🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay Ebooks Nhóm Zalo . TRẦN BÁ ĐỆ (Chủ biên) CUNG - TS. NGUYỄN XUÂN MINH rs. PHẠM THỊ TUYẾT CD NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI _________ KHOA LỊCH sử_________ PGS. TS. TRẦN BÁ ĐỆ (Chủ biên) PGS. TS. LÊ CUNG - TS. NGUYÊN XUÂN MINH TS. PHẠM THỊ TUYẾT GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT ISAM TỪ 1945 ĐẾN NAY NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DUC VIÊT NAM Jlfei MÁi đầu Nội dung giáo trình bao quát giai đoạn lịch sử từ năm 1945 (sau thăng lợi Cách mạng tháng Tám) đến năm 2010, trải qua cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm (1945-1975) chống Pháp, chống Mỹ và 35 năm từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975 xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã giành được những thắng lợi lịch sử, tạo ra bước ngoặt: Tiếp sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 là các thắng lợi kháng chiến chống Pháp năm 1954, kháng chiến chống Mỹ năm 1975 và công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986. Sách cung cấp những kiến thức lịch sử cơ bản, hệ thống, hiện đại, đổi mới, sát với chương trình Đại học Sư phạm, cung cấp cho sinh viên Đại học Sư phạm khối lượng kiến thức eần và đủ, trang bị phương pháp vận dụng kiến thức đã học vào giảng dạy tốt chương trình trung học phổ thông. Trên cơ sở nội dung kiến thức, sách bồi dưỡng cho sinh viên lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự hào dân tộc, tinh thần lao động xây dựng đất nước, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, tình hữu nghị giữa các dân tộc. Giáo trình là tài liệu học tập chính, nhưng không thể thay thế cho bài giảng, mà phải kết họp với bài giảng. Sinh viên cần đọc giáo trình trước khi nghe giảng để chủ động và dễ dàng tiếp thu bài, sau đó nghiên cứu kỹ giáo trình, đọc tài liệu tham khảo để bổ sung, nam chắc, hiểu sâu bài giảng. Sách được cấu trúc thành 3 phần ứng với 3 thời kỳ lịch sử, gồm 12 chương: PHÀN M Ộ T: Việt Nam từ 1945 đến 1954, gồm 4 chương, trình bày thời kỳ tiếp sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ cách mạng nước ta thực hiện đồng, thời hai nhiệm vụ chiến lược, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến bắt đầu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ (từ 23/9/1945), rồi mờ rộng trong cả nước (từ 19/12/1946) nhằm chống thực 4 (Siáo ỉùnÁ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NTAY dân Pháp xâm lược và từ 1950 chống cả sự can thiệp của đá quốc Mỹ. bảo vệ chính quyền, giành và bảo vệ độc lập dân tộc; kiến quốc nhằm xây dựne chính quyền, chế độ dân chủ nhân dân; phục vụ kháng chiến (thực hiện nghĩa vụ hậu phương); phục vụ dân sinh (đưa lại quyền lợi cho nhân dân); tạo mầm mống và tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh kết thúc. Bôn chương của Phần một ứng với 4 giai đoạn của thời kỳ lịch sử từ 1945 đến 1954 là: Chương 1. Việt Nam trong hơn năm đầu sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám (9/1945 - 12/1946) đề cập đến tình hình Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám 1945; bước đầu côns cuộc xây dựng chính quyền, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền, giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Chương 2. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950) đề cập đến âm mưu, hành động chiến tranh của Pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đường lối kháng chiến của Đảng; cuộc chiến đấu ở Thủ đô và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 mờ đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, đồng thời với những hoạt động chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài; cuộc chiến đấu của quân dân ta chống lại cuộc tiến công Việt Bắc của địch; âm mưu và thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp, chủ trương và hoạt động đẩy mạnh kháng chiến của ta sau chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Chương 3. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1950 - 1953) đề cập đến hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến, cuộc tiến công địch ở biên giới phía Bắc của quân ta: sự can thiệp sâu của Mỹ vào chiến tranh xâm lược Đông Dương, âm mưu đây mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp - Mỹ sau thất bại ớ biên giới; Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đề ra chù trương đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và hoạt động nhằm phát triển hậu phương kháng chiến về mọi mặt với hoạt động mở chiến dịch giữ vừng và phát triển quyền chủ động đánh địch trên chiến trường. Sữi nói đầu 5 Chương 4. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi (1953 - 1954) đề cập đến âm mưu mới của Pháp - Mỹ ờ Đông Dương thể hiện trong Ke hoạch Nava, chủ trương và cuộc tiên công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 của ta phá Kế hoạch Nava của địch; Hội nghị và Hiệp định Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. PHÀN HAI: Việt Nam từ 1954 đến 1975, gồm 5 chương, trình bày thời kỳ tiếp theo cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm (1945 - 1975), thời kỳ nước ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải hai lẩn đương đâu chông lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quôc Mỹ nhằm bảo vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu ở miền Nam. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam phát triển lên chiến tranh cách mạng chóng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ nhàm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Hai miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ chung, nhằm mục tiêu chung chong Mỹ, cứu nước với vị trí và vai trò riêng: miền Bẳc là hậu phương có vai trò quyết định nhất, miền Nam là tiền tuyến có vai trò quyêl định trực tiêp. Năm chương của Phần hai ứng với 5 giai đoạn của thời kỳ lịch sử từ 1954 đến 1975. Chương 5. Miền Bắc đấu tranh chống đế quốc M ỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm cưỡng ép đồng bào di CU", hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất, miền Nam đấu tranh chống chế độ M ỹ - Diệm, gìn giữ hoà bình (1954 - 1960). Nội dung chương đề cập đến tình hình hai miền của Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, từ đó, đặt ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Bắc là đấu tranh chống Mỹ - Diệm cưỡng ép đồng bào di cư, hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 - 1957), tiếp đó tiến hành cải tạo quan hệ sàn xuất, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958 - 1960) và chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước nhàm củng cố chính quyền, tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế (1954 - 1960); chính sách của Mỹ - nói đầu 7 quốc Mỹ. Miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ và thực hiện nghĩa vụ hậu phương kháng chiến và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào - Campuchia. Chương 9. M iền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá, củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cho tiền tuyến. Miền Nam hoàn toàn giải phóng (1973 - 1975). Nội dung chương đề cập đến cục diện cuộc chiến tranh Việt Nam, so sánh lực lượng giữa ta và địch, âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ - Nguỵ sau Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam; miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá, củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam; miền Nam đấu tranh chống địch "Bình định - lấn chiếm", tạo thế và lực của cách mạng tiến tới giải phóng hoàn toàn bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với ba đòn tiến công chiến lược Tây Nguyên, Huế - Đà Nằng, Sài Gòn, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. PHẦN BA: Việt Nam từ 1975 đến nay, gồm 3 chương, trình bày thời kỳ tiếp sau thắng lợi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975, đất nước độc lập và thống nhất, cách mạng chuyển giai đoạn sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ sau đất nước thống nhất về mặt Nhà nước (tháng 7/1976) trải qua hai thời kỳ: 10 năm đầu (1976 - 1986) đi lên chủ nghĩa xã hội đầy khó khăn thử thách và từ năm 1986 đến nay, chủ nghĩa xã hội giành được thắng lợi lịch sử trên đường đổi mới. Ba chương của Phần ba ứng với 3 giai đoạn của thời kỳ lịch sử từ 1975 đến 2010: Chương 10. Việt Nam trong hơn năm đầu sau thắng lợi kháng chiến chống Mỹy cứu nước (1975 - 1976) đề cập đến tình hình hai miền Bắc - Nam sau thắng lợi kháng chiến chống Mỹ năm 1975 có nhiều thuận lợi và cũng gặp không ít khó khăn thử thách; nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là ổn định tình hình miền Nam, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá ở hai miền đất nước, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. 8 !8iắo tùnÁ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Chương 11. Việt Nam bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1986) đề cập đến sự tất yếu của cách mạng Việt Nam sau Đại thắng mùa Xuân 1975 chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980 và 1981-1985) do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ rv (tháng 12/1976) và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982) của Đảng đề ra; đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía bắc Tổ quốc (1975-1979), từ đó nêu những chuyển biến và thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội từ 1976 đến 1986. Chương 12. Việt Nam trên đường đồi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2010) đề cập đến hoàn cảnh Việt Nam và thể giới, từ đó đòi hỏi phải đổi mới đất nước, phải nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi mới đất nước đi lên chù nghĩa xã hội chính thức từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh tại các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ v u (tháng 6/1991), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/\996), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) và tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1/2011) của Đảng. Quá trình đất nước thực hiện đường lối đôi mới từ 1986 đến 2010 trải qua 3 giai đoạn: bước đầu của công cuộc đổi mới 1986 - 1995, từ 1996 - 2005 đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từ 2006,... đẩy mạnh toàn diện công cuộc đồi mới đất nước. Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay được viết đến hết nãm 2010, nhưng quá trình lịch sử Việt Nam cận - hiện đại không dừng lại đây. Lịch sử là quá trình diễn ra liên tục. Công cuộc đổi mới đất nước vẫn tiếp tục. Đất nước không ngừng vươn lên. Vì vậy, những nhà nghiên cứu, những người học lịch sử phải luôn nắm bắt tình hình, cả những sự kiện lịch sử đất nước và thế giới vừa diễn ra và đang diễn ra để có quan điểm và hành động đúng. Pkầnm ội _____ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐEN 1954 • Chương 1 VIỆT NAM TRONG HƠN NĂM ĐAU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 12/ 1946) I - TÌN H H ÌN H V IỆT NAM SAU CH IÉN TRANH TH É G IỚ I TH Ứ HAI VÀ CÁ CH M ẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước ở Trung, Đông Âu được giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ một nước (Liên Xô), đã trở thành hệ thống thế giới gồm nhiều nước và là chồ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, cuộc Chiến tranh thế giới đã tàn phá nặng nề các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước công nghiệp phát triển, trong đó Liên Xô phải gánh chịu tổn thất lớn nhất. Cùng với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nước châu Á, châu Phi cũng ngày một dâng cao. Nhân dân các nước Lào, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Philippin, Malaixia,... đứng lên đấu tranh chống thực dân Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan,... giành độc lập. Lực lượng cách mạng Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã giải phóng được một phần lục địa phía Bắc với gần 100 triệu dân (trong tổng số 450 triệu dân), nhưng lực lượng phản cách mạng Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu vẫn còn khá mạnh (1,6 triệu quân) và cuộc nội chiến giữa hai lực lượng bẳt đầu diễn ra quyết liệt. 10 <ôũío tùnÁ LỊCH sử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Ở châu Âu, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ờ một số nước, như Pháp, Ý,... giai cấp công nhân và các tâng lớp nhân dân lao động đáu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm. ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Tuy chưa mạnh mẽ và liên tục để trở thành cao trào, nhưng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản những năm 1945 - 1946 có bước phát triẻn mới, từ mục đích kinh tế tiến tới mục đích chính trị. Sau Chiến tranh, trong khi nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu bị tàn phá nặng nề, thì Mỹ trở thành một nước mạnh nhất về kinh tế (chiếm 52% tổng sản phẩm xã hội của thế giới) và nắm độc quyền vũ khí hạt nhân. Với sức mạnh về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và quân sự, đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Thực hiện mưu đồ trên, Mỹ đưa ra kế hoạch Mácsan (Marshall) để khống chế các nước đồng minh, triển khai chiến lược toàn cầu "Ngăn chặn' chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với việc tăng cường chạy đua vũ trang, cuộc ''Chiến tranh lạnh" do Mỹ gây ra nhàm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai là ba dòng thác cách mạng cùng tiến công vào chủ nghĩa đế quốc từ nhiều phía, với những mức độ khác nhau. Đế quốc Mỹ củng ra sức vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ nghĩa chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản. Do vậy, mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên là hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng các lực lượng đấu tranh cho độc lập, dân tộc, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội với một bên là phe đế quốc do Mỹ cầm đầu, nổi lên ngày càng sâu sắc. Tất cả tình hình trên đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của nhân dân Việt Nam. Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do. Nhân dân Việt Nam trở thành ngựời làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và bước đầu được hường nhữns quyền lợi do cách mạng đem lại. Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng của nhữns •?Aẩn mậù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 11 quyền lợi ấy, một lòng gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính là nguồn sức mạnh vô tận giúp cho Nhà nước cách mạng còn đang trong thời kỳ trứng nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Sau Cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh chóng. Các Hội Cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ chức thống nhất trong cả nước. Nhiều Hội Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm những tầng lớp yêu nước còn đứng ngoài Mặt trận, như Công thương Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc, Đoàn Hướng đạo Cứu quốc, Đoàn sinh viên Cứu quốc,... Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân rộng rãi, giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân. Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, các địa phương đều tích cực xây dựng lực lượng. Chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị giải phóng quân và các đội tự vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng. Dù trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến, nhưng cán bộ và chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang đều có tinh thần chiến đấu dũng cảm, là lực lượng đáng tin cậy trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Trải qua 15 năm đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930 - 1945), truyền thống đoàn kết, bất khuất của dân tộc Việt Nam càng được phát huy cao độ. Đảng Cộng sản Đông Dương ngày càng trưởng thành, bắt rễ sâu vào quần chúng và thêm dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo. Sau khi đất nước được độc lập, Đảng kịp thời mở rộng đội ngũ, đào tạo cán bộ, tăng cường lãnh đạo mọi mặt hoạt động, chuẩn bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh m ới,... Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, Nhà nước cách mạng Việt Nam, ngay sau khi ra đời, đã phải đứng trước một tình thế hết sức hiểm nghèo. Nền kinh tế nước Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, thiên tai thường xuyên xảy ra. Trận lụt lớn hồi tháng 8/1945 làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, 1/3 diện tích canh tác bị hư hại nặng. Sự thiệt hại do trận lụt này gây ra ước tính khoảng 2.000 triệu đồng, tương đương khoảng 3 triệu tạ gạo (theo giá lúc đó). Ba tỉnh vùng Bắc 12 Vide tứnk LỊCH sử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Trung Bộ là Thanh Hoá. Nghệ An, Hà Tĩnh cũng bị mất mùa trên khoáng một nửa diện tích. Sau lụt là hạn hán kéo dài làm cho 50% diện tích ruộng đất ở Bắc Bộ không cày cấy được. Gác ngành kinh tế bị đình đôn nghiêm trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp chưa đi vào hoạt động. Hàng vạn công nhân thất nghiệp. Riêng ngành khai thác than, năm 1940 có 39.500 công nhân, khai thác được 2.500.000 tấn, đến năm 1945 chỉ còn lại 4.000 công nhân với sản lượng khai thác là 231.000 tấn(l). Việc buôn bán với nước ngoài hẩu như bị đình trệ. Hàng hoá trên thị trường khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện trong khi hậu quả nạn đói lớn do Nhật - Pháp gây ra từ cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Đời sống nhân dân bị đe doạ nghiêm trọng. Nen tài chính của Nhà nước cách mạng trong buổi đầu hết sức trống rỗng. Ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, quá nửa là tiền rách. Các khoản thu từ thuế giảm sút. Thuế quan là một nguồn thu chính, chiếm 3/4 ngân sách Đông Dương, giờ đây sụt hẳn xuống. Một số chính sách thuế mới do Chính phủ ban hành nhằm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân (bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài, thuế xe tay, xe đạp, miễn thuế điền thổ cho những vùng bị ngập lụt và giảm 20% trong toàn quốc,...) cũng làm cho nguôn thu ngân sách giảm xuống rất nhiều. Trong khi nguồn thu quá ít òi không thể đáp ứng được nhu cầu chi lớn thì Nhà nước lại chưa nấm được Ngân hàng Đông Dương. Bên cạnh đó, khi kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Trung Hoa Dân quốc lại tung ra trên thị trường giấy bạc Quan kim và Quốc tệ đã mất giá trị, càng làm cho tình hình tài chính và thương mại thêm phức tạp. Cùng với khó khăn về kinh tế, tài chính, chế độ thực dân - phong kiến để lại một di sản văn hoá hết sức lạc hậu. Thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù hơn là trường học. Vì thế, hơn 90% dân số cả nước mù chữ. Trước năm 1945, cả nước Việt Nam chỉ có 737 trường tiểu học với khoảng 623.000 học sinh, 65 trường cao đẳng tiểu học với 16.700 học sinh và chỉ có 3 trường phổ thông trung học với 652 học sinh. Bên cạnh nạn thất học là (l). Ban Chi đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (1945 - 1955), Hà Nội, 2004, tr.36. &Aần mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 13 các tệ nạn xã hội, như cờ bạc, nghiện hút,... tồn tại rất phổ biến. Bệnh dịch hoành hành ở nhiều nơi. Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới ra đời, chưa có kinh nghiệm quản lý. Ở một số nơi, chính quyền chưa nắm trong tay những người cách mạng. Quân đội thường trực đang trong quá trình xây dựng, chưa được huấn luyện bao nhiêu. Phần lớn cán bộ chỉ huy chưa có hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chiến đấu. Trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, chủ yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu, một ít súng trường, súng máy. Mặt trận dân tộc thống nhất tuy phát triển rộng rãi, nhưng chưa được củng cố vững chắc. Kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ, lôi kéo,... Do vậy, vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo đang là những vấn đề lớn được đặt ra rất bức thiết lúc đó. Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc mới thành lập là nạn ngoại xâm. Hơn 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc đã ồ ạt kéo vào khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16. Núp dưới danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, chúng nuôi dã tâm: Tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một chính quyền tay sai. Bởi vậy, khi vào miền Bắc Việt Nam, quân Trung Hoa Dân quốc kéo theo các tổ chức phản cách mạng: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) do Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần cầm đầu. Quân Trung Hoa Dân quốc buộc Việt Nam thực hiện chế độ trưng thu lương thực để mỗi tháng phải cung cấp cho chúng 10.000 tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải chịu hậu quả nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử đất nước. Dựa vào quân Trung Hoa Dân quốc, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá chính quyền cách mạng. Chúng tiến hành nhiều hoạt động vu cáo, nói xấu Việt Minh, ngang nhiên đòi gạt các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi Chính phủ. Chúng còn gây ra các vụ giết người, cướp của, bắt cóc cán bộ, cướp chính quyền ở một số địa phương (Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái,...). Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn. Thực dân Pháp ngày càng lộ rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam. Ngày 17/8/1945, Uỷ 14 <8i0o tútx LỊCH SỬ VIẾT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY ban Quốc phòng Pháp quyết định thành lập lực lượng viễn chinh Pháp ờ Viễn Đông (sau đổi là đạo quân viễn chinh Pháp ớ Viễn Đông; đưa sang Đông Dương. Tướng Lơcle (Leclerc) được cử làm Tổng chi huy lực lượng lục quân Pháp ở Viễn Đông. Đô đốc Đácgiăngliơ (D ’ Argenlieu) được cữ làm Cao uỷ kiêm Tổng Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông. Ưỷ ban Hành động giải phóng Đông Dương được cải tổ thành Ưỷ ban Đông Dương do Đờ Gôn (De Gaulle) làm Chủ tịch. Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi, nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước. Thực dân Pháp không còn chỗ đứng ờ Đông Dương nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu đặt lại ách thống trị thực dân kiểu cũ trên bán đảo này. Lơcle đã vạch ra một kế hoạch chiếm lại Đông Dương gồm 5 điểm như sau: 1) Dựa vào quân Anh để làm chủ phía Nam vĩ tuyến 16. 2) Thả dù nhân viên dân sự và lực lượng quân sự xuống miền Bắc Việt Nam. 3) Xác nhận với Đồng minh việc duy trì chủ quyền cùa Pháp ờ Đône Dương. 4) Từng bước giành lại những vùng do Trang Hoa Dân quốc kiêm soát. 5) Tiến hành các cuộc thương thuyết với người bản xứ. Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 13 đến ngày 22/8/1945, một số tên quan thuộc địa cũ, trong đó có Métxme (Messmer) mang danh nghĩa uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ nhảy dù xuống miền Bắc, liên lạc với tàn binh, tù binh, Pháp kiều và bọn tay sai nham lập lại bộ máy cai trị. Ngày 22/8/1945, Xanhtoni (Sainteny) cùng với một số sĩ quan Pháp từ Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) theo phái đoàn đầu tiên của cơ quan tình báo chiến lược (OSS) của Mỹ (do Thiếu tá Patti cầm đầu) đến Hà Nội. Cao uỷ Đácgiăngliơ và Tư lệnh tối cao các lực lượng Pháp Lơcle đã được lệnh của Đờ Gôn phải tìm cách khôi phục lại chủ quyền của Pháp trên các lãnh thổ liên bang Đóng Dương mà không được cam kết bất cứ điều gì đối với phía Việt Minh. Vào thời điểm này, khu vực Bắc Đông Dương, kể từ vĩ tuyến 16 trờ ra có gẩn 30.000 người Pháp, trong đó có 20.000 người đã bị quân Nhật bắt tập trung tại Hà Nội từ ngày 9/3/1945. Xêđi (Cédille) được cử làm uỳ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Đông Dương nhảy dù xuống Hớn Quản, được quân Nhật đưa về Sài Gòn. Hai chiếc tàu Pháp chạy trốn Nhật sau cuộc đảo chính 9/3 1945. &Aần mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 15 từ vùng biển Quảng Đông trở lại Đông Bắc Việt Nam, đổ quân lên đảo Côtô và đảo Vạn Hoa. Những toán tàn binh Pháp ở Trung Lào, Hạ Lào được tập hợp lại, chiếm đóng một số cao điểm trên các trục đường số 7, 8, 9, 12 và dọc biên giới Việt - Lào, làm bàn đạp chuẩn bị tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam. Thực hiện chủ trương cùa Trung ương Đảng và Chính phủ, Mặt trận Việt Minh cùng chính quyền các cấp lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang đề cao cảnh giác, tích cực đánh địch, bảo vệ quê hương. Ờ miền Bắc, cuối tháng 8/1945, những tên Pháp nhảy dù xuống các nơi đều bị quân và dân địa phương chặn đánh. Các đơn vị giải phóng quân Hải Phòng, Quảng Yên chặn đánh các tàu Crayxắc (Crayssac) và Phơrênôn (Frenohls), tiêu diệt địch ở Vạn Hoa và Côtô. Ở Bắc Trung Bộ, giải phóng quân Nghệ An và Hà Tĩnh chặn đánh địch trên biên giới Việt - Lào tại các vị trí: Mường Xén (đường số 7), Napê (đường số 8), Banaphào (đường số 12). Trên đường số 9, giải phóng quân Quảng Trị, Thừa Thiên phối hợp với bộ đội Lào đánh địch ở Pha Lan, Mường Phin, Đồng Hen, không cho chúng tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tại miền Nam, Xêđi nhân danh uỷ viên Cộng hoà Pháp ở miền Nam Đông Dương đã đàm phán với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ trên cơ sở nội dung bản Tuyên bố ngày 24/3/1945 về vấn để Đông Dương của Đờ Gôn, mà không đề cập đến nền độc lập của Việt Nam, nên không đạt được kết quả. Như vậy, âm mưu của thực dân Pháp muốn nhanh chóng thiết lập lại nền thống trị ở Đông Dương đã không thực hiện được. Đầu tháng 9/1945, Đácgiăngliơ và Lơcle phải điều chỉnh kế hoạch: Dựa vào quân Anh gấp rút chiếm Nam Bộ, lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm phần còn lại của Đông Dương, lập chính phù "Nam Kỳ tự trị", thành lập Liên bang Đông Dương. Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực lượng, vừa khiêu khích Việt Nam để tạo cớ cho quân Đồng minh can thiệp. Ngày 2/9/1945, trong lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày Độc lập, một số lính Pháp núp trong Nhà thờ Đức Bà bắn lén vào đám đồng, làm 47 người chết, nhiều người bị thương. Ngày 4/9/1945, Grêxi (Gracey), tư lệnh Sư đoàn 20 quân đội Hoàng gia Anh, Trưởng phái bộ Đồng minh, lúc đó đang đóng tại Căngđi, lấy cớ trật tự Sài Gòn không đảm bào, đã hạ lệnh 16 Wide lùnA LỊCH sử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY cho Tư lệnh quân đội Nhật Bản ở Đông Nam Á đưa 7 tiểu đoàn tứ các tinh Nam Bộ về Sài Gòn. Hành động khiêu khích của quân Pháp đã gây nên ỉàn sóng công phẫn trong các tầng lớp nhân dân. Đêm 4/9, vào ỉúc 22 giờ, công nhân Sài Gòn tổ chức cuộc mít tinh trước trụ sở Tông Công đoàn Nam Bộ, tuyên thệ trước bàn thờ Tô quôc: "Quyết cùng anh em lao động không nản chí trước khó khăn, không lùi bước trước nguy hiếm để cùng đồng bào bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn non sông' 1 Ngày 6/9/1945, phái bộ Anh gồm 30 sĩ quan, do một đại tá cầm đầu vừa đến Sài Gòn, đã ra lệnh cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố, đòi các lực lượng vũ trang cách mạng nộp vũ khí. Ngày 12/9, một lừ đoàn thuộc Sư đoàn 20 quân đội Hoàng gia Anh đến miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và kéo theo sau là một đại đội thuộc Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa số 5 của Pháp. Tại Sài Gòn, quân Anh ngang nhiên tước vũ khí của quân Nhật trang bị cho tù binh Pháp (bị Nhật bắt giam từ sau ngày 9/3/1945), dùng quân Pháp thay quân Nhật canh gác một số vị trí,... Những đơn vị nhỏ bộ binh và xe bọc thép của Pháp được tăng thêm 1.400 lính do Nhật giam giữ được Anh thả ra và trang bị lại. Ngày 14/9, Grêxi ra thông cáo cấm nhân dân Việt Nam mang vũ khí và biểu tình. Ngày 15/9, y ra lệnh tước vũ khí của lực lượng vũ trang Việt Nam. Ngày 17/9, Grêxi lại ra lệnh giới nghiêm, đình bản tất cà báo chí ở Nam Bộ. Ngày 19/9, Xêđi tổ chức họp báo, tuyên bố: "Việt Minh không đại diện cho nhân dân Việt Nam và bất lực trong việc giữ gìn trật tự. Pháp có nhiệm vụ lập lại trật tự, sau đó sẽ thành lập chính phủ phù hợp với tuyên bố 24/3”<2). Ngày 20/9, phái bộ Anh tuyên bố giữ quyền kiểm soát Sài (1). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Tập I, Nxb QĐND, Hà Nội, 1994, .52, 53. (2). Ngày 24/3/1945, Tồng thống Đờ Gôn ra bàn tuyên bố nêu rõ chính sách thực dán kiểu cũ của Pháp đối với Đông Dương: "Đông Dương sẽ được thành lập theo kiểu liên bang gôm 5 xứ khúc nhau (Sam Ký Trung Kỳ, Rắc Kỳ, Cao Miên, Ai Lao). Liên bang Đông Dương sẽ cùng với nước Pháp x á \ dụng thành khôi Liên hiệp Pháp mà quyên đôi ngoại sẽ do Pháp đại diện. Đông Dương sẽ có một chính phủ liên bang, đứng đâu là một viên toàn quyến là í’ỏm những bộ trưởng chịu trách nhiệm trước viên toàn quyên đó. Chính phù liên ban ĩ sẽ la người trọng tài gom 5 xứ. Bên cạnh viên toàn quyển có một hội đồng nhà nước trong đủ người Đông Dương chiêm nhiêu nhát là 50% só ghê,. 9Âdk mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 17 Gòn, đòi thả những người Pháp đang bị giam giữ, đòi đặt công an của Việt Nam dưới quyền chỉ huy của họ và buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút hết lực lượng vũ trang ra khỏi thành phố,... Rõ ràng là, với danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Vào thời điểm này, trên đất nước Việt Nam đã có hơn 30 vạn quân các nước Anh, Pháp, Trung Hoa Dân quốc, Nhật Bản cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy. Lợi dụng tình hình trên, các thế lực phản động ở trong nước bắt đầu nổi dậy hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Các phần tử tay sai của thực dân Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Tâm,... mưu toan ngóc đầu dậy, chuẩn bị đón chủ cũ trở lại. Nguyễn Tấn Cường - một tên mật thám cũ, đứng ra lập "Đảng Nam Kỳ Nguyễn Văn Tỵ lập "Đảng Đông Dương tự trị", thực hiện âm mưu của thực dân Pháp chia cắt Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam thống nhất, thành lập "Nam Kỳ quốc". Các tổ chức chính trị phản động thân Nhật, như Đại Việt cách mạng đảng, Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt duy dân đảng... do Trần Trọng Kim, Trần Văn An, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm,... cầm đầu, cũng ráo riết hoạt động. Một số phần tử phản động trong các đạo Thiên Chúa, Cao Đài, Hoà Hảo,... vẫn lợi dụng thần quyền và lòng sùng đạo của tín đồ để hoạt động chia rẽ, chống phá cách mạng. Các phần tử Tơrốtxkít - dưới chiêu bài cách mạng triệt để, tung ra những khẩu hiệu quá khích: Đòi tăng lương ngay cho công nhân, đòi tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân, đòi đánh đổ tất cả các đế quốc cùng một lúc,... Chúng hô hào liên kết thợ thuyền và dân cày, đấu tranh chống tư sản và địa chủ, nhằm phá hoại mặt trận đoàn kết dân tộc,... Tất cả những khó khăn kể trên trực tiếp đe doạ đến sự tồn tại của Nhà nước Cộng hoà non trẻ. Vận mệnh Tổ quốc lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho toàn dân Việt Nam là phải xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cách mạng. 2-Gn.SVN19l5.NM 18 (8iáolùnA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY I I - BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG VÀ CỦNG CÓ C H ÍN H QƯYÈN CÁCH M ẠNG Ngay sau khi trở về Thủ đô Hà Nội, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng chế độ mới và đối phó với các lực lượng ngoại xâm. Ngày 28/8/1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một số đảng viên cộng sản, kể cả Tổng Bí thư Trường Chinh trong Uỷ ban Dân tộc giải phóng đã tình nguyện rút lui, nhường chỗ cho một số nhân sĩ yêu nước, tiến bộ tham gia Chính phủ. Thành phần Chính phủ lâm thời gồm có 13 Bộ và 15 vị Bộ trưởng, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, v ề nguyên tắc, Chính phủ lâm thời tiếp thu bộ máy nhà nước cũ, đổi mới một số bộ phận, còn lại thì chuyển sang phục vụ chính quyền mới. Chính quyền các cấp từ Trung ương xuống đến huyện, xã, quân đội và cảnh sát được thay đổi cho phù hợp với chính thể mới là nền dân chủ cộng hoà. Ngày 3/10/1945, Nhà nước ban bố sắc lệnh số 14/SL bãi bỏ tất cả các cơ quan thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương và sáp nhập vào các Bộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bộ máy các ngành được sắp xếp lại, nhưng hầu hết các nhân viên vẫn tiếp tục công việc như trước. Ở các địa phương, bộ máy chính quyền cũ bị xoá bò, Uỷ ban Nhân dân cách mạng là bộ máy chính quyền mới với lãnh đạo mới. Hầu hết các cơ quan, các ngành đều giữ nguyên, hoạt động dưới sự điều hành của Uỷ ban Nhân dân cách mạng. Ngoài những cơ sở đã có sằn của hệ thống Nhà nước cũ, sau Cách mạng tháng Tám, yêu cầu xây dựng chế độ mói đòi hỏi phải có những tồ chức mới. ở Trung ương có các Uỷ ban Quỹ Độc lập, Tuần lễ Vàng giải quyết vấn đề tài chính; Tiểu ban Canh nông lo việc khai hoang, phục hoá; Uỷ ban Mùa đông binh sĩ lo giải quyết vấn đề quân nhu cho bộ đội; Ưỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch phát triển đất nước,... Đe bảo vệ và phát huy thành quả Cách mạng tháng Tám, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Chính phủ xác định là Tổng tuyển cử. thành lập Chính phủ chính thức, xây dựng hệ thống chính quyền hợp pháp từ &kần mệù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 19 Trung ương đến địa phương. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đông Chính phù (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Người nói: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ to chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ pho thông đầu phiếu. Tát cả công dân trai, gái mười tám tuổi đểu có quyển ứng cử và bâu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,. Chỉ thị "Kháng chiến, kiến quốc'' (25/11/1945) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đề ra 4 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phàn, cải thiện đời sống cho nhân dân. Trong 4 nhiệm vụ ấy, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền dân chủ nhân dân. 1. về chính trị - quân sự Ngày 8/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh số 14 về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội: "Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ ỉ 8 tuổi trở lên, đều có quyền tuyến cử và ímg cử, trìr nhĩmg người đã bị tước công quyền và những người trí óc không bình thường"(2). Mọi công việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp do các lực lượng đế quốc và phản động trong nước ráo riết hoạt động chống phá. Các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách đòi phải lập lại Chính phủ, đòi xoá bỏ chế độ Uỷ ban Nhân dân,... Những kẻ cầm đầu Việt Quốc đòi giữ 1/3 số ghế trong Quốc hội và đòi giữ các Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục, Bộ Thanh niên. Họ yêu cầu Việt Minh cũng chi được giữ 1/3 số ghế trong Quốc hội. Mặt trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời một mặt kiên quyết bác bò các yêu cầu phi lý của Việt Quốc, Việt Cách; mặt khác kiên trì và khôn khéo tiến hành các cuộc hoà giải, thương lượng, nhân nhượng nhằm tạo ra bầu không khí ổn định để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử thành công. (1). Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945 - 1946). Xuất bàn lần thứ 2. Nxb. CTQG, Hà Nội 2000, tr. 10. (2). Việt Nam dân quốc công báo. số 1 - 29/9/1945. 