🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình kinh tế vĩ mô cơ bản
Ebooks
Nhóm Zalo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TS HOÀNG XUAN b ìn h (Chủ biên)
GIÁO TRÌNH
KINH TÊ Vỉ MÔ Cơ BẢN
C ữ
NHÀ XUÁT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
TẬP THẺ TÁC GIẢ BIÊN SOẠN
TS Hoàng Xuân Bình (C hương 1; C hư ơng 3; C hương 7) TS Nguyễn Thị Thùy Vinh (C hương 9)
ThS Hoàng Tuấn Dũng (C hương 6)
ThS Phạm Xuân T rư ờng (C hương 8)
ThS Lê P hương Thảo Quỳnh (C hương 5)
ThS Nguyễn Thị Hiền (C hương 4)
ThS Nguyễn Thị Hồng (C hương 2)
LÒI NÓI ĐẦU
Rinh tế học vĩ mô là một nhánh của kinh tế học. Trong bối cảnh
kinh tế vĩ mô ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới có những bất ổn khó lường, việc nắm vững các lý thuyết kinh tế vĩ mô nhàm có thê đưa ra các chính sách kinh tế hiệu quả là điêu hêt sức quan trọng. Bám sát vào nhũng nội dung của chương trình kinh tế học vĩ mô cơ bản của Việt Nam và tham khảo một số chương trình học của các nước tiên tiến trên thế giới như Anh, Mỹ, Nhật..., chúng tôi biên soạn cuốn giáo trình “Giáo trình
Kinh tế vĩ mô cơ bản” với mục đích giúp các bạn sinh viên hoặc người đọc tiếp cận những lý thuyết kinh tế học vĩ mô cơ bàn. Cuốn sách bao gồm 9 chương, gồm nhiều nội dung từ khái niệm, thuật ngữ, công thức tính toán hay những vấn đề chính sách cụ thể. Các vấn đề kinh tế vĩ mô cơ bản được trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ ngắn hạn đến dài hạn, giúp người học vừa nắm được các lý thuyết cơ bản về kinh tế vĩ mô, vừa trang bị các kỹ năng tính toán, tư duy, phân tích mới, từ đó có thể hoàn thành tot những nội dung được trình bày. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đưa ra một số tình huống kinh tế cụ thể để làm rõ hơn các nội dung lý thuyết giúp người đọc có thể vận dụng các lý thuyết vào nền kinh tế thực. Do vậy, cuốn sách vừa giúp người đọc có thể trang bị các kiến thức kinh tế vĩ mô cơ bản, vừa có thể bước đầu giúp rèn luyện kỹ năng phân tích và đánh giá tình huống, chính sách kinh tế vĩ mô cho người học.
Để hoàn thành được cuốn sách này, các tác giả xin được gửi lời cám ơn đến Trường Đại học Ngoại thương, Phòng Quàn lý khoa học, các đồng nghiệp trong Bộ môn Kinh tế học vĩ mô, Khoa Kinh tế quốc tế. Trong quá trình biên soạn cuốn sách, các tác giả đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp, tuy nhiên chắc chắn cuốn sách sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những góp ý của các độc giả để cuốn sách ngày được hoàn thiện hơn.
Các Tác giả
3
MỤC LỤC
Lời nói đầu.............................................................................................................. 3 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VẺ KINH TẾ HỌC v ĩ M Ô.............................. 7 I. Sự hình thành và phát triển của kinh tế học vĩ mô..........................................7 II. Khái niệm về kinh tế học và kinh tế học vĩ m ô............................................13 III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô.................16 IV. Hệ thống kinh tế học vĩ m ô.......................................................................... 18 V. Mục tiêu và công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô................................................23 CHƯƠNG 2. ĐO LƯỜNG CÁC BIẾN SÓ KINH TÉ v ĩ M Ô ...................31 I. Tổng sản phẩm quốc nội.................................................................................. 31 II. Các biến vĩ mô khác đo lường sản lượng..................................................... 44 III. Chi số giá tiêu dùng....................................................................................... 48 CHƯƠNG 3. TỎNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ...................... 60 I. Thị trường hàng hóa và mô hình giao điểm của Keynes.............................60 II. Chính sách tài khóa......................................................................................... 78 CHƯƠNG 4. TIÈN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIÊN TỆ.................................92 I. Một số vấn đề cơ bản về tiền tệ ...................................................................... 92 II. Cung tiền tệ ...................................................................................................... 96 III. Cầu tiền tệ......................................................................................................107 IV. Cân bằng thị trường tiền tệ.......................................................................... 111 V. Chính sách tiền tệ ..........................................................................................114 CHƯƠNG 5. TỎNG CẦU VÀ TỐNG CUNG............................................. 125 I. Những đặc điểm cơ bản cùa biến động kinh tế............................................125 II. Mô hình tổng cầu và tổng cung....................................................................127
5
III. Vận dụng mô hình tổng cầu - tổng cung để giải thích
biến động kinh tế trong ngắn hạn................................................................... 141 CHƯƠNG 6. THÁT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁ T....................................... 154 I. Thất nghiệp.................................................................................................... 154 II. Lạm phát.......................................................................................................163 III. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.............................................. 177 CHƯƠNG 7. TĂNG TRƯỞNG KINH T Ế .................................................188 I. Khái niệm và đo lường tăng trưởng kinh tế ...............................................189 II. Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế ................................................192 III. Cơ sờ lý thuyết xác định nguồn lực của tăng trường kinh tế ............... 200 IV. Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ......................................... 211 CHƯƠNG 8. TIÉT KIỆM ĐẦU TƯ VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 221 I. Giới thiệu tổng quan về hệ thống tài chính................................................222 II. Hạch toán thu nhập quốc dân và các đồng nhất thức............................. 237 III. Thị trường vốn vay.................................................................. ..................243 IV. Các chính sách tác động đến tiết kiệm và đầu tư .................................. 247 CHƯƠNG 9. KINH TẾ v ĩ MÔ CỦA NÈN KINH TÉ M Ở .................. 264 I. Cơ sờ cùa thương mại quốc tế ....................................................................264 II. Cán cân thanh toán quốc tế ........................................................................268 III. Tỷ giá hối đoái...........................................................................................274 IV. Mô hình kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế m ở.........................................282 V. Phân tích tác động của các chính sách và cú sốc
trong nền kinh tế mờ........................................................................................290 TÀI LIỆU THAM K H Ả O ........................................................................... 301
6
ckươna
GIỚI THIỆU VỀ KINH TÊ HỌC v ĩ MÔ
I. Sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỀN CỦA KINH TÉ HỌC v ĩ MÔ 1. Giai đoạn 1776 đến 1936
Tình hình kinh tế chính trị thế giới trong giai đoạn này nồi lên đó là sự cạnh tranh tự do trong nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa. Thị trường được hình thành trên cơ sờ có nhiều người mua và nhiều người bán, trong đó thông tin về mặt hàng, giá cả giao dịch... khá đầy đủ do đó sức mạnh thị trường của một hay một số hãng trên thị trường là tương đối nhò, điều này dẫn đến việc gia nhập hay rút khòi thị trường của các hãng là khá dễ dàng. Với đặc điểm đó, vai trò điều tiết thị trường dưới tác động cùa cung cầu trong nền kinh tế là rất tốt. Một sự tăng giá ở nơi này sẽ được thông tin đến nơi khác có giá thấp hơn, do đó hàng hóa dịch vụ sẽ di chuyển đến nơi có giá cao hơn, kết quả cung tăng giá giảm, còn nơi giá thấp khi cung giảm giá sẽ tăng lên, đảm bảo tính khá ổn định và cân bằng trên thị trường. Hầu hết toàn bộ nền kinh tế hoạt động một cách khá lành mạnh, minh bạch và ổn định. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng những năm 1930 đã tạo ra những thay đổi mới trong nền kinh tế và xã hội các nước tư bản, và dẫn tới những thay đổi trong quan điểm quàn lý và điều tiết nền kinh tế.
Có thể nói rằng tác phẩm Tim hiếu ve bán chất và nguyên nhân sự giầu có cùa các quốc gia (An Inquiry into the Nature and Causes o f the Wealth o f Nations hay thường có the viết gọn là The wealth o f nations) của nhà kinh tế học cồ điển người Anh là Adam Smith (1723 - 1790), xuất bản năm 1776 là một bước ngoặt quan trọng trong việc xây dựng và phân tích các vấn đề kinh tế một cách có hệ thống. Quan điểm chủ đạo trong cuốn sách này là thị trường tự do, lấy thị trường là trung tâm điều tiết nền kinh tế. Adam Smith cho rằng thị trường là lực lượng duy nhất có thể điều tiết nền kinh tế, đó chính là bàn tay vô hình (Invisible Hands), ống đã chỉ ra sự tồn tại và tính hiệu quả cùa bàn tay vô hình là do các quy luật kinh tế khách
7
quan chi phối các hoạt động trong nền kinh tế và con người. Tuy nhiên để các quy luật kinh tế khách quan có thể vận hành cần phài có một số điều kiện cơ bản như: phải có sự tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phải hoạt động trên cơ sờ tự do kinh tế và trao đổi hàng hóa; các tác nhân trong trao đổi phải có sự bình đẳng về kinh tế. Chủ nghĩa tư bản (CNTB) là xã hội có thể đáp ứng đuợc các điều kiện đó. CNTB là một xã hội được hình thành và phát triển trên cơ sở các quy luật kinh tế tự nhiên, còn các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, hay một số mô hình các nền kỉnh tế đóng, kinh tế bao cấp ở một số nước xã hội chù nghĩa (XHCN), hay Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên hiện nay, các quy luật kinh tế khách quan không thể vận hành được. Từ quan điểm đó, Adam Smith cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế mà chỉ nên có các chức năng là bảo vệ quyền sờ hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài và các phần tử tội phạm trong nước. Mặc dù vậy, ông cũng cho ràng, ừong một số trường hợp, một số vấn đề kinh tế vượt quá khả năng cùa doanh nghiệp như xây dựng đường xá, đào sông, xây dựng các công trình công cộng khác, Nhà nước nên có vai trò trong những vấn đề đó.
Có thể nói tác phẩm của Adam Smith đã đặt nền móng cho tư tường của kinh tế cổ điển, mà tại đó vai trò cùa thị trường được đề cao, nghiên cứu được đề cập ờ đây là dài hạn và tập trung vào các lực lượng cung sản xuất hàng hóa. Trong giai đoạn này, các nhà kinh tế chú ý đến phân tích và nghiên cứu nền kinh tế thông qua hoạt động trao đổi, lưu thông... Các tác nhân trong nền kinh tế là các hãng, doanh nghiệp được phân tích để rút ra kết luận chung áp dụng cho các hãng và doanh nghiệp khác. Như vậy, cách tiếp cặn và phàn tích các tác nhân trong nền kinh tế như vậy gắn với kinh tế học vi mô ngày nay.
2. Giai đoạn 1936 đến 1971
Đặc điềm kinh tế thế giới giai đoạn này là sau khủng hoàng kinh tế những năm 1929 - 1933, nền kinh tế các nước CNTB bước sans giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nguyên nhân của bước chuyền trong các nước TBCN xuất phát từ một số nguyên nhân sau đây.
Thử nhắt, trong quá trinh tự do cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản, theo nguyên lý bàn tay hữu hình, các nhà tư bàn có lợi thế về tư bàn lực lượng sàn xuất và trinh độ kỹ thuật cao sẽ có lợi thế so với các nhà tư
8
bản khác và cuối cùng trong sự cạnh tranh đó, họ sẽ giành chiến thắng. Các hãng nhỏ sẽ bị thâu tóm, buộc phải sáp nhập hay bị phá sản. Điều này hiện nay cũng diễn ra ở một số nền kinh tế chuyển đổi khi mà giai đoạn ồ ạt xuất hiện của các doanh nghiệp, ngân hàng, sau đó dẫn đến sự cạnh tranh, mặc dù có sự điều tiết của Chính phủ, nhưng quy luật kinh tế là khó tránh khỏi khi mà các doanh nghiệp lớn có lợi thế về vốn và công nghệ sẽ chiến thắng và việc sáp nhập, thâu tóm hay phá sản là không thể tránh khỏi.
Thứ hai, ở giai đoạn này những thành tựu về khoa học kỹ thuật phát triên mạnh, các hãng tư bàn cần có một lượng tư bàn lớn mà việc dựa vào nguồn vốn và tiềm lực của bản thân là khó có thể thực hiện được. Xu thế buộc các hãng tư bản phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ. Neu không cải tiến kỹ thuật, họ sẽ bị đánh bại và bị tư bản lớn thôn tính hoặc phải chung vốn để hình thành các công ty cổ phần, nhờ đó, làm cho sự tập trung sản xuất tăng lên. Do đó, khi tập trung sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì tự nó dẫn đến độc quyền. Như vậy, sự phát triển cùa lực lượng sản xuất và những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, đã thúc đẩy tích tụ tư bản và dẫn tới độc quyền.
Thứ ba, khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 cũng là một tác nhân quan trọng trong việc thúc đẩy việc phá sản, sáp nhập, thâu tóm dẫn tới tích tụ và tập trung sản xuất. Thực tế, trong cuộc khủng hoảng, các công ty nhỏ không thể trụ vững, các công ty lớn có khả năng chống đỡ và do đó có cơ hội để thâu tóm hay mua lại, và trở thành các tập đoàn kinh tế lớn. Đặc điểm cùa cuộc khủng hoảng lần này là sản xuất “thừa Cụ thể, khi hàng hóa sản xuất ra mà không tiêu thụ được, dẫn tới giá giảm, sản xuất bị thu hẹp do lợi nhuận giảm, thất nghiệp gia tăng, cầu tiêu dùng lại càng giảm xuống, tình trạng dư thừa hàng hóa trên thị trường lại càng tăng. Điều này là vòng xoáy luẩn quẩn của thị trường, dẫn tới sự rối loạn cùa nền kinh tế khi doanh nghiệp bị đóng cửa hàng loạt, thất nghiệp gia tăng từng ngày. Nen kinh tế có tình trạng “dư thừa” hàng hóa, dư thừa ờ đây không phải là sàn xuất thừa so với nhu cầu của xã hội, mà nhiều hơn so với cầu có khả năng chi trả của người dân. Do đó, khi khủng hoảng thừa xày ra, vẫn có nhiều người phải chịu đói, rét, trong khi lương thực và than đá đang dư thừa. Trong xã hội TBCN, sản xuất được xã hội hóa cao độ, thì khủng hoảng càng rất dễ xảy ra. Khi khủng hoảng xảy ra thì hệ quả là sản xuất và lưu thông tư bàn chủ nghĩa giảm sút rất nhiều. Hoạt động sản xuất bị ngưng trệ, nhiều nhà máy thậm chí
9
phải đóng cửa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp gia tăng, giá hàng hóa dịch vụ giảm xuống, khối lượng mậu dịch ừong và ngoài nước bị thu hẹp, nhiều ngân hàng phải đóng cửa, giá cả cồ phiếu hạ thấp, nhiều doanh nghiệp, chủ yếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản...
Cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 cho thấy những khiếm khuyết mà cơ chế thị trường tự do theo quan điểm của Adam Smith không thể điều tiết và kiểm soát được một cách có hiệu quà Những bất ổn kinh tế xảy ra cùng với cuộc khủng hoảng thừa mà tại đó, cung hàng hóa dịch vụ, thậm chí hàng hóa được sản xuất tràn lan vẫn không giải quyết được do cầu không có, thậm chí các hãng sản xuất đã tiêu hủy rất nhiều hàng hóa dịch vụ, kể cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, nhiều lò nấu sắt ở Mỹ, Anh, Đức và Pháp đã phải phá bỏ. Những thực tế kinh tế xã hội với các cơ sờ lý thuyết chỉ dựa vào sự điều tiết của quy luật cung cầu, và lý luận về thị trường tự do điều tiết hiệu quà trở nên thất bại trong việc giải quyết khủng hoảng.
