🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo Trình Kinh Tế Tài Nguyên Đất Ebooks Nhóm Zalo ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TS. Đỗ Thị Lan và TS. Đỗ Anh Tài Giáo trình KINH TẾ TÀI NGUYÊN ĐẤT (Dùng cho sinh viên ngành Quản lý đất đai) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP Hà Nội - 2007 1 LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế đất là một môn học có sự gắn kết giữa những vấn đề lý luận trong kinh tê và các vân đề kỹ thuật liên quan đề sử dụng đất. Việc vận dụng các quy luật kinh tê trong nghiên cứu nguồn lực cũng được tập thể các tác giả áp dụng một cách thành công trong các chương của cuốn sách này. Môn học này nhằm trang bị những kiên thức cơ bản giúp các nhà quản tý có thể đưa ra các ứng xử hợp lý trong việc sử dụng nguồn lực trên cơ sở thực tế của mình và giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chính sách quản lý phù hợp khuyên khích người dân nâng cao hiệu quả trong sử dụng nguồn lực đất của mình. Cuốn sách này cũng là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh doanh bất động sản và các nhà đầu tư v.v... Để đáp ứng nhu cầu đào tạo cử nhân quản lý đất đai của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và phục vụ đông đảo học sinh, sinh viên cán bộ nghiên cứu, tập thể tác giả đã mạnh dạn đưa các kết quả nghiên cứu mới nhất vào tài liệu. Tham gia biên soạn giáo trình này là: - TS. Đỗ Thị Lan chủ biên và viết các chương 1 , 2, 5, 6. - TS. Đỗ Anh Tài viết các chương 3, 4. Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ là tài tiện nghiên cứu, học tập tốt cho sinh viên ngành quản lý đất đai nói riêng, trong các trường đại học nói chung và những ai quan tâm nghiên cứu vân đề này. Do biên soạn lần đầu, trong thời gian gấp rút nên cuốn sách chắc không tránh khỏi những thiên sót về nội dung cũng như hình thức trình bày. Chúng tôi rất cảm ơn và mong nhận được những ý kiên đóng góp quý báu, chân tình từ bạn bè đồng nghiệp, từ phía độc giả và người học để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2006 Tập thể tác giả 2 Chương I ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH TẾ TÀI NGUYÊN ĐẤT 1.1. KHÁI NIỆM TÀI NGUYÊN VÀ PHÂN LOẠI TÀI NGUYÊN 1.1.1. Khái niệm tài nguyên Tài nguyên là các dạng vật chất được tạo thành trong suất quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên, cuộc sống sinh vật và con người. Các dạng vật chất này cung cấp nguyên - nhiên vật liệu, hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của con người. Tài nguyên đất của hành tinh chúng ta được hiểu là toàn bộ lớp vỏ trái đất cùng bề mặt phủ bề ngoài của nó, mà ở đó thực vật, động vật, vi sinh vật và cả con người có thể sinh sống được 1.1.2. Phân loại tài nguyên Hiện nay có nhiều phương pháp phân loại tài nguyên khác nhau. Sự phân loại chỉ có tính tương đối vì tính đa dạng và đa dụng của tài nguyên và tuỳ theo mục tiêu sử dụng khác nhau. 1.1.2.1. Phân loại theo nguồn gốc Theo nguồn gốc, tài nguyên được chia làm hai loại như sau: - Tài nguyên thiên nhiên (Natural Resources): Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Mỗi loại tài nguyên có đặc điểm riêng, nhưng có hai thuộc tính chung: + Tài nguyên thiên nhiên phân bố không đồng đều giữa các vùng trên trái đất và trên cùng một vùng lãnh thổ có thể tồn tại nhiều loại tài nguyên, tạo ra sự ưu đãi của tự nhiên với từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia. + Đại bộ phận các nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị kinh tế cao được hình thành qua quá trình lâu dài của tự nhiên và lịch sử. Chính hai thuộc tính này đã tạo nên tính quý hiếm của tài nguyên thiên nhiên và lợi thế phát triển của các quốc gia giàu tài nguyên. Tài nguyên thiên nhiên được chia thành các dạng như: Tài nguyên năng lượng, khoáng sản, sinh vật, đất, nước, biển, khí.hậu, cảnh quan, v.v... - Tài nguyên nhân tạo (Artificial Resources): Là loại tài nguyên do lao động của con người tạo ra như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, đô thị, nông thôn và các của cải vật chất khác. 3 1.1.2.2. Phân loại theo khả năng phục hồi Dựa vào khả năng phục hồi, người ta phân tài nguyên thành hai dạng sau: Tài nguyên có khả năng phục hồi (tài nguyên tái tạo): Là các tài nguyên mà thiên nhiên có thể tạo ra liên tục và được con người sử dụng lâu dài như: rừng; các loại thuỷ hải sản ở sông, hồ, biển; độ phì nhiêu của đất; nước ngọt; v.v... Các tài nguyên có thể tái tạo đóng vai trò rất quan trọng đối với sự sống của sinh vật vì chúng là nguồn cung cấp thức ăn liên tục cho sinh vật và cho các nhu cầu cần thiết khác. - Tài nguyên không có khả năng phục hồi: gồm các khoáng vật (Pb, Si, v.v...) hay nguyên nhiên liệu (than đá, dầu mỏ, gas tự nhiên, v.v...) được tạo thành trong suất quá trình hình thành và phát triển của vỏ trái đất. Các tài nguyên này có khối lượng nhất định và bị hao hụt dần sau khi được khai thác để phục vụ cho sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật của xã hội loài người. Trong suốt quá trình sống con người đã lạm dụng vị trí độc tôn của mình để can thiệp vào giới tự nhiên, bắt tự nhiên phải quy phục cho những hành động thô bạo của mình. Do đó, trong một số trường hợp, tài nguyên có khả năng phục hồi sẽ biến thành tài nguyên không có khả năng phục hồi. Ví dụ: Đất là tài nguyên có khả năng phục hồi nhưng một khi nó đã bị đá ong hoá, phèn hoá, v.v... thì sẽ trở thành "đất chết" và người ta xem nó là tài nguyên không có khả năng phục hồi. Vì vậy có thể nói, khái niệm "tài nguyên có thể phục hồi “ và” tài nguyên không thể phục hồi” ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối. Hình 1.1: Sơ đồ phân loại tài nguyên thiên nhiên theo khả năng phục hồi 1.1.2.3. Phân loại theo sư tồn tại Tài nguyên hữu hình: Là dạng tài nguyên hiện diện trong thực tế mà con người có thể đo lường, ước tính về trữ lượng cũng như tiềm năng khai thác, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau trong cuộc sống như: tài nguyên khoáng sản, tài nguyên 4 nước, v.v... Tài nguyên vô hình: Dạng tài nguyên mà con người sử dụng cũng đem lại hiệu quả thực tế cao nhưng nó lại tồn tại ở dạng “không nhìn thấy”, có nghĩa là trữ lượng của dạng tài nguyên này là bao nhiêu, ở mức độ nào thì con người chưa thể xác định được mà chỉ thấy được hiệu quả to lớn của dạng tài nguyên này đem lại. Một số dạng tài nguyên vô hình như: Tài nguyên trí tuệ, tài nguyên sức lao động, tài nguyên văn hoá, v.v... 1.2. VAI TRÒ CỦA ĐẤT ĐAI TRONG SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 1.2.1. Khái niệm kinh tế về đất đai Cho tới nay đã có nhiều định nghĩa về đất, nhưng định nghĩa của Đacutraep (1879) - nhà thổ nhưỡng học người Nga được thừa nhận rộng rãi nhất. Theo tác giả này thì “Đất là vật thể tự nhiên được hình thành qua một thời gian dài do kết quả tác động tổng hợp của 5 yếu tố: đá mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian”. Các loại đá và khoáng chất cấu tạo nên vỏ trái đất dưới tác động của khí hậu, sinh vật, địa hình trải qua một thời gian nhất định dán dần bị vụn nát và cùng với xác hữu cơ sinh ra đất. Chính con người khi tác động vào đất đã làm thay đổi nhiều tính chất đất và nhiều khi đã tạo ra một loại đất mới chưa từng có trong tự nhiên (ví dụ như đất trồng lúa nước). Nếu biểu thị dưới dạng một công thức toán học thì ta có thể coi đất như là một hàm số theo thời gian của nhiều biến số, mà mỗi biến số là một yếu tố hình thành đất: Trong đó: Đ: Đất Đa: đá mẹ Sv: Sinh vật Kh: khí hậu Đh: địa hình Nc: nước trong đất và nước ngầm t: thời gian Ng: hoạt động của con người Đất là một hệ thống hở. Các hoạt động thêm vào đất, mất khỏi đất, chuyển dịch vị trí trong đất và hoạt động chuyển hóa trong đất xảy ra liên tục. Chất lượng của đất phụ thuộc vào đá mẹ, khí hậu, cỏ cây và sinh vật sống trên và trong lòng đất, đặc biệt phụ thuộc vào tác động của con người đối với đất đai. Theo cách định nghĩa của tổ chức FAO thì: “Đất đai là một tổng thể vật chất, bao gồm cả sự kết hợp giữa địa hình và không gian tự nhiên của thực thể vật chất đó”. Như vậy, đất đai là một phạm vi không gian như một vật mang những giá trị theo ý niệm của con người. Theo cách định nghĩa này, đất đai thường gắn với một giá trị kinh tế được thể hiện bằng giá tiền trên một đơn vị diện tích đất đai khi có sự chuyển quyền sở hữu. Cũng có những quan điểm tổng hợp hơn cho rằng đất đai là những tài nguyên 5 sinh thái và tài nguyên kinh tế, xã hội của một tổng thể vật chất. Theo quan điểm đó, đất đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm cả các yếu tố cấu thành môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đất như khí hậu, thổ nhưỡng, dạng địa hình, địa mạo, nước mặt (hồ, sông, suối, đầm lầy, v.v …) các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước, hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa. v.v...). - Đất đai là một tài nguyên Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. C.Mac viết: Đất là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông lâm nghiệp. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của con người, con người dựa vào đó để tạo nên sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai luôn luôn là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, các công trình phúc lợi khác, các cánh đồng để con người trồng trọt, chăn nuôi v.v … Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là thước đo sự giàu có của mỗi quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và như là một nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng. Luật đất đai 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: "Đất đai là một tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay !. Con người khai thác bề mặt đất đai để trồng trọt, chăn nuôi,,tạo nên sản phẩm nuôi sống cả xã hội loài người. Khai thác bề mặt đất đai và cải tiến chất lượng đất đai để tạo ra khối lượng sản phẩm ngày càng nhiều hơn, thoả mãn nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng. Trình độ khai thác đất đai gắn liền với sự tiến hoá của xã hội. Quá trình ấy làm cho con người ngày càng gắn chặt với đất đai hơn. Quan hệ giữa con người và đất đai ngày càng phát triển và gắn liền chặt chẽ với nhau. Mặt khác con 6 người ngày càng nhận thức và hiểu biết hơn về khoa học kỹ thuật, khám phá và khai thác “kho báu” trong lòng đất phục vụ mục đích của mình. Đất đai gắn liền với khí hậu, môi trường trên phạm vi toàn cầu cũng như từng vùng, từng miền lãnh thổ. Trải qua lịch sử hàng triệu năm của trái đất, khí hậu cũng trải qua nhiều biến động do những nguyên nhân tự nhiên hoặc do tác động của con người. Trong quá trình chinh phục và cải tạo thiên nhiên, con người ngày càng can thiệp vào quá trình biến đổi của tự nhiên. Biến đổi khí hậu có tác động mạnh mẽ đến các hệ sinh thái trên đất liền, nhất là đối với cây trồng. Như vậy việc sử dụng hợp lý đất đai ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về bảo vệ, cải tạo và biến đổi môi trường. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta rất chú ý đến tác động của môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất của con người, trong đó sử dụng khai thác đất đai là yếu tố vô cùng quan trọng. Trong các yếu tố cấu thành của môi trường đất đai, nguồn nước, khí hậu, cây trồng, vật nuôi, hệ sinh thái v.v... thì đất đai đóng vai trò quan trọng. Những biến đổi tiểu khí hậu, những phá vỡ hệ sinh thái ở những vùng nào đó trên trái đất ngoài tác động ảnh hưởng của tự nhiên thì vai trò của con người tác động cũng rất lớn: lụt úng do phá rừng, canh tác bất hợp lý v.v... Tất cả những cái đó làm ảnh hưởng đến môi trường. Bởi vậy sử dụng tài nguyên đất không thể tách rời với việc bảo vệ và cải tạo môi trường. 1.2.2. Những chức năng chủ yếu của đất đai Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của con người, con người dựa vào đó để tạo nên sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai luôn là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người. Khái niệm về đất đai gắn liền với nhận thức của con người về thế giới tự nhiên. Đối với con người, đất đai có những chức năng chủ yếu sau đây: •Chức năng sản xuất Là cơ sở cho rất nhiều hệ thống phục vụ cuộc sống con người, qua quá trình sản xuất, đất đai cung cấp lương thực, thực phẩm và rất nhiều sản phẩm sinh vật khác cho con người sử dụng trực tiếp hay gián tiếp qua chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại thuỷ hải sản. •Chức năng môi trường sông Đất đai là cơ sở của mọi hình thái sinh vật sống trên lục địa thông qua việc cung cấp các môi trường sống cho sinh vật và đến di truyền để bảo tồn cho thực vật, động 7 vật và các cơ thể sống cả trên đất và dưới mặt đất. •Chức năng cân bằng sinh thái Đất đai và việc sử dụng nó là nguồn và là tấm thảm xanh, hình thành một thể cân bằng năng lượng trái đất - sự phản xạ, hấp thụ và chuyển đổi năng lượng phóng xạ từ mặt trời và của tuần hoàn khí quyển địa cầu. •Chức năng tàng trữ và cung cấp nguồn nước Đất đai là kho tàng trữ nước mặt và nước ngầm vô tận, có tác động mạnh tới chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và có vai trò điều tiết nước rất to lớn. •Chức năng dự trữ Đất đai là kho tài nguyên khoáng sản cung cấp cho mọi nhu cầu sử dụng của con người. • . Chức năng không gian sự sống Đất đai có chức năng tiếp thu, gạn lọc, là môi trường đệm và làm thay đổi hình thái, tính chất của các chất thải độc hại. •Chức năng bảo tồn, bảo tàng lịch sử Đất đai là trung gian để bảo vệ, bảo tồn các chứng cứ lịch sử, văn hoá của loài người, là nguồn thông tin về các điều kiện khí hậu, thời tiết trong quá khứ và cả về việc sử dụng đất đai trong quá khứ. •Chức năng trật mang sư sông Đất đai cung cấp không gian cho sự chuyển vận của con người, cho đầu tư, sản xuất và cho sự dịch chuyển của động vật, thực vật giữa các vùng khác nhau của hệ sinh thái tự nhiên. •Chức năng phân dị lãnh thổ sự thích hợp của đất đai về các chức năng chủ yếu nói trên thể hiện rất khác biệt ở các vùng khác nhau trên lãnh thổ của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn trái đất nói chung. Mỗi phần lãnh thổ mang những đặc tính tự nhiên, kinh tế, xã hội rất đặc thù. 1.2.3. Vai trò của đất trong sự phát triển kinh tế, xã hội 1.2.3.1. Đất đai là một tư liệu sản xuất Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và đời sống của con người, đất với lớp phủ thổ nhưỡng, lòng đất, rừng và mặt nước chiếm vị trí đặc biệt. Đất là điều kiện đầu tiên và là nền tảng tự nhiên của bất kỳ một quá trình sản xuất nào. Các Mác cho rằng, đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể. Khi nói về vai trò 8 và ý nghĩa của đất đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã khẳng định: “Lao động không phải là nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá ta tiêu thụ - như William Petti đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ” Chúng ta đều biết rằng, không có đất thì không thể có sản xuất, cũng như không có sự tồn tại của con người. Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và tồn tại ngoài ý muốn của con người. Đất tồn tại như một vật thể lịch sử - tự nhiên không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội. Để thực hiện quá trình lao động cần phải có đủ 3 yếu tố: - Hoạt động hữu ích của con người: Chính là lao động hay con người có khả năng sản xuất, có kỹ năng lao động và biết sử dụng công cụ, phương tiện lao động để sản xuất ra của cải vật chất; - Đối tượng lao động: Là đối tượng để lao động tác động lên trong quá trình lao động; Tư liệu lao động: Là công cụ hay phương tiện lao động được lao động sử dụng để tác động lên đối tượng lao động. Như vậy, quá trình lao động chỉ có thể bắt đầu và hoàn thiện được khi có con người + điều kiện vật chất (bao gồm cả đối tượng lao động và công cụ hay phương tiện lao động Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động (cho môi trường để tác động như: xây dựng nhà xưởng, bố trí máy móc, làm đất, v.v...), vừa là phương tiện lao động (cho công nhân nơi làm việc, dùng để gieo trồng, nuôi gia súc, v.v...). Tuy nhiên, đất đai là “tư liệu sản xuất đặc biệt”. Nó khác với các tư liệu sản xuất khác ở những điểm sau: - Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó, các tư liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người (do con người tạo ra). - Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất (số lượng) bị giới hạn bởi ranh giới đất liền trên bề mặt địa cầu. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số lượng, chế tạo lại tuỳ theo nhu cầu của xã hội. - Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, hàm lượng các chất dinh dưỡng, các tính chất lý, hoá, v.v... trong đất (quyết định bởi các yếu tố hình thành đất cũng như chế độ sử dụng đất khác nhau). Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn (mang tính tương đối do quy trình công nghệ quyết định). - Tính không thay thế: Thay thế đất bằng tư liệu khác là việc không thể làm được Các tư liệu sản xuất khác, tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của lực lượng sản xuất có 9 thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác hoàn thiện hơn, có hiệu quả kinh tế hơn . - Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong sử dụng (khi sử dụng không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác). Các tư liệu sản xuất khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách khác nhau tùy theo sự cần thiết. - Tính vĩnh cửu (khả năng tăng tính chất sản xuất): Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu (không lệ thuộc vào tác động phá hoại của thời gian). Nếu biết sử dụng hợp lý đặc biệt là trong sản xuất nông - lâm nghiệp, đất sẽ không bị phá hỏng, ngược lại có thể tăng tính chất sản xuất (độ phì nhiêu) cũng như hiệu quả sử dụng đất. Khả năng tăng sức sản xuất của đất tuỳ thuộc vào phương thức sử dụng là tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng bị loại khỏi quá trình sản xuất. Có thể nói, đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng đối với con người. Sự quan tâm chú ý đúng mức trong việc quản lý và sử dụng đất đai sẽ làm cho sản lượng thu được từ mỗi mảnh đất không ngừng tăng lên. 1.2.3.2. Vai trò đặc biệt của đất trong nông nghiệp Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của bất kỳ ngành sản xuất nào. Đất cần cho công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, v.v... Nhưng trong mỗi ngành, đất có vai trò không giống nhau. Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai khoáng). Quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự nhiên có sẵn trong đất. Riêng trong nông nghiệp đất có vai trò khác hẳn. Với nông nghiệp, đất không chỉ là cơ sở không gian, không chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của ngành sản xuất này, mà đất còn là yếu tố tích cực của sản xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp có liên quan chặt chẽ với đất, phụ thuộc nhiều vào độ phì nhiêu của đất, phụ thuộc vào các quá trình sinh học tự nhiên. Trong nông nghiệp, ngoài vai trò cơ sở không gian, đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng: - Đất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất; - Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng nước, không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết để cây trồng sinh trưởng và phát triển. Như vậy đất gần như trở thành một công cụ sản xuất. Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào độ phì nhiêu của đất. Trong số tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp, chỉ có đất mới có chức năng này. 10 Chính vì vậy, phải nói rằng đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong nông nghiệp. 1.2.3.3. Đất đai đối với sự phát triển các ngành kinh tế Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên đối với từng ngành cụ thể trong nền kinh tế quốc dân, đất đai cũng có những vị trí vai trò khác nhau. Trong ngành công nghiệp (trừ ngành khai khoáng), đất đai làm nền tảng, làm cơ sở, làm địa điểm để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn xây đựng một nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng các nhà xưởng để máy móc, kho tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường xá đi lại trong nội bộ v.v. . . Tất cả những cái đó là cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp đòi hỏi mở rộng qui mô xây dựng, các nhà máy mới tăng lên làm tăng số lượng diện tích đất đai dành cho yêu cầu này. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp là sự phát triển của các ngành xây dựng, các công trình dân cư phát triển đòi hỏi xây dựng nhà ở và hình thành đô thị, các khu dân cư mới. Những yêu cầu này ngày càng tăng lên làm cho nhu cầu đất đai dành cho các ngành đó cũng tăng lên. Trong nông nghiệp đất đai có vị trí đặc biệt quan trọng, là yếu tố hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất đai không chỉ là chỗ tựa, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn thức ăn cho cây trồng. Mọi tác động của con người vào cây trồng đều dựa vào đất đai và thông qua đất đai. Đất đai sử dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, đặc biệt trong ngành trồng trọt, là quá trình tác động của con người vào ruộng đất (như cày bừa, bón phân v.v. . . ) nhằm thay đổi chất lượng đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, tức là quá trình biến ruộng đất kém màu mỡ thành ruộng đất màu mỡ hơn. Trong quá trình này ruộng đất đóng vai trò như là đối tượng lao động. Mặt khác con người sử dụng đất đai như một công cụ để tác động lên cây trồng, thông qua đó làm tăng độ màu mỡ của đất nhằm thu sản phẩm nhiều hơn. Trong quá trình này, ruộng đất đóng vai trò như là tư liệu lao động. Quá trình sản xuất nông nghiệp (trong ngành trồng trọt) là quá trình khai thác, sử dụng đất. Bởi vậy không có ruộng đất thì không thể có hoạt động sản xuất nông nghiệp. 11 1.3. ĐẶC ĐIỂM ĐẤT ĐAI VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT 1.3.1. Đặc tính không thể sản sinh và có khả năng tái tạo của đất đai Đất đai có vị trí cố định không di chuyển được, với một số lượng có hạn trên phạm vi toàn cầu và phạm vi từng quốc gia. Tính cố định không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác của đất đai đồng thời qui định tính giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu chi phối (nguồn gốc hình thành, khí hậu, sinh thái với những tác động khác của thiên nhiên). Vị trí của đất đai có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Những đất đai ở gần các đô thị, các đường giao thông, các khu dân cư được khai thác sử dụng triệt để hơn những đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó có giá trị sử dụng và giá trị lớn hơn. Đất đai không thể sản sinh thông qua sản xuất. Độ phì là một thuộc tính tự nhiên của đất và là yếu tố quyết định chất lượng đất Độ phì là một đặc trưng về chất gắn liền với đất, thể hiện khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Khả năng phục hồi và tái tạo của đất chính là khả năng phục hồi và tái tạo độ phì thông qua tự nhiên hoặc do tác động của con người. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà độ phì của đất có vai trò khác nhau. Chẳng hạn, trong nông nghiệp độ phì hay độ màu mỡ của đất có vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định việc tăng năng suất và sản lượng cây trồng. Việc sử dụng và khai thác đất nông nghiệp phải bảo đảm nguyên tắc là không ngừng cải tạo nâng cao độ phì. Đất đai dùng để canh tác có khả năng tạo ra một khối lượng lương thực lớn để duy trì sự sống của người lao động. “Đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động” (A đam Smith - Của cải các dân tộc - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997). Tính hai mặt của đất đai (không thể sản sinh nhưng có khả năng tái tạo) có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình sử dụng đất. Một mặt, phải hết sức tiết kiệm đất đai, xem xét kỹ lưỡng khi bố trí sử dụng các loại đất. Mặt khác phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng phục hồi và tái tạo của đất đai. 1.3.2. Đất dai là tư liệu sản xuất đặc biệt gắn liền với hoạt động sản xuất của con người Trong quá trình hoạt động sản xuất, đất đai trở thành tư liệu sản xuất không thể thiếu được. Tác động của con người vào đất đai thông qua hoạt động sản xuất đa dạng phong phú với nhiều vẻ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên này vì lợi ích của mình. Những tác động đó có thể làm thay đổi tính chất sử dụng đất đai, từ đất đai hoang sơ thành đất đai canh tác được hoặc đất đai từ sử dụng mục đích này sang mục đích khác. Hoặc những tác động để cải tạo chất đất, làm tăng độ màu mỡ của đất đai. Tất cả những tác động ấy của con người làm 12 cho đất đai vốn dĩ là một sản phẩm tự nhiên trở thành một sản phẩm của lao động. “Tuy có những thuộc tính tự nhiên như nhau nhưng một đám đất được canh tác có giá trị lớn hơn một đám đất bỏ hoang” (C.Mac, Ănghen toàn tập - tập 25 phần II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994) Con người không tạo ra được đất đai, nhưng bằng lao động của mình (lao động sống và lao động vật hoá) mà cải thiện đất đai, làm cho đất đai từ xấu trở thành tốt hơn và tăng năng suất sử dụng ruộng đất. “Tư bản có thể được cố định vào đất, bỏ vào ruộng đất, trong một thời gian tương đối ngắn, như trường hợp cải tạo những thuộc tính hoá học, áp dụng phân bón... hoặc cố định trong một thời gian dài hơn, như trường hợp xây dựng các kênh đào tiêu nước, hệ thống tưới nước, san bằng mặt đất, xây dựng các kiến trúc dùng vào việc kinh doanh... ở một nơi khác, tôi đã từng gọi tư bản sáp nhập vào ruộng đất như vậy là lang – capital” (ruộng đất - tư bản) Trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, những đầu tư vào ruộng đất đã biến ruộng đất thành tư bản (Tư bản ruộng đất) và ruộng đất đã trở thành một quan hệ kinh tế - xã hội. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ này ngày càng phát triển và càng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn trong xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai trở thành đối tượng của sự trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành một thị trường đất đai. 1.3.3. đặc điểm về sự chiếm hữu và sở hữu đất đai Từ xa xưa, khi loài người còn sống thành bầy đàn, con người chuyển từ săn bắn sang trồng cây trên những đất đai chiếm được và trở thành sở hữu chung của cộng đồng. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người, chế độ sở hữu và chiếm hữu đất đai cũng phát triển theo nhiều kiểu khác nhau. Tuy nhiên “Sở hữu ruộng đất khác với các hình thái sở hữu khác ở chỗ là, đến một trình độ phát triển kinh tế nhất định, nó trở nên thừa và có hại, ngay cả khi xét trên quan điểm của phương thức tư bản chủ nghĩa” (Mac- Ănghen toàn tập, tập 25 phần II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994). Chế độ chiếm hữu ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu tư nhân là một quá trình phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử của từng vùng trên trái đất hay mỗi quốc gia. Đất đai trước hết là sản phẩm của tự nhiên, con người khai phá và chiếm hữu thành tài sản chung của cộng đồng, bộ lạc. Những nhu cầu sản phẩm nuôi sống con người ngày càng tăng lên do dân số phát triển, những đất đai màu mỡ, dễ khai phá đã được chiếm hữu và được canh tác. Nhà nước ra đời và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng xuất hiện. ở châu âu chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất được pháp lệnh khuyến khích và bảo hộ. ở châu Mỹ La tinh lại tập trung những ruộng đất rộng lớn 13 trong tay một nhóm nhỏ những địa chủ có quyền thế. Quyền sở hữu đất đai không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà quan trọng hơn còn đem lại địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Trong chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất ai nắm nhiều ruộng đất thì không những kẻ đó giàu có mà còn là người có uy lực chính trị. Những người không có đất trở thành kẻ làm thuê, cuộc sống bấp bênh phụ thuộc. Duy trì chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất sẽ dẫn đến ruộng đất tập trung trong tay một số ít người, nhóm người hoặc một tầng lớp nào đó trong xã hội, còn đại bộ phận làm ruộng trực tiếp sẽ không có ruộng, trở thành người làm thuê. Đồng thời chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng dẫn đến việc tách người làm ruộng khỏi điều kiện sống và làm việc của họ, tức là tách người lao động với đối tượng lao động và tư liệu sản xuất. Một hậu quả khác của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất là tạo ra một lớp người mới ở nông thôn - lớp người cho vay nặng lãi. Lớp người này thường đặc trưng cho chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất ở châu á - nơi kết hợp chế độ ruộng đất truyền thống trước thực dân hoá của châu âu và chế độ ruộng đất với chính sách thực dân hoá của châu âu. Tức là sở hữu ruộng đất cộng đồng làng xã với chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến - tư bản. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, sản xuất đủ sống đến một nền nông nghiệp thương mại hoá, vai trò của tầng lớp người cho vay nặng lãi thay đổi một cách căn bản. Hoạt động cho vay nặng lãi từ chỗ chỉ cung cấp cho người nông dân những khoản tiền hạn chế để vượt qua khó khăn trong cuộc sống mà thường trả bằng hiện vật với lãi cao và rất cao, đến việc cung cấp tiền cho người nông dân không hạn chế do những nhu cầu chuyển đổi cây trồng hoặc đầu tư đầu vào sản xuất. Thường người cho vay nặng lãi quan tâm hơn đến việc chiếm đất của người nông dân do họ không trả được nợ vì lãi suất cao và nghiễm nhiên họ bị mất quyền sử dụng mảnh đất của mình. Từ đó, người cho vay nặng lãi trở thành kẻ đầu cơ ruộng đất để bán cho những địa chủ kếch sù giàu có và chính họ trở thành những địa chủ có thế lực ở nông thôn và trong xã hội. Tất yếu dẫn đến địa vị xã hội của nông dân bị hạ thấp. Cùng với quá trình thương mại hoá nền nông nghiệp, việc chia nhỏ đất đai và quyền sở hữu tư nhân về đất đai cũng tất yếu dẫn đến quá trình bần cùng hoá nông dân, làm tổn thương đến nền kinh tế và làm mất đất đai của đại bộ phận nông dân, tập trung vào tay một số địa chủ giàu có và đầy quyền lực Ở nước ta, từ những ngày đầu dựng nước từ thời các vua Hùng của đất Văn Lang, âu Lạc, ruộng đất trong nước thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà vua, người dân cày cấy đất “Vua ban” phải có nghĩa vụ đối với vua, tức là nghĩa vụ với Nhà nước như đóng góp sản vật, lao dịch, binh dịch. 14 Cùng với sự phát triển của lịch sử, chế độ phong kiến hình thành và dần dần chế độ sở hữu tư nhân cũng bắt đầu xuất hiện. Song nhìn chung trong một thời gian dài suốt hàng trăm năm chế độ phong kiến kết hợp với chế độ thuộc địa của thực dân pháp, chế độ sở hữu ruộng đất của nước ta vẫn gồm hai loại song song tồn tại: sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử khác nhau mà sự biểu hiện của quyền sở hữu đó cũng khác nhau và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Vào thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam (thế kỷ X- XV) ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước chiếm đại bộ phận “Đất vua, chùa làng”. Bao gồm ruộng làng xã, ruộng quốc khố, ruộng phong cấp. Ruộng làng xã là ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước nhưng thường được giao cho các làng xã quản lý và làng xã đứng ra phân chia cho nông dân cày cấy. Người nông dân cấy ruộng công của làng xã phải nộp tô, đi lao dịch, binh dịch. Ruộng đất công làng xã trở thành nguồn thu chủ yếu của nhà nước phong kiến. Nhà nước phân chia hạng ruộng đất. định mức tô phải nộp cho mỗi hạng ruộng đất của làng xã cho nông dân cày cấy. Một số triều đại phong kiến đã cho phép bán ruộng công thành ruộng tư (đời nhà Trần, 1254). Như vậy đời nhà Trần đã chuyển quyền sở hữu Nhà nước sang quyền sở hữu tư nhân. Thời hậu Lê (thế kỷ XV) đã cho phép biến quyền chiếm hữu lâu dài thành sở hữu, khiến cho tình trạng “chiếm công vi tư” nảy nở. Chế độ phong kiến ngày càng phát triển. Nhà nước ngày càng tham gia trực tiếp vào việc phân chia ruộng công làng xã. Với chính sách “quân điền” thời nhà Lê (1429), chế độ phong kiến nhà Lê đã huỷ bỏ quyền tự trị ruộng đất của làng xã. Ruộng đất công làng xã Nhà nước còn dùng để ban thưởng cho quan lại quý tộc hay người có công với Nhà nước. Như vậy ruộng công làng xã tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn có ưu thế trong toàn bộ đất đai trong nước và của hình thức sở hữu Nhà nước. Ruộng quốc khố là ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý Nguồn của ruộng quốc khố là tịch thu từ các trang trại, đồn điền của địa chủ quan lại người Hán, do khai hoang mà có. Hoa lợi ruộng quốc khố thường dùng vào việc cứu tế sửa sang lăng tẩm, đền đài. Lực lượng lao động chủ yếu làm ruộng quốc khố là những tù nhân và chiến tù. Tô ruộng quốc khố thường cao hơn tô ruộng làng xã. Thường tô ruộng làng xã do dân làng xã cày cấy chỉ bằng 117 tô ruộng quốc khố Ruộng phong cấp là ruộng đất vua ban thưởng cho quan lại, quý tộc hay người có công với nước, với triều đình. Thông thường ruộng phong cấp có kèm theo một số hộ nông dân để canh tác, từ đó hình thành các thái ấp của quý tộc. Quyền sở hữu ruộng phong cấp vẫn thuộc Nhà nước. Người được phong cấp chỉ có quyền chiếm hữu thu tô, không có quyền sở hữu. 15 Bên cạnh ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước còn có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Đó là ruộng đất của địa chủ hay của những nông dân tự canh tác, trong đó ruộng đất của địa chủ là chủ yếu. Xu hướng ruộng đất sở hữu tư nhân ngày càng tăng do sự phân hoá giai cấp, do “chiếm công vi tư”, do Nhà nước cho bán ruộng công làm ruộng tư. Từ thời nhà Lý năm 1135 ruộng đất tư mới được thừa nhận về mặt pháp lý. Đời nhà Trần (thế kỷ XV) có nhiều chính sách khuyến khích phát triển mở rộng ruộng đất sở hữu tư nhân như chính sách thuế - thuế ruộng tư chỉ bằng 1130 thuế ruộng công. Chiếm công vi tư, cho bán ruộng công thành ruộng tư. Ngày nay Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất...”(điều 1, Luật đất đai năm 1993). Đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là người đại diện. Nhà nước giao cho các tổ chức, các cá nhân sử dụng đất đai theo mục đích quy định. Người sử dụng ruộng đất phải đóng thuế cho Nhà nước. Nhà nước có thể cho thuê đất và người thuê đất phải trả tiền thuê đất trong thời hạn thuê. 1.3.4. Tính đa dạng và phong phú của đất đai Tính đa dạng và phong phú của đất đai trước hết do đặc tính tự nhiên của đất đai và phân bố cố định trên vùng lãnh thổ nhất định gắn liền với điều kiện hình thành đất quyết định, mặt khác nó còn do yêu cầu và đặc điểm, mục đích sử dụng các loại đất khác nhau. Một loại đất có thể sử dụng theo nhiều mục đích khác nhau. Đặc điểm này của đất đai đòi hỏi con người khi sử dụng đất đai phải biết khai thác triệt để lợi thế của mỗi loại đất một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất trên mỗi vùng lãnh thổ. Để làm được điều đó phải xây dựng một quy hoạch tổng thể và chi tiết sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước và từng vùng lãnh thổ. 1 4. QŨY ĐẤT ĐAI, TÀI NGUYÊN ĐẤT THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.4.1. Khái niệm và sự hình thành quỹ đất Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng hay địa phương, của loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được tính cho toàn bộ hay tính cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương thường là cố định và việc tăng thêm là rất hạn chế. Quỹ đất tính trên đầu người thường thay đổi theo xu hướng giảm bớt vì đất đai không được sản sinh ra nhưng dân số lại tăng. Quỹ đất đai của một quốc gia là nguồn lực tự nhiên cần được bảo vệ và sử dụng một cách tiết kiệm, có hiệu quả, đặc biệt là đất đai tốt, có giá trị làm tăng thêm của cải 16 trong xã hội. Quỹ đất đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất, với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh thổ. Mặt khác trong quá trình sử dụng đất, do những nhu cầu sử dụng khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hoà và bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Ví dụ khi những nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông nghiệp để tăng thêm quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đồng thời cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào sản xuất, đặc biệt đối với sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp. 1.4.2. Vài nét chung về đất thế giới Trái đất của chúng ta, với tổng diện tích bề mặt là 510 triệu km2 trong đó đại dương chiếm 361 triệu km2 (71%), còn lại diện tích lục địa chỉ chiếm 149 triệu km2 (29%). Bắc bán cầu có diện tích đất liền lớn hơn nhiều so với Nam bán cầu. Sự thay đổi về khí hậu, thảm thực vật, đá mẹ, địa hình và tuổi của đất trên Trái đất là nguyên nhân hình thành nhiều loại đất khác nhau về màu sắc, độ dày đất, độ chua và nhiều tính chất khác. Nhìn chung, trên thế giới có 5 nhóm đất phổ biến nhất. Những vùng có khí hậu lạnh, lượng mưa dồi dào và điều kiện thoát nước tết có nhóm đất.podzol. - Những vùng khí hậu ôn hòa với rừng rụng lá theo mùa có nhóm đất alfisols, đất có màu nâu hoặc xám. - Những vùng có khí hậu ôn hòa và đồng cỏ bán khô hạn hình thành nhóm đất đen giàu mùn, đất có tầng dày và màu đen. - Nhóm đất khô hạn (aridosols) phát triển ở những vùng khô hạn Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Châu Phi, nơi gần hoang mạc hoặc ở hoang mạc. Nhóm đất này rất xấu, chỉ để chăn nuôi và phát triển nông nghiệp nếu có nguồn nước tưới. - Ở những vùng nhiệt đới và á nhiệt đới với lượng mưa phong phú, có nhóm đất đỏ (oxisols) nghèo chất dinh dưỡng. Tỷ lệ phần trăm (%) những loại đất này được thể hiện ở bảng 1.1 Số liệu của bảng cho thấy, những loại đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp như đất phù sa, đất nâu rừng chỉ chiếm 12,6%. Những loại đất quá xấu (4 loại đầu) chiếm tới 40,5%. Hiện trạng sử dụng đất của thế giới theo FAO như sau: 17 - 20% diện tích đất lục địa ở vùng có nhiệt độ quá lạnh (< 50C) - 20% diện tích đất lục địa là hoang mạc và sa mạc - 20% diện tích đất ở vùng quá dốc - 20% diện tích đất ở vùng quá khô hạn - 10% diện tích đất lục địa đang canh tác - 10% diện tích đất lục địa là đồng cỏ hoặc chăn thả tự nhiên. 18 Bảng 1.1. Tỷ lệ % diện tích các loại đất trên thế giới Loại đất Tỷ lệ % Tuyết, băng, hồ 11,0 Đất hoang mạc 8,7 Đất núi 16,3 Đất tài nguyên 4,0 Đất podzol 9,2 Đất nâu rừng 3,5 Đất đỏ (laterit) 17,0 . Đất đen 5,2 Đất màu hạt dẻ 8,6 Đất xám 9,4 Đất phù sa 3,9 (Nguồn: FAO, 1990) Đất trên thế giới rất hiếm song chúng lại được phân bố không đồng đều ở các hậu và các nước khác nhau. Bảng 1.2. Diện tích đất đai phân bố theo bề mặt trái đất Đất liền Diện tích (km2) Châu Âu 9.671.000 Châu Á 42.275.000 Châu Phi 29.813.000 Châu Úc 7.965.000 Nam Mỹ 17.976.000 Bắc Mỹ 20.443.000 Châu Nam Cực 11.105.000 (Nguồn: Lê Huy Bá, 2002) Hiện nay toàn bộ đất đai tốt nhất trên thế giới đã bị con người tác động vào. Diện tích đất đang canh tác của thế giới chỉ chiếm 10% tổng diện tích đất tự nhiên (khoảng 1500 triệu ha), và được FAO đánh giá là: Đất có năng suất cao: 14% Đất có năng suất trung bình: 28% Đất có năng suất thấp: 58% Trong tương lai, có thể khai phá và đưa vào sử dụng nông nghiệp khoảng 15- 20%. Nhưng rõ ràng, trên phạm vi toàn thế giới, đất tết thì ít, đất xấu thì nhiều và quỹ đất ngày càng bị thoái hóa. Các loại đất không sử dụng được cho nông nghiệp theo bảng 1.3. 19 Bảng 1.3. Các loại đất không sử dụng được cho nông nghiệp Loại đất Diện tích (tỉ ha) % so với đất tự nhiên ( % ) Đất quá dốc 2,682 18 Đất quá khô 2,533 17 Đất quá lạnh 2,235 15 Đất đóng băng 1,490 10 Đất quá nóng 1,341 9 Đất quá nghèo dinh dưỡng 0,745 5 Đất quá lầy 0,596 4 (Nguồn: P. Bllringh) Nguồn tài nguyên đất thế giới hàng năm luôn bị giảm đi về số lượng cũng như chất lượng, đặc biệt là đất nông nghiệp mất đi do chuyển sang sử dụng cho mục đích khác (chủ yếu là đùng cho xây dựng). Xã hội phát triển ngày càng cao, nhu cầu xây dựng ngày càng lớn. Người ta ước tính một người cần 0,1 ha đất làm chỗ ở và các nhu cầu văn hoá, giao thông, v.v... vì thế do số lượng người tăng lên dẫn đến hàng năm thế giới mất đi khoảng 8 triệu ha đất nông nghiệp do chuyển sang xây dựng cơ bản. Đất nông nghiệp còn mất đi do xói mòn, nhiễm mặn, ô nhiễm khác, v.v... khoảng 4 triệu ha. Như vậy, mỗi năm nhân loại mất đi 12 triệu ha đất nông nghiệp. Những đất còn lại cũng bị giảm sút về chất lượng do nhiều nguyên nhân như xói mòn, rửa trôi, đặc biệt ở vùng nhiệt đới ẩm do mưa lớn cùng vơi đất dốc, 1 ha đất trong 1 năm mất từ 100 - 150 tấn đất. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như: Khô hạn, chất thải rắn và lỏng, bụi, v.v... đã làm cho đất bị ô nhiễm thoái hóa. Bên cạnh đó, tình trạng kết von, đá ong hoá, hoang mạc hóa, v.v... ngày càng gia tăng. Song song với việc đất nông nghiệp ngày càng bị mất và xấu đi thì sự bùng nổ dân số trên cả thế giới ngày càng báo động. Dân số thế giới mỗi năm tăng từ 80 - 85 triệu người. Với năng suất như hiện nay, mỗi người cần 0,2 - 0,4 ha đất nông nghiệp mới đủ lương thực thực phẩm. Muốn nuôi sống 80 - 100 triệu người dân tăng/năm cần phải khai hoang 20 - 30 triệu ha đất mỗi năm. Như vậy muốn đất nông nghiệp khỏi mất đi hàng năm thì phải khai hoang mở rộng diện tích từ 30 - 40 triệu ha. Song tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới chỉ có hạn. Theo nhiều nhà khoa học tính toán, trong 3,2 tỷ ha đất của trái đất chúng ta đã khai thác 1,5 tỷ ha, còn 1,7 tỷ ha với tốc độ khai thác 40 triệu ha/năm thì chỉ còn 40 năm nữa là không có đất để khai hoang mở rộng diện tích. Hơn nữa, việc khai hoang sẽ có một số trở ngại lớn như: + Phải có nguồn vốn lớn. + Không được xâm canh vào đất rừng vì rừng đã bị tàn phá quá nhiều, 20 + Những vùng còn đất khai hoang là những vùng ít dân nên sẽ hạn chế về lực lượng lao động. Như vậy việc cần quan tâm ở đây là sử dụng tài nguyên đất sao cho thực sự hợp lý để giải quyết mâu thuẫn giữa đất và việc tăng dân số. Hiện nay chỉ có hướng thâm canh tăng năng suất và nâng cao hệ số sử dụng đất được coi là có hiệu quả nhất. Gần đây, nhờ có các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, con người đã làm tăng năng suất gấp 2 - 3 lần năng suất cũ. Tuy nhiên, cũng có những khó khăn cần phải được quan tâm giải quyết là: + Đất thoái hoá do xói mòn, rửa trôi, bón nhiều phân hoá học và thuốc phòng trừ sâu bệnh, cỏ dại, v.v... + Giá thành nông sản ngày càng cao. Người ta đã tổng kết muốn tăng năng suất 1 lần thì phải tăng chi phí máy kéo 2 lần, phân hoá học 5 lần, thuốc trừ sâu, bệnh và cỏ dại 10 lần. 1.4.3. Khái quát về tài nguyên đất Việt Nam Việt Nam có diện tích tự nhiên là 330.104,2 km2, xếp thứ 59 trên tổng số 200 nước trên Thế giới, thuộc quy mô diện tích trung bình. Trong đó diện tích sông, suối, núi đá và các hải đảo chiếm khoảng 2 triệu ha, còn lại là các loại hình thổ nhưỡng đất liền. Gần 3/4 diện tích đất đai của nước ta là rừng núi và chưa khai thác. Diện tích đất đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp chưa đầy 25%. Có thể nói, Việt Nam rất đa dạng về các loại hình thổ nhưỡng và phong phú về khả năng sử dụng đất, nhưng phân bố giữa các vùng không đều. ở những vùng đất rộng lớn thì dân cư lại ít, thưa thớt. Những vùng này thường điều kiện sản xuất khó khăn, do đó đời sống cũng gặp nhiều khó khăn. Vùng Trung du Bắc bộ chiếm 31,3% diện tích đất tự nhiên nhưng chỉ chiếm 16,4% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước. Trong khi đó, Đồng bằng sông Hồng chiếm 3,78% diện tích đất tự nhiên nhưng chiếm 8,7% tổng diện tích đất nông nghiệp. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 11,95% diện tích đất tự nhiên, nhưng chiếm 34,30% tổng diện tích đất nông nghiệp. Diện tích đất tự nhiên và đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng giảm do tốc độ tăng dân số cao, sự phát triển mạnh của các yếu tố như đô thị hoá, công nghiệp hoá và các cơ sở hạ tầng mà ở đó chủ yếu là đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang các hoạt động kinh tế khác với số lượng ngày càng tăng. Diện tích đất bình quân đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp trên Thế giới, diện tích đất tự nhiên bình quân đầu người là 0,46 ha, chỉ bằng 116 mức bình quân của Thế giới, đứng thứ 10 trong 11 nước Đông Nam á (cao hơn Singapore) và đứng thứ 135 trong số 200 nước trên Thế giới. Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người của Việt Nam hiện chỉ còn dưới 0,12 ha (theo số liệu thống kê đất nông nghiệp năm 2002 của Bộ Tài nguyên và Môi trường). Đặc điểm phân bố đất đai tại Việt Nam cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện địa lý của từng vùng, miền. ở các nơi vùng sâu, vùng xa thuộc trung du miền núi diện tích đất tự nhiên bình quân đầu người cao, nhưng loại đất tết với các điều kiện đảm bảo cho người dân có thể canh 21 tác được lại rất thiếu. ở đồng bằng - nơi đất đai đã được khai phá từ lâu, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp thì quỹ đất lại rất khan hiếm do mật độ dân số đông và ngày càng tăng, tốc độ phát triển kinh tế nhanh và hầu như không có đất khai phá mới để bổ sung. Từ trước những năm 1990, đất nông nghiệp hầu như không tăng, chênh lệch từ 6.933.400 ha (năm 1980) đến 6.993.200 (năm 1990). Tuy nhiên, sau năm 1990, diện tích đất nông nghiệp gia tăng đáng kể. Trong khi đó, đất lâm nghiệp có chiều hướng giảm dần, nhất là vào thời kỳ 1980-1985. Đây là thời kỳ công cuộc khai hoang diễn ra mạnh mẽ. Sau đó, diện tích đất lâm nghiệp đã tăng lên do có sự đầu tư trồng rừng, khôi phục và bảo vệ tài nguyên rừng. Bảng 1.4. Các loại hình sử dụng đất Năm Đối tượng 1980 1985 1990 1994 2000 2001 2003 Đất nông nghiệp 6.933,4 6.944,2 6.933,2 7.367,2 9.345,3 9.382,5 9.531,8 Đất lâm nghiệp 11.866,8 9.641,7 9.395,2 9.915,1 11.575,4 11.823,8 12.402,2 Đất chuyên dùng 718,8 766,8 972,2 1 122,1 1.532,8 1.568,3 1.669,6 Đất khu dân cư 702,0 855,7 817,8 717,5 443,2 477,7 440,6 Đất chưa sử dụng 12.967,9 14.827,7 14.924,9 13.982,3 10 027,2 9.672,4 8.867,4 (Nguồn: Niên giám thống kê các năm) Diện tích đất chưa sử dụng đều có ở tất cả 7 vùng kinh tế - sinh thái của đất nước, nhưng tập trung nhiều nhất là ở miền núi trung du Bắc bộ và Tây Nguyên. Đây cũng là hai vùng có mật độ dân cư thấp nhất. Ngoài ra còn có ở vùng Duyên hải miền Trung và Khu Bốn cũ. Đất chưa sử dụng phần lớn là đất rừng và đồi núi trọc, điều kiện sản xuất khó khăn. Bởi vậy việc khai thác đất đai ở các' vùng này có ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội to lớn trên phạm vi cả nước, nhưng đòi hỏi phải có những đầu tư lớn, kể cả trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng để hình thành các vùng kinh tế mới. 1.5. SỰ CẦN THIẾT CỦA KHOA HỌC KINH TẾ TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ NHƯNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 1.5.1. Vị trí môn khoa học kinh tế tài nguyên đất Đất đai bị giới hạn bởi bề mặt của quả địa cầu và trong lãnh thổ của từng quốc gia. Đất đai không chỉ phục vụ cho nhu cầu sản xuất nông lâm nghiệp mà còn phục vụ cho tất cả các ngành khác của nền kinh tế quốc dân như: xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, khai khoáng, quốc phòng và nhà ở kể cả nhu cầu đô thị hoá. Tài nguyên đất là một nguồn lực đối với mọi quốc gia. Nguồn lực ấy có hạn. Theo tài liệu của FAO về đánh giá đất thế giới thì hiện nay hành tinh chúng ta có khoảng 149 triệu km2. Trong đó đất tuyết băng, hồ, hoang mạc chiếm hơn 20% còn 22 gần 80% có thể phục vụ cho các mục đích của con người. Đất canh tác để sản xuất nông lâm nghiệp chỉ còn khoảng 27% đất tự nhiên. Sự hạn hẹp về bề mặt diện tích đất đai, cùng với sự hạn chế trong việc khai thác tiềm năng đất đai do tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào khai thác đất đòi hỏi con người phải biết tính toán, đánh giá đầy đủ về đất đai không chỉ về mặt kỹ thuật mà cả về mặt kinh tế của đất đai. Mặt khác dân số ngày càng tăng, kinh tế- xã hội ngày càng phát triển, những nhu cầu về đất đai ngày càng tăng lên. Đất đai để sản xuất nông nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm nuôi sống con người ngày càng có xu hướng giảm sút, trong khi những nhu cầu về đất đai cho các ngành khác lại tăng lên như xây dựng, giao thông, nhà ở và nhất là quá trình đô thị hoá tăng lên làm cho đất đai phi sản xuất nông nghiệp tăng lên. Đất đai lại rất đa dạng và phong phú, có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau. Đất đai màu mỡ để trồng trọt canh tác cũng không phải là nhiều. Những khu vực đất đai thuận lợi dễ khai thác thì đã được khai thác. Những vùng đất đai khó khăn chưa được khai thác cho sản xuất thì thường gặp những trở ngại về kỹ thuật và khả năng kinh tế, những điều kiện khác để khai thác sử dụng chúng. Những bất cập về cung - cầu đất đai nói trên đang đặt ra cho con người những bức bách cần được giải quyết. Trên phạm vi mỗi quốc gia, diện tích đất đai bị hạn hẹp. Như vậy cần phải làm gì để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên này, để vừa cải tạo bồi dưỡng đất vừa bảo vệ môi trường sinh thái trên phạm vi quốc gia và từng tiểu vùng lãnh thổ của quốc gia. , Khoa học kinh tế tài nguyên đất đóng vai trò xứng đáng trong hệ thống khoa học kinh tế vì tài nguyên đất đai chiếm vị trí quan trọng trong sự giàu có và làm tăng nguồn của cải của xã hội đối với mỗi quốc gia. 1.5.2. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của môn học kinh tế đất Đất đai trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia là vô cùng rộng lớn. Đất đai bao gồm cả phần bề mặt và cả phần bề sâu trong lòng đất. Bề sâu trong lòng đất là những khoáng sản đã được khai thác hoặc chưa được khai thác. Khoa học kinh tế đất nghiên cứu phần bề mặt đất (bao gồm cả phần mặt nước) đã, đang và sẽ được sử dụng và khai thác. Chúng có liên hệ đến phần bề sâu trong lòng đất. Như vậy bề mặt đất đai và các loại đất đai đã, đang và sẽ sử dụng là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của khoa học kinh tế đất. Từ vị trí vai trò và ý nghĩa của khoa học kinh tế đất, việc nghiên cứu môn học này có mục đích và nhiệm vụ sau đây: Nghiên cứu những tính quy luật chung trong việc sử dụng đất như: độ phì đất và các loại độ phì, những biểu hiện của nó và khai thác độ phì trên khía cạnh kinh tế vấn 23 đề địa tô và giá cả ruộng đất. Mô hình ba mặt trong sử dụng đất, lợi thế so sánh, chi phí cơ hội trong sử dụng đất. Quy luật cung, cầu và thị trường nhà đất. Vấn đề quan hệ giữa đất đai và môi trường. Việc nghiên cứu những tính quy luật chung trong sử dụng đất là cần thiết nhằm trang bị những kiến thức chung nhất về kinh tế đất từ đó giúp ta tìm ra được những tính quy luật trong việc sử dụng đất có hiệu quả. - Nghiên cứu những xu thế, quy luật vận động của các loại đất đai sử dụng trên phạm vi quốc gia và từng vùng lãnh thổ - Tìm ra phương hướng, những giải pháp sử dụng có hiệu quả các loại đất đai. 1.5.3. Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế tài nguyên đất Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp khoa học chung nhất cho mọi khoa học. Vì vậy khoa học kinh tế tài nguyên đất cũng sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở nền tảng trong phương pháp luận nghiên cứu của mình. Phương pháp này coi tài nguyên đất như một sự vật và hiện tượng, một đối tượng trực tiếp, đặt nó trong sự vận động gắn liền với sự vận động môi trường sinh thái, trong đó có sự tác động của con người. Sự tác động của con người vào việc cải tạo đất hoặc chuyển hoá các loại đất phải nằm trong mối quan hệ biện chứng hợp quy luật. Sự biến hoá của đất đai, đặc biệt là sự biến hoá về mặt sử dụng và sự thay đổi các chế độ sở hữu phụ thuộc vào các chế độ xã hội và sự vận động trong quá trình lịch sử nhất định. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu khoa học kinh tế đất là một phương pháp tư duy khoa học nhằm tìm tòi và rút ra quy luật trong quá trình sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất. tuỳ theo điều kiện cụ thể, từng nơi, từng lúc. Phương pháp phân tích chi phí lợi ích, phương pháp định lượng v.v... Phương pháp thống kê, phân tổ so sánh cũng được sử dụng rộng rãi và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu khoa học kinh tế tài nguyên đất. Phương pháp này giúp cho sinh viên nắm được số lượng từng loại đất, sự biến động của chúng và mối quan hệ giữa các loại đất trên phạm vi quốc gia và từng vùng. Ngoài ra còn nhiều phương pháp khác cũng được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu kinh tế đất. 1.5.4. Mối quan hệ giữa khoa học kinh tế tài nguyên đất với các môn khoa học khác Kinh tế tài nguyên đất là môn khoa học mới, gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Đất đai ngày càng khan hiếm về mặt diện tích do tính có hạn của nó và sự bùng nổ dân số, sự phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Đồng thời ngày càng bị cạn kiệt 24 trong việc khai thác tiềm năng của nó. Con người ngày càng phải “biết hơn” về nguồn tài nguyên này. Khoa học kinh tế đất ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi này của con người, của xã hội. Các khoa học về đất: Nghiên cứu về Sự hình thành, nguồn gốc và tính chất của đất phân loại đất để con người sử dụng đất tốt hơn, bố trí cây từng thích hợp với từng loại đất và cho sản phẩm cao hơn. Khoa học kỹ thuật nông nghiệp: Nghiên cứu mối quan hệ và sự tác động của các yếu tố vật chất đốt sự phát triển của cây trồng, vật nuôi để cho sản phẩm nhiều nhất và tốt nhất trong mối quan hệ với đất đai và môi trường. Các khoa học kinh tế: Nghiên cứu những quy luật và tính quy luật trong quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất, tức là nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Như vậy khoa học kinh tế đất trên cơ sở nền tảng của kinh tế học chính trị Mác lênin, dựa trên những thành tựu của các khoa học về đất, khoa học nông nghiệp và các khóa học tự nhiên khác để nghiên cứu các quan hệ, trước hết là quan hệ kinh tế-xã hội trong quá trình sử dụng đất. Vì vậy khi nghiên cứu khoa học kinh tế đất không thể bỏ qua những kiến thức và khái niệm cơ bản của kinh tế học chính trị Mác Lê nin và các thành tựu của khoa học địa chất, khoa học nông nghiệp và các khoa học tự nhiên khác (thiên văn, khí tượng, thuỷ văn v.v...l 25 Chương II ĐỊA TÔ VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT DÂN SỐ 2.1. ĐỊA TÔ 2.1.1. Bản chất của địa tô Địa tô là một phạm trù kinh tế gắn liền với chế độ sở hữu đất đai. Chế độ sở hữu về ruộng đất có các hình thức cơ bản sau: sở hữu nhỏ của nông dân tự do, sở hữu lớn của địa chủ (bao gồm cả địa chủ trong xã hội phong kiến và địa chủ trong xã hội tư bản); sở hữu của Nhà nước các thời đại. Trong việc xem xét bản chất của địa tô, chúng ta sẽ lấy sở hữu ruộng đất của địa chủ trong xã hội tư bản làm nền tảng xuất phát. Đặc trưng cơ bản của đất đai của địa chủ (cả trong xã hội phong kiến cũng như trong xã hội tư bản) là tách rời người sở hữu và người sử dụng đất. Trong xã hội tư bản tách rời người sử dụng đất với người lao động trực tiếp và hình thành nên nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và người lao động làm thuê trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp dưới xã hội tư bản tồn tại 3 giai cấp đối lập nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau: địa chủ, chủ tư bản kinh doanh nông nghiệp, lao động làm thuê trong nông nghiệp. Đó chính là tiền đề của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Người sở hữu ruộng đất - địa chủ hay chủ đất có quyền sử dụng đất theo ý muốn của họ: trực tiếp kinh doanh hoặc cho người khác thuê. Trong trường hợp cho thuê đất, quyền sở hữu ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất đã tách rời và hình thành hai giai cấp đối lập nhau - chủ đất (người sở hữu đất) và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp (người sử dụng đất). Để được sử dụng đất của địa chủ vào kinh doanh sản xuất, nhà tư bản phải trả cho chủ đất một khoản tiền nhất định theo hợp đồng. Số tiền trả thường được tính theo từng năm. Đương nhiên số tiền trả đó được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn riêng của chủ ruộng hay nhà tư bản theo mặt bằng chung về mức lợi nhuận trong toàn nền kinh tế. Số tiền trả đó dù là trả về ruộng đất canh tác hay là đất xây dựng, hầm mỏ, ngư trường, rừng gỗ v.v... đều được gọi là địa tô (C Mác - Anghen toàn tập, tập 25, phần II, NXB CTQG - Hà NộI, 1994, trang 246). Đó chính là giá trị kinh tế của quyền sở hữu đất đai của địa chủ. Quyền đó đã mang lại cho chủ ruộng một lợi ít h cụ thể. Như vậy, địa tô là hình thái theo đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, tức là đem lại thu nhập cho người sở hữu ruộng đất đó. Khoản tiền mà chủ tư bản phải trả cho chủ ruộng, trên thực tế dù nhiều hay ít đều được gọi là địa tô. Nhưng xét về bản chất kinh tế, chỉ có thể nói: địa tô là một khoản tiền mà chủ tư bản phải trả cho chủ ruộng. Theo C. Mác thì trong nền nông nghiệp nhỏ giá cả ruộng đất - hình thức và kết quả của quyền tư hữu ruộng đất - biểu hiện thành sự giới hạn đối với bản thân sản xuất, làm giảm lượng tư bản có thể đầu tư thâm canh cho sản xuất. Còn trong chế độ sở hữu lớn của địa chủ thì một mặt tiền thuê ruộng cũng làm giới hạn đối với sản xuất, 26 mặt khác những khoản đầu tư vào đất rút cục sẽ vào tay của địa chủ. Trên thực tế chủ tư bản ra sức bóc lột đất trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực, đồng thời địa chủ cũng ra sức lợi dụng đất để làm giàu. Chủ tư bản, ngoài tiền thuê đất để được sử dụng đất, còn phải đầu tư tư bản vào đất để sản xuất: “Tư bản có thể được cố định vào đất, bỏ vào ruộng đất trong thời gian tương đối ngắn như là trường hợp cải tạo những thuộc tính hoá học sử dụng phân hoá học v.v... hoặc được cố định trong một thời gian dài hơn, như trường hợp xây dựng các kênh đào tiêu nước, hệ thống tưới nước, san bằng mặt đất, xây dựng các kiến trúc dùng trong việc kinh doanh v.v...” (C. Mác - Anghen toàn tập, tập 25, phần II, NXB CTQG - Hà NộI, 1994. trang 246). Những phần đầu tư cố định vào đất đều làm cho đất được cải thiện hơn, đều làm tăng năng suất sử dụng ruộng đất, làm cho ruộng đất từ chỗ là vật chất đơn thuần trở thành ruộng đất - tư bản. Đó là công lao của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp, không phải của địa chủ. Trong thời hạn hợp đồng thuê đất thì kết quả đó thuộc về nhà tư bản. Nhưng khi hết hạn thuê đất thì những kết quả đó nghiễm nhiên thuộc về chủ đất, trở thành thuộc tính của đất của địa chủ và khi sang hợp đồng mới địa chủ cũng nghiễm nhiên tính thêm vào đỉa tôi cả phần có thể sinh lời của những tư bản đã đầu tư trước đó Bằng cách đó địa tô sẽ ngày một lớn lên. Địa chủ đã thu được lợi do thành quả phát triển của xã hội mang lại - những tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp mà ông ta không hề có chút công lao nào để tạo ra nó. Xu thế vận động đó của địa tô chứng tỏ địa chủ đã ngày càng lợi dụng đất đai để làm giàu, và nó buộc những nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp hạn chế những khoản đầu tư vào đất mà họ không khai thác hết được trong thời hạn hợp đồng. Đó là một trong những hạn chế lớn của kiểu kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (tức bộ phận giá trị thặng dư sau khi trừ đi lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) và do nhà tư bản thuê đất nộp cho người sở hữu ruộng đất. Vấn đề đặt ra là nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp lấy tiền từ nguồn thu nào để trả tiền thuê ruộng - địa tô cho chủ ruộng. Phải chăng họ phải trích một phần lợi nhuận mà họ thu được trong kinh doanh để trả cho chủ ruộng. Để trả lời được câu hỏi đó, cần nghiên cứu các hình thái cụ thể của địa tô. 2.1.2. Địa tô chênh lệch Các ngành kinh tế khác nhau có cấu tạo hữu cơ khác nhau, nghĩa là với tổng lượng tư bản như nhau nhưng ở các ngành khác nhau thì một lượng lao động sống sẽ vận hành được những lượng lao động vật hoá khác nhau. Vì vậy cùng tỉ suất giá trị thặng dư như nhau với một lượng tư bản như nhau sẽ thu được lượng giá trị thặng dư khác nhau. Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp, đều có lợi nhuận siêu ngạch. 27 Trong công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một hiện tượng tạm thời đối với từng doanh nghiệp, còn trong nông nghiệp thì nó tồn tại tương đối lâu dài, vì diện tích ruộng đất có hạn và hầu hết đất đai có thể trồng trọt đã bị chiếm dụng, nên không thể tạo thêm ruộng đất tốt và gần nơi tiêu thụ như trong công nghiệp có thể xây dựng thêm nhà máy hiện đại hơn để cạnh tranh. Khác với trong công nghiệp, trong nông nghiệp giá cả sản xuất chung của nông phẩm do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định, bởi vì nếu chỉ canh tác trên ruộng đất tốt và trung bình sẽ không đủ nông sản phẩm cho nhu cầu xã hội mà phải canh tác cả trên ruộng xấu. Do đó, giá cả sản xuất chung của nông phẩm phải đảm bảo cho những tư bản đầu tư trên ruộng đất xấu này thu được lợi nhuận bình quân. Như vậy, cả những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và ruộng đất trung bình đều thu được lợi nhuận siêu ngạch. Địa tô chênh lệch là những phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên những ruộng đất tết và trung bình, là chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tết và trung bình. Bảng 2.1 : Địa tô chênh lệnh ở các hạng ruộng đất khác nhau Hạng ruộng đất Chi phí tư bản Lợi nhuận bình quân Tổng số giá cả sản xuất Sản lượng (tạ) Xấu 100 20 120 4 Trung bình 100 20 120 5 Tốt 100 20 120 6 Từ nguyên lý hoạt động của quy luật hàng hoá lợi nhuận như trên, chúng ta hãy xem xét thí dụ của C. Mác để thấy một phần giá trị thặng dư của nhà tư bản thuê đất kinh doanh tại sao lại rơi vào tay của chủ ruộng dưới hình thức địa tô. Giả sử phần lớn các công xưởng trong một ngành nào đó đều sử dụng than đá làm nhiên liệu để sản xuất sản phẩm, có một số ít các công xưởng lợi dụng được sức của dòng chảy các thác nước. Các công xưởng sử dụng nhiên liệu than đá phải chi phí một lượng tư bản cho mỗi đơn vị sản phẩm lớn hơn các công xưởng lợi dụng được năng lượng dòng chảy thác nước. Giá cả sản xuất chung được hình thành từ giá thành của các xưởng sản xuất dùng than đá cộng với tỷ suất lợi nhuận bình quân. Vậy là các xưởng sử dụng thác nước bán sản phẩm theo giá cả sản xuất chung đã cho phép thu lợi nhuận siêu ngạch. Đó là con số chênh lệch giữa giá cả sản xuất cá biệt với giá cả sản xuất chung. Lợi nhuận siêu ngạch đó giới hạn bởi 2 đại lượng: giá cả sản xuất cá biệt và giá cả sản xuất chung của ngành đó. Nhà tư bản kinh doanh sẽ dùng lợi nhuận siêu 28 ngạch đó để trả địa tô cho chủ ruộng. Điều đó cho phép chủ tư bản vẫn thu được lợi nhuận theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và vẫn có địa tô để trả cho chủ ruộng. Vấn đề đặt ra là: tại sao lợi thế khai thác lại không bị bình quân hoá để tạo ra lợi nhuận bình quân của ngành đó? Rõ ràng không phải bất cứ nhà tư bản nào cũng có lợi thế đó, mà chỉ có một số ít nhà chiếm hữu được khu đất có thác nước mới được khai thác lợi thế đó, hoặc một số ít nhà thuê được thác nước của địa chủ. Mặc dù có cạnh tranh tự do các tư bản khác không thể tạo ra được thác nước một cách phổ biến. Do vậy có thể nói tính chất đặc biệt của thác nước (một lực lượng tự nhiên) và sự độc chiếm thác nước đó đã cản trở bình quân hóa số lượng lợi nhuận của các công xưởng có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi so với điều kiện sản xuất chung phổ biến của ngành đó. Chủ tư bản phải trả địa tô cho chủ đất là vì, thứ nhất địa chủ có quyền cho phép hay không cho phép ai đó sử dụng thác nước trên địa phận của ông ta. Quyền sở hữu đất đai về mặt pháp lý cho phép ông ta có thể cho phép hay không cho phép người khác được sử dụng thác nước. Nghĩa là người sử dụng thác nước phải trả tiền thuê cho chủ đất có thác nước dưới hình thức địa tô. Thứ hai, lợi nhuận siêu ngạch là kết quả của việc sử dụng tư bản ở điều kiện thuận lợi. Chủ tư bản tuy phải trả địa tô cho chủ đất bằng lợi nhuận siêu ngạch, nhưng phần lợi nhuận của ông ta không vì thế mà thấp hơn các chủ tư bản khác. Đó là cơ sở kinh tế để chủ tư bản chấp nhận trả địa tô cho chủ đất. Một số điều cần đặc biệt chú ý từ sự phân tích trên: Thứ nhất: địa tô mà chủ tư bản thuê thác nước trả cho chủ đất bao giờ cũng là địa tô chênh lệch. Đó là mức chênh lệch giữa giá cả sản xuất cá biệt của tư bản sử dụng lực lượng tự nhiên bị độc chiếm với giá cả chung của tư bản trong ngành đó. Thứ hai: địa tô đó xuất hiện không phải do sức sản xuất của tư bản đã sử dụng, đã được tăng lên một cách tuyệt đối. Mà đó chỉ là sự lớn hơn một cách tương đối kết quả của tư bản được sử dụng trong các điều kiện thuận lợi so với những tư bản được sử dụng trong những điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Bởi lẽ nếu tiến bộ khoa học - công nghệ tăng lên đến một trình độ mà hiệu quả sử dụng nhiên liệu than tiến kịp hoặc vượt ưu thế của thác nước thì sẽ không còn lợi nhuận siêu ngạch đối với những tư bản khai thác thác nước và do đó không còn địa tô. Thứ ba: lực lượng tự nhiên của thác nước không phải là nguồn sinh ra địa tô, mà chỉ là cơ sở tự nhiên của địa tô. Nói cách khác, nó là vật mang trong nó tiềm năng sinh ra địa tô, chứ không phải tạo ra địa tô. Thứ tư: quyền sở hữu khu đất có thác nước cũng không phải nguồn sinh ra lợi nhuận siêu ngạch - phần có thể chuyển hoá thành địa tô. Lợi nhuận đó vẫn tồn tại ngay cả khi không có một quyền sở hữu đất đai nào cả. Ví dụ đó là thác nước trong khu đất vô chủ. Quyền sở hữu đất ở đây chỉ đem lại cho địa chủ - người sở hữu cả thác nước 29 khả năng chuyển lợi nhuận siêu ngạch đó từ tay chủ tư bản sang tay ông ta mà thôi. Quyền đó là nguyên nhân làm cho lợi nhuận siêu ngạch chuyển hoá thành địa tô. Tóm lại, địa tô chênh lệch là kết quả của năng suất khác nhau giữa những tư bản ngang nhau bỏ vào ruộng đất. 2.1.2.1. Địa tô chênh lệch I Như chúng ta đã biết, sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất cá biệt và giá cả sản xuất chung của một ngành sẽ tạo nên lợi nhuận siêu ngạch trong ngành đó. Trong nông nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch của các chủ tư bản kinh doanh trên các thửa đất khác nhau là điều kiện cần thiết để làm xuất hiện địa tô. Có nhiều nhân tố làm xuất hiện lợi nhuận siêu ngạch, do đó sẽ làm xuất hiện địa tô trong điều kiện chế độ tư hữu đất đai của địa chủ. Địa tô chênh lệch được hình thành bởi các nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên như độ phì tự nhiên, vị trí của đất đai v.v... được gọi là địa tô chênh lệch I. Người ta có thể khai thác các loại đất trong nông nghiệp từ đất xấu tới đất tốt hoặc ngược lại. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nơi, trong từng giai đoạn. Thông thường người ta khai thác đất tốt trước cho đến khi đất đai đã được khai thác hết để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp và tình hình sẽ diễn ra như sau: Do nhu cầu của xã hội về nông phẩm sẽ tăng dần đến mức đủ để có thể đưa loại đất xấu hơn vào sử dụng. Nhà tư bản kinh doanh trên đất xấu đó vẫn thu được lợi nhuận bình quân. Khi đất xấu được đưa vào sử dụng, giá nông phẩm trên thị trường là giá mới bằng giá cả sản xuất cá biệt trên đất xấu mới đưa vào sử dụng đó thì loại đất đã được sử dụng trước đó sẽ trở nên có lợi nhuận siêu ngạch và đất đó có địa tô. Loại đất xấu mới được đưa vào sử dụng không có lợi nhuận siêu ngạch do đó không có địa tô, mà chỉ có lợi nhuận bình quân. Cho đến khi có đất xấu hơn nữa được đưa vào sử dụng theo giá nông phẩm mới thì nó mới có địa tô. Để có địa tô chênh lệch I, cần có những điều kiện cơ bản sau đây: Thứ nhất: Giá cả sản xuất trên loại đất xấu trong khi xã hội đòi hỏi phải là giá cả sản xuất chung có tác dụng điều tiết trên thị trường. Thứ hai: Có sự chênh lệch về các điều kiện tự nhiên của đất đai mà các chênh lệch đó phải dẫn đến chênh lệch về năng suất ruộng đất, cho dù chi phí tư bản là ngang nhau. Thứ ba: Vẫn cần có chế độ tư hữu về đất đai của địa chủ Địa tô chênh lệch I nói chung phải thuộc về chủ sở hữu đất đai vì phần lợi nhuận siêu ngạch đó có được không phải do công lao của nhà tư bản mà do điều kiện tự nhiên khách quan đưa lại. Mặt khác các chủ tư bản sau khi nộp tô cho chủ đất vẫn còn nhận 30 được lợi nhuận bình quân. Trên thực tế ở một số nơi có thể trình tự khai thác đất không phải từ tốt đến xấu mà ngược lại - từ xấu đến tết. Ngay cả trong trình tự đó vẫn xuất hiện địa tô chênh lệch I. Tuy nhiên giữa hai trình tự đó có một số khác biệt Ở trình tự từ tết đến xấu, sự đảm bảo về lợi ích cho các chủ tư bản kinh doanh trên đất xấu xã hội cần thiết là giá nông sản phẩm phải tăng đến mức đủ cho họ thu được lợi nhuận bình quân. ở trình tự từ đất xấu đến đất tốt, sự đảm bảo về lợi ích là giá nông phẩm không giảm khi tăng cung nhờ sản xuất trên đất tốt hơn. Điều đó sẽ không làm giảm khi khối lượng lợi nhuận của các nhà tư bản đang kinh doanh trên đất xấu, đồng thời với các nhà tư bản kinh doanh trên đất tốt mới sau khi nộp địa tô vẫn thu được lợi nhuận bình quân . Khi phân tích quá trình xuất hiện địa tô chênh lệch I chúng ta đã sử dụng thuật ngữ “giá cả sản xuất trên đất xấu nhất xã hội cần thiết”. Do nhu cầu xã hội và đặc điểm giới hạn của đất đai, nên xã hội đã phải chấp nhận trả giá cho nông phẩm theo giá đắt nhất cần thiết của xã hội. Điều đó làm nảy sinh sự không ăn khớp giữa giá cả sản phẩm cá biệt với giá thị trường. Chính sách kinh tế trong nông nghiệp cần xử lý được những mâu thuẫn trên. 2.1.2.2. Địa tô chênh lệch II Khác với địa tô chênh lệch I - là hình thái của địa tô có được trên cơ sở những điều kiện tự nhiên thuận lợi, địa tô chênh lệch II là một hình thái địa tô có được trên cơ sở đầu tư thâm canh của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp, tức là do những khoản đầu tư liên tiếp nhau trên cùng một đám đất mà có. Trong khi nghiên cứu địa tô chênh lệch II cần lưu ý 2 điểm sau: Cơ sở và xuất phát điểm của địa tô chênh lệch II là địa tô chênh lệch I. Nghĩa là địa tô chênh lệch I là tiền đề của địa tô chênh lệch II, tức là canh tác song song cùng một lúc những thửa đất có độ phì tự nhiên và vị trí khác nhau. - Trong địa tô chênh lệch II, ngoài sự khác nhau về mức độ phì nhiêu còn cộng thêm sự khác nhau trong cách phân phối tư bản của người kinh doanh nông nghiệp. Tư bản bỏ vào ruộng đất càng lớn, nền nông nghiệp càng phát triển thì địa tô càng tăng lên. Tư bản bỏ vào ruộng đất đã đem lại khoản địa tô không theo tỷ lệ với lợi nhuận mà tư bản đã bỏ ra. Địa tô tăng lên cùng với mức tăng của đầu tư. Tuy nhiên, để thấy rõ sự vận động của địa tô chênh lệch II trong mối quan hệ với đầu tư tư bản phụ thêm nghĩa là sự tăng lên của đầu tư phụ thêm vào đất đai làm cho địa tô tăng lên như thế nào, chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau đây: - Trường hợp 1 : địa tô tăng lên cùng tỷ lệ với mức đầu tư của tư bản phụ thêm. Trường hợp này sẽ diễn ra khi: + Giá cả sản xuất không thay đổi: một lượng tư bản phụ thêm đem lại sản phẩm 31 phụ thêm tỷ lệ với lượng tư bản phụ thêm, nghĩa là khối lượng sản xuất tăng thêm tỷ lệ với số lượng tư bản phụ thêm. + Khi giá cả sản xuất giảm xuống, mức tư bản đầu tư phụ thêm vẫn đem lại một lượng sản phẩm tăng thêm, nghĩa là làm cho mức sản xuất tăng dần lên. + Trong mọi trường hợp khi giá cả sản xuất tăng lên và đất giữ giá điều tiết vẫn không thay đổi thì địa tô tăng lên tỷ lệ với đầu tư phụ thêm khi hiệu suất đầu tư lần sau không đổi quyết định hiệu suất đầu tư lần trước giảm, hiệu suất đầu tư lần sau giảm hoặc tăng lên. Trường hợp 2: địa tô tăng lên không cùng tỷ lệ với mức tăng đầu tư tư bản phụ thêm, hoặc cao hơn hoặc thấp hơn: + Tỷ lệ tăng địa tô cao hơn mức tăng tư bản đầu tư phụ thêm khi giá cả sản xuất không thay đổi nhưng sản xuất vẫn tăng lên, nghĩa là với lượng tư bản đầu tư phụ thêm đem lại một lượng sản phẩm tăng lên mặc dầu giá cả sản xuất không thay đổi và trong mọi trường hợp khi giá cả sản xuất tăng lên. + Tỷ lệ tăng địa tô thấp hơn tỷ lệ tăng tư bản đầu tư phụ thêm khi hiệu suất đầu tư lần sau giảm so với lần đầu tư trước. Trường hợp 3: mức địa tô vẫn giữ nguyên như cũ trên tất cả các loại đất khi có đầu tư tiếp theo. Trường hợp này xảy ra khi loại đất xấu nhất không đem lại địa tô và do đó có tác dụng điều tiết giá cả bị loại ra khỏi cạnh tranh và loại đất tết hơn tiếp đó trở thành có tác dụng điều tiết và do đó loại đất này không đem lại địa tô nữa. Như vậy trong đa số các trường hợp địa tô đều tăng lên vì đầu tư tư bản đã tăng lên. 2.1.3. Địa tô tuyệt đối Khi nghiên cứu về địa tô chênh lệch, chúng ta đã xuất phát từ giả thiết giá cả sản xuất chung ngang bằng với giá cả sản xuất cá biệt trên loại đất xấu xã hội cần thiết. Nói cách khác, giá cả sản xuất có tác dụng điều tiết thị trường ngang với giá cả cá biệt trên đất xấu nhất xã hội cần thiết. Khi đó chỉ có những đất nào có giá cả sản xuất cá biệt thấp hơn giá cả sản xuất cá biệt xã hội cần thiết thì mới có lợi nhuận siêu ngạch - cái sẽ chuyển hoá thành địa tô chênh lệch. Địa tô đó có cơ sở là sự chênh lệch về độ phì nhiêu tự nhiên hoặc là kết quả chênh lệch giữa các lần đầu tư liên tiếp trên cùng một thửa đất. Giả thiết đó không làm sai lệch quy luật địa tô chênh lệch. Giả thiết đó giúp chúng ta nghiên cứu địa tô chênh lệch một cách dễ dàng nhất. Tuy nhiên, theo giả thiết đó thì các chủ tư bản kinh doanh trên đất xấu nhất xã hội cần thết sẽ không phải nộp địa tô cho chủ ruộng vì giá cả sản phẩm trên thị trường do giá cả sản xuất trên loại đất xấu đó quyết định và chủ ruộng