20 Vido lừnA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐÉNI NAY Đại diện của Mặt trận Việt Minh đã tiên hành nhiêu cuộc tiép xúc VƠI đại diện của Việt Quôc, Việt Cách và đã đi tới những cam két có tính nguyên tắc trên tinh thần hợp tác, đoàn kết nhàm thực hiện quyên độc lập, ủng hộ Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Các bên cũng thoả thuận châm dứt sự công kích lẫn nhau, mờ rộng Chính phủ lâm thời, chấp nhận đê 70 ghẻ trong Quốc hội không qua bầu cử cho Việt Quốc, Việt Cáchn). Ngày 1/1/1946, Chính phủ lâm thời cải tổ thành Chính phú liên hiệp lâm thời, trong đó có thêm một số thành viên của Việt Quốc, Việt Cách. Chính phủ liên hiệp lâm thời và Việt Minh tiếp tục triển khai công việc chuẩn bị Tổng tuyển cử với phương châm thực hiện đại đoàn kết thống nhất dân tộc. Ngày 6/1/1946, toàn dân Việt Nam, trong tư thế người làm chủ. nô nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử. Trong điều kiện thù trong, giặc ngoài ra sức chống phá, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thực sự là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt để xác lập quyền làm chủ của nhân dân. C ử tri Sài G òn bỏ phiếu bầu Q u ốc hội khoá I Tại miền Nam<:), trừ tình Tây Ninh không tổ chức được bầu cừ do chiến sự quá ác liệt, nhân dân các địa phương phải vượt qua bom đạn địch đẻ đi (1). Viện Sử học: Lịch sứ Việt Nam (9/1945 - 1950), Hà Nội, 2005, tr.44. (2). Theo Sắc lệnh số 51/SL (17/10/1945), Chính phủ lâm thời quy đinh thể lệ cuộc Tong tuyến cừ và ấn định đến ngày 23/12/1945 sẽ mờ cuộc Tông tuyên cứ trong cả nước. \h ã m tạo điều kiện cho việc chuân bị Tông tuyên cử chu đáo hơn nữa và nhât là đẻ các ứng cừ viên có điều kiện nộp đơn và vận động tranh cử, ngày 18/12/1945, Chù tịch Hô Ch: Minh ký Sắc lệnh so 76/SL hoãn cuộc Tổng tuyển cừ đến ngày 6/1/1946. ơ miên Nam \à rr.ột số địa phương do khôns nhặn được lệnh hoãn, nên vẫn bâu cừ vào ngày 23/12/1945. VU n. mệù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 21 bỏ phiếu. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử. Tại miền Bắc, ở những nơi có quân Trung Hoa Dân quốc chiêm đóng, các đảng phái phản động đe doạ, khủng bố những người đi bỏ phiếu; có nơi chúng xông vào cướp hòm phiếu. Nhưng bất chấp sự đe doạ và hành động phá hoại của địch, tất cả cử tri vẫn hăng hái đi làm nghĩa vụ công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tính chung trong cả nước, 89% cử tri đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu(l) đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp ba miền Bắc - Trung - Nam tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội là một đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của bọn đế quốc cùng tay sai. Thắng lợi này góp phần nâng cao uy tín và địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ trong mồi người dân đối với Nhà nước cách mạng. Thắng lợi của cuộc bầu cử còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử, tình hình chính trị trong nước có những diễn biến phức tạp. Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam ngày càng lan rộng. Cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam gặp nhiều khó khăn. Ở miền Bắc, quân Pháp từ Vân Nam kéo vào Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên. Lợi dụng tình hình này, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách gây sức ép với chính quyền cách mạng, đòi giải tán Chính phủ liên hiệp lâm thời và thành lập ngay Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức mà không chờ Quốc hội họp. Thực dân Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc đã thoả hiệp với nhau để quân Pháp thay thế quân Trung Hoa Dân quốc Bắc Việt Nam. Trong bối cảnh đó, ngày 2/3/1946, gần 300 đại biểu Quốc hội đã họp kỳ thứ nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội. Do tình thế đặc biệt cần phải nhân nhượng, Quốc hội biểu quyết tán thành đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mờ rộng thêm 70 đại biểu của Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử, theo như sự thoả thuận giữa Việt Minh, Việt Quốc và Việt Cách ngày 23/12/1945. (l). Trong số này, có 57% thuộc các đáng phái, 43% không đàng phái; 87% là đại biểu côno nhàn, nông dân, chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu phụ nữ; 34 đại biểu dân tộc ít người. 22 Viao lùnÁ LỊCH sứ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Quốc hội khẳng định thành tích của Chính phủ lâm thời trong thời gian đầu xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đồng thời. Quôc hội quyết định thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 10 Bộ. do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch. Kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội khoá I đã bầu Ban Thường trực Quốc hội (gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết), do Nguvễn Văn Tố làm Trưởng ban, Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ (Việt Quốc; làm Phó ban; c ố vấn đoàn do cố vấn tối cao Nguyễn Vĩnh Thuỵ đứng đẩu: Kháng chiến uỷ viên Hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch. Hội nghị còn thông qua Ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Bộ máy Nhà nước ở Trung ương được hoàn thiện và củng cố một bước, có đầy đủ uy tín, hiệu lực để lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến, kiến quốc, thực hiện mọi chức năng đối nội và đối ngoại. Ngày 4/3/1946, tại kỳ họp đầu tiên, Chính phủ liên hiệp kháng chiến đã quyết định các chính sách đối nội và đối ngoại: "về nội trị: ì ) Các đảng phái chặt chẽ đoàn kết, ngôn luận, hành động nhắt trí đế phụng sự quốc gia. 2) Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiểu dân ngoại quôc được hoàn toàn bảo đảm. 3) Hành chính và quân đội phải thong nhất về tài chính, kinh té tập trung. 4) Mọi lực lượng cùa quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiên kiên quôc và toàn thê nhân dân, nhài là những ngươi làm việc công phải tuân theo kỳ luật. về ngoại giao: ]) Đôi với các nước Đông minh, nước Việt Nam bao giờ cùng chủ tncong thân thiện, nhât là đói với Trung Hoa. 2) Đôi với các quôc gia nhược tiêu đang chiền đâu giành độc láp thì dân tộc Việt Nam rât biêu đông tình. dPAẩn mậù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 23 3) Đối với dân Pháp, dân Việt Nam không thù hằn gì, nhưng cực lực phản đổi chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ Việt Nam chi nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc dẫn tộc tự quyết của Hiến chương Đại Tây Dương". Sau 8 tháng hoạt động của Quốc hội và Chính phủ Kháng chiến, kể từ cuộc họp lần thứ nhất của Quốc hội (3/1946), dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vượt qua được nhiều khó khăn và tiến bước vững chắc. Trong hoàn cảnh ấy, Quốc hội họp kỳ thứ hai, từ ngày 28/10 đến 9/11/1946. Tham dự cuộc họp có 209 đại biểu. Một số đại biểu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ không ra họp được. Hầu hết các đại biểu của Việt Quốc, Việt Cách đã chạy theo quân Tưởng, hoặc bị cơ quan an ninh quốc gia trừng trị vì tội phản bội Tổ quốc. Quốc hội đã thảo luận các báo cáo của Chính phủ, thông qua các nghị quyết về nội trị, ngoại giao; thông qua Dự án Luật Lao động, Hiến pháp, lập Chính phủ mới và bầu Ban Thường trực Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội uỷ nhiệm đứng ra thành lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài, không phân biệt đảng phái. Người tuyên bố trước Quốc hội: "Lần này là lần thứ hai Quỏc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thông nhất thì bất kỳ Quốc hội uỳ quyển cho tôi hay cho ai củng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi xin tuyên bo trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới răng: Hô Chí Minh không phải là kè tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài. Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Tôi xin tuyên bổ trước Quốc hội, tnỉớc quốc dân, tnrớc thế giói: Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam. Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết,... một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích, trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thong nhất của nước nhà'l(2>. (1). Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (9/1945 - 1950), sđd. tr.49. (2). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4, sđd., tr.374, 375. 24 (Ỗiáo lùrx LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐÉN NAY Ngày 3/11/1946, Quốc hội biểu quyết tán thành Chính phu men do Hô Chí Minh thành lập, gồm có 14 thành viên. Hồ Chí Minh làm Chu tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngày 9/11/1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó là "bàn Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà, Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhung nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giói: nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thê giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyên tự do cùa một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tỉnh thân đoàn kêĩ chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp"11'. Hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân ở các địa phương củng được củng cố và kiện toàn từng bước. Trong một thời gian ngắn sau ngày Tông tuyển cử, hầu hết các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ đều tô chức bầu cử Hội đồng Nhân dân hai cấp xã và tỉnh. Ưỷ ban Hành chính các cấp cũng được thành lập thay cho Uỷ ban Nhân dân lâm thời. Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp là cuộc vận động chính trị rộng lớn, cuộc biểu dương sức mạnh và ý chí sẳt đá của khối đoàn kết toàn dân, đã khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ đất nước, nghĩa vụ đối với Tổ quốc của mồi công dân và toàn dân. Thang lợi cuộc Tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước cách mạng thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kỳ mới, đồng thời góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế. Đe tăng cường sức mạnh của Nhà nước cách mạng, vấn đề mơ rộng khối đoàn kết toàn dân được đặt ra cấp bách. Các tổ chức Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh được xây dựng rộng khấp, tập hợp thêm nhiều táng lóp xã hội tham gia. Tuy nhiên, lúc này trong nhân dân vẫn có một số tầns lớp và cá nhân yêu nước còn đứng ngoài Mặt trận Việt Minh. (l). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. sđd., tr.383. &Adn vnộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 25 Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 29/5/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Hội chủ trương đoàn kêt tât cả các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu nước, không phân biệt giai câp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc,... đê làm cho nước Việt Nam Độc lập - Thông nhất - Dân chủ - Phú cường. Một số đoàn thể quần chúng lần lượt ra đời: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (27/5/1946), Đảng Xã hội Việt Nam (11/8/1946), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1946). Mặt trận Việt Minh cũng trở thành một thành viên của Hội Liên Việt. Đứng trước âm mưu và hành động xâm lược của bè lũ đế quốc, Đảng rất coi trọng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và củng cố quốc phòng. Khắp nơi trên cả nước, một phong trào luyện tập quân sự, tìm sắm vũ khí diễn ra sôi nổi. Các đội tự vệ.ra đòi từ trong phong trào toàn dân chuẩn bị khởi nghĩa và là lực lượng xung kích của toàn dân nổi dậy giành chính quyền thời kỳ Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nay được củng cố và mở rộng, đã trở thành công cụ sac bén để bảo vệ chính quyền cách mạng ở cơ sở. Các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân thành lập trên cơ sờ thống nhất Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân (5/1945), đã được chấn chỉnh, mở rộng và nay đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945)(1). Đây là đội quân chính quy của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Các đơn vị bảo an binh bị giải thể. Ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Ngành Quân giới và tháng 10/1945, thành lập các chiến khu(2). Tháng 12/1945, Uỷ ban Kháng chiến miền Nam ra đời. Tháng 1/1946, Quân uỷ Trung ương được thành lập để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo công tác quân sự. Tất cả các khu phố, thôn, xã đều thành lập các đơn vị tự vệ và tự vệ chiến đấu. Trên cơ sờ đó, những chiến sĩ có giác ngộ chính trị, có tinh thần chiến đấu được tuyển chọn để bổ sung (l). Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh đồi Vệ quốc đoàn thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. '2). Chiến khu I gồm các tinh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Bắc Kạn. Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, VTnh Yên, Phúc Yên. Chiến khu n gồm các tinh Lai Châu, Sơn La, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định. Ninh Bình. Chiến khu in gồm các tinh Hưng Yên, Hài Duơng, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Hài Ninh, Hài Phòng. Chiên khu rv gôm các tinh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quàng Bình. Quàng Trị. Thừa Thiên. Chiên khu V gôm các tinh Quàng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Kon Tum. Gia Lai. Chiến khu VI sồm các tinh Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đấc Lắc. Lâm Viên, Đồng Nai Thượns. Hà Nội là Khu đặc biệt trực thuộc Trung ương. 26 Viáo lùnk LỊCH sử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY cho các đơn vị bộ đội tập trung. Dù vũ khí trang bị thô sơ và thiêu thôn, kinh nghiệm chiến đấu còn ít, nhưng đây là đội quân cách mạng cùa công - nông, có sức chiến đấu rất cao. 2. về kinh tế - tài chính Một trong những nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chính quyên cách mạng sau khi thành lập là phải nhanh chóng đẩy lùi nạn đói, từng bước ôn định và cải thiện đời sống nhân dân. Giải quyết nạn đói không chi có ý nghĩa về kinh tế, mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị rất sâu sắc. Trong phiên họp đầu tiên (3/9/1945), Hội đồng Chính phú lâm thời đã bàn biện pháp chống đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị nhiều biện pháp (tô chức lạc quyên, lập hũ gạo cứu đói,...) và kêu gọi đồng bào cả nước nhường com sẻ áo. Người nói: "Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đên kè đói khô, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đê nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành triỉớc: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bừa, môi tháng nhịn 3 bừa. Đem gạo đó (moi bừa một bơ) để cứu dân nghèo"*n. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người, nhân dân cả nước lập "Hũ gạo cứu đói”, tổ chức ''Ngày đồng tâm" để góp gạo cứu đói. Truyền thống đồng cam cộng khổ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong đồng bào được phát huy cao độ. Đe dồn lương thực cho việc cứu đói, Chính phủ ban hành các biện pháp hành chính, như cấm dùng lương thực vào việc nấu rượu, xoá bỏ mọi cản trở trong lưu thông lương thực giữa các vùng trong nước, cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo, thành lập Uỷ ban toi cao tiếp tế và cứu tế của Chính phu. Việc chuyên chở gạo từ các tinh ở Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ được thực hiện khẩn trương. Chì tính trong 3 tháng cuối năm 1945, đã có khoảne 700 tấn gạo được chuyển ra Bắc Bộ, kịp đem đến các địa phương đế cứu đói. Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia san xuất. Khẩu hiệu "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất (1). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. sđd.. tr.26 Vkẩn mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 27 nữa!", ''Không để một tấc đất bỏ hoang", "Tấc đất tấc vàng",... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Khắp nơi, từ đồng bằng đến miền núi, đều dấy lên phong trào thi đua sản xuất. Chính phủ đã lập ra ư ỷ ban Trung ương phụ trách vấn đề sản xuất. Tờ báo "Tấc đất'' ra đời nhằm tuyên truyên, vận động và hướng dân nhân dân thực hiện tăng gia sản xuât. Diện tích ruộng đất hoang, hoá được khai khẩn và nhanh chóng đưa vào trồng trọt. Toàn bộ đê đập ở 9 tỉnh bị lụt phá vỡ (Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình) được bồi đắp lại. Giai cấp công nhân, các đom vị bộ đội, cán bộ, viên chức nhà nước, học sinh, trí thức, công thương gia,... tự nguyện tổ chức thành từng đoàn, từng đội đi về nông thôn giúp nông dân đắp đê phòng lụt, khai hoang, phục hoá. Để tạo điều kiện cho nông dân đẩy mạnh sản xuất, chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng công theo nguyên tắc công bằng và dân chủ; ra thông tư giảm tô 25%; miễn thuế ruộng đất đối với các vùng bị lụt và vùng có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ cùng các loại ruộng đất hoang, hoá mới được khai phá gieo trồng; ra sắc lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. Ban Khuyến nông cũng được thành lập ở Trung ương và địa phương để tổ chức giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về giống, vốn, nông cụ, sức kéo; hướng dẫn nông dân về kỹ thuật canh tác. Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và có mặt phát triển hơn trước. Năm 1945, dù bị trận lụt lớn, nhưng diện tích lúa mùa ở Bắc Bộ vẫn đạt được 890.000 ha, sản lượng đạt 1.115.000 tấn (năm 1943 là 952.730 tấn và năm 1944 là 832.000 tấn). Diện tích trồng ngô năm 1946 đạt 212.850 ha, sản lượng đạt 217.020 tấn (năm 1939 là 119.000 ha và sản lượng đạt 140.000 tấn); diện tích trồng khoai lang đạt 90.000 ha, sản lượng đạt 330.000 tấn (năm 1939 mới có 68.000 ha và sản lượng là 156.000 tấn). Với số lượng lương thực và hoa màu đó, nhân dân các tỉnh Bắc Bộ không những vượt qua được nạn đói, mà còn duy trì được sức lao động để bảo đảm sản xuất vụ chiêm năm 1946. Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền 28 f8ido íùnA LỊCH s ử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín cua Đang và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong quần chúng. Nhân dân càng thêm tin tường, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Ngoài trọng tâm là sàn xuất nông nghiệp đê khẳc phục nạn đói trước mắt và giải quyết vấn đề lương thực một cách ổn định, Chính phú chú trọng khôi phục sản xuất, kinh doanh trong các ngành kinh tế công thưcms nghiệp, giao thông vận tải,... Một mặt, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhât đê cho các thương gia yêu nước người Việt Nam phát triển sản xuât kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước vẫn để cho các nhà tư bản nước ngoài, trước hết là tư bản Pháp tiếp tục hoạt động kinh doanh, tránh gây cho họ nhữne xáo trộn lớn trong công việc làm ăn ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gừi thư cho giới công thương Việt Nam, kêu gọi họ nỗ lực và cùng góp vốn xây dựng một nền kinh tế - tài chính vừng vàng và thịnh vượng. Từ ngày 2/10/1945, Chính phủ cho phép tất cả các nhà tư sản Việt Nam được quyền kinh doanh. Cùng với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt tay vào việc xây dựng khu vực kinh tế quốc doanh. Các nghị định của Toàn quyền Pháp về độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ bị bãi bỏ và thay bàng các sắc lệnh của Chính phủ về việc bào đam quyền tìm mỏ và khai thác mỏ của Nhà nước trên cơ sở tôn trọns những quyền sở hữu sằn có và phù hợp với luật lệ của nước Việt Nam Dân chu Cộng hoà. Các mó than ở Hòn Gai (Quảng Ninh), Tân Trào (Tuyên Quangj. Làng Cẩm và Phấn Mề (Thái Nguyên), Quyết Thẳng (Ninh Bình) được phép mơ lại. Mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) bị Nhật chiếm từ tháng 3/1945 và trước khi rút, chúng đã phá hoại, nay tiếp tục được khai thác. Nhà máy sưa chữa đầu máy và toa xe lửa Trường Thi (Vinhj bị thiệt hại nặng do bom từ tháng 2/1944 đã được khôi phục. Trên lĩnh vực thương nshiệp, Chính phủ Việt Nam hết sức quan tám, nghiêm cấm các hoạt độns đầu cơ tích trữ, chợ đen, mờ đường cho lưu thông hàng hoá, kêu gọi các nhà buôn đứng ra kinh doanh; thành lập Phòng Thương mại và Nha Thương vụ Việt Nam để giúp Chính phu bước đâu nẩm các hoạt động thươns nshiệp trên thị trường nội địa. PAẩn môù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 29 v ề giao thông vận tải, Chính phủ từng bước quản lý và khai thác kinh doanh hệ thống đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, thông tin liên lạc. Đẻ bảo đảm một phần nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, ngày 4/9/1945, Chính phủ ra sắc lệnh sô 4/SL về xây dựng Quỹ Độc lập và phát động Tuần lễ Vàng, kêu gọi toàn dân tự nguyện đóng góp ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc. Hưởng ứng Tuân lê Vàng (17 - 24/9/1945), nhân dân cả nước đã ủng hộ cho chính quyền cách mạng 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào Quỳ Độc lập và 40 triệu đồng vào Quỹ đảm phụ quốc phòng(l). Nhằm đảm bảo có nguồn thu ổn định và thu, chi hợp lý, Chính phủ chủ trương xây dựng từng bước nền tài chính quốc gia, trước mắt là cài cách chế độ thuế khoá. Ngày 7/9/1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh sổ 11/SL về việc sửa đổi chính sách thuế; toàn bộ bộ máy trong lĩnh vực thuế được cải tổ; thuế thân được bãi bỏ. Ngày 10/9/1945, Chính phù ra sắc lệnh số 27/SL quy định việc thành lập Sở thuế quan và thuế gián thu. Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, thuế điền thổ,... cũng được thành lập. Việc bán thuốc phiện và rượu cồn trước Cách mạng tháng Tám được coi là một nguồn thu của ngân sách, thì nay bị Nhà nước nghiêm cấm. Chính phủ còn đặt thêm một số thuế mới có tính chất gián thu đánh vào các mặt hàng xa xỉ. Ngoài các khoản thu từ thuế, do điều kiện chiến tranh, Chính phủ quy định các chế độ trưng thu, trưng dụng, trưng tập sẽ được thực hiện trong những trường họp cần thiết. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Nhà nước cách mạng đã chấn chỉnh và xây dựng được một hệ thống thuế khoá mới, nắm được các nguồn thu cho ngân sách, có kế hoạch hơn trong việc thu và chi ngân sách. Thực hiện chủ trương xây dựng nền tài chính độc lập, ngày 31/1/1946, Chính phủ ra sắc lệnh số 18B/SL về việc phát hành tiền Việt Nam. Dù mới chi lưu hành thí điểm ở miền Nam Trung Bộ, nhưng trước sự đòi hòi của toàn dân, tiền Việt Nam nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Bấc Bộ và Trung Bộ. Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt (l). Số tiền thu về đàm phụ quốc phòng nêu trên chi tính riêng ở Bắc Bộ và Bắc Truno Bộ Quỷ này được thành Ịập theo sắc lệnh số 48 (10/5/1946), quy định mồi nam côn? dân trừ người già yếu. bệnh tật, đóng cho quỳ 5 đồng và chi thực hiẹn trong năm 1946. 30 Witto ảinÁ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Nam trong cả nước. Cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiên bùng nô. tiền Việt Nam đã căn bản thay thế tiền ngân hàng Đông Dương trên thị trường trong nước. Giành được chủ quyền về tiền tệ là một thăng lợi lớn, giúp cho Chính phủ cách mạng giải quyết được một phân chi tiêu, phục vụ sản xuất và đời sống, bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 3. về văn hoá - giáo dục Trong phiên họp đầu tiên ngày 3/9/1945, ngoài nội dung bàn biện pháp chống "giặc đói", Hội đồng Chính phủ còn bàn biện pháp chống "giặc dốt". Chống "giặc dốt", xoá nạn mù chữ là nhiệm vụ văn hoá - giáo dục, nhưng có ý nghĩa chính trị sâu sắc, bảo đảm cho người lao động có điều kiện phát huy được vai trò làm chủ, tham gia quản lý đất nước có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn giữ vừng nên độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu, Mọi người Việt Nam phải hiêu biêt quyên lợi cùa mình, bôn phận của mình, phải có kiến thức mới đê có thê tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chừ Quốc ngữ... "n>. Chỉ một tuần lễ sau khi tuyên bố nền độc lập của nước nhà, ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ chuyên lo việc chống "giặc dốt"; và Người đứng ra phát động phong trào xoá nạn mù chữ trong toàn quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lớp Bình dân học vụ được tổ chức ở khắp nơi, lôi cuốn từ em nhỏ đến các cụ già 70, 80 tuổi. Truyền thống hiểu học của dân tộc được phát huy. Trong vòng một năm, từ ngày 8/9/1945 đến ngày 8/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với 97.664 giáo viên và đã xoá mù chữ cho 2.520.673 người. Các trường phổ thông và đại học cũng được khai giảng nhàm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến - kiến quốc. Trong năm học 1945 - 1946, riêng Bấc Bộ và (l). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. sđd.. tr.30. &Aẩn mệù VĨỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 31 Trung Bộ đã mở được 5.654 trường tiểu học. Ờ bậc đại học và cao đẳng, cùng với các trường Đại học Y khoa, Dược khoa, Cao đẳng Kỹ thuật, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Canh nông - Thú y, Bộ Giáo dục cho mở thêm Trường Đại học Văn khoa và Lớp Chính trị xã hội thay cho Trường Luật của chế độ cũ. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ. Báo chí cách mạng và công tác xuất bản sớm trở thành vũ khí sắc bén chống ngoại xâm, nội phản, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân. Báo "Cờ giải phóng", tiếp đến là các báo "Sự thật”, "Cứu quốc", là những tờ báo được quần chúng tín nhiệm và có tác động lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và của Mặt trận Việt Minh. Văn học, nghệ thuật cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Các vãn nghệ sĩ đã hướng hoạt động vào thực tế cuộc sống xây dựng và chiến đấu của dân tộc. Tháng 11/1946, Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự khai mạc Hội nghị và vạch rõ phương hướng nền văn hoá mới của Việt Nam là phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của văn hoá nước ngoài, tạo ra nền văn hoá Việt Nam, sao cho văn hoá mới sửa được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xi; phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập. Người kêu gọi các nhà hoạt động văn hoá phải chú ý đến nhi đồng, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ. Một số nhà vãn, nhà báo theo chân các đoàn quân Nam tiến đến tận các chiến trường miền Nam để góp sức mình vào cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng lớn. Cuộc vận động Đời sống mới, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng được đông đảo nhân dân cả nước hưởng ứng, nhằm xây dựng đạo đức mới với nội dung Cân - Kiệm - Liêm - Chính; bài trừ các tệ nạn của xã hội cũ (rượu, chè, cờ, bạc, mại dâm,...), những hủ tục cúng lễ (ma chay, cưới xin linh đình,...) ra khỏi đời sống xã hội. 32 (ỗiáo lùnÁ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Những thành quả bước đầu trong một năm kiến quốc, xây dựng chẻ độ mới đã đặt nền móng vừng chắc cho Nhà nước cách mạng vượt qua tình thê hiểm nghèo. I I I - ĐÁU TRA N H CH Ó N G NGOẠI XÂM VÀ N Ộ I PH Ả N , BẢO VỆ C H ÍN H QUYÈN CÁCH M ẠNG Trong hoàn cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn, lại phái đứng trước nhiều thế lực đế quốc và phản động nham hiểm, để bảo vệ chính quyên non trẻ, Đảng và Chính phủ chủ trương tránh trường hợp cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù; hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh - Pháp và Mỹ - Trung Hoa Dân quốc. Với chủ trương ấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã thực hiện một đường lói chính trị nhạy bén và sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược. 1. Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam, hoà hoãn với quân Trung Hoa D ân quốc ở m iền Bắc (trước 6/3/1946) a) Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam Đúng như dự đoán của Đảng tại Hội nghị Tân Trào (14 - 15/8/1945), âm mưu trở lại xâm lược của thực dân Pháp dần dần trở thành một thực tế ở miền Nam Việt Nam. Sau vụ khiêu khích của quân Pháp ngày 2/9/1945, Xứ uỷ và Uỷ ban Nhân dân lâm thời Nam Bộ nhận định: Âm mưu xâm lược cùa Pháp đã rõ ràng. Những biện pháp đối phó trước mắt và chuẩn bị kháng chiến được xúc tiến khẩn trương: Cải tổ Uỷ ban Nhân dân lâm thời; thành lập Uỳ ban Kháng chiến Nam Bộ; tổ chức hơn 300 đội xung phong công đoàn; đưa phân lớn lực lượng vũ trang ra ngoài thành phô; tô chức hàng chục vị trí chiên đâu ở các điểm xung yểu nội thành; tháo gỡ và di chuyển máv móc phương tiện vật chất lên các chiến khu,... Đêm 22 rạng 23/9/1945. được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dán Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ưỷ ban Nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phô Sài Gòn, mở đâu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Phần mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 33 Trước tình hình đó, sáng 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ họp tại đường Cây Mai - Chợ Lớníl} quyết định phát động nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Quyết định của Xứ uỷ và Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ đã được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tán thành và quyết tâm lãnh đạo, tổ chức lực lượng cả nước chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Giữ vững lời Thề Độc lập, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, với vũ khí chủ yếu là gậy tầm vông, cùng nhân dân Nam Bộ đã anh dũng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh kho tàng, phá nhà giam,... Suốt hạ tuần tháng 9/1945, các trận đánh liên tiếp diễn ra ở khu Tân Định, Cầu Muối, cầu Lái Thiêu,... Phối hợp chặt chẽ với các cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn đã triệt nguồn tiếp tế của địch, dựng chướng ngại vật và chiến luỹ trên đường phố. Giường, tủ, bàn, ghế và tất cả những thứ gì có thể ngăn cản được bước tiến của quân thù đều được ném ra mặt đường. Nhiều cây to trên dọc các đường phố được đốn chặt, hình thành những vật chướng ngại. Chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc chiến đấu của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã đẩy địch vào tình trạng khó khăn: 138 xí nghiệp và công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 30 tàu lớn, 51 tàu nhỏ, 200 xe hơi và một số cầu bị đốt phá. Gần 300 tên giặc bị tiêu diệt(2). Sau 8 ngày gây hấn, thực dân Pháp chỉ chiếm đóng được các vị trí, công sở then chốt ở khu vực trung tâm thành phố. Phạm vi kiểm soát của địch bị thu hẹp. Cả thành phố không còn điện, nước; chợ không họp; các cửa hàng đóng cửa; lương thực, thực phẩm cạn dần; lực lượng bị dàn mỏng; viện binh chưa tới kịp. Bọn Việt gian ra mặt hoạt động đã bị thanh niên thành phố truy bắt, nghiêm trị,... Trước tình hình đó, thực dân Pháp nhờ Grêxi làm trung gian, xin thương lượng với Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ. (1). Nay là Nhà số 627 - 629, đường Nguyễn Trãi, quận I, thành phổ Hồ Chí Minh. (2). Viện Sử học: Lịch sứ Việt Nam (9/1945 - 1950), sđd., tr. 16. 3-G T. SV N1 94 S- NA Y 34 Wuio àinÁ LỊCH s ử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐÉN NAY Mặc dù biết âm mưu của thực dân Pháp là hoà hoãn đế chờ viện binh, nhưng quân, dân Nam Bộ cũng cần có thời gian chuân bị lực lượng đẻ đôi phó với các đợt tấn công mới của địch. Do vậy, Uỳ ban Nhân dân Nam Bộ chấp nhận ngừng bắn một tuần để thương lượng. Cuộc thương lưcmg băt đâu từ ngày 2/10/1945, với sự có mặt của Grêxi. Lập trường hai bên trái ngược nhau: Phía Việt Nam đòi Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đình chi xung đột và rút quân về các vị trí trước ngày 23/9/1945. Phía Pháp đòi Việt Nam chấp nhận bản Tuyên bố ngày 24/3/1945 của Đờ Gôn. Cuộc đàm phán tạm dừng và sau đó tiếp tục diễn ra trong ngày 6 và 8/10, nhưng vẫn không đi đến kết quả. Pháp đề nghị kéo dài thời gian ngừng bắn thêm hai ngày nữa. Tranh thủ thời gian ngừng bắn, nhân dân cùng các cơ quan, kho tàng, xưởng máy tiếp tục di chuyển ra ngoài, bổ sung và điều chinh lực lượng. Các mặt trận ở Sài Gòn được củng cố. Các Uỷ ban Kháng chiến miên Đông, miền Trung và miền Tây Nam Bộ được thành lập. Đặc biệt, lực lưcmg lãnh đạo Nam Bộ được bổ sung hàng trăm cán bộ cách mạng mới thoát khỏi ngục tù Côn Đảo, trong số đó có Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng,... Ngày 10/10/1945, chấm dứt thời gian ngừng bắn, quân Pháp đã được tăng thêm viện binh ra sức phá vây, mờ rộng phạm vi chiếm đóng. Quân Anh lấy danh nghĩa Đồng minh đi tước vũ khí quân Nhật ở các thị xã miền Đông Nam Bộ (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh) nhằm giúp Pháp mở rộng khu vực chiếm đóng các tinh xung quanh Sài Gòn. Quân, dân Sài Gòn tiếp tục đánh địch ở nhiều nơi trong thành phố, nổi bật là trận đánh chận địch ở cầu Thị Nghè (17/10/1945). Từ ngày 23/10, địch được tăng thêm quân tiếp viện, trong đó có binh đoàn thiết giáp, nên chúng phá vỡ được vòng vây xung quanh Sài Gòn. đánh chiếm một số thị xã miền Trung Nam Bộ, nhàm tiêu diệt cơ quan đáu não kháng chiến. Trong điều kiện chiến đấu không cân sức, đề bao toàn lực lượng chuẩn bị cho kháns chiến lâu dài. phần lớn lực lượng vù trang Sài Gòn - Chợ Lớn rút ra khỏi thành phố. chi để một số đơn vị nhó tiếp tục ơ lại bám trụ, thường xuyên ra vào thành phô tiên công địch. PAỒn tnộù VIỆT NAM TỬ 1945 ĐẾN 1954 35 Trải qua một tháng bao vây, chặn đánh địch trong thành phố, chiên đâu trong điều kiện không cân sức, lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tỏ rõ tinh thần quyết chiến quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn đã kiềm chế quân địch dài ngày, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh cùa thực dân Pháp, tạo điều kiện cho các tỉnh Nam Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiên. Để lãnh đạo kịp thời cuộc kháng chiến đang lan rộng, ngày 25/10/1945, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng Nam Bộ họp ờ Thiên Hộ (huyện Cái Bè, Mỹ Tho). Tham dự Hội nghị, ngoài đại biểu của Nam Bộ, còn có Hoàng Quốc Việt - Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Hội nghị kiểm điểm tình hình, rút kinh nghiệm chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam Bộ, biểu dương tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Trên cơ sờ đó, Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến ờ Nam Bộ, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, củng cố các đon vị vũ trang hiện có, xây dựng thêm nhiêu đơn vị vũ trang mới, tô chức các quân khu, khôi phục lại chính quyền cách mạng ở những nơi bị tan rã, thành lập Uỷ ban Kháng chiến miền Nam, phát triển công tác ờ các đô thị,... Hội nghị đã cử Tôn Đức Thắng phụ trách Uỷ ban Kháng chiến và chì đạo các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Hội nghị Thiên Hộ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đi lêr/của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị, các cán bộ, đảng viên trung kiên đã vượt mọi khó khăn, đi sâu, bám sát quần chúng, gây dựng lại phong trào, phát triển cơ sở cách mạng. Tiếp theo Hội nghị Xứ uỷ mờ rộng, ngày 20/11/1945, Hội nghị Quân sự được triệu tập ờ An Phú (Gia Định) để bàn công tác chì đạo tác chiến. Hội nghị quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 9 'n và bàn biện pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn. Từ sau Hội nghị Thiên Hộ và An Phú, những thiếu sót về lãnh đạo và chi huy từng bước được khắc phục. Công tác lãnh đạo kháng chiến ở Nam (l). Chiến khu 7 gồm các tinh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn. Bà Rịa và thành phô Sài Gòn. Chiên khu 8 gôm các tinh Tân An, Mỹ Tho. Gò Công, Bên Tre. Sa Đéc (lúc này địch mới chiêm được thị xã Tân An, Mỹ Tho, Gò Công). Chiến khu 9 gồm các tinh Châu Đôc. Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Vinh. Bạc Liêu. Vĩnh Long, cần Thơ, Sóc Trăng (lúc này địch mới chiếm được thị xã Vĩnh Lonơ và cần Thơ). 