Trước những thất bại cùa quan điểm thị trường tự do điều tiết kinh tế, thể hiện rõ nhất là cuộc khủng hoảng “thừa” 1929 - 1933. Năm 1936, lý thuyết về đề cao vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế được nhà kinh tế học người Anh là Jonh Maynard Keynes (1884 - 1946) thể hiện trong tác phẩm “Lý thuyết tong quát về việc làm, lãi suất và tiền /ệ”1. Tác phẩm này đi sâu phân tích rõ nguyên nhân khủng hoảng kinh tế và biện pháp giải quyết khủng hoảng trong đó đề cao vai trò chủ động cùa Chính phủ trong việc điều tiết tổng cầu. Tư tường chính của ông là đề cao vai trò của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế.
J.M. Keynes cho rằng khủng hoảng, thất nghiệp đã xảy ra không phải là lỗi trong hệ thống CNTB mà là do các chính sách kinh tế không hợp lý đã lạc hậu, đặc biệt thiếu sự can thiệp cần thiết của Nhà nước. Ông không đồng ý với quan điểm của trường phái cổ điển về vai trò của bàn tay vô hình, hay thị trường điêu tiết mang đên sự cân bằng cho nền kinh tế mà theo ông để có được sự cân bằng trên thị trường cần thiết phải có vai ứò điều tiết cùa Nhà nước. Khác với quan điểm cổ điển và tiếp cận từ phía cung và trong dài hạn, lý thuyết Keynes tiếp cận tồng cầu và tập trung trone ngắn hạn. Ở đây ông cũng chi ra răng, trong những biến động kinh tế theo kiểu chu kỳ, vai trò của Nhà nước là đặc biệt quan trọng nhàm làm cho nền kinh tế nếu có biến động cũng phải trong tầm kiểm soát. Vai trò điều tiết cùa Nhà
1 Nguyên bàn tên tiếng Anh là: The General Theory o f Em ployment, Interest and M onev 10
nước trong trường hợp này là rất cần thiết và khó có một tác nhân trong nên kinh tế nào có khả năng đảm đương được. Học thuyết của J.M. Keynes cũng tiêp cận nghiên cứu kinh tế theo phương pháp phân tích vĩ mô, đó là việc tiêp cận và nghiên cứu nền kinh tế dưới góc độ tổng thể, tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa các bộ phận lớn trong nền kinh tế. Đây cũng là hình hài đầu tiên của môn kinh tế học vĩ mô.
3. Giai đoạn từ 1972 đến nay
Có thể thấy, trong suốt thời gian kể từ khi ra đời năm 1936, lý thuyết Keynes đã thể hiện là một cứu cánh, một con đường hứa hẹn nhiều triển vọng cho các nước để giải quyết cuộc khủng hoảng thừa, mà tại đó “cầu tiêu dùng” là mấu chốt để giải quyết lượng hàng hóa đang ngày càng dư thừa không có cách nào giải quyết. Có rất nhiều người ủng hộ và nhiều nền kinh tế đã đi theo con đường của Keynes. Trong quan điểm của Keynes, yếu tố tổng cầu, hay kích cầu là mấu chốt cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh là một minh chứng quan trọng. Đó là một cách thức rất khác biệt khi lấy chiến tranh làm động lực để tăng chi tiêu, tăng tổng cầu để tăng trưởng. Với nền kinh tế Mỹ, lý luận của Keynes cũng mang đến nhiều thành công với chiến lược lấy chiến tranh nuôi tăng trưởng. Tuy nhiên, sau giai đoạn tốt đẹp, những năm 1970, chi tiêu cho chiến tranh giảm, OPEC tăng giá dầu, nền kinh tế thế giới tiếp tục rơi vào các cuộc khủng hoảng ở mức độ rất nghiêm trọng với tốc độ lan truyền cao. Xuất phát từ việc đơn phương tuyên bố thả nổi đồng USD của Mỹ (chế độ Bretton Woods sụp đổ), các cuộc khùng hoảng thời kỳ này thường bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính tiền tệ mà lý luận đề cao về sự can thiệp của bàn tay Nhà nước cho thấy không hiệu quả. Lý luận của Keynes trở nên thất bại.
Trên thực tế, ngay trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh cho rằng họ cần thiết lập, xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhàm thúc đẩy các quan hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Năm 1944 một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton Woods (Mỹ) với sự tham gia cùa đại diện 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods.
Điểm mấu chốt của hệ thống Bretton Woods là đồng đô la Mỹ (USD) được coi là đồng tiền chủ chốt, nước Mỹ có nghĩa vụ đổi đô la ra vàng cho các ngân hàng trung ương (NHTW) một cách không hạn chế với mức giá là
11
35 USD/ounce vàng. Các nước phải công bố tỷ lệ trao đổi đồng tiền cùa mình với USD và từ đó gián tiếp quy ra một lượng vàng tương ứng. Các nước không có quyền tự ý thay đổi mức quy đổi trước khi có sự cho phép cùa Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Chính vì thế, USD trờ nên có vị trí thống trị, ữở thành đồng tiền quốc tế, do đó hệ thống này còn được gọi là chế độ bản vị vàng - đô la.
Sự tồn tại của hệ thống Bretton Woods có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn khan hiếm USD (1944 - 1958) và giai đoạn dư thừa USD (1959 - 1971).
- Giai đoạn khan hiếm USD (1944 - 1958)
Trong giai đoạn này, nước Mỹ có dự trữ vàng rất lớn. USD có giá trị như vàng vì nó được bào đảm bời lượng vàng của Mỹ và dễ dàng có thể quy đổi ra vàng theo thỏa thuận của Bretton Woods. Thực tế, USD đã giúp nhiều nước châu Âu phục hồi kinh tế, tăng dự trữ USD nghĩa là tăng dự trữ quốc gia. Như vậy các nước khác có thể tăng dự trữ nhưng nước Mỹ sẽ bị thâm hụt thanh toán. Tuy nhiên điều này cho thấy vai trò quan trọng cùa nước Mỹ trong việc đàm bảo nguồn dự trữ cần thiết cho thế giới.
- Giai đoạn dư thừa USD (1959 - 1971)
Kể từ cuối những năm 1950, việc khan hiếm USD không còn nhưng một thực tế là thâm hụt cán cân thanh toán của Mỹ trờ nên trầm trọng. Bên cạnh đó, lượng USD dự trữ tại các ngân hàng nước ngoài tăng lên nhanh chóng, thậm chí dư thừa USD và thực tế USD cũng chỉ là một loại tiền pháp định được bảo đảm quy đổi ra vàng. Do vậy các ngàn hàng bắt đầu tìm cách chuyển đồi USD để lấy vàng. Đen năm 1960, dự kiến lượng USD ờ nuớc ngoài dự trữ tương đương với tổng dự trữ vàng cùa Mỹ theo mức quy đổi của hệ thống Bretton Woods. Trên thực tế, nếu đồng loạt các nước chuyển từ dự trữ USD quy đổi ra vàng thì nước Mỹ sẽ không còn vàng. Đến năm 1970, dự trữ USD của các nước dự kiến lớn gấp 4 lần tổng lượng vàng nước Mỹ hiện đang dự trữ. Trước thực tế này, cộng với tình trạng thâm hụt lớn của cán cân thanh toán Mỹ là nguyên nhân nhiều người liên tường đến khả năng Mỹ sẽ phải phá giá đồng đô la để giảm nguy cơ “thiếu thanh khoản vàng”. Thực trạng này khiến nguồn USD được chuyển dần sang các đồng tiền mạnh khác. Kết quà là vào năm 1971, Mỹ tuyên bố ngừng đổi đồng USD ra vàng và thực hiện phá giá lân một đông USD. Quyết định này đã
12
đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Bretton Woods. Cho đến nay, không một đông tiền nước nào được đàm bảo bằng vàng.
Quay trở lại với sự thất bại cùa lý thuyết Keynes, khi nền kinh tế Mỹ và nhiều nước vấp phải suy thoái những năm 1970. Lúc này quan điểm quá dựa vào bàn tay thị trường theo quan điểm cổ điển hay quá dựa vào bàn tay Chính phủ theo quan điểm Keynes đều tỏ ra không thể giải quyết được những vấn đề mà nền kinh tế đang phải đối mặt. Chính lúc này, quan điểm của nhà kinh tế học đoạt giải Nobel đầu tiên của Mỹ là Paul Samuelson về điều tiết nền kinh tế với “hai bàn tay”. Đó là bàn tay Chính phủ và bàn tay thị trường lại được chú ý. Thành công của ông đó là đã phát triển các lý luận kinh tế tĩnh và động, góp phần nâng phân tích kinh tế lên một tầm cao mới trở thành một cứu cánh về lý luận cho nền kinh tế thế giới trong giai đoạn đó. Paul Samuelson cho rằng điều tiết nền kinh tế với chỉ bàn tay Chính phủ hoặc bàn tay thị trường chẳng khác nào như vỗ tay với một bàn tay. Quan điểm cụ thể là những lĩnh vực nào thị trường điều tiết được thì Chính phủ sẽ không nên can thiệp nhưng lĩnh vực nào thị trường không điều tiết được thì Chinh phủ nhất định phải can thiệp. Khi bản vị vàng sụp đồ2, cùng với việc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC tăng giá dầu, nền kinh tế Mỹ, một “tín đồ” theo chủ nghĩa kích cầu kiểu Keynes cũng rơi vào khủng hoàng, chính lúc này, lý luận kết hợp giữa hai bàn tay Chính phủ và thị trường được ủng hộ. Ngày nay, rất nhiều nền kinh tế đã sử dụng rất linh hoạt và rất thành công quan điểm này trong việc điều tiết nền kinh tế cùa mình, tuy nhiên vai trò của thị trường hay Chính phù ở mỗi quốc gia là khá khác biệt, tùy thuộc khá nhiều vào kiểu cơ chế kinh tế và quan điểm chính trị, kinh tế và xã hội của từng quốc gia.
II. KHÁI NIỆM VÈ KINH TẾ HỌC VÀ KINH TÉ HỌC v ĩ MÕ 1. Kinh tế học là gì?
Kỉnh tế học là một môn khoa học nghiên cứu cách thức mà nền kinh tế sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm trong nền kinh tế để tiến hành sàn xuất và phân phối những hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế.
2Năm 1934 Tống thống Roosevelt cố định giá vàng tại mức 35 USD/ounce. Năm 1944 Hiêp ước Bretton W oods thiết lập chế độ bán vị vàng tiêu chuần, thành lập Quỹ Tiền tệ thế giới IMF và N gân hàng Thẻ giới WB. Năm 1973, đông USD từ bó chế độ bàn vị vàng giá vàng được phép thà nôi theo biên động thị trường. Cho tới tháng 6/1973, giá vàng thị trường Luân Đòn đạt hơn 120 USD/ounce.
13
Như vậy, đặc trưng của nền kinh tế đó là sự khan hiếm. Chính sự khan hiếm nguồn lực trong khi nhu cầu của nền kinh tế là vô hạn khiến kinh tế học trở thành môn học: Nghiên cứu bài toán lựa chọn tốt nhất cho việc sản xuất cái gì, sàn xuất như thế nào và sản xuất cho ai trong điều kiện khan hiếm nguồn lực đầu vào của sản xuất. Thực tế, hàng ngày các vấn đề kinh tê luôn xuất hiện, ví dụ như một người trường thành thì các nhu cầu tăng lên, khi có gia đình, có con cái nhu cầu về nhà cửa, tiền bạc, xe cộ đều tăng trong khi chúng ta phải đối mặt với sự khan hiếm về thu nhập và thời gian. Nói cách khác, mỗi người đều phải đối mặt với sự khan hiếm, mỗi doanh nghiệp hay nền kinh tế thậm chí cả thế giới đều phải đối mặt với sự khan hiếm nguồn lực, hay sự hữu hạn của nguồn lực như nước sạch, năng lượng, dầu mỏ... Mọi người không thể có được tất cà những thứ mình cần. Trên bình diện một quốc gia, có thể nhìn thấy các nguồn lực khan hiếm đó là tài nguyên thiên nhiên, tư bản, lao động, tri thức, công nghệ, các máy móc và trang thiết bị đã tạo ra.
Trên bình diện cá nhân, gia đình, sự khan hiếm có thể dễ dàng thể hiện ngay từ việc các bà nội trợ phải đối mặt hàng ngày. Thực tế, sẽ rất dễ dàng có thể đi chợ khi trong túi có vài trăm triệu để đi mua một bữa trưa cho gia đình có 4 người và 1 người khách. Tuy nhiên nếu trong túi chì có 500 nghìn đồng, thì đây hoàn toàn là bài toán đối với bà nội trợ đó. Lúc này, chính sự khan hiếm nguồn lực đầu vào, cụ thể là tiền, buộc người đi chợ phải trả lời đúng nhất mua cái gì cho đủ tiền, chắc khó có thể mua được những món ăn cao cấp. Bên cạnh đó, việc phải mua như thế nào, cách thức mua hàng hóa đơn giản như việc đi chợ, đi bộ hay đi taxi cũng phải tính đến vì nếu đi taxi sẽ tốn tiền thêm trong điều kiện hạn hẹp về ngân sách. Cuối cùng, người nội trợ cũng phải xác định là sẽ mua cho ai, ưu tiên ai. Chính vì hạn chế về nguồn lực nên việc mua nhiều thức ăn là không thể. Lúc này người nội trợ phải tính đến việc ưu tiên mua hàng hóa nào đù tiền, mà phù hợp trước hết cho vị khách mời đến, sau đến là cho gia đình. Nói cách khác phải xác định mình mua bữa ăn đấy phục vụ đối tượng là ai. Như vậy, chính sự khan hiếm nguồn lực đã bắt buộc người nội trợ đó phải giải một bài toán lựa chọn mua cái gì, như thế nào và cho ai. Mờ rộng ra, trong điều kiện nguồn lực hữu hạn, nên kinh tê cũng phải giải quyết bài toán khan hiêm nguôn lực, hay nói cách khác kinh tế học là môn học giúp nền kinh tế giải bài toán tôi ưu trong điều kiện khan hiếm nguồn lực, hay môn học của sự lựa chọn tôi ưu. mòn
14
học giúp nền kinh tế trả lời đúng nhất ba câu hỏi là sản xuất cái gì, sàn xuất như thế nào và sàn xuất cho ai trong nền kinh tê.
Ngoài ra, chúng ta còn cần phân biệt giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
Kinh tế học thực chứng (Positive Economics) được hiểu là việc mô tả và phân tích các sự kiện, các mối quan hệ trong nền kinh tế. Do đó, kinh tế học thực chứng thường chỉ ra, mô tả ra những vấn đề cụ thể trong nền kinh tế, nói cách khác là trả lời câu hỏi: vấn đề đó là gì? và là như thế nào?
Kinh tế học chuẩn tắc (Normative Economics) có mục đích là đưa ra các phương án, các cách thức để đối mặt và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nền kinh tế. Hay nói cách khác kinh tế học chuẩn tắc đưa ra lời khuyên chính sách cho các vấn đề kinh tế phát sinh, hay trả lời câu hòi nền kinh tế hay các tác nhân trong nền kinh tế nên hành động như thế nào? hay nên làm gì?
2. Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô
Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô là một trong hai phân ngành lớn của Kinh tế học. Kinh tế học vi mô có thể được ra đời sớm hơn kinh tế học vĩ mô và khởi thủy có thể coi là khi có sự bắt đầu của quan điểm thị trường điều tiết nền kinh tế trong quan điểm “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Quan điểm đó đưa ra cách tiếp cận vi mô trong việc nghiên cứu và điều tiết nền kinh tế, từ đó thể hiện cách nghiên cứu cũng như nội hàm nghiên cứu của kinh tế học vi mô hiện đại.