loại đất A cũng không thu được một địa tô nào. Trên thực tế thì không phải làm như vậy. Ngay cả loại đất A như thí dụ trong chương này, cũng đem lại địa tô cho chủ đất. Bởi nếu đất A không có 32 địa tô thì chẳng khác gì coi quyền sở hữu đất của chủ đất không còn tồn tại. Nhưng địa tô đó không thể là khoản khấu trừ vào lợi nhận bình quân, cũng không thể là khoản khấu trừ vào tiền công của công nhân, vì nếu thế nó không còn là địa tô nữa. Địa tô đó phải là khoản trội lên so với giá cả sản xuất cá biệt của loại đất A. Cụ thể hơn, giá sản phẩm nông nghiệp phải cao hơn giá cả sản xuất trên đất xấu nhất xã hội cần thiết, đảm bảo cho chủ tư bản thu được lợi nhuận bình quân, chủ đất thu được địa tô, công nhân thu được tiền công theo đúng nghĩa của những khái niệm đó. Chi khi có chủ đất mới cho phép các nhà tư bản đầu tư kinh doanh trên đất đai của ông ta có quyền sở hữu. Khoản tiền mà chủ tư bản phải nộp cho chủ đất không phải dưới hình thái địa tô chênh lệch đó được gọi là địa tô tuyệt đối. Địa tô này bất kể đất có lợi nhuận siêu ngạch chênh lệch giữa các thửa đất, hoặc giữa các mức đầu tư hay không đều phải nộp cho.chủ ruộng. Vậy cơ sở nào để giá sản phẩm nông nghiệp lại được bán cao hơn giá cả sản xuất trên đất xấu nhất xã hội cần thiết? Điều này xuất phát từ sự khác nhau về cấu tạo hữu cơ của tư bản giữa nông nghiệp và công nghiệp. Trên thực tế cấu tạo hữu cơ của tư bản nông nghiệp bao giờ cũng thấp hơn trong tư bản công nghiệp. Ví dụ có hai tự bản với số lượng ngang nhau là 100, tư bản nông nghiệp cấu tạo hữu cơ là 75/25, còn tư bản công nghiệp là 85/15, nếu tỷ xuất giá trị thặng dư đều là 100% thì giá trị sản phẩm của nông nghiệp là 125; còn của công nghiệp sẽ là 115. Nếu quy luật lợi nhuận bình quân tác động thì giá cả sản xuất của nông nghiệp sẽ thấp hơn giá trị sản phẩm; còn giá cả sản xuất công nghiệp sẽ cao hơn giá trị sản phẩm và giá cả sản xuất chung cho cả hai ngành sẽ là 120. Lượng chênh lệch giữa 120 và 125 là 5. Số 5 đó thực chất vẫn là giá trị thặng dư trong nông nghiệp. Nếu sản phẩm công nghiệp bán cao hơn giá cả sản xuất của nó để từ đó có tiền nộp địa tô tuyệt đối cho chủ đất, thì cũng chỉ cao hơn trong giới hạn từ 120 đến 125. Đó chính là cơ sở để sản phẩm nông nghiệp có thể bán cao hơn giá cả sản xuất. Trong sự phân tích trên, ta giả định quy luật lợi nhuận bình quân đã san bằng giá cả sản phẩm của hai ngành. Thật ra quy luật đó rất khó san bằng giá trị thặng dư được tạo ra trong nông nghiệp. Vì rằng không giống như trong công nghiệp - hễ có tỷ suất giá trị thặng dư cao và nhà tư bản có tiền là có thể đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm có tỷ suất cao đó; trong nông nghiệp quyền sở hữu tư nhân về đất của địa chủ không cho phép quá trình đó diễn ra chừng nào mà chủ đất chưa thu được địa tô tuyệt đối. Vì lẽ đó giá cả sản xuất của nông nghiệp trên thực tế sẽ lớn hơn 120, còn trong công nghiệp sẽ nhỏ hơn 120. Giả dụ trong nông nghiệp là 123, thì khoảng chênh lệch giữa 120 - là giá cả sản xuất lẽ ra được hình thành, với 123 - là giá cả sản xuất thực tế được hình thành do sự cản trở của quyền sở hữu của địa chủ về đất, là phần giá trị thặng dư trội ra mà chủ tư bản có thể trích ra để nộp tô địa tuyệt đối. Vậy bản chất của địa tô tuyệt đối là một tỷ suất giá trị thặng dư như nhau hoặc một mức độ bóc lột như nhau những tư bản ngang nhau trong những ngành sản xuất khác nhau tuỳ theo cấu tạo trung bình khác nhau của chúng đem lại những giá trị thặng dư khác nhau. 33 2.1.4. Địa tô lao dịch, địa tô hiện vật và địa tô tiền Địa tô lao dịch (lao động), địa tô hiện vật và địa tô bằng tiền là những hình thức biểu hiện trong lịch sử phát sinh và phát triển của địa tô. Từ địa tô lao dịch - hình thức sơ khai ban đầu đến địa tô tiền là một quá trình phát triển lịch sử lâu dài của địa tô gắn liền với các phương thức sản xuất nhất định. Xem xét quá trình đó giúp chúng ta thấy rõ hơn bản chất của địa tô và quá trình hình thành địa tô tư bản chủ nghĩa. 2.1.4.1. Địa tô lao dịch Là hình thức đơn giản nhất và đầu tiên của địa tô. Là hình thái lúc ban đầu của giá trị thặng dư và kết hợp làm một với giá trị thặng dư. Đó là thời gian lao động mà người canh tác ruộng đất phải làm việc trên lãnh địa của địa chủ. Thời gian lao động này do mức địa tô quyết định và là lao động thặng dư không công cho kẻ sở hữu các điều kiện sản xuất - ruộng đất. Trong điều kiện người sở hữu ruộng đất là vua chúa thì địa tô kết hợp làm một với thuế khoá. 2.1.4.2. Địa tô sản phẩm Xét về mặt kinh tế, việc chuyển hoá địa tô lao động sang địa tô hiện vật không làm biến đổi bản chất của địa tô. Đó là sản phẩm thặng dư mà người sử dụng ruộng đất phải trả cho người sở hữu ruộng đất dưới dạng địa tô. ở đây người sử dụng ruộng đất không phải là lao động trực tiếp cho lãnh chúa, mà nộp sản phẩm cho chủ đất. Địa tô hiện vật là một biến hình của địa tô lao động. 2.1.4.3. Địa tô bằng tiền Là một biến hình của địa tô hiện vật. Người sử dụng ruộng đất trả giá trị sản phẩm cho người sở hữu ruộng đất chứ không phải nộp chính sản phẩm ấy. Nền sản xuất hàng hoá phát triển, phần sản phẩm thặng dư mà người sử dụng ruộng đất phải trả cho chủ đất bằng giá trị sản phẩm đó. Đó là cơ sở của địa tô tư bản chủ nghĩa. 2.2. CHÍNH SÁCH KIÊM SOÁT DÂN SỐ: LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 2.2.1. Dự báo dân số Nhiệm vụ của kinh tế đất là tổ chức sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất đai nhằm giải quyết tốt mâu thuẫn giữa người và đất. Dân số luôn gia tăng, cùng với sự gia tăng dân số là sự gia tăng về nhu cầu xã hội đòi hỏi nhu cầu đất ngày càng lớn. Trong khi đó diện tích và sức tải dân số của đất lại có hạn, mâu thuẫn giữa người và đất lại càng thêm gay gắt. Vì vậy dự báo dân số có ý nghĩa quan trọng là tiền đề của hiệu quả kinh tế đất. Do có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn về mức độ và nhu cầu tiêu dùng nông sản, về tình trạng sử dụng đất đai. Vì vậy, cùng với việc dự báo tổng dân số cần dự báo rõ dân số phi nông nghiệp, dân số nông nghiệp cũng như dân số tăng trưởng tự 34 nhiên và tăng cơ học (dân số tăng theo mục tiêu quy hoạch). Quy mô dân số phi nông nghiệp là chỉ tiêu quan trọng phản ánh thực trạng kinh tế - xã hội và phát triển của các đô thị. Khi quy hoạch sử dụng đất đai dân số phi nông nghiệp được dự báo để khống chế vĩ mô về quy mô dân số nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội và phù hợp với trình độ đô thị hoá. Để xác định dân số phi nông nghiệp cần dựa vào những căn cứ sau : - Trình độ (mức độ) đô thị hoá ở năm định hình quy hoạch. - Các yếu tố tổng hợp như : Số liệu lịch sử về dân số, tính chất đô thị, xu thế và quy mô phát triển, tình hình phát triển kinh tế - xã hội . . . Thường ở mỗi vùng đều bao gồm dân số cả 2 khu vực đô thị và nông thôn, ngay trong khu vực đô thị ngoài dân số phi nông nghiệp còn có cả dân số nông nghiệp. Tổng dân số, dân số phi nông nghiệp, dân số nông nghiệp thường được dự báo theo phương pháp tăng tự nhiên. Công thức tính như sau: Trong đó : Nn: Số dân dự báo ở năm định hình quy hoạch No: Số dân hiện trạng (ở thời điểm làm quy hoạch) K: thời hạn (số năm) định hình quy hoạch. Giá trị K có thể được xác định theo chỉ tiêu khống chế về tỉ lệ tăng dân số (chính sách kế hoạch hoá gia đình) qua các năm của thời kỳ định hình quy hoạch hoặc dựa vào chỉ tiêu thống kê bình quân về lịch sử phát triển dân số của vùng. Bên cạnh nhân tố lịch sử và chính sách kế hoạch hoá gia đình, sự gia tăng dân số còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: di chuyển dân (nhập cư) từ vùng này sang vùng khác, quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội (phát triển công nghiệp, dịch vụ...). Vì vậy, cần chú ý đến tỷ lệ tăng cơ học về dân số. Công thức tính trong trường hợp này như sau: Trong đó: Nn: Số dân dự báo ở năm định hình quy hoạch. No: Số dân hiện trạng (ở thời điểm làm quy hoạch) K: Tỷ lệ tăng dân số cơ học với dấu ( + ) số dân nhập cư cao hơn số dân di cư; với dấu (- ) ngược lại n: Thời hạn (số năm ) định hình quy hoạch. Ngoài ra còn có thể dự báo dân số theo phương pháp khác như phương pháp cân 35 đối lao động (dựa trên cơ sở tính toán trực tiếp nhu cầu lao động cần thiết của các ngành ở năm định hình quy hoạch); phương pháp hồi quy tuyến tính (căn cứ vào số liệu lịch sử thống kế dân số nhiều năm). Đối với dự báo dân số đô thị còn có thể áp dụng phương pháp chuyển dịch lao động (trong đó biểu thị mối liên quan giữa tăng dân số đô thị và sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn). Về bản chất, khi các đô thị phát triển sẽ đòi hỏi khá lớn về nhu cầu lao động (gọi là sức hút của đô thị). Trong khi đó, ở khu vực nông thôn dân số và lao động cũng luôn tăng đã làm giảm bình quân diện tích đất canh tác, mặt khác việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến dẫn đến tình trạng dư thừa lực lượng lao động, tạo sự chuyển dịch ra thành phố vì công ăn việc làm. Dân số nông nghiệp có thể dự báo trực tiếp bằng các phương pháp nêu trên, cũng có thể sử dụng kết quả của dự báo tổng số dân và dân số phi nông nghiệp (bằng hiệu số) .Do đặc điểm dự báo mang tính trung và dài hạn nên giá trị dự báo dân số là chỉ tiêu khống chế. Vì vậy, cần áp dụng nhiều phương pháp để tính toán, kết hợp với phân tích tình hình thực tế của địa phương và phải mở rộng biên dao động dân số dự báo một cách hợp lý. 2.2.2. Các học thuyết về dân số Cùng với quá trình gia tăng dân số, nhiều vấn đề thách thức đã nảy sinh. Nhiều nhà kinh tế đã bàn đến mối quan hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng tài nguyên và môi trường trong các học thuyết về dân số 2.2.2.1. Học thuyết Mauhus Nội dung cơ bản của học thuyết của Thomas R.Malthus được trình bày trong cuốn sách “Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó đến nâng cao đời sống xã hội” (1798). Theo Malthus, dân số thế giới cứ 25 năm lại tăng gấp đôi và tăng lên như vậy từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, theo cấp số nhân : 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256. Trong khi đó, dựa vào quy luật. “Độ màu mỡ của đất đai giảm dần” ông cho rằng của cải vật chất chỉ tăng theo cấp số cộng: 1, 2, 3, 4, 5, 6,7, 8,9... Vì thế nếu một quốc gia có 50 triệu dân và hiện có đủ lương thực cho 50 triệu dân này, sau 25 năm nữa sẽ có 100 triệu dân và vẫn có thể có đủ lương thực cho 100 triệu dân. Nhưng sau 50 năm nữa, dân số sẽ là 200 triệu người và sản xuất lương thực chỉ có thể tăng đủ cung cấp cho 150 triệu người mà thôi. Sau hai thế kỷ, dân số sẽ lớn hơn gần 30 lần khả năng cung cấp lương thực thực phẩm; Sau ba thế kỷ, mối tương quan này là 315 lần và sau hai ngàn năm, sự chênh lệch này là vô cùng lớn, không thể tính được. Theo cách tính toán và lập luận của Malthus như vậy, nạn thừa nhân khẩu, đói nghèo, dịch bệnh và chiến tranh là các hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Mô hình của học thuyết Malthus rất đơn giản và phản ánh đặc điểm của quy luật dân số nhưng sự suy luận của ông chưa đúng với thực tế. Học thuyết này chưa tính đến khả năng phát triển của khoa học kỹ thuật và quan niệm về gia đình hiện đại. 36 Malthus đã cho rằng dân số cứ tăng lên mãi theo khả năng sinh sản tự nhiên mà không quan tâm đến một thực tế là mức sinh chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đương thời, của những quan điểm xã hội và nhu cầu cá nhân của từng kiểu gia đình. Malthus đã cắt nghĩa không chính xác các hậu quả xã hội của biến động dân số và đề ra phương pháp giải quyết không đúng. Thực tế, các yếu tố kinh tế - xã hội hoàn toàn có khả năng tác động vào hiện tượng tái sản xuất dân số (mức sinh, mức chết) để tạo ra sự tăng dân số hợp lý. Mặc dù học thuyết Malthus không được sự ủng hộ hồi thế kỷ 19, nhưng trong những năm gần đây người ta lại quan tâm trở lại học thuyết này do sự tăng trưởng dân số nhanh ở các nước đang phát triển, sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên, xuống cấp môi trường và mối quan tâm đến nguồn cung cấp lương thực 2.2.2.2. Học thuyết về quá độ dân số Học thuyết quá độ dân số xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng dân số. Thực tế ở các nước phát triển cho thấy các nước này đã trải qua các giai đoạn diễn biến dân số như sau : Giai đoạn 1 : Thời kỳ trước cách mạng công nghiệp. Trong thời kỳ này tỷ suất sinh và tỷ suất chết của dân số đều khá cao (khoảng 50 phần nghìn) với mức sinh cao hơn chút ít so với mức chết. vì vậy dân số tăng rất chậm, thậm chí ổn định. Giai đoạn 2: Thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cùng với những tiến bộ trong công nghiệp, mức sống vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phương pháp y tế cộng đồng đã được nâng cao, nhờ đó tỷ lệ tử vong giảm rõ rệt, tuổi thọ trung bình tăng dần từ 40 lên 60 tuổi. Trong khi đó, tỷ lệ sinh lại không thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước. Kết quả là dân số trong giai đoạn này tăng lên một cách nhanh chóng và đôi khi được gọi là “bùng nổ dân số”. Giai đoạn 3: Tác động của công nghiệp hoá tới các điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến những thay đổi làm tăng tuổi thọ trung bình của con người đồng thời lại làm cho mức sinh giảm dần. Đến cuối giai đoạn này, mức sinh và mức chết đều thấp và cân bằng ở mức khoảng 10 phần nghìn, dân số ổn định. Nguyên nhân chủ yếu là lúc này đời sống cao, chăm sóc y tế tốt, phụ nữ tham gia lao động sản xuất và các công tác xã hội khác nên số chị em lấy chồng muộn chiếm tỷ lệ cao; bản thân các gia đình cũng có ý thức sinh ít con để bố mẹ ít phải đầu tư thời gian và tăng dần đầu tư vật chất, tinh thần cho con (chuyển từ nhu cầu “số lượng” sang “chất lượng” đối với con cái) Như vậy dân số các nước phát triển đã đi từ trạng thái cân bằng lãng phí (sinh nhiều, chết nhiều) sang trạng thái cân bằng tiết kiệm hơn (sinh ít, chết ít). Giữa hai trạng thái này là một thời kỳ kéo dài khoảng 150 năm ở Châu âu. Thuyết quá độ dân số rất hữu ích trong nghiên cứu đối với các nước đang phát triển; mặc dù tuân theo sơ đồ tổng quát của quá độ dân số nhưng thực tế cho thấy biến đổi mức sinh và mức chết ở 37 các nước nghèo diễn ra nhanh hơn, quá độ dân số rút ngắn lại, động lực và các hậu quả của quá độ dân số cũng có nhiều điểm khác nhau với quá độ dân số ở Châu âu Câu hỏi đặt ra là liệu các quốc gia nghèo có tự động chuyển đổi sang giai đoạn 3 khi mà mức sống của các quốc gia này tăng lên và liệu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có phải là giải pháp khả thi cho vấn đề dân số không đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn về nguyên nhân của những thay đổi trong thời kỳ này. Đồ thị 2.1. Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh và chết hàng năm với thời gian 2.2.2.3. Học thuyết kinh tê vi mô về mức sinh Trong các phân tích mức sinh dựa vào các lý thuyết kinh tế vi mô, trẻ em được nhìn nhận như những hàng hoá mang lại độ thoả dụng cho người tiêu dùng trong một thời gian dài. Theo lý thuyết hành vi người tiêu dùng, các cá nhân (trong trường hợp này là các ông bố, bà mẹ) với mức thu nhập nhất định sẽ cố gắng tối đa hoá mức thoả dụng của mình thông qua việc lựa chọn tiêu dùng các hàng hoá hàng ngày, các hình thức dịch vụ, nghỉ ngơi, du lịch. . . và lựa chọn việc cần sinh bao nhiêu con để có thể đảm bảo điều kiện thu nhập, lao động cũng như các nhu cầu học hành, chăm sóc sức khoẻ, chăm lo đời sống tinh thần cho con cái. Sự lựa chọn của họ chịu ảnh hưởng của thu nhập và giá cả của các loại hàng hoá. Giá cả của con cái chính là các chi phí kinh tế cho trẻ em, bao gồm chi phí tài chính (thức ăn, quần áo, nhà ở, học hành, thuốc men . . . ) và chi phí cơ hội (chi phí hay thu nhập mà cha mẹ mất đi như nghỉ việc hoặc từ bỏ cơ hội tham gia các hoạt động xã hội khác để nuôi con... ). Ở các nước phát triển, chi phí kinh tế cho trẻ em khá cao; đặc biệt, sự gia tăng mức độ tham gia của phụ nữ vào lao động và tiền lương cao hơn trên thị trường đã làm tăng thêm chi phí cơ hội của trẻ em. Mặt khác, khi thu nhập tăng, các ông bố bà mẹ muốn con cái họ được chăm sóc, học hành tốt hơn, tức là họ thích mặt "chất lượng" hơn là "số lượng". Sự lựa chọn số con mong muốn, mặt khác, còn phụ thuộc vào những lợi ích kinh 38 tế mà cha mẹ hy vọng nhận được từ con cái trong tương lai. Trong xã hội phát triển, con cái ít có thời gian để chăm sóc trợ giúp bố mẹ hơn, đồng thời các khoản lương hưu và trợ cấp xã hội được đảm bảo khiến cho cha mẹ già không bị lệ thuộc vào sự phụng dưỡng của con cái nữa. Như vậy, với các nước phát triển, trẻ em không phải là một lĩnh vực đầu tư tốt vì chi phí thì cao mà lợi ích kinh tế lại thấp. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, chi phí cho trẻ em thấp hơn nhiều, đặc biệt là ở vùng nông thôn và những nơi trẻ em không đi học, phụ nữ ít tham gia lao động xã hội. ở những nơi này, lợi ích từ con cái lại tương đối lớn vì ngay từ lúc còn ít tuổi trẻ em đã có thể lao động để đóng góp thu nhập của gia đình; khi cha mẹ già, con cái có thể trợ giúp về kinh tế và chăm sóc lúc đau ốm. Do đó khi kinh tế - xã hội chưa phát triển thì mức sinh cao, hiện tượng "con đàn cháu đống" là điều dễ thấy. Sự phân tích hành vi sinh đẻ được thể hiện trong mô hình cung - cầu cơ bản như sau : Đồ thị 2.2 : Cầu về số con trong gia đình MCI: Chi phí cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội chưa phát triển MC2: Chi phí cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội phát triển D1 = MBI: Cầu = Lợi ích cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội chưa phát triển. D2 = MB2: Cầu = Lợi ích cận biên của con cái khi kinh tế - xã hội phát triển. Tóm lại, mối quan hệ giữa phát triển và hành vi sinh con là quan hệ hai chiều. Tỷ lệ sinh giảm xuống là do các yếu tố cơ bản sau: - Phụ nữ có trình độ ngày một cao, có việc làm và thu nhập ổn định, có vị trí xã hội. 39 - Thu nhập của các gia đình tăng, nhu cầu nuôi dưỡng và chăm sóc con cái cao hơn. - Hệ thống chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ xã hội tốt, các quan hệ xã hội tạo cuộc sống tinh thần thoải mái. 2.2.3. Phát triển kinh tế, dân số và tài nguyên môi trường Dân số có mối quan hệ trực tiếp đến môi trường thông qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và phát thải vào môi trường. Tác động đến tài nguyên và môi trường (gọi tắt là tác động môi trường) của dân số đã được Phút Ehrlich và Jonh Holdren đề cập năm 1971 dưới dạng một đồng nhất thức như sau : Trong đó: I : Tác động môi trường của dân số và các yếu tố liên quan đến dân số P : Quy mô dân số F : Mức độ tác động môi trường tính bình quanh theo đầu người Mức độ tác động môi trường bình quân đầu người lại là một hàm số được xác định bởi một loạt biến số. Trong đó : c: mức tiêu dùng bình quân đầu người t: Tác động môi trường của công nghệ tính trên một đơn vị tài nguyên được sử dụng g: Lượng tài nguyên được sử dụng Đồng nhất thức ( 1 ) cũng có thể được biểu diễn dưới một dạng khác là : Trong đó: A : Mức độ sử dụng tài nguyên bình quân đầu người T : Tác động môi trường của việc sử dụng tài nguyên (hay là tác động của công nghệ) Rõ ràng, tổng tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc vào tổng số dân P và các biến số liên quan đến mức tác động bình quân đầu người. Mô hình này cho thấy không thể có sự tiếp tục gia tăng dân số nào lại không gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến hành tinh của chúng ta, bởi lẽ xu hướng tự nhiên của con người là luôn muốn được hưởng thụ nhiều hơn, tức là tiêu thụ bình quân đầu người sẽ tăng và vì thế tác động của công nghệ thông qua việc khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên 40 cũng không thể giảm đáng kể. Như Ehrlich đã phát biểu sau đây vào năm " ..Không thể có sự phát triển bền vững nếu không 'có những hạn chế đối với tốc độ gia tăng dâ~số...". Thậm chí ngay cả khi nuôi người đơn giản như sản xuất gà hàng loạt thì cũng vẫn cần một nguồn năng lượng và vật chất tối thiểu cho mỗi người (A) và định luật thứ hai của nhiệt động học cũng đã chỉ rõ mức giới hạn của hiệu suất sử dụng (T) đối với các nguồn năng lượng vật chất đó. Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở khía cạnh: - Sức ép lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm. sản xuất công nghiệp. . . - Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. - Sự chênh lệch ngày càng gia tăng về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển, dẫn đến tình trạng ô nhiễm do nghèo đói ở các nước đang phát triển và ô nhiễm do tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển và đang phát triển là một trong những nguyên nhân của sự di dân dưới mọi hình thức . - Sự gia tăng dân số đô thị, hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị gây ra tình trạng quá tải, làm cho môi trường nhiều khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường không khí. nước, chất thải rắn tăng lên; các tệ nạn xã hội gia tăng và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn. Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, dân số thế giới tăng nhanh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nếu năm 1930, dân số thế giới chỉ có 2 tỷ người thì đến nay đã đạt mức trên 6 tỷ người và có thể đạt 10 tỷ người vào năm 2050. Do dân số tăng nhanh, để duy trì sự sống và phát triển nền sản xuất, con người đã khai thác một cách không thương tiếc nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và trở thành thủ phạm của sự tàn phá và làm ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái. 41 Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân phải tăng 3 - 4% để đảm bảo ổn định mức sống. Mà nếu tăng 5% thu nhập quốc dân hàng năm thì trong vòng 10 -15 năm lượng sử dụng tài nguyên thiên nhiên sẽ tăng gấp đôi. Trong vòng một thế kỷ qua, con người đã khai thác từ lòng đất 130 tỷ tấn khí đốt, tàn phá hàng loạt cánh rừng - những "lá phổi xanh của hành tinh". Việc khai thác, chế biến các nguyên liệu thải ra nhiều khói bụi, khí SO2, NOX... gây mưa axit hại mùa màng, gây ra các biến đổi môi trường và bệnh tật cho con người. Tổng lượng các chất gây ô nhiễm trong năm 1970 là 19 tỷ tấn, đến nay đã tăng lên 40 tỷ tấn. Tài nguyên rừng của thế giới cũng bị suy giản nghiêm trọng do nhu cầu về gỗ củi, các loại đặc sản, dược liệu... tăng lên, đồng thời diện tích rừng còn bị tàn phá để lấy đất trồng trọt và chăn thả gia súc; nạn cháy rừng cũng trở lên trầm trọng ở nhiều nơi trên thế giới. Suy giảm diện tích rừng lại dẫn đến những sức ép lớn đối với đất: Xói mòn, rửa trôi, bạc màu,nhiễm mặn đất; hạn hán, lũ lụt cũng gia tăng; các loại động thực vật hoang dã mất nơi cư trú nên suy giảm cả về chủng loại và số lượng... Lượng nước thải do sinh hoạt và sản xuất nông, công nghiệp cũng gia tăng cùng với quá trình tăng dân số và gây ra hậu quả là gần 50% dân số thế giới không được đáp ứng nhu cầu về nước sạch. Mặc dù lập luận của Ehrlich chủ yếu tập trung vào sự cần thiết hạn chế mức tăng dân số, đồng nhất thức I = PAT cũng được sử dụng để giải thích cho sự cần thiết hạn chế tiêu dùng và tác động của công nghệ. Thực tế cho thấy các nước nghèo với tốc độ tăng dân số nhanh có thể gây ra ít ảnh hưởng xấu đến môi trường hơn so với các nước giàu có mức tiêu dùng cao hơn và công nghệ huỷ diệt hơn. Như vậy, một trong những giá trị cơ bản của mô hình I =PAT là nó đã chỉ rõ dân số không phải là yếu tố duy nhất sản sinh ra tác động môi trường. Sản xuất và tiêu dùng cũng là 2 yếu tố chẳng kém 42 phần quan trọng. Điều này trong cuốn Cứu lấy trái đất của IUCN ( 1991 ) có viết : "Trái đất có giới hạn của nó. Để sống trong sự giới hạn đó, cần thực hiện hai việc: Chấm dứt việc gia tăng dân số và các nước giàu phải ổn định việc tiêu dùng tài nguyên của họ". 