36 (Siáo iùnÁ LỊCH SỬ VTỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Bộ đi dần vào nền nếp. Cùng thời gian đó, quân Pháp cũng được quân Anh lần lượt bàn giao những vùng chúng kiểm soát ở Nam Bộ. Cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam được Trung ương trực tiêp chỉ đạo và được cả nước chi viện về mọi mặt. Hường ứng chú trương của Trung ương Đảng, với ý thức bảo vệ độc lập tự do của Tô quôc. nhân dân miền Bắc, đi đầu là thanh niên, hàng vạn người hăng hái gia nhập quân đội, xung vào các đoàn quân Nam tiến, nhanh chóng lên đường vào Nam chiến đấu. Chỉ một thời gian ngắn sau khi tiếng súng kháng chiến bùns nô. tại tiền tuyến miền Nam đã có mặt những đơn vị Giải phóng quân từ hậu phương miền Bắc mới vào. Các đoàn quân Nam tiến từ thủ đô Hà Nội. căn cứ địa Việt Bắc, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tấp nập lên đưcmg vào Nam chiến đấu chống Pháp, thể hiện ý chí đoàn kết thống nhất cua dân tộc Việt Nam. "Đoàn quân Nam tiến" vào Nam Bộ chiến đấu Hầu hết các tình ở Bấc Bộ và Bắc Trung Bộ đều thành lập từ 1 đến 2 chi đội Nam tiến. Nhừns cán bộ và chiến sĩ hăng hái, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, những vũ khí và tranơ bị tốt nhất đều dành cho bộ đội Nam tiến. Nhân dân Băc Bộ và Bấc Trung Bộ còn tổ chức quyên góp tiền bạc. quần áo, thuôc men, đạn dược.... ủng hộ đồng bào Nam Bộ. Cùng với việc chi đạo cuộc kháng chiến ờ miền Nam, Đảns và Chính phủ đây mạnh đâu tranh nsoại giao, nêu cao sự nghiệp chính nshĩa của nhân dân Việt Nam và lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa cùa thực dán Pháp Vkẩn mộù VĨỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 37 Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần gửi thư, điện yêu cầu Chính phủ, Quốc hội Pháp phải tôn trọng quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và phải đình chỉ ngay cuộc chiến tranh xâm lược. v ề phía thực dân Pháp, sau khi nhận thêm quân tiếp viện, đồng thời tiếp tục dựa vào quân Anh và Nhật, chúng vừa mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Bộ, vừa từng bước thực hiện kế hoạch đánh ra Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, đến cuối tháng 1/1946, quân Pháp mới chiếm được các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Trà Vinh, Hà Tiên, Sóc Trăng, Bạc Liêu) và cũng chưa ổn định được tình hình ở Sài Gòn - Chợ Lớn và một số thành phó, thị xã. Lực lượng kháng chiến vẫn làm chủ một số vùng nông thôn Nam Bộ. Các tinh Nam Bộ củng cố lại lực lượng vũ trang, tăng cường trang bị vũ khí, xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu dài. Đầu tháng 2/1946, sau khi được tăng viện binh, thực dân Pháp gấp rút chiếm đóng vùng nông thôn Nam Bộ. Chúng mở hàng loạt cuộc hành quân "bình định" trên các khắp các tỉnh Nam Bộ. Lực lượng kháng chiến bị tổn thất nhiều, chính quyền và đoàn thể Cứu quốc ở nhiều nơi bị tan vỡ. Trên các vùng chiếm được, quân địch chia thành các chiến khu, đóng đồn bốt, khống chế hoạt động chống đối của nhân dân. Vừa hành quân mờ rộng các vùng chiếm đóng, thực dân Pháp vừa ráo riết xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn. Ngay từ tháng 10/1945, Xêđi âm mưu lập một Hội đồng tư vấn gồm 80 người và giao cho Nguyễn Văn Thinh vận động các nhà trí thức tham gia, nhưng không thành. Phần đông trí thức tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. Đến tháng 2/1946, Xêđi mới lập được Hội đồng tư vấn gồm 12 thành viên là người Pháp và người Việt Nam mang quốc tịch Pháp. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tiến hành tuyển quân, tập hợp bọn tay sai để thành lập chính quyền bù nhìn ở các thị trấn, thị xã. Chúng tìm cách lôi kéo một số người trong các đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Thiên Chúa, cả lực lượng Bình Xuyên,... để chống lực lượng kháng chiến. Ngày 5/3/1946, quân Anh bàn giao lại toàn bộ địa bàn và vũ khí, trang bị cho quân Pháp và rút khỏi miền Nam. Trong lúc nhân dân Nam Bộ kháng chiến thì tại Nam Trung Bộ, mọi công việc chuẩn bị để kháng chiến cũng được xúc tiến rất khẩn trương. Theo 38 Vide àinÁ LICH s ử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐỀN NAY quyết định của Hội nghị Quân sự do Xứ uỷ và Uỷ ban Nhân dân Trung Bộ triệu tập cuối tháng 9/1945, Uỷ ban Quân chính Nam phần Trung Bộ được thành lập để chỉ huy 7 tỉnh mặt trận phía Nam. Lực lượng quân sự các tinh từ Quảng Ngãi trở ra được điều động vào Nam Trung Bộ. Các cơ sở kinh tê, quốc phòng quan trọng ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ được di chuyên đên những nơi an toàn. Các xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí từng bước được xây dựng. Đến cuối năm 1945, miền Nam Trung Bộ đã có 10 xướng đặt ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, với trên 1.000 công nhân. Từ hạ tuần tháng 10/1945, chiến sự bắt đầu lan tới các tinh Nam Trung Bộ. Khi địch đổ bộ lên Nha Trang (22/10), chúng đã vấp phải sức chiến đấu của bộ đội ở khu nhà ga, nhà máy điện, Viện Paxtơ,... Sau đó, lực lượng vũ trang Nha Trang hình thành thế bao vây nhằm tiêu hao và giam chân địch trong thành phố. Với tinh thần tích cực tiến công địch, với cách đánh mun trí, táo bạo, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, lực lượng vũ trang Mặt trận Nha Trang đã bao vây kìm chân địch trong thành phố hơn ba tháng, góp phần làm thất bại kế hoạch của quân Pháp dùng Nha Trang làm bàn đạp mở rộng đánh chiếm các tinh cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Cuối tháng 12/1945 đầu tháng 1/1946, địch tập trung quân giải vây cho Nha Trang và đánh chiếm tỉnh Khánh Hoà, đồng thời đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột - tỉnh lỵ của Đắc Lắc. Cuối tháng 1/1946, sau khi chiếm được Buôn Ma Thuột, đồng thời với các cuộc hành quân đánh chiếm các tỉnh còn lại của miền Tây Nam Bộ. địch tập trung 10.000 quân, mở chiến dịch "Gổ" (Gaur) từ phía nam đánh ra, Tây Nguyên đánh xuống và từ biển đánh vào các tỉnh Nam Trung Bộ. Lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh nhưng cuối cùng phải rút lui. Sau khi chiếm Phan Rang, quân Pháp đánh ra Nha Trang, đánh vào Phan Thiết. Trong điều kiện chiến đấu không cân sức, sau một số trận đánh trả, lực lượns MJ trang Nha Trang phải rút khỏi thành phố. để lại một bộ phận lập tuyến chặn địch ơ Đèo Cả. Sau 4 tháng chiên đâu anh dũng, với sự chi viện của nhiều đơn vị Xam tiến, bộ đội Nam Truns Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ trong thời kv đáu cua &Aẩn mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 39 CUỘC kháng chiến, tiêu diệt được hàng ngàn tên địch, thu nhiều vũ khí. Tuy nhiên, trước sự tấn công mạnh gấp nhiều lần cùa địch, để bảo toàn lực lượng, các đơn vị bộ đội các tỉnh cực Nam Trung Bộ đã phải tạm thời rút ra khỏi các thị xã, thị trấn và một số trục đường giao thông lớn. Tại các vùng nông thôn ở Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, chính quyền cách mạng, các đoàn thể Cứu quốc và lực lượng vũ trang cách mạng vẫn làm chủ. Như vậy, 5 tháng kháng chiến (từ tháng 9/1945 đến tháng 2/1946) là 5 tháng đầy thử thách gian khổ đối với quân và dân miền Nam, đối với cả dân tộc và chế độ mới. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân miền Nam tuy phải trải qua gian lao và tổn thất, nhưng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chiến đấu, gây dựng được phong trào chiến tranh du kích, xây dựng lực lượng, góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. b) Hoà hoãn, nhân nhượng với quăn Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc Trong hoàn cảnh phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam, sự uy hiếp lật đổ chính quyền của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai ở miền Bắc và trên cơ sờ khẳng định thực dân Pháp là kè thù chính, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: "Phải tránh các trường hợp một mình đoi phó với nhiều lực lượng Đồng minh tràn vào nước ta”. Mũi nhọn của cách mạng lúc này là tập trung đối phó với thực dân Pháp ở miền Nam, do đó phải tạm thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ẩy, Đảng phải dừng mọi cách để song còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hon,... Lúc đó, Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những phương pháp - dù là những phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế"(I\ Chính phủ Việt Nam tiến hành đấu tranh chính trị với quân Trung Hoa Dân quốc một cách khôn khéo, nhưng kiên quyết, nhằm hạn chế sự phá hoại của chúng. Tháng 10/1945, khi Hà ứng Khâm (Tổng Tư lệnh lục quân quân (1). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6 (1950 - 1952). Xuất bản lần thứ 2. Nxb. CTQG Hà Nôi 2000, tr. 114 40 '8ùú> ỉùnÁ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY đội Trung Hoa Dân quốc) đến Hà Nội, Chính phú cách mạng đã tỏ chức một cuộc biểu tình có 300.000 người tham gia, hình thức là đế "đón tiế p n h u n g thực chất là nhằm biểu dương lực lượng cùa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quần chúng diễu qua Phủ Toàn quyền và hô vang khẩu hiệu: "Nước Việt Nam của người Việt Nam", "Hoa - Việt thân thiện', "ủng hộ Chính phủ lảm thòi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh ". "Ung hộ Việt Nam Độc lập Đồng minh", ''Việt Nam độc lập muôn năm". Trước khí thế và sức mạnh cùa quần chúng, Hà ứ n g Khâm không thê tự mình thực hiện ý định lật đổ Chính phủ cách mạng, mà dùng bọn tay sai (Việt Quốc và Việt Cách) phá hoại từ bên trong. Được sự ung hộ của quân Trung Hoa Dân quốc, bọn Việt Quốc,Việt Cách đòi thay đôi Quôc kỳ. Quôc ca, đòi phải cải tổ Chính phủ, để cho chúng một số ghế trong Quóc hội không phải thông qua bầu cử, đòi Hồ Chí Minh từ chức Chủ tịch, đòi những người cộng sản rút khỏi Chính phủ. Chúng còn tổ chức ám sát, bất cóc nhân viên Chính phủ. Để giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lẩm trong nước và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóne dân tộc, đồng thời xuất phát từ lợi ích tối cao cùa dân tộc, Đảng CỘH2 sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" (11/11/1945), nhưng sự thật là tạm thời rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng. Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại phiên họp đầu tiên (2/3/1946), Quốc hội khoá I đồng ý cho Việt Quốc. Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội cùng 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phù liên hiệp chính thức (phụ trách các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, canh nôns. xã hội) và cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chu tịch nước; đồng thời nhân nhượng cho quân Trung Hoa Dân quốc một số quvền lợi kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phươns tiện siao thông vận tải, nhận tiêu tiền Quan kim. Quốc tệ ở Việt Nam. Sự nhân nhượng về chính trị trên đây thể hiện một yêu cầu cơ bản là giữ vững sự tồn tại của một chính quyên của dân, do dân và vì dán. một chính quyền của sự hoà giải, đoàn kết thông nhât quốc gia dân tộc. thưc hiện SMdn mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 41 tư tưởng độc lập tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh với khẩu hiệu hành động cấp bách là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết". Sự nhân nhượng đó là cần thiết, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hoạt động chống phá cách mạng của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai. Trong khi thực hiện hoà giải, nhân nhượng, thông qua công cụ báo chí, thông tin tuyên truyền, dựa vào sức mạnh quần chúng, Chính phủ Việt Nam kiên quyết vạch tràn và ngăn chặn những hành động chia rẽ, phản dân hại nước của các lực lượng tay sai cúa quân Trung Hoa Dân quốc. Những kẻ phá hoại (có đủ bằng chứng) thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng, sắc lệnh ngày 5/9/1945 giải tán Đại Việt quốc gia xã hội đảng và Đại Việt quốc dân đảng (là những đảng phản động, tay sai của phát xít Nhật); sắc lệnh ngày 12/9/1945 cho an trí những người nguy hiểm đối với nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam; sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng. Thực hiện những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế và vô hiệu hoá đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng. Cũng nhờ đó, Nhà nước cách mạng mới có điều kiện tập trung lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. 2. Hoà hoãn vói Pháp nhằm đuổi quân Trung Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chổng thực dân Pháp (6/3 - 19/12/1946) a) Thực dân Pháp và Trung Hoa Dân quốc cấu kết với nhau chống lại cách mạng Việt Nam Đầu năm 1946, về cơ bản, thực dân Pháp đã chiếm được các đô thị, các đường giao thông chiến lược quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, chiếm hầu hết Campuchia và khống chế vùng nông thôn ở Lào. Pháp lại được Anh và Mỹ thoả thuận: Ngày 29/1/1946, quân Anh rút khỏi Sài Gòn và đến ngày 5/3/1946, rút khỏi Nam Đông Dương, nhường cho Pháp quyền chiếm đóng từ vĩ tuyến ] 6 trở vào. Công việc tiếp theo của thực dân Pháp là chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc thực hiện ý đồ thôn tính cả nước Việt Nam. Nhưng do lực lượng hiện tại có hạn (hơn 65.000 quân), lại chưa bình định xong miền Nam, nếu thực hiện 42 (8ũú> íùnẢ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY ngay ý đồ này bằng biện pháp quân sự, Pháp sẽ gặp khó khăn. Hơn nữa. đưa quân ra miền Bắc lúc này, chúng sẽ gặp hai trở lực lớn: Một là. lực lượng kháng chiến của nhân dân Việt Nam; hai là, sự có mặt cùa quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai ở miền Bắc. Tình hình đó buộc thực dân Pháp phải dùng đến thủ đoạn chính trị: Một mặt, điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc ở Trùng Khánh, mặt khác điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh đê được đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam một cách "hợp pháp". Trong khi đó, Trung Hoa Dân quốc cũng đứng trước một khó khăn lớn: Phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, cần phải tập trung lực lượng để đối phó. Tinh hình này cũng buộc Chính phủ Trung Hoa Dân quốc đi đến thoả hiệp với thực dân Pháp. Đúng như dự đoán của Ban Thường vụ Trung ương Đảng: "...trước sau, Trùng Khánh sẽ bang lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp, miền là Pháp nhượng cho Tàu nhiều quyền lợi quan trọng''(X\ ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết ờ Trùng Khánh. Theo Hiệp ước này. Pháp được quyền thay quân đội Trung Hoa Dân quốc vào miền Bắc Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Ngược lại, Pháp nhường cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, như huỷ bỏ cai trị nsoài pháp quyền của Pháp trên đất Trung Quốc, nhượng cho Trung Hoa Dân quốc một "khu đặc biệt" đê tự do buôn bán và có quyền kiểm soát thuế quan ơ cang Hải Phòng, bán cho Trung Hoa Dân quốc đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến Côn Minh (thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam), những kiều dân Trung Hoa Dân quốc ở Đông Dương được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt. Cũng theo Hiệp ước này, việc thay thế quân đội của Chính phủ Tướng Giới Thạch bằng quân đội Pháp sẽ diễn ra ngày 1/3 và ngày 15/3, hoàn tất chậm nhất vào ngày 30/3/1946. Cùng thời gian trên, từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946, giữa đại diện Chính phủ Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có những cuộc gặp gỡ. Tháng 11/1945, đại diện Chính phù Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hoàng Minh Giám đã tiếp xúc với đại diện Pháp và lập trường của Chính phú Việt Nam được xác định qua bức giác thư ngày 12/11 như sau: ll). Dần theo: Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 8 (1945 - 1947). Nxb. CTQG, Hà Nội. 2000. 'J 2 ' ^Aẩn mội: VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 43 "ỉ) Nước Pháp sẽ thừa nhận không chậm trễ nền độc lập toàn vẹn của Việt Nam; 2) Chính phủ Việt Nam sẽ thực thi những biện pháp bảo vệ uy tín nước Pháp và sẽ có những nhượng bộ với Pháp về phương diện kinh tế và văn hoá; 3) Nhằm tạo ra được một không khí thuận lợi cho việc đàm phán, các nhà chức trách Pháp sẽ cho chấm dứt ngay những chiên sự ở Nam Bộ và trong suốt thời gian của cuộc đàm phán, ngưng vận chuyên đền Đông Dương quân đội và vũ kh f'<1>. Trong cuộc gặp Giăng Xanhtơni (Jean Sainteny) ngày 25/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lập trường của Việt Nam trong quan hệ Việt - Pháp là độc lập và hợp tác. Xanhtơni nêu rõ quan điểm của Pháp là công nhận Việt Nam có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nhưng là một nước tự trị trong khối Liên hiệp Pháp. Đây là lập trường đối lập cơ bản giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Pháp. b) Hoà hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp nhằm đuổi quân Trung Hoa Dân quốc về nước Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trước sự lựa chọn một trong hai con đường: Hoặc là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi miền Bắc, tranh thủ thời gian hoà hoãn, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị mọi mặt bước vào cuộc chiến đấu về sau khi tình thế bắt buộc. Ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Tinh hình và chủ trưomg". Bản Chi thị nhận định: "... Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyền chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa...”(2>. Phân tích về chủ trương đánh hay hoà lúc này, Chi thị chi rõ: "... nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thê hoà, hoà đê phá tan thâm thù của bọn Tàu trảng, bọn phản động Việt 1 *. Philippe Devillers: Paris — SaiGon — HaNọi. Hoàng Hữu Đản dịch. Tài liệu lưu trữ của cuộc chiên tranh 1944 - 1947. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 159 ,2). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 8 (1945 - 1947). Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000. tr.41. 