Như vậy, kinh tế học vi mô sẽ đi nghiên cứu sự hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế như người tiêu dùng, hộ gia đình, doanh nghiệp, hãng sản xuất và các yếu tổ tác động ảnh hường, các loại hình thị trường mà các tác nhân trong nền kinh tế đang hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Bên cạnh đó, kinh tế học vĩ mô với quan điểm bàn tay hữu hĩnh của J.M. Keynes đi thẳng vào nghiên cứu các tổng thể kinh tế, bỏ qua cách tiếp cận vi mô như việc nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, hãng sản xuất... Như vậy kinh tế học vĩ mô có đặc trưng là đi sâu nghiên cứu hoạt động và các vấn đề kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tổng thể (quốc gia), như sản lượng quốc gia, ngân sách quốc gia, chi tiêu Chính phủ, lạm phát, giá cả,
15
hay hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại, đầu tư quốc tế giữa các quốc gia vận hành như thế nào.
Nói cách khác, khác với kinh tế vi mô đi sâu vào phân tích hành vi, hoạt động cùa các tác nhân, các tế bào trong nền kinh tế thi kinh tế học vĩ mô lại đi sâu phân tích nền kinh tế dirới góc độ tổng thể, xem xét những xu hướng, hoạt động, tương tác và biến động chung cùa toàn bộ nền kinh tế.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u CỦA KINH TẾ HỌC Vĩ Mố
1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
Trong phần khái quát ờ trên, chúng ta đã thấy được khái quát về quan điểm nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô là tiếp cận và nghiên cứu nền kinh tế trên góc độ tổng thể, quốc gia. Vậy để tiếp cận, nghiên cứu, đánh giá phân tích và có cái nhìn tổng thể trong nền kinh tế như vậy, kinh tế học vĩ mô cần phải nghiên cứu cụ thể những bài toán về sự lựa chọn quốc gia.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như:
- Sản lượng
- Tăng trưởng kinh tế
- Lạm phát, thất nghiệp
- Lãi suất, tiền tệ
Tỳ giá hối đoái
- Tình trạng cán cân ngân sách nhà nước, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế...
2. Một số phương pháp nghiên cứu CO’ bản trong kinh tế học vĩ mô
Phương pháp thứ nhất là Phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đây là phương pháp yêu cầu khi nghiên cứu thường các nhà kinh tế có thể giả thuyết bỏ qua hoặc già định một số các biến số khác không đồi hoặc thay đồi chậm, để tập trung nghiên cứu các biến số có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu vấn đề đang đặt ra. Ví dụ, khi nghiên cứu về khá năng tiêu dùng, có thể giả định không bị giới hạn về tiền để đánh giá khá nãns tiêu dùng. Hay nghiên cứu, trong ngẳn hạn, có thể coi như giá và lươn« không đổi đề nghiên cứu các yếu tố khác.
16
Phương pháp thứ hai là Phương pháp toán học. Trong kinh tê học đây là phương pháp hết sức quan trọng. Cụ thể, với những vân đê nghiên cứu cân phải lượng hóa được các biến số và phân tích môi quan hệ giữa các biên số đó thông qua các hàm số toán học, các đồ thị toán học, tính toán tỷ lệ hoặc kiểm định hay xây dựng mô hình kinh tế để phân tích hay đánh giá về một nền kinh tế hay một vấn đề kinh tế nào đó.
Phương pháp thứ ba, đó là Phương pháp cân bằng tổng quát Walras. Đây là phương pháp yêu cầu khi nghiên cứu để điều tiết nền kinh tế vĩ mô thường phải nhằm tới sự cân bằng đồng thời ở tất cả các thị trường. Leon Walras (1834 - 1910), chia cơ cấu nền kinh tế thị trường thành ba loại. Thứ nhất, thị trường sản phẩm, là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại hàng hóa và hình thành giá cả. Thứ hai, thị trường tư bản là nơi nhu cầu vốn vay, đi vay và cho vay vốn gặp nhau, là nơi hình thành nên giá của vốn là lãi suất. Thứ ba, thị trường lao động là nơi thuê mướn lao động, tại đây giá cùa lao động là tiền lương hay tiền công, là giá cùa lao động. Sau này, K. Mark và F. Engels đã chỉ ra tiền lương là để trả cho việc mua sức lao động. Trên thực tế, ba thị trường này độc lập nhau, song nhờ hoạt động của hãng sản xuất nên có quan hệ với nhau. Cụ thể, hãng sản xuất hàng hóa để bán, để hoạt động họ có thể phải vay vốn trên thị trường vốn, thuê công nhân trên thị trường lao động. Bên cạnh đó, sau quá trình sản xuất, hãng mang sản phẩm bán trên thị trường hàng hóa; vai trò này thể hiện khả năng cung hàng hóa. Chi phí sàn xuất của hãng hình thành từ chi phí vay vốn, chi phí thuê lao động... do đó nếu bán được giá cao hơn chi phí, hãng sẽ có lợi nhuận và lợi nhuận tăng lên khiến hãng có xu hướng mở rộng sản xuất và hãng phải vay thêm vốn, thuê thêm công nhân. Kết quà cầu về vốn và lao động tăng, làm cho giá của vốn và lao động tăng, kéo theo chi phí sản xuất của hãng tăng. Mặt khác, khi cung sản phẩm nhiều hơn, khiến giá hàng hóa giảm, kết quả là giá hàng hóa dần ngang bàng với chi phí sản xuất, do đó, hãng sẽ không có lời trong việc sản xuất thêm nên không thuê thêm công nhân và không vay thèm vốn để sản xuất nữa. Như vậy, ở điểm dừng đó, giá cả vốn và lao động tức lãi suất và tiền lương ồn định, từ đó làm cho giá hàng hóa tiêu dùng ồn định. Cả ba thị trường đều đạt trạng thái cân bằng. Do đó, Walras gọi cân bằng đó là cân bàng tồng quát giữa các thị trường. De thấy, điều kiện để có sự cân bàng chính là khi cân bằng giữa thu nhập bán những hàng hóa sản xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng xảy ra. Thực tế với một nền kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân
17
bàng này được thực hiện thông qua dao động tự phát của cung cầu và giá cả hàng hóa trên thị trường.
IV. HỆ THỐNG KINH TÉ HỌC v ĩ MÔ
Theo nhà kinh tế học Paul Samuelson, hệ thống kinh tế vĩ mô được đặc trưng bời ba yếu tố đó là đầu vào, hộp đen và đầu ra.
1. Đầu vào hệ thống kinh tế vĩ mô
Đầu vào bao gồm những yếu tố tác động vào tình trạng hoạt động của nền kinh tế theo hướng tốt hoặc xấu. Những yếu tố đầu vào bao gồm yếu tố ngoại sinh và yếu tố nội sinh.
- Các yếu tố ngoại sinh: là các yếu tố mang tính chất môi trường có khả năng tác động đến hiệu quả hoạt động kinh tế của một quốc gia và nằm ngoài sự kiểm soát cùa Chính phủ như: tình hình thời tiết, tình hình chính trị, các điều kiện kinh tế của nước ngoài, tình hình dân số...
- Các yếu tố nội sinh', là các yếu tố có khả năng tác động đến hiệu quả kinh tế của một quốc gia và nằm trong sự kiểm soát cùa Chính phủ. Cụ thể là các chù trương, đường lối phát triển kinh tế, các chính sách và biện pháp điều tiết nền kinh tế hướng tới những mục tiêu mong muốn.
2. Hệ thống lưu trữ sự tương tác hoạt động trong nền kinh tế (hộp đen)
Yếu tố trung tâm của hệ thống kinh tế vĩ mô là hộp đen kinh tế vĩ mô. Hoạt động của hộp đen sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu.
2.1. Tổng cầu
* Khái niệm
Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế mong muốn và có khả năng mua trong một thời gian nhất định tương ứng với mỗi mức giá chung và mức thu nhập, còn các yếu tố kinh tế khác cho trước.
* Các yếu tố ành hưởng đến tổng cầu
+ Mức giá chung (P): Trong điều kiện các yếu tố kinh tế khác cho trước khi mức giá chung tăng lên tổng cầu sẽ giảm xuống, do ba hiệu ứng
18
thu nhập, lãi suất và tỷ giá, sẽ được phân tích cụ thê trong Chương “Tông câu và tổng cung”.
+ Thu nhập (Y): Thu nhập là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua của các tác nhân. Do vậy, khi thu nhập tăng lên thì tông cầu tăng và ngược lại.
+ Quy mô dân số (N): Ngay cả khí thu nhập chưa tăng thì quy mô dân số tăng (xét trong phạm vi của một quốc gia) thì tổng cầu sẽ tăng, do lúc này không có thu nhập thì người tiêu dùng vẫn phải chi tiêu. Do đó, khi dân số tăng chi tiêu tăng, tổng cầu tăng (nếu thu nhập không tăng thì sẽ làm tiết kiệm giảm đi).
+ Kỳ vọng (E): là những dự báo, dự đoán về tình hình kinh tế xã hội hay các yếu tố tác động đến nền kinh tế trong tương lai. Nếu các tác nhân phán đoán là trong tương lai mức giá sẽ giảm xuống thì tổng cầu hiện tại giảm xuống và ngược lại. Nếu các tác nhân phán đoán là trong tương lai thu nhập của họ sẽ tăng thì tổng cầu hiện tại tăng lên và ngược lại.
* Đồ thị đường tổng cầu
Khi nghiên cứu đường tổng cầu trong quan hệ với giá thì tổng cầu có quan hệ tỷ lệ nghịch, cụ thể khi giá tăng, tồng cầu giảm; khi giá giảm, tổng cầu tăng. Do đó, đường tồng cầu là đường có xu hướng dốc xuống trong đồ thị mô tả mối quan hệ giữa giá và tổng cầu.
p
AD
Y
Thực tế cho thấy, yếu tố giá là nhân tố nội sinh nên khi giá thay đổi, sẽ gây nên sự vận động dọc theo đường tổng cầu, lên phía trên nếu mức giá
19
tăng và xuống phía dưới nếu mức giá giảm. Các yếu tố khác ngoài giá, có thể gọi là các yếu tố ngoại sinh khi thay đổi sẽ gây nên sự dịch chuyển cùa đường tổng cầu. Nếu các yếu tố ngoại sinh là tích cực làm cho tổng cầu tăng, sẽ làm cho đường tồng cầu dịch chuyển sang phải và nếu các yếu tố đó có tác động tiêu cực làm giảm tổng cầu sẽ làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Tuy nhiên cần chú ý, khi nghiên cứu một yếu tố thay đổi, chúng ta giả định các yếu tố khác không thay đổi.
2.2. Tổng cung
* Khái niệm
Tổng cung là tổng khối lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà tất cả các tác nhân trong nền kinh tế có khả năng và sẵn sàng cung cấp trong một khoảng thời gian nhất định ở các mức giá chung, trong điều kiện mức chi phí sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất còn các yếu tố kinh tế khác cho truớc.
* Một số nhân tố tác động đến tổng cung
+ Mức giá chung (P): Trong ngắn hạn, khi mức giá chung tăng lên thì tồng cung có xu hướng tăng lên. Với giả định các yếu tố kinh tế khác cho truớc, trong ngắn hạn giá cà của các yếu tố đầu vào chưa thay đổi thì khi mức giá chung tăng lên làm tăng lợi nhuận của các nhà sàn xuất, từ đó kích thích họ gia tăng sàn lượng. Ngược lại, khi mức giá chung giảm xuống thì tổng cung sẽ giảm xuống.
+ Chi phí sản xuất: Khi chi phí sàn xuất tăng lên (chẳng hạn tiền lương tăng, lãi suất tăng...) làm thu hẹp lợi nhuận của các nhà sản xuất dẫn đến tổng cung giảm và ngược lại.
+ Giới hạn khả năng sản xuất: Biểu hiện là sản lượng tiềm năng, ký hiệu là Y* (Potential Yield). Đó là sàn lượng tối đa mà một nền kinh tế có thể sàn xuất được trong điều kiện toàn dụng các nguồn lực cùa nền kinh tế và không có lạm phát.
Sản lượng tiềm năng cũng có thể được phát biểu như sau: Sán lượng tiếm năng là sản lượng tối đa mà một nền kinh tế có thể sàn xuất được với điêu kiện cho trước vế lao động, vốn, công nghệ, trình độ quàn ¡ý và các nguôn lực san có khác.
Như vậy, sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất, đặc biệt là lao động. Do đó, sản lượng tiềm năng là một mục tiêu
20
di động. Khi các điều kiện về các yếu tố sản xuất thay đổi, sản lượng tiềm năng cũng sẽ thay đổi.
* Đô thị đường tổng cung
Khỉ vẽ đường tổng cung trong tương quan với giá, đường tổng cung là một đường có xu hướng dốc lên thể hiện mối quan hệ thuận chiều giữa giá và tổng cung.
Hình 1.2. Đồ thị đường tổng cung AS
Chúng ta có thể nhận thấy, từ mức sản lượng 0 đến trước khi gặp điểm sàn lượng tiềm năng Y*, chúng ta có đường tổng cung (AS) tương đối thoải. Sau khi vượt qua điểm sản lượng tiềm năng Y*, đường tổng cung trờ nên dốc hơn. Điều này ngụ ý, ở mức sản lượng thấp hơn sản lượng tiềm năng, khi mức giá thay đổi nhỏ, sẽ khuyến khích các hãng tăng nhanh sản luợng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng, vì trong ngắn hạn, chúng ta giả sù các yếu tố chi phí đầu vào cố định hay chậm thay đổi hoặc khó thay đổi, nên khi giá hàng hóa bán ra tăng sẽ làm tăng lợi nhuận của các nhà sản xuất, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp tăng sản lượng. Lúc này, việc sản xuất ở mức thấp hơn Y* nên việc tăng sản lượng với các hãng cũng dễ dàng hơn do nguồn lục của nền kinh tế như vốn, nguyên vật liệu, nhân công... đều vẫn đang còn dư thừa.
Tuy nhiên, khi xét trong dài hạn, lúc này thời gian đủ để thị trường các yếu tố đầu vào phản ứng với việc tăng giá sản phẩm, chi phí đầu vào tăng cùng với giá đầu ra nên động lực tăng sản lượng của các hãng không còn. Bên cạnh đó, khi nền kinh tế sản xuất ờ mức vượt qua sản lượng tiềm năng nền kinh tế lúc này đã đạt trạng thái toàn dụng nguồn lực, tất cả các yếu tố
21
đầu vào khan hiếm, nếu muốn tăng sản luợng bắt buộc phải làm việc tăng ca... dẫn tới chi phí sản xuất cao và làm tăng giá hàng hóa. Việc giá tăng sẽ khiến cầu tiêu dùng hàng hóa giảm và không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất. Do đó lúc này có thể mức giá thay đổi nhiều hơn nhưng sản lượng gia tăng không nhiều so với giai đoạn trước Y* và chúng ta thấy đường tổng cung dường như dốc hơn.
Các yếu tố tác động đến đường tổng cung cũng chia làm các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Mức giá chính là nhân tố nội sinh, khi giá thay đổi sẽ gây nên sự vận động dọc theo đường tổng cung, lên phía trên khi giá tăng và xuống phía dưới nếu giá giảm. Các yếu tố tác động khác ngoài giá như công nghệ, kỳ vọng... là các yếu tố ngoại sinh, nếu tác động tích cực với tồng cung, làm tăng tổng cung sẽ làm cho đường tổng cung dịch chuyển sang phải, còn nếu có tác động tiêu cực làm giảm tổng cung sẽ làm cho đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
2.3. Cân bằng tổng cầu và tổng cung
Chúng ta có thể nhận thấy, đa số đuờng tồng cầu có dạng dốc xuống trong mối quan hệ với giá và đường tổng cung có dạng dốc lẽn trong mối quan hệ với giá. Do đó giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung có thể coi là duy nhất, ứng với một mức giá và một mức sản lượng tại đó lượng tổng cầu bằng lượng tổng cung. Tại giao điểm này thường ký hiệu là E (Equilibrium), chúng ta có chung mức giá cân bằng pe và mức sàn lượng chung cân bằng Ye (hình 1.3).
Hình 1.3. Cân bằng cùa nền kinh tế
Bất kỳ điểm nào của nền kinh tế mà không phải là điểm cân bàng E thi tương tác cung cầu sẽ kéo nó về điểm E.