2.2.4. Các chính sách nhằm đảm bảo cân đối giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường Dân số - Phát triển và tài nguyên môi trường ngày càng được nhìn nhận như là một hệ thống có quan hệ hữu cơ trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cũng như của toàn cầu. Mục tiêu có một cuộc sống tết hơn, với mức sống, điều kiện học hành, chăm sóc sức khoẻ và cơ hội kinh tế cao hơn không chỉ được đặt ra cho các thế hệ hiện tại mà còn cho cả các thế hệ trong tương lai. Mục tiêu phát triển bền vững ấy cần được thực hiện thông qua sự kết hợp của các chính sách. 2.2.4.1. Chính sách nhằm đạt được tỷ lệ gia tăng dân số hợp lý Trước tình hình gia tăng dân số hiện nay, con người đang bị đe doạ bởi 3 nạn đói: đói ăn, đói học và đói việc làm. Dân số tăng nhanh làm cho khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Năm 1991 chỉ có 20% số người giàu nhất nhưng chiếm tới 85% thu nhập của toàn thế giới trong khi ngược lại, 20% số người nghèo nhất chỉ đạt được 1,4% tổng thu nhập của toàn thế giới. Hiện tượng nghèo đói khá phổ biến ở các nước đang phát triển cùng với tốc độ tăng dân số nhanh ở các nước này là nguyên nhân dẫn đến tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên cao (nhất là các tài nguyên hệ nuôi dưỡng), làm cho tài nguyên bị cạn kiệt, suy thoái, giảm đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, các nước đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá sử dụng một khối lượng lớn tài nguyên để thoả mãn nhu cầu đời sống cho số dân đông lại phát thải vào môi trường một lượng chất thải lớn hơn bao giờ hết. Hướng đi tới của thế kỷ 2 1 là phải giảm tỷ lệ tăng dân số để có thể thực hiện mối quan hệ: Cứ tăng 1% dân số, cần tăng 3 - 4% thu nhập quốc dân nhằm bảo đảm và nâng cao mức sống của cộng đồng xã hội, đồng thời bảo đảm sự phát triển không vượt quá giới hạn chịu đựng của các hệ sinh thái. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng dân số phù hợp cần được xác định cụ thể căn cứ vào khả năng phát triển lực lượng sản xuất, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, mỗi khu vực. Với những nước công nghiệp phát triển, trình độ lực lượng sản xuất cao, số lượng máy móc sử dụng trong sản xuất chiếm tỷ lệ lớn và ngày một hiện đại, năng suất lao động hàng năm tăng không đáng kể, thậm chí ổn định. Với những nước này, chỉ cần tăng dân số 0,3 - 0,5% là đủ thoả mãn nguồn lao động. Nhưng ở các nước đang phát triển, sử dụng lao động của con người (bao gồm cả lao động chân tay) chiếm tỷ lệ lớn, năng suất lao động thấp nên nhu cầu về số lượng 43 lao động cao. Ngoài ra, trong thời gian tới, nhu cầu phát triển các ngành dịch vụ du lịch, y tế, giáo dục, giao thông... sẽ đòi hỏi gia tăng lực lượng lao động cả về số lượng lao động cả về chất lượng. Trong một vài thập kỷ tới, .các nước đang phát triển cần tỷ lệ tăng dân số ở mức trên dưới 1%, thậm chí l,5%lnăm. Tuy nhiên, do tỷ lệ gia tăng dân số ở các nước đang phát triển hiện nay nói chung khá cao nên việc đạt được mục tiêu tăng dân số ở mức 1- 1,5% đòi hỏi các nước này phải có chiến lược và chính sách thích hợp để kiểm soát dân số. Có thể sử dụng chính sách có các biện pháp tác động trực tiếp tới biến động dân số, ví dụ như chính sách sinh 1 con ở Trung Quốc, cung cấp các biện pháp và dịch vụ đầy đủ cho kế hoạch hoá gia đình... Hướng tiếp cận kinh tế trong việc kiểm soát dân số là các biện pháp chính sách nhằm gián tiếp làm giảm mức sinh, giảm quy mô gia đình. Nó được thực hiện thông qua việc xác lập các nhân tố có thể tác động đến quy mô của giả đình, để tiến hành thay đổi các nhân tố đó. Để có thể sử dụng hướng tiếp cận này, chúng ta phải biết được quyết định về mức sinh bị tác động như thế nào bồi hoàn cảnh kinh tế của các gia đình. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống và các cơ hội học hành, việc làm, chăm sóc sức khoẻ của con người, đặc biệt là tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ... được coi là những biện pháp chính sách dân số gián tiếp. 2.2.4.2. Chính sách phân bố lại dân cư và sử dụng hợp lý lao động Vì những lý do lịch sử, tình hình chung của nhiều quốc gia trên thế giới là dân cư phân bố không đều, không hợp lý. Phần lớn dân cư thế giới tập trung ở một số vùng đồng bằng, ven biển. Các đồng bằng lớn trên thế giới như Hoàng Hà, Dương Tử, Cửu Long, Hồng Hà, Nhe... đều là những vùng đồng bằng tập trung đông dân cư của các nước. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã sang giai đoạn công nghiệp hoá nên việc hình thành các khu công nghiệp, các vùng kinh tế mới để khai thác tài nguyên khoáng sản, nhiên liệu và các tài nguyên khác ngoài đất và nước đã trở thành nhu cầu mới của nhiều nước. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách di dân để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Để tạo được sức hút đối với việc điều dân từ vùng đông dân đến vùng ít dân, cần phải tổ chức tết sản xuất và có chính sách giữ dân ở những vùng tiếp nhận dân cư Khả năng giữ dân tết nhất là tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ, thuận lợi, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống cho người dân, làm cho người nhập cư sớm thấy hoà mình vào cộng đồng mới. Việc di dân cũng cần đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa số dân tăng cơ học và khả năng về tài nguyên, môi trường của vùng tiếp nhận, cần chuẩn bị "sức chứa" cho vùng tiếp nhận dân cư một cách toàn diện. Do đó cần có một hệ thống chính sách phù hợp như quy định về sử dụng tài nguyên, về xây dựng nhà ở, hình thành khu dân cư mới, xây dựng hoặc bổ sung trường 44 học, bệnh viện, các hệ thống dịch vụ khác như điện, nước, ngân hàng, giao thông vận tải và thông tin. Hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị cũng cần được quan tâm đúng mức và có chính sách để làm giảm áp lực cho quá trình đô thị hoá. Hệ thông đô thị của các nước đang phát triển hiện nay đều bị sức ép của 3 vấn đề cơ bản là nhà ở, giao thông và thu gom, xử lý chất thải. ở một số nước, để giải quyết sức ép này, người ta đã xây dựng thành phố vệ tinh, các khu công nghiệp ngoại đô, mở rộng đô thị, dùng chính sách dãn dân ở vùng trung tâm đô thị và hạn chế nhập cư vào thành phố với những tiêu chuẩn cao. Đi đôi với chính sách phân bố lại dân cư cần có một hệ thống chính sách sử dụng nguồn lao động một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao như các chính sách về giáo dục, đào tạo ưu đãi ngành nghề phát triển việc làm... 2.2.4.3. Lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược và kế hoạch phát triển của quốc gia cũng như của các địa phương Lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược và kế hoạch phát triển là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt được mục tiêu giảm mức sinh, giảm quy mô gia đình, nâng cao chất lượng dân số; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Thực tế của nhiều nước trên thế giới và của Việt Nam đã cho thấy, giải quyết vấn đề dân số sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém cả về thời gian, công sức nếu không kết hợp với các vấn đề môi trường và phát triển, giảm nghèo đói và tạo cơ hội cho phát triển, nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo, dạy nghề và phân công lao động, cải thiện vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đầu tư hợp lý cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa... Việc thực hiện các chương trình lồng ghép được coi là cách thức tết nhất để đạt được các hiệu quả tổng hợp về hạn chế tỷ lệ gia tăng dân số, làm cho vấn đề dân số hài hoà với phát triển bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường. 2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC SỬ DỤNG ĐẤT VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CUA NÓ Sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người với đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng hợp lý nhất tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất đai nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào các thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với ý nghĩa là nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện theo 4 mặt sau: 45 - Sử dụng đất hợp lý về không gian, đó là hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất - Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, chính là cơ cấu kinh tế sử dụng đất. Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, đó là quy mô kinh tế sử dụng đất. - Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, chính là việc sử dụng đất một cách kinh tế, tập trung, thâm canh. 2.3.1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng đất Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất. . . một mặt bị sự chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật Vì vậy, có thể khái quát những điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất theo 3 nội dung sau đây: 2.3.1.1. Nhân tố điều kiện tự nhiên Khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian (như diện tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng . . . ), cần chú ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất (như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản trong lòng đất). Trong nhân tố điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu là nhân tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và các nhân tố khác - Điều kiện khí hậu Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều ít, nhiệt độ bình quân thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian, sự sai khác giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp, thời gian không có sương dài hoặc ngắn... trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát dục của cây trồng, cây rừng và thực vật thuỷ sinh... Cường độ của ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn cũng có tác dụng ức chế đối với sinh trưởng, phát dục và tác dụng quang hợp của cây trồng. Chế độ nước vừa là điều kiện quan trọng để cây trồng vận chuyển dinh dưỡng, vừa là vật chất giúp cho sinh vật sinh trưởng và phát triển. Lượng mưa nhiều hay ít bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, cây rừng, gia súc và thuỷ sản. . . - Điều kiện đất đai ( địa hình và thổ nhưỡng) Sự sai khác giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn. . . thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông - lâm 46 nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đối với đất phi nông nghiệp, địa hình phức tạp sẽ ảnh hưởng tới giá trị công trình và gây khó khăn cho thi công, điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì của đất có ảnh hưởng lớn đối với sinh trưởng của cây trồng. Đặc thù của nhân tố điều kiện tự nhiên mang tính khu vực. Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất đai. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu ích cao nhất về xã hội, môi trường và kinh tế. Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều địa phương sử dụng đất chưa hợp lý, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, một số địa phương đã sử dụng đất nông nghiệp để phát triển, mở rộng các khu công nghiệp, khu kinh tế, xây dựng và phát triển đô thị một cách tràn lan, thiếu tính toán, nhiều nơi dành đất rồi để đấy không sử dụng, gây lãng phí đất canh tác, phá hoại môi trường . . . 2.3.1.2. Nhân tô kinh tế - xã hội Bao gồm các yếu tố như chế độ, dân số và lao động, thông tin và quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng, sức san xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bố sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất... Nhân tố kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai. Thực vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất. Còn sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật hiện có, quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và mức độ đáp ứng của chúng... quyết định bởi nhu cầu của thị trường. Trong một vùng hoặc trên phạm vi một nước, điều kiện vật chất tự nhiên của đất đai thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất đai được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời đã đem lại những hiệu quả kinh tế - xã hội rất cao, có nơi thì bỏ hoang hoá hoặc khai thác với hiệu quả rất thấp... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất đai chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất đai quyết định vẫn do con người. Cho dù điều kiện tự nhiên có nhiều lợi thế, nhưng các điều kiện xã hội, kinh tế, kỹ thuật không tương ứng thì ưu thế tài nguyên cũng khó có thể trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng như chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại khi điều kiện kinh tế, kỹ thuật được ứng dụng vào khai thác và sử dụng đất sẽ phát huy mạnh mẽ 47 tiềm lực sản xuất của đất, đồng thời góp phần cải tạo điều kiện môi trường tự nhiên, biến điều kiện tự nhiên từ bất lợi thành điều kiện có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ kinh tế - xã hội khác nhau sẽ tác động đến việc quản lý của xã hội về sử dụng đất đai, khống chế phương thức và hiệu quả sử dụng đất. Trình độ phát triển xã hội và kinh tế khác nhau sẽ dẫn đến trình độ sử dụng đất khác nhau. Nền kinh tế và các ngành càng phát triển, yêu cầu về đất đai sẽ càng lớn, lực lượng vật chất dành cho việc sử dụng đất càng được tăng cường, năng lực sử dụng đất của con người sẽ được nâng cao. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đến việc sử dụng đất được đánh giá bằng hiệu quả sử dụng đất. Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi ích kinh tế của người sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất đai. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất được dùng cho xây dựng cơ sở hạ tầng đều dựa trên nguyên tắc hạch toán kinh tế, thông qua việc tính toán hiệu quả kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, nếu có chính sách ưu đãi sẽ tạo điều kiện cải thiện và hạn chế việc sử dụng theo kiểu bóc lột đất đai. Mặt khác, sự quan tâm quá mức đến lợi nhuận tối đa cũng dẫn đến tình trạng đất đai được sử dụng không hợp lý, thậm chí huỷ hoại đất đai. Ví dụ, việc gia tăng đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp là một trong những chỉ tiêu đánh giá tiến bộ, phồn vinh của xã hội, có thể đem lại lợi ích rất lớn cho những người kinh doanh bất động sản, chủ đất, các nhà công nghiệp, chủ doanh nghiệp... Nhưng sự phân bố đất đai không hợp lý, thiếu lý trí, không chú ý đến việc xử lý nước thải, khí thải và chất thải đô thị, công nghiệp sẽ làm mất đi vĩnh viễn diện tích lớn đất canh tác, cùng với việc gây ô nhiễm đất đai, nguồn nước, báu khí quyển, huỷ hoại chất lượng môi trường cũng như hậu quả khôn lường khác. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, các nhân tố điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên, mỗi nhân tố giữ vị trí và có tác động khác nhau. Trong đó, điều kiện tự nhiên là yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc nhất đối với sản xuất nông nghiệp. Điều kiện kinh tế sẽ kiềm chế tác dụng của con người trong việc sử dụng đất. Điều kiện xã hội tạo ra những khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự nhiên tác động đến việc sử dụng đất. Vì vậy, cần phải dựa vào quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên, kinh tế trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng đất kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng với ưu thế tài nguyên của đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững. 2.3.1.3. Nhân tố khônggian Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất (như các ngành nông 48 nghiệp, công nghiệp, khai thác, xây dựng, mọi hoạt động kinh tế và hoạt động xã hộp đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự nhiên ban phát cho xã hội loài người. Vì vậy, không gian trở thành một trong những nhân tố hạn chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất. Không gian mà đất đai cung cấp có đặc tính vĩnh cửu, cố định vị trí khi sử dụng và số lượng không thể vượt phạm vi quy mô hiện có. Do vị trí và không gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải nhân khẩu và số lượng người lao động, có ý nghĩa tác dụng hạn chế của không gian đất đai sẽ thường xuyên khi dân số và kinh tế - xã hội luôn phát triển. Sự bất biến của tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn cứ vào sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo nâng cao lực tải của đất đai. Khả năng không chuyển ích của đất đai dẫn đến việc phân bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư sẽ có sự khác biệt rất rõ rệt. Tài nguyên đất đai có hạn, lại giới hạn về không gian. Đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường. Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng công trình, nhà xưởng, giao thông . . . . mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và đem lại giá trị kinh tế. 2.3.2. Xu thế phát triển về sử dụng dết 2.3.2.1 . Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung Lịch sử phát triển xã hội loài người cũng chính là lịch sử biến đổi của quá trình sử dụng đất. Khi con người còn sống bằng phương pháp săn bắn và hái lượm, chủ yếu dựa vào sự ban phát của tự nhiên và thích ứng với tự nhiên để tồn tại, vấn đề sử dụng đất hầu như không tồn tại. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có nước và đồng cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ sản xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử dụng và ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng. Tuy nhiên, trình độ sử dụng đất vẫn còn rất thấp, phạm vi sử dụng cũng rất hạn chế, mang tính kinh doanh thô, đất đai khá nhiều nhưng thu nhập rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển của kinh tế, kỹ thuật, văn hoá và khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao, yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cao, các ngành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng 49 dần, phạm vi sử dụng đất ngày càng mở rộng (từ cục bộ một vùng đã phát triển trên phạm vi cả thế giới, thậm chí cả những vùng đất trước đây không thể sử dụng được). Cùng với việc phát triển sử dụng đất theo không gian, trình độ tập trung cũng sâu hơn nhiều. Đất canh tác cũng như đất sử dụng theo các mục đích khác đều được phát triển theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích đất ít nhưng hiệu quả sử dụng cao. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ chuyển từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh thâm canh cao trong sử dụng đất là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Để nâng cao sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích, đòi hỏi phải liên tục nâng mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công tác quản lý. ở những khu vực khác nhau của một vùng hoặc một quốc gia đều có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật cũng như các điều kiện đặc thù, do đó phải áp dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức tuỳ từng thời điểm khác nhau. 2.3.2.2. Cơ cấu sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp hoá và chuyên môn hoá. Khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, sử dụng đất đai từ hình thức quảng canh chuyển sang thâm canh đã kéo theo xu thế từng bước phức tạp hoá và chuyên môn hoá cơ cấu sử dụng đất. Thực tế cho thấy, khi kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với đất đai. ở thời kỳ mức sống còn thấp việc sử dụng đất còn yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp, nhằm giải quyết các vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn áo mặc và chỗ ở. Khi đời sống đã nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, sử dụng đất ngoài việc sản xuất vật chất phải thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hoá, thể thao và môi trường trong sạch... đã làm cho cơ cấu sử dụng đất cũng phức tạp hơn Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép tăng khả năng mở rộng kiểm soát tự nhiên của con người, áp dụng các biện pháp bồi dưỡng và cải tạo để nâng cao sức sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Trước đây việc sử dụng đất rất hạn chế do kinh tế và khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt của đất đai, nông nghiệp thì độc canh, đất lâm nghiệp, đồng cỏ, mặt nước ít được khai thác, khai thác khoáng sản còn rất hạn chế, xây dựng chủ yếu là chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển... đã làm cho nội dung sử dụng đất ngày càng phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ con người. Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân và phát triển nền kinh tế hàng hoá dẫn đến sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hoá. Do đất đai có đặc tính khu vực rất mạnh, sự khai thác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt, phương hướng và biện pháp sử dụng đất 50 ở các vùng cũng rất khác nhau. Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt được sản lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất cần có sự phân công và chuyên môn hóa theo khu vực. Cùng với việc đầu tư, trang bị và ứng dụng các công cụ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nảy sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hoá sử dụng đất khác nhau về hình thức và quy mô. 2.3.2.3. Sử dụng đất đai phát triển theo hướng xã hội và công hữu hoá Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và xã hội dẫn tới việc xã hội hoá sản xuất. Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một loại sản phẩm và hỗ trợ bổ sung lẫn nhau đã hình thành nên sự phân công hợp tác mang tính xã hội hoá sản xuất cũng như xã hội hoá sử dụng đất đai. Đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn tại. Vì vậy việc chuyên môn hoá theo yêu cầu xã hội hoá sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội. Ngay cả ở chế độ xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân, những vùng đất đai hướng sử dụng cộng đồng như : nguồn nước, núi rừng, khoáng sản, sông ngòi, mặt hồ, biển cả cầu cảng, hải cảng, danh lam thắng cảnh, động thực vật quý hiếm... vẫn có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến hành công quản, kinh doanh... của Nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.xã hội hoá sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, xã hội hoá sử dụng đất và công hữu hoá là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hoá sản xuất cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hoá và công hữu hoá sử dụng đất. 2.4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC HIỆN NAY TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN ĐẤT Ở VIỆT NAM Mặc dù đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế trong 15 năm qua, nghèo đói vẫn đang còn là một vấn đề lớn đối với một bộ phận lớn dân cư sống trong các vùng nông thôn Việt Nam. Trong khi một phần ba dân số đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo trong thập kỷ qua và tốc độ phát triển kinh tế đang tăng một cách vững chắc thì các dữ liệu hiện có cho thấy khoảng cách giữa giàu và nghèo đang có xu hướng gia tăng. Đặc biệt tỷ lệ nghèo đói trong các cộng đồng dân tộc thiểu số đang ngày một gia tăng, từ 20% năm 1993 đến hơn 30% trong năm 2002. Năm 2002, Việt Nam đã xác nhận cam kết của mình trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo bằng Chiến lược toàn diện về xoá đói giảm nghèo. Chiến lược này đã nhìn nhận xoá đói giảm nghèo như là một nhân tố cơ bản của tăng trưởng bền vững kinh tế. Tuy nhiên, những người dân hiện đang sống trong đói nghèo vẫn còn chưa thực sự được hưởng lợi ích một cách đầy đủ từ các chương trình xoá đói giảm nghèo. Một trong những lĩnh vực cần quan tâm ở đây là quản lý và sử dụng đất đai. Đói nghèo dai dẳng 51 trong các cộng đồng nông thôn nghèo, bao gồm cả người dân tộc thiểu số, có liên quan một cách sâu sắc với các vấn đề về quản lý và sử dụng tài nguyên đất, đặc biệt là đất nông nghiệp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1988 Chính phủ Việt Nam đã tiến hành giao khoán đất nông nghiệp từ quản lý tập thể sang cho các hộ nông dân. Đây là một phần của chính sách đổi mới mà trọng tâm là chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Việc giao khoán đất nông nghiệp được tiến hành trong nhiều năm tiếp theo tại các vùng khác nhau trên cơ sở điều kiện của mỗi địa phương. Người nông dân được giao đất sử dụng ổn định, phân chia sản phẩm rõ ràng nên đã phát huy hết các khả năng của mình. Tuy nhiên đất đai chưa được giao lâu dài và các quyền của đất đai chưa được pháp luật thừa nhận. Luật đất đai năm 1993 đã tiến lên thêm một bước bằng cách giao đất lâu dài, sử dụng ổn định với 5 quyền sử dụng đất được pháp luật công nhận, bao gồm: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình. Mặc dù không tương đương với quyền sở hữu tư nhân, song các quyền sử dụng đất đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình trong quá trình sử dụng và thực hiện các giao dịch đất đai. Nhìn chung, quá trình giao đất là hợp lý, phù hợp với nguyện vọng của đại đa số người dân, đảm bảo công bằng xã hội và không gây xáo trộn đến sản xuất. Song trên thực tế điều này lại nảy sinh một số vấn đề mới có tác động đến đời sống người dân, đặc biệt là người nghèo ở vùng nông thôn và sinh kế chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp. Trong bối cảnh và điều kiện kinh tế xã hội mới của đất nước