44 'Ỗũío lùn LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thê cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc... ■ Bán Chi thị nhân mạnh: "Vắn đề lúc này, không phải là muốn hay không muôn đánh. \ án đê là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điêu kiện lòn lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng..."l2>. Nếu chấp nhận cuộc chiến đấu với Pháp lúc này, Chính phú và nhân dân ta sẽ gặp nhiều bất lợi lớn: v ề chính trị, bọn phản động đây mạnh hoạt động chia rẽ. Vê quân sự, Pháp có thêm lực lượng và chiêm được nhiêu nơi; cuộc kháng chiến ở Nam Bộ gặp khó khăn. Vê kinh tê, vân đê tiêp tẻ lương thực không bảo đảm. v ề quốc tế, Liên Xô và các lực lượng dân chú chưa có điều kiện trực tiếp giúp Việt Nam,... Chấp nhận hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp cũng có những bất lợi khác: Thực dân Pháp lợi dụng hoà hoãn để phát triển lực lượng và sau đó bội ước đánh ta. Bọn phản động lợi dụng việc ký kết mà vu cáo Chính phu Hô Chí Minh "bán nước". Nhưng thực hiện giải pháp này sẽ phá tan được âm mưu của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai định đẩy nhân dân ta vào thế bị cô lập; đồng thời giành được thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Ngày 5/3/1946, Hội nghị mớ rộng của Ban Chấp hành Trunơ ưcmg Đảng (tại làng Canh, Hà Đông) nhất trí tán thành chủ trương "Hoà đế tiến" của Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Chiều 6/3/1946, sau nhiều lần thương lượng, tại ngôi nhà 38 Lý Thái Tổ (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dán chu Cộng hoà ký với G. Xanhtơni (J. Sainteny) - đại diện Chính phủ Cộns hoà Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ, đặt cơ sở cho cuộc đàm phán giữa hai bên đế đi đến một hiệp định chính thức. Theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong buổi ký Hiệp định có sự chứng kiến của đại diện Bộ Tư lệnh quân Trung Hoa Dân quốc ở Bắc Đông Dương, đại diện Phái bộ Mỹ, Lãnh sự Anh. Theo Hiệp định Sơ bộ: - Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quôc gia tự do trong khôi Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện quán đội và tài chính riêng. Sự thống nhất đất nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định. Ván kiện Đang toàn tập. Tập 8 ( 1945 - 1947). Nxb. CTQG. Hà Nội, 2000. tr.43. • Văn kiện Đáng toàn lập. Tập 8 (1945 - 1947). Nxb. CTQG, Hà Nọi, 2000. tr'44' &Âần nvộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 45 - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Trung Hoa Dân quốc, số quân này phải đóng ở những nơi do hai bên thống nhất quy định và sẽ rút khỏi Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 số quân. - Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ được tiến hành tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris. Ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp, nhân dân Việt Nam đã tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi phải chống lại nhiêu kẻ thù cùng một lúc; tạo thêm một cơ sở pháp lý buộc quân Trung Hoa Dân quốc phải nhanh chóng rút khỏi miền Bắc Việt Nam; bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách vì mất chỗ dựa nên phần lớn bị tan rã hoặc chạy theo quân Trung Hoa Dân quốc; nhân dân Việt Nam có thêm thời gian hoà bình cân thiêt đê củng cố chính quyền cách mạng, mở rộng mặt trận dân tộc thông nhât, phát triển lực lượng vũ trang nhằm chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau. Đặc biệt, đối với miền Nam - nơi mà cuộc kháng chiến đang đứng trước những thử thách gay gắt - Hiệp định Sơ bộ tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến trờ lại bám trụ thôn, xã, tạo thế và lực để cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ, việc ký Hiệp định Sơ bộ - trong hoàn cảnh lúc đó - là một chủ trương cứu nước duy nhất đúng, "một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninít về lợi dụng mâu thuân trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc"(l>. Tuy có một số hạn chế, Hiệp định Sơ bộ có ý nghĩa to lớn: - Với Hiệp định Sơ bộ, Việt Nam không trở lại chế độ thuộc địa kiểu cũ như Đờ Gôn mong muốn. Nước Pháp đã phải công nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Ký Hiệp định Sơ bộ là một nhân nhượng về không gian để tranh thủ lấy thời gian củng cố lực lượng; đồng thời mớ ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận Việt Nam. (l). Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đáng, vì độc lập tự do, vì chú nghĩa xã hội tiến lên ỵiành những thăng lợi mới. Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1972, tr.32. 46 Viẩo ủìttÁ LỊCH s ử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY - Xoá bỏ sự áp đặt của các nước lớn đối với Việt Nam tại Hội nghị Pôtsđam (7/1945). Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Chính phủ và nhân dân Việt Nam thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản đã ký kết. Ngày 8/3/1946, Chính phủ ban hành Nghiêm lệnh'. "Chính phủ hạ lệnh cho toàn thể nhân dân và bộ đội phải giúp đỡ cho quân đội Trung Hoa trong lúc quăn đội Trung Hoa thoái triệt. Ai xâm phạm đến tính mạng, tài sản của quân đội Trung Hoa sẽ bị nghiêm ưị"{ì). Ngày 9/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đàng ra bản Chi thị "Hoà để tiến", vạch rõ lý do vì sao Chính phủ ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ và đề ra những việc cần làm sau khi Hiệp định được ký kết: 1) Giải thích ý nghĩa Hiệp định, chống mọi nhận thức và tư tương sai lệch đối với việc ký kết. 2) Chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đề phòng Pháp bội ước. 3) Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc, đề phòng chúng cô tình kéo dài thời hạn đóng quân trên miền Bắc. 4) Đề phòng các đảng phái phản động xuyên tạc và phá hoại. 5) Chi đạo miền Nam gây dựng lại cơ sở đã mất và cổ động phone trào đòi thống nhất Bắc - Trung - Nam. Trong khi đó, thực dân Pháp sớm lộ rõ dã tâm phá hoại Hiệp định. Ngày 9/3/1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và đóng trái phép ơ Bến Bính. Ngày 27/3/1946, quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng trụ sờ Bộ Tài chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội; đồng thời cho xe chạy khắp các phố, gây xô xát và cướp bóc tài sàn của nhân dân,... Ờ miền Nam, thực dân Pháp không những không ngừng bắn, mà còn tiếp tục cho quán càn quét, đánh úp nhiều vị trí của bộ đội Việt Nam ở Đồng Tháp Mười, Binh Thuận, Phan Rang,... Tháng 6/1946, chúng huy động 5.000 quân có xe tâng và máy bay yểm trợ đánh chiếm Tây Nguyên. Với ý đồ tách Nam Bộ ra khói Việt Nam, thực dân Pháp thành lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị (l/6/1946j do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu. Một trong những nội dung quan trọng đấu tranh buộc Pháp phai tôn trọng Hiệp định Sơ bộ là đòi họ mơ cuộc đàm phán chính thức tại Pans. (l). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4 (1945 — 1946), sđd., tr.142. PAẩti mộù VIÊT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 47 Ngược lại, thực dân Pháp tìm mọi cách trì hoãn. Chính phủ Việt Nam càng thấy rõ lập trường thực dân xâm lược của giới phản động Pháp, nhưng vẫn kiên trì đấu tranh tiến tới cuộc đàm phán chính thức. Ngày 24/3/1946, trên tàu Êmin Béctanh (Emile Bertin) neo tại vịnh Hạ Long đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đô đốc Đácgiăngliơ. Cùng dự hội đàm, về phía Việt Nam còn có Hoàng Minh Giám và Nguyễn Tường Tam; về phía Pháp có tướng Lơcle, Xanhtơni và một số trợ lý của Đácgiăngliơ. Sau nhiều lần trao đổi, hai bên đã thoả thuận công bố một bản thông cáo gồm ba điểm chủ yếu: 1) Vào một thời điểm mà các điều kiện quá cảnh cho phép, nghĩa là trong nửa đầu tháng tư, một phái đoàn hữu nghị gom 10 nghị sĩ Việt Nam đi Paris mang tới Quốc hội lập hiến Pháp lời chào anh em của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 2) Cũng vào thời điểm đó sẽ tiến hành tại Đà Lạt một hội nghị trù bị giữa một bên là một đoàn đại biểu Pháp gồm 12 thành viên, dưới sự chủ trì của Cao uỷ Pháp tại Đông Dương và một bên là một đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm 12 thành viên, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc người đại diện. 3) Cuộc hội nghị trù bị đó sẽ hoàn thành công việc của mình để một đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể lên đường trong thời hạn ngắn nhất, vào nửa cuối tháng năm để các cuộc thương lượng cuối cùng chính thức tiến hành tại Paris. Ngày 16/4/1946, phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang thăm nước Pháp theo tinh thần của thông cáo về nội dung cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đô đốc Đácgiăngliơ. Ngày 19/4/1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt khai mạc(l). Hội nghị thành lập 4 uỷ ban. Trong mỗi uỷ ban, mồi bên đặt một số người, phái biện và cố vấn; (l). Tnrờng đoàn Việt Nam là Nguyễn Tường Tam, Phó trường đoàn là Võ Nguyên Giáp cùng các thành viên: Trịnh Văn Bính, Cù Huy Cận, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền. Vũ Hồng Khanh, Trần Đãng Khoa, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Luyện, Phạm Ngọc Thạch, Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường. Các cố vấn của Đoàn gom có: Tạ Quang Bửu. Kha Vạng Cân, Kiều Quang Cung, Đinh Văn Hớn, Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Liên, Phạm Vãn Phác, Nguyễn Vãn Tinh, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Tường Thuv Hồ Hữu Tường. 48 (8iáo lùnA LỊCH SỬ VIẾT NAM TỨ 1945 ĐẾN NAY mỗi bên cử một chủ tịch để lần lượt chù toạ các buỏi thào luận. Uỹ ban Chính trị, do Hoàng Xuân Hãn, Métxme (Messmer) làm Chú tịch: Uỷ ban Kinh tế - Tài chính, do Trịnh Văn Bính và Buốcgoanh (Bourgoirn làm Chu tịch; Uỷ ban Quân sự, do Võ Nguyên Giáp và Mác Àngđrê (Max André) làm Chủ tịch; Uỷ ban Văn hoá, do Nguyễn Mạnh Tường, Guru (Gourou) làm Chủ tịch. Hội nghị đã tiến hành khẩn trương. Ngoài những phiên họp toàn thê. những phiên họp ở các uỷ ban, còn có nhiều cuộc trao đôi ngoài hành lang,... Tuy vậy, trên tất cả các vấn đề được đặt ra, cuộc đàm phán hâu như không tiến triển. Ngoài những cuộc tranh luận gay gắt tại Uý ban Chính trị. ở tất cả các Uỷ ban Quân sự, Kinh tế, Văn hoá đều có những cuộc tranh cãi giằng com . v ề kinh tế, phía Việt Nam chú trương giữ vững những quyền lợi kinh tế cơ bản, báo đảm điều kiện cho kinh tế Việt Nam phát triển, đồns thời có những nhân nhượng nhất định đối với quyền lợi kinh tế Pháp ơ Đông Dương. Những vấn đề được đặt ra trong Tiểu ban này thuộc về tiền tệ. thuế quan, những doanh nghiệp hiện tại của Pháp ờ Việt Nam; trons đó những bât đồng lớn xoay quanh vấn đề tiền tệ và việc kinh doanh cùa neươi Pháp tại Việt Nam. v ề văn hoá, hai bên đã đạt được một số thoả thuận. Việt Nam chi không đồng ý về việc Pháp đòi đặt một số cơ quan văn hoá ớ Đông Dương trực thuộc với liên bang và đề nghị dùng tiếng Pháp làm thứ tiếng chính thức thứ hai sau tiếng Việt. Trong hai Tiêu ban Chính trị và Quân sự, các vấn đề đặt ra đều là những vân đề chủ yếu mà quan điểm hai bên hoàn toàn đối lập nhau. Lập trường có tính nguyên tắc của phái đoàn Việt Nam là: Nước Việt Nam phải là một nước tự do. Liên bang Đông Dương chi mang tính chất kinh tế không được phương hại đến những quyền cơ ban cua Việt Nam. v ề mối quan hệ giữa các nước trong Liên bang Đông Dương với Pháp, phái đoàn Việt Nam tuyên bố chấm dứt chế độ Toàn quyền. Đại diện cua Pháp ờ Liên bang chi có tính cách một nhân viên ngoại giao ... (1). Bảo tàng Cách mạng Việt Nam: Từ Đà Lạt đến Paris. Nxb. Hà Nội, 1996. tr.25 &Ađn mệù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 49 Theo quan điểm của Pháp, viên Cao uỷ vừa là đại diện cho Liên hiệp Pháp, vừa là Chủ tịch Liên bang Đông Dương. Các ngành Tư pháp, Ngoại thương, Tài chính, Hối đoái, Vận tải, Y tế, các cơ quan nghiên cứu và phát minh về văn hoá, khoa học, kinh tế, viện thong kê, nhà bưu điện và vô tuyến điện, cơ quan phụ trách di dân đều phải thuộc về Liên bang. Thực chất là Pháp muốn khôi phục lại chế độ toàn quyền trước đây. v ề ngoại giao, lập trường cùa phái đoàn Việt Nam là nước Việt Nam sẽ có Đại sứ ở Pháp và viên Cao uỷ Pháp là đại diện ngoại giao của Pháp ờ Việt Nam. Nước Việt Nam tự do phải có quyền đặt Đại sứ ở các nước trong Liên hiệp Pháp và ở các nước ngoài. Pháp chủ trương người đại diện Pháp ờ Việt Nam là một viên chức Pháp do viên Cao uỷ Pháp cử ra và nước Việt Nam chỉ có đại diện ngoại giao với các nước khác thông qua Liên hiệp Pháp,... Sau 3 tuần lễ (19/4 - ] 1/5/1946) nhằm trao đổi những vấn đề sẽ được đưa ra tại cuộc đàm phán chính thức nhưng không đi đến thoả thuận nào, Hội nghị trù bị Đà Lạt kết thúc thất bại do âm mưu phá hoại của thực dân Pháp. Ngày 31/5/1946, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp đàm phán. Cùng ngày, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách. Trước khi lên đường, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ nêu rõ: "Đông bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thê cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi"(Iì. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn Việt Nam đến Biarritz (Pháp) ngày 12/6, nhưng phải dừng ở đó gần hai tuần lễ do phía Pháp đang chuẩn bị thay đổi nội các. Ngày 12/6/1946, nội các thiên tả của Goanh (Gouin) sụp đổ. Ngày 19/6/1946, Gioócgiơ Biđôn (Georges Bidault) - một lãnh tụ của Phong trào Bình dân, được bầu làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời Cộng hoà Pháp. Từ đây, phía Pháp mới có thể bắt đầu cuộc đàm phán đã dự định trước với Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn rời Biarritz để đến Paris vào ngày 22/6. (l). Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4, sđd., tr.253. 4 -G TL SV N1 94 S- NA Y 50 &ÙÍC tùnÁ LỊCH SỬ VIẾT NAM TỬ 1945 ĐẾN NAY Vừa đặt chân tới Thủ đô nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam đã nhận được những thông tin bất lợi: Từ ngày 21/6. trong một chiến dịch "chớp nhoáng", quân đội Pháp theo lệnh cúa đô đôc Đácgiăngliơ và tướng Lơcle đã chiếm đóng cả vùng Tây Nguyên, đặc biệt là Plêicu và Kon Tum; ngày 23/6, tại Hà Nội, quân Pháp chiếm đóng Phủ Toàn quyền. Ngày 6/7/1946, cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên Chính phu Việt Nam và Pháp(1) bắt đầu khai mạc, không phải ở Paris như Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị, mà là Phôngtennơblô (Fontainebleau), cách Paris 60 km, "để lấn tránh những áp lực của dư luận báo chí và của những giới khác mà Sài Gòn, các cơ quan dân sự và bạn bè cùa họ héĩ sức kinh sợ"(2>. Ngay trong phiên khai mạc (6/7), Trưởng phái đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng đã kịch liệt phản đối việc thành lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị và các hoạt động vi phạm Hiệp định Sơ bộ của quân Pháp ở Việt Nam, đặc biệt là việc chiếm vùng Tây Nguyên và việc quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng ngôi nhà nguyên là Phủ Toàn quyền, nơi viên Tổng chi huy quân Trung Hoa Dân quốc vừa rũt đi ngay giữa Thủ đô Hà Nội. Ngày 7/7/1946, Hội nghị đưa ra một chương trình nghị sự gồm 5 điêm: - Sự gia nhập của Việt Nam vào khối Liên hiệp Pháp và những mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước; - Dự thảo thành lập Liên bang Đông Dương; - Vấn đề thống nhất ba kỳ và trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ; - Những vấn đề kinh tế; - Soạn thảo dự án hiệp ước (giữa nước Pháp và nước Việt Nam;. (l). Đoàn Việt Nam gồm có: Phạm Văn Đồng (Trưởng đoàn) và các thành viên: Phan Anh Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Nguyên Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Rưu Hội. Huỳnh Thiện Lộc, Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thông, Phạm Khấc Hoè. Hoàng Minh Giám. Ngoài ra là các chuyên viên: Nguyên Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọne Khánh, Hồ Đăc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tinh. Nguyễn Đắc Khê. Đoàn Pháp gôm có: Mác Angđrê (Max André. Trường đoàn), Giuygla (Juglasj. Lódơrảy (Lozeray), Bôđê (Baudet), Xalãng (Salan), Bácgio (Barjot), Pinhông (Pignoni. Tôren (Torel), Rivê (Rivet), Métxme (Messmer), Gônông (Gonon), Buốcgoanh íBourgcin;. Đacxy (D ’ Arcy), Gaê (Gayet). Buxkê (Bousquet). <2>. Philippe Devillers: Paris - SaiGon - HaNoi. sđd., tr.272. 3>Aẩn nvệù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 51 v ề tất cả những vấn đề trên, quan điểm của hai bên hoàn toàn khác nhau. Quan điểm của Pháp về "khối Liên hiệp Pháp không phải là quan niệm về một đồng minh mà là quan niệm về những quốc gia đoàn kết chặt chẽ với nhau bởi những cơ quan chung" (trong đó d ĩ nhiên các cơ quan của Pháp chiếm ưu thef'K Trái lại, quan điểm của phái đoàn Việt Nam căn cứ trên ý niệm đồng minh, hoà hợp quyền lợi, quan hệ song phương giừa các quốc gia độc lập, được nêu rõ trong bức công hàm trao cho phái đoàn Pháp ngày 12/7: ''Những moi quan hệ giữa nước Pháp và nước Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp là những quan hệ hợp đồng được xác định qua con đường hiệp ước. Những quan hệ ấy được thiết lập trên những nền tảng sau đây: a) Tự do gia nhập; b) Quy chế bình đẳng; c) Đoàn kết bảo vệ quyền lợi chung''<2>. Quan điểm trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung trong kỳ họp báo ngày 12/7/1946, nêu rõ: Sự tồn tại của Liên bang Đông Dương được xác nhận bởi sự cần thiết phải phối họp các hoạt động của Việt Nam, Lào và Campuchia. Căn bản nó phải mang nội dung kinh tế. Việt Nam kiên quyết ngăn chặn không cho Liên bang trở thành một thứ Chính phủ Toàn quyền giả hiệu. Từ ngày 13 đến ngày 30/7, các tiểu ban họp, đề cập lại các vấn đề đã nêu ở Hội nghị trù bị Đà Lạt. Hai phái đoàn thảo luận các vấn đề về thuế quan, tiền tệ, quân đội, ngoại giao,... và hầu như vấn đề nào cũng có những bất đồng. v ề vấn đề quân đội, phái đoàn Việt Nam dứt khoát bác bỏ nguyên tắc một bộ chỉ huy duy nhất trong thời bình và mọi ý đồ "tập thể hoá" tiềm năng quân sự. v ề vấn đề ngoại giao, cũng như ở Hội nghị Đà Lạt, phái đoàn Việt Nam yêu cầu có một nền ngoại giao riêng, có quyền trao đổi đại diện ngoại giao với nước ngoài, có quyền cừ đại diện riêng ở Liên Hợp Quốc. Phái đoàn (l). Philippe Devillers: Paris - SaiGon - HaNoi, sđd., tr.275. (2>. Philippe Devillers: Paris - SaiGon - HaNoi, sđd., tr.275. 