22
Giả sử mức giá chung trong nền kinh tế đang ở mức giá pI với Pi > pe. Khi đó AS > AD gây áp lực làm cho giá hàng hóa giảm xuống tới pe, đưa nền kinh tế về trạng thái cân bàng. Ngược lại, ở mức giá P2 < Pe thì AD > AS gây áp lực đẩy giá hàng hóa lên mức pe.
Trên thực tế, nếu nền kinh tế có mức Ye < Y*, lúc này nền kinh tế ờ giai đoạn suy thoái, khoảng cách càng xa với Y* thì mức độ suy thoái càng lớn. Ngược lại, nền kinh tế có mức Ye > Y*, lúc này có thể rơi vào trạng thái tăng trưởng “nóng”, bong bóng hoặc bùng nổ, càng lớn hơn Y* thì mức độ nóng càng lớn. Khi nền kinh tế ở mức Ye = Y*, lúc này nền kinh tế cân bằng ổn định đạt trạng thái cân bằng dài hạn tại mức sản lượng tiềm năng.
2.4. Đầu ra
Đầu ra gồm những biến số chỉ kết quả hoạt động cùa một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định thường là một năm, đó là sản lượng, hay tốc độ tăng trường, việc làm, mức giá chung, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tình trạng ngân sách nhà nước, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Nếu đầu vào tốt, qua tương tác trong hộp đen kinh tế (tổng cầu - tổng cung) đầu ra cũng sẽ tốt và ngược lại.
V. MỤC TIÊU VÀ CÔNG c ụ ĐIÈU TIẾT KINH TÉ v ĩ MÔ 1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu chung
Trong mục tiêu chung của nền kinh tế cần phải giữ sự ổn định, giữ vững tăng trường kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Có thể hiểu sự ổn định ở đây là tránh những cú sốc cho nền kinh tế, thậm chí tăng trưởng nóng, đi kèm lạm phát... Tăng trưởng kỉnh tế tăng nhưng phải giữ vững sự ổn định vĩ mô, đặc biệt là vấn đề công bằng, cần phải thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tạo sự bỉnh đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội học tập, làm việc và cống hiến cho xã hội.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu tăng trưởng hay sàn lượng: Mục tiêu này thể hiện ở việc nền kinh tế phải đạt được sản lượng thực tế cao, giữ tốc độ ồn định và đảm bảo cơ cấu kinh tế tăng trường hợp lý, hài hòa cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế.
23
- Mục tiêu tạo việc làm cho nền kinh tế: Mục tiêu này thông qua tỷ lệ thất nghiệp, nếu tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống hoặc ờ mức thấp có nghĩa là mục tiêu này hoàn thành tôt. Đê tạo ra nhiều công ăn việc làm tốt, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp (tỷ lệ thât nghiệp là % số người thất nghiệp so với lực lượng lao động) nền kinh tế phải đảm bảo mục tiêu tăng trường và sản lượng ở trên nhằm tạo ra nhu cầu, tiếp đến phát triển sàn xuất và tạo công ăn việc làm cho nền kinh tế.
- Mục tiêu ổn định giá cà và kiềm soát lạm phát: Trong thị trường tự do, giá cả được xác định bởi quy luật cung cầu và Chính phù thường tránh kiểm soát giá cả của từng mặt hàng riêng lẻ. Tuy nhiên, nếu mức giá chung biến động quá lớn Chính phủ buộc phải can thiệp. Lý do là, sự thay đổi giá đột ngột sẽ bóp méo các quyết định kinh tế của các hãng kinh doanh và các cá nhân, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế. Như vậy, mục tiêu ổn định giá cả tương đương với mục tiêu hạ thấp tỷ lệ lạm phát và kiềm chế lạm phát.
- Mục tiêu phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại, đa dạng hóa và đa phương hóa hoạt động kinh tế đối ngoại, gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, duy trì tỉnh trạng lành mạnh của cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.
- Mục tiêu phân phối công bằng xã hội: Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa được phân phối cho những người có nhiều tiền mua nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất. Như vậy, ngay cã khi một cơ chế thị trường đang là hiệu quả thì nó cũng có thể dẫn tới bất bình đẳng lớn.
Người ta có nhiều tiền không chỉ do lao động chăm chỉ, lao động giỏi mà còn có thể có nhiều yếu tố khác như thừa hưởng tài sản thừa kế, trúng xổ số... Do vậy, cần phải có chính sách phân phối lại thu nhập như sử dụng thuế lũy tiến - đánh thuế người giàu theo tỷ lệ cao hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhàm giúp đỡ cho người già, người tàn tật, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế... Tức là biện pháp thu thuế sẽ lấy đi một số hàng hóa và dịch vụ cùa một nhóm người, thu hẹp khả năng mua sắm của họ, còn việc chi tiêu các khoản thuế sẽ tăng thêm việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cùa nhóm dân cư khác. Do đó, biện pháp thu thuế và chi tiêu của Chính phủ sẽ đảm bảo cho việc phân phối được công bằng hom.
Chúng ta cần phân biệt phân phối công bằng với công bằng. Công bàng nên phải hiểu là công bàng về mặt cơ hội, công bằng về các điều kiện làm việc và tiếp cận nguồn lực chứ không phải công bằng về mặt kết quà. Do đó, phân phối công bằng chi là một điều kiện để thực hiện công bằng.
24
2. Công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô
2.1. Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu Chính phủ để hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khóa có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu Chính phù và thuế. + Chi tiêu Chính phù: Chi tiêu Chính phủ gồm hai bộ phận:
Thứ nhất là các khoản mua sắm cùa Chính phù. Nó bao gồm việc mua sắm các hàng hóa và dịch vụ như: xây dựng đường sá, chi tiêu cho các trang thiết bị giáo dục, quốc phòng, trả lương cho quan tòa...
Thứ hai là các khoản thanh toán chuyển nhượng của Chính phủ nhằm hỗ trợ người già, người tàn tật, người thất nghiệp...
Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể trực tiếp tác động đến tổng cầu và sản lượng.
+ Thuế: Thuế là nguồn thu của Chính phủ nhằm tài trợ cho các khoản chi tiêu của Chính phù.
2.2. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Khi ngân hàng trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc giảm, từ đó tác động đến đầu tư tư nhân, do vậy ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
2.3. Các chính sách điều tiết thu nhập
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp (công cụ) mà Chính phù sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền lương, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Công cụ tác động trực tiếp đến thu nhập là thuế. Thuế bao gồm thuế tự định (Fixed Tax - Thuế không phụ thuộc vào thu nhập) và thuế theo thu nhập (Flexible Tax). Thuế ảnh huờng đến nền kinh tế nói chung theo hai cách:
Trước tiên, thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng.
Hơn nữa, thuế tác động đến giá cả hàng hóa và các yếu tố sàn xuất, do đó, ảnh hưởng đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn. Ví dụ, thuế thu nhập
25
doanh nghiệp càng cao thì càng ít khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị mới.
Để ổn định giá cả và kiểm soát lạm phát cao, Chính phủ có thề thực hiện việc kiểm soát về tiền lương và giá cả. Thực chất của chính sách này là Chính phủ xây dựng hệ thống giá áp dụng cho thị trường và kiểm soát chặt chẽ việc tăng tiền lương. Nó còn có thể được thực hiện bàng các công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập.
mở là nhằm ổn định tỷ Thực tế cho thấy những biện pháp kiểm soát trực tiếp giá cả và tiền lương không có hiệu quà cao. Khi lạm phát cao kéo dài, việc kiểm soát giá cà sẽ làm xuất hiện thị trường chợ đen, trong đó mọi áp lực tăng giá sẽ được thể hiện trên thị trường này làm teo nhỏ thị trường chính thức và việc kiểm soát giá trở nên mất tác dụng. Hoặc nếu Chính phủ có khả năng kiểm soát được mức giá bán của thị trường, sẽ phải tăng chi cấp bù lỗ cho các doanh nghiệp. Lúc đó, sự phình to của chi tiêu ngân sách nhà nước sẽ dẫn tới việc điều chình tăng giá để giảm các khoản chi này.
Hiện nay, việc kiểm soát và điều tiết giá cùa Chính phù vẫn được áp dụng ở mức độ nhất định. Với những mặt hàng có nhu cầu biến động mạnh theo thời vụ, Chính phù có thể thực hiện việc dự trữ để điều tiết thị trường, qua đó hạn chế lạm phát do chi phí đẩy hoặc trực tiếp tăng tổng cung của nền kinh tế dẫn tới ổn định giá cả.
2.4. Chính sách kinh té đối ngoại
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước thị trường giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ờ mức có thể chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bàng như: Các quy định về hàng rào thuế quan (Tariff Barrier),
Bảo hộ mậu dịch (Trade Protection),
Các biện pháp liên quan đến tài chính và tiền tệ (Financial Intrument) nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái...
26
BÀI ĐỌC:
ỔH ĐỊNH KINH TẾ vỉ MÛ: CAl GÌ. TẠI SAO VÀ THẾ NÀO?
Hai năm gần đây, nhiệm vụ "Ôn định kinh tế vĩ mô ” đã trờ thành ưu tiên hàng đầu thay cho mục tiêu đạt tóc độ tăng trường kinh tế cao như trong chinh sách phát triển kinh tế những năm trước đó.
Tuy vậy, dường như cho đến nay vẫn chưa thấy một sự cắt nghĩa, giài thích chinh thức và xác đáng vê thế nào là "ổn định kinh tế vĩ mô ”, mặc dù cụm từ này đã và đang được nêu ra bời rất nhiều người và pho biến. Điểm lại nhiều bài nói và viết cùa các chuyên gia, các tổ chức liên đới trong và ngoài nước ờ Việt Nam trong mấy năm qua, có thể thấy cụm từ “ổn định kinh tế vĩ mô ” đa phần nào được dùng như một nhiệm vụ riêng biệt, song song với những nhiệm vụ, mục tiêu khác như "kiềm chế lạm phát ”, "ổn định tỳ giá ”, "thúc đẩy, hỗ trợ, ổn định tốc độ tăng trưởng ”...
Thực tế trên thế giới, cụm từ “ôn định kinh tế vĩ mô ” được dùng với nghĩa bao hàm cả những mục tiêu khác như giữ ổn định các chi tiêu về tốc độ tăng trưởng (tiệm cận với mức tăng trưởng tiềm năng), mức giá cả và tỳ lệ thất nghiệp... Cách dùng này dựa trên khái niệm về “kinh tế vĩ mô" - là một hệ thong kinh tế cùa cà một quốc gia, với các chi tiêu đo lường “sức khóe" cùa nó như tốc độ tăng trường thu nhập, thất nghiệp, lạm phát... Bởi vậy, ổn định kinh tế v ĩ mô có nghĩa là giàm thiếu biến động (trong ngan hạn) cùa những chi tiêu này. Mục đích của ôn định kinh tế vĩ mô là đê tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư làm cải thiện tăng trưởng trong dài hạn. Ngoài lý do là chuẩn mực và phố biến, cách dùng với nghĩa này còn tránh được sự mơ hồ về mục đích như trong cách dùng đang pho biến ở Việt Nam như nói ờ trẽn.
Theo cách dùng như ờ Việt Nam hiện nay thì dường như “Ôn định kinh tế vĩ mô " là cái gì đó khác và độc lập với ổn định giá cà, kiềm chế lạm phát, càng khác và độc lập với thúc đẩy, hỗ trợ, ổn định tăng trưởng kinh tế.
Vì rõ ràng hiện nay, việc thúc đẩy, duy trì tốc độ tăng trưởng (hiện đang được cho là ở mức thấp so với tăng trưởng tiềm năng) đã được gạt xuống hàng thử yếu, sau mục tiêu "ồn định kinh tế vĩ mô". Theo cách chuân mục thì ồn định kinh tế vĩ mô là việc đạt được sự ổn định trên nhiều chì tiêu, trong số đó có những chi tiêu mà việc thực hiện được chúng có tính đối nghịch với việc thực hiện những chì tiêu khác, ít nhát trong ngan hạn, ví dụ như ỏn định lạm phát và duy trì, ổn định tốc độ tăng trường.
27
Cụ thê hơn, với mục tiêu ổn định tốc độ tăng trưởng (hiện đang có xu hướng tụt thấp so với tăng trưởng tiềm năng) trong "gói " ỗn định kinh tế vĩ mô, thì căn thiẽt phải khôi phục và ồn định tốc độ tăng trưởng kinh lê sao cho tiệm cận với tốc độ tăng trường tiềm năng. Điều này đòi hỏi phái có sự nới lóng chính sách tiền tệ hơn. Nhưng, mặt khác, vì lạm phát đang ở mức khá cao nên cần thiết phải duy trì chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ hơn. Như vậy, trong ngắn hạn, ổn định kinh tế vĩ mô nói chung có khả năng không thể lồng ghép với sự phục hồi và duy trì tăng trường kinh tế.
Trên thực tế, Chính phù cũng đã tách mục tiêu tăng trưởng kinh tê ra khỏi "gói" ổn định kinh tế vĩ mô. Loại bỏ mục tiêu tăng trưởng ra thì trong gói ổn định kinh tể vĩ mô, ngoài mục tiêu giữ cho giá cả ổn định (lạm phát thấp), sẽ còn những mục tiêu chính khác là hạ lãi suất, ổn định tỷ giá, việc làm, thâm hụt ngân sách, cán cân thương mại...
Xét cho cùng, yếu tố chính chi phối việc đạt được những mục tiêu này vẫn là lạm phát thấp. Khi giá cà ổn định (lạm phát thấp) thì biến động việc làm sẽ có xu hướng giám thiểu (vì chi phí sản xuất bao gồm chi phí tiền lương sẽ không bị tác động nhiều bởi lạm phái nên chủ doanh nghiệp có xu hướng duy trì ổn định số việc làm hơn).
Khi lạm phát thấp thì áp lực phá giá nội tệ đến từ việc lên giá thực của nội tệ so với ngoại tệ sẽ không lớn nên tỷ giá sẽ được ổn định hơn. Đồng thời, tỷ giá ổn định do nội tệ ít bị lẽn giá thực sẽ tạo điều kiện duy trì cán cân thương mại cân bằng hơn. Lạm phát thấp cũng có nghĩa ¡à chính sách tiền tệ thường là thắt chặt hơn nên thâm hụt ngân sách cũng ít bị áp lực gia tăng hơn. Nói cách khác, ổn định kinh tế vĩ mô và lăng trưởng trong bối cành hiện nay của Việt Nam chính là "kiềm chế lạm phát (ở mức thấp) và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (theo diễn biến của lạm phát). Như vậy đã đù chi ra được cái gì là ưu tiên (tức là lạm phát), cần tập trung thực hiện và cái gì là thứ yếu.
TS PHAN MINH NGỌC TẠI http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/02/1079852/on-dinh-kinh-te-vi-mo-cai-gi-tai sao-va-the-nao/
28
TỔNG KÉT CHƯƠNG
Để mở đầu những bài học về kinh tế học vĩ mô, Chương 1 giới thiệu về lịch sử kinh tế học nói chung và lịch sử kinh tế vĩ mô nói riêng. Kinh tế học về tổng thể được chia làm kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô. Kinh tế học vĩ mô là môn học nghiên cứu nền kinh tế dưới góc độ tồng thể, xem xét những xu huớng, hoạt động, tương tác và biến động chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó, kinh tế học vi mô là môn học phân tích hành vi, hoạt động của các tác nhân, các tế bào trong nền kinh tế. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô là hoạt động tổng thể của cả nền kinh tế được thể hiện qua các đại lượng vĩ mô như tổng sản lượng, mức giá cả chung, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái... Để nghiên cứu các đối tượng này, kinh tế học vĩ mô sử dụng ba phương pháp chính là phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp toán học và phương pháp cân bằng tổng thể.
