp luận dặc thù riêng để hiểu những vấn để bao quát, có tính chất chi đạo và áp dụng cho tất cả các chế định là của công việc nghiên cứu khoa học Luật dân sự. Vì rằng: - Các quy định về nội dung riêng biệt tại các điều luật trong Luật dân sư luôn có tính liên kết tổng thê nhằm tránh sự trùng lặp của kỹ thuật lập pháp Khoa 24 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn học Luật dân sự ngoài việc phân tích pháp luật thực định, các văn bản pháp luật có liên quan còn nghiên cứu các cơ sở lý luận, thực tiễn và tìm ra phương pháp, cách thức để tiếp cận, giải quyết hợp lý một vấn đề trong thực tiễn. - Khoa học Luật dân sự còn là việc nghiên cứu các quan điểm, quan niệm khác nhau về một sự vật, hiện tượng dưới góc độ khoa học. Các quy định của pháp luật dân sự được quy định trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, cần được áp dụng thống nhất những nghiên cứu để thấy được sự chính xác, tin cậy và cơ sở khoa học là việc làm có ý nghĩa rất cần thiết. Chính việc làm này sẽ nâng cao sự nhận thức về một ngành khoa học và có những tìm tòi, bổ sung, nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống lý luận và hoàn thiện pháp luật thực định. Với ý nghĩa này, Giáo trình Luật dân sự cũng có thê xem là công trình khoa học Luật dân sự, được kết cấu và phân tích các nội dung theo tiêu chí của một ngành khoa học pháp lý mà không hoàn toàn theo trật tự nhũng quy định của pháp luật thực định. b. Đối tượng nghiên cứu Cũng như bất kỳ một ngành khoa học cụ thể nào khác, khoa học Luật dân sự có đối tượng nghiên cứu riêng và cụ thể, có tính chất đặc trưng. Đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật dân sự không chỉ là những quy định cụ thể chỉ trong Bộ luật dân sự mà còn là các quan điểm, trường phái khác nhau trong lý luận về những vấn đề đó; các cơ sở lý luận và thực tiễn của từng chế định, từng điều luật; là sự phân tích mối liên hệ và chi phối giữa các điều luật trong Bộ luật dân sự và các ngành luật có liên quan để làm rõ sự hợp lý cũng như những điểm bất hợp lý trong pháp luật thực định. Ngoài ra, để thực hiện các quy định trong Bộ luật dân sự còn có cả một hệ thống các văn bản dưới luật đê’ cụ thể hoá một chế định hay một điều luật cụ thể nào đó như: Nghị quyết hoặc Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thú tướng, các loại Thông tư hướng dẫn thực hiện của bộ, ngành, liên ngành v.v... Vì vậy, có thể thấy rằng, đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật dân sự rất rộng và đa dạng hơn việc nghiên cứu đôi tượng điều chỉnh cúa Luật dân sự với tính chất là quy định của pháp luật thực định, v ề phương pháp điều chinh cũng tương tự như vậy. Nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi phản ánh sự chi phối có tính chất chú quan ý chí cùa Nhà nước thì sẽ không thấy được tính khách quan trong phương pháp điểu chinh: không thấy được những đặc thù riêng chỉ áp dụng trong pháp luật dân sự. c. Phương pháp nghiên cứu Ngoài sự khác biệt về đối lượng nghiên cứu, khoa học Luật dân sự còn có phương pháp nghiên cứu có tính chất đặc trưng riêng. Các phương pháp nghiên 25 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn cứu khoa học thông thường như: Phân tích, so sánh luật, tổng hợp, diẽn giải, bình luận thì các phương pháp khác nhu logic, lịch sử, thực tiễn ưên cơ sở các đặc thù của quan hệ dân sự... cũng dược sử dụng. Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu khoa học Luật dân sự không chỉ là những quy định cụ thể chỉ trong Bộ luật dân sự mà còn phải nghiên cứu có tính chât tông hợp, toàn diện các văn bản pháp luật cùa các cơ quan nhà nước có thẩm quyên liên quan đến pháp luật dân sự hoặc quy định, giải thích, cụ thể hoá từng điêu luật trong Bộ luật dân sự. Nghiên cứu các trường phái, quan điểm, quan niệm vê phương diện lý luận dối với các quan hệ xã hội là đối tượng điểu chỉnh của Luật dân sự; tính chất của các quan hệ xã hội này trong sự đối chiếu với các quy định cụ thể của từng điều luật. Vì vậy có thể thấy rằng, phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học Luật dân sự rộng và da dạng hơn việc nghiên cứu thuần tuý đối tượng điểu chinh và phương pháp điẻu chỉnh của Luật dân sự. V. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT DÂN S ự VIỆT NAM Sau Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ờ Đông Nam Á - được thành lập. Công việc điều hành và quản lý đất nước trong điều kiện Nhà nước pháp quyền phải được thực hiện bằng các quy định của pháp luật. Trong khi chính quyên mới dược thành lập, để ổn định xã hội ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh sô' 90/SL cho phép tạm thời sử dụng một sô' luật lệ hiện hành ờ Bắc-Trung-Nam cho đến khi ban hành những bộ luật cho toàn quốc với tinh thần “những luật lộ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nuớc Viột Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”. Theo quy định của Sắc lệnh 90/SL các Bộ dân luật Nam kỳ giản yếu 1883; Bộ dân luật Bắc kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung kỳ 1936 (Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật) được tiếp tục thi hành và bị hùy bò việc áp dụng vào năm 1959. Như vậy, thời kỳ này tại ba miền Bắc-Trung-Nam tồn tại ba bộ dàn luật: 1883, 1931, 1936. Ba bộ dân luật thời kỳ Pháp thuộc vẫn dược áp dụng trong giai đoạn đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chú cộng hoà. - Khi Đàng và toàn dàn tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhà nước chưa có điểu kiện đê ban hành pháp luật mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 “Sửa đổi một sô' quy lệ và chế định trong dàn luật” đê tạm Ihời điều chinh các quan hệ dân sự bằng các bộ dân luật cũ nhưna với một tinh thần mới. Việc ban hành sắc lệnh 97/SL có ý nghĩa quan trọng trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, đã động viên được sức người, sức của cho cuộc 26 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn kháng chiến, kiến quốc; góp phần bình ổn các quan hệ dân sự. Nội dung và tinh thần cơ bản cùa sắc lệnh là giữ những quy định của các bộ dân luật cũ nhung bổ sung, thay đổi một sô' nội dung, nguyên tắc làm cho các bộ luật được ban hành trong thời kỳ Pháp thuộc có một tinh thần mới. Chính nhũng quy định này đã đem đến những sinh khí mới trong tư tuởng và nhận thức của người dân Việt Nam. Mặc dù còn gián đơn và chưa đầy đú nhưng nội dung cùa sắc lệnh 97/SL đã đặt cơ sở, những nguyên tắc cơ bản cho sự hình thành và phát triển cùa pháp luật dân sự sau này. Nhũng nguyên tắc dân chủ, tiến bộ mang bản sắc dân tộc sâu sắc và cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị trong quá trình hình thành pháp luật dân sự của nước Việt Nam độc lập, có chù quyền. Các quy định trong Sắc lệnh như: “Những quyển dân sự đều được báo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi cúa nhân dân”; “Người ta chi được hướng dụng và sứ dụng các vật thuộc quyền sờ hữu cùa mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân"; “Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột cùa một bẽn vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thế bị coi là vô hiệu”... dã làm thay đổi bán chất những quy định cùa các bộ dân luật trước đó. Dù rằng Nhà nước chưa có điều kiện ban hành các vãn bán pháp luật mới nhưng với những nguyên tắc cơ bản trên đây đã làm cho các bộ dân luật cũ mang một tinh thần mới. Việc tạm thời áp dụng các bộ dân luật cũ phù hợp với bản chất của chế độ dân chủ cộng hoà đã tạo ra những điều kiện thuận tiện cho các chủ thê trong quan hệ dân sự. Những tư tướng tiến bộ và tinh thán của sắc lệnh 97/SL vẫn còn là tư tường chủ đạo có tính thời sự khi Nhà nước tiến hành soạn thảo các Bộ luật dân sự khi chuyến đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Để thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ớ miển Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, Ihống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1959 được ban hành đê thay thế Hiến pháp năm 1946. Việc ban hành Hiến pháp năm 1959 dã đánh dâu một giai đoạn phát triển mới của quá trình lặp pháp Việt Nam. Trẽn cơ sớ quy dịnh cùa Hiến pháp năm 1959, Luật hôn nhân và gia đình được ban hành năm 1959 đã tách một nhóm quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống dân sự (là một chế định truyền thông cúa Luật dán sự) thành một ngành luật độc lập. Từ đây, Luật hôn nhàn và gia đình chính thức trờ thành một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có đối tượng điều chinh riêng biệt. - Trên cơ sớ Hiến pháp nám 1959 - là đạo luật cơ bàn của Nhà nước - các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều vãn bản pháp luật đê điều chinh các quan hệ dân sự đối với các vấn đề có tính thời sự, cấp thiết. Dù ràng sự quan tâm còn trong giới hạn nhất định nhưng so với giai doạn trước khi ban hành Hiến pháp năm 1959 Nhà nước ta đã có những vãn bản pháp luật chính thức quy định riêng đói với mộ! sô quan hệ xã hội có tính chất dân sự. 27 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Đặc trưng của các quy định pháp luật điểu chinh các quan hệ dân sự trong giai đoạn này là chịu ảnh hưởng sâu sắc của ván đẻ cải tạo xã hội chủ nghía, cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp cao độ. Trong các vãn bản dân sự, phương pháp hành chính mệnh lệnh được sử dụng khá rộng rãi đã làm biến dạng các quan hệ dân sụ với những dặc điểm truyền thống là: Bình đẳng và tự do cam kết, thoả thuận giữa các chủ thể. Trong quá trình xem xét, giải quyết các tranh chấp dân sự, phương pháp quyền uy - phục tùng của Luật hành chính vẫn được áp dụng trong các quan hệ dân sự. Các vãn bản pháp luật dân sự được ban hành trong giai đoạn này thường có hiệu lực pháp lý không cao. Chủ yếu là: Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng chính phủ, Thông tư của các bộ, của Tòa án nhân dân tối cao... với tính chất là những vãn bản pháp quy để quy định những mảng quan hệ xã hội riêng biệt. Một trong những đặc điểm của các vãn bản pháp quy ban hành trong giai đoạn này là: Thiếu tính thống nhất, đồng bộ và chồng chéo; nhiểu lĩnh vực dân sự không dược pháp luật quy định. Các văn bản pháp quy chỉ quy định chủ yếu về vấn đề tư liệu sản xuất, nhà ở nhằm mục tiêu thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa. Các quy định trong các vãn bản còn giản đơn và không đầy dủ, nên đã gây không ít khó khăn cho ngành Toà án nhân dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp. Để khắc phục những hạn chế này và để điều chỉnh có hiộu quả bước đầu các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội (nhưng không được ghi nhận bằng các văn bản pháp luật dù chỉ là dưới dạng Nghị định), Toà án nhân dân tối cao đã phải ban hành những thông tu, chi thị để hướng dẫn các cấp Toà án địa phương. Thậm chí, các Toà án địa phương còn phải vân dụng Báo cáo tổng kết hàng năm của Toà án nhân dân tối cao làm cơ sỏ và căn pháp lý để giải quyết các tranh chấp dân sự trong giai đoạn lịch sử này (dù rằng đó không phải là văn bản pháp quy). Những Thông tư, Chỉ thị, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có giá trị như pháp luật đối với Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự. Vì vậy, hiệu quả và tính thống nhất trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự rất thấp và có những vi phạm. Đây là điều không đúng với yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, nhìn nhận lại những vấn dề trẽn đây dưới góc độ lịch sù chúng ta thấy rằng, điểu kiện và hoàn cảnh của đất nước trong giai đoạn đó, chúng ta cũng không thê có cách làm nào khác. Đất nước vừa trải qua chiến tranh, mục tiêu chiến lược của Việt Nam lúc đó là thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước. Do vậy, sự quan tâm đến pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng không thể không có những hạn chế nhất định. Việc sử dụng biện pháp hành chính để điều chỉnh các quan hệ dân sự và giải quyết các tranh chấp dân sự trong giai đoạn lịch sù này có tính chất khách quan và do nhu cầu của hoàn cảnh lịch sử. Tuy không bảo đảm tính chất 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn khoa học của Luật dân sự nhung cũng đã góp phần ổn định các giao lưu dân sự và có tác dụng tích cực trong việc giải quyết tranh chấp dân sự. - Từ giữa thập kỷ 80, khi đất nưốc bước vào thời kỳ đổi mới theo tinh thẩn Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với phương châm: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyẻn, lợi ích hợp pháp của cá nhân. Để quản lý xã hội và điẻu tiết nẻn kinh tế, Nhà nuớc đã ban hành nhiểu vãn bản pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, đuờng lối của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội. Các văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ này đã tạo nên những dộng lực nhằm phát huy tiềm nãng của các thành phần kinh tế trong xã hội, phát triển nền kinh tế hàng hóa thị trường có nhiều thành phẩn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định của pháp luật dân sự đã bước đầu ghi nhận những nguyên tấc cơ bản, truyền thống của pháp luật dân sự là: Tự nguyện, bình đẳng, công bằng, tự do cam kết, thoả thuận... Pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng bước đầu đã có sự phù hợp và xích gần vói thông lệ và tập quán quốc tế truyền thống trong lĩnh vực dân sự. Các văn bản pháp luật về dân sự ban hành trong giai đoạn này có đặc điểm là: Đã có những văn bản quy định riêng về từng lĩnh vực cụ thể khác nhau của pháp luật dân sự nhằm tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nâng cao trình độ nhận thức, dân trí pháp lý. Hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật ban hành trong thời gian này tương đối cao thể hiện dưới dạng: Luật do Quốc hội ban hành hoặc Pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành (sau này là Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Ngoài ra, để cụ thể hoá Luật và Pháp lộnh, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) còn ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành các luật và pháp lệnh được Quốc hội, Hội đồng Nhà nước công bố. Các văn bản pháp luật trong lĩnh vục dân sự đã được ban hành như: Luật quốc tịch ban hành năm 1988, Luật đất đai ban hành nãm 1986, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ban hành năm 1988, Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp ban hành năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành nãm 1989, Pháp lộnh về thừa kế ban hành năm 1990, Pháp lệnh về hợp đồng dân sự ban hành năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986... Các văn bản pháp luật thời kỳ này đã được ban hành theo một trình tự, thủ tục luật định, tính chuyên môn hoá và kỹ thuật lập pháp khá cao. Tuy nhiên, các quy định mới chỉ là các Pháp lộnh và các Nghị định hướng dẫn thi hành mà ít có các đạo luật. Năm 1992 Quốc hội đã ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Hiến pháp trong chặng đường đẩu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là đạo luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở và tiền đề pháp lý cho việc ban hành các văn bản pháp luật với những nội dung và cơ sỏ pháp lý mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực, nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tinh thần và nội dung được quy định trong đạo luật cơ bản của Nhà nước như: Luật đất đai (1993); Pháp lệnh về quyển và nghĩa vụ của các tổ chức được giao 29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn đất, cho thuê đất; Pháp lệnh về quyển và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam; Pháp lệnh bảo hộ quyén tác giả (1994); gần đây là Luật hôn nhân và gia đình nãm 2000. Cùng vói các đạo Luật, các Pháp lệnh, Chính phù còn ban hành nhiều Nghị định để bổ sung kịp thời trong quá trình quản lý, điểu hành đất nước và các văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ cũng được ban hành thường xuyên hơn, nhằm cụ thể hoá những nội dung cơ bản của Hiến pháp. Dù rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các vãn bản pháp quy để từng bước thực hiện mục tiêu “nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật” những vẫn còn nhiều vấn để có ý nghĩa cơ bản trong linh vục dân sự chưa dược pháp luật điểu chỉnh một cách có hệ thống. Đó là các quan hệ vé sờ hữu tài sản, các quan hộ về nghĩa vụ dân sự; các loại hợp đông dân sự thông dụng; vấn để bồi thuờng thiệt hại, thùa kế... là nhũng chế định truyển thống của pháp luật dân sự. Đặc biệt là: Cho đến thời điểm này, trong hệ thống các vãn bản pháp luật dân sự chưa có một văn bản nào quy định vể quyền sở hữu, một quyển tiền đề có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự. Ngoài ra, trong điều kiện giao lưu quốc tế của nước ta ngày càng mở rộng, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cũng chưa được quy định cụ thể trong một đạo luật có hiệu lực pháp lý cao. Hiệu lực pháp lý của các vãn bán pháp luật đuợc ban hành trước khi có Bộ luật dân sự cũng vẫn chủ yếu là các pháp lệnh cùng một số ít các luật nên vẫn còn không ít những hạn chế. Tính chổng chéo và tình trạng Ihiếu luật để điều chinh một cách tổng thể các quan hệ dân sự vẫn còn là vấn đé bức xúc trong đời sống xã hội. Do có sự chuyển đổi của nển kinh tế, của cơ chế quản lý nhà nước, nên nhiểu quy định trong các văn bản pháp luật dân sự - kinh tế trước đây không còn phù hợp trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều thành phẩn. Nếu tiếp tục duy trì và áp dụng trong thực tế thì sẽ là yếu tố' cản trở, kìm hãm sự phát triển của nén kinh tế - xã hội. Hệ thống các quy định pháp luật này trong thực tế đã gây ra những khó khăn, trở ngại, thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyển để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong giao lưu dàn sự. Trong thực tế, do thiếu những quy định pháp luật dân sự, nên đã xảy ra không ít những trường hợp xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, gây thiệt hại cho cá nhân, tập thể, Nhà nước; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cắ nhân, tổ chức nhưng chưa có cơ sở pháp lý để bảo vệ. Nhiều trường hợp có sự vi phạm nhưng không dược xem xét và giái quyết, vì thiếu quy định của luật. Ngoài ra, với những quỵ định trong các vãn bản pháp luật dân sự thời kỳ này chưa tạo cơ sờ pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội; chưa bảo đảm sự bình đáng và an loàn pháp lý trong quan hệ dân sự đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt; ánh hướng đến các hoạt dộng sán xuất, kinh doanh của toàn xã hội. Với hệ thống các văn bán pháp luật dân sự dù đã dược sửa đổi, bổ sung nhưng vản không tạo được tính chất đổng bộ, đầy đú và thống nhất để giải quyết các tranh chấp dân sự. Không có cơ sờ pháp lý để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp Luật kinh tế - thương mại trong điều kiện Việt Nam hội nhập khu vực và toàn cầu hoá 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Do hộ thống pháp luật thực định vừa thiếu lại vừa không đồng bộ, nên các cấp Tòa án nhân dân vẫn còn phải vận dụng các Báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao; hoặc các thông tư, chì thị hướng dẫn nội bộ ngành để giải quyết những tranh chấp dân sự phát sinh trong thực tế nhưng chưa dược pháp luật quy định. Đây là việc làm không bình thường của một chế độ Nhà nước pháp quyền và không phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhận thức duợc tầm quan trọng đó nên ngay sau khi ban hành Hiến pháp nãm 1980, Nhà nước đã thành lập Ban soạn thảo Bộ luật dân sự. Nhưng do kinh nghiệm lập pháp còn hạn chế và đây lại là vấn đề rất phức tạp của đời sống xã hội, nên sau mười lãm nãm soạn thảo công phu Bộ luật dân sự mới dược Quốc hội thống qua vào nãm 1995. Tuy còn có những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhung Bộ luật dãn sự bước đầu pháp điển hoá các quy định dân sự, nhằm bào đảm tính chất hệ thống, thống nhất của pháp luật dân sự. Theo Nghị quyết của Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 9 Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996 dã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta. Bộ luật được xác định có tầm quan trọng sau Hiến pháp và có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp, làm nền táng và định hướng cho việc phát triển các quan hệ dãn sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình, lao động, đất đai và các lĩnh vục khác. Bộ luật dân sự được ban hành năm 1995 là đạo luật có quy mò và hệ thống nhát trong các bộ luật từ nãm 1945 đến nay. Với phạm vi điều chinh các quan hệ dân sự rộng lớn, liên quan đến nhiều hoạt động của đời sống xã hội, nên dể thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật dân sự Nhà nước đã ban hành nhiều vãn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thực hiện và đã thành lập nhiều cơ quan chức năng để thực hiện từng lĩnh vực khác nhau theo quy định của Bộ luật dân sự. Vi dụ: Để thực hiện các quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định nhằm hướng dẫn áp dụng như: Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ về Ihủ tue chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyển sử dụng đất; Nghị dịnh số 25/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phú về phương thức trả nhà ở, giá cho thuê nhà ớ khi chưa trả lại nhà và thú tục xác lập quyển sở hữu nhà trong một số trường hợp riêng biệt được quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998; Nghị định số ! 