52 (fjiắ» tùtxA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Pháp vẫn giữ quan niệm của mình về một nền ngoại giao duy nhât. luôn luôn chi chấp nhận sự tham gia của người Việt Nam vào các chức vụ ngoại giao của Liên hiệp Pháp. Nhưng giờ đây, họ chấp nhận nguyên tãc tụ quyẽt về mặt đại diện ngoại giao cấp lãnh sự. Cũng như ở Hội nghị trù bị Đà Lạt, vấn đề Nam Kỳ là vấn để gay cấn nhất, trở thành hòn đá cản của Hội nghị. Ngay từ ngày 12/7, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố rõ trong cuộc họp báo: "Nam Bộ là đất Việt Nam. Nó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi... Trước khi đảo Corse trở thành đất của Pháp, thì Nam Bộ đã là đất Việt Nam...". Tại phiên họp toàn thể ngày 26/7, Dương Bạch Mai - một thành viên trong phái đoàn Việt Nam - công khai phát biểu: "sổ phận của hội nghị này phụ thuộc chật chẽ vào vấn đề ba kỳ. Chừng nào mà Nam Kỳ, bằng cách này hay cách khác, còn bị tách ra khỏi Việt Nam, thì việc thoả thuận giữa nước Pháp và nước Việt Nam sẽ không bao giờ có được. Mọi sự đều tuỳ thuộc ván đê Nam Kỳ: tình hữu nghị Pháp - Việt, hoà bình cũng như trật tự ở Việt Nam, tương lai những quan hệ của chúng ta. Phải giải quyết vấn đề này càng sớm càng hay”. Ngày 1/8/1946, tại Đà Lạt, Đácgiăngliơ đã tổ chức trái phép Hội nghị Liên bang Đông Dương gồm đại diện bù nhìn Nam Kỳ, Lào, Campuchia, Tây Nguyên, Nam Trung Kỳ. Đe phản đối hành động này, Trường phái đoàn Việt Nam tuyên bố tạm ngừng cuộc đàm phán cho đến khi phía Pháp làm sáng tỏ âm mưu đó. Sau khi Hội nghị Phôngtennơblô tạm thời đình chỉ từ ngày 1/8/1946, Chù tịch Hồ Chí Minh vần tiếp xúc với đại diện Chính phủ Pháp đế hai bên có thể tiếp tục đàm phán. Những cuộc nói chuyện không chính thức bắt đẩu từ ngày 4/8 đến ngày 31/8/1946, chủ yếu là những cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ tướng Pháp Biđôn (Bidault) và với Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Mutê (Moutet) nhằm cố gắng sớm nối lại Hội nghị Phôngtennơblô. Trong các cuộc gặp gỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động đưa ra một số đề nghị sau đây đối với Chính phủ Pháp: - Quan tâm đừng để xảy ra những vụ rắc rối xung đột mới ờ Việt Nam. 9ầẩm. tnộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 53 - Đừng để vấn đề Nam Bộ thành cái cớ cho sự chia cắt giả tạo và cần có một chế độ lâm thời cho Nam Bộ trong khi chờ đợi giải pháp cuối cùng. - Ra lệnh cho quân đội Pháp đình chỉ tấn công vùng Tây Nguyên. - Để một đội quân hỗn hợp Pháp - Việt canh gác Phủ Toàn quyền cũ. Những đề nghị trên không được Chính phủ Pháp đáp lại. Tuy vậy, do những hoạt động ngoại giao tích cực và khéo léo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Phôngtennơblô được nối lại vào chiều ngày 10/9/1946. Nhưng Hội nghị không tiến triển được vì thực dân Pháp không thành thật đàm phán, cố ý phá hoại nên phải ngừng hẳn. Ngày gặp lại cũng là ngày kết thúc Hội nghị. Trong khi đó, tại Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường các hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đến gần. cần phải có một quyết định nhanh chóng nhằm kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng, củng cố thêm lực lượng cách mạng; đồng thời làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại ít ngày để tiếp tục thương lượng với Chính phủ Pháp. Ngày 12/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa cho Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Mutê một dự án gồm 11 điểm với một số nhân nhượng. Ngày 14/9/1946, Mutê gửi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh một dự án của Pháp. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Mutê đã có cuộc gặp gỡ và cùng ký bản Tạm ước Việt - Pháp (14/9/1946), gồm 11 điều khoản với một số điểm chủ yếu như sau: - Các kiều dân Pháp ở Việt Nam và kiều dân Việt Nam ở Pháp đều được quyền tự do cư trú như người bản xứ và những quyền tự do dân chủ. - Người Pháp ở Việt Nam được hưởng các chế độ về tài sản, xí nghiệp, thuế khoá và luật lao động như người Việt Nam. Những tài sản, xí nghiệp của kiều dân Việt Nam tại các xứ trong Liên hiệp Pháp cũng được hưởng sự ngang hàng về chế độ như thế. - Trong khi chờ đợi ký kết một bản hiệp định dứt khoát về ngoại giao của nước Việt Nam, một uỷ ban chung Việt - Pháp sẽ ấn định việc đặt lãnh sự Việt Nam tại các nước Liên bang và sự giao thiệp giữa Việt Nam với các lãnh sự ngoại quốc. 54 Viao lừttÁ LỊCH s ứ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY - Chính phủ Pháp và Chính phủ Việt Nam cùng nhau ấn đinh những phương sách để đình chi mọi hành động xung đột về vũ lực, các rù chính trị và tù binh sẽ được thả, chấm dứt tuyên truyền thù địch không thân thiện với nhau. - Chính phủ Pháp và Chính phủ Việt Nam tìm cách ký kết những thoà thuận riêng về bất cứ vấn đề nào để thắt chặt sự thân thiện và dọn đường cho một hiệp ước chung. Cuộc đàm phán sẽ tiếp tục càng sớm càng hay và chậm nhất là vào tháng 1/1947. - Tất cả các điều khoản của Tạm ước sẽ bắt đầu thi hành tù ngày 30/10/1946. Tạm ước Việt - Pháp được ký kết là do cả hai bên Việt Nam và Pháp chưa muốn đổ vỡ hoàn toàn. Lúc này Pháp muốn tránh dư luận nhân dân Pháp bất lợi cho phái hữu trong cuộc tổng tuyển cử cuối năm 1946 và có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến tranh quy mô hơn. Việt Nam cũng cần có thời gian để tiếp tục xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh với Pháp. Ngày 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Tổ quốc trone sự chờ đón đầy tin tưởng của toàn dân Việt Nam. Cuộc hành trình ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên đất Pháp tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản của cuộc đàm phán, nhưng đã làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hon vấn đề Việt Nam, biểu thị sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. c) Tận dụng khả năng hoà hoãn chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Sau ngày ký kết Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt - Pháp, tranh thu thời gian hoà hoãn, Chính phủ và nhân dân ta ra sức củng cố, xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến sắp tới. ở miền Nam, cán bộ, bộ đội tiến mạnh vào các vùng tạm bị địch chiếm tổ chức phát triển lực lượng vũ trang địa phương và chiến tranh du kích. Cùng với các cuộc bãi công, bãi thị, biếu tình, đòi tổ chức trưng cảu dán ý thống nhất đất nước, phan đối càn quét bình định, bắt lính, những cuộc nổi dậy diệt tề, trừ gian củng diễn ra mạnh mẽ nhàm khôi phục chính quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng. Phong trào đấu tranh cua nhản dán &Aẩn mệù VĨỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 55 Nam Bộ và Nam Trung Bộ từ sau ngày 6/3/1946 đến cuối năm phát triển mạnh mẽ, liên tục, toàn diện và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Tại Nam Bộ, chính quyền cách mạng được xây dựng và củng cố trên 1.000 xã trong tổng số 1.234 xã. Vùng giải phóng ở nông thôn được mở rộng gấp nhiều lần so với trước ngày 6/3/1946. Hệ thống căn cứ địa kháng chiến hình thành, nối liền từ Xứ uỷ xuống khu, tỉnh, huyện, nhất là ở Đông Nam Bộ. Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển. Ở các vùng nông thôn, hầu hết các xã đều thành lập tự vệ và du kích. Ở các đô thị, lực lượng tự vệ cũng được củng cố và hoạt động có hiệu quả, nhất là lực lượng tự vệ thành phố Sài Gòn. Các đơn vị bộ đội tập trung - các chi đội Vệ quốc đoàn, đã được xây dựng từ cấp tỉnh đến cấp khu. Toàn Nam Bộ đã xây dựng được 25 chi đội, tăng 25% so với lúc mới hình thành. Ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, nhiều căn cứ du kích hình thành. Ngoài các đơn vị bộ đội tập trung ở vùng tự do Khu V, đến tháng 7/1946, ở cực Nam Trung Bộ đã xây dựng được 4 trung đoàn chủ lực và 1 tiểu đoàn ở Tây Nguyên - Tiểu đoàn N ’ Tranglơn, gồm hầu hết các chiến sĩ là người dân tộc thiểu số. Ở miền Bắc, các tầng lớp nhân dân ra sức xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt. Khối đoàn kết toàn dân không ngừng mở rộng, nhất là từ sau khi thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (29/5/1946). Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội Quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (22/5/1946). Bên cạnh lực lượng vũ trang thường trực, Chính phủ còn quan tâm xây dựng lực lượng bán vũ trang. Đen cuối năm 1946, Việt Nam có trên 8 vạn bộ đội thường trực và gần 1 triệu dân quân, tự vệ ở hầu khắp các địa phương, từ thành thị đến nông thôn. Các trường đào tạo cán bộ chính trị, quân sự được thành lập: Tháng 3/1946, mở Trường Quân chính Bắc Sơn; tháng 5/1946, mở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn; tháng 6/1946, mở Trường Lục quân Quảng Ngãi. Đen cuối năm 1946, trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các trường quân sự đã đào tạo được hàng vạn cán bộ, bổ sung cho các đơn vị cơ sở. Trải qua hơn một năm đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, những khó khăn ban đầu đã được đẩy lùi. Tiềm lực của Nhà nước 56 <8iáo tunẢ LỊCH s ử VTỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY cách mạng được tăng cường một bước, tạo nên thế và lực mới cho toàn dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước. Có được những thắng lợi đó là do toàn dân đoàn kết chặt chẽ. thực hiện sự nghiệp vẻ vang "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc" dưới sự lãnh đạo của Đảng. "Đảng ta, đứng đầu là Hô Chủ tịch, với đường lôi chính trị vô cùng sáng suốt, cứng rắn về nguyên tắc, đã đưa nước nhà vượt qua muôn vàn khó khăn tưởng như không sao vượt qua nôi. Lúc thì hoà hoãn với Tướng đê rảnh tay đôi phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn VỚI Pháp đê đuôi cô quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai cùa Tirớng. giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc chong thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thế nào tránh khỏi"(I>. CÂU H Ỏ I - BÀI TẬP 1. Vì sao nói tình hình nước Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 chăng khác gì "ngàn cân treo sợi tóc''l 2. Đảng, Chính phủ cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương và biện pháp gì nhàm phát huy thuận lợi, giải quyết khó khăn trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945 - 1946)? 3. Nêu rõ sách lược của Đảng, Chính phủ cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân Trung Hoa Dân quốc và Pháp trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945 - 1946). 4. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ diễn ra như thế nào? 5. Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946: Hoàn cành ký kết, nội dung và ý nghĩa lịch sử? 6. Những hoạt động đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dán chu Cộng hoà nhăm xây dựng và bào vệ chính quyên đã diễn ra như thể nào trong hơn năm đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945? (l). Lê Duẳn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đàng, vì độc lập tự d o ... Sđd. tr.32. 3PAun mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 57 Chương 2 NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA cuộc KHÁNG CHIÊN TOÀN QUỐC CHỐNG THựC DÂN PHÁP (1946 - 1950) I - KHÁNG C H IÉN TOÀN QUÓC CH Ố N G T H ự C DÂN PHÁP BỪNG NÓ. ĐƯỜNG LÓI KHÁNG CHIÉN CHÓNG PHÁP CỦA ĐẢNG 1. Âm mưu và hành động chiến tranh của thực dân Pháp Hai ngày sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, trong cuộc gặp các Khu trưởng và Đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội tại Toà Thị chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Ký Hiệp định đình chiến này không phải là đã hết chiến tranh đâu... Trái lại, hon bao giờ hêt, ta phải luôn luôn chuân bị đê bôi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến cùa toàn dân để đổi phó với những việc bât ngờ bất cứ lúc nào cũng có thê xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực, tiếp tục không một giây, một phút nào ngừng,... "(I). Đúng như sự phán đoán của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước Việt - Pháp (14/9/1946), thực dân Pháp đã bội ước. Chúng lập ra "Chính phủ Nam Kỳ tự trị'' (1/6/1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu, nhằm tách Nam Kỳ ra khỏi nước Việt Nam thống nhất. Các cuộc hành binh lấn chiếm của quân Pháp diễn ra liên tiếp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngày 19/10/1946, Hội nghị Quân sự toàn quốc được triệu tập dưới sự chủ toạ của Tổng Bí thư Đàng - Trường Chinh. Hội nghị nhận định: "... nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định (l). Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học. Hà Nội. 1977, tr400 401. 58 Viáo íùnÁ LICH s ứ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY phải đánh Pháp"(I>. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định một số vấn đẽ vẻ quân sự, tư tưởng, tô chức nhăm nâng cao sức mạnh chiên đâu và khà năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang trong cả nước. Trong phiên họp thứ hai (28/10 - 9/11/1946), Quốc hội quyết định thống nhất Quân sự uỷ viên Hội với Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Việc phân chia chiến trường được xác định (cả nước được chia thành 12 chiến khu). Các cán bộ chỉ đạo, chỉ huy chủ chốt được điêu về để hoàn tất việc chuẩn bị chiến đấu ở mặt trận Hà Nội (Chiên khu XI). Ngày 26/10, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Chi huy Quân đội Quốc gia Việt Nam Võ Nguyên Giáp gửi cho Valuy, đề nghị phía Pháp ngừng băn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vào 0 giờ ngày 30/10 theo quy định cua Tạm ước Việt - Pháp (14/9/1946). Pháp đồng ý. Nhưng chi 10 ngày sau, chúng lại bội ước, tiếp tục gây hấn. Ngày 20/11/1946, chúng đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, hai cửa ngõ quan trọng đường bộ và đường thuv ở Bắc Việt Nam. Tiếp đó, chúng đổ bộ thêm quân lên Đà Nằng. Sau nhiều lần tăng viện, đến cuối năm 1946, đội quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Đông Dương lên tới hơn 90.000 tên, gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, 3 trung đoàn thiết giáp và cơ giới, hơn 100 máy bay và nhiều tàu chiến. Chúng đóng quân tại một số vị trí chiến lược trọng yếu trên đất nước Việt Nam. Ở miền Bẳc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, tổng số quân Pháp khoảng 30.000 tên, gồm có Sư đoàn Bộ binh thuộc địa số 9, Trung đoàn Bộ binh lê dương số 3; 1 tiểu đoàn thuộc bán Lừ đoàn lê dương số 13; 1 trung đoàn thiết giáp; trung đoàn chiến xa cơ động, một bộ phận quân dù, thuý quân, không quán, các đơn vị thông tin, vận tải, hậu cần. Dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Anh và Mỹ, từ khi đưa quân ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Sơ bộ. thực dân Pháp nuốt lời hứa. ráo nết thực hiện âm mưu mờ rộng chiến tranh. Chúng biến những đội quân tiếp phòng" thành đội quân chiếm đóng và áp dụng lối đánh lấn dần. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần vùng Đông Bắc, Tây Bấc và tiến cons Hai Phòng, Lạng Sơn. chúng chuẩn bị gây hấn ở Hà Nội với mục đích nấm lấy (l). Dần theo: Văn kiện Đáng toàn tập. Tập 8 (1945 - 1947; sđd tr 133 SMdn mậù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 59 quyền quản lý Thủ đô nước Việt Nam, hòng ''vô hiệu hoá tức thì Chính phủ Hồ Chí Minh". Với mưu đồ ấy, 6.500 lính viễn chinh được bố trí thành những cụm quân cơ động, chiếm giữ những vị trí bịt cửa ngõ thành phố, sẵn sàng đánh úp chiếm gọn các cơ quan đầu não cùa Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Kế hoạch chuẩn bị tiến công quân sự do Bộ chỉ huy Pháp vạch ra được xúc tiến, chúng chờ tăng thêm viện binh vào tháng 1/1947, sẽ mở một đợt hoạt động có tính chất quyết định, kết thúc công cuộc xâm lược. Song song với những hành động quân sự, thực dân Pháp còn thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc về chính trị. Ở Tây Bắc, chúng tổ chức bọn tay sai phản động chống lại cách mạng. Tại một số địa phương, chúng tìm cách liên lạc, móc nối những tên tay sai trong bộ máy cai trị cũ, tập hợp những phần từ phản động cầm đầu trong các tôn giáo chống lại chính quyền dân chủ nhân dân. Để chuẩn bị cho việc thực hiện âm mưu xâm lược toàn diện theo chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, thực dân Pháp ráo riết tìm mọi cách nắm tình hình mọi mặt ở miền Bắc, nhất là lực lượng quân sự và khả năng phòng thủ của ta. Nguy cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước tới gần. Tinh thế vô cùng nghiêm trọng. Quân và dân Việt Nam sằn sàng chiến đấu chống quân xâm lược. Ke hoạch tác chiến ở các thành phố, thị xã được triển khai khẩn trương. Nhân dân, trước hết là các cụ già, trẻ em, những người đau yếu, tàn tật rời khỏi thành phố. Đội công tác đặc biệt được thành lập và lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ. Các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc Kạn) mà trung tâm là các huyện Định Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn được chọn làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. Bước vào tháng 12/1946, quân Pháp tiếp tục khiêu khích ở nhiều nơi, nhất là tại Hà Nội. Chủ trương của Đảng và Chính phủ lúc này là "vần tranh thủ khả năng hoà bình'', nhưng "phải chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và trường kỳ ”. Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhắt (1 2 - 16/1/1947) nêu rõ mức độ phá hoại đối với từng vùng, từng nơi. Ngày 16/1/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi đ o r " hào phá hoại để khắng chiến''\ ''Đánh thì phải phá hoại... Bây giờ ta phải phá đi, đê chận Pháp lại, không cho chúng tiên lên, không cho chúng lợi dụng. Ta vì nước hy sinh, chịu khô một lúc. Đêti ngày kháng chiên tháng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết sửa sang lại... "(2>. Hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của công tác phá hoại, từ đâu tháng 12/1946, các địa phương đã lập được kế hoạch phá hoại. Các Ban Phá hoại íược tổ chức và đi vào hoạt động. Công tác phá hoại diễn ra trong khí thế cách mạng sục sôi cua quân húng. Với tinh thần yêu nước cao độ và với niềm tin tất thang, nhân dân Việt Nam tự tay mình phá sập nhà cửa, xí nghiệp, hầm mò; đào hào. đăp ụ; dựng vật cản trên các đường giao thông thuỷ, bộ. Nhiều thành phố. thị xã lén thành bình địa, biểu thị sức mạnh phi thường của ý chí quyét tâm kháng chiến và niềm tin tất thắng của nhân dân Việt Nam. Chi trone mây háng cuối năm 1946 — đẩu năm 1947, quân và dân các địa phưcme đã phá .oại 1.060 km đường sắt, 5.640 km đường ôtô, 30.500 cầu cống. 59.100 ngôi nhà, 84 đầu máy và 868 toa tàu hoả,... Điều đó đã góp phân làm chậm bước tiến của quân thù và hãm chúng vào một tình thế khó khăn. Tuy nhiên, trong công tác phá hoại đế kháng chiến, một số địa phương còn phá tràn lan. Ngược lại, có nơi mắc bệnh chủ quan, chưa tích cực thực hiện; Ban Phá hoại tuy thành lập nhưng chưa hoạt động. àinÁ LỊCH SỬ VTẼT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY phải tổ chức ngay bộ đội bổ sung, việc tuyến lựa bộ đội này phái đươc Bó Quốc phòng chuẩn y trước...”