Hệ thống kinh tế vĩ mô bao gồm đầu vào, hộp đen kinh tế và đầu ra. Hộp đen kinh tế thực chất là sự tương tác giữa tổng cầu và tổng cung trong nền kinh tế để tạo ra những kết quả vĩ mô như mức giá chung, tổng sản lượng. Đầu vào bao gồm đầu vào nội sinh (chi tiêu của hộ gia đình, thuế, đầu tư của các hãng...) đầu vào ngoại sinh (thiên tai, chiến tranh, bệnh tật...) sẽ tác động đến tổng cầu và/hoặc tổng cung từ đó làm thay đổi các kết quả vĩ mô ở trên. Neu đầu vào tốt (hộ gia đinh tăng chi tiêu, thuế thấp, không có chiến tranh...), nền kinh tế sẽ sản sinh ra những đầu ra tốt (sản lượng cao) và ngược lại.
Dựa trên nghiên cứu về hệ thống kinh tế vĩ mô, Chính phủ có thể sử dụng những công cụ sau đây để điều tiết vĩ mô nền kinh tế: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách điều tiết thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại (thương mại). Khi sử dụng những công cụ này, Chính phủ hướng đến những mục tiêu như tăng trường, ổn định giá cả, công bằng xã hội.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Cho biết sự khác biệt cơ bản của kinh tế học theo quan điểm của Keynes và quan điểm kinh tế học cồ điển của Adam Smith?
2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc là gì? Cho ví dụ. 3. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là gì? Phân biệt ?
4. Mục tiêu cùa kinh tế học vĩ mô là gì? Cho biết các công cụ để thực hiện các mực tiêu đó?
5. Hệ thống kinh tế vĩ mô gồm các yếu tố gì? Cho ví dụ minh họa. 29
THUẬT NGỮ VIỆT ANH
Microeconomics
Macroeconomics
Normative Economics
Positive Economics
Exogenous Variable
Endogenous Variable
Economic Growth
Tariff Barrier
Aggreagate Demand
Aggreagate Supply
Inflation
Equilibrium Point
30
Kinh tế vi mô:
Kinh tế vĩ mô:
Kinh tế học thực chứng: Kinh tế học chuẩn tắc: Biến số ngoại sinh: Biến số nội sinh:
Tăng trưởng kinh tế: Hàng rào thuế quan: Tổng cầu:
Tổng cung:
Lạm phát:
Điểm cân bằng:
chươna
ĐO LƯÒNG CÁC BIẾN s ô KINH TẾ v ỉ MÔ
I. TỔNG SẢN PHÀM QUỐC NỘI
1. Khái niệm
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, bất kể người sàn xuất thuộc quốc tịch nào.
Với khái niệm này chúng ta cần lưu ý một số vấn đề:
- Đối tượng tính toán của GDP là hàng hóa cuối cùng (sản phẩm hữu hình) và dịch vụ (sản phẩm vô hình) được sản xuất ra và trao đổi trên thị trường.
- Hàng hóa và dịch vụ cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh được bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Vi dụ: Đồ gia dụng, lương thực, thực phẩm, dịch vụ dọn dẹp nhà cửa, dịch vụ vui chơi giải trí... của các hộ gia đình. Thiết bị văn phòng, nhà xuởng... mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh.
Mặc dù vậy, không phải giá trị của tất cà các sản phẩm cuối cùng đều được tính vào GDP. Trong GDP chỉ bao gồm giá trị của những sản phẩm hoàn chỉnh được mua bán hợp pháp trẽn trị trường và bò sót những sản phẩm cuối cùng tự cung tự cấp (Ví dụ các sản phẩm tự sản tự tiêu của hộ gia đình như: rau trồng trong vườn nhà, thịt gia cầm do gia đình nuôi, công việc nội trợ...) hoặc những hàng hóa và dịch vụ nhìn chung không được mua bán hợp pháp trên thị trường nhưng có thể cần thiết cho các hộ gia đình. Đây là một hạn chế của GDP. Tuy nhiên, tỷ trọng của những hàng hóa và dịch vụ này trong GDP không lớn nên các nhà kinh tế vẫn sử dụng GDP trong phân tích kinh tế.
31
Trong kinh tê vĩ mô, hàng hóa trung gian được hiểu là hàng hóa đóng vai trò là đầu vào cùa một quá trinh sản xuất nhất định và được sứ dụng hết trong quá trình sản xuất đó.
Vi dụ: sắt thép hoặc cửa kính để sản xuất ô tô. Vải để may quần áo. Giấy để in sách, vở, thiệp mừng...
Việc phân biệt hàng hoá trung gian với hàng hoá và dịch vụ cuối cùng nhằm tránh tính trùng khi tính GDP. Bời trong giá trị cùa sản phẩm cuối cùng đã bao gồm giá trị của các sản phẩm trung gian.
Tuy vậy, có hai trường hợp ngoại lệ quan trọng mà hàng hóa trung gian được coi là hàng hóa cuối cùng và cũng được tính vào GDP.
Trường hợp 1:
Trong một thời kỳ nhất định, hàng hóa trung gian được sản xuất ra nhưng chưa được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa cuối cùng thì chúng được tạm coi là hàng hóa cuối cùng và giá trị của chúng cũng được tính vào GDP của thời kỳ đó.
Trong trường hợp này, hàng hóa trung gian tồn tại dưới dạng là khoản đầu tư vào hàng tồn kho và khi đó, theo quy định, giá trị cùa hàng hoá trung gian sẽ được coi là khoản đầu tư dương (+) nhưng khi hàng hóa này được sử dụng thì sẽ được coi là khoản đầu tư âm (-).
Nguyên tắc này cũng áp dụng đối với hàng hóa trung gian đã được sử dụng để sản xuất ra thành phẩm nhưng thành phẩm này vẫn chưa được tiêu thụ (thành phẩm tồn kho).
Trường hợp 2:
Hàng hóa trung gian là hàng xuất khẩu cũng sẽ được coi là hàng hóa cuối cùng trong phạm vi quốc gia và giá trị của nó cũng được tính vào GDP. Ví dụ một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như dầu thô than đá...
- Đcm vị tính toán cùa GDP: Thông thường mỗi quốc gia đều tính GDP theo đồng tiền bản tệ. Tuy nhiên, mỗi nước lại sử dụng một loại tiền tệ riêng nên khi muốn so sánh GDP giữa các nước thì cần đo lường GDP của các nước bằng một đon vị tiền tệ chung (chẳng hạn USD, ERO...). Nsoài ra để việc so sánh GDP giữa các nước phản ánh sự chênh lệch về mức sống một cách sát thực hơn, các nhà kinh tế còn sừ dụng khái niệm GDP theo sức
32
mua tương đuơng (GDPppp). Đây là GDP được tính toán dựa trên sự điều chinh sự khác biệt về sức mua của đồng tiền giữa các nước.
% GDP-PPP Share of World
° 18 Vi n i l i f I H i i l l I I I 11 IS i n I i ’l l sill Nguồn: http://vi. Wikipedia. org/\viki/Kinh_t%E 1 %BA % BF_ Vi%E 1 %BB%8 7t_Nam
GDP-PPP per Capita
$79.309 ---------------------------------- ---- ------------------------------JC iw iTrt.4-
Tén nước va vùng lánh thổ
Nguồn: CIA World Faclbook
Hình 2.1. So sánh quy mô kinh tế (theo GDPppp) giữa Việt Nam với một số quốc gia và vùng lãnh thổ khu vục Đông A và Đông Nam Á, giai đoạn 1980 -2014
33
- Phạm vi tính toán GDP: GDP đo lường tồng giá trị của các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra ừong phạm vi lãnh thổ quốc gia và không tính đến nguồn lực sản xuất có nguồn gốc từ đâu. Cụ thể GDP bao gồm giá trị của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra bời công dân và doanh nghiệp nước ngoài tiến hành ở nước sở tại song lại không bao gồm giá trị hàng hóa, dịch vụ của công dân và doanh nghiệp nước sờ tại tiến hành ờ nước ngoài.
- Thời điếm tính toán GDP: Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở thời kỳ nào thi được tính vào GDP của thời kỳ đó (thông thường, GDP được tính theo một năm hoặc theo các quý trong năm). Trong GDP không bao gồm giá trị của những hàng hoá đã sản xuất ra ở những thời kỳ trước đó hoặc những hàng hoá đã qua sử dụng.
2. Phương pháp xác định GDP
2.1. Cơ sở của phương pháp xác định G DP
Trong nền kinh tế thực, có rất nhiều đối tượng tham gia vào các hoạt động kinh tế như hộ gia đình, các hãng kinh doanh, các cơ quan cùa Chính phủ từ Trung ương đến địa phuơng, người nước ngoài. Song để minh họa các cách tính toán GDP khác nhau, chúng ta bắt đầu bằng việc xem xét nền kinh tế giản đơn (trong đó không có sự tham gia cùa Chính phủ hay người nước ngoài) chỉ có hai tác nhân là các hộ gia đình và các hãng kinh doanh với những giả định sau:
- Các hộ gia đình cung cấp toàn bộ các yếu tổ đầu vào cho các hãng kinh doanh như: sức lao động, von, đẩt đai, nguyên vật liệu... trên thị trường các yếu tố sàn xuất.
- Sau khi thanh toán cho các hộ gia đình, các hãng kinh doanh sừ dụng những yếu tố đầu vào này sàn xuất ra hàng hóa và dịch vụ cuối cùng bán cho các hộ gia đình trẽn thị trường sàn phẩm.
- Các hãng luôn bán hết hàng và dùng toàn bộ số tiền thu được để trà cho các hộ gia đình. Đồng thời các hộ gia đình cũng dùng toàn bộ số tiền thu nhập được từ việc cung cấp các yếu tố đầu vào để mua hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
Từ những già định như trên chúng ta có sơ đồ 2.1.
34
(= GDP)
.......................^ luốn g hiện vật
» luồn g tiền
Sơ đồ 2.1. Vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Với những giả định như trên thì cả hai vòng luân chuyển bên trong và bên ngoài đều khép kín, trong đó:
- Vòng luân chuyển bên trong là vòng luân chuyển các nguồn lực thật: Các yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh doanh và hàng hóa, địch vụ cuối cùng từ các hãng kinh doanh sang hộ gia đình.
- Vòng bên ngoài là vòng luân chuyền về tiền: Tiền từ các hãng kinh doanh chuyển đến hộ gia đình để thanh toán cho việc cung ứng các yếu tố sản xuất. Sau đó, tiền lại từ hộ gia đình chuyển sang hãng kinh doanh để thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ cuối cùng mà hộ gia đình mua.
Sơ đồ vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô gợi lên hai cách tính GDP: - Một là, chúng ta có thể tính tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế, tổng giá của các hàng hóa, dịch vụ đó sẽ bàng với lượng tiền chi tiêu của các hộ gia đình. Ta có cách xác định GDP theo phương pháp chi tiêu hay GDP theo luồng sản phẩm.
35
- Hai là, chúng ta có thể tính tổng thu nhập từ các yếu tố sàn xuất cùa các hộ gia đình, đây cũng chính là chi phí của các hãng kinh doanh. Từ đó ta có cách xác định GDP theo phương pháp thu nhập hoặc chi phí.
Vì cả hai vòng luân chuyển đều khép kín và nền kinh tế với tư cách là một tổng thể tồng thu nhập phải bằng tổng chi tiêu. Do vậy, giá trị GDP thu được từ hai cách tính trên phải bằng nhau.
2.2. Các phương pháp xác định GDP
• Xác định GDP theo phương pháp clii tiêu hay luồng sản phẩm
Như đã nói ở trên, thực tế nền kinh tế không chỉ có hai tác nhân là các hộ gia đình và các hãng kinh doanh mà còn có các tác nhân khác là Chính phủ và yếu tố nước ngoài. Vì vậy, chúng ta sẽ mở rộng sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô có tính tới cả khu vực Chính phủ và người nước ngoài.
Theo phương pháp chi tiêu, GDP sẽ bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phù và khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
GDP = c + I + G + X - M
Trong đó:
C: chi tiêu của các hộ gia đình;
I: chi tiêu của các hãng kinh doanh;
G: chi mua hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ;
X: khoản xuất khẩu;
M: khoản nhập khẩu.
NX = X - M: còn gọi là xuất khẩu ròng hay cán cân thưcmg mại. Tùy vào sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu mà cán cân thương mại có thể ở các trạng thái khác nhau:
- Nếu NX > 0: Cán cân thương mại thặng dư
- Nếu NX = 0: Cán cân thương mại cân bằng
- Nếu NX < 0: Cán cân thương mại thâm hụt
36
Bảng 2.1. Các thành phần GDP của Việt Nam theo giá hiện hành
Năm2008 2009 2010 2011 Tỳ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % c 1.000.972 67,4 1.102.279 66,5 1.317.588 66,5 1.630.143 64,3 1 589.746 39,7 632.326 38,1 770.211 38,9 872.032 32,6 G 90.904 6,1 104.540 6,3 129.313 6,5 164.323 6,5 X 1.157.178 77,9 1.132.688 68,3 1.535.816 77,5 2.205.858 87 M 1.383.006 93,1 1.304.350 78,7 1.739.363 87,8 2.312.711 91,2 Sai số 29.244 2,0 - 9.093 -0,5 - 32.651 -1,6 20.363 0,8 CDP 1.485.038 100 1.658.389 100 1.980.914 100 2.535.008 100 Nguồn: www.adb.org.vn, 2012
Phần dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hom các yếu tố cấu thành GDP. - Tiêu dùng cùa các hộ gia đình (C)
Tiêu dùng của các hộ gia đình bao gồm tổng giá ừị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình mua được trên thị trường để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Giá trị của những sản phẩm mà các hộ gia đình tự cung tự cấp sẽ không được tính trong GDP. Ngoài ra, khoản chi xây dựng hoặc mua nhà ở mới không được tính vào tiêu dùng cùa các hộ gia đình mà được tính vào khoản đầu tư tư nhân dưới đây.
- Chi tiêu hay đầu tư cùa các hãng kinh doanh (ỉ)
Thành tố này của GDP phản ánh tổng đầu tư trong nước của khu vực tư nhân. Nó bao gồm tổng giá trị hàng hóa cuối cùng mà các hãng kinh doanh mua được trên thị trường để phục vụ nhu cầu sản xuất như: chi mua máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, văn phòng mới...; chi xây dựng hoặc mua nhà ở mới của dân cư; và sự thay đổi trong giá trị hàng tồn kho của các hãng kinh doanh.
Cần lưu ý, khái niệm đầu tư với tư cách là thành tố cùa GDP khác với khái niệm đầu tư nói chung. Đầu tư theo cách hiểu của các nhà kinh tế ứng dụng trong tính toán tồng sản phẩm quốc nội là việc mua sắm các tư liệu lao động mới, tạo ra tư bản dưới dạng hiện vật và làm tăng tài sản của quốc gia như xây dựng nhà máy mới, mua sắm công cụ mới... Còn khái niệm đầu tư theo quan điểm của các nhà kinh doanh như việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu hay mờ một tài khoản tiết kiệm ờ ngân hàng... chỉ được xem
37
là hành vi tiêt kiệm trong kinh tế học vĩ mô, không làm cho tổng tài sản cùa quốc gia tăng lên.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đầu tư chúng ta cần phân biệt hai khái niệm tổng đầu tư và đầu tư ròng.
Tổng đầu tư (ỉ) là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ đi phần đã hao mòn (hay khấu hao: D) trong quá trinh sản xuất.
Đầu tư ròng (ỉn) là tổng đầu tư sau khi đã loại trừ phần khấu hao tài sản cố định.
I„=I-D
Một ví dụ về dân số sẽ giúp bạn hiểu rõ tồng đầu tư, đầu tư ròng và khấu hao. Mức độ tăng lên cùa quy mô dân số đuợc tính bằng tồng số người sinh ra thêm trừ đi số người mất. Điều này cũng đúng đối với vốn. Mức tăng ròng của vốn (đầu tư ròng) bằng tổng đầu tư và trừ đi “số mất” của vốn dưới dạng khấu hao, hay là phần vốn đã bị tiêu dùng hết.
Tuy nhiên, trong tính toán GDP người ta tính tổng đầu lư chứ không phải đầu tư ròng. Như chúng ta đã biết tồng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị các sản phẩm cuối cùng. Cùng với các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình thì tổng đầu tư cũng được coi là khoản tiêu dùng cuối cùng cùa các doanh nghiệp.