trong những năm gần đây, chính sách quản lý và sử dụng đất đai một lần nữa cần phải được sửa đổi theo hướng mang lại nhiều quyền lợi và lợi ích hơn nữa cho người dân cũng như củng cố lại hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai. Ngày 26 tháng 11 năm 2003 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đất đai năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2004. Đến nay, Luật đã có hiệu lực với rất nhiều văn bản dưới luật được ban hành kèm theo. 2.4.1. Kết quả tác động chính sách đất đai của Việt Nam Chính sách đất đai của Việt Nam đã góp phần tích cực giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong nông thôn, giải phóng nông dân khỏi ách bóc lột và chia ruộng đất cho dân cày là thắng lợi đầu tiên của công cuộc cải cách ruộng đất ở nước ta. Tuy đã nhiều lần thay đổi quyền sở hữu (trước cải cách ruộng đất đất thuộc sở hữu của giai cấp bóc lột là chủ yếu; sau cải cách ruộng đất đất thuộc về nông dân lao động; thời kỳ hợp tác hoá đất thuộc về kinh tế tập thể; năm 1980 Hiến pháp của Nhà nước quy định đất thuộc sở hữu toàn dân; khi thực hiện "khoán l0" đất được tạm giao cho người lao động; từ sau Nghị định 64/CP đất được giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ và đơn vị sản xuất kinh doanh, v.v...). Đến nay quan hệ về đất đai cơ bản được giải quyết, người 52 sử dụng đất yên tâm đầu tư, từ đó nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của họ. Đây là thành công đầu tiên và rất đáng kể của chính sách đất đai ở Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đô thị hoá, phát triển nông nghiệp. Với chính sách khai khẩn đất đai mới thực hiện từ ngay những năm sau hoà bình lập lại ở miền Bắc, phát triển khá rầm rộ trong những năm 60 và đẩy mạnh xây dựng các vùng kinh tế mới trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước, diện tích đất khai hoang tăng lên nhanh chóng, nhiều cơ sở kinh tế mới được phát triển ở những vùng đất rộng người thưa. ở các vùng chủ động về thuỷ lợi, vụ đông đã trở thành vụ sản xuất chính, diện tích gieo trồng được tăng lên, góp phần tăng thu nhập đáng kể cho nông hộ với nhiều loại cây trồng mới và kỹ thuật canh tác tiến bộ. Tác dụng của vụ đông còn góp phần thúc đẩy sản xuất chăn nuôi, đẩy mạnh chế biến và sản xuất nông sản xuất khẩu, v.v... Yên tâm sản xuất trên "đất của mình", nông hộ đã tăng cường áp dụng kỹ thuật mới, trước hết là các giống cây mới có năng suất cao (lúa, ngô, rau, đậu, lạc, v v ) sau đó là chế độ canh tác tiến bộ (thuỷ lợi hoá, sử dụng các chất hoá học, cải tạo đất luân phiên cây trồng, v.v...). Kỹ thuật mới đưa vào sản xuất đã tỏ rõ tính ưu việt của nó trong việc tạo ra sức sản xuất mới, sản phẩm mới, đòi hỏi nâng cao trình độ kỹ thuật của người lao động. Chính sách đất đai cộng với các chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đã tạo nên những vùng sản xuất hàng hoá nguyên liệu tập trung tương đối lớn như vùng cà phê ở Tây Nguyên. mía ở Lam Sơn, Quảng Ngài, chè ở Thái Nguyên, Lâm Đồng, cao su ở Đông Nam Bộ, lúa gạo ở hai vùng đồng bằng lớn (sông Hồng và sông Cửu Long), trái cây ở miền Đông Nam Bộ, sản xuất hải sản ở ven biển, rau vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng v.v... và nhiều tiểu vùng tập trung khác. Thành công trong việc hình thành các vùng chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư có trọng điểm theo quy hoạch đối với nông nghiệp, góp phần tích cực chuyển biến nền kinh tế nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá chuyên môn hoá cao. Chính sách đất đai cũng tạo điều kiện phát triển đa dạng hóa, đặc biệt ở các vùng có trình độ thâm canh tương đối cao. Do vấn đề lương thực được ổn định người dân tìm đến sản xuất các mặt hàng mới cung cấp cho xã hội trên diện tích được nhận. Một xu thế mới xuất hiện trong sản xuất nông nghiệp là tính chất độc canh về sản xuất lương thực không còn nặng nề như trước nữa. Các sản phẩm mới như rau cao cấp, sản phẩm chăn nuôi, các loại đặc sản khác đã xuất hiện ở vùng nông thôn. Đa dạng hoá cho phép đáp ứng yêu cầu sản phẩm đa dạng cho xã hội, sử dụng các nguồn lực đa dạng, triệt để và có hiệu quả hơn, góp phần chuyển biến nông nghiệp từ độc canh cây lúa tự cấp tự túc sang đa dạng sản xuất hàng hoá. Từ những ảnh hưởng tích cực nói trên, chính sách đất đai đã làm cho việc sử dụng đất đai mang lại hiệu quả cao hơn, tạo ra nhiều sản phẩm hơn trên một đơn vị diện tích. Năng suất sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong những năm qua tăng 53 lên liên tục là một minh chứng về trình độ sử dụng đất ngày được nâng cao. Trong những năm gần đây chính sách đất đai đã tạo điều kiện hình thành các mô hình sản xuất mới ở các hộ làm ăn giỏi với các hướng sản xuất hấp dẫn và đặc biệt là trên 135.000 trang trại đã được hình thành. Các mô hình sản xuất mới tạo nên sự thay đổi về mục đích tổ chức sản xuất, hiệu quả kinh tế và sự nhìn nhận về sản xuất nông nghiệp, là các hạt nhân quý cho sự phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản phẩm của các mô hình sản xuất này mang sức cạnh tranh cao, là cơ sở để tiến tới hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với thị trường thế giới. Khi Luật đất đai 1993 ra đời, các hộ gia đình được giao đất theo bình quân đầu người. Tại các vùng nông thôn Bắc Bộ, tùy thuộc vào diện tích đất nông nghiệp của địa phương, mỗi khẩu được giao từ 300 dấn 700m2. với diện tích này, nhìn chung người nông dân đã đủ ăn và có một phần tích lũy. Tình hình kinh tế xã hội tại các vùng nông thôn trong giai đoạn này tương đối ổn định và có những bước phát triển quan trọng. Sau hơn 10 năm từ thời điểm giao đất, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ít là một trong những lý do khiến thu nhập từ nông nghiệp của nông dân không còn đủ để đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng. Người nông dân bù đắp phần thiếu hụt này bằng cách làm thêm nhiều nghề khác nhau. Có lẽ, hai từ "nông dân" chỉ là một nhãn hiệu, trên thực tế họ là những người làm dịch vụ nhỏ, thợ thủ công, người làm thuê hoặc làm các nghề lao động phổ thông đơn giản khác. Về phương diện chính sách, Luật đất đai 2003 ra đời với việc thừa nhận đất đai là hàng hóa đã giúp người dân trong việc khắc phục tình trạng thiếu đất trong nông nghiệp. 2.4.2. Những vấn đề nổi cộm về quan hệ đất dai ở Việt Nam Tuy chính sách đất đai có tác dụng to lớn nhưng do tính chất phức tạp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của nước ta nên nhiều vấn đề gay cấn đang được đặt ra cần quan tâm giải quyết (trong đó có những vấn đề không thể giải quyết ngày một ngày hai chỉ từ góc độ nông nghiệp), song có những vấn đề do chủ quan gây nên cần phải được điều chỉnh. Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên một người dân nông thôn hay trên một lao động nông nghiệp, một hộ nông nghiệp quá thấp. Điều này có thể giải thích là diện tích đất nông nghiệp của ta đã nhỏ, số lượng người làm nông nghiệp lại nhiều, cư dân còn tập trung đông trong nông nghiệp. Vấn đề này có tính chất lâu dài và chỉ được giải quyết trên cơ sở: - Mở rộng diện tích bằng tăng vụ và khai hoang, - Sử dụng hết và hợp lý đất nông nghiệp hiện có, - Quản lý gia tăng dân số, - Phát triển mạnh công nghiệp để rút bớt lao động và dân cư trong nông nghiệp 54 (có thể là sự thu hút của công nghiệp lớn hoặc chuyển dịch lao động tại chỗ theo hướng "ly nông bất ly hương"). Như vậy để giải quyết tình trạng này bên cạnh việc quản lý gia tăng dân số tăng cường khai hoang, tăng vụ, quản lý khai hoang theo quy hoạch, điều quan trọng vẫn là đa dạng hóa nguồn thu nhập ở nông thôn. Một khi có những nguồn thu khác, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp sẽ giảm xuống thì vấn đề đất đai sẽ bớt căng thẳng hơn. Đất nông nghiệp ngày càng giảm do sự phát triển của quá trình đô thị hoá. Đây là vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi song cần sớm thực thi các quy hoạch cho từng địa phương để ổn định diện tích đất nông nghiệp. Đây là một vấn đề mang tính báo động. Tình trạng chênh lệch về diện tích đất đai bình quân trên một đầu người giữa các hộ ngày càng rõ nét. Đây cũng là một lẽ đương nhiên vì sự biến động về nhân khẩu giữa các hộ khác nhau trong khi diện tích giao đất cho các hộ không đổi. Vấn đề này nên giải quyết như thế nào? Có nên tiếp tục điều chỉnh cho "công bằng" giữa các hộ hay không? ở một số địa phương đã dùng quỹ đất dự trữ để điều chỉnh nhưng số đất đó không lớn và sẽ không còn để điều chỉnh cho sau này Vậy là thực trạng này phải được chấp nhận. ở Đài Loan - nơi đã thu được thành công nhất trong chính sách đất đai cũng chỉ chia đất một lần trong cuộc cải cách ruộng đất năm 1953. Do vậy vấn đề đa dạng hóa thu nhập lại được đặt ra nhằm hỗ trợ tích cực cho việc giải quyết quan hệ đất đai trong nông thôn. việc cải tạo đất phục vụ yêu cầu cơ giới hoá, thực hiện cách mạng sinh học còn là vấn đề nan giải hiện nay. Tình trạng sản xuất hộ nào biết hộ đó trong điều kiện manh mún là phổ biến hiện nay. Tương lai của một nền nông nghiệp hiện đại trông chờ vào những chuyển biến quan trọng này. Các dự án đầu tư cải tạo đất, xây dựng cơ sở hạ tầng cần được thực hiện có hiệu quả hơn, người dân phải được hưởng lợi nhiều hơn từ các dự án đó. Trong điều kiện kinh tế hộ, cần phải phát huy các mối quan hệ hợp tác và cộng đồng trong việc xây dựng, sử dụng và quản lý các công trình công cộng với sự tham gia của người dân. Vấn đề xác định hướng sản xuất đã tương đối rõ ở các vùng sản xuất hàng hoá nguyên liệu tập trung nhưng chưa ổn định, chưa có cơ sở khoa học, chưa có quy hoạch. ở các vùng trồng màu và đặc biệt đối với diện tích vườn tạp cần cải tạo và sự bất hợp lý trong việc mở rộng diện tích cây đặc sản ở khắp mọi nơi. Có một tình trạng là vải Thanh Hà, Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, v.v... được trồng khắp mọi nơi. Trong khi các vùng sản xuất truyền thống đang cố giữ lấy thương hiệu hàng hoá với chất lượng bảo đảm thì mọi nơi đều nhan nhản các sản phẩm tương tự, gây nên sự ứ đọng sản phẩm, xuống giá sản phẩm làm cho nhiều hộ nông dân lâm vào tình trạng bế tắc và việc sản xuất sản phẩm ở các vùng sản xuất truyền thống bị ảnh hưởng lớn. Tình trạng đất manh mún là một cản trở lớn đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. 2.4.3. Thực trạng manh mún ruộng đất ở nước ta Manh mún đất đai là thể hiện tính vụn vặt phân tán về phân bổ đất đai cho từng 55 loại sản phẩm trên các thửa đất nhỏ bé rải rác đan xen với nhau do đặc điểm của địa hình và phương thức sở hữu, sử dụng đất. Xét trên khía cạnh đó có thể thấy về manh mún đất là: - Quy mô diện tích của một thửa đất nhỏ - Số thửa đất của một hộ nhiều - Quy mô diện tích của các nông hộ nhỏ - Đan xen về diện tích giữa các hộ, các loại cây trồng, các thửa đất. Tình trạng manh mún ruộng đất xuất hiện vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Khi đó Nhà nước ta chủ trương đầu tư kinh phí cho việc thiết kế cải tạo đồng ruộng để thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp. Tại các tỉnh, thành phố có đội quy hoạch, khảo sát thiết kế cải tạo ruộng đất. Trên cơ sở kết quả khảo sát, thiết kế các đội, trạm máy nông nghiệp của các huyện cũng san ủi cải tạo thành những thửa ruộng lớn có hình thức hợp lý các bờ thửa thuận lợi cho việc canh tác bằng máy và chăm sóc. Khi thực hiện Nghị quyết l0/NQ-TW năm 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, các hợp tác xã tiến hành giao ruộng đất ổn định cho xã viên làm cho số thửa ruộng tăng lên. Khi thực hiện Nghị định 64/CP năm 1993 thì sự manh mún càng bộc lộ rõ với phương châm giao đất cho hộ: "có gần, có xa, có tết, có xấu để đảm bảo tính công bằng. Số thửa sau khi giao đất theo Nghị định 641CP ở một số địa phương gấp 2 lần khi thực hiện Nghị quyết 10/NQ-TW, gấp 3 lần khi thực hiện khoán theo Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư. Đến cuối năm 1998 cả nước có xấp xỉ 100 triệu thửa đất, bình quân số thửa trên mỗi hộ ở các vùng cũng khác nhau. Tình trạng manh mún ruộng đất ở nước ta có thể thấy qua các đặc điểm sau: - ở vùng đồng bằng nơi đất chật người đông, bình quân diện tích trên một đầu người quá thấp. Đất ở vùng đồng bằng được chia thành các hạng tết xấu khác nhau. Trong quá trình thực hiện Nghị định 64/CP một yêu cầu cần được bảo đảm là sự công bằng hợp lý khi phân chia ruộng đất giao nhận. Từ đó đất được giao theo phương châm có xấu, có tết, có xa, có gán" nên các mảnh ruộng bị xé nhỏ cho nhiều hộ và các hộ phải quản lý nhiều mảnh ruộng ở các vị trí khác nhau với các chân đất khác nhau, đặc biệt là loại đất có quy mô nhỏ ở địa phương. Đất được chia nhỏ theo một chiều bờ có lối đi lại chung, có mảnh ruộng chỉ vừa đủ xá bừa hoặc vừa đủ một luống rau. Ở vùng miền núi, đặc biệt là vùng bán sơn địa đất nông nghiệp nằm trên các địa hình phức tạp nên bị chia nhỏ và một hộ phải quản lý rất nhiều mảnh đất trên những địa hình khác nhau ở các vị trí khác nhau. Trong khi đất rừng có thể giao với quy mô một vài héc ta thì diện tích ruộng lại rất nhỏ. Từ đặc điểm trên cho thấy ở miền núi có thể trồng rừng, các hộ có thể phát triển trang trại chăn nuôi hoặc cây ăn quả nhưng ở vùng đồng bằng điều kiện phát triển các trang trại gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ có những hộ đã "nhanh chân" chuyển đổi đất, đấu thầu các loại đất công mới có diện tích lớn cho phát triển trang trại. Sau này việc 56 phát triển trang trại ở vùng đồng bằng khó khăn hơn vì phải rất chật vật mới có thể chuyển đổi đất tạo nên khu vực sản xuất tập trung hoặc phải tìm ra phương hướng thích hợp. Việc chuyển đổi đất để tập trung đất cũng khá nan giải. Nông dân miền Bắc với tâm lý phải cố giữ "tấc đất cắm dùi" nên họ chỉ chuyển mà không nhượng, đặc biệt ở các vùng nằm trong diện quy hoạch đô thị. Họ chờ được hưởng lợi cao khi quy hoạch giá đất lên cao, chứ nhất quyết không bán ruộng. Trong khi đó ở miền Nam lại xuất hiện hiện tượng nông dân không đất. Nông dân chuyển nhượng ruộng đất của mình mà không có nguồn thu nhập bảo đảm nên cuộc sống của họ trở nên khó khăn và không ổn định. Dù mỗi vùng có những đặc điểm riêng nhưng nói chung diện tích đất nông nghiệp/ đầu người của ta quá nhỏ bé. ở Bănglađét, Đạo luật của Nhà nước năm 1950 còn quy định đất trồng trọtlgia đình không quá 13,5 ha, một thành viên được sử dụng tối đa 1,35 ha đất canh tác và 1,35 ha đất ở. ở Philipin, năm 1978 mỗi hộ còn được 7 ha. ở Nhật mỗi mảnh ruộng rộng từ 500 - 1000m2, sau Ôn dồn lại thành những thửa rộng tới 2000m2. ở Trung Quốc chuyển đổi đất theo chủ trương "đại ổn định, tiểu điều chỉnh". Như vậy so với những nước đông dân trong khu vực tình trạng manh mún đất đai của chúng ta là đáng kể và công việc dồn điền đổi thửa còn gặp nhiều khó khăn. Bảng 2.2. Tỷ lệ các hộ theo quy mô diện tích canh tác bình quân 1 hộ (%) Vùng Diện tích đất canh tác bình quân 1 hộ < 0,5 ha 0,6- 1 ha 1,1-3,0 ha > 3,0 ha Cả nước 72,08 16,72 10,12 1,10 Vùng núi và trung du Bắc bộ 75,47 17,16 5,88 1,49 Đồng bằng sông Hồng 96,00 3,19 0 68 0 13 Khu Bốn cũ 87,70 11,12 1 14 0 04 Duyên hải miền Trung 75,64 17,56 6,38 0,42 Tây Nguyên 43,18 32,50 22,85 1 47 Đông Nam Bộ 38,12 29,73 27,88 4,27 Đồng bằng sông Cửu Long 32,50 30,65 32,88 3,97 (Nguồn: Đỗ Thanh Phương, 1997. Đói nghèo ở nông thôn và lốii ra) Tình trạng manh mún về đất không những làm quy mô nông hộ nhỏ mà còn là lực cản mới đối với nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn với những đặc trưng yêu cầu cơ giới hoá, chuyên môn hoá, áp dụng công nghệ cao, tạo ra năng suất lao động cao, giá thành hạ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường nội địa, thị trường khu vực và thị trường thế giới. 57 Hiện nay phong trào đổi ruộng trong cả nước diễn ra sôi động, có những hộ nông dân chuyển đổi một cách tự phát, một số nơi đã có chủ trương của các cấp lãnh đạo điển hình ở một số tỉnh như Thanh Hoá, Hà Tây, v.v... * Bất lợi của tình trạng đất đai manh mún tình trạng manh mún gây nên nhiều trở ngại cho sản xuất của từng hộ, cho cộng đồng, cho những hộ làm ăn giỏi muốn có diện tích lớn để kinh doanh và cho cả việc chuyển biến từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Những bất lợi đó có thể thấy qua các biểu hiện sau: - Do có nhiều thửa đất nên đầu tư của hộ bị phân tán. Với trình độ quản lý yếu kém, hộ không thể quán xuyến tết tất cả công việc đồng áng ở mọi thửa đất nên có thửa được sử dụng tốt, có thửa không được chăm sóc chu đáo. - Hộ rất lúng túng trong việc xác định hướng sản xuất, bố trí sản xuất sản phẩm hợp lý cho các thửa đất. Thông thường bố trí sản xuất được tiến hành theo từng tiểu vùng ở địa phương. Hộ sẽ phải tiếp cận với nhiều loại cây hoặc nhiều giống cây trên nhiều thửa đất phân tán nên không thể am hiểu và thực hiện tốt mọi quy trình kỹ thuật sản xuất. Hộ không thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật hay thực hiện các khâu kỹ thuật một cách đồng đều cho mọi thửa đất nên chất lượng đầu tư thấp và từ đó năng suất cây trồng, kết quả và hiệu quả sản xuất sẽ thấp. - Do sản xuất quy mô nhỏ nên phần lớn sản phẩm sản xuất ra theo mục tiêu tự sản tự tiêu, hoặc nếu có sản xuất hàng hoá cũng chỉ tiến hành trên quy mô nhỏ, không tạo nên lượng hàng hoá lớn nên việc tiêu thụ cũng không ổn định, thường bị ứ đọng trong lúc chính vụ. Do các thửa đất nhỏ, phân tán, đan xen giữa các hộ nên rất khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông. Bên cạnh đó việc duy tu, cải tạo quản lý, sử dụng các công trình sẵn có cũng gặp nhiều vướng mắc. - Trong điều kiện đất đai manh mún các hộ đều cùng phải đến các xứ đồng để làm việc. Như vậy gây ra lãng phí lớn về quỹ thời gian chung ở địa phương (nhiều lần phải đi lại, nhiều lần phải vận chuyển vật tư, sản phẩm v.v...). Từ đó dẫn đến sự thấp kém về hiệu quả sử dụng đất. - Do có nhiều thửa nhỏ nên cần rất nhiều bờ ngăn cách. Diện tích nông nghiệp đã hẹp, diện tích dành cho làm bờ lại lớn nên diện tích thực sử dụng cho sản xuất càng bị thu hẹp. Các hộ có số khẩu khác nhau nên quy mô diện tích rất khác nhau ở từng xứ đồng. Các xứ đồng lại sản xuất theo các hướng sản xuất khác nhau, đất đai có độ màu mỡ khác nhau nên việc chuyển đổi cũng khó khăn. Để hình thành nên một trang trại phải tập trung được một số lượng ruộng đất nhất định. Trong điều kiện các hộ đều ít diện tích, những hộ muốn tập trung đất cũng rất khó khi diện tích đất để đấu thầu đã hết, khi 58 các hộ chuyển nhượng bị "lệch pha". Như vậy tình trạng manh mún đất đai đã gây rất nhiều khó khăn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp (xét cả về mặt đầu tư và hiệu quả, cả về mục đích và phương thức sản xuất, cả về mặt kinh tế và xã hội, v.v...). Bảng 2.3. Lợi ích và hạn chế của việc đất đai manh mún Lợi ích của việc có nhiều mảnh đất Hạn chế của việc có nhiều mảnh dết Lợi ích cá nhân Lợi ích xã hội Bất lợi cá nhân Bất lợi xã hội - Phân tán rủi ro (úng ngập, sâu bệnh, sản lượng) - Dễ dàng cho thừa kế - Linh hoạt và dễ đa dạng trong chuyển đổi mùa vụ - Dễ trao đổi, thế chấp - Phân bổ lao động, mùa vụ - Dễ quản lý - Bảo hiểm tuyệt đối -Công bằng trong đối xử - Tăng cường tính đa dạng sinh học - Tăng chi phí sản xuất - Sử dụng nhiều lao động - Mất diện tích do các bờ vùng, bờ thửa - Khó tiếp cận Xung đột đất đai tăng lên - Khó khăn cho việc tưới tiêu - Khó khăn cho việc cơ giới hoá nông nghiệp - Cản trở việc áp dụng công nghệ mới - Lao động được giải phóng ít Cơ giới hoá bị chậm trễ - Chi phí trao đổi cao hơn khi được dùng để cầm cố - Quy hoạch khu sản xuất thương mại khó - Việc áp dụng công nghệ mới bị chậm trê - Khó quản lý * ý nghĩa của việc tập trung ruộng đất Tập trung đất đai trong nông nghiệp là phương thức làm tăng quy mô diện tích của thửa đất và chủ thể sử dụng đất thông qua các hoạt động dẫn đến tập trung ruộng đất như: chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê đất, thuê lại đất, thừa kế quyền sử dụng đất, v.v... Diễn biến và nguyên nhân dẫn đến tập trung ruộng đất ở nông thôn Việt Nam như sau: + Một số hộ làm ăn khá giả, có vốn, có trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý kinh doanh muốn có thêm đất đai để sản xuất. + Một số hộ yếu kém tự thấy không đảm bảo cuộc sống trên ruộng đất được giao nên chuyển nhượng, cho thuê đất để vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa "rảnh tay" tập trung các nguồn lực cho các nguồn thu nhập khác có hiệu quả hơn. Những quy định trong Luật đất đai hiện hành của nước ta hiện nay đã và đang tạo 59 ra hành lang pháp lý cho các hoạt động tập trung đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Đó chính là việc xác định chế độ sử dụng đất thông qua các khái niệm dưới đây: + Chủ thể sử dụng đất: là những tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để sử dụng. + Khách thể quyền sử dụng đất: là một vùng nhất định mà Nhà nước giao cho các chủ thể sử dụng đất sử dụng. + Chuyển đổi quyền sử dụng đất: là việc "đổi đất lấy đất" giữa các chủ thể sử dụng đất được Nhà nước giao đất để sử dụng nhằm mục đích chủ yếu là tổ chức lại sản xuất cho phù hợp, khắc phục tình trạng manh mún, phân tán của ruộng đất hiệnnay. + Chuyển nhượng quyền sử dụng đất: là việc chuyển cho người khác trên cơ sở có giá, người nhận đất phải trả cho người chuyển quyền một kho ỉn tiền tương ứng với chi phí đã bỏ ra để có được quyền sử dụng đất cũng như chi phí đầu tư làm tăng giá trị của đất. + Cho thuê đất: là một dạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thời hạn, bên thuê đất phải trả cho bên cho thuê đất một khoản tiền nhất định do hai bên thoả thuận. + Cho thuê lại đất: là một dạng chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất khi người đi thuê cho người khác thuê lại, bên thuê đất phải trả cho bên cho thuê đất một khoản tiền do hai bên thoả thuận. + Thừa kế quyền sử dụng đất: là một dạng đặc biệt của chuyển nhượng ruộng đất nội dung của quan hệ thừa kế vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa mang ý nghĩa chính trị xã hội. + Thế chấp quyền sử dụng đất: là hoạt động trong quan hệ tín dụng, trong đó các chủ thể sử dụng đất thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất - kinh doanh theo quy định của pháp luật. + Góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất: là việc các chủ sử dụng đất sử dụng đất thuê trong thời hạn thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, cá nhân trong hoặc ngoài nước theo quy định của pháp luật. Quá trình tập trung ruộng đất có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước nói chung, nông nghiệp nói riêng: - Nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất thông qua việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mác đã chỉ ra rằng, nông nghiệp là một bộ phận, tất cả các phương pháp khoa học hiện đại đối với nông nghiệp (như tưới tiêu, dùng máy móc, phân hoá học, v.v...) chỉ có thể áp dụng có kết quả khi canh tác ruộng đất trên quy mô rộng lớn. Thực tế hiện nay cho thấy, một mâu thuẫn lớn đang đặt ra đối với nền nông 60 nghiệp nước ta là có nhiều sản phẩm có khối lượng hàng hoá lớn nhưng lại được sản xuất ở nông hộ có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ nên chất lượng thấp, người sản xuất trực tiếp không nắm được thông tin thị trường nên giá bán rẻ, kém sức cạnh tranh trên thị trường. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết thoả đáng thông qua con đường tập trung ruộng đất, từ đó tiến tới tổ chức một nền nông nghiệp hợp đồng. - Tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho việc sử dụng đất đai đầy đủ, hợp lý và bảo vệ được môi trường đất. - Tập trung ruộng đất là một vấn đề mang tính quy luật của việc đi lên sản xuất lớn, nó diễn ra trong suốt quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nước ta. Tích tụ ruộng đất ở nước ta diễn ra chậm chạp vì: - Các hướng dẫn về chuyển nhượng, cho thuê đất chưa cụ thể và không tiến hành đồng thời ở các địa phương. - Sự trì trệ trong việc chuyển lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực khác. - Một khi ngành nghề trong nông thôn chưa phát triển thì dân cư và lao động vẫn tập trung trong nông nghiệp. - Ở một số nơi ruộng đất có vị trí thuận lợi, trong quy hoạch tương lai nông dân hy vọng giá đất sẽ lên nên trước mắt vẫn giữ đất. - Một số hộ tuy đã chuyển sang kinh doanh lĩnh vực mới nhưng vẫn tính nước chắc ăn "hữu nông vi bản", đề phòng rủi ro, đề phòng chính sách thắt chặt của Nhà nước. - Tâm lý giữ đất của nông dân, đặc biệt là nông dân miền Bắc đã ăn sâu vào tiềm thức của họ. 2.4.4. Kiến thức về Luật dết đai của người dân Theo nghiên cứu của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, điều tra hiểu biết về Luật đất đai của người dân ở hai tỉnh Hoà Bình (đại diện cho các tỉnh miền núi phía Bắc) và Hải Dương (đại diện các tỉnh đồng bằng phía Bắc) thì phần lớn người dân chưa được nghe hoặc biết thông tin gì về Luật đất đai mới hiện nay. Trong số 908 người được hỏi thì có đến 568 người trả lời (chiếm 62,60%) họ không biết hoặc chưa nghe nói gì về Luật đất đai 2003. Những người biết về Luật đất đai mới cũng không đầy đủ, không phân biệt được sự khác nhau giữa Luật đất đai 2003 và các luật cũ trước đó. 340 người trong 908 người được hỏi trả lời rằng họ đã được biết và nghe nói về Luật đất đai mới, chiếm 37,40%. Nhưng khi hỏi kỹ rằng họ biết như thế nào? đến mức độ nào? có phân biệt được Luật đất đai 2003 và Luật đất đai 1993 khác nhau như thế nào thì những người này đều không phân biệt được. Họ biết một cách sơ qua, thậm chí chỉ mới nghe đến tên Luật đất đai mới mà thôi chứ cũng không biết nội dung thế nào. 61 Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người dân không nắm được thông tin về Luật đất đai 2003, trong đó có một số nguyên nhân quan trọng: - Chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác tuyên truyền và phổ biến Luật đất đai. Vấn đề này một mặt là do chính sách đất đai mới khá phức tạp, chính quyền có nhiều việc phải làm và họ cũng chưa nhận thức được rằng người dân cần phải được tuyên quyền về Luật đất đai mới. Nguồn cung cấp tin cho dân rất phong phú nhưng chất lượng chưa cao và không chính thống. - Với một cơ sở hạ tầng văn hoá chưa phát triển người dân rất ít có cơ hội được tiếp cận với những thông tin mới về Luật đất đai. 62 Chương III CƠ SỞ KHOA HỌC NGHIÊN CỨU KINH TẾ ĐẤT 3.1. MÔ HÌNH BA MẶT TRONG SỬ DỤNG ĐẤT 3.1.1. Khái niệm mô hình ba mặt Quá trình sử dụng tài nguyên đất hoặc bất động sản của con người luôn luôn diễn ra dưới sự tác động của mô hình ba mặt. Để sử dụng một vùng đất đạt hiệu quả và tránh rủi ro chúng ta phải xem xét 3 yếu tố sau: - Xem xét nhóm các yếu tố vật lý, sinh học - căn cứ vào khả năng thực tiễn về mặt tự nhiên của vùng đất - Khả năng chấp nhận về mặt xã hội của vùng đất - Xem xét tính khả thi về mặt kinh tế trong sử dụng đất Sự phối hợp của ba mặt này tạo nên những giới hạn, trong đó từng cá nhân, cộng đồng và chính phủ có thể thực hiện các hoạt động của họ trong từng lĩnh vực sử dụng đất, phát triển và bảo vệ nguồn tài nguyên đất với một trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ cho phép. Ba yếu tố này có quan hệ và tác động qua lại. Khả năng thực tiễn về mặt tự nhiên của một vùng đất Các yếu tố, đặc tính về mặt vật lý của vùng đất: Thổ nhưỡng, địa hình, dạng đất nông hoá, khí hậu, thuỷ văn v.v... - Các nhóm yếu tố, đặc tính về mặt sinh học: Thảm thực vật; hệ cây trồng, hệ động vật, hệ thuỷ sinh, hệ vi sinh vật Yếu tố con người và cộng đồng dân cư địa phương của vùng đất Xem xét quy luật hoạt động của hệ sinh thái tại vùng đất từ đó chúng ta mô phỏng, lợi dụng để đạt kết quả tốt hơn. Khả năng chấp nhận về mặt xã hội - Quốc gia: Tuân thủ theo thể chế quốc gia được thể hiện ở hiến pháp và các văn bản pháp luật. Sử dụng vùng đất được chấp nhận về mặt chính trị. - Cộng đồng: Yêu cầu trong sử dụng đất phải phù hợp và không sai trái về mặt đạo đức luân lý, phù hợp với thuần phong mỹ tục. - Phát huy được tính tích cực, chủ động của cộng đồng địa phương trong việc sử dụng vùng đất để phát triển cho chính họ. - Việc sử dụng một vùng đất phải thuận tiện trong việc thực hiện về mặt hành chính. Tính khả thi về mặt kinh tê - Lựa chọn được một quá trình sản xuất thích ứng, đáp ứng tính khả thi về mặt 63 kinh tế. Xác định được quan hệ hợp lý giữa đầu ra (về khối lượng, cơ cấu) và quan hệ đầu vào của quá trình sử dụng đất. Xác định được loại sản phẩm phù hợp với yếu tố đầu vào cần thiết, xác định được công nghệ sản xuất thích hợp, xác định được quy trình sản xuất hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Quá trình bổ trợ cho quá trình sản xuất: hoạt động marketing thích ứng, vận chuyển cho phù hợp v.v... - Xác định được một hệ thống phân phối phù hợp: phân phối về kết quả, thu nhập, lợi nhuận v.v... để mọi thành viên có thể chấp nhận được. Mô hình này ràng buộc các vấn đề thực tiễn về sử dụng đất phải tuân thủ nghiêm ngặt mối quan hệ 3 chiều: tự nhiên, kinh tế, thể chế để đạt được các tiêu chuẩn của sự phát triển bền vững, đó là: - Sử dụng đất phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và môi trường - Sử dụng đất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao - Sử dụng đất phải tuân thủ theo pháp luật, thể chế và được xã hội chấp nhận 3.1.2. Bản chất của các nhóm yếu tố trong mô hình 3.1.2.1. Nhóm các yếu tố về vật lý và sinh học Nhóm này quan tâm đến môi trường thiên nhiên, trong đó các loại tài nguyên khác nhau với đầy đủ các tính chất và đặc điểm của chúng mà con người luôn gắn liền sự hoạt động của mình vào đó. Các yếu tố vật lý sinh học cung cấp: nguyên liệu thô, vị trí và địa bàn, điều kiện hỗ trợ về mặt địa lý, các loại sinh vật và tài nguyên khác cho mọi hoạt động của con người. Tất cả các yếu tố kể trên đều có thể trực tiếp tạo nên những thuận lợi hoặc gây khó khăn trở ngại cho con người trong quá trình sử dụng đất. Chúng tạo nên những tác động ảnh hưởng quan trọng tới cả hai mặt: - Tổng số tài nguyên đất có thể cung cấp 64 - Tổng lượng nhu cầu của con người từ các nguồn tài nguyên đó. Điều quan tâm có ý nghĩa nhất của nhóm các yếu tố vật lý, sinh học trong mô hình là nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì, giữ gìn các mối quan hệ sinh thái theo thời gian. Để có thể đạt được những thắng lợi trong sử dụng đất thì các chính sách sử dụng tài nguyên phải hướng sự hoạt động của con người tuân thủ các quy luật vật lý, sinh học và sinh thái tự nhiên trong các hoạt động ngắn hạn, dài hạn cũng như trong tương lai lâu dài. Cần phải nhận thức được tác hại của sự phá huỷ nguồn tài nguyên và môi trường. Nếu con người không có ý thức thì với khả năng khoa học kỹ thuật của mình cùng với sự cám dỗ về khả năng cho lợi nhuận cao trong thời gian trước mắt của một số kiểu khai thác tài nguyên, con người có thể phá huỷ nguồn tài nguyên, vi phạm quy luật tự nhiên của sinh thái, phá huỷ hoặc làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường thiên nhiên, dẫn đến nguồn tài nguyên sẽ bị suy kiệt, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của toàn nhân loại trong tương lai. Chính vì vậy toàn xã hội, đặc biệt là các chính sách quốc gia phải tập trung chống lại các hành động có khả năng phá huỷ nguồn tài nguyên khan hiếm và không thể thay thế, chống lại các hành động vi phạm hoặc phá vỡ nghiêm trọng các quá trình sinh thái bình thường. 3.1.2.2. Nhóm các yếu tố về kinh tế Nhóm về các yếu tố kinh tế trong mô hình quan tâm đến sự hoạt động của hệ thống giá cả, giá trị tác động đến từng chủ sử dụng đất, cùng với sự cố gắng của họ để tạo ra lợi nhuận cao trên mảnh đất của mình. Nhóm yếu tố này cũng là sự quan tâm của người sử dụng đất trong các mối quan hệ đầu vào. đầu ra trong quá trình sản xuất để có thể đạt được tối đa mức thu nhập của họ. Bản chất của mô hình kinh tế là giải quyết các vấn đề như: Giá trị sản xuất, thu nhập, lợi nhuận đối với các điều kiện đầu tư của quá trình sản xuất. Mô hình cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề sau: - Hệ thống marketing - Nhu cầu của người tiêu dùng - Vấn đề lưu thông vận chuyển vật tư sản phẩm. Ngoài ra các nhóm yếu tố về kinh tế trong mô hình còn quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã hội, đến vấn đề bảo tồn tài nguyên đất và tài nguyên thiên nhiên khác, đến việc phân phối thu nhập và lợi nhuận từ sản xuất giữa các chủ sử dụng đất, đến người lao động và các thành viên khác trong xã hội. 65 3.1.2.3. Nhóm các yêu tố về thể chế trong mô hình Vấn đề thể chế trong mô hình quan tâm đến môi trường pháp luật của chủ thể sử dụng đất, có thể là cá nhân, tập thể hoặc các tổ chức tham gia sử dụng đất Môi trường pháp luật ở đây biểu hiện thông qua các văn bản pháp quy như hiến pháp, pháp luật, hệ thống các chính sách v.v... Các chương trình và dự án sử dụng đất phải: - Tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật - Phù hợp về mặt chính trị và được thể chế cho phép - Không trái với những quy định thông thường về mặt luân lý đạo đức và quan tâm đến thuần phong mỹ tục của địa phương, được nhân dân địa phương chấp nhận (sử dụng kiến thức bản địa của cộng đồng trong tiến bộ khoa học và công nghệ). Để đảm bảo thắng lợi cho công tác quản lý, các chương trình và dự án sử dụng đất cần phải đáp ứng yêu cầu hoạt động về mặt hành chính. Nghĩa là phải tuân thủ theo hệ thống quản lý nhà nước về đất đai theo các cấp hành chính từ trung ương đến địa phương. Tóm lại: Mô hình 3 mặt tác động trong quá trình sử dụng đất là: - Các chương trình và dự án sử dụng đất phải phù hợp với điều kiện về mặt vật lý và sinh học, đảm bảo tính khả thi về mặt kinh tế, đồng thời phải được chấp nhận về mặt thể chế, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Các nhà quản lý tài nguyên và hoạch định chính sách sử dụng đất luôn phải quan tâm đến các mặt hạn chế đặt ra của từng nhóm yếu tố trong mô hình để có thể đưa ra các chương trình và chính sách sử dụng đất thích hợp, đảm bảo thắng lợi trong công tác quản lý sử dụng đất, đáp ứng được mục tiêu phát triển lâu dài. 3.2. LÝ THUYẾT CUNG CẦU TRONG SỬ DỤNG ĐẤT 3.2.1. Lý thuyết cầu về nhà đất 3.2.1.1. Khái niệm và các nhân mảnh hưởng đến cầu về nhà đất a. Khái niệm Cầu về nhà đất là lượng nhà đất mà người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận và có khả năng thanh toán để nhận được lượng nhà đất đó trên thị trường. Yêu cầu của người tiêu dùng trên thị trường được hình thành từ nhu cầu tiêu dùng về nông sản phẩm, qua một quá trình phát triển như sau: Nghiên cứu quá trình hình thành của cầu cho chúng ta thấy, mặc dù phản ánh nhu cầu tiêu dùng, nhưng cầu không thống nhất với nhu cầu. Đó là quá trình phát triển từ 66 cái chung chung đến cái cụ thể, từ một nhu cầu có thể hình thành nhiều cầu về những sản phẩm khác nhau trên thị trường, cầu về một sản phẩm có thể được hình thành từ nhiều loại nhu cầu khác nhau. Hoạt động marketing của các nhà kinh doanh là nhằm biến một hoặc nhiều loại nhu cầu chung thành cầu về nông sản phẩm của mình, biến những khách hàng tiềm năng thành khách hàng thực sự của doanh nghiệp mình. Giữa nhu cầu tiêu dùng và cầu về nhà đất có một sự cách biệt khá lớn về quy mô, phạm vi và đối tượng xuất hiện. Nhu cầu thường xuất hiện với một quy mô lớn trên phạm vi rộng với tất cả các đối tượng. Song cầu thực tế trên thị trường lại không hoàn toàn trùng khớp do có những nhu cầu không có khả năng thanh toán, có những nhóm đối tượng có nhu cầu nhưng không trở thành cầu trên thị trường, có những đối tượng không có nhu cầu sử dụng nhưng lại có nhu cầu đầu cơ kiếm lợi nên có cầu xuất hiện trên thị trường. Chính vì vậy cầu là một phạm trù có quan hệ hết sức chặt chẽ với nhu cầu, khả năng thanh toán và điều kiện hoạt động của thị trường. Cầu về nhà đất xuất hiện trên cơ sở có sự hội tụ của các điều kiện sau: Sự xuất hiện của nhu cầu tiêu dùng về một dạng nhà đất nào đó mà nhu cầu đó không thể tự thoả mãn bằng các nguồn lực sẵn có của mỗi người dân. - Phải có các nguồn lực tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhu cầu này. Chỉ khi có các nguồn lực tài chính cho thanh toán thì nhu cầu mới được chuyển thành cầu trên thị trường. - Phải có sự hoạt động của thị trường để nhu cầu có khả năng thanh toán có điều kiện gặp được cung và cầu thực sự trở thành cầu xuất hiện trên thị trường. Chính thị trường là môi trường để nhu cầu có khả năng thanh toán trở thành cầu thực tế và được thoả mãn. Có rất nhiều loại cầu khác nhau về nhà đất, có thể phân loại thành các nhóm sau đây: - Cầu về đất đai cho sản xuất: Cầu đất đai cho sản xuất là tổng nhu cầu mở rộng các hoạt động sản xuất dựa vào mở rộng diện tích đất đai sử dụng. Cầu về đất đai cho sản xuất thường là cầu về đất đai cho các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I của xã hội bao gồm: cầu của các hoạt động sản xuất dựa vào đất đai như nông lâm, ngư nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng và hầm mỏ. Thông thường, xã hội càng phát triển, các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I càng giảm xuống một cách tương đối so với các khu vực khác, do vậy cầu về đất đai cho sản xuất tăng lên không đáng kể so với các khu vực khác. - Cầu đất đai cho công nghiệp, giao thông và các công trình công cộng. Thông thường cáu về đất đai làm địa bàn phát triển các hoạt động công nghiệp, giao thông và các công trình công cộng là cầu được xã hội hoá và đáp ứng bằng các chương trình của Chính phủ, chúng ít xuất hiện hoặc xuất hiện ẩn mình dưới các hình thức khác trên thị trường bất động sản. 67 - Cầu về nhà ở, đất xây dựng nhà ở và đất xây dựng các công trình bất động sản khác. Cầu về nhà ở, kéo theo đó là đất đai để xây dựng nhà ở và các công trình bất động sản khác phục vụ cho kinh doanh thương mại và dịch vụ. Cầu về đất ở và nhà ở (nói chung là cầu về nhà đất) là cầu xuất hiện rộng rãi nhất và sôi động nhất trên thị trường bất động sản. Do sự phát triển hoạt động sản xuất của khu vực III ngày càng tăng lên nhanh cùng với sự phát triển của xã hội nên cầu về nhà đất ngày càng tăng nhanh. Nó bao gồm cầu về đất đai nhà ở cho dân cư, đất đai và nhà làm việc của các văn phòng công sở, các trung tâm thương mại, các trung tâm vui chơi giải trí, thể thao. - Cầu giả tạo xuất hiện trong quan hệ thương mạt do kỳ vọng của những người kinh doanh buôn bán bất động sản. Những nhà đầu tư bất động sản 'mua đất và nhà không phải để đáp ứng nhu cầu sử dụng của bản thân họ mà để đầu cơ buôn bán lại trên thị trường. Như vậy rõ ràng rằng, cầu về nhà đất cho các quan hệ thương mại đã làm tăng giả tạo nhu cầu về nhà ở và có thể làm đội mặt bằng giá cả bất động sản. Nghiên cứu về thị trường nhà đất ở nhiều thành phố đã chỉ ra rằng chính cầu về nhà đất của những người kinh doanh bất động sản là nhân tố căn bản làm căng thẳng thêm quan hệ về cung cầu nhà ở và làm đội giá nhà đất tăng lên tại một thời điểm nhất định. b. Các nhân mảnh hưởng đen cầu nhà đất * Sự tăng trưởng về dân sô' và các nhà cầu phát triển Tăng trưởng dân số là nhân tố làm tăng mọi mặt nhu cầu của xã hội và theo đó cầu về đất đai và nhà ở tăng lên. Trước hết, tăng dân số làm gia tăng cầu về đất đai cho hoạt động sản xuất ở khu vực I đặc biệt là các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, giai đoạn bùng nổ dân số trong khi quá trình công nghiệp hoá mới bắt đầu, năng suất lao động còn thấp, các khu vực hoạt động phi nông nghiệp chưa phát triển nên toàn bộ lực lượng lao động xã hội còn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp làm cho nhu cầu đất đai sản xuất nông nghiệp tăng, kéo theo cầu đất đai cho sản xuất tăng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, do nền sản xuất xã hội chưa mang tính xã hội hoá, sản xuất còn mang nặng tính tự cấp tự túc, nên cầu đất đai cho sản xuất chưa được trở thành hàng hoá, chưa xuất hiện phổ biến trên thị trường bất động sản. Chính vì vậy, mặc dù nhu cầu đất đai tăng nhanh, nhưng cầu về đất đai cho sản xuất trong giai đoạn này chưa tăng theo tốc độ tăng của nhu cầu. Sự gia tăng dân số là áp lực lớn làm tăng nhu cầu về đất ở và nhà ở. Dân số tăng làm tăng quy mô gia đình dẫn đến nhu cầu về quy mô diện tích nhà ở của các hộ gia đình tăng lên Sự gia tăng dân số cũng kéo theo sự gia tăng của số lượng hộ gia đình độc lập. Trong xu thế phát triển của xã hội, kết cấu gia đình hạt nhân là xu hướng phát triển chính trong hệ thống kết cấu gia đình của xã hội. Các gia đình truyền thống, đa thế hệ ngày càng giảm dần thay vào đó là sự gia tăng nhanh chóng của số lượng các gia đình hạt nhân. Trong trường hợp số lượng hộ gia đình độc lập tăng thêm thì cầu về diện tích đất ở và nhà ở cũng tăng lên một cách tương ứng. Kết cấu độ tuổi của dân số cũng là một nhân tố tác động lớn đến sự thay 68 đổi về cầu nhà ở Dân số ở độ tuổi kết hôn cao cũng đồng nghĩa với nhu cầu về nhà ở và căn hộ độc lập tăng lên; con cái trong các gia đình chuyển từ tuổi trẻ em sang độ tuổi vị thành niên và thành niên cũng là lúc nhu cầu về số phòng ở của căn hộ phải tăng thêm. ỏ những nước phát triển, theo xã hội phương tây, con cái đến tuổi thành niên thường tách ra sống độc lập với bố mẹ là một trong những lý do làm cầu về các căn hộ độc thân ở các thành phố tăng lên rất nhanh. Trái lại, ở một số dân tộc do tính ràng buộc cộng đồng gia tộc rất cao đã hạn chế cầu nhà có quy mô tập trung và cải tạo mở rộng thêm dần. Ngoài ra, tập quán sinh hoạt cũng ảnh hưởng đến cầu về nhà đất của các nhóm dân cư khác nhau. Những tập quán đó có thể do thói quen về tiêu dùng, điều kiện cuộc sống và quan niệm xã hội đưa lại. Sự gia tăng dân số không chỉ làm gia tăng nhu cầu về nhà ở mà còn làm tăng thêm nhu cầu về các hoạt động dịch vụ thương mại, y tế, văn hoá giáo dục, v.v. . . đều là các nhân tố làm tăng nhu cầu về nhà đất, nhất là tại các vùng trung tâm Chính vì vậy cùng với sự gia tăng dân số, các vùng trung tâm cũng hình thành nhanh chóng và sự nhộn nhịp của thị trường nhà đất cũng bắt đầu từ những trung tâm này. * Sự thay đổi về tính chất và mục đích sử dụng đất đai Tính chất và mục đích sử dụng đất đai cũng là nhân tố làm thay đổi cung cầu về nhà đất. Trước hết là sự thay đổi về mục đích và tính chất sử dụng đất đai trong sản xuất. Ngay trong cùng một ngành, một lĩnh vực sản xuất, khi tính chất sản xuất thay đổi từ sản xuất theo kiểu tự cấp tự túc của kinh tế nông hộ sang sản xuất hàng hoá của các nông trại đã làm nảy sinh cầu về đất đai nông nghiệp. Trong sản xuất tự cấp tự túc, nhu cầu có đất đai để sản xuất chỉ được thoả mãn bằng sự điều chỉnh cân bằng vốn có của tự nhiên. Đến giai đoạn phát triển cao hơn, kinh tế trang trại hình thành và phát triển, nhu cầu về đất đai cho phát triển sản xuất của trang trại không còn dựa vào con đường đi khai phá tự nhiên mà chủ yếu được giải quyết bằng cách tập trung đất đai thông qua thị trường chuyển quyền sử dụng đất. Rõ ràng khi đó nhu cầu về đất đai cho sản xuất mới thực sự hình thành cầu về đất đai trên thị trường. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất giữa các hoạt động sản xuất khác .thau cũng làm nảy sinh quan hệ về cầu đất đai cho sản xuất. Đặc biệt là sự thay đổi mục đích sử dụng đất sang phát triển nhà ở, các khu thương mại, các khu vui chơi giải trí. Xã hội càng phát triển, các hoạt động sản xuất khu vực I càng giảm đi do vậy nhu cầu về đất đai cho sản xuất giảm song thay vào đó khu vực III phát triển làm cho nhu cầu về đất đai phục vụ cho các hoạt động này tăng lên. Do vậy, Phếu như vẫn duy trì mục đích sử dụng đất đai cho lĩnh vực sản xuất của khu vực~i thì cầu về đất đai cho sản xuất sẽ thấp. Trái lại khi chuyển mục đích sử dụng sang phục vụ cho các hoạt động của khu vực III thì cầu về các loại nhà đất làm công sở, văn phòng, trung tâm dịch vụ và thương mại tăng lên rất nhiều. Điều đó chúng ta có thể thấy rất rõ sự thay đổi của giá cả trao đổi về cùng một loại đất đai, cùng một vị trí và điều kiện nhưng chỉ khác nhau về mục đích sử dụng. * số tác động của việc làm và thu nhập đến cầu về nhà đất 69 Chúng ta đều biết nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu về nhà ở là không ngừng tăng lên do sự gia tăng của quy mô dân số, quy mô gia đình và sự đòi hỏi nâng cao chất lượng cuộc sống. Nếu như mức thu nhập cũng tăng lên cho phép phần lớn các nhu cáu trở thành nhu cầu có khả năng thanh toán thì khi đó rõ ràng cầu về nhà đất sẽrtăng lên. Người ta đã chỉ ra mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa thu nhập và cầu về nhà đất. Khi thu nhập còn thấp, các khoản thu nhập phải ưu tiên để thoả mãn các nhu cầu thiết yếu về các vật phẩm nuôi sống và duy trì sự tồn tại của con người. Khi các nhu cầu về các vật phẩm thiết yếu đã được bảo đảm thì phần thu nhập sẽ được chuyển sang giải quyết về nhu cầu nhà ở. Do vậy khi thu nhập tăng lên, cầu về nhà ở và đất ở tăng lên khá rõ nét. Đó là tình trạng mà hầu hết các nước đang phát triển hiện nay đang phải đương đầu với sự bùng nổ về cầu nhà ở khi đời sống và thu nhập ở các nước này đang được nâng dần và gia tăng Tất nhiên nhu cầu nhà ở cũng là nhu cầu thiết yếu nên nó cũng có giới hạn tương đối, do vậy sau khi nhu cầu được giải quyết cơ bản, mặc dù thu nhập có thể tiếp tục tăng cao nhưng cầu về nhà ở sẽ chậm dần lại. Đó là tình trạng mà hầu hết các nước phát triển hiện nay đã đạt tới Cùng với sự tác động của thu nhập, việc làm và nghề nghiệp cũng có tác động rất lớn đến sự thay đổi về cầu nhà ở. Trước hết, tình trạng việc làm và nghề nghiệp có quan hệ hết sức chặt chẽ với sự gia tăng về thu nhập của dân cư - điều làm thay đổi đáng kể về cầu nhà ở. Thứ đến, tình trạng việc làm và nghề nghiệp cũng có những yêu cầu về tính chất, đặc điểm của nhà ở phù hợp với yêu cầu và tính chất của công việc. Có những nghề nghiệp yêu cầu chủ nhà sử dụng nhà ở như là một phần địa điểm làm việc hoặc kinh doanh, có những nghề nghiệp đòi hỏi chỗ ở đồng thời là nơi đặt các quan hệ giao lưu, có những nghề nghiệp đòi hỏi nơi ở chỉ là nơi nghỉ ngơi sinh hoạt ngoài giờ làm việc. Như vậy sự thay đổi về cơ cấu nghề nghiệp sẽ dẫn đến sự thay đổi về thị hiếu nhà ở và sau đó là sự thay đổi về cầu nhà ở. * Đô thị hoá và quá trình phát triển của đô thị Đô thị hoá là một quá trình phát triển tất yếu của mọi quốc gia trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu các khu vực hoạt động kinh tế xã hội. Đặc trưng rõ nét nhất của đô thị hoá là quy mô tập trung dân số về các vùng đô thị và sự phát triển quy mô bề rộng không gian đô thị. Chính vì vậy quá trình đô thị hoá là quá trình có sự thay đổi căn bản nhất về cầu nhà ở đô thị. Mất cân đối cung cầu về nhà ở đô thị cũng xuất hiện chủ yếu trong giai đoạn này. Quá trình đô thị hoá không chỉ làm thay đổi về tổng cầu về nhà ở mà còn làm thay đổi kết cấu nhu cầu về nhà ở. Nếu như quá trình phát triển các đô thị cổ đại chủ yếu diễn ra dành cho các tầng lớp dân cư quý tộc, thị dân và chức dịch thì quá trình đô thị hoá trong bối cảnh hiện 'nay lại diễn ra với một kết cấu dân cư đa dạng hơn dẫn đến cầu về nhà đất đô thị cũng có những thay đổi căn bản về chuẩn mực và điều kiện. Những tầng lớp thương gia và những người có thu nhập cao có thể tự do lựa chọn khu vực và kiểu dáng kiến trúc cũng như mức độ tiện nghi của nhà ở. Tầng lớp dân cư lao động cũng có những lựa chọn về địa điểm định cư và tiêu chuẩn chỗ ở khác với thị dân trong các đô thị cổ. Đặc biệt các luồng di dân tự do, những người sống 70 bằng các nghề nghiệp không ổn định đang là những sức ép và thách thức lớn đối với hầu hết các đô thị của các nước đang phát triển trong quá trình đô thị hoá. Chính nhóm dân cư này đã làm xuất hiện một kiểu dạng cầu nhà ở đặc biệt như các xóm liều, các khu ổ chuột. Vì vậy, cầu về nhà đất nói riêng, thị trường nhà đất nói chung diễn biến sôi động nhất trong quá trình phát triển của đô thị hoá. * Môi và thị hiếu nhà ở Những thay đổi về kiến trúc, kiểu dáng và nhất là mốt tiêu dùng là những nhân tố làm thay đổi đáng kể cầu về nhà ở. Có những nhà ở căn hộ trong các khu nhà ở cao tầng được xây dựng và trang bị hiện đại hơn nhiều so với những ngôi nhà độc lập hoặc những ngôi nhà cổ, song do mốt tiêu dùng, người ta vẫn muốn mua các ngôi nhà ở độc lập dù không tiện lợi bằng mua các phòng ở kiểu căn hộ. * Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thông kết cấp hạ tầng Sự phát triển và hoàn thiện về kết cấu hạ tầng cũng làm tăng đáng kể cầu về nhà đất với những vùng đất trước đây chưa có cơ sở hạ tầng, không có khả năng tiếp cận. Tuy nhiên, việc tăng khả năng tiếp cận cũng đồng nghĩa với việc tăng thêm về cung nhà đất và làm đường cung dịch chuyển đáng kể về bên phải nên đôi khi sự thay đổi của cầu cũng không theo kịp với sự thay đổi của cung. * Những chính sách của Chính phủ Những chính sách của Chính phủ Trung ương hoặc chính quyền địa phương cũng là những nhân tố tác động hết sức nhạy cảm đến cầu về nhà đất. Trước hết thái độ của Chính phủ về quyền sở hữu và sử dụng về nhà ở và đất ở là một trong các tác nhân mạnh và nhạy cảm đối với sự thay đổi về quy mô, kết cấu và tính chất cầu về nhà đất. Sự thừa nhận sở hữu tư nhân về nhà ở là một đột phá làm tăng cầu về nhà ở không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu về chỗ ở mà nhiều khi là nhu cầu tích trữ, để dành và là di sản lưu lại cho các thế hệ con cháu. Sự thay đổi thái độ của Chính phủ đối với chính sách thuê nhà và bán nhà cũng là tác nhân nhạy cảm đến sự thay đổi về cầu thuê nhà hay cầu mua nhà đất. Một bằng chứng về sự chậm chẽ thậm chí không muốn chấp nhận quyền sở hữu về nhà ở bằng việc trả tiền hoá giá nhà cho Nhà nước là do sự tác động của chính sách giá thuê quá thấp so với giá bán của Nhà nước. Những quy định thể chế của Chính phủ và chính quyền địa phương về nhà ở và đất ở cũng có thể làm triệt tiêu hoặc khơi dậy cầu về nhà ở và đất ở. ở nhiều thành phố trên thế giới, để bảo vệ cảnh quan và không gian đô thị cũng như tính thẩm mỹ và kết cấu của công trình kiến trúc, người dân chỉ được phép tự xây dựng nhà ở riêng khi có một khu đất với diện tích vượt quá mức tối thiểu quy định và phải bắt buộc tuân thủ các tiêu chuẩn kiến trúc quy định. Trong điều kiện đó, cầu về đất xây dựng nhà ở riêng hầu như giảm xuống, thay vào đó là cầu về nhà ở chung cư tăng lên. Trái lại, ở một số nước đang phát triển và cả ở nước ta hiện nay, các thể chế quy định của Chính phủ và chính quyền nhiều thành phố lại theo chiều hướng khuyến khích, tạo các điều kiện thông thoáng đến mức thả 71 nổi việc đầu tư mua và xây dựng nhà đất với quy mô nhỏ, do vậy chính sách đó đang làm tăng cầu về nhà đất tự do xây dựng với quy mô nhỏ, chen chúc và giảm cáu về nhà ở chung cư. * Chính sách cũng tiền tệ cũng có tác động đáng kể đến cầu về nhà ở Do lượng tiền tệ sẵn có nên nhu cầu tiêu dùng sẽ dễ dàng chuyển thành nhu cầu có khả năng thanh toán và trở thành cầu trên thị trường. Nói chung các nhân tố trình bày trên đây là những nhân tố phổ biến tác động đến sự thay đổi về cầu nhà đất. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển khác nhau, trong các điều kiện môi trường khác nhau thì sự biểu hiện của các nhân tố trên là không đồng nhất, đồng thời còn có thể xuất hiện những nhân tố tác động đặc thù khác. 3.2.1.2. Phương pháp xác đinh cầu và độ co giãn của cầu nhà đất a. Phương pháp xác định cầu về nhà đất Cầu về đất đai cho sản xuất (chủ yếu là các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I) thường không phải là quan hệ cơ bản trên thị trường bất động sản. Trong nhiều trường hợp, nhu cầu về đất đai cho sản xuất được đáp ứng thông qua các điều chỉnh không phải quan hệ thị trường như chính sách phân chia, giao đất và điều chỉnh quỹ đất đai sản xuất của Chính phủ. Cầu về đất đai cho sản xuất thường chỉ xuất hiện trên một phạm vi hẹp mang tính khu vực và thường được giải quyết ngay giữa những người dân sản xuất tại địa phương trong vùng. Nhu cầu về nhà ở là nhu cầu cơ bản thiết yếu, đứng hàng thứ hai sau cầu về lương thực và thực phẩm. Do vậy cầu về nhà ở tối thiểu sẽ tăng lên tương ứng với tốc độ tăng của thu nhập khi mức thu nhập đã vượt quá mức giới hạn về cầu lương thực và thực phẩm. Đến một giới hạn cao hơn, nếu thu nhập tiếp tục tăng, cầu về nhà ở tối thiểu sẽ tăng chậm lại và thậm chí giảm đi thay vào đó là tăng cầu về nhà ở cao cấp Trong giai đoạn thu nhập thấp, nhu cầu về nhà ở tối thiểu gần như một đường thẳng, không co giãn so với thay đổi mức thu nhập. Tổng nhu cầu về nhà ở có thể được xác định bằng phương trình tuyến tính giữa tổng số dân (hoặc tổng số hộ) nhân với mức sử dụng tối thiểu trung bình của xã hội. Như vậy tổng cầu có thể xuất hiện trên thị trường là hiệu số giữa tổng nhu cầu tối thiểu với tổng quỹ nhà ở hiện có. Khi mức thu nhập tăng lên qua giới hạn đói nghèo, cầu về nhà ở thiết yếu bắt đầu tăng nhanh theo một hàm phi tuyến và chậm dần khi đã đến mức bão hoà về nhu cầu nhà tối thiểu. Khi thu nhập tiếp tục tăng thêm, nhu cầu nhà thiết yếu có xu hướng giảm dần và thay vào đó là cầu về nhà ở cao cấp tăng lên. Để dự báo dài hạn về cầu nhà ở, người ta cần phải xây dựng các hàm cầu về nhà ở theo mức thu nhập. Để xây dựng các thông số của các hàm cầu nhà ở, người ta phải thực hiện các điều tra nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu nhập và chi dùng cho nhà ở, tình trạng nhà ở và xu hướng thay đổi, nâng cấp chỗ ở. Những dữ liệu thu được từ các cuộc điều tra về mức sống dân cư, tổng điều tra dân số và nhà ở v.v. . . là những nguồn 72 thông tin hết sức phong phú và đáng tin cậy cho việc xác định hàm cầu về nhà ở. Bên cạnh việc xây dựng các hàm cầu về nhà ở để xác định xu hướng và dự báo dài hạn về cầu nhà ở, người ta cũng cần phải xác định cầu nhà ở tại mỗi thời điểm để có các đối sách kịp thời cho thị trường nhà đất. Việc xác định cầu về nhà đất tại mỗi thời điểm có thể căn cứ vào quy mô và kết cấu của các nhóm dân cư, tình trạng nhà ở hiện tại, ngân quỹ tích luỹ cho việc thay đổi cải tạo chỗ ở, giá cả nhà ở hiện tại và diễn biến về mua bán, trao đổi nhà ở diễn ra trên thị trường. Người ta cũng có thể thực hiện các nghiên cứu về nhu cầu mua sắm, xây dựng và thay đổi chỗ ở thông qua các nghiên cứu khảo sát, điều tra phỏng vấn dân cư. Đồ thị 3.1. Mối quan hệ thu nhập và cầu nhà ở b. Độ co giãn của cầu về nhà đất Có nhiều biến số xác định mức cầu như chúng ta đã trình bày trong phần các nhân tố ảnh hưởng. Vấn đề đặt ra là cần đo lường được sự biến động của cầu về nhà đất mỗi khi các biến số này thay đổi. Độ thay đổi của cầu về nhà ở so với độ thay đổi của các yếu tố xác định được gọi là độ co giãn của cầu về nhà .đất. Công thức tổng quát để tính độ co giãn của cầu về nhà đất là: Trong đó: - EY là hệ số co giãn của cầu về nhà đất so với yếu tố Y - Di là tỷ lệ % mức thay đổi về cầu nhà đất khi biến số Y thay đổi -Yi là tỷ lệ % mức thay đổi của biến số Y Mức cầu về đất đai của từng người sản xuất (nhất là cho sản xuất nông nghiệp) phụ thuộc vào giới hạn quy mô tối ưu của sản xuất. Giới hạn quy mô tối ưu của sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc vào tính chất và trình độ của sản xuất. Tương ứng với mỗi trình độ sản xuất đạt được, cầu của người sản xuất về đất đai là một giới hạn, hay nói cách khác là đường cầu không co giãn trong giới hạn của trình độ sản xuất đó. Tuy 73 nhiên trong giai đoạn chuyển giao giữa các trình độ sản xuất, giữa các phương thức kinh doanh thì độ co giãn của cầu là rất lớn. Đồ thị 3.2. Mối quan hệ giữa lượng cầu đất và trình độ sản xuất Trong giai đoạn này, độ co giãn của cầu sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi của công nghệ và tính chất chuyên môn hoá của sản xuất. Sự gia tăng của mức độ đầu tư công nghệ canh tác tiên tiến, sự gia tăng của tỷ trọng chuyên môn hoá sẽ là các biến số quyết định mức gia tăng tương ứng của cầu về đất đai sản xuất. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong giai đoạn chuyển tiếp này hệ số co giãn của cầu về đất đai đối với sự thay đổi của công nghệ và mức độ chuyên môn hoá là tương đối lớn. Độ co giãn của cầu về đất ở và nhà ở phụ thuộc rất lớn vào các biến số: quy mô gia đình, thu nhập và giá cả. Độ co giãn của cầu nhà ở đối với quy mô gia đình là quan hệ so sánh giữa tỷ lệ tăng về cầu so với tỷ lệ tăng số người trong mỗi gia đình. Đồ thị 3.3. Quan hệ giữa quy mô gia đình và cầu về đất Một mối quan hệ thuận chiều là: quy mô gia đình tăng lên cũng kéo theo cầu về diện tích nhà ở và đất ở tăng theo. Tuy nhiên hệ số co giãn này không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào sự thay đổi của quy mô, mà còn tuỳ thuộc vào kết cấu của gia đình. Sự thay đổi về quy mô giữa một gia đình độc thân và một gia đình của một cặp vợ chồng hoặc khi gia đình có thêm con nhỏ làm thay đổi không đáng kể về cầu nhà ở hay nói cách khác độ co giãn của cầu so với quy mô khi đó là rất nhỏ. Trái lại, sự thay đổi về quy r ô gắn liền với sự thay đổi về kết cấu trong gia đình (lập gia đình của con cái, con cái bước sang tuổi trưởng thành, sự hiện diện của người cao tuổi, của nhiều thế hệ 74 cùng sống chung v.v...) sẽ tạo ra độ co giãn khá lớn về cầu nhà ở Khi quy mô gia đình tiếp tục tăng lên với kết cấu gia đình không thay đổi thì cầu về diện tích nhà ở sẽ thay đổi chậm lại và độ co giãn của cầu so với quy mô lại nhỏ dần. Độ co giãn của cầu nhà ở so với thu nhập được xác định là tốc độ biến thiên của cầu so với tốc độ thay đổi của thu nhập. Khi thu nhập còn thấp chưa vượt quá mức thoả mãn nhu cầu tối thiểu về các vật phẩm cơ bản như lương thực, thực phẩm thì độ co giãn của cầu nhà ở đối với thu nhập là rất nhỏ. Khi thu nhập tăng lên vượt qua mức giới hạn đói nghèo thì tỷ lệ của thu nhập được dành để đầu tư cho chỗ ở tăng lên khá nhanh và chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Nhiều nghiên cứu ở các nước đang phát triển đã chỉ ra rằng, khi mức thu nhập tăng lên vượt quá mức nghèo đói, tỷ lệ tích luỹ trong tổng thu nhập của các hộ gia đình để chi dùng cho nhà ở chiếm từ 25 đến 40%. Đó là một tỷ lệ khá cao nhằm để thoả mãn nhu cầu về nhà ở mà khi thu nhập còn thấp, nhu cầu này không có khả năng thanh toán để trở thành cầu thực tế. Do vậy độ co giãn của cầu nhà ở đối với thu nhập là tương đối lớn. Tuy nhiên kết cấu của cầu về nhà ở có sự thay đổi khác nhau giữa các giai đoạn tăng thu nhập, song nhìn tổng thể thì tổng cầu nhà ở có độ co giãn khá lớn đối với sự thay đổi của thu nhập. Đồ thị 3.4. Mức thu nhập với tổng cầu nhà ở Độ co giãn của cầu nhà đất đối với giá cả là quan hệ so sánh giữa tốc độ biến động của cầu so với tốc độ biến thiên của giá cả nhà ở. Nhà ở là nhu cầu tiêu dùng thiết yếu nhưng là vật phẩm tiêu dùng có khả năng thay thế và không có giới hạn tối đa như lương thực, thực phẩm. Do vậy, độ co giãn của cầu nhà đất đối với giá cả là khá nhạy cảm ngay cả khi mức độ thoả mãn về nhà ở còn thấp. Mặc dù nhà ở là mặt hàng tiêu dùng tối cần thiết xếp hàng sau lương thực và thực phẩm, nhưng ở một mức thu nhập cố định, nếu giá nhà ở tăng quá cao một cách tương đối so với thu nhập thì khả năng thanh toán coi như bằng không và khi đó cầu về nhà ở trên thị trường coi như bằng không. Thặng dư tiêu dùng về nhà ở cũng thay đổi rất nhanh khi quy mô tiêu dùng nhà ở còn thấp và tăng lên rất chậm khi quy mô tiêu dùng đã vượt quá giới hạn cần thiết. Do vậy cầu về nhà ở có độ co giãn khá lớn đối với giá cả khi mức tiêu dùng nhà ở bình 75 quân còn thấp và độ co giãn sẽ giảm dần khi mức tiêu dùng đạt đến mức nhu cầu cần thiết. Đồ thị 3.5. Quan hệ giá và lượng cầu 3.2.2. Quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà dết Quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà đất là những vấn đề hết sức nhạy cảm đối với thị trường nhà đất. Một trong những quyết sách quan trọng, có tác dụng rõ nét trong việc điều chỉnh tính chất, mức độ và phạm vi hoạt động của thị trường nhà đất là những quan hệ liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà đất. 3.2.2.1 . Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản Quyền sở hữu về tài sản bao gồm: quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Quyền sở hữu hợp pháp về tài sản là các quyền nêu trên của người sở hữu được pháp luật công nhận và bảo hộ. Điều 17 của Hiến pháp (năm 1992) và điều 1 của Luật Đất đai (năm 1993) đã quy định rõ: đất đai là sở hữu toàn dân, thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Về nhà ở, chúng ta hiện đang có 3 hình thức sở hữu khác nhau: nhà ở thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, nhà ở thuộc quyền sở hữu của các tổ chức xã hội và nhà ở thuộc sở hữu tư nhân. Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy và các thủ tục cần thiết để nhằm chuyển chế độ sở hữu nhà ở của các cơ quan, tổ chức xã hội sang sở hữu Nhà nước và chuyển dần nhà ở từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân của người sử dụng. Như vậy về pháp lý, những quy định về quyền sở hữu và sử dụng đối với đất đai và nhà ở đã được quy định rõ ràng và đầy đủ. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực thi các quy định này còn nhiều vấn đề chưa được phân định rõ nét, nhất là việc thực thi về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Thứ nhất, tính chất hợp pháp của các quyền sở hữu về nhà ở và.quyền sử dụng đất ở đô thị chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Tình trạng này một mặt do sự phát triển nhà ở không tuân thủ các quy tắc và quy định của Nhà nước; mặt khác cũng có thể do các quy định đặt ra không phù hợp và không có cơ sở thực tế để thực thi. Như vậy phải chăng cũng cần phải xem xét cả cách quan niệm về tính hợp pháp của các vấn đề quyền sử dụng đất ở và sở hữu nhà ở đô thị. Thứ hai, sự suy giảm của quyền năng sở hữu Nhà nước về đất và sự lộng quyền của người được phép sử dụng đất đang là vấn đề phổ biến mà xã hội phải chấp nhận. Điều đó làm giảm 76 đi tính pháp lý về quyền sở hữu của Nhà nước đối với nhà ở và đất ở đô thị. 3.2.2.2. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản đối với thị trường nhà đất Nhà đất là một tài sản tiêu dùng có giá trị lớn, do vậy mọi người dân đều rất quan tâm đến tính hợp pháp của tài sản mình sử dụng. Người dân sẵn sàng trả ra một khoản tiền đáng kể để được thừa nhận tính hợp pháp về chỗ ở của mình mặc dù giá trị sử dụng của nó không có gì thay đổi. Một ngôi nhà hợp pháp chắc chắn sẽ được người mua chấp nhận với giá cao hơn nhiều so với một ngôi nhà chưa được thừa nhận là hợp pháp. Điều đó cho thấy rõ rằng quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà đất là những nhân tố tác động rất lớn đến thị trường nhà ở. Việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về nhà ở và quyền sử dụng hợp pháp về đất ở là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng cầu về nhà đất. Các quyền mua bán, chuyển nhượng được chính thức thừa nhận chính là "giấy phép" cho thị trường nhà đất ra đời và hoạt động hợp pháp. Sự hoạt động của thị trường đen về nhà đất đã xuất hiện và từng tồn tại ngay cả khi Nhà nước không thừa nhận tính hợp pháp của các quan hệ mua bán nhà đất. Tuy nhiên một thị trường đen thường tạo ra các mất cân đối về cung và cứu một cách giả tạo do sự sai lệch của các luồng thông tin không chính thức, sự can thiệp của các thế lực khống chế thị trường. Tính bất hợp pháp thường mang lại lợi ích cục bộ cho một bộ phận và thế lực xã hội. Hợp pháp hoá những phần nhà đất lấn chiếm chính là một phong thưởng cho những người hưởng lợi và những người mang lại quyền lợi cho họ. Do tồn tại tính bất hợp pháp của thị trường ngầm nhà đất nên chính quyền có thể không phải chịu trách nhiệm về các vấn đề cộng đồng vì lý do đó là khu vực bất hợp pháp. Một nhóm người có thể được hưởng lợi khi họ cứ xây dựng và mua bán ngay trên những mảnh đất đô thị hoá nhưng không được coi là đô thị nên không phải chịu các chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai. Việc hạn chế các thủ tục và phạm vi hợp pháp hoá nhà đất cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy thêm tình trạng bất quy tắc. Điều đó làm cho cung về nhà đất hợp pháp luôn bị giới hạn bởi các quy định pháp luật. Như vậy Chính phủ là người giữ thế lực mạnh nhất trong việc điều tiết về lượng cung trên thị trường về nhà đất hợp pháp. Trong khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho nhà đất hợp pháp thì tình trạng chậm cải thiện về tính hợp pháp là nguyên nhân chính đẩy giá nhà đất lên cao. Điều đó muốn khẳng định rằng chính sách điều tiết của Chính phủ về giá cả và thị trường nhà đất không phải là những hỗ trợ trực tiếp về giá vật liệu xây dựng hay kiểm soát giá thuê và giá bán, mà là chính sách mở rộng cung bằng việc mở rộng tính hợp pháp của các nguồn cung nhà đất. Tính hợp pháp về quyền sở hữu và quyền sử dụng nhà đất, được thiết lập chính là cơ sở để thực hiện tính hợp pháp trong quan hệ giao dịch về nhà đất trên thị trường. Chính nhờ đó Nhà nước sẽ kiểm soát và nắm được toàn bộ các diễn biến về giao dịch của thị trường nhà đất cũng như được hưởng lợi từ các quan hệ này thông qua các khoản thu thuế trước bạ chuyển nhượng. 77 3.3. LÝ THUYẾT CUNG VỀ NHÀ ĐẤT 3.3.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng đến cung nhà đất 3.3.1.1. Khái niệm về cung nhà đất Cung nhà đất trên thị trường là một lượng nhà đất sẵn sàng đưa ra trao đổi trên thị trường tại một thời điểm nào đó với một mức giá giới hạn nhất định. Cũng giống như cầu về nhà đất, cung về nhà đất không phải là toàn bộ quỹ nhà đất có thể có mà là lượng nhà đất có thể và sẵn sàng tham gia giao dịch mua bán trên thị trường. Cỏ thể có người có nhiều nhà và đất nhưng nếu họ không có nhu cầu bán hoặc có nhu cầu bán nhưng không phải là bán với mặt bằng giá hiện tại của thị trường mà muốn chờ một cơ hội với mặt bằng giá cao hơn thì nhà đất đó không được tính vào lượng cung tại thời điểm đó. Để các nguồn nhà đất trở thành nguồn cung nhà đất trên thị trường cần có sự hội tụ của các điều kiện sau: - Quỹ nhà đất hiện có phải đạt được các tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường hiện thời, có nghĩa là nó có thể đáp ứng được yêu cầu nào đó và được thị trường chấp nhận về giá trị sử dụng. - Người chủ sở hữu quỹ nhà đất không có mục đích để sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng của mình mà có nhu cầu bán, tức là sẵn sàng chuyển giao nhà đất đó cho người khác. - Giá cả để thực hiện quyền chuyển giao tài sản phải phù hợp với giá mặt bằng chung, tức là phù hợp với khả năng thanh toán và chấp nhận của thị trường. - Phải có thị trường nhà đất xuất hiện và quỹ nhà đất đó tham gia vào giao dịch trên thị trường là được thừa nhận. Cung nhà đất là cung về một loại hàng hoá đặc biệt, nó có những đặc điểm rất đặc thù so với các hàng hoá thông thường khác. Đất đai là một sản phẩm có nguồn gốc vốn có từ tự nhiên với số lượng có giới hạn, con người không thể tự tạo ra thêm đất đai mới để làm tăng cung theo ý muốn. Giữa các loại đất đai, sự thay đổi về cung loại đất đai này có thể làm thay đổi về cung của loại đất đai khác. Một đặc điểm hết sức quan trọng là đất đai có vị trí cố định và gắn liền với các điều kiện vốn có về đặc điểm, điều kiện tự nhiên. Do vậy cung về đất đai không thể điều chỉnh theo không gian cũng như chủng loại hay chất lượng đất đai. Điều đó có thể dẫn đến những mất cân bằng về cung cầu một cách cục bộ về không gian và chủng loại đất đai.cung về đất đai cho các ngành sản xuất thuộc khu vực I có thể được tăng thêm từ các nguồn khai phá đất tự nhiên, đồng thời những phần đất đai khai phá và hiện đang sản xuất ở khu vực 1 ngày càng giảm dần do một phần đất đai được chuyển sang các mục đích sử dụng thuộc khu vực II và khu vực III. Phần lớn nguồn cung đất đai cho các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I do chính những người vốn dĩ đã từng hoạt động tại khu vực này di chuyển sang các lĩnh vực hoạt động khác. Như vậy thực chất của cung đất đai cho sản xuất ở 78 khu vực I là sự lưu chuyển đất đai giữa những người sản xuất trong nội bộ khu vực I chứ không phải là do tăng thêm nguồn cung mới. Trái lại, nguồn cung đất đai cho các hoạt động thuộc khu vực II và III chủ yếu là đất đai sử dụng từ khu vực I chuyển sang. Như vậy, tăng cung đất đai cho các hoạt động của khu vực II và III đồng thời cũng làm giảm cung đất đai của khu vực I. 3.3.1.2. Những nhân mảnh hưởng đến cung về nhà đất a. Quỹ nhà đất trong quy hoạch của Chính phủ Mục đích sử dụng những hàng hoá thông thường do tính năng tác dụng của nó quyết định, trong khi đó mục đích sử dụng của đất đai do Nhà nước là người quản lý và định đoạt. Nhà nước thực hiện quy hoạch và phân định các vùng đất đai dành cho các mục đích sử dụng khác nhau. Một vùng đất nằm ngay trong thành phố, nếu nó được quy hoạch cho sản xuất nông nghiệp thì mảnh đất này không hề có đóng góp gì cho việc tăng cung về nhà đất. Chỉ cần một quyết định của Chính phủ về việc chuyển mục đích sử dụng thì chính mảnh đất đó sẽ ngay lập tức làm tăng cung đất ở và cũng đồng nghĩa với tăng cung về nhà ở. Do vậy tổng cung về nhà đất trước hết phụ thuộc vào quỹ đất được quy hoạch dùng cho xây dựng dân dụng. Đây là cơ sở quan trọng nhất quyết định đến tổng cung về nhà đất, nhất là tăng cung về nguồn nhà đất hợp pháp và tự nó làm triệt tiêu cung về nhà đất bất hợp pháp. b. Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng Mức độ phát triển của kết cấu hạ tầng có tác động rất lớn đến cung về nhà đất. Kết cấu hạ tầng có thể làm thay đổi công dụng và giá trị của nhà đất hiện có. Nhờ có sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng mà điều kiện tiếp cận của đất đai trở nên dễ dàng hơn, nó có thể đáp ứng và thoả mãn được nhiều yêu cầu khác nhau của thị trường và nhờ đó có thể tham gia vào nguồn cung đất đai trên thị trường. Một khu vực đất đai không có hệ thống kết cấu hạ tầng có thể coi như cung bằng không đối với thị trường nhà ở và đất ở. Song cũng vùng đất đó, nếu được xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, khả năng tiếp cận dễ dàng thuận tiện thì đó lại là nguồn cung rất có ý nghĩa đối với thị trường nhà đất. Chính vì vậy, tiếp sau quy hoạch, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng là một giải pháp cực kỳ quan trọng do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương là người quyết định. c. Các yêu tô đầu vào và chi phí phát triển nhà ở Các yếu tố nguyên liệu đầu vào cũng có vai trò rất quan trọng đến lượng cung về nhà ở. Nếu các nguyên vật liệu cho xây dựng nhà ở sẵn có thì khả năng và tốc độ phát triển của ngành xây dựng nhà ở mạnh hơn. Nếu giá cả các nguyên vật liệu xây dựng hạ thì giá thành xây dựng cũng thấp và khả năng cung nhà ở với giá hạ sẽ được mở rộng thêm. Các yếu tố nguyên liệu và kỹ thuật đầu vào của quá trình xây dựng nhà ở còn cho phép tạo ra nguồn cung về nhà ở với các cấp độ khác nhau tạo thêm tính phong phú về cơ cấu nguồn cung. Ngoài ra, ở một số vùng do các điều kiện đặc thù về địa lý 79 và thời tiết, kết cấu nhà ở phải được thiết kế, xây dựng với kỹ thuật đặc biệt và nguyên vật liệu chuyên dùng nên cung nhà ở tại các vùng này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của công nghệ và kỹ thuật xây dựng. d. Chính sách và pháp luật của Nhà nước Khác với các hàng hoá thông thường, cung về nhà đất phụ thuộc rất lớn vào chính sách của Chính phủ về các chế độ quản lý đất đai và nhà ở, về chính sách sử dụng đất và các khoản đầu tư cho phát triển nhà đất. Trước hết là các chế độ quy định về quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà đất Việc quy định rõ ràng và xác lập rộng rãi các quyền này đối với các nguồn đất đai và nhà ở hiện có là điều kiện để các nguồn đất đai và nhà ở này sẵn sàng và có đầy đủ điều kiện tham gia vào thị trường nhà đất hợp pháp. Những nguồn đất đai và nhà ở có thể sử dụng cho phát triển các công trình dân dụng nhưng không được hợp thức hoá về các quyền sở hữu và sử dụng không thể tham gia vào nguồn cung của thị trường bất động sản hợp pháp và không được tính vào nguồn cung chính thức về nhà đất Nếu có chăng nó chỉ tham gia giao dịch ngoài thị trường đen và do vậy nó cũng không được thể hiện mức cung đầy đủ. Tính chủ động và tích cực đón nhận những thay đổi tất yếu về kết cấu dân cư và những chuyển đổi giữa các khu vực hoạt động kinh tế - xã hội là cơ sở để Nhà nước có chủ trương chính sách trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai. Nếu xu thế đô thị hoá diễn ra với áp lực cao, sự dịch chuyển các khu vực hoạt động kinh tế xã hội diễn ra nhanh chóng mà quy hoạch về mục đích sử dụng đất đai không được điều chỉnh kịp thời thì chắc chắn sẽ gây ra một sự thiếu hụt về cung nhà đất. Từ sự mất cân đối giữa cung và cầu dẫn đến sự xuất hiện cả những nguồn cung nhà đất bất hợp pháp, song do thiếu hụt nguồn cung hợp pháp nên các nguồn cung bất hợp pháp vẫn được chấp nhận. Sự hợp pháp hoá về các quyền sở hữu và sử dụng nhà đất cùng với việc thừa nhận và cho ra đời hoạt động công khai của thị trường nhà đất cũng là một nhân tố tác động rất lớn đến lượng cung và cầu về nhà đất. Sự hoạt động công khai hoá của thị trường cho phép mọi đối tượng đều có thể tham gia thị trường, làm phong phú thêm nguồn cung và đa dạng hoá cơ cấu về cung. Một thị trường hoạt động không công khai, không được thừa nhận và không có sự điều tiết của Nhà nước thường bị một số thế lực đen chi phối và điều tiết. Để thu được lợi nhuận, các thế lực này có thể tạo ra sự khan hiếm về cung và tăng cầu một cách giả tạo. Chính vì vậy, tính chất hoạt động của thị trường bất động sản, thái độ cũng như những can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường bất động sản cũng là những tác động hết sức quan trọng đối với sự cân bằng của cung và cầu. Sự thừa nhận và chủ trương đa dạng hoá các nguồn cung về nhà ở cũng là một nhân tố quan trọng mở đường cho việc đa dạng hoá các hình thức phát triển nhà ở và làm phong phú thêm số lượng, đa dạng hơn về cơ cấu của các nguồn cung nhà ở. 80