(I>. Ngày 12/2/1947, Chính phủ ra sắc lệnh số 16/SL thành lập Phòng Dân quân, trực thuộc Cục Chính trị (đến tháng 7/1947, đê tiện việc chi đạo. Phòng Dân quân chuyển sang trực thuộc Bộ Tổng Chi huy). Tiẻp theo, ngày 19/2, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, tự vệ, du kích. Hàng chục vạn quần chúng, thuộc đu các lứa tuổi, hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Đen cuôi nãm 1947. tại nhiều địa phương, ở các xã đã có từ ] đến 2 trung đội dân quân, tự vệ; ơ huyện có từ 1 đến 2 trung đội du kích thoát ly; ờ tinh có từ 1 đẻn 2 đại đội du kích thoát ly. Với phong trào "Cướp vũ khí địch đánh địch", nhiêu đơn vị dân quân, tự vệ và du kích dần dần tự trang bị tốt hơn. Tháng 3/1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng Chi huy Quán đội Quốc gia thành Bộ Tổng Chì huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam; đồng thời quyết định thành lập các Ban Chi huy Tinh đội, Huvện đội, Xã đội thuộc Uỷ ban Kháng chiến các cấp. Việc huấn luyện được tó chức thường xuyên và đi dần vào nền nếp. Tại Việt Bắc, Khu IV, Khu V và các căn cứ thuộc Nam Bộ có chế độ huấn luyện thường kỳ cho dân quân, tự vệ và du kích. Từ mùa hè năm 1947, kháng chiến mở rộng, hàng chục vạn quẩn chúng thuộc mọi tầng lớp hăng hái gia nhập dân quân, tự vệ và du kích. Hàng nghìn làng kháng chiến bước đầu được xây dựng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt coi trọng. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Quân sự lần thứ 3 (6/1947), Bộ Tổng chi huy điều động cán bộ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trường Quân chính về thị xã Bắc Kạn mở các lóp bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Hàng trăm cán bộ các cấp được bổ túc về quân sự và chính trị. Tháng 8/1947, Bộ Tổng chi huy mớ lớp bổ túc cán bộ Đàng cấp toàn quân tại xã La Bằng (huyện Đại Từ, tinh Thái Nguyên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc và huấn thị cho lớp học. Ngoài ra, nhiêu khu. tinh cũng mờ các khoá đào tạo bồi dưỡns neấn hạn cho cán bộ dân quân, tự vệ, du kích từ cấp tiểu đội đến đại đội. (l). Văn kiện quản sự cùa Đảng (1945 - 1950). Tập 2 (Từ ngày 2/9/1945 đến ngày 10/10/1950). Nxb. QĐND. Hà Nội 1976, tr.83. PAần m ệt VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 75 Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân, du kích, phong trào xung phong tòng quân cũng diễn ra sôi nổi trong thanh niên. Chì trong mùa hè năm 1947, đã có 35.000 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, nâng tổng số bộ đội chủ lực từ 85.000 người (trước ngày toàn quốc kháng chiến) lên 125.000 người. c) v ề kinh tế Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp tự túc, phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân vùng tự do, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu ngày càng lớn của chiến trường. Hội nghị cán bộ Trung ương (từ ngày 3 đến ngày 6/4/1947) đề ra một chương trình kinh tế kháng chiến gồm hai mặt: Mặt tiêu cực: Phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá hoại; làm cho địch không kinh doanh, bóc lột gì được, không thực hiện được chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Mặt tích cực: Xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, lập nền kinh tế tự túc. Hội nghị cán bộ Trung ương còn đề ra phương châm xây dựng nền kinh tế phù hợp với điều kiện chiến tranh: Chỉ sản xuất những thứ cần dùng cho mặt trận và đời sống của nhân dân,... v ề các ngành kinh tế, chú trọng nhất là nông nghiệp, thương mại rồi mới đến kỹ nghệ (chú ý kỳ nghệ chế vũ khí và khai thác),... Quán triệt phương châm trên, Chính phủ đề ra nhiều chính sách quan trọng: Chính sách tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu "Thực túc binh cường", "An no đánh thang''-, chính sách tiết kiệm và đồng cam cộng khổ; chính sách tôn trọng quyền tư hữu tài sản hợp pháp của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế; chính sách điều hoà lợi ích,... Mặc dù có sự chuân bị từ trước, nhưng cuộc kháng chiến nổ ra vẫn làm cho nền kinh tế bị đảo lộn. Sản xuất công nghiệp và thương mại ờ các thành phố lớn bị ngưng trệ. Nông nghiệp cũng gặp khó khăn, nhất là nhiều vùng bị địch chiếm. Trước tình trạng đó, Trung ương Đảng và Chính phủ chỉ đạo: Phương hướng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất trong kháng chiến là chú trọng nông nghiệp, thủ công nghiệp, thưong nghiệp và công nghiệp quốc phòng; khuyến khích hình thức kinh tế cá nhân, kinh tế họp tác xã và kinh tế nhà nước. 76 'P jú ío lù n  LỊCH SỬ VIẾT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Trong nông nghiệp, nhiều chính sách và biện pháp lớn được ban hành, bao gồm: Chính sách toàn dân tăng gia sản xuất; chính sách phát tnẻn san xuất gắn liền với chính sách ruộng đất; chính sách nhân công; chính sách cải tiến kỹ thuật; chính sách bảo vệ sản xuất. Phong trào tăng gia sản xuát râm rộ khắp nơi, góp phần thiết thực nâng cao tiềm lực kinh tê kháng chiên. Riêng các vùng tự do, trong năm 1947, giai cấp nông dân đã cây được 1.893.700 ha lúa, thu được 2.194.000 tấn thóc; trồng được 243.000 ha hoa màu, thu được 474.000 tấn, tăng 89% so với năm 1941(l). Cùng với sản xuất nông nghiệp, trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những xí nghiệp quốc phòng và dân dụng có quy mô thích hợp đã lần lượt được xây dựng ở vùng tự do và vùng căn cứ kháng chiến. Công nghiệp quốc phòng là hệ thống công nghiệp quan trọng nhất trong thời kỳ kháng chiến. Ngay từ đầu kháng chiến, trong quá trình di chuyển cơ sờ vật chất kỹ thuật lên căn cứ, Bộ Tổng chỉ huy đã xác định phương hướng tổ chức các xí nghiệp quốc phòng là: Xây dựng một hệ thống các xưởng với nhiều thiết bị máy móc và công nhân để chế tạo, sản xuất lớn; xây dựne một hệ thống chuyên môn hoá, như sửa chữa vũ khí, đúc lựu đạn, nhồi lấp lựu đạn; xây dựng một số tổ, kíp sửa chữa nhỏ đi lưu động để sửa chữa vũ khí. Tính đến cuối năm 1946, Ngành Quân giới đã có 20 cơ sở lớn và nhỏ với 2.500 công nhân. Đầu tháng 2/1947, Chính phủ ra quyết định thành lập Cục Quân giới thay cho Cục Chế tạo. Có thể nói, Ngành Quốc phòng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nguyên vật liệu, kỹ thuật sản xuất, tổ chức quản lý, đào tạo cán bộ, công nhân. Nhịp độ sản xuất vũ khí, đạn dược tăng rất nhanh. Tính theo đơn vị tấn và lấy chỉ số năm 1946 là 100, thì năm 1947, từ Liên khu IV trờ ra là 707, năm 1948 là 1.044. Đen giữa năm 1947. ớ các khu, tinh từ Bắc đến Nam đã xây dựng được 168 binh cồng xướng, mỗi xưởng có từ 200 đến 500 công nhân. Ngoài các xưởng quân giới do Bộ Quốc phòng tổ chức, còn có các xưởng vũ khí dân quân do các địa phương tự xây dựng và chỉ đạo. Riêng Liên khu Việt Bẳc đã có tới 8 xưởng sản xuất vũ khí. (l). Viện Sứ học: Lịch sư Việt Xam <9/1945 - 1950). sđd.. tr. 181 Piuỉn w VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 77 Song song với công nghiệp quốc phòng, Chính phù Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương phát triển công nghiệp dân dụng, trong đó có một số cơ sở thuộc thành phần quốc doanh. Nhiệm vụ của các xí nghiệp công nghiệp quôc doanh là cung cấp giấy bạc, giấy in, giấy viết, vải, xà phòng, bóng đèn,... phục vụ các cơ quan dân - chính và các yêu cầu dân sinh. Ngành Thủ công nghiệp được xây dựng, phát triển với quy mô nhỏ, phân tán, kết hợp công cụ sản xuất thô sơ với máy móc, dựa vào dân và nguyên liệu trong nước, địa phương tự lập, sản xuất tự cấp tự túc. Nhờ đó, ngay từ đẩu, ngành Thủ công nghiệp đã tập trung giải quyết những mặt hàng tối cần thiết như dệt, giấy, ấn loát, xà phòng, chén, bát, chiếu, đường, nước mắm,... Thương nghiệp, tiền tệ, giá cả đã có sự chuyển hướng cho phù hợp với thời chiến. Đầu năm 1947, Chính phủ giao cho Nha Tiếp tế thuộc Bộ Kinh tế (thành lập tháng 5/1946) nhiệm vụ thu mua và dự trữ thóc gạo. Cơ quan Phân phối muối (thuộc Bộ Tài chính) tổ chức vận chuyển muối của Nhà nước và muối trên thị trường tự do đưa về các khu an toàn. về tiền tệ, ngày 15/5/1947, Chính phủ ra sắc lệnh số 48/SL cho lưu hành bạc Việt Nam (bạc tài chính) trong toàn quốc. Khối lượng giấy bạc Đông Dương cũ của Pháp được thu về làm vốn trang trải cho Ngành Ngoại thương. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, nên đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt. Vùng tự do Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lưu hành giấy bạc tài chính do Trung ương phát hành. Các tỉnh Khu V, chủ yếu là 4 tình tự do (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) lúc đầu lưu hành tiền tài chính Trung ương, đến tháng 7/1947, theo sắc lệnh số 23/SL ngày 18/7/1947, Chính phủ cho phép Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Trung Bộ được phát hành tín phiếu và lưu hành song song vói tiền tài chính một thời gian (từ năm 1952, Chính phủ cho thu hồi bạc tài chính, chỉ còn lưu hành tín phiếu). Ờ Nam Bộ, do địch đánh toả ra sớm, nên tại các căn cứ kháng chiến những năm 1947. 1948, một số nơi lưu hành bạc tài chính Trung ương do Khu V chuyển vào. Ngày 1/11/1947, Chính phủ ra sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ được phát hành một số loại tín phiếu có giá trị như giấy bạc Việt Nam. 78 fe> àinÁ LỊCH sứ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY d) v ề văn hoá, giáo dục, y tế Đảng và Nhà nước chủ trương không để hoạt động văn hoá. giáo dục bị đứt đoạn vì chiến tranh, mà phải được tiếp tục phát triên và phục vụ tót cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Đảng và Chính phu đã dành sự quan tâm to lớn cho sự phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điêu kiện từng bước phát triển khoa học và kỳ thuật phục vụ kháng chiên, kjẻn quỏc. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 (3 - 6/4/1947; chi rõ: Động viên tât cả giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiên, dùng các nhà trí thức văn hoá, chuyên môn vào ngành công tác như quân giới, quân y. giáo dục, tuyên truyền kháng chiến, chú trọng mớ mang giáo dục kháng chiến,... Vừa kháng chiến, dân tộc Việt Nam vừa dựng nên một nên ván hoá mới, có tính chất hợp với tinh thần dân tộc độc lập, hợp với khoa học. tiên bộ, hợp với tình hình và trình độ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ ờ mọi miền đât nước đã khoác balô lên đường kháng chiến. Mọi hoạt độne văn hoá, văn nghệ đều hướng vào phục vụ kháng chiên theo khâu hiệu: "Tất cả đê chiên thăng". Nhiêu truyện ngăn, phóng sự, nhạc phẩm, thơ ca được sáng tác, đề cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niêm tin vào thăng lợi của kháng chiên. Các tác phâm ván nghệ, Đài Phát thanh tiêng nói Việt Nam và báo chí ở các vùng tự do đã góp phần đắc lực vào công tác tuyên truyền chủ trương của Chính phú. cổ vũ tinh thần kháng chiến của toàn quân, toàn dân, chống lại các luận điệu phàn tuyên truyền của địch. Ngành Giáo dục đã có một bước tiến mới về nội dung, phươnơ hướng đào tạo trong điều kiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Hội đồng Chính phủ xác định phải tổ chức lại nền giáo dục trong thời kỷ chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phương châm giáo dục là học đi đôi với hành, tổ chức giáo dục chính là thực hiện kháng chiến bàng văn hoá; giáo dục là văn hoá của cuộc kháng chiến. Yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đòi hòi phải sửa đổi chương trình giáo dục, phải biên soạn sách và sửa đổi cách dạy cho phù hợp. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo theo phương châm thiết thực là chính, nhưng phai để cao chất lượng. Dù chiên tranh ngày càng ác liệt và việc tô chức lớp học ngày càn£ khó khăn, nhưng chính quyên các câp và các cơ quan giáo dục đã cô sãns du % tri &iuỉn mộù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 79 hệ thống giáo dục trong vùng giải phóng. Nền giáo dục kháng chiến được tổ chức khá đa dạng và toàn diện. Ngoài giáo dục hệ chính quy gồm các trường phổ thông và cao đẳng, đại học, còn có hệ bổ túc văn hoá và hệ thống các trường chính trị, quân sự. Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và mở rộng. Năm 1947, Khu X mở được 153 lớp huấn luyện, đào tạo 3.745 giáo viên; động viên trên 130.000 học viên theo học các lớp Bình dân, gấp 5 lần so với số lượng học viên năm trước. Tại các tỉnh Liên khu V và Bình - Trị - Thiên, mặc dù bị địch bao vây bắn phá, nhưng các cấp chính quyền dân chù nhân dân đã khắc phục khó khăn để bám đất, bám dân nhằm từng bước khôi phục các lớp Bình dân học vụ theo khẩu hiệu "Tay bút, tay súng", "Diệt dốt xâm lăng”. Đen cuối năm 1947, cả nước đã thanh toán nạn mù chữ cho trên 1,2 triệu người, trong đó có làng, xã ở Hải Dương và Thái Bình được công nhận xoá xong nạn mù chữ. Ngành Giáo dục phổ thông phát triển khá nhanh. So với tháng 12/1946, tính đến tháng 6/1947, số học sinh tiểu học ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lên tới 147.000 em, tăng 47%. Nội dung giảng dạy và phương thức hoạt động trong các nhà trường phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Chế độ thi cử xác nhận bậc học của học sinh và tuyển chọn học sinh vào các lớp trên được duy trì. Tháng 4/1947, Chính phủ ra Nghị định mở kỳ thi Trung học và Tiểu học trong cả nước. Đen cuối năm 1947, đã có hàng nghìn trường tiểu học và trung học thu hút hàng vạn con em nhân dân đến lớp học. Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý. Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ y tế phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Một số cơ sở đại học và trung học y - dược chuyển từ Hà Nội lên Việt Bắc tiếp tục hoạt động. Mạng lưới y tế địa phương, gồm các trạm cứu thương, trạm xá, phòng phát thuốc, bệnh xá, bệnh viện từng bước hình thành. Cuộc vận động thực hiện nếp sống vệ sinh được phát động thường xuyên. Những thành tựu về các mặt nói trên tuy mới là bước đầu, nhưng đó là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho quân và dân cả nước giành thẳng lợi 80 (8ũú> tùnA LỊCH s ử VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY trên mặt trận quân sự, trước mắt là đập tan cuộc tấn công cua giặc Pháp trong Thu - Đông 1947. IV - CHIÉN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947 1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quôc đã trái qua 5 tháng, v ề cơ bản, các mục tiêu chiến lược do Trung ương Đáng đẻ ra đã đạl được kết quả quan trọng: "Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ. Chiên sự ớ Trung Bộ (Thừa Thiên, Quảng Trị,...) có phân bát lợi cho ta lúc đáu. Nhưng do dân và quân ta một lòng hy sinh phân đâu và chuyên qua cách đánh du kích mau lẹ nên tình hình đã trở lại. Chiên sự ở Nam Bộ vù miên Xam Trung Bộ khá hơn trước. Quân du kích cùa ta ờ đó hoạt động đã thu được nhiêu két quả khả quan"1 n. v ề phía thực dân Pháp, ở Bấc Bộ, tuy đã được tăng viện lên 1 ] tiêu đoàn Âu - Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chí đú sức chiêm giữ một sô thành phố, thị xã (Hà Nội, Nam Định, Hãi Dương, Hái Phòng;. Trên con đường giao thông chiến lược nối liền Hà Nội với Hai Phòng, tuy địch đã sừ dụng một lực lượng bào vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động của du kích; không có cuộc hành quân nào của địch trên tuvển đương này được an toàn. v ề phía lực lượng kháng chiến, bộ đội chu lực vẫn được bào toàn và phát triên cả về sô lượng và trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn. Thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố và mơ rộne. Như vậy là, âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh cúa thưc dán Pháp bước đầu bị thất bại. Cuộc chiến tranh vần kéo dài và ngày càns mơ rộng đã khiến cho thực dân Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, quân số thiếu hụt. Số quân tăng viện nhỏ giọt từ Pháp sang không sao khấc phục được tinh trạng phân tán, dàn mòng lực lượng trên các chiến trường. Một bộ phận binh sĩ địch băt đầu tò ra chán shét chiến tranh. Những vụ phản chiến xuất hiện ơ một số nơi. (l). Dần theo: Văn kiện Đảng toàn lập. Tập 8 (1945 - 1947). sđd., tr. 176. Piuin ntệù VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 81 Trước tình hình trên, thực dân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ giữa thù đoạn chính trị và biện pháp quân sự. v ề chính trị, chúng vừa cố tạo ra một chính quyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúng bằng một thứ lý tưởng đối lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính, về quân sự, chúng vừa bình định miền Nam, vừa tập trung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở miền Bắc, hòng đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương. Trong phiên họp ngày 9/6/1947, Hội đồng Phòng thủ Đông Dương thông qua trên nguyên tắc cuộc tiến công mùa thu 1947 với mục đích: "Bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quôc,... loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào; truy lùng Việt Minh đên tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ"(l>. Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, đến đầu tháng 9/1947, kế hoạch tiến công lớn trên chiến trường Bắc Bộ của Bộ Chỉ huy Pháp càng lộ rõ. Ngày 10/9/1947, tại Hà Đông, trong một bài diễn văn bằng những lời lẽ lừa bịp, lắt léo, Bôlae (Bolaert) thay mặt Chính phủ Pháp tuyên bố không có lý do gì để kéo dài chiến tranh, nhưng vẫn ngoan cố không công nhận độc lập của Việt Nam, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh. Như vậy, thực dân Pháp có ý đồ kết thúc cuộc chiến tranh bằng một cuộc tiến công quân sự chớp nhoáng. Ke hoạch tiến công Việt Bắc do Xalăng (Salan), Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương vạch ra, được Chính phủ Pháp phê chuẩn trong tháng 9/1947. Kế hoạch này trước hết nhàm bao vây, tiến tới tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh; dùng thắng lợi quân sự để xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc. Đánh lên Việt Bắc, thực dân Pháp còn nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn con đường liên lạc giữa cách mạng Việt Nam với quốc tế. Lực lượng Pháp tung ra trong cuộc tiến công gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh; tất cả là 12.000 quân. (l). Xalãng: MỘI đế quốc cáo chung: Việt Minh - địch thủ của tôi. Tập 2, Bàn dịch, tr.74. 6-GTLSVN1945.NAY