Thành phần còn lại của khoản mục đầu tư là sự thay đồi trong giá tri hàng tồn kho của các hãng kinh doanh.
Hàng tồn kho bao gồm các nguyên vật liệu là đầu vào cùa sàn xuất hoặc các thành phẩm chờ để bán ra.
Theo quy định, giá trị hàng tồn kho được coi là khoản đầu tư dương (+) nhưng sau khi sử dụng hoặc tiêu thụ sẽ được coi là khoản đầu tư âm (-). Trong mỗi thời kỳ, giá trị lượng tồn kho phát sinh tăng thêm sè được tính vào khoản đầu tư của thời kỳ đó.
Như vậy, khái niệm đầu tư là một khái niệm phức tạp. Nó cho thấy một phần tổng sàn phẩm quốc nội dùng để tái tạo vốn cơ bản cho nền kinh tế chứ không phải để tiêu dùng cho hiện tại. Đầu tư có tác dụng tái sản xuất mở rộng, nên cũng giúp tăng tiêu dùng trong tương lai. Như vậy, có sự đánh đổi giữa tiêu dùng hiện tại và tiêu dùng trong tương lai.
38
- Chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ cùa Chính phủ (G)
Chính phủ là người tiêu dùng lớn nhất trong nền kinh tế. Hàng năm Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng như: đường sá, trường học, bệnh viện, hệ thống an ninh quốc phòng và trả lương cho bộ máy quản lý hành chính của nhà nước... Toàn bộ chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ đều được tính vào GDP.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản chi tiêu trong ngân sách của Chính phủ đều được tính vào GDP mà chỉ có những khoản chi của Chính phủ nhàm có được một hàng hóa và dịch vụ cuối cùng nào đó mới được tính trong G. Còn các khoản thanh toán chuyến nhượng (TR) cùa Chính phủ, tức là các khoản chi ra không tương ứng với một hàng hóa, dịch vụ nào sản xuất ra trong nền kinh tế, sẽ tuyệt đối không đirợc tính trong G. Các khoản chi chuyển nhượng này bao gồm các khoản chi chuyển nhượng cho các cá nhân (như: bảo hiểm xã hội cho người già, trợ cấp cho người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp...) hoặc cho các doanh nghiệp (như: trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, thường xuất khẩu...), hoặc cho các tổ chức. Ngoài ra, các khoản trả lãi cho các khoản nợ ở trong và ngoài nước của Chính phủ cũng không được tính vào GDP.
- Xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M)
Một cách hiểu chung nhất, hàng xuất khẩu là những hàng hóa được sản xuất ra ở trong nuớc nhưng bán cho người nước ngoài tiêu dùng. Hàng nhập khẩu là những hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài nhưng được mua về để phục vụ nhu cầu sàn xuất và tiêu dùng nội địa. Trên thực tế, hàng hóa lưu chuyển ra, vào các khu chế xuất (khu vực có biên giới hải quan riêng nhưng vẫn nằm trong lãnh thổ quốc gia) ờ các nước cũng được coi là hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình tính toán GDP chúng ta tạm bỏ qua giá trị của những hàng hóa, dịch vụ này.
Căn cứ vào cách hiểu chung đó, chúng ta thấy hàng xuất khẩu làm tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP. Trái lại, hàng nhập khẩu không nằm trong sản lượng nội địa nên phải trừ đi khỏi khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đinh, các hãng kinh doanh và Chính phủ đã mua và tiêu dùng.
• Xác định GDP theo phương pháp thu nhập hoặc chi p h í Tồng chi phí mà các hãng kinh doanh phải thanh toán như: tiền công, tiền trả lãi cho việc vay vốn, tiền thuê nhà xưởng, văn phòng... và lợi nhuận
39
- phần thường cho sự mạo hiểm trong kinh doanh - trở thành thu nhập cùa hộ gia đình. Như vậy, nếu nền kinh tế chi bao gồm hai tác nhân là các hộ gia đình, các hãng kinh doanh và chưa tính tói khấu hao thì theo phương pháp thu nhập, GDP được tính như sau:
GDP = w + i + r + 7C
Trong đó:
w: chi phí tiền công, tiền lương;
i: chi phí thuê vốn (lãi vay);
r: chi phí thuê nhà, thuê đất...;
Jt: lợi nhuận.
Trong nền kinh tế có Chính phù và yếu tố nước ngoài, khi tính GDP theo phương pháp thu nhập cần có hai điều chinh để đảm bảo GDP tính theo cả hai phương pháp là như nhau:
Một là, GDP theo chi phí chưa tính đến khoản thuế mà Chính phù đánh vào hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng và thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te), ví dụ thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu... Nó khác với thuế trực thu (Td) là thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hai là, GDP theo chi phí chưa tính đến khấu hao tài sản cố định (D). Trong quá trình sản xuất, máy móc, trang thiết bị sẽ bị cũ và hư hòng dần. Vì hao mòn tài sản cố định không tương ứng với khoản thu nhập nào của các hộ gia đinh và trong cách xác định GDP theo phương pháp chi tiêu, đầu tư của các hãng kinh doanh (I) là tổng đầu tư, tức là chưa trừ đi phần khấu hao tài sản cố định nên khi tính GDP theo phưcmg pháp này cần bổ sung phần khấu hao tài sản.
Với hai điều chinh trên ta có:
GDP = w + i + r + x + Te + D
• Xác định GDP theo phương pháp sản xuất liay phương pháp giá trị gia tăng
Theo định nghĩa GDP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra, nhưng để các hàng hóa cuối cùng đến được tay người tiêu
40
dùng chúng phải trải qua rất nhiều công đoạn sản xuất. Tại mỗi công đoạn sản xuất, nhờ có sự tham gia của các yếu tố đầu vào mà giá trị cùa các hàng hóa, dịch vụ được tăng thêm một phần gọi là giá trị gia tăng (VA).
Giá trị gia tăng bằng chênh lệch giữa giá trị sản lượng đầu ra với giá trị của các yếu tố đầu vào được sử dụng hết để sản xuất ra sản lượng đó. Như vậy có thể tính giá trị gia tăng tại mỗi công đoạn sản xuất bàng tồng doanh thu (TR: Total Revenues) trừ đi tổng chi phí (TC: Total Costs) tại công đoạn sản xuất đó:
VA = TR - TC
Đe minh họa cách tính của phương pháp này chúng ta lấy ví dụ về trường hợp sản xuất quần áo.
Bàng 2.2. Tóm tắt quá trinh xác định giá tri sàn phẳm cuối cùng
theo phương pháp sản xuất (giá tri gia tăng)
Các công đoạn sản xuất
Doanh thu (1000đ)
Chi phí đầu vào (1000đ)
Giá tri gia tăng (lÒOOđ)
1. Bông 50 0 50 2. Sợi 100 50 50 3. Vải 200 100 100 4. Quần áo 500 200 300 Tổng cộng 500
Giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng chính là bằng tổng giá trị gia tăng ờ từng công đoạn sản xuất cộng lại. Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp là số đo phần đóng góp của doanh nghiệp vào tổng sản lượng của nền kinh tế. Tồng giá trị gia tăng của các đơn vị thuộc {rí) ngành khác nhau chính là tổng sàn phẩm quốc nội GDP.
GDP = ¿ V A ,
1=1
3. GDP danh nghĩa và GDP thực tế
GDP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và để tính được giá trị chúng ta phải sử dụng thước đo giá cả thị trường cho các hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Nhưng giá cả lại là một thước đo co dãn và thường có xu hướng tăng lên
41
qua các năm. Do vậy, GDP tính bằng tiền có thể tăng nhanh trong khi giá trị thực của tông sản phâm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rât ít. Đe khắc phục hạn chế này, các nhà kinh tế đưa ra hai khái niệm GDP danh nghĩa và GDP thực tế.
GDP danh nghĩa (GDP„) đo lường tổng sản phầm quốc nội sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định theo giá cà hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó (gọi là kỳ nghiên cứu).
GDP' = P/Q! + P^Q' +... + p: q : = £ P' XQỈ
1=1
Trong đó:
Pị': giá cả của các hàng hóa và dịch vụ thứ i ở thời kỳ nghiên tứu;
Q1: số lượng của các hàng hóa và dịch vụ thứ / ở thòi kỳ nghiên cứu. Bảng 2.3. Tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa cùa Việt Nam
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng sản phẩm quốc nội GDP danh nghía ựỷ USD, làm tròn)
GDP/đầu người
31 32 35 39 45 52 60 70 89 91 101
(USD) 402 416 441 492 561 642 730 843 1.052 1.064 1.168 Nguồn: Tổng cục Thống kè
GDP thực tế (GDPr) đo lường tồng sản phẩm quốc nội sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định theo giả cả co định ở một thời kỳ được lấy làm gốc (gọi là kỳ gốc hay kỳ cơ sở).
GDP; = P,°QỊ +P20Q,2+... + Pn°Q' = ¿ P " xQ,'
/=l
Trong đó:
p ° : giá cả của các hàng hóa và dịch vụ thứ i ờ thời kỳ gốc; Q |: số lượng của các hàng hóa và dịch vụ thứ i ở thời kỳ nghiên cứu.
42
Do GDP thực tế không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả nên những thay đổi của GDP thực tế chỉ phản ánh sự thay của lượng hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, nó cũng phản ánh khả năng của nền kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu của người dân. Vì vậy, GDP thực tế là một chì tiêu đánh giá phúc lợi kinh tế tốt hom GDP danh nghĩa. Khi các nhà kinh tế nói đén tăng trường của nền kinh tế tức là họ nói đến sự tăng trưởng cùa GDP thực tế từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Hình 2.2. Tóc độ tăng GDP thực tế của Việt Nam
Tỳ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế gọi là chì sổ điều chỉnh GDP hay chi sổ giảm phát GDP, kí hiệu Dgdp
Ẻ P'Q.'
/=1____
DỏDP = — —y X100 = -^
xioo
GDP GDP'
ẻ p“q: ¿-I
Chi số điều chỉnh cho biết sự biến động giá cả ở thời kỳ hiện tại so với thời kỳ gốc. Do đó, chì số này được dùng để đo lường lạm phát.
D' - D'"1
71= 0DP,, GDPxlOO%
43
II. CÁC BIẾN Vĩ MÔ KHÁC ĐO LƯỜNG SÀN LƯỢNG 1. Tổng sản phẩm quốc dân
1.1. Khái niệm
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị thị trường cùa tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất bởi nguồn lực cùa một nước trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Tương tự như đối với khái niệm GDP, trong khái niệm GNP chúng ta cũng cần lưu ý những vấn đề sau:
Đổi tượng tính toán cùa GNP: là hàng hóa cuối cùng và dịch vụ được mua bán, trao đổi hợp pháp trên thị trường.
- Đơn vị tính toán cùa GNP: Tương tự như GDP, trước hết, các quốc gia sẽ tính GNP theo đồng bản tệ và sau đó sẽ quy đổi sang đom vị tiền tệ chung nào đó khi muốn so sánh GNP giữa các nước.
- Phạm vi tính toán cùa GNP: hàng hóa, dịch vụ được sản xuất bởi nguồn lực của nước nào sẽ được tính vào GNP cùa nuớc đó, bất kể việc sàn xuất được tiến hành ở đâu. Nói cách khác, GNP tính theo quốc tịch người sàn xuất, không tính theo địa điểm sản xuất. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa GDP và GNP.
Thời điểm tính toán GNP'. hàng hoá và dịch vụ được sàn xuất ra ở thời kỳ nào thì được tính vào GNP của thời kỳ đó.
1.2. Cách xác định GNP
Tống sản phẩm quốc dân bao gồm tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được sàn xuất ra bởi công dân và doanh nghiệp của một nước ờ cả trong nước và ngoài nước nhưng không bao gồm giá trị của hàng hóa, dịch vụ được sản xuất bời công dân và doanh nghiệp nước ngoài tại nước đó nên GNP có thể tính như sau:
GNP = GDP + NFA
Trong đó, NFA (Net Factor Income from Abroad) là thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài. Đó là phần chênh lệch giữa thu nhập của công dân, doanh nghiệp một nước ở nước ngoài và công dân, doanh nghiệp nước ngoài tại nước đó.
44
Ví dụ, ta có thể tính GNP của Việt Nam:
GNPvn = GDPvn + (thu nhập của công dân và doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài - thu nhập của công dân và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam).
GNPvn = GDPvn + N F A vn
Có ba trường hợp xảy ra:
- GNP > GDP: NFA > 0
- GNP = GDP: NFA = 0
- GNP < GDP: NFA < 0
Bàng 2.4. GNP vá GDP cùa một số nước năm 2008
Các quốc gia GNP (tỷ USD)
GDP
(tỷ USD) GNP - GDP (%GDP)
Nhật Bản 5.071 4.909 3,3%
Pháp 2.883 2.853 1,1%
Trung Quốc 4.370 4.326 1,0% Hoa Kỳ 14.283 14.204 0,6%
Canađa 1.391 1.400 - 0,6% Việt Nam 88 91 - 3,3% ôxtràylia 969 1.015 -4,5% Luxămbua 44 54 -18,5% Nguồn: World Development Indicators, World Bank
2. Sản phầm quốc dân ròng
Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là phần tổng sản phẩm quốc dân còn lại sau khi loại trừ phần khấu hao tài sàn cố định.
NNP = GNP-D
Trong quá trình sàn xuất, giá trị các tư liệu sàn xuất bị hao mòn dằn. Sau khi bán sản phẩm các doanh nghiệp phải bù đắp phần hao mòn này. Do đó một phần thu nhập quốc dân không trở thành nguồn thu nhập của các cá nhân trong xã hội.
Như vậy, suy cho cùng, không phải tổng đầu tư mà đầu tư ròng cùng với các thành phần khác cùa GDP (tiêu dùng cùa các hộ gia đình, chi tiêu của Chính phù, xuất khẩu ròng) mới là nhũng bộ phận quyết định tốc độ tăng trường, nâng cao mức sống của người dân.
45
3. Thu nhập quốc dân
Thu nhập quốc dân (NI) phản ánh tồng số thu nhập từ các yếu tố sản xuất như: sức lao động, vốn, đất đai... của nền kinh tế hay đồng thời đó cũng là thu nhập của các tất cả các hộ gia đình. NI được tính bằng phần sản phẩm quốc dân ròng trừ đi phần thuế gián thu.
NI = NNP - Te
NI = G N P -D -T e
4. Thu nhập khả dụng
Tuy thu nhập quốc dân là chi tiêu phản ánh thu nhập từ tất cà các yếu tố của nền kinh tế, do vậy đã phản ánh mức sống cùa người dân. Nhưng để dự đoán khả năng tiêu dùng và tích lũy cùa dân cư, các nhà kinh tế phải dựa vào các chi tiêu trực tiếp hơn, đó là thu nhập khả dụng (Y1, từ đây có thể thấy số nhân chi tiêu cho biết khi tiêu dùng tự định hoặc đầu tu tự định hoặc cà hai tăng lên 1 đơn vị thì sản lượng cân bàng sẽ khuếch đại lên bao nhiêu đơn vị. Bên cạnh đó, nếu muốn tăng số nhân chi tiêu, xu hướng tiêu dùng phải tăng lên. Ví dụ, nếu ta có chi tiêu tự định và đầu tu tự định của nền kinh tế là 200 tỷ VNĐ, MPC = 0,75 thì số nhân chi tiêu bằng 4 và sản lượng cân bằng là 800 tỷ VNĐ. Khi kích thích tăng tồng cầu, nểu đầu tư tự định và tiêu dùng tự định tăng gấp đôi thì sản lượng cũng chi tăng lên là 1600 tỷ VNĐ. Tuy nhiên nếu chúng ta kích thích được người dân chi tiêu nhiều hơn, thay vì có 10 đồng tăng lên họ tiêu dùng 7,5 đồng, nay tăng lên thành 9 đồng, nghĩa là MPC = 0,9 thì kể cả giữ nguyên chi tiêu và đầu tư như ban đầu (bằng 200 tỷ VNĐ) thì với số nhân chi tiêu mới là 10, sàn lượng cân bằng sẽ là 2000 tỷ VNĐ.