19/1999/NĐ-CP neày 18/9/1999 của Chính phú về một sô' chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ; Nghị định số 38/2000/NĐ-CP ngày 23/8/2000 của Chính phú về quy định thu liền sử dụng đất; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về cổng chứng, chứng thực... Đế thực hiện có hiệu quả các quy định cúa Bộ luật dân sự năm 1995, Nhà nước đã thành lập các cơ quan chức năng có tính chất hỗ trợ như: Cơ quan bán đấu giá, cục đăng ký giao dịch có bảo đảm... 31 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Sau hơn mười năm thi hành Bộ luật dân sự năm 1995, nhiểu quy định đã không còn phù hợp nhất là khi Viột Nam đang tích cực chuẩn bị các điéu kiện để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới nên việc sửa đổi pháp luật là cần thiết. Từ những năm đầu của thế kỷ XXI, Nhà nước đã có chủ trương và thành lập Ban soạn thảo và sửa đổi Bộ luật dân sự năm 1995, nhằm: Khắc phục những hạn chế trong các quy định cũ; loại bỏ và bổ sung những quy định mói phát sinh trong đời sống xã hội. Ban dự thảo sửa đổi bộ luật đã tiến hành công tác điều tra, khảo sát tổng thể, đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, rút kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng và học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển. Sau gần 5 năm tích cực và khẩn trương sửa đổi, Bộ luật dân sự năm 2005 đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua toàn vãn theo Nghị quyết sô' 45/2005/QH11 và được công bố theo Lệnh Chủ tịch nước số 06/2005/L-CTN ngày 27/6/2005. So với Bộ luật dân sự năm 1995 với 838 điều luật thì Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ còn 777 điểu luật. Như vậy, cùng với việc bổ sung những nội dung mới, cần thiết phải được điều chỉnh bằng pháp luật thì Bộ luật dân sự năm 2005 đã loại bỏ những sự chồng chéo hoặc không có ý nghĩa thực tế; sắp sếp lại thứ tự một số điều luật trong các chương, mục cho họp lý hơn; riêng phần thứ sáu quy định về quyền sở hữu trí tuệ chỉ quy định các vấn đề có tính chất cơ bản, còn nội dung đã được chuyển sang quy định trong luật chuyên ngành vẻ sở hữu trí tuệ. CÂU H Ỏ I TH ẢO LUẬN 1. Luật dân sự là gì? Trình bày khái quát chung về pháp luật dân sự. 2. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự là những nhóm quan hệ xã hội nào? Hãy phân tích, vì sao Luật dân sự không điểu chỉnh toàn bộ các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội. 3. Phân tích đặc điểm vể đối tượng điều chình của Luật dân sự. 4. Vì sao Luật dân sự lại có phương pháp diều chỉnh riêng? Hãy phân tích các đặc điểm riêng về phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. 5. So sánh sự khác biệt giữa Luật dân sự và một số ngành luật khác. 6. Trình bày sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Luật dân sự Việt Nam. 7. Phân tích những điểm mới về kết cấu và nội dung của Bộ luật dân sự năm 2005 do với Bộ luật dân sự năm 1995. 32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn B. NGUỒN CỦA LUẬT DÂN sự VIỆT NAM I. KHÁI NIỆM CHUNG VỂ NGUỚN TRONG LUẬT DÂN s ự 1. Khái niệm nguồn của pháp luật dân sự Trong đời sống xã hội, khái niệm nguồn dùng để chỉ một xuất phát điểm, sự khởi đầu của một hiện trượng, sự vật, chẳng hạn suối là nguồn của sông. Nhung “nguồn”của pháp luật được hình thành từ nhiều sụ kiện khác nhau phản ánh các yêu cầu khách quan của Nhà nước trong quản lý và điều hành xã hội được hình thành bởi một hệ thống văn bản pháp luật. Một trong những vấn đề cơ bản nhất - là nguồn của pháp luật - vẵn là ý chí của Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Theo c. Mac, đó chính là “ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật". Tất nhiên, ý chí của nhà nước không phải hoàn toàn chỉ có tính chất chủ quan mà nó còn phụ thuộc vào các điều kiện khách quan khác cùa đời sống xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau như: Kinh tế, chính trị, thể chế xã hội... Theo nguyên lý chung thì pháp luật “là ý chí của giai cấp thống trị được nàng lên thành luật” để nhà nước điều hành, quản lý xã hội, quản lý kinh tế, bảo dảm trật tự an toàn xã hội và các lĩnh vực khác. Pháp luật dân sự cũng tuân thủ nguyên lý chung đó. Nghĩa là, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện trong các quy phạm pháp luật cụ thể và được thông qua theo một trình tự, thủ tục nhất định. Tính chất đặc trưng của pháp luật nói chung và nhất là cùa pháp luật dân sự nói riêng là ngoài quá trình “luật hoá” ý chí của nhà nuớc, của giai cấp thống trị, còn là việc “chuyển hoá” các tập quán, thói quen dân sự có tính chất truyền thống, phổ thông và tiến bộ vào các quy phạm pháp luật dân sự. Khái niệm nguồn trong pháp luật dân sự theo nghĩa rộng là các quy phạm pháp luật được ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định, quy định cách thức và giới hạn cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự riêng biệt. Theo nghĩa hẹp, dó là các văn bản pháp luật cụ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điểu chỉnh các quan hệ dân sự. Với tính chất là đạo luật quan trọng, phong phú và đa dạng, Bộ luật dân sự năm 1995 trước đây có tới 838 điều và hiện nay Bộ luật dàn sự năm 2005 còn 777 điều luật (vẫn là những bộ luật có nhiều điều luật nhất trong hệ thống pháp luật nước ta). Dù đã được bổ sung, hoàn thiện nhưng hai Bộ luật dân sự cũng không thể khái quát và quy định dược toàn bộ, đầy đù các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội; nhất là các vấn đề liên quan đến sự cam kết, thoả thuận của các chủ thể trong quá trình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Do đó, trước đây Điều 14 Bộ luật dân sự nãm 1995 và hiện nay Điều 3 Bộ luật dân sự nãm 2005 đã quy định: “Trong trường hợp pháp 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và áp dụng quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tăc quy định trong Bộ luật này”. Đây cũng chính là điểm đặc trưng nhất của pháp luật dân sự. Với những đặc điểm trẽn đây, nguồn của pháp luật dân sự ngoài Bộ luật dân sự thành văn - là một loại nguồn chính, thì còn là cả một hệ thống các vãn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thù tục do Luật ban hành vãn bản quy phạm pháp luật quy định để giải thích, quy định bổ sung, hướng dẫn áp dụng... các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi điều chinh của Luật dân sự là: Quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân. Vì vậy, để điều chỉnh một cách có hiệu quả theo nhũng quy định của pháp luật dân sự, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn ban hành nhiều vẫn bản pháp luật để áp dụng mà Bộ luật dân sự có dẫn chiếu.(ể> Vì vậy, nguồn cùa pháp luật dân sự là các loại văn bản pháp quy th ể liiện ý chí cùa Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định theo quy định của luật han hành văn bản quy phạm pháp luật. Một vãn bản được coi là nguồn của pháp luật dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản sau đây: - Một là, yêu cầu chung. + Vãn bản đó phải bảo đảm các tiêu chuẩn về chính trị, không có nội dung trái với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn bản đó phải phát huy dược tính tích cực trong điều kiện: “Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện dể chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực”.(2) + Văn bản đó phải bảo đảm các tiêu chuẩn pháp lý của một văn bản pháp quy. Nghĩa là, việc ban hành từng loại văn bán phải theo đúng trình tự, thẩm quyền, có nội dung hợp pháp. Việc ban hành vãn bản đó phải đúng thủ tục và phải ban hành đúng thời hạn do pháp luật quy định. + Văn bản đó phải bảo đảm tiêu chuẩn khoa học: Phù hợp với những điều kiện khách quan vẻ: Kinh tế, chính trị, xã hội; phù hợp với phong tục, tập quán và (1) Xin tham khảo thêm sách “Chi dẫn áp dụng các quy định khác cùa Bộ luậl dãn sự”của NXB Lao động năm 2000. Lưu ý chi dẫn này theo các quy định của Bộ luật dãn sự năm 1995. (2) Báo cáo chỉnh trị của Ban chấp hành Trung ương Đ áng khoá VIII được trình bày tại Dai hôi đai biếu toàn quốc lần Ihứ IX cùa Đ áng, Báo nhân dãn số ra ngày 20/4/2001, tr. 2. 34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn đối tượng áp dụng; phù hợp về cách thức kết cấu, trình bày, văn phong phải rõ ràng, dễ hiểu không dùng những từ đa nghĩa. - Hai là, yêu cầu riêng. + Văn bản đó phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thú tục do luật ban hành vãn bản quy phạm pháp luật quy định. + Trong văn bản đó phải chứa đụng các quy phạm pháp luật dân sự. Nghĩa là, phần nội dung phải có các quy định như một quy phạm pháp luật đế điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tài sản và một số quan hệ nhân thân, là đối tượng điểu chỉnh cùa pháp luật dân sự. 2. Phân loại nguồn cúa Luật dán sự - Nếu dựa theo thẩm quyền cúa các cơ quan ban hành vãn bản pháp luật, có thể phân ra làm hai loại: + Các văn bán pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành bao gồm: pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; nghị định của Chính phú; các quyêt định hoặc thòng tư, chí thị cùa các bộ, các cơ quan ngang bộ... + Các vãn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành bao gồm: Chỉ thị, thông báo hoặc các quyết định riêng biệt cùa Uỷ ban nhân dàn; các văn bản hướng dẫn, giải thích của các sờ, ban, ngành chuyên môn... - Nếu dựa theo hiệu lực pháp lý cùa vãn bản pháp luật, có thể phân ra làm ba loại: - Đạo luật cơ bản: Hiến pháp. - Các bộ luật và các luật có liên quan. - Các văn bản dưới luật. Theo nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều có hiệu lực bắt buộc thi hành. Nhtmg căn cứ vào hình thức cứa văn bản, cơ quan ban hành văn bán và hiệu lực pháp lý cùa vãn bản, nguồn của Luật dân sự nếu dựa theo hiệu lực pháp lý có thế được phân chia thành các loại sau đây: a. Hiến pháp Với tính chất là đạo luật cơ bản của một Quốc gia, là cơ sớ pháp lý của một hệ thống pháp luật, nên Hiến pháp là cơ sở để xây dựng các luật, văn bản pháp luật khác. Là đạo luật cơ bàn của Nhà nước, Hiến pháp chí quv định những nauyên tắc chung nhất của Nhà nước về: Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... các đạo luật và các luật cụ thể 35 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn phải dựa vào Hiến pháp và cụ thể hóa những qụy định của Hiến pháp đê điéu chỉnh, tác động tới các quan hệ xã hội mà ngành luật đó có nhiệm vụ điều chình. Đối với Luật dân sự, Hiến pháp cũng là một nguồn có ý nghĩa rất quan trọng đặc biệt. Dù rằng, trong Hiến pháp chỉ ghi nhận những vấn đề chung nhât liên quan đến Luật dân sự như: Chế độ kinh tế, quyển và nghĩa vụ cơ bản cùa công dán. Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội Việt Nam ở giai đoạn đầu, thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tê' thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý cùa Nhà nước. Chương II Hiến pháp năm 1992 khi quy định chê dộ kinh tế đã xác định tính chất cùa nển kinh tế trong giai doạn hiện nay ở nước ta là: Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý cùa Nhà nước. Tại chương này, Hiến pháp nám 1992 đã xác nhận sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chù động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá; xác nhận các chế độ sớ hữu Nhà nước, sớ hữu tập thể, sờ hữu tư nhân, trong, đó sở hữu Nhà nước và sớ hữu tập thể là nền táng. Liên quan nhiéu và trực tiếp đến Luật dân sự là Chương V Hiến pháp nãm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài những quyền vể chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Chương V Hiến pháp năm 1992 còn xác nhận những quyền dân sự cơ bản của công dân như: Quyền tự do kinh doanh; quyền sờ hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế; quyền bình đẳng về nâng lực pháp luật của công dân; các quyển nhân thân và quyền tài sản khác của công dân. Trên cơ sở những quy định có tính cơ bản này, Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan sẽ tiếp tục cụ thể hoá trong từng lĩnh vực khác nhau. b. Bộ luật dán sự và các đạo luật * Bộ luật dân sự Từ khi Bộ luật dân sự nãm 1995 được ban hành, có hiệu lực thi hành và sau đó được thay thế vào năm 2005 thì Bộ luật dãn sự năm 2005 là nguồn chủ yếu, trực tiêp và quan trọng nhất cùa pháp luật dân sự. Bộ luật dân sự nãm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuy có ít hơn một sô điểu luật so với Bộ luật dân sự năm 1995 do yêu cầu cúa kỹ thuật lập pháp vẫn là Bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta: Về số lượng điều luật, phạm vi điều chính, vé tính thòng nhất và khái quát cũng như về thời gian chuán bị bổ sung, sứa đổi... Bộ luật dân sự năm 2005, ngoài việc tiếp tục cụ thể hoá những quy định cùa Hiến pháp năm 1992. thê chế hóa Cươna lĩnh chiến lươc phát triển kinh tế - xã hòi 36 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn của Đảng, các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ quyển lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc trong sinh hoạt, tiêu dùng cũng như trong sản xuất, kinh doanh trong điểu kiện hội nhập sâu vào nển kinh tế thế giới. Các quy định phù hợp, có hiệu quả pháp lý cao sẽ tạo ra sự ổn định các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội, nhằm “tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, quyền con người về dân sụ... góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiểu thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, vãn minh” (xác định như Lời nói đầu của Bộ luật dân sự năm 1995). Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyển, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; xây dựng và quy định địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ cũng như các chuẩn mực pháp lý, cách ứng xử cho các chủ thê của Luật dân sự trong các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân. Các quy định cụ thể của Bộ luật dán sự năm 2005 tiếp tục quán triệt mục tiêu cơ bản là: Tăng cường quán lý xã hội bàng pháp luật, góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đổng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, thuần phong mỹ tục và bản sắc vãn hoá dân tộc hình thành trong lịch sử xây dụng và bảo vộ Tổ quốc Việt Nam. Các quy định cụ thể của Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục góp phẩn hạn chế tranh chấp tiêu cực trong giao lưu dân sự; tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyển khi giải quyết các tranh chấp dân sự. Việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2005 là thực hiện bước quan trọng pháp điển hóa pháp luật dân sự theo hướng tiếp tục mở rộng đối tượng, phạm vi điểu chỉnh; khắc phục tình trạng tản mạn, không đầy đủ, thiếu đồng bộ, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng và thi hành thống nhất pháp luật. Bộ luật dân sự năm 2005 là sự kế thừa, phát triển một truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, nhất là Bộ luật dân sự năm 1995 và tiếp thu những tinh hoa của pháp luật dân sự trên thế giới vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của Việt Nam giai đoạn hiện tại khi đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và trong tiến trình toàn cầu hóa. Bộ luật dân sự năm 2005 có nội dung chủ yếu, gồm căn cứ pháp lý ban hành và báy phần, ghi nhận, quy định các chế định truyền thống khác nhau của pháp luật dân sự theo những tiêu chí khoa học Luật dân sự. Căn cứ pháp lý ban hành của Bộ luật dân sự nãm 2005 chỉ rõ đó là các quy định cùa Hiến pháp năm 1992-Đạo luật cơ bản của Nhà nước, những định hướng cơ bản có tính chất chi đạo chung đối với các quy dịnh cụ thế của Bộ luật. - Phần thứ nhất: Đây là phần “những quy định chung” tương tự như Bộ luật dân sự năm 1995 nhưng đã có sự kết cấu lại Ihứ tự một số điểu luật. Nội dung chủ 37 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn yếu của phần này là quy định nhiệm vụ và hiệu lực cùng nguyên tắc áp dụng Luật dân sự khi giải quyết các tranh chấp của Bộ luật dân sự; những nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực hiện các quyển và nghĩa vụ dân sự. Phần chung này được kết cấu trong 9 chương với tổng số 162 điều luật. Trong phần chung này, chương I Bộ luật dân sự quy định nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật dân sự; chương II quy định các nguyên tắc cơ bản được áp dụng chung cho tất cả các chế định trong Bộ luật. Các chương tiếp theo của Bộ luật đã quy định một cách tổng quát vé chù thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân và các vấn đề có liên quan (chương III); từ chương IV đến V xác định địa vị pháp lý của các loại chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tại phẩn những quy dịnh chung, chương VI Bộ luật dân sự quy định các nguyên tắc cơ bản về: Giao dịch dãn sự và hậu quà pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu; chương VII quy định vấn đê đại diện; chương VIII quy định vẻ thời hạn và chương IX là các quy định riêng về thời hiệu cùng các vấn đề có liên quan. Đây là những quy định có ý nghĩa đối với tất cả các chế định trong Luật dân sự. Các chế định cụ thể cùa Bộ luật dân sự được quy định dựa trên cơ sở những quy định chung tại Phần thứ nhất. Theo khoa học Luật dân sự và nguyên tắc cúa pháp luật thì những quy định có tính chất chung này được áp dụng cho tất cả các chế định cúa Bộ luật dân sự. Ngoài ra, những quy định chung của Bộ luật còn được áp dụng khi phải vân dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự để giải quyết tranh chấp. Đây là nhũng quy định nhằm bảo đảm tính thống nhất vể nội dung các quy định trong Bộ luật và thống nhất trong việc áp dụng của Toà án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyển khi giải quyết các tranh chấp dân sự. - Phẩn thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu. Theo truyền thống, đây là chế định trọng tâm nhất của pháp luật dàn sự. Trên cơ sở quyền sở hữu, các chủ thể mới có thể sử dụng hoặc thực hiện quyẻn định đoạt khi tham gia giao dịch dãn sự. Với những đặc thù riêng về tài sản và quyền sở hữu nên Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn quy định ngay tại Phần thứ hai của bộ luật với 7 chương: Từ chương X đến chương XVI (từ Điều 163 đến Điều 279). Do tính chất đặc trưng riêng về sở hữu, nên Phần thứ hai của Bộ luật đã dành toàn bộ chương X đê’ quy định nhũng vấn đề có tính chất chung về tài sản và quyển sở hữu. Ngoài những quy định chung tại Phần thứ nhất thì những quy định chung tại chương X Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định một cách tổng the về tài sán; quyển sở hữu và thời đicm chuyền quyền sở hữu; nguyên tắc thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu; căn cứ xác lập và chấm dứt quyền sớ hữu; các hình thức sờ hữu và tiêp tục quy định quyển của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản. Trong các chương tiếp theo là các quy định vé các loại tài sản cùng cách phân loại (chương XI); chương XII quy định về nội dung cơ bán cùa quyền sớ hữu (gồm các quyển năng cụ thê: Chiếm hữu. sử dụng và định đoạt); chươns XIII quy 38 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn định cụ thể các hình thức sở hữu (gồm 6 mục vói sáu hình thức sở hữu); chương XIV quy định riêng về các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; chương XV quy định vể bảo vệ quyền sở hữu cùng nguyên tấc bảo vệ quyền sở hữu bằng trình tự pháp luật dân sự và chương XVI quy định riêng vể “những quy định khác về quyển sở hữu” (thực chất là quy định về địa dịch và những dịch quyền của chủ sở hữu, giới hạn quyền của chủ sờ hữu trong quá trình sở hữu tài sản). Trước khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành, trong hệ thống các văn bản pháp luật dân sự của Nhà nước ta chưa có một văn bản nào quy định về vấn đề này; các quy định này tiếp tục được hoàn thiện cho hợp lý hơn trong Bộ luật dân sự năm 2005. Với vai trò, ý nghĩa của tài sản và quyền sở hữu trong nền kinh tế quốc dãn, trong cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, nên Bộ luật dân sự xác định là chế định có vị trí trung tâm trong các chế định cùa pháp luật dân sự. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có quyền xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự và bàng tài sản thuộc sờ hữu của mình đê gánh chịu những trách nhiệm pháp lý dân sự. Các quy định vể tài sản và quyền sở hữu trong Phần thứ II Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục cụ thể hoá quy định về chế độ sở hữu được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1992 trong điều kiện nước ta đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Những quy định tại Phần thứ hai vẫn thê hiện tính định hướng xã hội chú nghĩa trong sờ hữu, bảo đảm và ổn định quyên sở hữu của cá nhân, pháp nhân, tổ chức và các chủ thể khác trong giao lưu dân sự; tạo ra những tiền đề pháp lý làm cơ sở vững chắc để phát triển sản xuất, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước; tạo điểu kiện cho nền kinh tế quốc dân luôn ổn định và không ngừng tăng trưởng. - Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đổng dân sự. Đây là phần có tính chất phổ biến, phức tạp của pháp luật dân sự và là phần có tổng số điều luật nhiều nhất của Bộ luật dân sự. Do tính chất đa dạng của các quan hệ dân sự nên Phần thứ ba được quy định từ Điều 280 đến Điều 630 trong Bộ luật. Do tính chất đặc trung riêng vẻ nghĩa vụ dân sự và hợp dồng dân sự, nên Phẩn thứ ba của Bộ luật cũng đã dành toàn bộ chương XVII để quy định những nguyên tắc cơ bản có tính chất chung vé nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ dân sự, chấm dứt nghĩa vụ dân sự trách nhiệm dân sự, các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và hợp đổng dân sự. Cũng như chế định tài sản và quyền sở hữu, ngoài những quy định chung tại Phần thứ nhất thì “những quy định chung” tại chương XVII được áp dụng cho toàn bộ các quy định tại Phẩn thứ ba. Trong phần này đã quy định một cách tổng thể riêng các vấn để liên quan đến nghĩa vụ dân sự, các nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ (và trách nhiệm dân sự trong những trường hợp riêng biệt), các nguyên tắc về chuyên giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ, các nguyên tắc chung về chấm dứt nghĩa vụ và các quy định có tính chất nguyên lý chung (bao gồm các vấn đc có liên quan) vể hợp đồng dân sự. 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Chương XVIII Phẩn thứ ba quy định các loại hợp đổng dân sự thông dụng trong đời sống dân sự thường ngày. Kế thừa Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự nãm 2005 đã quy định cơ bản về 12 loại hợp đổng thõng dụng nhất và loại quan hệ dân sự: Hứa thưởng và thi có giải. Tuy là hợp đồng dân sự dựa trên cơ sờ nguyên ly chung nhưng trong mỗi loại hợp đổng dân sự cụ thể lại có những cách thức, nội dung riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng. Ví dụ-. Cũng là hợp đổng mua bán nhưng nếu đối tượng là hợp đồng mua bán nhà ở thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng lại khác hợp đổng muạ bán tài sản thông thường. Vì vậy, pháp luật có nhũng quy dịnh riêng rất cụ thể để hướng dẫn chủ thể khi tham gia và làm cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp. Tương tự như vậy là hợp đồng thuê nhà, hợp đổng thuê khoán tài sản... Cần nhận thấy rằng các quy định riêng này chỉ được áp dụng nếu các bên khõng có thoả thuận cụ thể trong hợp đồng hoặc pháp luật cũng không có những quy định khác. Phần nội dung cụ thể của từng hợp đồng thông dụng đã được bổ sung, sửa đổi và kết cấu lại cho hợp lý hơn trong Bộ luật dân sự năm 2005. Các chương còn lại trong Phần thứ ba Bộ luật dân sự quy định riêng về các vấn đề: Thực hiện công việc không có uỷ quyền (chương XIX); nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có cãn cứ pháp luật (chương XX). Đây là các quy định trước đây đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 nhưng được sửa đổi bổ sung cho hoàn thiện hơn. Chương cuối cùng của Phần thứ ba là những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (chương XXI). Cũng là trách nhiệm dân sự nhưng do tính chất, đặc điểm và sự phức tạp của loại trách nhiệm này trong thực tế nên Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục quy định trong một chương riêng biệt. Ngoài mục những quy định chung (có ý nghĩa như nguyên tắc riêng chỉ áp dụng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp dồng), các mục của chương XXI quy định cụ thể phương thức xác định thiệt hại, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trucmg hợp cụ thể. Nghĩa vụ dân sự là loại quan hệ dân sự mang tính chất “vận động”, liên quan đến việc giao chuyển giao tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc thực hiện các dịch vụ, công việc không có uỷ quyền giữa các chủ thể... nén là vấn đề rất phức tạp trong giao lưu dân sự. Vì vậy, các quy định trong phẩn này của Bộ luật dân sự chù yếu là những quy định có tính chất như “khung” pháp luật đê' giới hạn những khá năng cùa các chủ thể trong từng loại hợp đồng. Những nguyên tắc cơ bản và các quy định trong phần này nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thê’ tham gia quan hệ dân sự và được áp dụng các quy định riêng nếu trong hợp đồng các bên không có thoả thuận. Đây chính là việc cụ Ihể hoá nguyên tắc quy định về tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận tại Điều 4 Bộ luật dãn sự năm 2005 đối với các hợp đổng dân sự thõng dụng. 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn - Phần thứ tư: Thừa kế. Đây là các quy định liên quan đến việc chuyển dịch tài sản từ người chết cho những người còn sống. Thừa kế cũng là loại quan hệ dân sự khá phổ biến trong đời sống của mỗi gia đình và xã hội. Tại phần này các quy định được cụ thể trong 4 chương, từ Điều 631 đến Điều 687. Do tính chất đặc thù của quan hệ thừa kế nên Chương XXII cũng là chương “những quy định chung” chỉ áp dụng cho các quan hệ thừa kế. Các nguyên tắc chung nhất của thừa kế như: Quyền thừa kế của cá nhân; thời điểm, địa diểm mở thừa kế; thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế; về nguời thừa kế và di sản thừa kế; vấn dề quản lý di sản; việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng chết trong cùng một thời điểm; các quy định về người không được hường di sản và thời hiệu khởi kiện về thừa kế... được quy định trên cơ sở kế thừa quy định của Bộ luật dân sự năm 1995. Bộ luật dân sự ghi nhận và quy định cụ thê’ hai hình thức thừa kế truyền thống trong pháp luật dân sự là thừa kế theo di chúc tại chương XXIII và thừa kế theo pháp luật chương XXIV. Tuy cũng là việc dịch chuyển di sản của người đã chết cho người còn sống nhưng trình tự dịch chuyển di sản, căn cứ để xác định quyền của người thừa kế trong mỗi hình thức thừa kế lại dựa trẽn những nguyên tắc riêng. Pháp luật dân sự tôn trọng quyền tụ định đoạt cúa nguời có di sản nhưng cũng quy định khá chi tiết vấn đề có hiệu lực của di chúc; quyển của người lập di chúc; hiệu lực pháp luật của di chúc (gồm cả di chúc chung của vợ chồng) và các hình thức của di chúc; quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc; quy định về di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng... Bộ luật dân sự nãm 2005 cũng quy định hình thức thừa kế theo pháp luật và những nguyên tắc riêng của thừa kế theo pháp luật. Đối với hình thức thừa kế này pháp luật quy định quyền cùa người nhận di sản thừa kế theo một tiêu chí riêng. Các quy định về người thừa kế, hàng thừa kế, thừa kế thế vị không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể. Do tính chất phức tạp trong việc phân chia di sản, nên Bộ luật dân sự năm 2005 kế thừa và tiếp tục quy định trình tự thanh toán di sản, thứ tự thanh toán, cách thức phân chia di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật và những hạn chế trong việc phàn chia di sản... nhưng bổ sung nội dung mới cho phù hợp hơn. - Phẩn thứ nãm: Những quy định vể chuyển quyền sử dụng đất. Đây có thể dược xem là các quy định có tính chất đặc thù nhất cùa Bộ luật dân sự Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai năm 1993 và năm 2000 thì người sừ dụng đất có những quyền cơ bản là: Chuyển nhượng, chuyên đổi, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; tặng cho quyển sử dụng đất; góp vốn bằng giá trị quyền sử đất; thế chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất. Theo nguyên tắc chung, đất đai là tài sản thuộc sỏ hữu toàn dân nhưng các chủ thê có quyền sử dụng ổn định lâu dài. Với tính chất là một quyền tài sản đặc biệt, nên Phần thứ năm Bộ luật dân sự cũng dành chương XXVI: Những quy định chung chi 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn áp dụng cho các quan hệ liên quan đến việc chuyển quyển sù dụng đất. Tại chương này các quy định có tính chất nguyên tắc như: Cãn cứ xác lập và hình thức chuyên quyền sừ dụng đất; thù tục và điều kiện; giá chuyển nhượng và nguyên tàc khi chuyển quyền sử dụng đất được áp dụng chung cho các quan hệ dân sự liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất. Trong các chương tiếp theo từ Điêu 693 đến Điểu 735 của Phần thứ năm đã quy định cụ thể các hình thức chuyển quyển sử dụng đất. Trong mỗi hình thức chuyển quyên sử dụng đất cụ thể đều có những quy định riêng vẻ điều kiện, hình Ihức, thủ tục chuyển quyển sừ dụng đất. Các quy định này trong Bộ luật dân sự nãm 2005 đã cụ thể hoá hơn các quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai 2003. Những quy định này nhằm bảo vệ quyền của những người có quyén sử dụng đất là cá nhân, hộ gia đình phù hợp với cuộc sống thực tế đang tồn tại trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Pháp luật dân sự tôn trọng và bảo vệ quyền cùa người sừ dụng đất hợp pháp, những chú thể sử dụng đất có những quyền năng nhất dịnh nhung phải tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật vể đất đai khi chuyển quyền tài sản có tính chất dặc biệt này trong các giao dịch dân sự. Về nguyên tắc, khi chuyển quyền sử dụng đất các chủ thể tham gia giao dịch dân sự đó nhất thiết phải tuân theo một trình tự, thú tục, diéu kiện đối với từng hình thức cụ thể. - Phần thứ sáu: Quyền sờ hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Đây là các quy định ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiộn xã hội phát triển; trong quá trình toàn cầu hoá và khi nước ta dã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Đây cũng là một đòi hỏi của nền kinh tế tri thức. Phần thứ sáu gồm có ba chương được quy định từ Điều 736 đến Điẻu 757. Tương tụ như Bộ luật dân sự nãm 1995, nội dung phần này gồm các quy định quyẻn tác giả, quyền sở hữu công nghiộp, quyền đối vói giống cây trồng và vấn đề chuyển giao công nghệ nhưng đã lược bỏ một sô' điều luật. Vì sở hữu trí tuệ là lĩnh vực năng dộng và không ngừng biến đổi cùng với các thành tựu khoa học, kỹ thuật; do đó nếu để trong Bộ luật dân sự thì sẽ khó sửa dổi bổ sung, nên một số quy định trước đây đã được tách ra quy định riêng trong Luật sở hữu trí tuệ. Do tính chất, đặc điểm của mỗi loại quan hệ dân sự trên đây, nên trong ba chương cụ thế cùa Phần thứ sáu không có những quy định chung mà chi có những quy định ricng về các quyền, nghĩa vụ cùa những chủ thể liên quan trong quan hệ dân sự cụ thể đó. Trong mỗi quan hệ có những quy định riêng về đối tượng, trình tự, thú tục chuyển giao các sản phẩm trí tuệ với những đặc điếm, yêu cầu riêng biệt trong quá trình chuyên giao từ chủ thể này sang chù thê khác hoặc trong việc báo hộ của pháp luật dân sự. - Phần Ihứ bảy: Quan hệ dán sự có yếu tô' nước ngoài. Phần này được quy định lừ Điêu 758 đến Đicu 777. Nội dung các điều luật có những quy định cụ thể vc: Quan hệ dân sự có yếu tố ngoài; căn cứ đê xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hộ 42 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn đó phát sinh ờ nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ớ nước ngoài. Các điểu luật tại phần thứ bảy còn quy dịnh: Thẩm quyền; nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chù nghĩa Việt Nam; nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế, tập quán quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc là thành viên; những trường hợp phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và bổ sung thêm quy định về thời hiệu khởi kiện. Mặc dù trong phần này, Bộ luật dân sự irước đây và hiện nay mới chi quy định những nguyên tắc chung, có tính chất cơ bán vả chưa thật cụ thê nhung cũng đã góp phẩn tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc ổn định các quan hệ dân sự có yếu tô nước ngoài. Đây là phần có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện “Việt Nam là hạn của tất cả các nước” và trong quá trình hội nhập sâu vào khu vực; trong tiến trình toàn cầu hoá và đã là thành viên chính thức của Tố chức thương mại thê' giới (WTO). * Các đạo luật Cả hai Bộ luật dân sự khi được ban hành và có hiệu lực thi hành đã trớ thành nguồn chú yếu. quan trọng của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự (kể cả Bộ luật dân sự năm 2005) cũng không Ihể quy định toàn bộ các quan hệ tài sản, quan hệ nhãn thân của đời sống xã hội. Đế hổ sung những quv định còn thiếu trong Bộ luật dân sự, Nhà nước ta đã ban hành một sô đạo luật điểu chinh các lĩnh vực khác nhau nhung có những phần, những nội dung liên quan đến pháp luật dân sự. Nội dung của các đạo luật này có giá trị như là nguồn bổ sung và có tính chất hỗ trợ. Với ý nghĩa trên đây, các luật được ban hành trong thời gian vừa qua liên quan đến Luật dân sự cũng có giá trị là nguồn cùa pháp luật dân sự, đó là: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp. Luật đất đai, Luật thương mại, Luật lao động... Dưới góc độ khoa học Luật dân sự và thực tiễn áp dụng thì các đạo luật này cũng là nguồn của pháp luật dân sự. Các cơ quan nhà nước có thấm quyền và Tòa án khi giải quyết tranh chấp nếu Ihực tế đó chưa được quy định trong Bộ luật dân sự đã phải áp dụng bổ sung làm căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp. c. Các văn bản dưới luật - Pháp lệnh: Là loại vãn bản pháp quy do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Khi chưa ban hành Bộ luật dân sự thì Pháp lệnh là loại nguồn quan trọne. chú yếu của pháp luật dân sự. Trong thực tế, các Pháp lệnh như: Pháp lệnh về hợp đổng dân sự neày 29/4/1991; Pháp lệnh về nhà ớ ngày 20/3/1991; Pháp lệnh báo hộ quyền lác giá ngày 02/12/1994; Pháp lệnh háo hộ quyển sở hữu công nghiệp ngày 28/01/1989... Nhưng số Pháp lệnh trên đây đã không còn hiệu lực từ ngày 01/7/1996 theo Điều 2 Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 về việc thi hành Bộ luật dãn sự. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 29/9/1989 và Bộ luật dân sự năm 199? cũng hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006 theo quy định tại Điều 1 Nghị 43 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn quyết sô' 45/2005/QH11 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 vể việc thi hành Bộ luật dân sự. Trong tương lai, để thi hành Bộ luật dân sự, Uỳ ban thường vụ Quốc hội sẽ ban hành các pháp lệnh nhằm giải thích, hướng dẫn cụ thể những quy định của Bộ luật dân sự và bổ sung những nội dung chưa được quy định. Khi được ban hành và có hiệu lực thi hành thì Pháp lệnh cũng vẫn là một loại nguồn quan trọng của pháp luật dân sự. - Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư của các bộ và cơ quan ngang bộ (đơn ngành hoặc liên ngành). Các loại vãn bản pháp quy loại này có ý nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ thê; có nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật dân sự. Những quy định cùa các Bộ, cơ quan ngang bộ được áp dụng, giải quyết cho các quan hệ tương tự nếu Bộ luật dân sự chua có quy định cụ thể. Hiện tại và trong tương lai các vãn bán hình thức này vẫn là một trong những loại nguồn phổ biến của pháp luật dân sự. Sau khi có Bộ luật dân sự năm 1995, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định về nhũng lĩnh vực riêng biệt như: Nghị định số 25/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phù về phương thức trả nhà ớ, giá cho thuê nhà ỏ khi chưa trả lại nhà và thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà được quy định tại Nghị quyết sô' 58/1998/NQ UBTVQH10; Nghị định số 119/1999/NĐ-CP ngày 18/9/1999 của Chính phủ về một sô' chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đẩu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ; Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ của Chính phủ “Về giao dịch bảo đảm". Nghị định số 38/2000/NĐ-CP ngày 23/8/2000 về quy định thu tiền sử dụng đất; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực... Kể từ khi Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định hướng dẫn theo phạm vi và chức nãng quy định tại Điều 5 Nghị quyết số 45/2005/QH11 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 về việc thi hành Bộ luật dân sự trong một số lĩnh vực cần thiết. - Ngoài ra, trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo phạm vi và chức năng dã ban hành những Thông tư, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tống kết hàng năm của Toà án nhân dân tối cao tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm thống nhất đường lối giải quyết tranh chấp dân sự hoặc hướng dẫn áp dụng những vấn đề mới phát sinh. Theo nguycn lý của lập pháp và xét về chức năng, nhiệm vụ Toà án các cấp là cơ quan xét xử, không phái là cơ quan ban hành các văn bản pháp luật. Trước đây, do hệ thống các văn bán pháp luật dãn sự thiếu và không đồng bộ. nên đẽ’ thống nhất đường lối giải quyết tranh chấp, Toà án nhân dãn tối cao, Viện kiêm sát 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn nhân dân tối cao đã ban hành những vãn bản dưới dạng thõng tư, chi thị, báo cáo chuyên đề để hướng dẫn nghiệp vụ Toà án địa phương các cấp trong từng lĩnh vực cụ thể. Do thiếu pháp luật nên thời điểm lịch sử đó các Tòa án đã phải áp dụng và coi là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp. Nhưng Ihực trạng này đã chấm dứt từ khi đất nước ta thực hiện quá trình đổi mới. Ngày nay, tuy hệ thống pháp luật dân sự không ngừng được hoàn thiện, bổ sung nhưng trong thực tế của đời sống dân sự vẫn không ngừng phát sinh những vấn đề mới mà Toà án không thê không xem xét, giải quyết. Nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dãn tối cao tổng kết thực tiễn xét xử để đưa ra những kết luận chung về đường lối giái quyết các loại tranh chấp. Những loại văn bán này tuy không phải là nguồn cùa Luật dân sự nhưng nó kịp thời khắc phục những khoảng trống trong Luật dãn sự và hướng dẫn đường lối giải quyết thống nhất nhũng vấn đề mới phát sinh nhưng chưa được luật quy định. Sau khi có Bộ luậl dán sự năm 1995, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các bộ ngành có liên quan đã phối hợp ban hành nhiều thông tư liên ngành, đơn ngành đê hướng dẫn, giải thích áp dụng các quy định của Bộ luật dãn sự trong các lĩnh vực khác nhau, để việc áp dụng được thống nhất theo yêu cầu cúa pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vi du: Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiêm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình". Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục Địa chính “Hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đê thu hổi nợ cho các tổ chức tín dụng". Khi Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi và chức năng quy định tại Điều 5, Nghị quyết số 45/2005/QH11 cùa Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 về việc thi hành Bộ luật dân sự đã và đang chuẩn bị ban hành các vãn bản hướng dẫn. Cụ thè’ ngày 8/7/2006 Hội đồng thấm phán, Tòa án nhãn dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định cùa Bộ luật dân sự nãm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngày nay, các loại văn bản này đều được đăng trên công bầo và có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng chính thức. Vì vậy, trong một phạm vi hẹp và dưới góc độ khoa học Luật dân sự, các văn bản này đang được xem là một loại “nguồn” có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự: nhất là đối với với các Tòa án nhân dán irong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp dân sự. 45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Thế nào là nguồn của Luật dân sự? Trình bày khái quát chung ý nghĩa cùa nguồn trong pháp luật dân sự. 2. Phân tích đặc điểm cùa các loại nguồn trong pháp luật dãn sự. 3. Trình bày một số loại nguồn chính theo hiệu lực pháp lý cùa Luật dân sự. II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT DÂN s ự 1. Khái niệm và cấu tạo của quv phạm pháp luật dán sự a. Khái niệm Pháp luật dân sự là một tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự nhằm điều chinh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự. Mỗi một quy phạm pháp luật dân sự đểu có tính độc lập tương đối đồng thời lại có môi liên hệ với các quy phạm pháp luật khác theo một trình tự thống nhất trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật cúa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tuỳ thuộc vào tính chất cúa các quan hộ tài sản, quan hệ nhân thân và sự cam kết cùa các chù thể trong đời sống xã hội, các nhà làm luật đã tập hợp một sô' quy phạm thành những phần, chương, mục riêng biệt dể diều chỉnh những loại quan hệ nhất định, có tính chất ương tự. Trong mỗi chương, mục riêng đó từng quy phạm (hay là tùng điều luật cụ thể) chi quy định về một hoặc một sô nội dung cụ thê, nhằm chi tiết hoá các yêu cầu cụ thê đối với giao dịch dân sự đó. Trong Bộ luật dân sự nãm 2005 có thế có quy phạm pháp luật chi phối tổng thế các giao dịch dán sự, nghĩa là bất cứ giao dịch dân sự nào cũng phải tuân theo. Cụ thể là, những quy định chung tại Phần thứ nhất Bộ luật dán sự được áp dụng cho tất cả chế định riêng biệt trong Bộ luật dân sự. Ví dụ: Khi quy định về vấn đề quàn lý tài sản của ngirời được giám hộ, khoán 3 Điều 69 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Các giao dịch dãn sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp 2¡ao dịch được thực hiện vì lợi ích cùa người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. Điều dó có nghĩa là: Mọi giao dịch dán sự trong các lĩnh vực sớ hữu. hợp đồne, thừa kế... tại các phần khác nhau irong Bõ luật dán sự giữa người giám hộ và người được giám hộ đều không có giá trị pháp lý nếu khổng tuân thu các quy định trên về giám sát việc giám hộ. 46 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn b. Đặc điểm của quy phạm pháp luật dàn sự Ngoài những đặc điểm chung của một quy phạm pháp luật, quy phạm pháp luật dân sự còn có đặc điểm sau đây: - Trong quy phạm pháp luật dân sự. do đặc diểm về phương pháp điều chinh của Luật dân sự. nên nội dung các quy phạm pháp luật dân sự có tính chất hướng dẫn, chi dần là chủ yếu đế các chủ thê’ cùa Luật dân sự biết và vận dụng. - Quy phạm pháp luật dân sự dược các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết tranh chấp nếu trong giao dịch dân sự các bên khóng có Ihoả thuận hoặc đó là những quy phạm có tính chất chỉ đạo. - Về bán chất, quy phạm pháp luật dân sự gần gũi với tập quán truyền thống và có tính chất phổ thông. Các quy định về chế tài ít được quy định trong các điểu luật cụ thể mà được quy định chung tại chương VI, Phần thứ nhất về: Giao dịch dân sự. Các quy định này có tính chất chung và được áp dụng cho các chế định hoặc các chế tài riêng được quy định trong các phần tương ứng. - Quy phạm pháp luật dân sự có thể bị ảnh hướng, chi phối bởi quy phạm pháp luật cùa những ngành luật khác có liên quan trong quá trình áp dụng luật đế giải quyết tranh chấp. c. Cấu tạo của quy phạm pháp luật dàn sự Với tính chất là một quy phạm pháp luật theo nguyên lý chung về nhà nước và pháp luật, quy phạm pháp luật dân sự cũng phải tuân thủ các yêu cầu cơ bản đối với một quy phạm pháp luật. Nghĩa là, nó cũng có các bộ phận: Giả định, quy định và chế tài theo mô hình mà bộ môn khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã xác định. Tuy nhiên, do có sự khác biệt về đối tượng điều chinh và phương pháp điều chinh, nẽn quy phạm pháp luật dân sự ngoài việc tuân thú nguyên lý chung của pháp luật, còn có những nét đặc trưng riêng. Các quy phạm pháp luật trong Bộ luật dân sự năm 2005 thê hiện tại các điểu luật cụ thể có thế có đầy đũ các yếu tô cấu thành: Đầy đủ cả ba bộ phận giả định, quy định và chế tài. Nhưng do nhũng đặc thù về đối tượng điều chinh của Luật dân sự trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân, nên khi lập pháp tuỳ thuộc vào tính chất từng loại quan hệ mà nhà làm luật có thê tách bộ phận chế tài thành một điều luật riêng để áp dụng chung cho các quy phạm pháp luật khác. Điều này hoàn toàn khác ngành luật hình sự và một số ngành luật khác. Việc các nhà làm luật sử dụng phương pháp này là thông lệ và tập quán quốc tế trong lĩnh vực dân sự, nhằm tránh sự trùng lặp trong kỹ thuật lập pháp. Ví dụ: Chương VI Phần Ihứ nhất Bộ luật dân sự là các quy phạm về giao dịch dân sự (từ Điểu 121 đên Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005) nhưng chi có Điều 137 Bộ luật dán sự quy định nguyên lý chung về chế tài và những hậu quá pháp lý 47 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn khi giao dịch dân sự vô hiệu. Những quy định vé hậu quả pháp lý này sẽ áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự khi có tranh chấp. Toà án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ căn cứ vào đó đê áp dụng khi giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, chế tài còn được nghi nhận trong các phần của Bộ luật dân sự hoặc trong một số trường hợp cá biệt, chế tài dân sự còn được ghi nhận trong các vãn bản pháp luật khác. Quy phạm pháp luật dân sự là những quy định của Nhà nước vẻ cách xử sự cùa các chủ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Các điêu kiện và hoàn cảnh trong giao lưu dân sự phong phú và đa dạng, nên việc quy dịnh trong các quy phạm pháp luật dân sự cũng dự liệu nhiểu khả nãng dê các chù thê dê dàng lựa chọn và vận dụng. Nhưng dù phong phú và đa dạng, các điều luật (quy phạm pháp luật dân sự cụ thê) đều được câu tạo bới hai yếu tố bắt buộc sau đây: - Một là: Dự kiến khả năng có thể xảy ra trong thực tế. Đó là những sự việc chưa xảy ra nhưng có thê xáy ra khả năng đó trong lương lai, khi các chù thể cùa pháp luật dân sự cam kết, thoả Ihuận trong thực tế cuộc sống. Nghĩa là, nó sẽ là kết quả được thê hiện của sự thống nhất ý chí giữa các chú thê tham gia giao kết. Ví ehr. Điều 450, Bộ luật dân sự nãm 2005 khi quy định về hình thức hợp đồng bán nhà ở chỉ ghi nhận: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành vãn bản, có công chứng hoặc chứng thực; trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". Đây là khả năng phổ biến có thể sẽ xảy ra trong các giao dịch dân sự về mua bán nhà ở trong các giao dịch dân sự thực tế của đời sống xã hội. - Hai là: Phần quy định nội dung có tính chất hướng dẫn để các chủ thể khi xác lập với nhau một giao dịch dân sự có sự trùng hợp với khả năng mà điều luật đã dự liệu thì phải tuân theo. Đó là phần xử sự có tính chất bắt buộc mà chủ thể phải thực hiện theo sự chỉ dẫn, hướng dẫn của quy phạm pháp luật dân sự. Đây chính là phần quy định có ý nghĩa quan trọng cùa quy phạm pháp luật dân sự. Ví dụ: Đoạn tiếp theo cùa điều luật nêu trên đã ghi nhận: phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực; trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". Phần quy định có ý nghĩa quan trọng trong các quy phạm pháp luật dân sự. Thiếu phần quy định thì không thể coi đó là quv phạm pháp luật dân sự. Đặc trưng cơ bán của quy phạm pháp luật dán sư và cũng chính là tính chất đặc thù là tính chất hướng dẵn và chỉ dẫn cùa các quy phạm để các chủ thể tham gia giao dịch dàn sự cụ thể biết và thực hiện. Vi dự. Về hình thức của hợp dồng thuẽ nhà ớ. Điểu 492 Bộ luậi dân sự năm 200? đã hướng dẫn và chi dẵn như sau: "Hợp đồng thuê nhà ớ phái được Ihành lập vãn bản nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trớ lèn thì phải công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trườna hợp pháp luật có quy định khác". Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Tuỳ thuộc vào tính chất các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong đời sống xã hội, nên trong một số trường hợp cụ thể, các diều luật chỉ quy định giới hạn “khung xử sự” cho các chủ thể mà không nêu ra cách thức xừ sự cụ thê nhất định. Điều này làm cho các chú thể được quyền tuỳ nghi cam kết, thoả thuận trong giới hạn đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch dân sự không ngừng phát triển và ổn định. Vì vậy, trong quy phạm pháp luật dân sự có những quy định buộc các chú thể khi xử sự phải tuân theo nhưng cũng có những quy định không nhất thiết chủ thể phải tuân theo mà được tùy ý lựa chọn sao cho phù hợp. Ví dụ: Khi quy định về địa điểm thực hiện nghĩa vụ, Điều 284 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: “ I. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thoá thuận. 2. Trong trường hợp không có Ihoả thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ dân sự được xác định như sau: a) Nơi có bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản; b) Nơi cư trú hoặc trụ sở cùa bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ dãn sự không phải là bất động sản”. Với quy định này, rõ ràng việc thoả thuận cùa các chú thể về địa diểm thực hiện nghĩa vụ được pháp luật dân sự tôn trọng. Chí khi các chủ thế không có thoả thuận mới áp dụng các quy định tại khoản 2 Điều 284 Bộ luật dân sự năm 2005. Nhưng cũng cần thấy rằng: Dù đã có quy định cụ thể như phần trên, đoạn cuối khoản 2 Điều 284 Bộ luật dân sự nãm 2005 cũng vẫn ghi nhận: trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Nghĩa là, các chủ thể của Luật dân sự vẫn có quyền “thoả thuận khác” với các quy định của điều luật trèn đây nhưng vẫn được coi là hợp pháp và có giá trị bắt buộc thực hiện. Nếu có tranh chấp xảy ra thì những thoả thuận này ngoài tính chất là bằng chứng còn là cơ sở pháp lý để Toà án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định trách nhiệm dân sự đối với bên vi phạm. 2. Các loại quy phạm pháp luật dân sự a. Định nghĩa Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội mang tính chất như những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu để mọi người làm theo. Quy phạm pháp luật thường gắn với Nhà nước và luôn thể hiện ý chí cùa Nhà nước. Quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành theo một trình tự, thú tục nhất định không những để điều chinh các quan hệ xã hội trong từng trường hợp cụ thể mà còn được áp dụng trong các trường hợp khi xuất hiện những điều kiện thực tế đã được dự liệu trước; là căn cứ để Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quvền giải quyết các tranh chấp dân sự khi các bên không có thỏa thuận. Là một loại quy 49 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn phạm pháp luật cụ thể, quy phạm pháp luật dân sự ngoài những tính chất chung của một quy phạm pháp luật còn có nhũng đặc trưng riêng. Quy phạm pháp luật dân sự là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bang một sức mạnh cưỡng chế, nhằm điều chỉnh và hướng dẫn các chủ thể trong các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân khi tham gia giao lưu dân sự. b. Các loại quy phạm pháp luật dán sự Theo sự ghi nhận cụ thể tại các điểu luật trong Bộ luật dân sự năm 2005, khoa học Luật dân sự phãn chia quy phạm pháp luật thành ba loại sau đây: - T h ứ nhất: Quy phạm mệnh lệnh. Là loại quy phạm có tính chất như quy phạm hành chính, trong đó chỉ rõ cách thức xù sự bắt buộc mà các chủ thê khi tham gia quan hệ pháp luật đó phải tuân theo. Xử sự này thống thường là một việc buộc chù thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự cụ thê đó phải thực hiện, phải làm. Ví dụ: Khi quy định nghĩa vụ của các bèn trong hợp đồng mua bán tài sản Điêu 428 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: bẽn bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhặn tài sản và trả tiên cho bên bán". Hoặc Điều 450 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đóng mua bán nhà ờ phải được lập thành văn bán, có cóng chứng hoặc chứng thực, trừ truờng hợp pháp luật có quy định khác”. Quy phạm mệnh lệnh còn được thể hiện ở việc không được phép làm hoặc cấm làm những điều mà pháp luật nghiêm cấm không dược làm. Ví dụ: Khi quy định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu Điểu 165 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu dược thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hường đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyển, lợi ích hợp pháp của người khác". Thông thường, quy phạm mệnh lệnh được quy định trong những trường hợp mà các chù thể tham gia nếu làm ngược lại sẽ ảnh hưởng không chi đối với quyền lợi cúa chủ thể bẽn kia mà còn ảnh hường đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyển, lợi ích hợp pháp của người khác. - T h ứ hai: guy phạm tuỳ nghi lựa chọn. Đây là loại quy phạm tương đối phổ biến trong giao lưu dân sự xuất phát từ dặc trưng vẻ phương pháp điéu chỉnh của pháp luật dân sự. Trong quy phạm tuỳ nghi lựa chọn, pháp luật nêu ra những quy định khác nhau với những cách thức xử sự khác nhau để các chủ thể tham gia giao lưu dân sự thuận tiện và được phép tuỳ nghi lựa chọn theo ý chí cùa mình. Trong các hoàn cảnh, điéu kiện cụ thể, các chù thê khi tham gia quan hệ pháp luật đó có thể tuỳ nghi lựa chọn một trong số các cách thức dã được quy định cho phù hợp với lợi ích, yêu cầu của mình. Việc pháp luật quy định và ghi nhận quy phạm tuỳ nghi lựa chọn đã tạo điểu kiện cho các chủ thể phát huy được quyền tự định đoạt trong giao lưu dân sự. 50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Ví dụ: Khi quyền sở hữu bị xâm phạm thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyển yêu cẩu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trờ trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bổi thường thiệt hại” (Điều 255 Bộ luật dân sự năm 2005). — Thứ ba: Quy phạm tuỳ nghi theo thoả thuận. Một trong những dặc trưng quan trọng và phổ biến của giao lưu dân sự là “tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận” nên đa số các quy phạm pháp luật dân sự đều ghi nhận nguyên tắc quan trọng này. Quy phạm tuỳ nghi thoả thuận cho phép các chủ thể được toàn quyền dịnh doạt theo ý chí của mình khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Quyền tự định đoạt của các chủ thể chi bị giới hạn trong phạm vi các nguyên tác cơ bản của Bộ luật dân sự. Nghĩa là quyền, nghĩa vụ dân sự phải được xác lập, thực hiện theo các căn cứ, trình tự, thú tục do Bộ luật dân sự và các vãn bán pháp luật khác quy định (Điểu 11 Bộ luật dân sự nãm 2005). Ngay cả trong một số trường hợp pháp luật có quy định một cách thức xử sự nào đó thì việc thoả thuận của các bên vẫn được ưu tiên áp dụng, cho dù không đúng với nội dung đã được điều luật đó dự liệu. Ví dụ: Về thời hạn thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 285 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 285 Bộ luật dãn sự ghi nhận: “Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật". Chí trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật cũng không có quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ, mới thực hiện theo quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật dân sự năm 2005. Trong một số trường hợp, điều luật ghi nhận việc thực hiện tương đối đầy đủ, chi tiết, cụ thể nhưng vẫn quy định: trừ trường hợp có thoả thuận khác” (khoản 2 Điều 300); hoặc khoản 2 Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác". Ngoài ra, trong Bộ luật dân sự còn có loại quy phạm có tính chất định nghĩa. Các quy phạm này dưới góc dộ logic học dã bao gồm cả hai yếu tố nội hàm và ngoại diên của khái niệm đã được định nghĩa. Ví dụ: “Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hướng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cẩu giải quyết việc dân sự” (Điểu 154 Bộ luật dân sự) hoặc quy định: “Hợp đổng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyển, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005). c. Tính chất điểu chỉnh của quy phạm pháp luật dán sụ Tính chất điều chình của các quy phạm pháp luật dân sự trong các giao dịch dân sự thể hiện: Khi các bên đã xác lập với nhau một quan hệ có tính xã hội nhưng thuộc đối tượng điều chinh của Luật dãn sự là đã làm phát sinh một quan hệ pháp luật dân sự. Việc thoả thuận của các bên trong các quan hệ có thê’ đúng hoặc có 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn thể khác vói quy định trong điều luật