67
Ta có thể biểu diễn đường tồng chi tiêu dự kiến như sau:
Hình 3.2. Hàm chi tiêu dự kiến
Nếu Y < Yo: APE > Yo, nền kinh tế rcri vào trạng thái thiếu hụt hàng hóa.
Nếu Y > Yo: APE < Yo, nền kinh tế rơi vào trạng thái dư thừa hàng hóa. Hàng hoá sẽ bị tồn kho.
Để phân biệt hàng tồn kho do cầu thấp hom dự kiến hoặc tồn kho do các doanh nghiệp đã tính toán, nhằm sẵn sàng đáp ứng với các tín hiệu của thị trường chúng ta chia ra hàng tồn kho theo kế hoạch và hàng tồn kho ngoài kế hoạch:
+ Hàng tồn kho theo kế hoạch (Planned Inventory)'. Đó là hàng hoá mà các doanh nghiệp chủ động dự trữ để đàm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả hơn. Ví dụ như, các doanh nghiệp thường có sẵn một số hàng hóa đề phòng hỏng hóc phải bảo hành, hoặc phụ tùng thay thế, hoặc hàng hóa đề phòng cầu thị trường tăng đột biến sẽ có thể đáp ứng phần nào đó ngay lập tức.
Hàng tồn kho theo kế hoạch được coi là một khoản mục đầu tư theo kế hoạch và việc bồ sung thêm được tính là một phàn của chi tiêu đầu tư theo kế hoạch tăng lên thuộc tổng chi tiêu theo kế hoạch.
+ Hàng lon kho ngoài kế hoạch (Unplanned Inventory)-. Đó là hàng hoá mà các doanh nghiệp sản xuất ra nhimg không bán hết. Hàng tồn kho ngoài kế hoạch là chênh lệch giữa hàng tồn kho thực tế và hàng tồn kho theo
68
kế hoạch. Nguyên nhân có thể từ việc dự đoán thị trường sai hoặc câu thị trường giảm đột xuất, không theo dự kiến của doanh nghiệp. Điều này có thể thấy, thị trường nhà đất ở Hà Nội năm 2012-2013 lượng hàng tồn kho không theo kế hoạch tăng rất cao, do cầu thị trường giảm đột ngột từ ảnh hường của các chính sách kinh tế vĩ mô cùa Chính phủ, trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ và ảnh hường suy thoái của kinh tế toàn cầu. Dự kiến, lượng tồn kho không theo kế hoạch cùa thị trường bất động sản Hà Nội phải mất ít nhất 5 năm nữa mới bán hết số hàng tồn kho. Rõ ràng, ảnh hưởng của hàng tồn kho không theo kế hoạch là rất đáng lo ngại, với bất kỳ một loại thị trường nào.
2.2. Cân bằng trên thị trường hàng hóa trong nền kinh tế đóng có sự tham gia của Chinh phủ
Trong trường hợp trước chúng ta giả định nền kinh tế đóng giản đom và không có Chính phủ, phần này chúng ta sẽ mở rộng bằng việc xuất hiện Chính phủ trong nền kinh tế đóng, do đó tổng chi tiêu dự kiến sẽ gồm ba khu vực: tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư của hãng sản xuất và chi tiêu của Chính phủ. Với việc xuất hiện của Chính phù, đồng nghĩa với việc Chính phủ sẽ đánh thuế và lúc này thu nhập khả dụng (Yd) sẽ bàng thu nhập danh nghĩa (Y) trừ đi thuế, Yd = Y - T.
Do đó, chi tiêu của hộ gia đình sẽ phụ thuộc vào thu nhập khả dụng và được viết dưới dạng công thức như sau: c = c + MPC.Yd.
Chi tiêu Chính phù dựa vào thuế Chính phủ đánh và dùng để thanh toán cho các khoản chi tiêu hàng năm về hàng hóa và dịch vụ của mình. Có hai loại thu thuế: thuế trực thu và thuế gián thu.
Chúng ta thấy, Chính phủ thu thuế và dành một phần để trợ cấp cho người dân do đó ta có thuế ròng Chính phù thu được tính theo công thức bằng tổng thuế trực thu cùa Chính phù trừ đi khoản trợ cấp, được biểu diễn theo công thúc: T = TA
phủ sẽ được ủ y ban Ngân sách của Quốc hội đệ trình thông qua Quốc hội, dựa trên tờ trình của Chính phủ về những công việc cụ thể - TR (trong đó T gọi là thuế ròng, TA tổng thuế trực thu, TR là trợ cấp Chính phủ).
Thuế ròng lò khoản thuế thực thu của Chính phủ sau khi đã loại trừ các khoản trợ cấp cùa Chính phù cho công chúng.
69
Trong nền kinh tế đóng có Chính phủ, các doanh nghiệp vẫn đóng góp vào tổng chi tiêu dự kiến một lượng là I: I = ĩ .
Chính phủ gây ra cầu một lượng là khoản chi tiêu G.
Trong thực tế, khoản chi tiêu của Chính dự kiến và cần một lượng ngân sách chi tiêu dự kiến. Do đó, chi tiêu Chính phủ là một biến ngoại sinh, không phụ thuộc vào thu nhập hay sản lượng của nền kinh tế. Chúng ta giả định sẽ là một khoản nhất định, ký hiệu
G = G
Từ đây chúng ta có tổng chi tiêu trong trường hợp nền kinh tế đóng có Chính phủ được biểu diễn bằng công thức sau:
APE = C + I + G = C + Ĩ + G + MPC.(Y - T)
Trên thực tế, Chính phủ khi đánh thuế có thể có nhiều cách đánh thuế khác nhau, như đánh thuế một khoản nhất định, không quan tâm đến thu nhập, hay Chính phủ có thể đánh thuế suất, theo phần trăm của thu nhập, hoặc đánh gộp cả thuế cố định và thuế suất.
2.2.1. Xét trường hợp Chính phù đánh thuế là một khoản cố định T = T
Cách đánh thuế này thường có ưu điểm là dễ thực hiện, Chính phủ không cần giám sát xem tổng doanh thu phải nộp thuế là bao nhiêu, và kể cả khi không có thu nhập đối tượng chịu thuế vẫn phải nộp một khoản thuế nhất định. Tuy nhiên, hạn chế của loại thuế này là không công bàng vì người có thu nhập cao và thu nhập thấp đều nộp một khoản thuế như nhau. Với cách đánh thuế cố định, ta có phương trình tổng chi tiêu dự kiến là:
APE = C + I + G = C + Ĩ + G + M P C .(Y -T )
Nền kinh tế đạt trạng thái cân bàng khi tổng chi tiêu dự kiến bàng tổng sản lượng ta có:
Y = APE
Y = C + Ĩ + G + M PC .(Y -T)
Y0 = ----- -----(C + ĩ + G )—
1-M PC 1-M PC
70
Gọi m, = — ^ PC gọi là số nhân thuế, số nhân thuế cho biết khi ' 1-M PC
đánh thêm một đồng thuế thì sản lượng cân bàng giảm một lượng là một đơn vị nhân với số nhân thuế. Lý do, thuế tăng thêm dẫn tới sản lượng cân bàng giảm vì khi thuế tăng thu nhập khả dụng giảm, dẫn đến tiêu dùng của hộ gia đình giảm, làm cho sản lượng cân bằng giảm.
Nếu gọi m là số nhân chỉ tiêu và m, là số nhân thuế ta có thể viết lại phương trinh của sản lượng cân bằng trong nền kinh tế là:
Y0 = m(C + ĩ + G) + mlT
Từ công thức trên chúng ta thấy thuế và sản lượng hay thu nhập trong nền kinh tế có quan hệ ngược chiều nhau. Nói cách khác, khi mức thuế tăng lên, thu nhập và sản lượng giảm xuống. Ngược lại, thuế giảm sẽ làm thu nhập tăng và kích thích gia tăng sản lượng.
Câu hỏi đặt ra là việc xuất hiện của Chính phủ tốt hay không nếu Chính phủ xuất hiện để đánh thuế một lượng T và sau đó chi tiêu hết lượng thuế thu được dưới dạng chi tiêu Chính phủ G. về mặt toán học, chúng ta thấy \m,\ < m do đó, nếu Chính phủ đánh thuế một khoản và chi tiêu đúng
toàn bộ khoản thuế đã thu thì sản lượng cân bằng trong nền kinh tế sẽ tăng lên đúng bằng lượng thuế đánh do tổng số nhân chi tiêu và số nhân thuế 1 MPC luôn băng 1 (m + m ,= ------—------------— = 1). Điêu này cho thây khi 5 v ' 1-M PC 1-M PC
Chính phủ tăng thuế tự định và tăng chi tiêu cùng một lượng thì sản lượng cân bằng tăng thêm đúng bằng lượng tăng thêm về thuế và chi tiêu đó.
AY0 = AT = AG
Ví dụ như ở trường hợp trên, nếu ta có C,I không đổi bằng 100 tỷ VNĐ, MPC = 0,75, khi không có Chính phủ sản lượng là Yo = 800 tỷ VNĐ. Nếu Chính phủ xuất hiện và đánh một khoản thuế cố định là 100 tỷ VNĐ và mang chi tiêu hết thu nhập từ thuế dưới dạng chi tiêu Chính phủ G, ta có thể dễ dàng tính được sàn lượng cân bằng mới. Áp dụng công thức trên sẽ tính được bằng 900 tỷ VNĐ. Như vậy sản lượng tăng lên đúng bằng lượng thuế đánh thêm. Chúng minh tổng quát: Giả sử Chính phủ tăng thuế một lượng là AT và tăng chi tiêu một lượng là AG với AT = AG , ta sẽ có sự thay đổi trong sản lượng cân bằng là:
71
AY0 =
Đây là một trong những cơ sở giúp các nhà hoạch định chính sách kinh tế khi sử dụng chính sách tài khoá, để kích cầu, tăng sàn lượng trong nền kinh tế mà không làm ngân sách nhà nước thâm hụt (T — G = 0).
2.2.2. Trường hợp Chính phủ đánh thuế theo thu nhập
Nhận thấy việc đánh thuế cố định có những hạn chế, do mức thu nhập khác nhau đều phải chịu cùng một mức thuế, do đó Chính phủ có thể đánh thuế suất, tức là tỷ lệ phần trăm theo thu nhập.
T = t. Y (t là thuế suất tính theo phần trăm 0 < t < 1)
Lúc này hàm chi tiêu cùa hộ gia đình được viết lại như sau: c = c + MPC( Y - T) = c + MPC(1 - 0 Y
Chi tiêu dưới dạng đầu tư của các hãng kinh doanh là: 1 = 1. Chi tiêu của Chính phủ là: G = G .
Tổng chi tiêu dự kiến: APE = C + I + G = C + 1 + G + MPC X (1 - t)Y
Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng khi:
Y = APE
Y = C + I + G + M P C (l-í)x Y
l- M P C ( l-í)(C + I + G)
Gọi m' = -------——------ l- M P C ( l-í)
tham gia của Chinh phủ.
là số nhân chi tiêu của nền kinh tế đóng có sự
Dễ dàng nhận thấy m' =1 1
< m =
l- M P C ( l-í) 1-M PC
Điều này cho chúng ta một gợi ý chính sách rằng nếu sử dụng thuế theo thu nhập, thi cùng một đồng tăng thêm của tiêu dùng hay đầu tu sẽ tác động đến sàn lượng ít hơn so với trường hợp thuế cố định, hay nói cách khác khả năng khuếch đại chi tiêu của nền kinh tế sẽ kém hơn ưong tnrờng hợp sừ dụng thuế cố định.
72
2.2.3. Trường hợp Chính phủ vừa đánh thuế tự định và vừa đánh thuế theo thu nhập
Chúng ta đã biết, việc đánh thuế cố định thì có thể khiến bất công bàng giữa người thu nhập cao thấp khác nhau, tuy nhiên đánh thuế theo phần trăm của thu nhập lại có thể dẫn tới trường hợp nếu không có thu nhập thì Chính phủ không thu được thuế. Để khắc phục hạn chế của cả hai loại thuế trên, chúng ta có thể đánh cả thuế cố định và thuế suất, có nghĩa là nếu không có thu nhập, Chính phủ vẫn thu được khoản thuế cố định và nếu thu nhập tăng thì Chính phủ sẽ thu thêm được một khoản thuế nữa theo tỷ lệ theo khoản thu nhập tăng thêm. Thuế trong trường hợp này được biểu diễn như sau:
T = T + íx Y
Chi tiêu của các hộ gia đình sẽ được tính theo công thức
c = c + MPC( Y - T) = c - MPC X T + MPC(1 - 1) X Y
Chi tiêu của các doanh nghiệp dưới dạng đâu tư vẫn là 1 = 1. Chi tiêu của Chính phủ là G = G .
Tổng chi tiêu dự kiến:
APE = C + I + G = C + ĩ + G - M P C x ĩ + M P C (l-í)Y
Tương tự ta có cân bằng trong nền kinh tế tại điểm mà tổng chi tiêu dự kiến bằng với sản lượng sản xuất ra, ta có:
Y = APE
K = c + Ĩ + G - MPC X ĩ + MPC(1 - t)Y
Y0 = - ------ — (C + ĩ + G )---------------- ----- — T
0 l-M P C O -O l- M P C ( l-í)
Nhìn lại cách đánh thuế tự định chúng ta vừa nghiên cứu, khi Chính phù tăng một lượng thuế tự định và dùng toàn bộ lượng thuế đánh thêm mang chi tiêu dưới dạng chi tiêu Chính phủ, chúng ta có sản luợng cân bằng tăng lên đúng bàng lượng thuế tự định đánh thêm. Vậy trong trường hợp này, khi Chính phủ tăng một lượng thuế tự định và cũng dùng toàn bộ lượng thuế đó để tăng chi tiêu Chính phù, liệu sản lượng cân bằng sẽ thay đồi như thế nào? Với cách làm tương tự như phần đánh thuế cố định, tuy nhiên trong trường hợp này mẫu số của số nhân chi tiêu và số nhân thuế là một số khác
73
(1 -MPC(1 - 0 ). Ta có, MPC >MPC (1 - í ) do đó 1 -M PC < 1 -M P C (1 -t). Từ đây, ta có sự thay đổi của sản lượng cân bằng là:
AY0 = --------- ---------AG---------— ------AT = ' ~ MPC — AT < AT l- M P C ( l- 0 l-M P C (l-í) l- M P C ( l-í)
Như vậy, khi tăng thuế tự định một khoản và đem chi tiêu toàn bộ cho chi tiêu Chính phủ, chúng ta có sản lượng cân bằng tăng nhưng lượng tàng sẽ nhỏ hơn lượng thuế đánh thêm.
2.3. Cân bằng trên thị trường hàng hóa trong nên kinh té mờ có sự tham gia của Chính phủ
Trong trường hợp này chúng ta giả sử phân tích một nền kinh tế mở, có Chính phủ và Chính phủ sử dụng thuế suất đánh theo phần trăm của thu nhập: T = t.Y.
Để xác định tổng chi tiêu dự kiến, chúng ta phải xác định các bộ phận cấu thành tổng chi tiêu. Lúc này sẽ gồm có bốn bộ phận, đó là chi tiêu hộ gia đình, đầu tư của hãng sản xuất, chi tiêu Chính phủ và xuất khẩu ròng là hiệu số của xuất khẩu trừ đi nhập khẩu (NX = X - M, trong đó NX là xuất khẩu ròng, X là xuất khẩu và M là nhập khẩu). Cụ thể ta có:
Chỉ tiêu của các hộ gia đình, với thuế suất t theo thu nhập sẽ đuợc viết dưới công thức sau: c = c + MPC(Y - T) = c + MPC(1 - 1 )Y .
Chi tiêu cùa các doanh nghiệp dưới dạng đầu tư là: I = I .
Chi tiêu cùa Chính phủ là: G = G .
Cuối cùng chi tiêu của các tác nhân nước ngoài là khoản xuất khẩu ròng: NX = X - M.
Đầu tiên một đặc trung của nền kinh tế mở là xuất khẩu, chúng ta thấy thông thường lượng xuất khẩu X đuợc quyết định từ đầu năm, nó thường phụ thuộc vào thu nhập và nhu cầu của thị trường nước ngoài, do đó không phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chúng ta giả sừ nó là một khoản cố định và được biểu diễn là: X = X .
Một yếu tố thứ hai cũng rất quan trọng là nhập khẩu M. Nhu cầu nhập khẩu của một quốc gia có thể là hàng hóa dịch vụ, nguyên vật liệu, cho sản xuất nội địa hay tiêu dùng của các hộ gia đình. Với những nền kinh tế đang
74
phát triển như Việt Nam, dễ nhận thấy nhập khẩu phụ thuộc chặt chẽ vào thu nhập. Thứ nhất, chúng ta cần nhập khẩu rất nhiều máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ phục vụ cho quá trình phát triển đất nước, khi tăng trường kinh tế càng cao thì nhu cầu tiêu dùng càng lớn, do đó việc nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng phải tăng lên. Đặc biệt, với những nền kinh tế đang phát triển, trong nhiều trường hợp nói đến hàng nhập khẩu là nói đến chất lượng và kiểu dáng tốt hom, do đó khi thu nhập tăng lên người ta càng có xu hướng tiêu dùng hàng nhập khẩu với chất lượng cao hơn. Trong cả hai trường hợp này, nhập khẩu đều có thể tăng cùng chiều với thu nhập hay sản lượng của nền kinh tế, do đó có thể biểu diễn chi tiêu cho hàng nhập khẩu với công thức M = MPM.Y.
Trong đó, Y là thu nhập, MPM (Marginal Propensity to Import) được hiểu là xu hướng nhập khẩu cận biên, nó cho biết khi thu nhập tăng lên 1 đơn vị, người dân trong nước tăng chi cho hàng nhập khẩu thêm bao nhiêu đơn vị. Ví dụ, nếu thu nhập tăng thêm 100 nghìn VNĐ mà chúng ta chi cho hàng nhập khẩu là 20 nghìn VNĐ thì MPM = 0,2.
Chúng ta đã có các biểu thức biểu diễn cho chi tiêu dự kiến trong nền kinh tế mở có Chính phủ, đánh thuế suất theo phần tràm thu nhập, từ đây chúng ta có thể biểu diễn phương trinh tổng chi tiêu như sau:
APE = C + I + G + X - M
APE = C + Ĩ+ G + X + [M PC(1-í)-M P M ]x Y
Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng khi:
Y = APE
Y = C + Ĩ + G + X + [M P C (I-0 -M P M ]x Y
Y0 = ------------ —!■------------- (C + ĩ + G + X)
0 1 - MPC(1 - t ) + MPM
Nhu vậy ta có số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở là
1
= ------ ——— ------- —-----
l- M P C ( l- 0 + MPM
Dễ dàng nhận thấy vì mẫu số cộng thêm với MPM do đó số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở nhỏ hơn số nhân chỉ tiêu trong nền kinh tế đóng (kể cả trường hợp thuế suất hay thuế cố định). Từ đây, có thể gợi ý chính
75
sách rằng kích cầu thông qua tăng chi tiêu, trong trường hợp nền kinh tê mở có tác động ít hơn đến sản lượng so với trong nền kinh tế đóng.
3. Mô hình giao điểm của Keynes
Quay trở lại với đường tồng chi tiêu dự kiến ta có:
A P E = C + Ĩ+ G + X + [M P C (1 -Í)-M P M ]XY
Giả sử ta đặt:
A = c + Ĩ + G + X
B = M P C (l-/)-M P M
Ta có: APE = A + B.Y
Hình 3.3. Mô hình giao điềm của Keynes
Trong trường hợp này B đóng vai trò là hệ số góc cùa đường tồng chi tiêu APE:
- Đường tổng chi tiêu dự kiến sẽ dịch chuyển lên phía trên khi A tăng và B không đồi.
- Đường tổng chi tiêu dự kiến sẽ xoay lên phía trên khi A không đổi và B tăng.
Sự thay đồi vị trí của đường tổng chi tiêu dự kiến sẽ dẫn đến sự thay đổi của sản lượng cân bàng tại mỗi mức giá cho trước. Như chúng ta đã biết tổng chi tiêu dự kiến phản ánh mức chi tiêu dự kiến tại mỗi mức thu nhập
76
với giả thiết mức giá cho trước còn tổng cầu phản ánh mức chi tiêu (mức cầu) tại mỗi mức giá. Mối quan hệ giữa đường tổng chi tiêu dự kiến và tồng cầu đó là khi tổng chi tiêu dự kiến tăng, đường tồng chi tiêu dự kiến APE dịch chuyển lên trên thì sẽ làm đường tổng cầu dịch chuyển sang phải và ngược lại khi tồng chi tiêu dự kiến giảm, đường APE dịch chuyển xuống phía dưới sẽ làm đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Mối liên hệ này sẽ được thể hiện rõ hơn khi các bạn học thêm về mô hình IS - LM.
Trong nền kinh tế thực, Chính phủ có thể tăng sản lượng mà vẫn có thể duy tri sự cân bằng của nền kinh tế thông qua hai cách thức kích cầu như sau:
Thứ nhất, kích cầu thông qua việc tăng chi tiêu, được hiểu là Chính phủ sẽ làm tăng các thành tố chi tiêu trong tổng cầu như C ,I,G ,X . Tuy nhiên, Chính phủ thường tiến hành kích cầu thông qua việc tăng chi tiêu Chính phủ (G) vì biện pháp này dễ thực hiện, so với việc thay đồi tiêu dùng tự định hay đầu tư hoặc xuất khẩu vì các chính sách này Chính phủ phải thực hiện bắc cầu qua các công cụ khác để khuyến khích. Ví dụ như tăng thuế thu nhập tiền gửi tiết kiệm để hạn chế người dân tiết kiệm nhằm tăng chi tiêu... Bên cạnh đó, nếu muốn tăng tiêu dùng tự định, cái này phụ thuộc vào thói quen sống, mức sống, tập quán sống của người dân do đó để thay đổi ngay không dễ dàng. Một yếu tố khác là đầu tư, muốn thay đổi nhân tố này phải phụ thuộc vào chi phí đầu tư, hiệu quả đầu tư, mức cầu về sản phẩm, hay các chính sách khuyến khích đầu tư cùa Chính phủ hoặc phải chứng minh cho các nhà đầu tư thấy triển vọng lạc quan của nền kinh tế trong tương lai. Trên thực tế điều này cũng rất khó thực hiện được ngay lập tức, thường phải kéo dài với các chiến lược và mất nhiều công sức. Nếu Chính phủ muốn thay đổi xuất khẩu tự định thì đây lại là biến số phụ thuộc vào nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của người nước ngoài chứ không phải nhu cầu trong nước, bên cạnh các yếu tố về thị hiếu, thị trường, chính sách tỷ giá... Như vậy, việc kích cầu có lẽ thông qua công cụ chi tiêu Chính phủ vẫn tà cách dễ dáng nhất.
Thử hai, kích cầu mang tính kỹ thuật đó là làm thay đổi xu hướng tiêu dùng cận biên nhằm làm tăng số nhân chi tiêu (tăng B). Cách làm này sẽ làm tăng MPC, giảm thuế hay giảm xu hướng nhập khẩu cận biên (MPM). Trên thực tế, chúng ta biết ràng MPC phụ thuộc rất lớn vào tâm lý, tập quán sinh hoạt, thói quen văn hóa từng vùng miền, độ tuổi của nguời dàn, do đó để có thể tăng MPC (khuyến khích tiêu dùng) Chính phủ phải có các biện pháp tác động vào tâm lý và thay đổi thói quen tiêu dùng như các biện pháp thuế,
77
khuyến khích, tuyên truyền, quảng cáo khuyến khích tiêu dùng ưên các phương tiện thông tin đại chúng... Một nhân tố đặc biệt quan trọng đó là Chính phủ phải giữ được niềm tin của dân chúng vào Chính phù và thị trường, có như vậy thì người tiêu dùng mới sẵn sàng nâng tỷ ưọng chi tiêu trong thu nhập từ đó làm cho MPC tăng.
II. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
1. Khái niệm
Chính sách tài khóa là việc Chính phủ sử dụng thuế và chi liêu cùa Chính phù nham điểu tiết tống cẩu.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế không phải lúc nào cũng ở trạng thái cân bàng mà có lúc nó rơi vào suy thoái (sản lượng thấp hơn sản lượng tiềm năng), có lúc lại phát đạt quá mức (sản lượng vượt xa sản lượng tiềm năng). Cả hai trạng thái này đều không tốt cho sự phát triển kinh tế. Để đưa sản lượng về mức sản lượng tiềm năng chúng ta cùng nghiên cứu xem Chính phủ sử dụng công cụ thuế và chi tiêu công cộng để điều tiết nền kinh tế như thế nào.
2. Phân loại chính sách tài khóa
Từ công thức tính sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng và nền kinh tế mở, chúng ta dễ nhận thấy, Chính phù có thể chủ động sử dụng công cụ thuế (T) và chi tiêu Chính phù (G) để có thể đạt mức sản lượng mà Chính phù mong muốn. Tùy vào tình hình cụ thể của nền kinh tế mà Chính phủ có thể có các cách điều tiết chi tiêu và thuế khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia ra thành hai loại chính sách tài khóa cơ bản đó là chính sách tài khóa mở rộng (hay còn có thể gọi là chính sách tài khóa lỏng) và chính sách tài khóa thu hẹp (hay gọi là chính sách tài khóa chặt).
2.1. Chinh sách tài khóa mở rộng
Chính sách tài khóa mở rộng là chính sách tài khóa nhàm mục tiêu tăng tồng cầu, tồng chi tiêu cho nền kinh tế. Để sử dụng chính sách này Chính phủ sẽ thực hiện bàng việc giảm thuế hoặc tăng chi tiêu Chính phủ hoặc sử dụng cả hai. Như vậy, vê lý thuyết, khi Chính phủ giảm thuế sẽ làm tăng thu nhập, và làm tăng chi tiêu trong nền kinh tế, tăng tổng cầu. Bên cạnh đó, việc tăng chi tiêu Chính phủ cũng trực tiếp làm tăng tổng chi tiêu trong nền kinh tế, làm tăng tổng cầu.
78
Vậy khi nào chúng ta nên sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, ngay khái niệm đã cho thấy đó là khi chúng ta muốn tăng tông chi tiêu và tăng tổng cầu cùa nền kinh tế. Như vậy, chúng ta thường sử dụng chính sách tài khóa khi nền kinh tế đang trong tình trạng tồng cầu thấp, hoặc biểu hiện là thất nghiệp cao, hay giảm phát, hoặc biểu hiện là suy thoái kinh tế với mức tăng trưởng thấp...
Chúng ta có thể tóm tắt cách thức tác động của chính sách tài khóa mở rộng như sau:
Tồng cầu thấp "1
Suy thoái 1 > Chính sách tài khóa mở rộng => Tổng cầu Giảm phát 1 (G tăng, T giảm) tăng Thất nghiệp cao J
Cơ chế tác động: Khi tăng chi tiêu Chính phủ G sẽ làm tổng cầu tăng trực tiếp vì G là một thành tố trong tổng cầu. Nếu giảm thuế, sẽ làm thu nhập khả dụng tăng, tiếp đó làm tăng chi tiêu cùa hộ gia đình (C) và làm tăng tổng cầu.
Tuy nhiên, cần chú ý khi sử dụng chính sách tài khóa lỏng cần tính đến yếu tố thời điểm, liều lượng tránh việc sử dụng kéo dài sẽ làm nền kinh tế chuyển sang lạm phát hoặc tăng trưởng nóng, hoặc ngân sách Chính phủ sẽ rơi vào tình trạng thâm hụt do phải tăng chi tiêu mà lại không tăng được thu do phải liên tục cắt giảm thuế để kích cầu tiêu dùng.
2.2. Chinh sách tài khóa thu hẹp
Chính sách tài khóa thu hẹp (hay tài khóa chặt) là chính sách nhằm mục tiêu giảm tổng chi tiêu, tồng cầu trong nền kinh tế. Để thực hiện biện pháp này, chúng ta thực hiện ngược với chính sách tài khóa lỏng đó là Chính phủ tăng thuế hoặc giảm chi tiêu Chính phủ, hoặc dùng kết hợp cà hai chính sách.
Chính sách tài khóa thu hẹp được ban hành khi nền kinh tế có tình trạng rơi vào tăng trưởng “nóng”, hiện tuợng bong bóng trong nền kinh tế, hay hiện tượng tăng trưởng bùng nổ, thiếu cơ sở bền vững, hay khi nền kinh tế có lạm phát cao...
Cách thức tác động của chính sách tài khóa thu hẹp là Chính phủ tăng thuế sẽ giảm thu nhập và giảm chi tiêu, làm giảm tổng cầu. Bên cạnh đó, việc giảm chi tiêu Chính phủ sẽ trực tiếp làm giảm tổng cầu, khi tổng cầu
79
giảm sẽ làm nền kinh tế ữờ lại mức sản lượng tiềm năng, hoặc mức sản lượng như mong muốn của Chính phủ.
Tăng trirởng nóng "ì
Tăng trưởng bong bóng
>=> Chính sách tài khóa thu hẹp => (G giảm, T tăng)
Tổng cầu giảm
Lam phát cao J______________________________________________
Cơ chế tác động của chính sách tài khóa thu hẹp là sẽ giảm chi tiêu Chính phủ qua đó làm giảm tổng cầu trực tiếp do G là một thành tô ữong tổng cầu. Tuy nhiên nếu muốn thông qua việc tăng thuế, thì độ trễ có thể lâu hơn do khi tăng thuế, sẽ làm thu nhập khả dụng giảm, qua đó làm chi tiêu hộ gia đình (C) giảm và làm giảm tồng cầu.
Một điều cần chú ý khi sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp đó là cần phải có sự đánh giá nghiêm túc về mức độ tác động, tránh việc sử dụng kéo dài hoặc với liều lượng quá cao sẽ dẫn tới nền kinh tế rơi vào suy thoái, hoặc giảm phát.
Việc phân chia và phân tích tác động cùa chính sách tài khóa nói trên chủ yếu dựa vào nguyên lý mang tính lý thuyết theo mô hình số nhân giản đơn của Keynes, dễ dàng nhận thấy chính sách tài khóa có sứ mạng to lớn trong việc tác động đến sản luợng của nền kinh tế nhàm ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế điều hành, chính sách tài khóa không thực sự hiệu quả như lý thuyết do việc thay đổi thu chi, tăng giảm thuế và chi tiêu Chính phủ thường chậm hơn những biến động kinh tế xảy ra nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường. Do đó, nền kinh tế có thể tự vận động dẫn tới ổn định thông qua một cơ chế tự động ổn định gồm hai công cụ chính:
Công cụ thuế lũy tiến
Hệ thống thuế ngày nay bao gồm thuế thu nhập lũy tiến với thu nhập cá nhân, thu nhập càng cao thi thuế suất đánh vào càng cao, cũng như thu nhập doanh nghiệp cũng bị áp thuế theo nguyên tẩc trên. Mục đích của việc đánh thuế lũy tiến sẽ làm một hệ thống phanh tự động cho nền kinh tế. Ví dụ, nếu thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá nhân tăng, thuế lập tức tăng theo, như vậy giữ ổn định hoặc ít nhất sự thay đổi thu nhập không nhiều làm tác động đến tổng cầu bị chặn lại tránh nền kinh tế rơi vào tăng trưởng nóng. Ngược lại, khi thu nhập cá nhân và doanh nghiệp giảm, thuế lập tức giảm để Ưánh thu nhập doanh nghiệp và cá nhân giảm quá nhiều, dẫn tới
80
\