tương ứng với quy định trong Bộ luật dân sự nhưng vẫn có giá trị pháp lý. Theo nguyên tắc quy định tại Điẻu 4 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “mọi cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiộu lực bắt buộc thực hiện dối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng". Tính chất điều chỉnh của pháp luật dân sự hoàn toàn khác với tính chất điểu chỉnh của luật hình sự và một số ngành luật khác. Khi quy định cơ sờ của trách nhiệm hình sự Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 dã quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và khoản 1 Điều 8 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội dược quy định trong Bộ luật hình sự. . Nhứ vậy, trong thực te có thể có những hành vi “nguy hiểm” nhung nếu Bộ luật hình sự không quy định đó là tội phạm vì chưa gây nguy hiểm cho xã hội thì người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong pháp luật dân sự, tuỳ nghi thoả thuận là tính chất đặc trưng và phổ biến của các quy định trong pháp luật dân sự. Đây là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa luật hình sự và Luật dân sự. Bộ luật dân sự năm 2005 dù được sửa đổi ,bổ sung trên cơ sờ tổng kết thực tiễn thi hành mười năm Bộ luật dân sự nãm 1995, nhung cũng không thể khái quát được tất cả các khả năng sẽ xảy ra trong quá trình cam kết, thoả thuận. Nói cách khác, các nhà làm luật không thể dự liệu được toàn bộ các khả năng xảy ra trong quá trình cam kết, thỏa thuận của các chủ thể. Do đó, trách nhiệm pháp lý trong những trường hợp này có thể do các bên thoả thuận, cam kết với nhau. Vì vậy, mặc dù Bộ luật dân sự năm 2005 không có quy định, không dự liệu... nhưng các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự vẫn có thể thoả thuận với nhau và vẫn có sự ràng buộc pháp lý. Sự ràng buộc này vẫn dược pháp luật dân sự công nhận; quyển và nghĩa vụ của các bên vẫn được bảo đảm thực hiện. Bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm những nội dung mà họ đã cam kết, thoả thuận khi xác lập giao dịch. IIIề ÁP DỤNG LUẬT DÂN s ự VÀ ÁP DỤNG TƯƠNG T ự 1. Áp dụng Luật dân sự a. Khái niệm Luật dàn sự là một hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự điểu chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Trong các quy phạm pháp luật dãn sự cụ thể đểu thể hiện và ghi nhận ý chí cũng như thái độ của Nhà nước trong những trường hợp cụ thể. Nội dung các quy phạm nhằm hướng dẫn cách thức xử sự của các chủ thể và báo đám sự bình đẳng, an toàn pháp lý cho các chủ thể. Các quy phạm pháp luật dân sự có thê là nhũng “công thức” để các chủ thể khi hành xử phải luân theo 52 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn hoặc là những chuẩn mực pháp lý, giới hạn cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự. Có thể nói rằng, đó là những “khuôn mẫu lý tưởng” được Nhà nước quy định theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc tuân thủ các quy định trong quy phạm pháp luật dân sự được coi là một nguyên tắc có tính chất pháp chế, có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự (Điều 11 Bộ luật dân sự năm 2005). Tuy nhiên, trong thực tế việc tuân thủ pháp luật còn phụ thuộc vào các yếu tố sau dây: - Các quy phạm pháp luật đó có phản ánh và ghi nhận đúng các điểu kiện kinh tế - xã hội thời điểm lịch sử đó và tính khả thi để vận dụng và áp dụng trong điều kiện của xã hội dó hay không? Nội dung các quy phạm pháp luật dân sự có phản ánh khách quan các tồn tại xã hội và yêu cầu của xã hội hay không? - Ý thức tôn trọng pháp luật và tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức; ý thức pháp luật và trình độ dân trí vể pháp lý của người dân trong một chê' độ xã hội. - Việc áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyển theo yêu cầu của chủ thể hoặc trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Rõ ràng, tự bản thân các quy phạm pháp luật dân sự không thể có tác dụng; cũng không thể gây ra một tác động trực tiếp nào lên các quan hệ dân sự nếu không có việc tự giác thực hiện của các chủ thể hoặc việc áp dụng của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong những trường hợp cần thiết. Áp dụng Luật dân sự là hoạt động của những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào những tình tiết cụ thể của những sự kiện thực tế; vào nội dung cam kết, thỏa thuận cụ thể của các bên (trong trường hợp có thỏa thuận) hoặc cãn cứ vào những quy định của Bộ luật dân sự để ra những quyết định phù hợp. Quyết dịnh đó có thể là: xác nhận cho một chủ thể nhất định có những quyền, nghĩa vụ dân sự nào đó và áp dụng các biện pháp cưỡng chế; buộc một chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự trong những trường hợp cần thiết để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp cúa chủ thể khác. Như vậy, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan, tổ chức có thâm quyển, các quy phạm pháp luật dân sự mới trở thành một “lực lượng” để điều chỉnh các quan hệ xã hội; thực hiện sự tác động lên hành vi của chủ thể và thông qua đó tác dộng lên các quan hệ xã hội. Áp dụng quy phạm pháp luật dân sự là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đưa các quy phạm pháp luật dân sự vào đời sống thực tiễn. Do dối tượng điều chinh và phương pháp điều chinh của Luật dân sự có những nét đặc thù, nên việc áp dụng Luật dân sự cũng có những đặc trưng riêng. 53 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Ví dụ: Điều 2 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Nghĩa là nếu luật không quy định thì cũng không có việc áp dụng pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong pháp luật dân sự, việc áp dụng có những nét đặc thù riêng. Điều 3 Bộ luật dãn sự năm 2005 cho phép: “Trong trường hợp pháp luật khổng quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này". Nghĩa là, việc áp dụng pháp luật dân sự vẫn được thực hiện ngay cả trong nhũng trường hợp không có những quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự. Áp dụng Luật dân sự còn có thể được thực hiện bằng các trình tự khác nhau như: Trình tự hành chính, trình tự hình sự (đối với các bản án hình sự có liên quan đến tài sán)... b. Trình tự áp dụng Luật dán sụ Trong pháp luật dân sự cần có sự phân biệt áp dụng Luật dân sự và vận dụng Luật dân sự. Vận dụng Luật dân sự là việc các chủ thể căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự để thực hiện các nội dung của quy phạm có tính chất hướng dản, chỉ dẫn. Thông qua sự chỉ dẫn, hướng dẫn này các chủ thế’ tham gia quan hệ thực hiện theo. Vi dụ: Khi xử lý tài sản cầm cô' (Điểu 336 Bộ luật dân sự năm 2005) trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự... thì tài sản cẩm cô' được xử lý theo phương thức do các bên thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Hoặc trong quan hệ Ihuê nhà ở, các chủ thể cho thuc và thuê nhà ở phải thực hiện theo sự hướng dẫn tại Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 đế lập hợp đồng thuê nhà ở; nếu thời hạn thuê nhà từ sáu tháng trở lên thì phái có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Áp dụng Luật dân sự lại là việc làm cùa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào quy định cúa Bộ luật dán sự hoặc các văn bán pháp luật có liên quan để cống nhận một quyền nào đó cho một chú thể; xác định quyền và nghĩa vụ cùa mỗi bẽn irong hợp đổng khi có tranh chấp; quyết định trách nhiệm dân sự đối với bên vi phạm... Việc áp dụng Luật dãn sự không phải là một việc làm tuỳ hứng mù phái dựa trôn những căn cứ pháp lý nhất định và phải (hco một trình tự, thú tục do pháp luật quy định. Trong thực tế giải quyết các tranh chấp tại ngành Toà án nhãn dãn pháp Luật tố lụng dân sư quy định các bước sau dây: 54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn - Người có quyền, lợi ích bị xâm phạm trước hết phải tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp làm đơn khởi kiện vụ án và đến nộp dơn cho Toà án sờ tại có thẩm quyền (nơi mình cư trú) để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 161 Bộ luật tô' tụng dân sự 2004). Đơn phải tuân thủ quy định vể hình thức cần ghi rõ các yêu cầu và nguyện vọng theo quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Cùng với việc nộp đơn, người nộp đơn (là đương sự - thường gọi là nguyên đơn) phải mang theo những giấy tờ và những tài liệu cần thiết liên quan đến việc khởi kiện (quy định tại Điểu 165 Bộ luật tố tụng dân sự 2004). - Sau khi xem xét nội dung trong đơn và các tài liệu của đương sự, cán bộ làm nhiệm vụ thụ lý phải xem xét tính hợp lệ của các yêu cầu; xem xét xem có đúng là sự việc theo thẩm quyển cùa Toà án đó giải quyết hay khổng. Nếu đúng thẩm quyền và hợp lệ đương sự phải đến nộp lạm ứng tiền án phí theo quy định cùa pháp luật tại cơ quan thi hành án; sau đó mang hoá dơn đã nộp tạm ứng án phí cho toà án thì toà án chính thức thụ lý vụ việc để giải quyết (quy định tại Điểu 171 Bộ luật tố tụng dân sự 2004). - Khi thẩm phán được phân công giải quyết vụ án (quy định tại Điểu 172 Bộ luật tố tụng dân sự 2004) phải thực hiện nhiệm vụ, quyển hạn của thẩm phán (quy định tại Điều 173 Bộ luật tô tụng dân sự 2004), thông báo vẻ việc thụ lý vụ án; yêu cầu nộp tài liệu và thực hiện một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự 2004; tiến hành lấy lời khai của hai bẽn đương sự, trước hết là nguyên đơn; xác định tính chất của quan hệ pháp luật. Trên cơ sở các giấy tờ, tài liệu do đương sự cung cấp, Thẩm phán phải tự mình tiến hành điều tra, xác minh làm rõ sự thật vụ án. Khi đã có kết quả điều tra đầy dủ, Thẩm phán phải xác định cãn cứ pháp lý đê giải quyết, cụ thê là: Tìm các điéu luật có nội dung tương ứng với vụ việc để làm căn cứ pháp lý áp dụng. - Sau khi đã thẩm tra đầy đù các chứng cứ, tài liệu, xem xét lại vấn đề thẩm quyền và đã thực hiện đẩy đủ các yêu cầu cho việc chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử, ấn dịnh ngày mớ phiên toà theo quy định tại Điểu 195, Bộ luật tô' tụng dân sự 2004. Các quyết định của bản án phải căn cứ vào các điều luật đã viện dần để áp dụng và quyết định trách nhiệm hoặc xác định quyển, nghĩa vụ cùa mỗi bên trong vụ án... c. Hiệu lực áp dụng Luật dán sụ Tương tự như các Bộ luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. hiệu lực của Bộ luật dân sự được xem xét dưới nhiều góc độ. Do tính chất đặc thù của các quan hệ pháp luật dân sự về thời điểm, địa diêm xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và sự phong phú về chú thể tham gia nên Điểu 2 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định hiệu lực của Bộ luật dân sự như sau: 55 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn * Hiệu lực của Bộ luật dán sự theo thời gian (tức là Bộ luật dân sự có hiệu lực áp dụng từ thời gian nào) Điều 88 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nãm 1992 đã quy định: “Các luật phải được công bô' chậm nhất là mười lăm ngày sau khi đã được Quốc hội thông qua”. Theo quy định trên đây của đạo luật cơ bản, sau khi Quốc hội thông qua toàn vãn Bộ luật dân sự ngày 14/6/2005, ngày 27/6/2005 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Căn cứ Điều 103 và Điểu 106 cùa Hiến pháp nưốc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nãm 1992; căn cứ vào Điều 91 của Luật tổ chức Quốc hội; căn cứ vào Điều 57 của Luật Ban hành vãn bản quy phạm pháp luật đã ra Lệnh công bố số 06/2005/L-CTN: “Bộ luật dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005”. Như vậy, có thể nói Bộ luật dân sự nãm 2005 có hiệu lực kể từ ngày Bộ luật dân sự được Chủ tịch nước ký lệnh công bố chính thức trên các phương tiện thõng tin đại chúng và trong Công báo của Nhà nước. Ngoài ra, hiệu lực thi hành của Bộ luật dân sự nãm 2005 còn được xác định trong nhũng quyết định riêng biệt của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Ví dụ: Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật dân sự của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chú nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 (từ ngày 05 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6 năm 2005), Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chú nghĩa Việt Nam đã Quyết nghị: “ 1. Bộ luật dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật dân sự này thay thế Bộ luật dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/10/1995”. Cùng với quy định này, Pháp lệnh hợp đổng kinh tế ngày 29/9/1989 cũng hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực. Như vậy, một bộ luật hoặc pháp lệnh chỉ hết hiệu lực thi hành khi bị cơ quan quyền lực bãi bó, thay thế hoặc đã hết thòi gian có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 2 Bộ luật dân sự năm 2005 thì Bộ luật dân sự được áp dụng đối với các quan hệ dân sự được xác lập từ ngày Bộ luật này có hiệu lực, trừ trường hợp được Bộ luật này (tức Bộ luật dân sự năm 2005) hoặc Nghị quyết của Quốc hội có quy định khác. Tinh thần cùa quy định trên đây được kế thừa từ Bộ luật dân sự nãm 1995, Uỳ ban thường vụ Quốc hội Quốc hội khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 28/10/1998 quy định riêng đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 (có hiệu lực từ ngày 01/01/1999). * Hiệu lực tlieo không gian (tức phạm vi áp dụng) Bộ luật dân sự Việt Nam có hiệu lực Irong khoảng không gian nhát định và đối với một sô' người nhất định. Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh 56 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn thổ và tuyệt dối của quốc gia đã được pháp luật quốc tế thừa nhận, Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục ghi nhận “Bộ luật dân sự được áp dụng trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nghĩa là, bất kỳ một giao dịch dân sự nào được xác lập, thực hiện ữên lãnh thổ của nưóc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đểu chịu sự điều chỉnh và áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Trong khoa học pháp lý Luật dân sự Việt Nam hiện nay còn có khái niệm lãnh thổ mở rộng, tức là hiểu lãnh thổ theo góc độ chủ quyển quốc gia về phương diện pháp lý ngoài phạm vi biên giói quốc gia. Khái niệm “lãnh thổ ngoài biên giới” thực chất là khái niệm dùng để chì sự thừa nhận chù quyển quốc gia trong một số trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Tàu thuyền của Việt Nam đang đi lại, vận chuyển hàng hoá trên biển khơi ở bất cứ nơi nào dù là hải phận quốc tế; máy bay dân dụng mang cờ hiệu Việt Nam đang trên dường bay qua lãnh thổ các nước mà gây thiệt hại, phát sinh trách nhiệm dân sự cũng áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự nãm 2005. Giao dịch dàn sự được coi là xác lập, thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi giao dịch dân sự ấy có một trong những điểu khoản được thi hành trên lãnh thổ Việt Nam, dù rằng chù thể là yếu tố nước ngoài. Đôi với các quan hệ dân sự này khoán 3 Điéu 759 Bộ luật dân sự nãm 2005 quy định: “Trong trường hợp Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thoả thuận trong hợp dồng nếu sự thoả thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo nguyên tắc lãnh thổ nói trên, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, dù chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay là người không có quốc tịch. Nguyên tắc lãnh thổ chỉ bị hạn chế bởi các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chú nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác hoặc trong các quan hệ có yếu tố: “ằ.. có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nirớc ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lặp. thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ờ nước ngoài” (Điều 758 Bộ luật dãn sự năm 2005). 57 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định cãn cứ áp dụng pháp luật đối với người không quốc tịch, người nước ngoài có hai hay nhiếu quốc tịch nước ngoài: “Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các vãn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước của nước mà người nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật nơi người dó cư trú; nếu người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chú nghĩa Việt Nam". Trước đây, trong Bộ luật dân sự nãm 1995 còn có quy dịnh đối với những quan hệ dân sự do người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tại Việt Nam (theo quy định tại khoản 3 Điều 15). Khoản 3 Điẻu 15 Bộ luật dân sự nãm 1995 đã quy định: “Bộ luật dân sự được áp dụng đối với các quan hệ dân sự có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tại Việt Nam, trừ một sô' quan hệ dân sự mà pháp luật có quy định riêng”. Bộ luật dân sự còn được áp dụng với tất cá những công dân Việt Nam đang công tác, học tập, lao động ớ nước ngoài. Hiện nay quy định này đã không còn được ghi nhận trong Điều 2 Bộ luật dân sự năm 2005 để tránh sự phân biệt không cần thiết. Cũng theo nguyên tắc lãnh thổ nói trên, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 “cũng được áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tô' nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” (khoản 3 Điêu 2 Bộ luật dân sự năm 2005). * Hiệu lực hồi tô' trong Luật dán sự (tức là Bộ luật dân sự có đuợe áp dụng đối với các quan hệ dân sự xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực hay không) Theo nguyên tắc chung về hiệu lực áp dụng đối với một dạo luật, cả hai Bộ luậi dân sự chì áp dụng đối với những quan hệ dân sự trong tương lai. Nghĩa là, chỉ áp dụng đối với những giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện khi Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành. Vì vậy, trước đây Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định hiệu lực hồi tô' đối với các giao dịch dân sự dược xác lập, thực hiện trước khi Bộ luật dân sự có hiệu lực. Nhung do tính chất đặc thù của các quan hệ dân sự nên dù trong Bộ luật dân sự năm 1995 tuy không có quy định về hồi tô nhung đê giải quyết các tồn đọng do lịch sứ để lại, nên trước đây điểm d Điều 3 Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật dân sự của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã quy định: “Đối với các giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện xong trước ngày Bộ luật dàn sự có hiệu lực mà có tranh chấp xáy ra thì áp dụng quy định của pháp luật có hiệu lực tnrớc đây giải quyết”. Vì vậy, tuy Điều 2 của Nghị quyết này đã liệt kê các pháp lệnh hết hiệu lực kể từ ngày 01/7/1996 nhung đối với các trường họp quy định tại điếm d Điểu 3 vẫn phái áp dụng các văn bán pháp luật này đê giải quyết khi có tranh chấp. Tương tự, Đicu 2 Nghị quyết số 45/2005/QH11 vé việc thi hành Bộ luật dãn sự của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 đã có quy định VC việc áp dụng đối với các giao dịch dàn sự xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực như sau: 58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Ịl2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: a) Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự thì áp dụng các quy định cùa Bộ luật dân sự; b) Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức khác với quy định của Bộ luật dân sự hoặc giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà có tranh chấp xảy ra thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 để giải quyết; c) Thời hiệu hướng quyển dàn sự và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dàn sự dược áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự”. Cũng cần lưu ý rằng, việc quy định này xuất phát từ sụ cần thiết phải bảo vệ lợi ích cúa Nhà nước, lợi ích cùa xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong một sô' trường hợp cẩn thiết. Vì vậy, Bộ luật dân sự năm 1995 tuy dã hết hiệu lực nhưng vẫn sẽ được áp dụng hổi tô' trong một sô' trường hợp cần thiết khi giải quyết các tranh chấp trước đây. * Vấn đề giải thích và hướng dàn áp dụng Bộ luật dán sự Việc giải thích và hướng dẫn thi hành một đạo luật nói chung và Bộ luật dân sự năm 2005 nói riêng là làm sáng tỏ một cách chính xác nội dung và ý nghĩa của các điều luật. Vẻ phương diện khoa học, giải thích và hướng dẫn áp dụng luật là một trong những nội dung của việc áp dụng luật. Nếu không làm sáng rõ nội dung và ý nghĩa cúa điểu luật thì không thể áp dụng được luật một cách chính xác và thống nhất. Với yêu cầu của kỹ thuật lập pháp phải ngắn, gọn, không trùng lập... nên các điều luật thường viết cổ đọng. Có khi sự diễn đạt cùa điều luật chưa phản ánh được rõ ràng tinh thần của luật cùng các thuật ngữ có tính chất chuyên ngành, nên việc giải thích và hướng dẫn áp dụng luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyển là cẩn thiết trong quá trình áp dụng. Theo thông lệ, một điểu luật chi nêu nhũng đặc điểm chung nhất nhung trong việc áp dụng chúng vào trường hợp cụ thể cần phải có sự rõ ràng, minh bạch nhằm bảo dám tính thống nhất trong quá trình thực thi pháp luật. Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyển phải có vãn bản giải thích và hướng dẫn áp dụng chính thức thì Thấm phán và các công chức nhà nước có thẩm quyền mới hiểu điểu luật chính xác đẽ’ luật được áp dụng thống nhất. Do đó, tại Điều 5 Nghị quyết số 45/2005/QH11 về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 cúa Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 đã có quy định: "ủ y ban thườns vụ Quốc hội, Tòa án nhàn dân tối cao. Viện kiểm sál nhân dãn tôi cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình hướng dẫn thi hành Nghị quyết này". 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Căn cứ vào quy định của pháp luật hiộn hành cũng như Nghị quyết số 45/2005/QH11; giá trị pháp lý của sự giải thích, hướng dẫn, tính chất và cơ sờ khoa học, Luật dân sự phân biệt các loại giải thích và hướng dẫn sau đây: - Giải thích và hướng dẫn chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải thích chính thức là giải thích của các cơ quan nhà nước có thẩm quyển được luật quy định. Theo quy định tại Điều 91 Hiến pháp nãm 1992 thì ủy bạn thường vụ Quốc hội là cơ quán có quyền giải thích luật. Sự giải thích, hướng dẫn của ủy ban thường vụ Quốc hội có tính chất bắt buộc đối với tất cả các cơ quan nhà nước, mọi tổ chức và công dân; được Tòa án, cơ quan tổ chức có thẩm quyền coi đó là cãn cứ để áp dụng như pháp luật. Ví dụ: Cũng là giao dịch dân sự nhưng những giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/7/1991 lại được áp dụng theo quy dịnh tại Nghị quyết số 58/NQ UBTVQH10 ngày 20/8/1998. - Giải thích, hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác (cấp bộ, ngành, địa phương). Trong sự giải thích, hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền này thì các văn bản giải thích, hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhãn dân tối cao có vai ưò quan trọng. Theo quy định tại Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội nuốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 02/4/2002 tại Nghị quyết số 33/2002/QH10 thì Hội đổng Thẩm phấn Tòa án nhân dân tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “a) Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; b) Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật; c) Tổng kết kinh nghiệm xét xử.. Hội đổng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình tổng kết kinh nghiệm và hướng dẫn nghiệp vụ cho các Toà án nhân dân địa phương có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn để áp dụng thống nhất pháp luật. Sự giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao có giá trị bắt buộc đối với các Toà án địa phương trong quá trình thụ lý, giải quyết tranh chấp. Việc giải thích và hướng dẫn áp dụng luật của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được đăng trên công báo có ý nghĩa quan trọng trong việc thống nhất áp dụng pháp luật dân sự. Giải thích và hướng dẫn việc áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn mới chặt chẽ, cụ thể, vì đó là cơ sờ quan trọng để minh chứng cho nội dung các điểu luật và vấn đề áp dụng các quy phạm đó trong thực tế. Tòa án nhân dân tối cao còn có nhiệm vụ giám đốc xét xừ (xét xử giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật) việc xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, các tòa chuyên trách; những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, báo cáo tổng kết hàng năm tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp về dân sự có tác dụng rất lớn trong việc thống nhất nhận thức và dường lối giải quyết tranh chấp đối với các Tòa án địa phương. 60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Một vấn dể cần lưu ý: Trong xét xử chúng ta không thừa nhận giá trị pháp lý của “án lệ” (hiểu theo nghĩa là những kinh nghiệm từ một bản án cụ thể khi tổng kết kinh nghiệm và nêu trong báo cáo tổng kết ngành Toà án nhân dân), nén đó không phải là sự giải thích, hướng dẫn chính thức và không có giá trị bắt buộc đối với các bản án xét xử sau. Đây là một thực tế nhằm bảo đảm tính thống nhất về đường lối giải quyết các tranh chấp dân sự của ngành Toà án nhân dân, bảo đảm nguyên tắc chung của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyển có thể ban hành các vãn bản: Thường là thông tư đơn ngành hay liên ngành dể giải thích, hướng dần áp dụng một quy định hoặc một chế định nào đó của Bộ luật dân sự nhằm thống nhất việc nhận thức và áp dụng. - Giải thích, bình luận, bình giảng, phân tích có tính chất khoa học. Đây là sự giải thích, bình luận, bình giảng của các nhà khoa học, các luật gia, cán bộ nghiên cứu khoa học... trong các bài viết đãng trong tạp chí chuyên ngành, các báo cáo khoa học, các sách giáo khoa (từ điển, giáo trình Luật dân sự, bình luận khoa học Bộ luật dân sự). Sự giải thích, bình luận, bình giảng khoa học này khổng có giá trị pháp lý bắt buộc áp dụng nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao kiến thức, thống nhất việc hiểu các diều luật của cán bộ tư pháp, của các chù thể khi tham gia giao dịch dân sự... dã Ihực sự có ý nghĩa trong việc phát triển khoa học Luật dân sự và nâng cao trình độ dân trí. 2. Áp dụng tương tự a. Khái niệm áp dụng tương tự Trong quá trình áp dụng pháp luật hiện nay, dù rằng chúng ta dã có Bộ luật dân sự năm 2005 với 777 điều luật nhưng không phải trong tất cả các trường hợp tranh chấp dân sự mà Toà án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi giải quyết đểu tìm được các điều luật tương úng để áp dụng. Vì rằng, quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là những quan hệ phổ biến của đời sống xã hội và sự cam kết, thoả thuận của các chủ thể trong giao lưu dân sự cũng đa dạng, phong phú... nên các nhà làm luật khó có thể dự liệu được toàn bộ các khả năng sẽ xảy ra trong thực tế. Trong quá trình pháp điển hoá, các nhà làm luật vì những lý do khách quan, chủ quan khác nhau không thể lường hết được tất cả những khả năng có thể xảy ra trong thực tiền. Do đó, có một số trường hợp chưa được Bộ luật dân sự dự liệu hoặc quy định cụ thể. Ví dụ: Vấn đề sử dụng đất hương hoả, vấn dề hùn vốn (góp vốn), cẩm đồ, hợp đồng cấp dưỡng sau đó cho hưởng thừa kế, hợp đồng cung cấp thông tin, tranh chấp mồ mả có tính chất dàn sự... 61 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Nhung khi có các tranh chấp đó xảy ra, các cơ quan, tổ chức có thâm quyên cũng không thể từ chối xem xét và giải quyết khi đương sự có yêu câu. Đẽ khac phục tình trạng trên đây, pháp luật dân sự cho phép các cơ quan, tổ chức có thâm quyên được áp dụng tương tự. Nghĩa là, nếu trong Bộ luật dân sự năm 2005 có điêu luật mà có nội dung tương ứng hoặc có tinh thần tương ứng với sự kiện thực tế đó thì vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự để: xác định quyền, nghĩa vụ của các bên; quyết định trách nhiệm pháp lý hoặc công nhận một sự kiện pháp lý nào đó. Áp dụng tương tự được xem là tính chất dặc trưng của pháp luật dân sự. Điểu này hoàn toàn khác với quy định của luật hình sự hoặc các ngành luật khác. “Việc áp dụng tương tự pháp luật nhằm khắc phục các lỗ hổng trong pháp luật dân sự, khi đó sẽ phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự mặc dù không có các quy phạm pháp luật dân sự điẻu chinh các quan hệ đó. Việc áp dụng này cũng sẽ tạo tiền để để các nhà lập pháp hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật”."’ h. Nguyên nhãn và điểu kiện áp dụng tương tự trong Luật dán sự * Nguyên nhân Đa phần các quy phạm pháp luật trong Bộ luật dân sự năm 2005 được pháp điển hoá từ các tạp quán có tính chất phổ Ihông và truyền thống, phù hợp với tiến bộ xã hội được nhiều người công nhận và khá hoàn thiện. Các tập quán này cùng ý chí cùa Nhà nước đã được “Nhà nước hoá” và bắt buộc các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự đó phải tuân theo. Quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân do Luật dân sự điểu chỉnh phong phú, đa dạng và khòng ngừng biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, nèn sự điẽu chỉnh của pháp luật cũng linh động và mềm dẻo... Sự cam kết, thoả thuận của các chủ thể theo tập quán trong giao lưu dân sự cũng muôn hình, muôn vẻ, nên trong một thời điểm nhất định nhà làm luật không thê dự liệu hết được những khả nãng có thể xảy ra trong thực tế. Đây cũng chính là thông lệ quốc tế nên các Bộ luật dân sự của các nước phát triển (như các Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Canada...) dù được bổ sung, sửa dổi, hoàn thiện nhiều lần, có bé dày hàng trăm năm lịch sừ cũng vẫn ghi nhận nguyên tắc này. Có thé xem như đáy là tính đặc trưng nhất của pháp luật dân sự. Ví dụ: Sự thoả thuận vẻ mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản trong thực tế cuộc sống hết sức đa dạng và phong phú; thoả thuận về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kể; thỏa thuận về mua bán tài sản... Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự, đôi khi Toà án, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyển không tìm được quy phạm pháp luật dân sự đê’ áp dụng cho những trường hợp cụ thế có ý nghĩa pháp lý đang được xem xét và giải quyết. ( I ) Xem: Giáo trình Luật dán sự Việt N am , Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Cò nu an nhãn dãn Hà Nội, năm 2000, tr. 38, 39. 62 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Nhưng hiện tại có những quy phạm pháp luật dân sự tương tự được ghi nhận trong Bộ luật dân sự được bổ sung, sửa đổi 2005 hoặc các văn bản pháp luật dang có hiệu lực áp dụng. Việc vận dụng những quy phạm pháp luật có nội dung tương tự được quy định trong Bộ luật dân sự nãm 2005 hoặc các văn bản pháp luật đang có hiệu lực áp dụng để giải quyết tranh chấp gọi là: áp dụng tương tự về luật. Để khắc phục tình trạng chưa hoàn thiện của pháp luật thực định và để cho các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự luôn được điều chỉnh bằng pháp luật, pháp luật dân sự cho phép Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tập quán để giải quyết khi có tranh chấp. Đây là những hoạt động mà trong thực tế ngành Toà án nhân dân và các cơ quan, tổ chức có thấm quyền được phép vận dụng để điều chinh tất cả các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân... nhưng chưa được quy định trong luật. Đó là: Áp dụng các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, một số đạo luật khác hoặc các văn bản dưới luật đê giải quyết tranh chấp dân sự. Việc áp dụng tương tự, áp dụng tập quán thường được Toà án nhân dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyển áp dụng nhằm khắc phục những khoảng trông và những quy định chưa hoàn thiện của pháp luật dãn sự. * Điều kiện đê áp dụng tương tự Để tránh sự tuỳ tiện trong việc áp dụng tương tự và tránh việc vận dụng không đúng thẩm quyển, việc áp dụng tương tự cần phải có nhũng điều kiện sau đây: - Trường hợp cẩn áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tập quán phải là quan hệ dân sự thực tế có ý nghĩa pháp lý. Nghĩa là, các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó dã làm phát sinh những quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự nhất định, thuộc phạm vi điểu chỉnh của pháp luật dân sự. - Quan hệ dân sự có tính chất cụ thể này chưa được dự liệu, quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự nãm 2005. Các quy phạm trong Bộ luật dân sự năm 2005 hoặc các văn bản dưới luật hiện có cũng không có để áp dụng khi cần giái quyết tranh chấp. - Hiện tại, trong Bộ luật dân sự năm 2005 có những điều luật khác hoặc trong một số dạo luật, một số các vãn bản dưới luật có quy định nội dung tương tự hoặc tập quán tiến bộ có tính chất tương tự mà Toà án, các cơ quan, tổ chức có (hẩm quyền có thể áp dụng trong trường hợp cụ thê’ đó đế giải quyết tranh chấp. Ngày nay, trong điều kiện nén kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, nhất là khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức cùa Tổ chức thương mại thế giới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ngày càng gia tâng... đã làm phát sinh những vấn đề mới mà Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn chưa thể dự liệu hết được, trong tập quán ở Việt Nam cũng chưa từng có. 63 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Trong những trường hợp như vậy, Toà án và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyẻn phải vận dụng quy phạm của những đạo luật khác, vận dụng đường lối, chính sách của Nhà nưốc và tinh thẩn chung của pháp luật để xem xét, giải quyết tranh chấp. Việc áp dụng trong trường hợp này được gọi là: Áp dụng tương tự pháp luật. Tuy nhiên, trong áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tập quán phải bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là: Khỏng được trái với những nguyên tăc cơ bản của Bộ luật dân sự năm 2005 và tinh thần chung của pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. c. Các phương thức áp dụng tương tự pháp luật Nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện khi pháp luật dân sự không có quy định cụ thể, các nội dung bên trong quan hệ pháp luật đó cũng không có cam kết, thoả thuận cụ thể. Việc áp dụng nguyên tắc tương tự, áp dụng tập quán trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự thông thường được thực hiện theo các phương thức sau đây: * Áp dụng tươiìg tự điều luật Do tính chất đa dạng và đặc thù của các quan hệ do Luật dân sự điều chỉnh nên Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn kế thừa và tiếp tục quy định nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cẩu toà án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết nhưng tranh chấp này chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự năm 2005 thì phải áp dụng nguyên tắc tương tự điều luật để giải quyết. Việc áp dụng tương tự điều luật theo nguyên tắc trên đây phải có hai điều kiện: - Tranh chấp cụ thể trong quan hệ dân sự mà đương sự có yêu cầu là tranh chấp có tính chất dân sự nhung chưa được quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự năm 2005. - Bộ luật dân sự nãm 2005 hiện có điểu luật khác có nội dung tương tự mà có thể áp dụng cho trường hợp cụ thể đó để giải quyết tranh chấp. Vi dụ: Trong Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định trực tiếp vể vấn đé vay có cầm cố tài sản tại các cửa hàng cầm đồ, nhưng khi có tranh chấp xảy ra, dương sự có đơn yêu cầu Toà án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyển giải quyết thì các cơ quan này vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự điều luật như quy định tại Điều 341 Bộ luật dân sự năm 2005: “Việc cầm cố tài sản tại cứa hàng cầm đồ được thực hiện theo quy định tại các điêu từ Điểu 326 đến Điều 340 cùa Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác vé hoạt động của cửa hàng cầm đồ”. Khi áp dụng tuơng tự điểu luật phải bảo đàm yêu cầu: Quy dịnh tương tự của pháp luật không được trái với nhũng nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005. 64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn * Áp dụng tương tự pháp luật Trong thực tế cuộc sống có không ít những trường hợp Toà án và những cơ quan, tổ chức có thẩm quyên cũng không tìm được điểu luật trong Bộ luật dân sự năm 2005 có nội dung tương tự để áp dụng. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cầu Toà án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết nhưng tranh chấp này vẫn chưa được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 (vì nhiều nguyên nhân và lý do khác nhau) thì phải áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật để giải quyết. Việc áp dụng tương tự pháp luật theo nguyên tắc trên đây cũng phải có hai điêu kiện sau đây: - Bộ luật dân sự năm 2005 chưa có quy định tương tự nào vể quan hệ pháp luật dàn sự hoặc sự kiện đang có tranh chấp. - Hiện tại trong một số dạo luật, vãn bản pháp luật khác dưới luật hoặc được quy định trong một số ngành luật khác có nội dung tương tự mà có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp; xác nhận quyền, nghĩa vụ dàn sự cho một chủ thể trong trường hợp cụ thể đó. Trong trường hợp này người ta phải vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết tranh chấp. Nghĩa là, vận dụng tinh thẫn và các nguyên tấc cơ bản của Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị quyết sô' 45/2005/QH11 về việc thi hành Bộ luật dân sự của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7; quy định của những ngành luật khác hoặc các văn bản dưới luật có quy định để giải quyết. Ví dụ: Các tranh chấp về mồ mả; tranh chấp về sờ hữu nhà từ đường, nhà thờ của dòng họ, các thánh thất tôn giáo; các tranh chấp quyền sử dụng đất đai là ruộng họ (ruộng hương hoả, bao gồm cả hương hoả tổ truyền và hương hoả sơ lập); các hợp đồng hùn vốn (góp vốn)... Việc áp dụng tương tự pháp luật nhằm làm cho các quan hệ dân sự luôn được sự điều chỉnh và bảo đảm bằng pháp luật nhung cũng phải dáp ứng yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là: Không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 và tinh thần chung của pháp luật Việt Nam hiện hành. * Áp dụng tập quán Do tính chất đa dạng và sự phong phú trong quá trình cam kết, thoả thuận của các chủ thể trong giao lưu dân sự, nén Điểu 3 Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục kế thừa và ghi nhận nguyên tắc áp dụng tập quán như Điểu 14 Bộ luật dân sự nãm 1995. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cầu Toà án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét. Vì tranh chấp này chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự, nên không thể áp dụng nguyên tắc tương tự điều luật, tương tự pháp luật như đã trình bày phần trên đê giải quyết; nhung hiện có tập quán phổ thõng tiến bộ thường được các chủ thể tôn trọng và tự giác thực hiện thì 65 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn có thể vận dụng nguyên tắc áp dụng tập quán. Việc áp dụng theo nguyên tắc tập quán nhằm làm cho các quan hệ dân sự luôn luôn được pháp luật điều chinh, khi áp dụng cũng phải có hai điẻu kiên sau đây: - Tranh chấp dân sự cụ thể này chưa được quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự năm 2005 hoặc các văn bản pháp luật có liên quan. - Hiện tại có tập quán phổ thông, tiến bộ có nội dung tương tự được mọi người tự giác thực hiện mà có thể áp dụng cho trường hợp cụ thể đó để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: Trong việc cân, đong, đo, đếm... Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định trực tiếp về vấn đề này (vì các bên thường thoả thuận theo tập quán của địa phương) nếu có tranh chấp xảy ra thì áp dụng tập quán của địa phương nơi giao dịch dân sự được xác lập để giải quyết tranh chấp. Chẳng hạn: Trong đơn vị đếm có địa phương tính chục là 10 nhung có nơi tính chục là 12; cách phân chia thịt thú rừng săn bắn được của các phường sãn bắn theo tập quán của từng dân tộc cũng có sự khác biệt... Đây là vấn để phức tạp và khó khăn trong việc áp dụng để giải quyết các tranh chấp. Do đó, đoạn 2 khoản 1 Điều 265 Bộ luật dân sự năm 2005 khi quy định về nghĩa vụ tổn trọng ranh giới giữa các bất động sản đã ghi nhân: “Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giói đã tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp”; giải quyết các tranh chấp vể sờ hữu chung của cộng đồng theo Điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 (tài sản thuộc sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng đồng dân cư khác...) được hình thành theo tập quán cũng thường áp dụng tập quán để giải quyết. Việc áp dụng nguyên tắc tập quán trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự cũng phải bảo đảm yêu cẩu: Không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật dân sự nãm 2005. CÂU H Ỏ I TH ẢO LUẬN 1. Quy phạm pháp luật dân sạ là gì? Trình bày các đặc điểm chung về quy phạm pháp luật dân sự. 2. Phân tích và trình bày: Cấu tạo quy phạm pháp luật dân sự và các loại quy phạm pháp luật dân sự. 3. Áp dụng Luật dân sự là gì? Phân tích nguyên tắc áp dụng Luật dân sự. 4. Ap dụng tương tự trong Luật dân sự là gì? Phân tích các nguyên nhân điều kiện và phuơng thức áp dụng tương tự trong Luật dân sự. 5. Phân tích và trình bày nguyên nhân, điều kiện và nguyên tắc áp dụng tập quán khi giải quyết tranh chấp dân sự. 66 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn c. NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT DÂN sự VIỆT NAM Iễ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN V IỆT NAM TRONG VIỆC XÂY DỤNG VÀ PHÁ T TRIỂN p h á p l u ậ t d â n s ự Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam luôn có vai trò lãnh dạo một cách toàn diện và mọi mặt đối với đời sống xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, kể từ khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã lập nên nền dân chủ cộng hoà đầu tiên ở Đông Nam Á, thành lập Nhà nước công nông đầu tiên ở châu Á. Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, thực hiện thống nhất đất nước, tiến hành xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã được ghi nhận và khảng định tại Điều 4 Hiến pháp năm 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội”. Xây dụng một Nhà nước kiểu mới: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong các mục tiêu quan trọng trong cương lĩnh hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam. Việc thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vẫn đang và sẽ là nhiệm vụ chiến lược lâu dài mà Đảng cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo và thực hiện. Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ trên đây, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước Đảng cộng sản Việt Nam luôn chú ý xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vai trò lãnh đạo của Đấng đều được ghi nhận tại văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII đến Đại hội lần thứ IX và gần đây trong Nghị quyết và Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biéu toàn quốc của Đảng lần thứ X. Ngay sau khi giành được độc lập, trong nãm 1946 Đảng đã chỉ đạo Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà phải ban hành bản Hiến pháp mới để quản lý xã hội bằng pháp luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản phải ghi nhận những nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó có pháp luật dân sự nói riêng. Trong quá trình lãnh đạo nhà nước, quản lý xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam không ngừng quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mới để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Cùng với sự hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật dân sự cũng không ngừng được củng cố và hoàn thiện nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường định 67 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn huớng xã hội chủ nghĩa phát triển. Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi ngành luật theo chức nãng, nhiệm vụ đã thể chế hoá đường lối của Đảng trong từng lĩnh vực. Pháp luật dân sự cũng đã thực hiện việc cụ thể hoá các quan điêm của Đảng trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau bằng các văn bản pháp luật đê điêu chinh các quan hệ hàng hoá - tiền tệ phù hợp và ngày càng có hiệu quả cao hơn. Từ những năm 1980 sau khi sửa đổi Hiến pháp 1959, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật dân sự trong đời sống xã hội. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Hội đổng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 350/CP ngày 03/11/1980 thành lập Ban dự thảo Bộ luật dân sự do Bộ tư pháp chủ trì cùng một số cơ quan thành viên là Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam... Trong quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự năm 1995, một công việc mới mẻ, phức tạp, có quy mô lớn đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và chỉ đạo chu dáo. Nhận thức được tẩm quan trọng đó, Đảng đã có những quan điểm chi đạo xây dựng Bộ luật dân sự cụ thể để trên cơ sở dó, Ban soạn thảo Bộ luật dân sự có dược những “định hướng” cần thiết trong quá trình cụ thể hoá bằng các quy phạm pháp luật."’ Tính chất chỉ đạo đó được xác định cụ thể trong hệ thống pháp luật nuớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật dân sự có vị trí quan trọng. Đây là bộ luật không những có số lượng chương, diều lớn nhất mà còn là một đạo luật bao quát một lĩnh vực rộng lớn của sinh hoạt xã hội trong các các giao lưu dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể dân sự khác; làm cơ sở cho việc ban hành các vãn bản pháp luật khác. Xuất phát từ vị trí đặc thù đó của pháp luật dân sự, nên Bộ Chính trị đã chỉ đạo khi xây dựng Bộ luật dàn sự phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây: 1. Bộ luật dân sự phải quán triệt và thể chế hoá Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, các Nghị quyết của Đảng, cụ thê hoá Hiến pháp năm 1992, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Các quy định trong bộ luật phải bảo đảm tính dân tộc và tính thời đại. Trong quá trình soạn thảo, yêu cầu trên đây đã được cụ thể hoá trong các quy định cụ thổ là: Tăng cường bảo vệ hình thức sở hữu toàn dân, sờ hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội và đã được khẳng định đây là một trong những nền tảng quan trọng của đời sống xã hội. Theo quan điếm trên đây, Bộ luật dãn sự đã quy (1) Tư liệu từ m ục này sử dụng theo bài viết cùa Bộ truờng Bộ Tư pháp, Tiến sĩ N guyẻn Đ inh Lộc Trưởng Ban soạn thảo Bộ luật dãn sự năm 1995, Sách Bình luận khoa học Bộ luật dán s ự V iệ t N am Tập I, NXB Chính trị Q uốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 18 - 26. 68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn định các nguyên tắc cơ bản để các văn bản pháp luật khác có cơ sở pháp lý khi quy định cụ thể về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân; quy định cụ thể về phạm vi, trình tự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân trong nẻn kinh tế quốc dân. Bộ luật dân sự đã ghi nhận nguyên tắc bảo vệ triệt để sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Đối với các hình thức sở hữu khác trong đời sống dân sự, Bộ luật dân sự đã quy định các hình thức bảo vệ bằng phương pháp thích hợp theo thông lệ và tập quán phổ biến ở các nước. Bộ luật dân sự dã có quy định thời hiệu để công nhận quyền sở hữu là mười năm đối với động sản và ba mươi nãm đối với bất động sản. Quá thời hạn đó nếu tài sản thuộc các hình thức sở hữu khác, dù bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhung ngay tình, liên tục, công khai không có tranh chấp thì người chiếm hữu tài sản sẽ trờ thành chủ sở hữu. Tuy nhiên, các quy định trên đây sẽ được không áp dụng nếu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước. Quán triệt sự chỉ đạo trên đây, Bộ luật dân sự đã quy định một hành lang pháp lý thông thoáng, an toàn nhằm ổn định, thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao tài sản phải sử dụng có hiệu quả tài sản được giao vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể. Bộ luật dân sự cũng dã quán triệt nguyên tắc có bồi hoàn trong giao lưu dân sự phù hợp với cơ chế kinh tế trong điểu kiện nển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân; không quy định vể chế độ chuyển giao tài sản của Nhà nước không mất tiền như thời kỳ tập trung, bao cấp. Ngoài ra, chế định trách nhiệm bổi thường thiệt hại đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tập thể cũng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ, khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả các tài sản thuộc sờ hữu toàn dân được Nhà nước giao. Bộ luật dân sự đã có những quy định phù hợp đối với các loại chủ thể khác nhau nhằm tăng cường sự chủ động của chủ thể trong giao lun dân sự đối với mọi lĩnh vực của dời sống xã hội, trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Đã có những quy định thể hiện nguyên tắc truyền thống cùa pháp luật dân sự là: Các chủ thể dược tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Bộ luật dân sự đã ghi nhận nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc; nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực trong giao lưu dân sự; nguyên tắc bình đảng và công bằng trong hường lợi ích, trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dàn sự. Bộ luật dãn sự đã ghi nhận nguyên tắc quan trọng của pháp luật dân sự là: Trong các giao dịch dân sự của điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chù nghĩa dù có nhiéu thành phần kinh tế nhung vẫn phải bảo đảm nguyên tắc quản lý của Nhà nước. Các quy định trong từng chế định đã thể hiện mục tiêu xuycn suốt là: Xây dựng nén kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, cạnh 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn tranh lành mạnh, ổn định nhưng vẫn phải có sự quản lý của Nhà nước; không chấp nhận thị truờng tự do, vô tổ chức bằng việc quy định các điều kiện cụ thể, chi tiết đối vói một sô' giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, sở hữu và mua bán nhà, đăng ký, cho phép đối với một số giao dịch dân sự nhất định. Nhằm hạn chế những tiêu cực trong giao lưu dân sự, Bộ luật dân sự đã quy định chặt chẽ về lãi suất trong hợp dồng vay tài sản; khung giá mua, bán một số tài sản, khung giá thuê nhà... 2. Bộ luật dân sự phải góp phần bảo đảm tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư sống và làm việc theo pháp luật, vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Quán triệt yêu cầu trên đây, Bộ luật dân sự đã thể hiện trong các quy định cụ thể nhằm: Tạo cơ chế thông thoáng, an toàn trong giao lưu dân sự để mọi chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự yên tâm khi xác lập giao dịch dân sự, khi thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp dồng dân sự-với bản chất là tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận-được coi trọng và là công cụ pháp lý chủ yếu khi xác lập quan hệ dân sự, là căn cứ làm phát sinh quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể. Bộ luật dân sự đã có những quy định cụ thể nhằm khuyến khích hoạt động phát minh, sáng tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và bảo đảm quyền lợi về tinh thần, vật chất của người sáng tạo cũng như người sử dụng thành quả khoa học, kỹ thuật trong điều kiện công nghiộp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các quy định về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ từng bước tạo tiền đề để xây dựng nền kinh tế trí thức ở Việt Nam... Bộ luật dân sự đã ghi nhận và khuyến khích phát triển các loại quan hệ dân sự có tính chất dịch vụ trong điều kiện nền kinh tế thị trưòng bằng các hợp đổng dân sự: Cho thuê, thuê khoán tài sản; mượn tài sản; dịch vụ; vận chuyển hàng hoá, hành khách, gia công, gửi giữ tài sản, bảo hiểm, ủy quyền... Trong các quy định về thực hiện nghĩa vụ, Bộ luật dân sự dã tôn trọng quyền tự do cam kết, thoả thuận của các chủ thể, khuyến khích thực hiện nghĩa vụ một cách hợp tác, trung thực, thiện chí và chỉ được trả tiền thay cho việc thực hiện nghĩa vụ nếu được bên có quyển chấp thuận. Bộ luật dân sự đã có những quy định khuyến khích kinh tế hộ gia đình, tổ hợp tác-một thực tế hiện nay ở nước ta-bằng việc công nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể đặc thù (hạn chê) của quan hệ dân sự; định khung pháp lý và giới hạn các quyền nãng để các loại chủ thể này hoạt động có hiệu quả, phát huy được tính tích cực trong đời sống xã hội. 3. Bộ luật dân sự phải xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự nhằm tăng cường quản lý các sinh hoạt xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái của dân tộc ta. 70 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Thực hiện sự chì đạo này, qua các lẩn chỉnh lý và trong quá trình soạn thảo, Bộ luật dân sự năm 1995 đã thể hiện ngày càng cụ thể và đã quy định chính thức trong Bộ luật dân sự được thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá IX. Bộ luật dân sự năm 1995 đã ghi nhận nguyên tắc quan trọng và đặc thù của pháp luật dân sự là: Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Những quy định trong Phần thứ ba Bộ luật dân sự “Nghĩa vụ dân sự và hợp đổng dân sự” dều ghi nhận và đã quán triệt nguyên tắc quan trọng này trong nguyên lý chung về hợp đồng cũng như trong các hợp đổng dân sự thông dụng. Các quy định vể chuẩn mực pháp lý của Bộ luật dân sự chỉ được Toà án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyển áp dụng khi giải quyết tranh chấp nếu trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng các chủ thể không có cam kết, thoả thuận. Bộ luật dân sự đã có những quy dịnh mang tính nguyên tắc cơ bản bắt buộc các chủ thể phải tuân theo và các quy định có tính chất nghiêm cấm các chủ thể không được phép làm. Ngoài ra, Bộ luật dân sự còn quy định một số nội dung mang tính đặc thù của Việt Nam như: Giám hộ không chỉ là dại diện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người được giám hộ mà còn có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục những người được giám hộ. Giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu nếu việc xác lập, thực hiện do bị đe doạ, lừa dối, nhầm lản, giả tạo hoặc do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế nãng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Trong quá trình thực hiện quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự các bên phải thực hiện nghĩa vụ một cách hợp tác, trung thực, thiện chí, tin cậy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng thực hiện nghĩa vụ. Đối vói quan hệ dân sự thuê nhà quyền của người thuê nhà được bảo đảm và được ưu tiẽn mua nhà khi chủ nhà bán nhà đang cho thuê nếu người thuê đáp ứng được những yêu cẩu nhất định. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên trong các hợp đồng dân sự khi có sự kiện bất khả kháng hoặc nhũng trở ngại khách quan mà không phải do hành vi cố ý của chủ thể đó gây ra... Khi quy định những chuẩn mực pháp lý trong quan hệ thừa kế, Bộ luật dán sự đã coi nhũng người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, ngược đãi, hành hạ người để lại di sản; hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc để hưởng lợi... là trái đạo đức, thuần phong, mỹ tục sẽ bị tước quyền hường thừa kế. v ề người hưởng di sản thừa kế, Bộ luật dân sự quy định: Con nuôi vừa được thừa kế di sản của cha mẹ nuôi vừa được thừa kế di sản của cha mẹ đẻ; con riêng (của vợ hoặc chồng) cũng có thể được thừa kế di sản của cha kế, mẹ kế; người chết có thể để lại một phần di sản để dùng vào việc thờ cúng theo tập quán hoặc để tài sản di tặng cho người có quan hệ thân thiết... Đây là những quy định phù hợp với tập quán tiến bộ và có tính chất truyền thống cùa Việt Nam. 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn 4. Bộ luật dân sự phải góp phần hạn chế tranh chấp, tiêu cực trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh cac quan hệ xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định, phát huy tinh thần phấn khởi, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, môi người vì cộng đổng và cộng đồng vì mỗi người. Trước khi ban hành Bộ luật dàn sự các tranh chấp dân sự có xu hướng giạ tăng là do chúng ta chưa có các quy định pháp luật dân sự đầy đủ, rõ ràng để hướng dẫn cách xử sự cho các chủ thể. Khi giải quyết tranh chấp toà án cũng không có căn cứ pháp lý vững chắc để xác định quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể và xác định trách nhiệm dân sự trong các trường hợp cần thiết. Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành, kết hợp với việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện; đặc biệt là việc tăng cường hoạt động của các tổ chức hoà giải, các tranh chấp dân sự sẽ được giải quyết chủ yếu tại cơ sở, bảo đảm sự ổn định của sinh hoạt cộng đổng và đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Quán triệt sự chỉ đạo trên đây, Bộ luật dân sự đã có nhũng quy định trực tiếp liên quan đến việc bảo đảm yêu cẩu phát huy dân chủ, cõng bằng xã hội, tính cộng đồng như: Trong quan hệ dân sự các bèn đều bình đẳng, không dược lấy lý do khác biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội... đê đối xử không bình dắng với nhau; mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dãn sự như nhau; xác dịnh sờ hữu chung của cộng đồng là sở hữu chung không phân chia; trong trường hợp bẽn mạnh thế vể kinh tế đưa vào giao dịch dân sự những nội dung bất lợi cho bôn yếu thế vẻ kinh tế thì khi giải thích giao dịch dân sự phải giải thích theo hướng có lợi cho bên yếu thế; trong trường hợp hợp đồng theo mẫu nếu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đổng mẫu phải chịu bất lợi khi phải giải thích điều khoản đó; mọi cá nhân có hành vi gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người khác đều phải bồi thường. Chính những quy định phù hợp này đã góp phần giữ vững ổn định quan hệ dân sự, phát huy tinh thần phấn khởi, đoàn kết trong nội bộ nhân dân. 5. Bộ luật dân sự được ban hành phải là một bước quan trọng trong việc pháp điển hoá pháp luật dân sự của nước nhà theo hướng mở rộng đối tượng, phạm vi điéu chỉnh của bộ luật đối với các quan hệ dân sự; khắc phục tình trạng tản mạn, không đầy đủ của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực dân sự, nhàm phát huy vai trò, tác dụng của pháp luật dân sự trong việc đẩy mạnh giao lưu dân sự, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng, thi hành pháp luật. Quá trình soạn thảo Bộ luật dãn sự nãm 1995, các quy định đã kế thừa và phát triển những vãn bản pháp luật dân sự đã được ban hành và thực hiện nhưng vân còn phù hợp với tình hình hiện tại và trong tương lai. Quán triệt sự chì đạo trẽn đây, Ban soạn tháo đã chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự và kinh nghiệm xét xử dân sự cùa ngành Toà án nhân dân để quy định trong bộ luật. Do đó, các quy định của Bộ luật dân sự đã bao quát hầu hết các vấn đề của quan hệ dân sự trong đời sống xã hội. 72 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Ngoài các quy định trong các chế định dân sự truyền thống, các quy định liên quan đến quyền tác giả, quyén sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ, các quy định hiện hành về quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ mang tính chất dân sự đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện giao lun quốc tế ngày càng mở rộng. Bước đầu các quy định chuyên biệt này đã được pháp điển hoá và quy định tương đối có hệ thống trong Bộ luật dân sự nãm 1995. Phức tạp và khó khăn nhất là các quy định liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng đất. Có thể thấy rằng, đây là những quy định có tính chất đặc thù nhất của Bộ luật dân sự năm 1995. Bộ luật dân sự đã có các quy định vẻ điều kiện chuyển nhượng, chuyển đổi quyền sử dụng đất, cho thuê quyền sử dụng đất và quy định chặt chẽ các điều kiện, thú tục... Các quy định này đã được pháp điển hoá và quy định tương đối có hệ thống trong Bộ luật dân sự; khắc phục tình trạng tản mạn, không đầy đủ của pháp luật hiện hành, nhằm phát huy vai trò, tác dụng của pháp luật dân sự; thúc đẩy giao lưu dân sự đối với các quan hệ liên quan đến quyền sử dụng đất phát triển theo hướng lành mạnh và ổn định. Thực hiện sự chỉ đạo trên dây, trong thời gian soạn thảo Bộ luật dân sự, Ban soạn thảo dã nhiều lần trình Ọuốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét các bản dự thảo. Tháng 12/1994 Đảng đoàn Quốc hội đã trình và xin ý kiến Bộ Chính trị về một số vấn đề cơ bản của dự án Bộ luật dân sụ năm 1995. Các ý kiến chỉ đạo đã được Ban soạn thảo Bộ luật dân sự triển khai thực hiện nghiêm túc và thể hiện trong các chế định cụ thể. Sau khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành và áp dụng, trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vục, Đảng vẫn ý thức được việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (phẩn phương hướng, nhiệm vụ) vẫn định hướng: “Trong giai đoạn 2001-2005 tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật... để bảo đảm các thành phẩn kinh tế đểu được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh”.1'1 So với thời kỳ tập trung, bao cấp việc ban hành Bộ luật dân sự nãm 1995 đã là một bước phát triển vượt bậc trong thành tựu lập pháp. Lần đầu tiên một bộ luật có hiệu lực pháp lý cao, khá hệ thống đã được ban hành và thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng tại Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, các quy định trong bộ luật đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Thực hiện các định hướng về hoàn thiện hệ thống pháp luật được trình bày tại Đại hội Đáng lần thứ IX, Đáng lại tiếp lục chí đạo các cơ quan chức năng tổ chức điều tra, khảo sát, (1) Xem: Văn kiện D ại hội Đ áng thời kỳ dổi mới, NXB Chính trị Q uốc gia, Hà N ội, 2005, Ir. 831. 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình áp dụng pháp luật để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng. Các quy định của Bộ luật dân sự nãm 1995 tuy có nhiều tiến bộ nhưng đã có những quy định không còn phù hợp vói tình hình mói, chưa đáp ứng được yêu cầu thiết thực của nền kinh tế thị trường và đời sống xã hội. Nhằm sửa đổi Bộ luật dân sự năm 1995, cơ quan có thẩm quyền đã điều tra, khảo sát tình hình thực thi các quy định trên thực tế, để tiến hành sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp hoặc những quy định còn mang tính chất chung chung; loại bỏ các quy định mang tính chất hành chính trong quan hệ dân sự; sửa đổi những bất cập, mâu thuân liên quan đến các đạo luật khác được ban hành sau này như quy định vẻ quyển sử dụng đất của cá nhân, tổ chức và việc chuyển quyền sử dụng dất theo Luật đất đai năm 2003; các quy định liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp; sửa đổi để bảo đảm tính tương thích với các điều ước quốc tế, thông lệ, tập quán quốc tế, nhất là các quy định về hợp đồng, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Trước thực trạng này, Đảng tiếp tục chỉ đạo cần phải bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện kịp thời các quy định không còn phù hợp, không phát huy được tác dụng tích cực được quy định trong Bộ luật dân sự nãm 1995. Quan điểm chỉ đạo việc sửa đổi Bộ luật dàn sự cụ thể là: Thứ nhất: Quán triệt kịp thời và thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (nãm 2001), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa IX (nãm 2004) về thúc đẩy việc xây dựng đổng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, “hình thành đồng bộ các loại thị trường vốn, bất động sản, lao động, khoa học và công nghệ"; đồng thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 vể “cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sờ hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15 Hiến pháp năm 1992) và “các thành phán kinh tế đểu là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đảng và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 16 Hiến pháp năm 1992). Thứ hai: Sửa đổi Bộ luật dân sự theo huớng Bộ luật dân sự là đạo luật chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội được xác lập trên nguyên tắc bình đảng, thỏa thuận, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể. Các nguyên tắc, quy định chung của Bộ luật dân sự là cơ sở để xây dựng các chế định pháp lý điều chinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, kinh tế-thương mại, lao động. Thứ ba: Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn áp dụng Bộ luật dãn sự, nhất là thực tiễn xét xử của Tòa án đế thấy những mật tích cực cũng như hạn chế của Bộ luật dân sự, từ đó, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp với cuộc sốne. đã 74 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn được thực tế kiểm nghiệm đổng thời, tiếp tục pháp điển hóa pháp luật dân sự để không phải ban hành nhiểu văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự. Thứ tư: Hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự; tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự quyết định của các chủ thể; tôn trọng giao dịch hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và tạo điểu kiện về mặt thủ tục (trong, trường hợp cẩn thiết) để các giao dịch đó được thực hiện thuận lợi, không bị ách tắc, bảo đảm thủ tục đơn giản, dễ thực hiện, không gây phiền hà cho người dân. Thứ năm: Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các điểu ước quốc tế và thông lệ quốc tế phù hợp, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.0’ Từ sự chỉ đạo có tính chất định hướng này, Ban soạn thảo Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung được thành lập và đã trình các cơ quan có thẩm quyền nhiều dự thảo trong quá trình hoàn thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 đã khắc phục được những hạn chế vể nội dung, kỹ thuật lập pháp; đã sửa đổi, bổ sung những quy định sát hợp, khả thi và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật dối với các quan hệ dân sự trong điều kiện nẻn kinh tế thị trường. Qua đó có thể thấy rằng, Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ quan tâm đến các vấn để lớn khác của đời sống xã hội mà còn có sự chỉ đạo cụ thể, có tính chất định hướng rõ ràng đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự. Trong quá trình soạn thảo, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật dân sự, Đảng đã có những chỉ đạo sát thực và có vai trò quan trọng khi tổ chức soạn thảo và thông qua hai Bộ luật dân sự của nước nhà. II. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT DÂN s ự V IỆT NAM Luật dân sự, một ngành luật với chức năng truyền thống là điều chỉnh các quan hệ tài sản có tính chất hàng hoá-tiển tệ và một sô' quan hệ nhân thân nhằm “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phẩn với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điểu 15 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001)... có nhiệm vụ quan trọng trong hệ thống pháp luật. (1) Xem Ihêm sách: N hững nội dung m ới cùa Bộ luật dán sự năm 2005 cùa NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005. 75 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Pháp luật dân sự với tính chất là công cụ, phương tiện pháp lý điểu tiết các quan hệ xã hội, nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị mà Hiến pháp khi thê chế hoẩ đường lối của Đảng đã ghi nhận. Vì vậy, nhiệm vụ của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng không thé lách rời nhiệm của cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ của pháp luật dân sự được quy định ngay tại Điẻu 1 Bộ luật dân sự năm 2005: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động... Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyẻn, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình dẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cẩu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc dẩy sự phát triển kinh tế - xã hội". Pháp luật dân sự bao gồm: Bộ luật dân sự, một hệ thống các luật có liên quan, các vãn bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành do cơ quan nhà nước có Ihẩm quyẻn ban hành. Theo tinh thần cùa Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bán pháp luật có liên quan, pháp luật dân sự Việt Nam có nhũng nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Trước hết, pháp luật dân sự phải thể chế hoá bằng phấp luật và thực hiện một cách có hiệu quả những định hướng chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam hiện tại và trong tương lai. Khơi dậy mọi tiềm năng đang tiềm tàng, tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy ý chí tự lực, tự cường trong sản xuất, kinh doanh như đã được khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 của Đảng cộng sản Việt Nam: “Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trờ lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước”. - Thứ hai là, pháp luật dân sự phải bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Pháp luật dân sự cần quy định các quyền, lợi ích của các chủ thể và giới hạn các quyền năng của chủ thể trong giao lưu dân sự. Thông qua những quy định về quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong pháp luật dân sự mà các chủ thể biết được những quyền của mình; giới hạn quyên đó đến đâu để chú thể có thể tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyén báo vệ Irong nhũng trường hợp cần thiết. Những quy định này còn giúp các chú thể nhận thức được giới hạn các quyền dân sự của mình, đê khi thực hiện khóng xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điểu 10 Bộ luật dân sự nãm 2005). Vì vậy, theo nguyên tắc chung, pháp luật dân sự chí bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cùa chủ thể khi có căn cứ pháp lý và có cơ sờ khoa học. Điều đó có nahĩa là: Không phải bất cứ quyền, lợi ích nào khi được chủ thể cùa quan hệ pháp luật dãn sự xác lập theo ý chí của mình cũng đều được Luật dân sự công nhận và bảo vệ. 76 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn - Thứ ba là, Pháp luật dân sự có nhiệm vụ bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Tính chất bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ dân sự là đặc điểm quan trọng của pháp luật dân sự. Đãy là cơ sở pháp lý và cũng là tiên đé tạo điều kiện cho các chủ thể khi quan hệ pháp luật dân sự, dể các chủ thể được bình đẳng khi thực hiện quyền dân sự hay nghĩa vụ dân sự. Hiện nay, trong cơ chế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, việc ghi nhận quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các hình thức sở hữu khác nhau là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điểu kiện cho các thành phần kinh tế, các cá nhân, tổ chức cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng. Bình đẳng cũng chính là nội dung được ghi nhận trong các vãn bản pháp luật dân sự đang có hiệu lực áp dụng và là một nguyên tắc có tính truyền thống của pháp luật dân sự. Bình đẳng giữa các chủ thể đuợc thể hiện là bình đẳng trong việc thực hiện quyền dân sự và gánh chịu nghĩa vụ dân sự. Đặc trưng của trách nhiệm dân sự là: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền” (Điều 308 Bộ luật dân sự nãm 2005). Pháp luật dân sự bảo đảm sự an toàn pháp lý bằng cách quy định những hành lang pháp lý, những giói hạn mà trong những hành lang đó, giới hạn đó các chủ thể được tự do hành động. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VUI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (trong mục đường lối và chiến lược phát triển kinh tế) đã ghi nhận: “Tạo môi trường pháp lý kinh doanh thuận lợi vể chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nuớc, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết vói nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”.01 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khảng định: “Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thé, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn dầu tư nước ngoài... bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.(2> Những quyén và lợi ích hợp pháp được xác lập bởi các hành vi của các chủ thể trong hành lang đó, giới hạn đó luôn được coi là hợp pháp, bình đẳng, được pháp luật dân sự bảo đảm và còng nhận. (1) Xem: Văn kiện Đ ại hội đại biếu toàn quốc lấn thứ IX, NXB C hính trị quốc gia, H à Nội, nãm 2001, tr. 166. (2) X em : V ăn kiện Đ ại h ộ i Đ áng toàn quốc làn th ứ X, NXB C hính trị quốc gia, H à N ội, 2006, tr. 27 - 28. 77 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn - T h ứ tư là, pháp luật dân sự với chức năng điều chỉnh các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân phải góp phần tạo điéu kiện pháp lý, bảo đảm sự ổn định các nhu cầu vật chất, tinh thần cua các chủ thể trong quan hệ dân sự và thúc đẩy nển kinh tế - xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực. Cùng với việc mở rộng, bảo đảm quyền dân sự của các chủ pháp luật dân sự cần quy định rõ các quyền tài sản, các quyền nhân thân của cá nhân và tổ chức; quy định những biện pháp, cách thức dể các chủ thể có thể thực hiện các quyền dó của mình; tạo tiển để pháp lý để quyền dân sự khách quan trờ thành quyền dân sự cụ thể của một chủ thể nhất định. Thông qua các quy định cụ thể, pháp luật dân sự còn có nhiệm vụ giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa với phương châm: “Sống và làm việc theo pháp luật"; nâng cao trình độ dân trí về pháp luật trong nhân dân; giáo dục các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự tuân thủ các quy định của pháp luật; dồng thời phải tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyển, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong đời sống dân sự. Nhiệm vụ của pháp luật dân sự có tính thống nhất, được thể hiện không những trong Bộ luật dân sự năm 2005 mà còn trong các vãn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vục dân sự của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành trước đây và hiện nay. Với chức năng là công cụ pháp lý điểu tiết các quan hệ xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, vì vậy, khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi thì nhiệm vụ của pháp luật dân sự cũng thay đổi cho phù hợp với điểu kiện và hoàn cảnh mới. Ngoài những nhiệm vụ chủ yếu được xác định trên đây, pháp luật dân sự còn có nhiệm vụ riêng sau đây: + Khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn thiếu đồng bộ của các văn bản pháp luật dân sự trước đây. Hoàn thiện hoặc bổ sung các vấn đề mới phát sinh trong dời sống xã hội góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay cũng nhu trong những năm tiếp theo khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực. + Xây dựng, cụ thể hoá hoàn thiện hơn nữa các chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của từng loại chủ thể trong các giao dịch dân sự khác nhau. Bảo vệ một cách kịp thời các quyển và lợi ích hợp pháp của cá nhân, các chủ thể khác khi có sự xâm hại. Bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá. Bảo đảm cho các quan hệ dân sự được ổn định, lành mạnh và an toàn trong một hành lang pháp luật có giá trị pháp lý cao, nhằm ổn định các quan hệ dân sự trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều thành phần. + Các tiêu chuẩn hoá, các khái niệm, phạm trù pháp lý trong Luật dân sự phái được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích cụ thể và phải được nghiên cứu một cách thường xuyên, nghiêm túc và có hệ thống để bổ sung những 78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn nội dung thiếu cụ thể, chưa được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005; góp phẩn điều chinh một cách có hiệu quả các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân của đời sống xã hội. Nhiệm vụ này càng có ý nghĩa quan trọng khi Việt Nam đã hội nhập sâu nền kinh tế khu vực, tham gia quá trình toàn cầu hoá và đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). + Pháp luật dân sự (bao gồm Bộ luật dân sự và các vãn bản dưới luật) là cơ sờ pháp lý cần thiết bảo đảm cho công tác xét xử, giải quyết tranh chấp của Toà án nhân dân, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thuận tiện, nhanh chóng; bảo đảm sự công minh, khách quan, công bàng, dân chủ và dúng pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. III. CÁC NGUYÊN TẮC c ơ BẢN CỦA LUẬT DÂN s ự 1. Khái niệm nguyên tác Nguyên tắc của một ngành luật nói chung là tư tưởng chỉ đạo, là “khung pháp lý” có tác dụng định hướng mà ngành luật đó bắt buộc phải tuân theo. Nguyên tắc của Luật dân sự chính là phương châm chỉ đạo và có tính chất định hướng cho các chủ thể khi vận dụng các quy phạm pháp luật dân sự; đặc biêt là đối vói với việc áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Các nguyên tắc của Luật dân sự được ghi nhận trên cơ sở nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và căn cứ vào những đặc điểm đặc trưng vể đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự. Bộ luật dân sự năm 2005 đã kế thừa, bổ sung, hoàn thiện (gồm cả kỹ thuật lập pháp) các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và dành riêng toàn bộ chương II (Phần thứ nhất) để quy định: “Những nguyên tắc cơ bản". Trong số những nguyên tắc này có những nguyên tắc đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật dân sự trước đây (Pháp lệnh về hợp đồng dân sự, Pháp lệnh về nhà ở...) nhưng cũng có nguyên tắc lần đầu tiên được quy định. Điều cần chú ý là: Các nguyên tắc cơ bản quy định tại chương II Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn được áp dụng chung cho tất cả các chế định và tất cả các loại giao dịch dân sự được quy định trong bộ luật. Trong'giao lưu dân sự các chủ thể khi xác lập, tham gia bất kỳ một giao dịch dân sự nào đều phải tuân theo các quy định của các nguyên tắc cơ bản này. Đặc điểm chung của các nguyên tắc quy định trong pháp luật dân sự là: Ngoài những nguyên tắc chung nhất, cơ bản nhất được quy định tại chương II, Phần thứ nhất thì trong mỗi một chế định cụ thể, riêng biệt của Bộ luật dân sự năm 2005 còn có nguyên tắc đặc thù, được áp dụng riêng cho chế định đó (thường thể hiện ngay tại các chương I với tên gọi: Những quy định chung). 79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn