🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình bệnh động vật thủy sản Ebooks Nhóm Zalo ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM PGS.TS. ĐẶNG XUÂN BÌNH (Chủ biên), TS. BÙI QUANG TỀ, ThS. ĐOÀN QUỐC KHÁNH ISBN 978-604-60-0069-3 GIÁO TRÌNH BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN (Dùng cho hệ Đại học) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP Hà Nội - 2012 1 2 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 5 BÀI MỞ ĐẦU 7 1. Vị trí, nội dung và nhiệm vụ của môn học “bệnh động vật thủy sản” 7 2. Mối quan hệ giữa môn bệnh động vật thủy sản với các môn học khác 8 3. Lịch sử phát triển của bệnh học thủy sản 8 Chương 1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 11 1.1. Bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng 11 1.2. Bệnh lý 21 1.3. Mối quan hệ giữa các nhân tố gây bệnh cho thủy sản 36 1.4. Phương pháp chẩn đoán bệnh 48 Chương 2. NGUYÊN LÝ PHÒNG TRỊ BỆNH Ở ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 53 2.1. Nguyên lý phòng trị bệnh cho động vật thủy sản 53 2.2. Biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp cho động vật thủy sản 53 2.3. Tăng cường sức đề kháng bệnh cho động vật thủy sản 58 Chương 3. THUỐC PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 63 3.1. Tác dụng của thuốc 63 3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc 64 3.3. Một số hoá chất và thuốc thường dùng cho nuôi trồng thủy sản 70 Chương 4. BỆNH DO VIRUS 93 4.1. Bệnh xuất huyết do virus ở cá chép 93 4.2. Bệnh xuất huyết do virus ở cá trắm cỏ 95 4.3. Bệnh khối u tế bào lympho 98 4.4. Bệnh “ngủ” do Iridovirus ở cá biển 99 4.5. Bệnh hoại tử thần kinh (viral nervous necrosis) do nodavirus 100 4.6. Bệnh do Monodon baculovirus ở tôm sú 102 4.7. Bệnh đốm trắng do Whispovirus ở tôm (White Spot Syndrome-WSS) 104 4.8. Bệnh đầu vàng do Yellowhead virus ở tôm sú (Yellowhead Disease-YHD) 106 4.9. Bệnh truyền nhiễm hoại tử ở tôm (Infectious Hypodermal and Hematopoitic Necrosis IHHNV) 108 4.10. Bệnh truyền nhiễm gan tụy tôm he do Parvovirus (Hepatopancreatic Parvovirus Disease - HPV) 109 4.11. Bệnh đỏ đuôi ở tôm he chân trắng (Taura Syndrom Virus-TSV) 112 Chương 5. BỆNH DO VI KHUẨN 115 5.1. Bệnh nhiễm trùng xuất huyết (Bacterial Hemorrhagic Septicemia) do Aeromonas hydrophila ở động vật thủy sản 115 5.2. Bệnh do vi khuẩn vibrio ở động vật thủy sản 117 5.3. Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas ở động vật thủy sản 120 3 5.4. Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Edwardsiella ở cá 121 5.5. Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Streptococcus ở cá 122 5.6. Bệnh đục cơ của tôm càng xanh 124 5.7. Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium 125 5.8. Bệnh vi khuẩn dạng sợi ở cá (bệnh hình trụ-Columnaris Disease) 126 5.9. Bệnh vi khuẩn dạng sợi ở tôm 129 5.10. Bệnh thối mang ở cá 130 5.11. Bệnh đốm trắng do vi khuẩn ở tôm (Bacterial White Spot Syndrome-BWSS) 131 Chương 6. BỆNH DO NẤM 133 6.1. Đặc điểm chung của nấm 133 6.2. Bệnh nấm hạt Dermocystidiosis 134 6.3. Bệnh nấm hạt Ichthyophonosis 136 6.4. Hội chứng dịch bệnh lở loét ở cá 137 6.5. Bệnh nấm mang ở cá 142 6.6. Bệnh nấm thủy my ở động vật thủy sản nước ngọt 143 6.7. Bệnh nấm ở động vật thủy sản nước mặn 145 Chương 7. BỆNH DO KÝ SINH ĐƠN BÀO (PROTOZOA) 147 7.1. Bệnh do ngành trùng roi Mastigophora diesing, 1866 147 7.2. Bệnh do ngành opalinata wenyon, 1926 152 7.3. Bệnh do ngành trùng bào tử Sporozoa leuckart, 1872 Emend, Kryloo Dobrovolsky, 1980 153 7.4. Bệnh do ngành trùng vi bào tử Mycrosporidia balbiani, 1882 158 7.5. Bệnh do ngành trùng bào tử sợi Cnidosporidia doflein, 1901; Emend, Schulman và Pcollipaev, 1980 161 7.6. Bệnh do ngành trùng lông Ciliophora doflein, 1901 167 Chương 8. BỆNH DO GIUN SÁN 191 8.1. Bệnh do ngành giun dẹp Plathelminthes 191 8.2. Bệnh do ngành giun tròn Nemathelminthes schneider, 1866 ký sinh ở động vật thủy sản 234 8.3. Ngành giun đầu gai Acanthocephala (Rudolphi, 1808) Skrjabin và Schulz, 1931 ký sinh ở động vật thủy sản 247 8.4. Bệnh do ngành giun đốt annelida ký sinh ở động vật thủy sản 254 8.5. Bệnh do ngành nhuyễn thể mollusca ký sinh ở cá 256 Chương 9. BỆNH DO NGÀNH CHÂN KHỚP ARTHROPODA 258 9.1. Bệnh do bộ chân chèo Copepoda ký sinh gây bệnh ở động vật thủy sản 258 9.2. Bệnh do bộ Branchiura ký sinh gây bệnh ở cá... Bệnh rận cá 273 9.3. Bệnh do bộ chân đều Isopoda ký sinh trên cá 278 Phụ lục. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ BỆNH VÀ TÁC NHÂN GÂY BỆNH MINH HỌA CHO GIÁO TRÌNH 285 TÀI LIỆU THAM KHẢO 289 4 LỜI NÓI ĐẦU Trong chăn nuôi động vật thủy sản, việc hiểu rõ sự tác động ảnh hưởng của các sinh vật, vi sinh vật gây bệnh và yếu tố môi trường đối với cơ thể vật nuôi có ý nghĩa quan trọng để dịch bệnh không xảy ra, đồng thời bảo đảm sức khỏe cho động vật thủy sản và an toàn vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật thủy sản phục vụ cho con người. Mặt khác, việc áp dụng các biện pháp quản lý kỹ thuật phòng chống dịch bệnh khoa học có một ý nghĩa hết sức quan trọng khác để hạn chế ô nhiễm môi trường, bảo vệ và phát triển động vật thủy sản. Với mong muốn nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy cho sinh viên hệ đại học chuyên ngành đào tạo Kỹ sư Nuôi trồng Thủy sản và Bác sĩ Thú y, đồng thời bổ sung nguồn tài liệu chuyên khảo cho các cán bộ kỹ thuật trong ngành, chúng tôi đã biên soạn giáo trình “Bệnh động vật thủy sản”. Cuốn giáo trình Bệnh động vật thủy sản của chúng tôi được biên soạn dựa trên những tài liệu có liên quan đến bệnh ở động vật thủy sản đã được xuất bản trên thế giới và các chuyên ngành khác có liên quan như: Vi sinh vật học Thủy sản; Dịch tễ học; Miễn dịch học; Dược lý... đồng thời cập nhật kết quả nghiên cứu khoa học mới ở trong và ngoài nước, ngoài ra có phối hợp với một số nhà khoa học ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I. Khi biên soạn giáo trình, chúng tôi đã cố gắng thể hiện tính cơ bản, khoa học, hiện đại và tính hệ thống của môn học nhằm cung cấp cho người đọc những kiến thức cần thiết về bệnh ở động vật thủy sản tại Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên, do trình độ và khả năng có hạn nên sẽ không tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để từng bước hoàn thiện Giáo trình trong lần tái bản sau. Chúng tôi xin chân thành tiếp thu và cảm ơn! TẬP THỂ TÁC GIẢ 5 6 BÀI MỞ ĐẦU 1. VỊ TRÍ, NỘI DUNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC “BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN” 1.1. Vị trí môn học Nghề nuôi trồng thủy sản trong những năm gần đây đang phát triển rất nhanh. Mục đích của người nuôi trồng thủy sản là thu được hiệu quả cao nhất, sử dụng mọi điều kiện có thể huy động được. Do vậy, động vật thủy sản rất dễ bị mắc bệnh. Các yếu tố môi trường như chất lượng nước xấu, nhiệt độ không thích hợp, mật độ nuôi dày, quản lý chăm sóc kém, thức ăn và con giống không đảm bảo chất lượng làm cho động vật thủy sản bị giảm sức đề kháng, các tác nhân gây bệnh phát triển. Đồng thời, động vật thủy sản sống trong môi trường nước với mật độ nuôi cao làm cho bệnh có điều kiện lây lan nhanh chóng và gây thiệt hại lớn. Việc nghiên cứu bệnh ở động vật thủy sản và đưa ra các biện pháp phòng trị có hiệu quả đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng và sản lượng nuôi trồng thủy sản. Trong nuôi trồng thủy sản, bên cạnh các môn học chuyên môn khác như: sản xuất giống, nuôi cá tôm thương phẩm, công trình... thì môn học nghiên cứu về bệnh động vật thủy sản là một môn học quan trọng, nhằm trang bị cho kỹ sư Nuôi trồng Thủy sản, bác sĩ Thú y một kiến thức toàn diện để có khả năng quản lý tốt dịch bệnh của các đàn cá, đàn tôm nuôi với mục đích sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt. 1.2. Nội dung môn học Chương trình môn bệnh động vật thủy sản gồm các nội dung sau: - Giới thiệu những khái niệm cơ bản về bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng. - Những khái niệm cơ bản về bệnh lý ở động vật thủy sản - Giới thiệu các biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh cho động vật thủy sản - Giới thiệu một số bệnh phổ biến và gây tác hại lớn ở động vật thủy sản, đặc biệt các bệnh ở Việt Nam, bao gồm các bệnh: bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn, nấm, bệnh do ký sinh trùng, sinh vật hại cá, tôm. 1.3. Nhiệm vụ của môn học Trước đây nghề nuôi trồng thủy sản chưa phát triển, các đối tượng nuôi chủ yếu là cá, do đó bệnh chỉ nghiên cứu trên đối tượng cá và có tên là môn bệnh cá học 7 (Ichthyopathology). Sau thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở lại đây, phong trào nuôi trồng thủy sản phát triển, ngoài đối tượng nuôi cá, các đối tượng khác được nghiên cứu để nuôi: giáp xác, nhuyễn thể... cho nên môn học phải nghiên cứu các bệnh của động vật thủy sản (Pathology of Aquatic Animal) mới đáp ứng được cho sản xuất. Môn bệnh ở động vật thủy sản có nhiệm vụ trang bị cho học viên những kiến thức toàn diện về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản nói chung và kiến thức chuyên sâu: Khái niệm cơ bản về bệnh học, các yếu tố liên quan đến bệnh, phương pháp chẩn đoán bệnh, các phương pháp phòng trị bệnh tổng hợp, những bệnh thường gặp gây nguy hiểm cho nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam. 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC - Liên quan đến các môn sinh học cơ bản và cơ sở: Sinh học đại cương, động vật học, thực vật học, thủy sinh học, vi sinh vật học, ngư loại học... - Liên quan đến môn hóa học: Vô cơ, hữu cơ, hóa sinh, hóa lý... - Liên quan đến kỹ thuật nuôi: Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá nước ngọt, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá biển công trình nuôi thủy sản... - Liên quan đến ngành thú y. 3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BỆNH HỌC THỦY SẢN 3.1. Thế giới Từ lâu các nhà khoa học đã mô tả một số bệnh cá: Cuối thế kỷ XIX một số tác giả đã xuất bản cuốn sách hướng dẫn bệnh của cá nhưng cơ bản vẫn mô tả các triệu chứng lâm sàng là chủ yếu. Sang đầu thế kỷ XX các nhà khoa học thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và viết sách hướng dẫn các bệnh cá. Bruno Hofer (1904) viết cuốn sách “Bệnh ở cá” (Father of Fish Pathology). Dogiel (1882-1955) thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ là người có công lớn đóng góp nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá: Phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng cá (1929); Bệnh do vi khuẩn ở cá (1939). Những năm 1930, bệnh truyền nhiễm của cá đã được nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm. Tiếp theo đó là các thập kỷ sau này, bệnh cá tiếp tục được nghiên cứu ở các nước phát triển trên thế giới. Phong trào nuôi trồng thủy sản trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là nghề nuôi tôm ở các nước châu Á - Thái Bình Dương vào những năm của thập kỷ 80 của thế kỷ XX thì lịch sử bệnh tôm gắn liền với sự phát triển phong trào nuôi tôm. 8 Kết quả nghiên cứu các tác nhân gây bệnh cho động vật thủy sản đến nay rất phong phú: Bệnh do virus ở cá đến nay đã phân loại được hơn 60 loài virus thuộc 5 họ có cấu trúc ADN hoặc ARN. Bệnh do virus ở nhuyễn thể có 12 loài thuộc 8 họ, bệnh virus ở giáp xác có 15 loài ở tôm và 3 loài ở cua thuộc 5 họ. Trong đó họ Baculoviridae gặp nhiều nhất là 7 bệnh Baculovirus. Vi khuẩn gây bệnh ở động vật thủy sản đã phân lập được vài trăm loài thuộc 9 họ, vi khuẩn điển hình là nhóm vi khuẩn Aeromonas spp., Pseudomonas spp. gây bệnh ở động vật thủy sản nước ngọt và nhóm Vibrio spp. gây bệnh ở động vật thủy sản nước mặn. Nấm gây bệnh ở nước ngọt: Saprolegnia, Achlya, Aphanomyces; nước mặn: Lagenidium sp., Fusarium, Halipthoros sp., Sirolpidium. Ký sinh trùng của động vật thủy sản đến nay chúng ta phân loại được số lượng rất lớn và phong phú. Chỉ tính ký sinh trùng cá nước ngọt thuộc khu vực Liên Xô cũ đã phân loại hơn 2000 loài (1984-1985). 3.2. Việt Nam Bộ môn bệnh cá được hình thành từ đầu năm 1960 thuộc Trạm nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng... Hà Bắc (nay là Bắc Ninh). Người thành lập đầu tiên của bộ môn bệnh cá là Tiến sĩ Hà Ký, nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Việt Nam. Đến nay chúng ta hình thành bộ môn bệnh học trong các phòng nghiên cứu Bệnh thủy sản ở 3 viện I, II, III và có phòng thí nghiệm chẩn đoán bệnh tôm, cá hiện đại, đại diện cho ba miền: Bắc, Trung, Nam và ven biển. Ở một số trường đại học đã có cán bộ giảng dạy nghiên cứu bộ môn bệnh tôm, cá: Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh... Đến nay, chúng ta đã có hàng loạt các công trình công bố trên thế giới và trong nước về kết quả nghiên cứu bệnh trên động vật thủy sản, ở Việt Nam từ cuối năm 1960 trở lại đây: Nghiên cứu ký sinh trùng và bệnh của cá nước ngọt miền bắc Việt Nam đã mô tả 120 loài ký sinh trùng trong đó có 42 loài ký sinh trùng, một giống và một họ phụ mới đối với khoa học. Công trình nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng của một số loài cá nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long, những bệnh thường gặp của cá, tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp phòng trị. Nghiên cứu bệnh ký sinh trùng của một số loài cá nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long và những giải pháp phòng trị đã mô tả 157 loài ký sinh trùng, trong đó có 121 loài lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam. Nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt miền Trung và Tây Nguyên; Nghiên cứu một số bệnh chủ yếu trên tôm Sú nuôi ở khu vực miền Trung Việt Nam. Cho đến nay ở Việt Nam đã nghiên cứu bệnh virus ở tôm Sú là bệnh Monodon Baculovirus, bệnh vàng đầu, bệnh đốm trắng... 9 Đã nghiên cứu 13 bệnh của tôm, cá với các nội dung sau: Phân lập xác định tác nhân gây bệnh, triệu chứng lâm sàng, phân bố và lan truyền bệnh, chẩn đoán, biện pháp phòng trị. Những bệnh đã nghiên cứu: Bệnh xuất huyết đốm đỏ ở cá trắm cỏ nuôi lồng, bệnh xuất huyết cá ba sa nuôi bè, bệnh hoại tử do vi khuẩn ở cá trê, bệnh hoại tử đốm nâu tôm càng xanh, bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm, bệnh đỏ dọc thân ở ấu trùng tôm, bệnh viêm nhiễm sau khi cấy trai ngọc; Nghiên cứu nguyên nhân gây chết tôm ở các tỉnh ven biển phía Nam; Nghiên cứu bệnh truyền nhiễm ở cá trắm cỏ và cá song nuôi lồng biển. Đã phân lập được virus gây bệnh ở tôm Sú nuôi như bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng. 10 Phần 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN Chương 1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 1.1. BỆNH TRUYỀN NHIỄM VÀ BỆNH KÝ SINH TRÙNG 1.1.1. Bệnh truyền nhiễm 1.1.1.1. Định nghĩa về bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản Quá trình truyền nhiễm là hiện tượng tổng hợp xảy ra trong cơ thể sinh vật khi có tác nhân gây bệnh xâm nhập, tác nhân gây bệnh là vi sinh vật: virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào. Quá trình truyền nhiễm thường bao hàm ý nghĩa hẹp hơn, nó chỉ sự nhiễm trùng của cơ thể sinh vật, đôi khi chỉ sự bắt đầu cảm nhiễm, tác nhân gây bệnh chỉ kích thích riêng biệt, có trường hợp không có dấu hiệu bệnh lý. Trong trường hợp tác nhân xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh nhưng chưa có dấu hiệu bệnh lý, lúc này có thể gọi đó là quá trình truyền nhiễm song chưa thể gọi là bệnh truyền nhiễm. Bệnh truyền nhiễm phải kèm theo dấu hiệu bệnh lý. Nhân tố để phát sinh ra bệnh truyền nhiễm: - Có tác nhân gây ra bệnh truyền nhiễm như: virus, vi khuẩn, nấm... - Sinh vật có mang các tác nhân gây bệnh. - Điều kiện môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh thúc đẩy quá trình truyền nhiễm. Kích thước của các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nhìn chung bé hơn kích thước của vật chủ, vật nhiễm song khả năng gây bệnh của chúng rất lớn, nó có thể làm cho vật chủ chết một cách nhanh chóng. Bệnh truyền nhiễm gây tác hại lớn cho vật chủ do: - Sinh vật gây bệnh có khả năng sinh sản nhanh nhất là vius, vi khuẩn chỉ sau mấy giờ số lượng của chúng có thể tăng lên rất nhiều đã tác động làm rối loạn hoạt động sinh lý của cơ thể vật chủ. - Tác nhân gây bệnh còn có khả năng làm thay đổi, hủy hoại tổ chức mô đồng thời có thể tiết ra độc tố phá hoại tổ chức của vật chủ, làm cho các tế bào tổ chức hoạt động không bình thường. 11 1.1.1.2. Nguồn gốc và con đường lan truyền của bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản Nguồn gốc của bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản: Trong các thủy vực tự nhiên: ao, hồ, sông và các đầm, vịnh ven biển thường quan sát thấy động vật thủy sản bị mắc bệnh truyền nhiễm, động vật thủy sản bị bệnh là “ổ dịch tự nhiên”. Từ đó mầm bệnh xâm nhập vào các nguồn nước nuôi thủy sản. Động vật thủy sản bị bệnh truyền nhiễm và những xác động vật thủy sản bị bệnh chết là nguồn gốc chính gây ra bệnh truyền nhiễm. Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản sinh sản rất nhanh làm tăng số lượng, nó đi vào môi trường nước bằng nhiều con đường tùy theo tác nhân gây bệnh như: Theo các vết loét của cá để đi ra nước qua hệ thống cơ quan bài tiết, cơ quan tiêu hóa, cơ quan sinh dục hoặc qua mang, xoang miệng, xoang mũi. Ngoài ra, trong nước có nhiều chất mùn bã hữu cơ, nước thải các nhà máy công nghiệp, nước thải của các trại chăn nuôi gia cầm, gia súc, nước thải sinh hoạt, phân rác... cũng tạo điều kiện cho bệnh truyền nhiễm phát sinh phát triển. Con đường lan truyền của bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản: - Bằng đường tiếp xúc trực tiếp: Động vật thủy sản khỏe mạnh sống chung trong thủy vực cùng với động vật thủy sản mắc bệnh truyền nhiễm, do tiếp xúc trực tiếp, tác nhân gây bệnh truyền từ động vật thủy sản bệnh sang cho động vật thủy sản khỏe. - Do nước: Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm trong cơ thể động vật thủy sản bị bệnh rơi vào môi trường nước và sống tự do trong nước một thời gian, lấy nước có nguồn bệnh vào thủy vực nuôi thủy sản, tác nhân gây bệnh sẽ lây lan cho động vật thủy sản khỏe mạnh. - Do dụng cụ đánh bắt và vận chuyển động vật thủy sản: Khi vận chuyển động vật thủy sản bệnh và đánh bắt động vật thủy sản bệnh, các tác nhân gây bệnh có thể bám vào dụng cụ, nếu dùng dụng cụ này để đánh bắt hoặc vận chuyển động vật thủy sản khỏe thì không những nó làm lây lan bệnh cho động vật thủy sản khỏe mà còn phát tán ra môi trường nước. - Mầm bệnh truyền nhiễm từ đáy ao: Cùng với các chất hữu cơ tồn tại ở đáy ao, tác nhân gây bệnh từ động vật thủy sản mắc bệnh truyền nhiễm, từ xác động vật thủy sản chết do bị bệnh rơi xuống đáy ao và tồn tại ở đó một thời gian. Nếu ao không được tẩy dọn và phơi đáy kỹ khi tiến hành ương nuôi thủy sản, tác nhân gây bệnh từ đáy ao đi vào nước rồi xâm nhập gây bệnh truyền nhiễm cho động vật thủy sản. - Do động vật thủy sản di cư: Động vật thủy sản bị bệnh di cư từ vùng nước này sang vùng nước khác, tác nhân gây bệnh truyền nhiễm vào vùng nước mới, gặp lúc điều kiện môi trường thay đổi không thuận lợi cho đời sống động vật thủy sản, tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể động vật thủy sản khỏe làm cho động vật thủy sản mắc bệnh. - Do chim và các sinh vật ăn động vật thủy sản: Chim, cò, rái cá, chó, mèo... bắt động vật thủy sản bị bệnh truyền nhiễm làm thức ăn, tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có 12 thể bám vào chân, mỏ, miệng, vào cơ thể của chúng, những sinh vật này lại chuyển đến bắt động vật thủy sản ở vùng nước khác thì tác nhân gây bệnh truyền nhiễm từ chúng có thể đi vào nước, chờ cơ hội thuận lợi chúng xâm nhập vào cơ thể động vật thủy sản khỏe làm gây bệnh truyền nhiễm. 1.1.1.3. Động vật thủy sản là nguồn gốc của một số bệnh truyền nhiễm ở người và động vật Cá cũng như giáp xác, nhuyễn thể... là nguồn gốc của một số bệnh truyền nhiễm cho người và gia súc. Trong cơ thể một số động vật thủy sản có mang vi khuẩn gây bệnh dịch tả như: Chlostridium botulinum, Salmonella enteritidis, Proteus vulgaris, Vibrio parahaemolyticus... các loài vi khuẩn này có thể tồn tại trên cơ thể và trong một số loài động vật thủy sản, nó có thể rơi vào nước và gây nhiễm bẩn nguồn nước. Theo Prodnhian, Guritr bằng thí nghiệm đã khẳng định Salmonella suipestifer, Salmonella enteritidis khi đưa vào xoang bụng của cá nó có thể tồn tại trong cơ thể 60 ngày, không những thế nó có thể tồn tại trong cá ướp muối. Vi khuẩn này ở trong nước dễ dàng theo nước vào ruột cá. Nguyên nhân của người mắc bệnh dịch tả có thể do ăn cá sống hoặc cá nấu nướng chưa chín có mang vi khuẩn gây bệnh nên đã truyền qua cho người. Theo A-K Serbina 1973 qua thí nghiệm đã khẳng định khi cá mắc bệnh đốm đỏ có 15-20% số cá có Chlostridium botulinum. Tôm, hàu sống trong môi trường nước thải sinh hoạt, nước thải các chuồng trại chăn nuôi gia cầm, gia súc, nước thải các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp. Người ta đã phát hiện phần lớn chúng có mang vi khuẩn gây bệnh lỵ, bệnh đường ruột, bệnh sốt phát ban... bằng con đường thực nghiệm người ta đã khẳng định vi khuẩn gây sốt phát ban có thể sống trong cơ thể hàu đến 60 ngày. Từ đó người ta đã chứng minh dịch sốt phát ban ở một số nước như: Pháp, Mỹ có liên quan với việc sử dụng hàu, tôm làm thức ăn. Do đó cá, tôm, hàu và một số hải sản dùng để ăn sống cần có chế độ kiểm dịch nghiêm khắc để tránh một số bệnh lây lan cho người. 1.1.2. Bệnh ký sinh trùng 1.1.2.1. Định nghĩa bệnh ký sinh trùng ở động vật thủy sản Trong tự nhiên, cơ thể sinh vật yêu cầu các điều kiện ngoại cảnh có khác nhau do có nhiều chủng loài có phương thức sinh sống riêng, có sự khác biệt ở mỗi giai đoạn phát triển. Có một số sinh vật sống tự do, có một số sống cộng sinh, trái lại có sinh vật trong từng giai đoạn hay cả quá trình sống nhất thiết phải sống ở bên trong hay bên ngoài cơ thể một sinh vật khác để lấy chất dinh dưỡng mà sống hoặc lấy dịch thể hoặc tế bào tổ chức của sinh vật đó làm thức ăn duy trì sự sống của nó và phát sinh tác hại cho sinh vật kia gọi là phương thức sống ký sinh hay còn gọi là sự ký sinh. 13 Sinh vật sống ký sinh gọi là sinh vật ký sinh. Động vật sống ký sinh gọi là ký sinh trùng. Sinh vật bị sinh vật khác ký sinh gây tác hại gọi là vật chủ. Vật chủ không những là nguồn cung cấp thức ăn cho ký sinh trùng mà còn là nơi cư trú tạm thời hay vĩnh cửu của nó. Các loại biểu hiện sự hoạt động của ký sinh trùng và mối quan hệ qua lại giữa ký sinh trùng với vật chủ gọi là hiện tượng ký sinh. Khoa học nghiên cứu có hệ thống các hiện tượng ký sinh gọi là ký sinh trùng học. 1.1.2.2. Nguồn gốc của sinh vật sống ký sinh Nguồn gốc của sinh vật sống ký sinh được chia làm 2 giai đoạn: Sinh vật từ phương thức sinh sống cộng sinh đến ký sinh: Cộng sinh là 2 sinh vật tạm thời hay lâu dài sống chung với nhau, cả 2 đều có lợi hay 1 sinh vật có lợi (cộng sinh phiến lợi) nhưng không ảnh hưởng đến sinh vật kia, 2 sinh vật sinh sống cộng sinh trong quá trình tiến hóa, một bên phát sinh ra tác hại cho bên kia, lúc này từ cộng sinh chuyển qua ký sinh, ví dụ như amíp: Endamoeba histokytica Schaudinn sống trong ruột người dưới dạng thể dinh dưỡng nhỏ, chúng lấy các chất cặn bã để tồn tại không gây tác hại cho con người lúc này nó là cộng sinh phiến lợi, nhưng lúc cơ thể vật chủ do bị bệnh tế bào tổ chức thành ruột bị tổn thương, sức đề kháng yếu, amíp thể dinh dưỡng nhỏ tiết ra men phá hoại tế bào tổ chức ruột chui vào tầng niêm mạc ruột chuyển thành amíp thể dinh dưỡng lớn có thể gây bệnh cho người. Như vậy từ cộng sinh amíp đã chuyển qua ký sinh. Sinh vật từ phương thức sinh sống tự do sang ký sinh giả đến ký sinh thật: Tổ tiên của ký sinh trùng có thể sinh sống tự do, trong quá trình sống do một cơ hội ngẫu nhiên, nó có thể sống trên bề mặt hay bên trong cơ thể sinh vật khác, dần dần nó thích ứng với môi trường sống mới, ở đây có thể thoả mãn được các điều kiện sống, nó bắt đầu tác hại đến sinh vật kia trở thành sinh sống ký sinh. Phương thức sinh sống ký sinh này được hình thành thường do ngẫu nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần thông qua ký sinh giả rồi đến ký sinh thật. Tổ tiên của sinh vật ký sinh trải qua một quá trình lâu dài để thích nghi với hoàn cảnh môi trường mới, về hình thái cấu tạo và đặc tính sinh lý, sinh hóa của cơ thể có sự biến đổi lớn, một số cơ quan trong quá trình sinh sống ký sinh không cần thiết thì thoái hóa hoặc tiêu giảm như cơ quan cảm giác, cơ quan vận động... những cơ quan để đảm bảo sự tồn tại của nòi giống và đời sống ký sinh thì phát triển mạnh như cơ quan bám, cơ quan sinh dục. Một số đặc tính sinh học mới được hình thành và dần dần ổn định và di truyền cho đời sau, qua nhiều thế hệ cấu tạo cơ thể càng thích nghi với đời sống ký sinh. 1.1.2.3. Phương thức và chủng loại ký sinh Phương thức ký sinh: Dựa theo tính chất ký sinh của ký sinh trùng để chia: - Ký sinh giả: Ký sinh trùng ký sinh giả thông thường trong điều kiện bình thường sống tự do chỉ đặc biệt mới sống ký sinh ví dụ như: Haemopis sp. sống tự do khi tiếp xúc với động vật lớn chuyển qua sống ký sinh. 14 - Ký sinh thật: Ký sinh trùng trong từng giai đoạn hay toàn bộ quá trình sống của nó đều lấy dinh dưỡng của vật chủ, cơ thể vật chủ là môi trường sống của nó. Dựa vào thời gian ký sinh có thể chia ra làm 2 loại: + Ký sinh có tính chất tạm thời: Ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ thời gian rất ngắn, chỉ lúc nào lấy thức ăn mới ký sinh như đỉa cá Piscicola sp. hút máu cá. + Ký sinh mang tính chất thường xuyên: Một giai đoạn, nhiều giai đoạn hay cả quá trình sống ký sinh trùng nhất thiết phải ký sinh trên vật chủ. Ký sinh thường xuyên lại chia ra ký sinh giai đoạn và ký sinh suốt đời.  Ký sinh giai đoạn: Chỉ một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển ký sinh trùng sống ký sinh. Trong toàn bộ quá trình sống của ký sinh trùng có giai đoạn sống tự do, có giai đoạn sống ký sinh như: Giống giáp xác chân đốt Sinergasilus giai đoạn ấu trùng sống tự do, giai đoạn trưởng thành ký sinh trên mang của nhiều loài cá.  Ký sinh suốt đời: Suốt cả quá trình sống ký sinh trùng đều sống ký sinh, nó có thể ký sinh trên một vật chủ hoặc nhiều vật chủ, không có giai đoạn sống tự do nên tách khỏi vật chủ là nó bị chết ví dụ ký sinh trùng Trypanosoma ký sinh trong ruột đỉa cá, đỉa hút máu cá chuyển qua sống trong máu cá. Dựa vào vị trí ký sinh để chia: - Ngoại ký sinh: Ký sinh trùng ký sinh trên bề mặt cơ thể trong từng giai đoạn hay suốt đời đều gọi là ngoại ký sinh. Ở cá ký sinh trùng ký sinh trên da, trên vây, trên mang, hốc mũi, xoang miệng, ở tôm ký sinh trên vỏ, phần phụ, mang đều là ngoại ký sinh ví dụ như Trichodina, Ichthyophthirius, Zoothamnium, Epistylis, Acineta, Argulus, Lernaea... - Nội ký sinh: Là chỉ ký sinh trùng ký sinh trong các cơ quan nội tạng, trong tổ chức trong xoang của vật chủ như: vi bào tử (microspore) ký sinh trong cơ của tôm, sán lá Sanguinicola sp. ký sinh trong máu cá. Sán dây Caryophyllaeus sp., giun đầu gai Acanthocephala ký sinh trong ruột cá. Ngoài 2 loại ký sinh trên còn có hiện tượng ký sinh cấp hai (siêu ký sinh), bản thân ký sinh trùng có thể làm vật chủ của ký sinh trùng khác ví dụ: sán lá đơn chủ Gyrodactylus sp. ký sinh trên cá nhưng nguyên sinh động vật Trichodina sp lại ký sinh trên sán lá đơn chủ Gyrodactylus sp. Như vậy sán lá đơn chủ Gyrodactylus là vật chủ của Trichodina nhưng lại là ký sinh trùng của cá. Tương tự như trùng mỏ neo Lernaea ký sinh trên cá, nguyên sinh động vật Zoothamnium sp. ký sinh trên trùng mỏ neo Lernaea, ấu trùng giai đoạn thứ ba của giun tròn Spironoura babei Ha Ky, ký sinh trong ruột tịt của sán lá Amurotrema dombrowskajae Achmerov, giun tròn và sán lá đều ký sinh trong ruột của cá bỗng (Spinibarbichthys denticulatus). Các loại vật chủ: Có rất nhiều loài ký sinh trùng trong quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm hình thái cấu tạo và yêu cầu điều kiện môi trường sống khác nhau 15 nên có sự chuyển đổi vật chủ. Thường chia ra làm các loại vật chủ theo hình thức ký sinh của ký sinh trùng. - Vật chủ cuối cùng: Ký sinh trùng ở giai đoạn trưởng thành hay giai đoạn sinh sản hữu tính ký sinh lên vật chủ thì gọi là vật chủ cuối cùng. - Vật chủ trung gian: Ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng hay giai đoạn sinh sản vô tính ký sinh lên vật chủ gọi là vật chủ trung gian. Giai đoạn ấu trùng và giai đoạn sinh sản vô tính nếu ký sinh qua 2 vật chủ trung gian thì vật chủ đầu tiên là vật chủ trung gian thứ nhất còn vật chủ tiếp là vật chủ trung gian thứ 2. - Vật chủ bảo trùng (lưu giữ): Có một số ký sinh trùng ký sinh trên nhiều cơ thể động vật, loại động vật này có thể trở thành nguồn gốc gián tiếp để cảm nhiễm ký sinh trùng cho động vật kia thì gọi là vật chủ bảo trùng ví dụ sán lá Chlonorchis sinensis Cobbold, 1875 giai đoạn ấu trùng ký sinh trong cơ thể vật chủ trung gian thứ nhất là ốc Bithynina longiornis và vật chủ trung gian thứ 2 là các loài cá nước ngọt. Giai đoạn trưởng thành ký sinh trong gan, mật vật chủ cuối cùng là người, mèo, chó và một số động vật có vú. Đứng về quan điểm ký sinh trùng học của người thì chó mèo là vật chủ bảo trùng. Do đó muốn tiêu diệt bệnh sán lá gan thì không những diệt vật chủ trung gian mà cần diệt vật chủ bảo trùng. Ví dụ đối với cá, ký sinh trùng Cryptobia branchialis ký sinh trên mang cá trắm gây bệnh mang nghiêm trọng nhưng cũng loài này bám trên mang cá mè trắng, cá mè hoa với số lượng nhiều hơn ở cá trắm, cá mè vẫn không bị bệnh do hai loài cá này bản thân có khả năng miễn dịch tự nhiên. Trường hợp này cá mè là vật chủ lưu giữ (bảo trùng) của bệnh Cryptobia branchialis. Trong các ao nuôi cá thường nuôi ghép nhiều loài cá nên muốn phòng bệnh Cryptobia branchialis cho cá trắm phải kiểm tra cẩn thận các loài cá cùng nuôi để xử lý tiêu độc các vật chủ lưu giữ mới phòng bệnh cho cá trắm được triệt để. 1.1.2.4. Phương thức nhiễm của ký sinh trùng Ký sinh trùng nhiễm chủ yếu bằng 2 con đường: Nhiễm qua miệng: Trứng, ấu trùng, bào nang của ký sinh trùng theo thức ăn, theo nước vào ruột gây bệnh cho cá như: Bào tử trùng Goussia sp., giun tròn Capillaria sp. Nhiễm qua da: Ký sinh trùng qua da hoặc niêm mạc ở cá còn qua vây và mang đi vào cơ thể gây bệnh cho vật chủ, nhiễm qua da có 2 loại: - Nhiễm qua da chủ động: Ấu trùng chủ động chui qua da hoặc niêm mạc vào trong cơ thể vật chủ, ví dụ ấu trùng sán lá Posthodiplostonum cuticola đục thủng da và chui vào lớp dưới da tiếp tục phát triển. 16 - Nhiễm qua da bị động: Ký sinh trùng thông qua vật môi giới vào được da của vật chủ để ký sinh gây bệnh. Ví dụ: Ký sinh trùng Trypanosoma sp. nhờ đỉa cá đục thủng da hút máu cá ký sinh trùng từ ruột đỉa vào máu cá. 1.1.2.5. Mối quan hệ giữa ký sinh trùng, vật chủ và điều kiện môi trường Ký sinh trùng, vật chủ và điều kiện môi trường có quan hệ với nhau rất mật thiết. Quan hệ giữa ký sinh trùng với vật chủ phụ thuộc vào giai đoạn phát triển, chủng loại, số lượng ký sinh trùng, vị trí ký sinh và tình trạng cơ thể vật chủ. Điều kiện môi trường sống của vật chủ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến ký sinh trùng, vật chủ và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Tác động của ký sinh trùng đối với vật chủ: Ký sinh trùng khi ký sinh lên vật chủ gây hậu quả, tác hại ở mức độ tuy có khác nhau nhưng nhìn chung làm cho cơ thể vật chủ sinh trưởng chậm, phát dục không tốt, sức đề kháng giảm, có thể bị chết. Có thể tóm tắt ảnh hưởng của ký sinh trùng đối với vật chủ như sau: - Tác động kích thích cơ học và gây tổn thương tế bào tổ chức: Đây là loại tác dụng thông thường nhất của ký sinh trùng đối với vật chủ như ban đêm giun kim bò ra quanh hậu môn làm cho người có giun kim ký sinh ngứa ngáy khó chịu. Rận cá Argulus dùng cơ quan miệng và gai ở bụng cào lên da cá kích thích làm cho cá khó chịu bơi lội loạn xạ hoặc nhảy lên mặt nước. Ký sinh trùng gây tổn thương các tổ chức cơ quan vật chủ hiện tượng này rất phổ biến nhưng mức độ có khác nhau, nếu gây tổn thương nghiêm trọng có thể làm cho tính hoàn chỉnh của các cơ quan bị phá hoại, các tế bào bong ra gây thành sẹo, tổ chức bị tụ máu và tiết ra nhiều niêm dịch, ví dụ như: Sán lá đơn chủ giáp xác ký sinh trên da và mang cá phá hoại tổ chức da và mang. - Tác động đè nén và làm tắc: Có một số ký sinh trùng ký sinh ở các cơ quan bên trong làm cho một số tổ chức tế bào bị teo nhỏ lại hoặc bị tê liệt rồi chết, loại tác dụng này thường thấy ở tổ chức gan, thận, tuyến sinh dục như sán dây Lingula sp., ký sinh trong xoang họ Cá chép làm cho tuyến sinh dục của cá chỉ phát triển đến giai đoạn II. Một số ký sinh trùng ký sinh có thể chèn ép một số cơ quan quan trọng như tim, não... dẫn đến làm cho vật chủ chết nhanh chóng. Ký sinh trùng ký sinh số lượng lớn trong ruột có thể làm tắc ruột của cá như Acanthocephala sp., Bothriocephalus sp.. Có một số ký sinh số lượng ít nhưng nó có thể kích thích dây thần kinh dẫn đến co giật cũng gây nên tắc nghẽn ruột, tắc động tĩnh mạch. - Tác động lấy chất dinh dưỡng của vật chủ: Tất cả ký sinh trùng thời kỳ ký sinh đều cần chất dinh dưỡng từ vật chủ, vì vậy nên nhiều hay ít vật chủ đều bị mất chất dinh dưỡng gây tổn hại cho cơ thể. Tuy nhiên, với số lượng ký sinh ít hậu quả không thấy rõ chỉ khi nào ký sinh trùng ký sinh với số lượng nhiều mới biểu hiện rõ rệt. 17 Qua nghiên cứu ở họ Cá tầm Acipenseridae, sán lá đơn chủ Nitzschia sturionis ký sinh, mỗi ngày 1 con sán lá đơn chủ hút 0,5 ml máu, lúc cảm nhiễm nghiêm trọng có thể đếm được 300-400 con sán lá. Như vậy, một con cá trong 24 giờ mất đi khoảng 150-200 ml máu làm cho cá gầy đi rất nhanh. Ký sinh trùng Lernaea ký sinh trên cá mè, cá trắm số lượng nhiều do hút máu mà cá rất gầy thường thấy đầu rất to, bụng và đuôi thót lại nếu không xử lý để lâu cá sẽ chết. - Tác động gây độc với vật chủ: Ký sinh trùng trong quá trình ký sinh tiến hành trao đổi chất, bài tiết chất cặn bã lên cơ thể vật chủ đồng thời ký sinh trùng tiết ra chất độc gây độc cho vật chủ. Qua kết quả nghiên cứu ký sinh trùng cá nhiều tài liệu cho biết rận cá Argulus miệng có tuyến tế bào có khả năng tiết ra dịch phá hoại tổ chức da và mang cá, ký sinh trùng Sinergasilus ký sinh trên mang nhiều loài cá nước ngọt nó tiết ra chất làm tan rã tổ chức mang, ký sinh trùng Cryptobia branchialis ký sinh trên mang cá cũng tiết ra độc tố phá hoại tổ chức mang. Đỉa cá hút máu cá tiết ra men chống đông máu, ký sinh trùng Trypanosoma sp có men làm vỡ tế bào hồng cầu. - Làm môi giới gây bệnh: Những sinh vật ký sinh hút máu thường làm môi giới cho một số ký sinh trùng khác xâm nhập vào cơ thể vật chủ ví dụ: Đỉa cá hút máu cá thường mang một số ký sinh trùng lây cho số cá khỏe mạnh. Tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng: Vấn đề tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng rất phức tạp, đối với động vật thủy sản nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều nên sự ảnh hưởng thật cụ thể khó có thể kết luận chính xác. Nhìn chung tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng biểu hiện ở các mặt dưới đây: - Phản ứng của tế bào tổ chức vật chủ: Ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể vật chủ gây kích thích làm cho tế bào tổ chức có phản ứng. Biểu hiện ở nơi ký sinh trùng đi vào tổ chức mô hình thành bào nang hoặc tổ chức xung quanh vị trí ký sinh có hiện tượng tế bào tăng sinh, viêm loét để hạn chế sinh trưởng và phát triển của ký sinh trùng, mặt khác làm cho cơ quan bám của ký sinh trùng kém vững chắc để hạn chế tác hại của ký sinh trùng, có lúc có thể tiêu diệt ký sinh trùng ví dụ: ký sinh trùng quả dưa Ichthyophthirius khi ký sinh trên da cá, da của vật chủ nhận kích thích, tế bào thượng bì tăng sinh bao vây ký sinh trùng thành các bọc trắng lấm tấm nên còn gọi là bệnh “bạch điểm”. Sán lá ký sinh trên da cá và cơ là Posthodiplostonrum cuticola hình thành bào nang, vách có tế bào sắc tố đen bao vây nên da cá có các hạt lấm tấm đen. - Phản ứng của dịch thể: Vật chủ nhận kích thích khi có ký sinh trùng xâm nhập vào sản sinh ra phản ứng dịch thể. Phản ứng dịch thể có nhiều dạng như: phát viêm, thẩm thấu dịch để pha loãng các chất độc, vừa tăng khả năng thực bào làm sạch các dị vật và tế bào chết của bệnh. 18 Nhưng phản ứng dịch thể chủ yếu là sản sinh ra kháng thể, hình thành phản ứng miễn dịch. Phản ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ trước đây người ta cho rằng chỉ có ở các bệnh do vi sinh vật gây ra nhưng qua kết quả nghiên cứu gần đây ký sinh trùng thuộc các ngành: Nguyên sinh động vật, giun sán, giáp xác ký sinh... cơ thể vật chủ cũng có khả năng sản sinh ra miễn dịch chẳng qua khả năng miễn dịch yếu hơn. - Tuổi của vật chủ ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Thường vật chủ trong quá trình phát triển thì cơ thể tăng trưởng, ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ cũng có sự thay đổi cho thích hợp. Đối với ký sinh trùng chu kỳ phát triển có vật chủ trung gian thường diễn ra theo 2 hướng: Một số giống loài ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ có cường độ và tỷ lệ nhiễm giảm đi theo sự tăng lên của tuổi vật chủ, như loài sán dây Bothriocephalus gowkongensis ký sinh trong ruột cá trắm cỏ. Ở cá trắm cỏ dưới 1 tuổi có tỷ lệ và cường độ nhiễm sán cao, do giai đoạn cá hương, cá ăn thức ăn chủ yếu là sinh vật phù du mà Cychlops là vật chủ trung gian của loài sán dây này; cá trắm cỏ trên 1 tuổi tỷ lệ nhiễm thấp do giai đoạn này cá ăn cỏ. Một số ký sinh trùng ký sinh có cường độ và tỷ lệ nhiễm tăng lên theo tuổi của vật chủ do lượng thức ăn tăng làm cho vật chủ trung gian trong thức ăn cũng tăng theo. Do vậy thời gian càng dài khả năng tích tụ và cơ hội nhiễm bệnh càng nhiều. Vì thế cá càng lớn có cường độ và tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng càng cao. Ký sinh trùng là ngoại ký sinh thường có tỷ lệ và cường độ nhiễm phụ thuộc vào diện tích tiếp xúc, cơ thể vật chủ càng lớn ký sinh trùng ký sinh càng nhiều hoặc thời gian sống của vật chủ càng lâu thì ký sinh trùng ký sinh càng nhiều. Do cấu tạo cơ thể, môi trường sống của cá con và cá lớn khác nhau dẫn đến có sự sai khác giữa tỷ lệ và cường độ nhiễm của ký sinh trùng. Một số ký sinh trùng phát triển không qua vật chủ trung gian ít có liên quan đến tuổi của vật chủ như: Chilodonella spp., Trichodina spp. ký sinh trên cá ở các giai đoạn. Tuy nhiên ở giai đoạn cá bột, cá hương, cá giống nuôi mật độ dày, cơ thể còn non nên thường có cường độ và tỷ lệ nhiễm cao và gây thiệt hại lớn cho sản xuất. - Đặc tính ăn của vật chủ ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Trừ ngoại ký sinh và ký sinh trùng chui trực tiếp qua da vào ký sinh bên trong cơ thể vật chủ, còn lại các nội ký sinh trùng chịu tác động rất lớn từ chuỗi thức ăn của cá. Do tính ăn không giống nhau mà chia các loài cá làm 2 nhóm: cá hiền và cá dữ. Cá hiền ăn mùn bã hữu cơ, thực vật thủy sinh, động vật nhỏ nên hay cảm nhiễm ký sinh trùng có chu kỳ phát triển trực tiếp hay giun sán có chu kỳ phát triển qua 1 vật chủ trung gian là động vật phù du ví dụ: cá hiền hay nhiễm ký sinh trùng là bào tử sợi Cnidosporidia, cá trắm cỏ thường nhiễm ký sinh trùng Balantidium. 19 Ngược lại cá dữ ăn các động vật thủy sinh lớn và ăn cá, thường bị nhiễm các giống loài ký sinh trùng có chu kỳ phát triển phức tạp, giai đoạn ấu trùng của ký sinh trùng ký sinh ở các vật chủ là vật mồi của cá dữ như cá nheo, cá thiểu hay cảm nhiễm sán lá song chủ Isoparorchis sp. cá trê, cá vược... thường cảm nhiễm sán lá song chủ Dollfustrema sp. Cá ăn sinh vật đáy hay bị nhiễm các loài giun sán mà quá trình phát triển của chúng có qua vật chủ trung gian là nhuyễn thể, ấu trùng côn trùng... như cá chép thường bị cảm nhiễm sán dây Caryophyllaeus sp. - Tình trạng sức khỏe của vật chủ tác động đến ký sinh trùng: Động vật khỏe mạnh sức đề kháng tăng không dễ dàng bị nhiễm ký sinh trùng, ngược lại động vật gầy yếu sức đề kháng giảm, ký sinh trùng dễ dàng xâm nhập. Ví dụ: Trong các ao nuôi cá nếu mật độ nuôi dày, thức ăn thiếu, môi truờng nước bẩn cá chậm lớn dễ dàng phát sinh ra bệnh vì thế trong quá trình ương nuôi cá hương, cá giống nếu không thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, các ao ương có mật độ dày cá dễ dàng bị cảm nhiễm trùng bánh xe Trichodina hơn ao có mật độ vừa phải và cho ăn đầy đủ. - Quan hệ giữa ký sinh trùng: Trên cùng một vật chủ đồng thời tồn tại một giống hoặc nhiều giống, loài ký sinh trùng khác nhau. Vì vậy, giữa chúng sẽ nảy sinh mối quan hệ tương hỗ hay đối kháng. Có khi ký sinh trùng này tồn tại sẽ ức chế sự phát triển ký sinh trùng kia, từ mối quan hệ này làm ảnh hưởng đến khu hệ ký sinh trùng. Theo Skruptrenko.E.G (1967), khi cá bị nhiễm ký sinh trùng Apiosoma (Glossatella) thì không nhiễm ký sinh trùng Chilodonella và ngược lại. Thường chúng ta gặp ấu trùng động vật nhuyễn thể 2 vỏ ký sinh trên mang cá với cường độ nhiễm cao thì ít gặp sán lá đơn chủ và giáp xác ký sinh nguợc lại cũng như vậy. Một số giống loài ký sinh trùng tuy khác nhau nhưng cùng sống trên cơ thể một vật chủ nó có tác dụng hỗ trợ nhau nên khi gặp ký sinh trùng này đồng thời cũng gặp ký sinh trùng kia cùng tồn tại như: giống ký sinh trùng Trichodina với Chilodonella, Ichthyophthirius; Lernaea với Trichodina; Acanthocephala với Azygia, Asymphylodora. Ảnh hưởng của điều kiện môi trường sống: Ký sinh trùng sống ký sinh trên cơ thể vật chủ chịu tác động bởi môi trường thứ nhất là vật chủ, ngoài ra môi trường vật chủ sống hoặc trực tiếp hay gián tiếp cũng có ảnh hưởng đến ký sinh trùng và mức độ tác hại của ký sinh trùng đối với vật chủ. - Độ muối của thủy vực ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Các yếu tố hóa học ảnh hưởng rất lớn đến ký sinh trùng ký sinh trên động vật thủy sản trong đó đáng lưu ý là độ muối của thủy vực. Độ muối trong các thủy vực ảnh hưởng đến khu hệ của cá và khu hệ vật chủ trung gian, vật chủ cuối cùng của ký sinh trùng. Giữa các giống loài cá sự mẫn cảm giữa ký sinh trùng có khác nhau nên khi khu hệ cá thay đổi ảnh hưởng đến khu hệ ký sinh trùng. Độ muối cao làm ảnh hưởng đến sự phát triển của vật chủ trung gian, ký sinh trùng cá 20 nước ngọt. Vật chủ trung gian là động vật nhuyễn thể, giáp xác cần môi trường có nhiều muối carbonate để tạo vỏ. Độ muối ảnh hưởng đến ký sinh trùng không qua giai đoạn có vật chủ trung gian. Các chất chlorua và muối sunfat trong nước mặn làm ảnh hưởng đến ký sinh trùng là nguyên sinh động vật, sán lá đơn chủ, giáp xác, nhuyễn thể ký sinh trên cá nước ngọt. Các loài cá di cư đẻ trứng, cá con khi ra biển đại bộ phận ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể của nó bị tiêu diệt và ngược lại cá bố mẹ khi vào sông đẻ trứng cũng vậy. - Ảnh hưởng của nhiệt độ nước đến ký sinh trùng: Nhiệt độ nước không những ảnh hưởng trực tiếp đến ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể động vật thủy sản mà còn ảnh hưởng đến vật chủ trung gian, vật chủ cuối cùng và điều kiện môi truờng. Mỗi giống loài ký sinh trùng có thể sống, phát triển trong một khoảng nhiệt độ nước thích ứng. Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều không phát triển được, ví dụ: sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus vastator ở nhiệt độ 24-260C sau khi trưởng thành 4-5 ngày sẽ thành thục và đẻ trứng, 3-4 ngày phôi phát triển tỷ lệ nở 80- 90%, nhưng sán lá đơn chủ 16 móc loài Dactylogyrus extensus thích hợp ở nhiệt độ 150C, nếu nhiệt độ cao tỷ lệ nở của trứng sẽ rất thấp. Ký sinh trùng Trichodina phát triển mạnh vào cuối Xuân đầu mùa hè, nhiệt độ nước trên 300C cường độ và tỷ lệ nhiễm của cá đối với ký sinh trùng Trichodina giảm rõ rệt. Ký sinh trùng mỏ neo Lernaea thường gặp ký sinh trên cá vào mùa vụ đông xuân hoặc đầu mùa hè khi nhiệt độ cao ít bắt gặp chúng ký sinh. Giun tròn Philometra carassi ký sinh trên cá vào mùa xuân đạt số lượng cao nhất nhưng qua mùa thu, mùa hè thì ngược lại. - Đặc điểm của thủy vực ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Thủy vực tự nhiên, thủy vực nuôi động vật thủy sản do có diện tích, độ sâu, độ béo khác nhau nên đã ảnh hưởng đến thành phần số lượng và cường độ nhiễm của ký sinh trùng. Trong các thủy vực tự nhiên số loài ký sinh trùng phong phú hơn trong các ao nuôi cá do khu hệ cá, khu hệ động vật là vật chủ trung gian, vật chủ cuối cùng cũng đa dạng hơn, mặt khác thủy vực ao thường xuyên được tẩy dọn, diệt tạp, tiêu độc, đồng thời nuôi trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, tôm, cá nuôi trong ao mật độ dày có bón phân và cho ăn nên môi trường nước bẩn hơn làm cho ký sinh trùng ký sinh trên tôm, cá phát triển thuận lợi và dễ lây lan nên giống loài ít nhưng cường độ và tỷ lệ nhiễm của ký sinh trùng trên tôm, cá cao hơn các thủy vực tự nhiên. 1.2. BỆNH LÝ 1.2.1. Sự phát sinh và phát triển của bệnh 1.2.1.1. Định nghĩa cơ thể sinh vật bị bệnh Cơ thể sinh vật bị bệnh là hiện tượng rối loạn trạng thái sống bình thường của cơ thể khi có nguyên nhân gây bệnh tác động. Lúc này cơ thể mất đi sự thăng bằng, khả năng thích nghi với môi trường giảm và có biểu hiện triệu chứng bệnh. Lúc quan sát cơ 21 thể sinh vật có bị bệnh hay không cần phải xem xét điều kiện môi trường, ví dụ: Mùa đông trong một số thủy vực nhiệt độ hạ thấp cá nằm yên ở đáy hay ẩn nấp nơi kín không bắt mồi đó là hiện tượng bình thường, còn các mùa khác thời tiết ấm áp cá không ăn là triệu chứng bị bệnh. Hay định nghĩa một cách khác bệnh là sự phản ứng của cơ thể sinh vật với sự biến đổi xấu của môi trường ngoại cảnh, cơ thể nào thích nghi thì tồn tại, không thích nghi thì mắc bệnh và chết. Động vật thủy sản bị bệnh do nhiều nguyên nhân của môi trường gây ra và sự phản ứng của cơ thể động vật thủy sản, các yếu tố này tác dụng tương hỗ lẫn nhau dưới điều kiện nhất định. 1.2.1.2. Nguyên nhân và điều kiện phát sinh ra bệnh ở động vật thủy sản Nắm vững nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh để hiểu rõ bản chất của bệnh và để có biện pháp phòng trị bệnh có hiệu quả. Nguyên nhân phát sinh bệnh: Do kích thích gây bệnh cho cơ thể sinh vật: Cơ thể sinh vật sống trong môi trường chịu tác động vô số kích thích, đa số các yếu tố này không có hại và rất cần để duy trì sự sống cho sinh vật như nhiệt độ nước, pH, oxy... nhưng do tác động bởi cường độ quá mạnh, thời gian quá dài hoặc yếu tố đó không có lợi với bản thân sinh vật. Các kích thích về cơ giới, kích thích vật lý, kích thích hóa học và các kích thích do sinh vật gây ra. Nguyên nhân gây bệnh dễ dàng thấy, phổ biến nhất gây tác hại mạnh mẽ là yếu tố sinh vật (mầm bệnh). Sinh vật tác động đến cá, tôm dưới hình thức ký sinh ở các tế bào tổ chức cơ quan gây bệnh cho cá, tôm. Yếu tố sinh vật có thể tác động trực tiếp đến cá, tôm. Sinh vật có thể tác động gián tiếp đến môi trường của cá, tôm rồi từ đó có thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý bình thường của cá, tôm như một số loài tảo Microcystis, Gymnodinium gây độc cho cá, tôm. Do thiếu các chất cơ thể cần: Trong quá trình sống cơ thể và môi trường có sự liên hệ mật thiết, có tác dụng qua lại, các chất cơ thể cần không có hoặc không đủ làm cho cơ thể biến đổi thậm chí có thể chết như bệnh thiếu dinh dưỡng. Căn cứ vào mức độ có thể chia làm 2 loại: - Do không có hoặc thiếu các chất rất cần để duy trì cơ thể sống, cơ thể cá, tôm sẽ có sự biến đổi rất nhanh chóng thậm chí có thể làm cho cá, tôm chết đột ngột. - Do thiếu một số chất hoặc do điều kiện sống lúc đầu cơ thể sinh vật chưa có biến đổi rõ nhưng cứ kéo dài liên tục thì sẽ làm cho quá trình trao đổi chất bị trở ngại, hoạt động của các hệ men bị rối loạn cơ thể không phát triển được và phát sinh ra bệnh như thiếu chất đạm, mỡ, đường, vitamin, chất khoáng... nếu trong thức ăn của cá, tôm thiếu canxi và photpho thì làm cho cá, tôm bị bệnh còi xương, cong thân, dị hình, mềm vỏ... ngoài ra còn ảnh hưởng đến men tiêu hóa. Do bản thân cơ thể sinh vật có sự thay đổi dẫn đến bị bệnh: Có một số chất và một số tác dụng kích thích trong điều kiện bình thường là yếu tố cần thiết để đáp ứng 22 nhu cầu cơ thể phát triển bình thường nhưng do cơ thể sinh vật có sự thay đổi hoặc một số tổ chức cơ quan có bệnh lý các yếu tố đó trở thành nguyên nhân gây bệnh. Điều kiện để phát sinh bệnh: Cơ thể sinh vật phát sinh ra bệnh không những chỉ do nguyên nhân nhất định mà cần có điều kiện thích hợp. Do điều kiện khác nhau mà nguyên nhân gây bệnh có làm cho cơ thể sinh vật phát sinh ra bệnh hay không. Điều kiện gây bệnh bao gồm bản thân cơ thể sinh vật và điều kiện môi trường. Cơ thể sinh vật như tuổi, tình trạng sức khỏe, đực cái... qua theo dõi trong một ao nuôi cá thịt có nhiều loài cá nhưng loài giáp xác Sinergasilus polycolpus ký sinh trên mang cá mè, cá trắm. Như vậy, điều kiện để ký sinh trùng Sinergasilus polycolpus gây bệnh là trong ao nuôi phải có cá mè, cá trắm. Ký sinh trùng mỏ neo Lernaea polycolpus ký sinh trên da, trên miệng cá mè, Lernaea ctenopharyngodontis ký sinh trên da cá trắm cỏ đều bị nhiễm như vậy, có ấu trùng của giống Lernaea tồn tại nhưng không có đối tượng cá thích hợp như cá mè hoặc cá trắm thì bệnh không xảy ra. Điều kiện môi trường như khí hậu, chất nước, tình hình nuôi dưỡng khu hệ sinh vật ảnh hưởng đến nguyên nhân gây bệnh. Phần lớn các bệnh xuất hiện do vi sinh vật phát triển mạnh trong điều kiện môi trường nuôi cá, tôm bị ô nhiễm, các bệnh do nguyên sinh động vật gây ra thường ở ao ương nuôi cá, tôm mật độ quá dày, thức ăn không đầy đủ, mực nước quá thấp. Các loài sán lá song chủ phát triển và ký sinh trên cá phải nhờ có vật chủ trung gian là ốc Limnae và vật chủ sau cùng là chim. Qua các ví dụ trên chứng tỏ cá hay sinh vật thủy sản khác bị bệnh đều có nguyên nhân nhất định nhưng nó không phải tác dụng cô lập mà dưới điều kiện bên ngoài và bên trong của cơ thể để phát huy tác dụng. Nguyên nhân quyết định quá trình phát sinh và đặc tính cơ bản của bệnh còn điều kiện chỉ có tác dụng làm tăng lên hay cản trở cho quá trình phát sinh phát triển của bệnh, điều kiện ảnh hưởng đến nguyên nhân. Nguyên nhân và điều kiện, hai khái niệm này cũng chỉ tương đối có khi cùng một nhân tố nhưng lúc này là nguyên nhân lúc khác lại là điều kiện. Ví dụ: Không đủ thức ăn cá, tôm chết đói hoặc có lúc thức ăn thiếu cá, tôm bị đói. 1.2.1.3. Phân loại bệnh Phân loại bệnh theo nguyên nhân gây bệnh:  Bệnh do sinh vật gây ra: - Bệnh ký sinh: Chỉ những bệnh do sinh vật ký sinh gây ra: + Bệnh vi sinh vật do virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào gây ra. + Bệnh ký sinh trùng do nguyên sinh động vật, giun sán, đỉa cá, nhuyễn thể, giáp xác gây ra. - Bệnh phi ký sinh: Cá, tôm bị bệnh do sinh vật gây ra nhưng không phải dưới hình thức ký sinh, thường do những loài tảo gây độc cho cá, tôm, thực vật, động vật hại cá. 23  Bệnh do yếu tố phi sinh vật gây ra: Bệnh gây ra cho cá, tôm và các động vật thủy sản khác không phải do sinh vật tác động: + Do các yếu tố cơ học, hóa học, vật lý tác động. + Do sự tác động bởi thiếu các chất và điều kiện mà cơ thể cá cần như các chất dinh dưỡng không đủ, số lượng thức ăn thiếu...  Phân loại bệnh theo tình hình nhiễm: - Nhiễm đơn thuần: Cá, tôm bị bệnh do một số giống loài sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể gây ra. - Nhiễm hỗn hợp: Cá, tôm bị bệnh do cùng một lúc đồng thời 2 hoặc nhiều giống loài sinh vật xâm nhập vào cơ thể gây ra. - Nhiễm đầu tiên: Sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể cá, tôm khỏe mạnh làm phát sinh ra bệnh. - Nhiễm tiếp tục: Cá, tôm bị nhiễm bệnh trên cơ sở đã có nhiễm đầu tiên như cá bị nhiễm nấm thủy my sau khi cơ thể cá đã bị thương. - Nhiễm tái phát: Cá, tôm bị bệnh đã khỏi nhưng không miễn dịch, lần thứ 2 sinh vật gây bệnh xâm nhập vào làm cho cá phát sinh ra bệnh. - Nhiễm lặp lại: Cơ thể cá, tôm bị bệnh đã khỏi nhưng nguyên nhân gây bệnh vẫn còn, tạm thời ở trạng thái cân bằng giữa vật chủ và vật ký sinh nếu có sinh vật gây bệnh cùng chủng loại xâm nhập vào hoặc sức đề kháng của cơ thể yếu sẽ nhiễm.  Phân loại bệnh theo triệu chứng: - Bị bệnh từng bộ phận (cục bộ): Bệnh xảy ra ở cơ quan nào thì quá trình biến đổi bệnh lý chủ yếu xảy ra ở đó, ở cá thường gặp như bệnh ngoài da, bệnh ở mang, bệnh đường ruột, bệnh ngoài cơ và bệnh ở một số cơ quan nội tạng... - Bị bệnh toàn thân: Khi cá, tôm bị bệnh ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể như cá, tôm bị bệnh trúng độc, bị đói, bị thiếu chất dinh dưỡng. Sự phân chia ở trên chỉ là tương đối, với bất kỳ một bệnh nào đó thường không thể chỉ ảnh hưởng cục bộ cho 1 cơ quan mà phải có phản ứng của cơ thể. Bệnh toàn thân bắt đầu biểu hiện ở từng bộ phận và phát triển ra dần toàn bộ cơ thể.  Căn cứ vào tính chất và quá trình phát triển của bệnh để chia: - Bệnh cấp tính: Bệnh cấp tính có quá trình phát triển rất nhanh chóng chỉ trong vòng mấy ngày đến 1-2 tuần. Cơ thể bị bệnh hoạt động sinh lý bình thường biến đổi nhanh chóng thành bệnh lý, có một số bệnh triệu chứng bệnh chưa kịp xuất hiện rõ trên cơ thể nhưng cá đã chết. Ví dụ như bệnh trùng bánh xe ở mang cá giống chỉ trong 24-48 giờ cá đã chết hết, bệnh nấm mang cấp tính chỉ cần 1-3 ngày cá đã chết; bệnh xuất huyết do Reovirus ở cá trắm cỏ, cá bị bệnh sau 3-5 ngày có thể chết tới 60-70%; bệnh phát 24 sáng của ấu trùng tôm khi phát bệnh chỉ cần 1-2 ngày tôm chết hết; bệnh đốm trắng ở giáp xác sau khi phát bệnh từ 3-10 ngày giáp xác trong ao nuôi chết hầu hết. - Bệnh thứ cấp tính: Quá trình phát triển của bệnh tương đối dài từ 2-6 tuần, triệu chứng chủ yếu của bệnh xuất hiện và phát triển như bệnh nấm mang cấp tính, tổ chức mang bị phá hoại, mang bị sưng lở loét, tơ mang bị đứt. - Bệnh mạn tính: Quá trình phát triển của bệnh kéo dài có khi hàng tháng hoặc hàng năm. Nguyên nhân và điều kiện gây bệnh tác dụng trong thời gian dài và không mãnh liệt nhưng cũng không dễ dàng tiêu trừ. Ví dụ như bệnh nấm mang mạn tính của cá biến đổi về bệnh lý rất nhỏ chỉ một số tế bào mang bị chết, mang trắng ra. Bệnh MBV (Penaeus mondon Baculovirus) nhiễm ở tất cả các giai đoạn của tôm Sú, không gây tôm chết ồ ạt nhưng làm cho tôm chậm lớn và tỷ lệ chết dồn tích tới 70%. Trong thực tế ranh giới giữa 3 loại không rõ vì giữa chúng còn có thời kỳ quá độ và tùy điều kiện thay đổi nó có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác.  Các thời kỳ phát triển của bệnh: Dưới tác dụng của các yếu tố gây bệnh, cơ thể sinh vật không lập tức bị bệnh mà phải trải qua một quá trình. Căn cứ vào đặc trưng phát triển từng giai đoạn của bệnh mà chia làm các thời kỳ sau: Thời kỳ ủ bệnh: Là thời kỳ từ khi nguyên nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể đến lúc xuất hiện triệu chứng bệnh đầu tiên, lúc này hoạt động sinh lý bình thường của cá bắt đầu thay đổi. Thời kỳ này dài hay ngắn không giống nhau có khi chỉ mấy phút như hiện tượng trúng độc có khi vài ngày như các bệnh truyền nhiễm, có khi lại mấy tháng, mấy năm như các bệnh ký sinh trùng. Do nó phụ thuộc vào chủng loại, số lượng, phương thức cảm nhiễm của yếu tố gây bệnh cũng như sức đề kháng của vật chủ và điều kiện của môi trường. Cơ thể cá, tôm bị thương không có thời kỳ ủ bệnh. Thời kỳ ủ bệnh chia ra làm 2 giai đoạn: - Từ khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể đến sinh sản, đó là đối với các bệnh do sinh vật ký sinh gây ra. - Từ khi sinh sản đến lúc bị bệnh đầu tiên. Thời kỳ ủ bệnh sinh vật ký sinh tìm mọi cách tích lũy chất dinh dưỡng để tăng cuờng cường độ sinh sản và hoạt động của nó. Về vật chủ trong thời kỳ này tạo ra những yếu tố miễn dịch để phòng vệ. Thời kỳ ủ bệnh nếu cá, tôm được chăm sóc cho ăn đầy đủ, môi trường sống sạch sẽ thì thời kỳ này kéo dài, tác hại đến cá, tôm hầu như không đáng kể. Cần theo dõi trong quá trình ương nuôi cá, tôm để phát hiện sớm và có biện pháp để phòng trị kịp thời trong giai đoạn này là tốt nhất. Thời kỳ tiền phát: Là thời kỳ chuyển tiếp từ lúc xuất hiện dấu hiệu bệnh lý đầu tiên đến lúc bệnh lý rõ ràng. Thời kỳ này tác nhân gây bệnh đã tác động đến tổ chức cơ quan của cá, tôm. Với tác nhân gây bệnh là sinh vật thời kỳ này chúng sinh sản càng mạnh. 25 Thời kỳ tiền phát thường ngắn có một số bệnh triệu chứng không thể hiện rõ như bệnh xuất huyết mang. Thời kỳ toàn phát: Là thời kỳ bệnh phát triển cao nhất, triệu chứng điển hình của bệnh thể hiện rõ. Quá trình trao đổi chất cũng như hình thái cấu tạo của tế bào tổ chức các cơ quan trong cơ thể cá, tôm có sự biến đổi. Thời kỳ này nặng nhất và thường gây tác gại lớn cho cá, tôm. Trong thực tế phân chia rành rọt 3 thời kỳ như trên là rất khó, bởi nó chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng và trong quá trình tiến triển của bệnh thay đổi phức tạp. Thời kỳ cuối: Thời kỳ toàn phát của bệnh do tác động của nhiều yếu tố như: nguyên nhân và điều kiện gây ra bệnh, sức đề kháng của cá, tôm và việc con người áp dụng các biện pháp phòng trị. Kết thúc thời kỳ toàn phát, sau đó bệnh có thể chuyển sang các kết cục sau: - Bệnh của cá, tôm được chữa khỏi cơ thể khôi phục hoàn toàn: Cá, tôm bị bệnh vào thời kỳ phát triển nhưng nếu áp dụng kịp thời các biện pháp phòng trị kết hợp với các quy trình kỹ thuật ương nuôi thì tác nhân gây bệnh bị tiêu diệt, sau một thời gian các dấu hiệu bệnh lý dần dần mất đi, cá, tôm dần dần trở lại hoạt động bình thường, hiện tượng cá, tôm chết do bị bệnh trong thủy vực được chấm dứt. Trong thời kỳ này cần quan tâm cho cá, tôm ăn đủ chất lượng để sức khỏe của cá, tôm được phục hồi nhanh chóng đảm bảo cho cá, tôm sinh trưởng bình thường. - Chưa hoàn toàn hồi phục: Tác nhân gây bệnh cho cá, tôm đã bị tiêu diệt nhưng chưa thật triệt để một phần còn tồn tại trong môi trường nước hoặc ở đáy ao. Thời kỳ này cá, tôm chết giảm đi rất nhiều, dấu hiệu bệnh lý trên những cá thể còn sống sẽ mất dần, các hoạt động của cá, tôm trở lại bình thường. Tuy vậy cá, tôm rất dễ dàng nhiễm bệnh trở lại nếu điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh xảy ra như sức đề kháng của cá, tôm giảm. - Không thể chữa khỏi bệnh: Cơ thể cá, tôm bị tác nhân gây bệnh xâm nhập làm cho nhiều tổ chức cơ quan bị hủy hoại, sức đề kháng của cơ thể cá, tôm giảm dần trong lúc đó tác nhân gây bệnh lại phát triển mạnh sau một thời gian đã gây tác hại lớn đến cá, tôm. Thời gian này hoạt động sinh lý bình thường của cá, tôm không thể hồi phục. Cá, tôm sẽ chết đột ngột hoặc chết dần dần. Ví dụ khi ấp trứng cá chép, phôi phát triển đến giai đoạn hình thành bọc mắt nhưng nếu nấm thủy my bám vào màng trứng, toàn bộ số trứng sắp nở bị cảm nhiễm nấm dẫn đến bị ung. 1.2.2. Quá trình cơ bản của bệnh lý Khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể gây rối loạn sự hoạt động bình thường của các cơ quan, hiện tượng rối loạn ấy gọi là hiện tượng bệnh lý, nhiều bệnh có cùng 1 quá trình bệnh lý thì gọi là quá trình cơ bản của bệnh lý. 1.2.2.1. Gây rối loạn sự hoạt động một phần của hệ thống tuần hoàn Cơ thể muốn duy trì sự sống cần có bộ máy tuần hoàn khỏe mạnh. Hệ thống tuần hoàn không những cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể và thải các chất cặn bã ra ngoài 26 mà khi cơ thể bị bệnh còn tập trung bạch cầu và kháng thể để chống lại tác nhân gây bệnh. Do đó cơ thể bị bệnh, hệ thống tuần hoàn bị rối loạn quá trình trao đổi chất của tế bào tổ chức bị trở ngại, sức đề kháng sẽ yếu thậm chí có thể làm cho cá, tôm bị chết. Sự rối loạn của hệ thống tuần hoàn chia ra làm 2 loại: Rối loạn cục bộ hoặc rối loạn toàn thân. Sự rối loạn một phần bộ máy tuần hoàn chỉ xảy ra ở bộ phận cá biệt của cơ thể những bộ phận khác không nhìn thấy rõ. Rối loạn toàn bộ bộ máy tuần hoàn là lúc chức năng của bộ máy tuần hoàn kém tác dụng. Sự tách biệt giữa rối loạn cục bộ và toàn thân của hệ thống tuần hoàn chỉ là tương đối bởi vì sự rối loạn một phần hệ thống tuần hoàn là biểu hiện cục bộ của sự rối loạn toàn thân mặt khác lúc đầu các cơ quan trong tim, não phát sinh rối loạn cục bộ có thể tiến tới phát triển rối loạn cả hệ thống tuần hoàn do đó cả 2 loại rối loạn có quan hệ mật thiết với nhau, lúc đầu bao giờ cũng bắt đầu từ rối loạn cục bộ. Tụ máu: Bất kỳ một tổ chức hay một cơ quan nào của cơ thể có hàm lượng máu vượt quá số lượng bình thường thì gọi là tụ máu. Hiện tượng đó là do các mao quản, động mạch nhỏ, tĩnh mạch nhỏ dãn ra quá nhiều và chứa đầy máu. Do nguồn gốc máu đưa đến mà chia ra tụ máu động mạch và tụ máu tĩnh mạch. Tụ máu động mạch: Máu từ động mạch lớn đi vào các tổ chức cơ quan vượt quá số lượng bình thường dẫn đến tụ máu động mạch. Có hiện tượng này là do phản xạ làm cho động mạch nhỏ dãn ra, số lượng mao quản hoạt động cũng tăng lên, máu chảy nhanh, trong máu có nhiều oxy, quá trình trao đổi chất của tế bào tổ chức tăng nhanh do đó cục bộ tổ chức bị sưng có máu đỏ tươi, nhiệt độ tăng lên, ở cá, tôm hiện tượng này không rõ. Tụ máu động mạch không phải lúc nào cũng là biểu hiện bệnh lý như lúc ăn trong ống tiêu hóa có tụ máu đó là hiện tượng trong quá trình hoạt động sống của cơ thể sinh vật. Kết quả của tụ máu động mạch quyết định bởi vị trí và quá trình phát triển, nếu tụ máu quá trình trao đổi chất như đột biến trị bệnh, viêm loét tụ máu đó là phản ứng phòng vệ của cơ thể. Tụ máu động mạch nghiêm trọng làm cho lượng máu ở bộ phận khác giảm đột ngột gây ra ảnh hưởng xấu, có lúc xảy ra chảy máu không vỡ càng nguy hiểm đến tính mạng. Tụ máu mãn tính có thể làm cho vách mạch máu của cơ thể dày hơn, thời gian tụ máu của tổ chức không kéo dài thì mức độ ảnh hưởng không nguy hiểm. Tụ máu tĩnh mạch: Máu sau khi đã tiến hành trao đổi chất chảy về tĩnh mạch lớn quá ít máu tích tụ lại trong các mao quản và tĩnh mạch nhỏ quá nhiều thì gọi là tụ máu tĩnh mạch, khi tĩnh mạch tụ máu, máu chảy chậm, quá trình trao đổi chất bị rối loạn, nhiệt độ hạ thấp, oxy trong máu giảm, cơ năng hoạt động của các tổ chức cơ quan yếu. Sau khi tụ máu tĩnh mạch, tính thẩm thấu của vách mạch máu tăng lên làm phát sinh ra hiện tượng phù và tích nước trong tổ chức. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tụ máu tĩnh mạch là do máu trở ra bị trở ngại, có thể vì tĩnh mạch bị đè nén, mạch máu bị tắc. Nếu 27 tụ máu tĩnh mạch nặng, trong máu có nhiều chất độc có khi còn thiếu oxy và thiếu chất dinh dưỡng làm cho chức năng hoạt động của các cơ quan bị rối loạn. Thiếu máu: Khi lượng máu của cơ thể giảm hoặc số lượng hồng cầu trong máu ít đi so với bình thường gây ra hiện tượng thiếu máu, một cơ quan hay tổ chức nào đó của cơ thể bị thiếu máu thì gọi là thiếu máu cục bộ. Bộ phận thiếu máu nhiệt độ sẽ hạ thấp, màu sắc biến nhạt. Tổ chức bị thiếu máu lúc đầu thể tích nhỏ lại nhưng về sau do thiếu dinh dưỡng sản sinh ra hiện tượng phân giải làm cho tổ chức bị phù, thể tích tăng lên như bệnh nấm mang làm cho mang thiếu máu tổ chức mang dẫn đến mang có màu trắng nhạt, một số bộ phận sưng phồng lên. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng thiếu máu có thể do sinh vật hút máu, do tắc mạch máu, do dị tật của bộ máy tuần hoàn hoặc thành phần tạo máu như: Fe, Ca, P... không đủ. Tác hại của việc thiếu máu còn tùy thuộc vào mức độ thiếu máu, thời gian, tính mẫn cảm của tổ chức. Nếu thiếu máu nghiêm trọng có thể làm cho tế bào tổ chức bị chết dần dần, làm tê liệt toàn thân. Chảy máu (xuất huyết): Xuất huyết là hiện tượng máu chảy ra ngoài huyết quản, nếu máu chảy ra ngoài cơ thể thì gọi là xuất huyết ngoài còn máu tích tụ lại trong thể xoang của cơ thể thì gọi là xuất huyết trong, có khi hiện tượng xuất huyết xảy ra cả trong lẫn ngoài cơ thể. Xuất huyết có thể do vách mạch máu bị phá hoại cũng có thể vách mạch máu không bị dập nát nhưng do tính thẩm thấu của vách mạch máu tăng lên mà máu có thể thông qua được ví dụ rận cá Argulus ký sinh bám trên mang và da làm chảy máu. Các nguyên nhân gây ra xuất huyết gồm nhiều yếu tố như cơ học, vật lý, hóa học và sinh vật. Xuất huyết cấp tính làm mất số lượng máu tương đối lớn hoặc các cơ quan trọng yếu bị chảy máu thường dẫn đến hậu quả xấu. Đông máu: Đông máu là hiện tượng một số thành phần của máu trong tim hay trong mạch máu dính lại bị ngưng kết thành khối. Nguyên nhân làm đông máu là lúc vách mạch máu bị thay đổi do bị tổn thương, vách gồ ghề dễ làm cho huyết tiểu bản lắng đọng đồng thời mạch máu sau khi bị tổn thương tầng tế bào thượng bì có khả năng sản sinh ra các sợi keo làm cho huyết bản dính lại, sau đó sẽ nhanh chóng phân giải tạo ra nhiều men lên men liên kết cùng với Ca trong máu làm cho Thrombinnogen biến thành Thrombin. Máu chảy chậm tạo điều kiện thời gian cho máu vừa đông dính trên vách mạch máu thì Fibrinogen chuyển thành Fibrin bền vững làm cho máu ngưng kết. Máu chảy chậm hoặc ngưng kết, huyết tiểu bản có điều kiện tách ra 2 bên vách mạch máu và tiếp đến với màng trong của mạch máu làm tăng khả năng dính kết và lắng đọng, máu chảy chậm còn giúp cho men ngưng kết và các nhân tố ngưng kết máu hoạt động dễ dàng hơn, ngoài ra còn có thể do tính chất của máu thay đổi dẫn đến đông máu. 28 Ba nguyên nhân trên đồng thời tồn tại nhưng sự phản ứng của cơ thể, trạng thái của hệ thống thần kinh có ý nghĩa trong sự hình thành đông máu. Đông máu làm tắc mạch máu gây rối loạn hoạt động của hệ thống tuần hoàn. Tắc mạch máu: Máu không chảy được đến các tổ chức cơ quan, do 1 tác động tổn thương, giọt mỡ xâm nhập vào được mạch máu di chuyển theo máu gây tắc mạch máu. - Do vách mạch máu bị tổn thương giải phóng Protrombokinaza là mầm mống đông máu. - Do sinh vật, ấu trùng, trứng, trùng trưởng thành của ký sinh trùng làm tắc mạch máu như sán lá song chủ Sanguinicola sp. ký sinh trong máu cá, nấm mang ký sinh trên mang. - Do bọt khí: Một số khí có hàm lượng hoà tan trong nước quá cao nó tồn tại dưới dạng bọt khí nhỏ tạo ra sự chênh lệch về áp suất ở bên trong và ngoài mạch máu, bọt khí thẩm thấu vào mạch máu gây tắc mạch máu nhỏ như bọt khí O2. - Tắc mạch do u bướu: Tế bào u bướu ác tính có khả năng đi vào tổ chức vào hệ thống tuần hoàn đến mạch máu, các mạch lâm ba dẫn đến tắc mạch. Sự thay đổi thành phần của máu: Máu gồm có huyết tương và các thành phần hữu hình trong huyết tương là hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu. Tế bào bạch cầu có 5 dạng: Tế bào bạch cầu lympho, tế bào bạch cầu mono, tế bào bạch cầu trung tính (Neutrophin), tế bào bạch cầu ưa axit, tế bào bạch cầu ưa kiềm, tất cả 5 dạng tế bào bạch cầu đều khác tế bào hồng cầu không chứa Hemoglobin. Vì vậy, chúng không có màu. Bạch cầu có thể vận chuyển ngược dòng máu xuyên qua vách mạch máu đi vào các mô, có khả năng di chuyển dạng amíp. Số lượng hồng cầu, bạch cầu thay đổi phụ thuộc vào trạng thái bệnh lý, tình trạng sức khỏe, giai đoạn phát triển, phát dục của mỗi loài cá, tôm đồng thời còn phụ thuộc vào tác nhân gây bệnh. Khi cá, tôm nhiễm bệnh thành phần và số lượng bạch cầu thay đổi, số lượng bạch cầu trung tính và tế bào bạch cầu momo tăng lên nhưng tế bào bạch cầu lympho bị giảm xuống bởi vì tế bào trung tính và tế bào mono có chức năng tiêu diệt vi khuẩn. Nguyên nhân làm cho bạch cầu tập trung là do những chất hóa học và độc tố của sinh vật tiết ra. 29 Theo Bauer.O.N (1977), khi cá bị bệnh nấm mang tế bào bạch cầu lympho bình thường là 95-99% khi cá bắt đầu bị bệnh tế bào lympho giảm xuống 64-75%, tế bào mono bình thường 0,5%, cá bắt đầu bị bệnh lên 2-3%, bạch cầu trung tính 0-2,5% ở cá khỏe tăng lên 8-24% ở cá bệnh. Ở cá khỏe bạch cầu trung tính là 0,2%, cá bị bệnh đốm đỏ dạng mạn tính bạch cầu trung tính 1,5%, cá bị bệnh đốm đỏ dạng cấp tính tăng lên 5-8%. Một số cơ thể cá bị bệnh do ký sinh trùng ký sinh, người ta quan sát thấy lượng bạch cầu ưa axit tăng lên chứng tỏ dạng bạch cầu này đóng vai trò nào đó chống lại tác hại của ký sinh trùng. Hoại tử cục bộ: Hoại tử cục bộ là một bộ phận nào đó của cơ thể do cung cấp máu bị đình trệ làm cho tổ chức ở đó bị hoại tử. Nguyên nhân thường gặp là do xoang động mạch bị tắc, ngoài ra còn có thể do sự đè nén bên ngoài động mạch. Bất kỳ động mạch nào bị tắc không chỉ là do nhân tố cơ học làm cản trở máu chảy mà đồng thời hệ thống thần kinh bị kích thích mạnh làm cho mạch máu bị co giật liên tục cũng dẫn đến hoại tử bộ phận. Phù và tích nước: Dịch thể được tích tụ trong các khe của các tổ chức với số lượng nhiều thì gọi là phù còn dịch thể tích tụ ở trong xoang thì gọi là tích nước. Trong dịch thể này hàm lượng albumin giảm, ở trong cơ thể hay ra ngoài cơ thể đều không liên kết, dịch trong có màu xanh vàng. Thể tích các cơ quan tổ chức bị phù tăng lên bề mặt bóng loáng xanh xao, cơ năng hoạt động của các cơ quan bị giảm sút. Nguyên nhân dẫn đến các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước rất nhiều: Có thể tổ chức bị chèn ép, do tác động cơ giới, cơ thể sinh vật bị đói hoặc thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần thức ăn thiếu, gan bị xơ cứng, thận bị yếu, hệ thống thần kinh bị rối loạn hoặc do ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể. Nhìn chung các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước sau khi tiêu trừ được nguyên nhân gây bệnh có thể hoàn toàn hồi phục. Nếu thời gian quá dài, các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước có những biến đổi quá lớn nên mặc dù nguyên nhân gây bệnh đã tiêu trừ nhưng hiện tượng phù và tích nước vẫn còn làm cho tổ chức bị viêm, chức năng hoạt động của tổ chức vẫn bị rối loạn, một số cơ quan quan trọng như não chẳng hạn bị phù và tích nước dễ dàng làm cho cơ quan vật chủ bị tử vong. 1.2.2.2. Trao đổi chất bị rối loạn Bất kỳ một tổ chức nào lúc nghỉ cũng như lúc hoạt động đều thực hiện quá trình trao đổi chất. Lúc cơ thể hoạt động mạnh, quá trình trao đổi chất tăng lên và ngược lại lúc nghỉ ngơi quá trình trao đổi chất giảm xuống. Quá trình trao đổi chất chịu sự điều tiết của hệ thần kinh trung ương. Trong quá trình đó các chất tham gia trao đổi có liên quan mật thiết với nhau, lúc cơ thể bị bệnh sự hoạt động trao đổi chất về số lượng và 30 chất lượng đều phát sinh ra biến đổi. Để tiện lợi nên tách riêng để thảo luận từng phần trong quá trình trao đổi chất bị rối loạn đã ảnh hưởng đến sự biến đổi của tế bào tổ chức. Teo nhỏ tổ chức: Quá trình trao đổi chất bị rối loạn làm cho thể tích của tổ chức, cơ quan của cơ thể phát triển bình thường nhỏ lại thì gọi là tổ chức bị teo cơ. Tổ chức, cơ quan teo nhỏ có thể do thể tích tế bào nhỏ lại hoặc số lượng tế bào giảm, hai quá trình đồng thời phát sinh hoặc xảy ra trước sau. Tổ chức cơ quan teo nhỏ không phải tất cả đều bị bệnh chỉ khi nào quá trình trao đổi chất bị rối loạn cơ thể mới mắc bệnh. Nguyên nhân làm cho tổ chức bị teo nhỏ: - Do hệ thống thần kinh bị bệnh làm cho quá trình trao đổi chất bị rối loạn dẫn đến tổ chức, cơ quan bị teo nhỏ. - Do bị chèn ép, đè nén lâu ngày làm cho hệ thống tuần hoàn bộ phận bị rối loạn dẫn đến tổ chức cơ quan bị teo nhỏ như ấu trùng sán dây Ligula ký sinh trong ruột cá chép, cá diếc làm cho mô cơ, tuyến sinh dục và một số cơ quan bên trong cá teo nhỏ. - Sự hoạt động của một số tuyến nội tiết mất khả năng điều tiết làm cho tổ chức cơ quan teo nhỏ. Dưới sự điều tiết của hệ thống thần kinh trung ương, các tuyến nội tiết trực tiếp điều tiết quá trình trao đổi chất do đó lúc chức năng hoạt động của tuyến nội tiết bị rối loạn làm cho tổ chức cơ thể bị teo nhỏ như chức năng não suy yếu có thể làm cho tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận teo nhỏ. - Tác dụng hóa học hay vật lý cũng làm cho cơ quan teo nhỏ như các chất phóng xạ... - Một số cơ quan sau một thời gian dài không hoạt động có thể bị teo nhỏ. - Toàn bộ cơ thể sinh vật teo nhỏ có khi do bị đói hoặc do hệ thống tiêu hóa bị tắc, cơ thể thiếu dinh dưỡng dẫn đến cơ thể gầy gò nội tạng teo lại, teo nhỏ biểu hiện trước tiên là tổ chức mỡ đến mô, cơ tim, lá lách, gan và sau cùng là não. Biến đổi về số lượng và chất tế bào, tổ chức: Quá trình trao đổi chất bị rối loạn làm cho số lượng và chất lượng tế bào và các chất đệm của tế bào thay đổi so với bình thường gọi đó là biến đổi tính chất. Có những dạng biến đổi dưới đây: Tế bào, tổ chức cơ quan sưng tấy: Thường do bệnh truyền nhiễm cấp tính, trúng độc, thiếu oxy toàn thân dẫn đến làm cho tế bào tổ chức sưng tấy. Lúc này tế bào tiến hành thủy phân đồng thời có sự biến đổi ion, hàm lượng ion K+ trong tế bào giảm, hàm lượng Na+ và hợp chất Chlorua tăng, sự thay đổi giữa các thành phần ion là do tế bào bị tổn thương không đủ năng lượng để hoạt động. Biến đổi nước: Trong dịch tương và hạch tế bào có nhiều không bào, loại không bào này không chứa mỡ, đường đơn và niêm dịch hoặc chỉ có rất ít protein lắng đọng, 31 sự xuất hiện của không bào đã làm tế bào tích nước. Sự biến đổi nước và sưng tấy của tế bào có quan hệ mật thiết với nhau nó làm cho tế bào tổn thương nhanh lúc ion K+ trong máu giảm, trong tế bào ion K+ ra ngoài tế bào, ion Na+ của dịch tế bào vào trong tế bào. Lúc cơ thể bị choáng (xốc) tế bào thiếu oxy, năng lượng tế bào sản sinh ra không đủ làm yếu khả năng dẫn ion Na+ nên ion Na+ đi vào tế bào mà ion K+ ra ngoài tế bào, dưới các tình huống đó đều làm cho ion Na+ trong tế bào tăng nhiều lên dẫn đến tế bào trương nước tức là biến đổi nước. Biến đổi trong suốt: Biến đổi trong suốt là chỉ dịch tế bào hoặc chất đệm của tế bào xuất hiện các chất đồng đều trong như thủy tinh. Các chất này nhuộm bằng dung dịch Eosin bắt màu đồng đều, người ta gọi tế bào biến đổi dạng trong suốt thủy tinh. Sự biến đổi này thường xảy ra trong tế bào tổ chức mô, tế bào tổ chức máu. Mỡ biến đổi: Trong dịch tế bào xuất hiện các giọt mỡ, ngoài ra lượng mỡ vượt quá phạm vi bình thường hoặc bản thân tế bào vốn không có giọt mỡ nhưng trong dịch tương tế bào có xuất hiện giọt mỡ thì người ta gọi tế bào tổ chức biến mỡ. Cơ quan biến mỡ nghiêm trọng làm cho thể tích tăng, mô không rắn chắc có màu vàng không bình thường. Mỡ biến đổi thường là bệnh do quá trình oxy hóa các chất hữu cơ không đảm bảo do nguyên nhân thiếu máu gây ra, ngoài ra có thể do một số chất độc, do độc tố vi khuẩn làm cho tế bào tổ chức biến đổi mỡ. Trao đổi khoáng bị rối loạn: Các chất khoáng Ca, Fe, K, Mg, Na... đều là các chất dinh dưỡng quan trọng của động vật, quá trình trao đổi chất khoáng bị rối loạn làm cho hoạt động bình thường của cá, tôm trở thành bệnh lý. Trao đổi Ca bị rối loạn thường gặp hơn cả là muối Canxi theo thức ăn vào ruột được hấp thụ trải qua một quá trình biến đổi, ở trong máu và dịch thể kết hợp với protein. Cơ thể ở trạng thái bình thường canxi tích trong xương, răng là chủ yếu, hàm lượng canxi trong cơ thể thường ổn định nếu thừa sẽ được bài tiết ra môi trường qua ruột và thận. Những lúc thần kinh mất khả năng điều tiết, tuyến nội tiết bị rối loạn hoặc có bệnh viêm thận mãn tính, hệ xương bị bệnh thì trong xương sụn có hiện tượng lắng đọng. Nếu Canxi hóa trong vách mạch máu có thể làm cho vách mạch máu mất khả năng đàn hồi, làm biến đổi tính chất và mạch máu dễ bị vỡ. 1.2.2.3. Tổ chức cơ thể bị viêm Chứng viêm là hiện tượng cơ thể sinh vật phản ứng phòng vệ cục bộ hay toàn thân khi có tác dụng kích thích từ ngoài vào thông qua phản xạ của hệ thống thần kinh. Đây là quá trình cơ bản trong quá trình bệnh lý. Biến đổi bệnh lý của chứng viêm: Biến đổi về chất của tế bào tổ chức: Tổ chức trong vùng bị viêm, tế bào phân giải tách ra, lúc mới có chứng viêm biến đổi về chất chiếm ưu thế nhất là ở chính giữa ổ viêm, còn xung quanh biến đổi về chất không rõ ràng. Nguyên nhân làm cho tổ chức cơ quan bị viêm là quá trình trao đổi chất bị rối loạn, chất dinh dưỡng thiếu, ngoài ra còn 32 do kích thích cục bộ. Mặt khác lúc tổ chức cơ quan có chứng viêm hệ thống tuần hoàn rối loạn, tế bào tổ chức phát sinh ra biến đổi hoặc hoại tử phát triển đồng thời có các sản phẩm phân giải như protein, axit hữu cơ... làm cho tính thẩm thấu của vách mạch máu tăng lên càng làm cho hệ thống tuần hoàn rối loạn. Thẩm thấu tế bào máu và các chất vào tổ chức: Thẩm thấu ra là hiện tượng cơ thể lúc có chứng viêm, dịch thể và thành phần tế bào máu thẩm thấu đi ra khỏi mạch máu vào tổ chức. Tổ chức cơ thể bị viêm trước hết mạch máu thay đổi, do kích động kích thích động mạch nhỏ co lại, thời gian rất ngắn động mạch nhỏ lại nở ra, các mao quản trong vùng viêm cũng nở ra, lúc đầu máu chảy nhanh về sau máu chảy chậm lại hồng cầu chứa đầy xoang mạch máu, thậm chí có bộ phận máu ngừng chảy. Tính thẩm thấu của vách mạch máu cũng tăng lên, nếu bị tổn thương nhẹ các phần tử bị thẩm thấu ra còn bị thương nặng các phần tử lớn như globulin rồi đến hồng cầu và Fibrinogen cũng thẩm thấu ra. Trong dịch thể thẩm thấu ra có tế bào bị động đi ra như hồng cầu nhưng trái lại có một số tế bào chủ động đi ra như bạch cầu. Tế bào bạch cầu xuyên ra khỏi mạch máu sau khi tiếp xúc với vật kích thích, các sản phẩm phân giải của tổ chức đem bao lại và có men thực hiện tiêu hóa, đây là hiện tượng thực bào. Ở các tế bào bạch cầu hiện tượng thực bào có xảy ra hay không ý kiến chưa thống nhất. Tăng sinh tế bào: Cơ thể sinh vật khi có tác nhân kích thích gây bệnh xâm nhập phát sinh ra chứng viêm cơ thể có phản ứng lại để phòng vệ nên một số tổ chức như mạch máu, tế bào mạng lưới nội bì, tế bào sợi, tế bào chắc như tế bào gan sản sinh tăng sinh tế bào, với mục đích cung cấp bổ sung cho những tế bào đã bị thẩm thấu ra ngoài làm cho tổ chức bị viêm không phát triển thêm đồng thời phục hồi nhanh chóng các tổn thất của tổ chức. Bất kỳ một chứng viêm nào của cơ thể sinh vật nó cũng không xảy ra các hiện tượng đơn độc mà nó có quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa 3 quá trình biến đổi về chất lượng, thẩm thấu ra và tăng sinh như ở chính giữa khu vực bị viêm biến đổi về chất lượng có thể kích thích tế bào tổ chức xung quanh tăng sinh, tế bào tiến hành tăng sinh mạch máu nhận các chất dinh dưỡng thúc đẩy quá trình biến đổi. Tăng sinh tế bào có thể là nguồn cung cấp tế bào và kháng thể thẩm thấu ra. Trong quá trình thẩm thấu trao đổi chất của hệ thống tuần hoàn bị rối loạn đã ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng tế bào tăng sinh. Trong các chứng viêm của tổ chức cơ quan trên cơ thể sinh vật, cường độ của 3 quá trình thường không giống nhau, quá trình biến đổi về chất chiếm ưu thế. Ở cá, tôm quá trình thẩm thấu ra tương đối thấp. Triệu chứng chủ yếu của chứng viêm: Tổ chức có màu đỏ: Tổ chức bị viêm sản sinh ra các thành phần hóa học và thần kinh cảm giác có phản xạ nên có quá trình tụ máu. Ngoài ra vùng bị viêm trao đổi chất được tăng lên, trao đổi mỡ bị trở ngại, độ kiềm và axit mất thăng bằng, axit có nồng độ cao dễ dẫn đến trúng độc cũng có thể làm cho mạch máu nở ra. Tổ chức sưng: Do dịch thể thẩm thấu ra, do vi khuẩn và các sản phẩm trao đổi chất phân giải ra nhiều phân tử nhỏ, áp suất thẩm thấu tăng, tổ chức bị viêm dễ dàng sưng to. 33 Tổ chức bị nóng: Nhiệt độ bên trong cơ thể cao hơn bên ngoài, máu từ bên trong chảy ra ngoài nên vùng viêm có cảm giác nóng. Cá, tôm là động vật máu lạnh nên nhiệt độ bên ngoài và bên trong cơ thể chênh lệch khoảng 20C. Vì vậy không có hiện tượng nóng ở tổ chức bị viêm. Tổ chức vùng viêm bị đau: Cơ chế đau ở vùng viêm của tổ chức khá phức tạp, các chất thẩm thấu ra có sản phẩm làm đau, ngoài ra còn có thể do bị đè nén. Đối với cá, tôm cảm giác này khó biết được. Cơ năng của tổ chức cơ quan bị thay đổi: Tổ chức có chứng viêm sẽ dẫn đến cường độ và năng lực co giãn của cơ giảm, niêm mạc phân tiết ra nhiều niêm dịch nhưng lúc nghiêm trọng lại ngừng phân tiết niêm dịch. Các cơ quan nội tạng bị viêm không có một số triệu chứng như nóng, đau và đỏ vì nội tạng nhiệt độ cao, thần kinh cảm giác thiếu. Viêm cục bộ có khi cũng có triệu chứng toàn thân như phát nóng, bạch cầu tăng. Kết quả của chứng viêm: Chứng viêm có thể gây ra cho cơ thể sinh vật hậu quả nghiêm trọng nhưng đây là một phản ứng để phòng vệ cơ thể. Thông qua phản ứng để tiêu trừ nguyên nhân gây bệnh, phục hồi tổn thất do bệnh gây ra như thẩm thấu ra thành phần dịch thể trong máu và bạch huyết cầu, làm sạch những tế bào chết, các chất dị dạng, làm loãng những sản vật có hại. Tuy vậy các chất thẩm thấu ra sẽ trở thành môi trường nuôi dưỡng vi khuẩn, các chất phân giải ra độc với cơ thể. Do đó chứng viêm phát triển đến một trình độ nhất định ý nghĩa tích cực bị tác dụng có hại triệt tiêu, cơ thể sinh vật sẽ nhận hậu quả không tốt. Kết quả sau cùng của chứng viêm trên tổ chức cơ thể sinh vật: - Tuyệt đại bộ phận chứng viêm của cơ thể sinh vật kết thúc tốt nhất là viêm cấp tính, sau một thời gian ngắn có thể thông qua hấp thụ, tái sinh liền lại và cơ năng của cơ thể hoàn toàn hồi phục. - Trong quá trình diễn biến của chứng viêm, tế bào chắc bị phá hoại quá nặng, lúc tu bổ không thể hồi phục kết cấu ban đầu phải thay thế bằng một tổ chức mới do tế bào sợi vừa sản sinh hoặc những chất thẩm thấu ra không bị hấp thụ hết và thải ra ngoài mà sau khi biến đổi hình thành chất sợi dính lại. Lúc này chứng viêm đã đình chỉ lưu lại là trạng thái bệnh lý. Các tổ chức cơ quan cơ năng có giảm nhưng mức độ có khác nhau. 1.2.2.4. Tu bổ, phì, tăng sinh Tu bổ của tổ chức cơ quan: Tế bào tổ chức của cơ thể sinh vật sau khi đã bị hủy hoại tiến hành hồi phục lại, quá trình đó gọi là tu bổ. Cơ sở sinh vật học của tu bổ là tái sinh của các tế bào tổ chức. Năng lực tái sinh của các tế bào tổ chức phụ thuộc vào chủng loại, giai đoạn phát dục, 34 tình hình sức khỏe của cơ thể sinh vật ngoài ra còn là sự cung cấp máu và chất dinh dưỡng của tổ chức. - Hệ thống phát sinh ảnh hưởng đến tái sinh: Động vật có hệ thống phát sinh càng thấp năng lực tái sinh càng cao và ngược lại như động vật thủy tức chỉ cần giữ lại 1/4 cơ thể cũng có thể hồi phục lại một cơ thể hoàn chỉnh nhưng động vật có vú chỉ mất một ngón chân cũng khó hồi phục lại. Như vậy động vật tiến hóa càng cao muốn tái sinh yêu cầu điều kiện nghiêm khắc hơn. - Phân hóa của tổ chức ảnh hưởng đến khả năng tái sinh: Tổ chức phân hóa càng cao năng lực tái sinh lại càng thấp và ngược lại nhưng không phải tất cả các tổ chức tái sinh thấp năng lực phân hóa đều cao. - Sự phát dục của cơ thể cũng ảnh hưởng đến tái sinh tế bào: Tổ chức cơ thể sinh vật thời kỳ phôi thai có năng lực tái sinh mạnh nhất, thời kỳ già thì năng lực tái sinh thấp. Khả năng tái sinh tế bào tổ chức còn quan hệ đến khả năng sinh trưởng, sự khỏe mạnh của bộ máy tuần hoàn và điều kiện dinh dưỡng. - Tình hình của cơ thể ảnh hưởng đến tái sinh tế bào bao gồm điều kiện sống, trạng thái hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn... đã chi phối năng lực tái sinh. Thường có 2 loại tái sinh: + Tái sinh sinh lý: Là hiện tượng bình thường xảy ra trong sinh hoạt, biểu hiện tế bào mới thay thế cho tế bào đã già như hồng cầu mới bổ sung. + Tái sinh bệnh lý: Dưới điều kiện bệnh lý tế bào mới thay thế tế bào đã chết. Tổ chức vừa tái sinh về kết cấu và cơ năng có thể hoàn toàn giống như tổ chức cũ nhưng trái lại một số tổ chức mất đi khi thay thế tổ chức mới về kết cấu và cơ năng khác hẳn chủ yếu do tổ chức mô tái sinh bổ sung. Phì và tăng sinh của tế bào tổ chức: Phì là chỉ tế bào tổ chức tăng lên về thể tích. Tăng sinh chỉ tế bào tổ chức tăng lên về số lượng. Có khi tổ chức tăng lên về thể tích cũng có khi là kết quả của cả phì và tăng sinh. Phì thật là thành phần để thành tổ chức cơ quan to lên hoặc tế bào chắc tăng lên, cơ năng hoạt động tăng lên. Đó là do cường độ hoạt động tăng hay do tác dụng của tuyến nội tiết như người lao động chân tay, vận động viên. Phì giả là sự tăng lên của bộ phận gian chất, bộ phận tế bào chắc không tăng lên thậm chí còn teo nhỏ, cơ năng hoạt động giảm. 1.2.2.5. U bướu Động vật không xương sống, có xương sống và thực vật có thể phát sinh ra u bướu. Khái niệm và đặc tính của u bướu: U bướu là sự tăng quá độ của tế bào do các loại nguyên nhân gây bệnh như vật lý, hóa học, sinh vật dẫn đến. Tế bào tăng sinh thường hình thành khối u có kết cấu và cơ 35 năng khác thường, khả năng trao đổi chất và sinh trưởng rất mạnh không đồng nhất với các tổ chức cơ thể, phân hóa của tế bào không hoàn toàn, về hình thái gần với tế bào phôi, không có xu hướng hình thành kết cấu tế bào tổ chức bình thường. Sau khi xử lý nguyên nhân gây bệnh, đặc điểm trao đổi chất và sinh trưởng của tế bào tổ chức vẫn tiếp tục duy trì. Thành phần hóa học của tế bào tổ chức u bướu so với tế bào tổ chức bình thường sai khác về số lượng, thành phần nước nhiều, protein giảm, thể keo phân tán nên sức trương bề mặt tế bào giảm. U bướu có 2 loại: U bướu lành tính và u bướu ác tính. U bướu lành tính: Sinh trưởng chậm, phân hóa của tế bào tương đối cao, kết cấu và trao đổi chất gần giống như tổ chức bình thường, lúc sinh trưởng trương to có màng bao bọc. Vì vậy, nên dễ cắt, uy hiếp tính mạng không lớn. U bướu ác tính: Sinh trưởng của tế bào nhanh, có thể chuyển dịch, phân hóa không hoàn toàn, về kết cấu trao đổi chất không giống tế bào bình thường, sinh trưởng ướt và trương to nhưng không hình thành màng bao bọc nên không dễ dàng cắt đi, nguy hại tính mạng sinh vật lớn. Hạch và nhân tương đối lớn, nhuộm màu dịch tương và hạch tế bào bắt màu đậm, trong cùng một tổ chức tế bào to nhỏ không đều, sắp xếp tế bào hỗn loạn không hình thành kết cấu của tổ chức điển hình. U bướu ác tính thường dẫn đến bệnh toàn thân, làm cho dinh dưỡng không tốt, gầy yếu, sức đề kháng giảm, thiếu máu, bị trúng độc hủy hoại cơ thể. U bướu của cá: Cá có xương bị u bướu nhiều hơn cá xương sụn. Qua thống kê có hơn 60 loại u bướu khác nhau, phân bổ ở các cơ quan khác nhau nên có tên gọi khác nhau. U bướu thượng bì: Là u từ thượng bì các tế bào tổ chức cơ quan, dạ dày, ruột, tuyến sinh dục, tuyến tụy, tuyến giáp trạng, bàng quang thận, bong bóng, da, mang, mắt, răng... U bướu lá giữa các tổ chức cơ quan không tạo máu: U mô cơ, u mỡ, u xương, u mạch máu... U bướu cơ quan tạo máu: Chủ yếu u cơ tổ chức lâm ba. U tế bào sắc tố: ở cá u bướu tế bào sắc tố có trên 10 loại nhưng u sắc tố đen hay gặp hơn cả. 1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN TỐ GÂY BỆNH CHO THỦY SẢN Động vật thủy sản và môi trường sống là một thể thống nhất, bệnh là kết quả tác động qua lại giữa cơ thể, tác nhân gây bệnh và môi trường sống. Khi động vật thủy sản bị bệnh phải có 3 yếu tố xuất hiện. - Môi trường sống. - Các mầm bệnh. - Vật chủ. 36 1.3.1. Môi trường sống Các yếu tố môi trường đều là các mối nguy trong nuôi trồng thủy sản, bởi vì tỷ lệ sống, sinh sản và sinh trưởng của các loài nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào một môi trường thích hợp. Có nhiều yếu tố môi trường có khả năng ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, nhưng chỉ một số ít có vai trò quyết định. Nhiệt độ và độ mặn là giới hạn quan trọng của loài thủy sản nuôi ở một địa điểm nhất định. Muối dinh dưỡng, độ kiềm tổng số và độ cứng tổng số không chỉ là những yếu tố quan trọng điều chỉnh thực vật phát triển mà chúng còn ảnh hưởng đến sinh vật thủy sinh là thức ăn cho động vật thủy sản. Độ trong điều chỉnh ánh sáng chiếu vào nước tác động đến sự quang hợp và các chuỗi thức ăn, độ trong cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cá và động vật không xương sống khác. Những yếu tố môi trường khác ảnh hưởng cho nuôi trồng thủy sản là pH, oxy hòa tan DO, carbonic-CO2, ammonia-NH3, nitrite-NO2 và hydrogen sulfide-H2S. Ngoài ra một số trường hợp gây độc do kim loại nặng và thuốc trừ sâu có thể gây ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản. Những chất gây ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản thường có nồng độ thấp hơn bất cứ chất độc nào xảy ra trong phạm vi hệ thống nuôi. 1.3.1.1. Nhiệt độ nước Động vật thủy sản là nhóm động vật biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể của chúng chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt độ nước (môi trường sống), dù chúng có vận động thường xuyên, thì kết quả vận động sinh ra nhiệt không đáng kể. Nhiệt độ nước quá cao hoặc quá thấp đều không thuận lợi cho đời sống của động vật thủy sản. Nếu nhiệt độ vượt quá giới hạn cho phép có thể dẫn đến động vật thủy sản chết thậm chí chết hàng loạt do đó mỗi một loài động vật thủy sản có ngưỡng nhiệt độ khác nhau. Về mùa đông khi nhiệt độ nước giảm xuống 13-140C, rét kéo dài có thể làm chết tôm càng xanh. Nhiệt độ dưới 80C hoặc trên 420C làm cá rô phi chết. Khi nhiệt độ nước trong ao là 350C tỷ lệ sống của tôm Sú (Penaeus monodon) là 100%, nhưng ở nhiệt độ 37,50C tôm chỉ còn sống 60%, nhiệt độ 400C tỷ lệ tôm sống 40%. Với tôm nương Penaeus merguiensis ở 340C tỷ lệ sống 100%, ở 360C chỉ còn 50% tôm hoạt động bình thường, 5% tôm chết, ở 380C 50% tôm chết, ở 400C 75% tôm chết. Một số động vật bò sát: ba ba, rùa, lưỡng thê, ếch ở miền Bắc mùa đông chúng hoàn toàn ngừng hoạt động, không ăn và nằm trú đông. Sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ (ngay cả trong phạm vi thích hợp) cũng có thể khiến cho động vật thủy sản bị sốc (stress) mà chết. Trong quá trình vận chuyển, nuôi dưỡng cần chú ý sự chênh lệch nhiệt độ và nhất là sự thay đổi nhiệt độ đột ngột. Nếu nhiệt độ chênh lệch 50C có thể làm cho động vật thủy sản bị sốc và chết, tốt nhất không để nhiệt độ chênh lệch quá 30C, biên độ dao động nhiệt độ trong ngày không quá 50C. Chúng ta phải chú ý khi thời tiết thay đổi như giông bão, mưa rào đột ngột, gió mùa Đông Bắc tràn về làm nhiệt độ nước thay đổi đột ngột dễ gây sốc cho động vật thủy sản. Đầu năm 2002, chỉ tính riêng 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau đã xuống giống 339.000 ha, đến trung tuần tháng 3 đã có 193.271 ha (chiếm 57%) tôm bị bệnh và 37 chết. Hiện tượng tôm chết ở một số tỉnh ven biển Nam Bộ đầu năm 2002 nguyên nhân chính là do hiện tượng El-Nino ở Nam Bộ nhiệt độ không khí đã lên 37,3oC (theo Phòng dự báo khí tượng, Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ- 7/5/2002), thời lượng nắng kéo dài trong ngày cao hơn mức bình thường. Trung bình một ngày, bình thường thời gian nắng kéo dài 5-6 giờ. Nhưng hiện tại số giờ nắng trong ngày kéo dài từ 9-10 giờ. Do đó thời tiết khắc nghiệt và nóng kéo dài, dẫn đến nhiệt độ nước ở các đầm nuôi tôm cũng tăng cao, chúng đã gây sốc cho tôm làm cho tôm nuôi dễ bị bệnh và chết. 1.3.1.2. Độ trong của nước Độ trong thể hiện sự phát triển của thực vật phù du trong ao nuôi. Độ trong có thể hạn chế rong phát triển ở đáy ao. Sự nở hoa của thực vật phù du tác động tốt với tôm nuôi vì sẽ kích thích động vật là thức ăn của tôm phát triển. Độ trong được quyết định bởi thực vật phù du giúp cải thiện tốt môi trường cho nuôi tôm, bởi vì chúng hạn chế các chất lơ lửng, làm tầm nhìn của tôm tốt hơn, giảm mối nguy cho tôm. Độ trong do nồng độ các chất mùn bã hữu cơ cao không gây nguy hiểm trực tiếp cho tôm, nhưng gây mất cân bằng dinh dưỡng, vì có thể pH giảm (axit), dinh dưỡng thấp, hạn chế ánh sáng chiếu qua dẫn đến quang hợp kém. Độ trong của thực vật phù du của ao nuôi tôm tốt nhất là 30-40cm. 1.3.1.3. Độ mặn Độ mặn là tổng số các ion có trong nước, độ mặn có đơn vị tính là phần nghìn (‰). Tổng quát của nước được chia ra 6 loại độ mặn khác nhau: Bảng 1. Độ mặn của một số loại nước (Boyd, 1989) Loại nước Độ mặn mg/l ppt (‰) Nước mưa 3 0,003 Nước mặt 30 0,03 Nước ngầm 300 0,3 Nước cửa sông 3.000 3 Nước biển 30.000 30 Nước biển hồ 300.000 300 Những loài cá biển và cá nước lợ có giới hạn độ mặn khác nhau. Ví dụ theo Wu và Woo (1983) cho biết có 13 loài cá biển trưởng thành chịu đựng được 2 tuần ở độ mặn thấp (3, 5 và 10 ‰), 12 loài sống được ở độ mặn 10 ‰, 6 loài ở 5 ‰ và 3 loài ở 3 ‰. Do đó một số loài cá biển có khả năng nuôi được ở nước lợ (cửa sông). Những loài tôm biển có các giới hạn độ mặn khác nhau, tôm Lớt (Penaeus merguiensis) trong ao nuôi có độ mặn tốt nhất là 15‰, nhưng tôm Sú (Penaeus 38 monodon) tỷ lệ sống và sinh trưởng tốt ở giới hạn độ mặn rộng hơn là 5-31‰ và chúng có thể sinh trưởng ở nước ngọt một vài tháng (theo Boyd, 1987; Chakraborti, 1986). Tôm chân trắng (Penaeus vannamei) nuôi trong ao giới hạn độ mặn từ 15-25‰ và chúng có thể sinh trưởng, sống ở độ mặn thấp hơn từ 0,5-1,0‰ (Boyd, 1989). Khi độ mặn của nước thay đổi lớn hơn 10‰ trong ít phút hoặc 1 giờ làm cho tôm mất thăng bằng. Tôm có khả năng thích nghi với giới hạn độ mặn thấp hoặc cao hơn nếu thay đổi từ từ. Tôm postlarvae trong ao nuôi bị sốc khi độ mặn thay đổi từ 1-2‰ trong 1 giờ. Khi vận chuyển tôm post. từ 33‰, nếu giảm độ mặn với tỷ lệ 2,5‰/giờ thì tỷ lệ sống của tôm post là 82,2% và giảm tỷ lệ 10‰/giờ thì tỷ lệ sống của tôm post còn 56,7% (theo Tangko và Wardoyo, 1985). Trong ao nuôi tôm độ mặn biến thiên tốt nhất nhỏ hơn tỷ lệ 5‰/ngày. 1.3.1.4. Oxy hoà tan Động vật thủy sản sống trong nước nên hàm lượng oxy hoà tan trong nước rất cần thiết cho đời sống của chúng. Nhu cầu oxy phụ thuộc vào từng loài, từng giai đoạn phát triển, trạng thái sinh lý, nhiệt độ. Ví dụ ở nhiệt độ 25oC sự tiêu hao oxy của cá trắm cỏ bột là 1,53mg/g/h, cá hương 0,51mg/g/h, cá giống 0,4mg/g/h. Khi nhiệt độ tăng thì lượng tiêu hao oxy của cá cũng tăng lên. Cá nhiệt đới (nước ấm) yêu cầu lượng oxy hòa tan trong một ngày đêm lớn hơn 5mg/l ít nhất là 16 giờ và nhỏ hơn 5mg/l không quá 8 giờ, nhưng không thấp dưới 3mg/l. Theo McKee và Wolf, 1963, điều kiện để duy trì cho một quần thể cá tồi nhất thì lượng oxy hòa tan nhỏ hơn 5mg/l không quá 8 giờ trong ngày đêm và không thấp dưới 2mg/l . Do đó khi mà lượng oxy hòa tan 3mg/l hoặc thấp hơn là mối nguy hiểm cho cá. Ví dụ, cá vược (chẽm) nuôi lồng ở Songkhla - Thái Lan chết do môi trường nước bị nhiễm bẩn trong đó lượng oxy hòa tan vào ban đêm giảm xuống 1,3mg/l, khi oxy hòa tan 3,10-3,85mg/l có hiện tượng cá vược chết (Tookwinas, 1986). Nhu cầu oxy hoà tan trong nước tối thiểu của tôm là 5mg/l. Trường hợp oxy hoà tan thấp hơn mức gây chết kéo dài làm cho tôm bị sốc, ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống, tăng trưởng và phát dục của chúng. Giới hạn gây chết của oxy hòa tan cho tôm he Nhật Bản (P. japonicus) từ 0,7-1,4mg/l (Egusa, 1961). Tôm Sú giống (P. monodon) và tôm chân trắng giống (P. vannamei) giới hạn gây chết của oxy hòa tan từ 1,17-1,21mg/l (Seidman và Lawrence, 1985). Bảng 2. Sự thay đổi lượng tiêu hao oxy (mg) của cá ở nhiệt độ nước 35oC so với nhiệt độ nước 15oC (Seidman và Lawrence, 1985). Loài cá Giai đoạn Mè trắng Mè hoa Trắm cỏ Cá hương 243 236 220 Cá giống 400 342 962 39 Nhu cầu oxy hoà tan trong nước tối thiểu của cá là 3mg/l, với tôm là 5mg/l. Trường hợp oxy hoà tan thấp hơn mức gây chết kéo dài làm cho động vật thủy sản bị sốc, ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống, tăng trưởng và phát dục của chúng. 1.3.1.5. Khí Cacbonic - CO2 Khí CO2 có trong nước là do quá trình hô hấp của động vật thủy sản và sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ. Hàm lượng CO2 tự do trong nước bình thường 1,5-5,0mg/l. Khí CO2 đạt hàm lượng CO2 là 25mg/l có thể gây độc cho cá. Ví dụ ngưỡng gây chết cá hương Mè hoa và nó phụ thuộc vào nhiệt độ như sau: Nhiệt độ nước 20oC ngưỡng gây chết 32,28mg/l. Nhiệt độ nước 25oC ngưỡng gây chết 30,18mg/l. Nhiệt độ nước 30oC ngưỡng gây chết 28,45mg/l. Nhiệt độ nước 35oC ngưỡng gây chết 26,18mg/l. CO2 ở trong nuớc thường tồn tại ở các dạng: CO2 + H2O  H2CO3 H2CO3MT kiÒm MT axit  HCO3- + H+ 1.3.1.6. pH Độ pH của nước ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của động vật thủy sinh. Tuy phạm vi thích ứng độ pH của cá tương đối rộng: cá biển pH = 7,5-9,0 là tối ưu, pH thấp dưới 4 hoặc cao quá 11 có thể làm cho cá chết. Thay đổi pH đột ngột cũng làm cho cá bị sốc, nếu thay đổi pH quá giới hạn thích nghi của loài thì cá chết. Ví dụ vận chuyển cá hồi (Witschi và Ziebell, 1979) từ môi trường nước pH 7,2 đến môi trường pH 7,2; 8,5; 9,0; 9,5 và 10. Tỷ lệ sống sau 48 giờ như sau: pH 7,2 tỷ lệ sống 100%; pH 8,5-100%; pH 9,0-88%; pH 9,5-68%; pH 10-0%. Biên độ thay đổi pH theo đơn vị thời gian ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống của cá. Thí nghiệm của Murray và Ziebell (1984) cho biết tỷ lệ chết của cá hồi 40% khi nuôi ở điều kiện pH thay đổi từ 8,0-9,7 trong 5 giờ. Nhưng thời gian thay đổi là 5 ngày từ pH 8,0 lên 9,7 tất cả cá hồi không chết. Ví dụ: Một số khu vực đồng bằng sông Cửu Long bị xì phèn mùa nước lũ pH của nước giảm xuống dưới 5 thậm chí giảm còn pH = 3-4, đã gây sốc cho động vật thủy sản nuôi như tôm Sú năm 1994 ở Minh Hải, Trà Vinh. Trong ao nuôi tôm pH biến đổi theo theo sự quang hợp của thực vật trong ngày. Nước có hệ đệm kém thì thường buổi sáng sớm khi mặt trời chưa mọc độ pH là 6 và buổi chiều là 9 hoặc cao hơn. Do đó trong ao nuôi tôm thường xuyên giữ nước có độ kiềm thấp để cân bằng pH tăng cao khi quá trình quang hợp mạnh. Có một số trường hợp độ kiềm cao, độ cứng thấp, độ pH tăng lên 10 khi quá trình quang hợp mạnh (Wu và Boyd, 1990). Buổi chiều pH quá cao có thể gây chết ấu trùng tôm và động vật phù du. Thời tiết khô hạn, nước tầng mặt bốc hơi có thể pH cao (nước kiềm) và không phù 40 hợp cho nuôi tôm. Trong ao nuôi tôm pH tốt nhất từ 7,5-8,5 và biến thiên trong ngày không quá 0,5 đơn vị. 1.3.1.7. Khí Chlo Trong điều kiện tự nhiên, nước ở các thủy vực không có Chlo. Chlo xuất hiện do sự nhiễm bẩn, nguồn gốc chính là các chất thải nhà máy, xí nghiệp công nghiệp. Trong nước Chlo thường ở dạng: HOCl hoặc Cl-: Cl2 + H2O  HOCl + Cl- + H+ HOCL MT kiÒm MT axit  H+ + OCl OCl- (O) + Cl Oxy nguyên tử là chất oxy hóa mạnh, có thể ảnh hưởng đến mang cá ngay cả khi hàm lượng Chlo thấp. Với pH = 6: 96% Chlo hòa tan tồn tại dưới dạng HOCl. Với pH = 9: 97% HOCl bị hấp thụ Chlo dưới dạng HOCl độc hơn OCl-. Độ độc của Chlo phụ thuộc vào nhiệt độ nước, độ pH, hàm lượng oxy hoà tan. Với hàm lượng Chlo trong nước 0,2-0,3mg/l cá bị chết rất nhanh. Trong khoảng thời gian dưới 30 phút, nồng độ cho phép của Chlo có thể là 0,05mg/l. Nồng độ cho phép trong các ao nuôi tôm, cá là < 0,003mg/l. 1.3.1.8. Độ kiềm Độ kiềm trong nước chủ yếu là các ion HCO3- (bicarbonate kiềm), CO32- (carbonate kiềm), OH- (Hydroxit kiềm), đơn vị tính biểu thị tương đương mg/l CaCO3. Trong nước tự nhiên độ kiềm khoảng 40mg/l hoặc cao hơn, nước có độ kiềm cao gọi là nước cứng, nước có độ kiềm thấp gọi là nước mềm. Theo Movle nước cứng cho năng suất nuôi tôm cao hơn nước mềm. Độ kiềm phản ánh trong nước có chứa ion CO32- nhiều hay ít, trong ao nuôi tôm có sự biến đổi lớn về độ kiềm, thấp nhất 5mg/l và cao lên hàng trăm mg/l. Độ kiềm tác động đến hệ đệm cân bằng pH: Nếu thêm CO2 thì nước có chứa bicarbonate hoặc carbonate, pH sẽ giảm. pH giảm do kết quả phản ứng của ion hydrogen (H+) với CO32- hoặc HCO3-. Trong nước tự nhiên, CO2 là do quá trình hô hấp của sinh vật và khuyếch tán từ không khí vào, số CO2 khuyếch tán từ không khí vào không đáng kể. Lượng CO2 tăng hoặc giảm là nguyên nhân làm cho pH thay đổi. Bicarbonate là hệ đệm chống lại thay đổi đột ngột của pH. Nếu H+ tăng, thì H+ phản ứng với HCO3- tạo thành CO2 và nước, trong khi đó hằng số K không đổi do đó pH chỉ thay đổi nhẹ. Tăng OH- kết quả chỉ làm giảm H+ bởi vì CO2 và H2O phản ứng mạnh hơn với H+, do đó hằng số K không đổi và ngăn cản được sự thay đổi lớn pH. Hệ đệm được biểu thị bằng công thức sau: 41  [HCO ] pH = pK1 + log 3  [ CO ] 2 Trong hệ đệm CO2 là axit và ion HCO3- là dạng muối. Việc tính toán CO2 và HCO3- là rất khó vì lượng của chúng rất nhỏ. Tuy nhiên nước có độ kiềm cao có hệ đệm mạnh hơn nước có độ kiềm thấp. Thành phần cơ bản của độ kiềm gồm: CO32-, HCO3-, OH-, SiO4-3, PO43-, NH3 và các chất hữu cơ khác, tuy nhiên hàm lượng chủ yếu có trong nước là CO32-, HCO3-, OH-. CO2 trong nước tự nhiên phản ứng với bicarbonate của đá và đất, như khai khoáng kiềm là đá vôi (CaCO3) và dolomite CaMg(CO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O  Ca2+ + 2HCO3- (1) CaMg(CO3)2 +2 CO2 + 2H2O  Ca2+ + Mg2+ + 4HCO3- (2) Hai khoáng chất trên khi sử dụng đều tăng độ kiềm, như dolomite (2) cho lượng bicarbonate tăng gấp đôi đá vôi. Trong ao nuôi tôm có độ kiềm thấp, hệ đệm yếu pH sẽ dao động lớn trong ngày, cho nên cần bổ sung dolomite để nâng cao độ kiềm làm cho hệ đệm mạnh sẽ điều chỉnh ổn định pH trong ngày. 1.3.1.9. Khí Ammoniac - NH3 NH3 được tạo thành trong nước do các chất thải của nhà máy hóa chất và sự phân giải các chất hữu cơ trong nước: NH3 + H2O  NH4OH NH4OH MT axit MT kiÒm NH+ + OH Sự tồn tại NH3 và NH4+ trong nước phụ thuộc vào nhiệt độ, độ pH và độ mặn của nước (xem bảng 3 và 4), NH3 rất độc đối với tôm. Nước càng mang tính axit (độ pH thấp), NH3 càng chuyển sang NH4+ ít độc, môi trường càng kiềm NH3 càng bền vững và gây độc cho tôm. Nồng độ NH3 thấp ở 0,09mg/l đã gây cho tôm càng xanh chậm phát triển và nồng độ 0,45mg/l sẽ làm giảm tốc độ sinh trưởng của tôm he (Penaeus spp.) đi 50%. Nồng độ NH3 gây chết 50% ở postlarvae tôm Sú: LC50-24h là 5,71mg/l và LC50-96h là 1,26mg/l. Nồng độ NH3 giới hạn an toàn trong ao nuôi là 0,13mg/l (Chen và Chin, 1988). Bảng 3. So sánh tỷ lệ % NH3 khác nhau trong nước ngọt và nước lợ ở nhiệt độ 240C (Chen và Chin, 1988) pH Tỷ lệ % của ammonia Nước ngọt Nước lợ có độ mặn (‰) 18-22 23-27 28-31 7,6 2,05 1,86 1,74 1,70 8,0 4,99 4,54 4,25 4,16 8,4 11,65 10,70 10,0 9,83 42 Bảng 4. Tỷ lệ % NH3 khác nhau theo pH và nhiệt độ của nước ngọt (Chen và Chin, 1988) pH Nhiệt độ (0C) 22 24 26 28 30 32 7,0 0,46 0,52 0,60 0,70 0,81 0,95 7,2 0,72 0,82 0,95 1,10 1,27 1,50 7,4 1,14 1,30 1,50 1,73 2,00 2,36 7,6 1,79 2,05 2,35 2,72 3,13 3,69 7,8 2,80 3,21 3,68 4,24 4,88 5,72 8,0 4,37 4,99 5,71 6,55 7,52 8,77 8,2 6,76 7,68 8,75 10,00 11,41 13,22 8,4 10,30 11,65 13,20 14,98 16,96 19,46 8,6 15,40 17,28 19,42 21,83 24,45 27,68 8,8 22,38 24,88 27,64 30,68 33,90 37,76 9,0 31,37 34,42 37,71 41,23 44,84 49,02 9,2 42,01 45,41 48,96 52,65 56,30 60,38 9,4 53,45 56,86 60,33 63,79 67,12 70,72 9,6 64,54 67,63 70,67 73,63 76,39 79,29 9,8 74,25 76,81 79,25 81,57 83,68 85,85 10,0 82,05 84,00 85,82 87,52 89,05 90,58 10,2 87,87 89,27 90,56 91,75 92,80 93,84 1.3.1.10. Nitrite-NO2 Nitrite được sinh ra do quá trình chuyển hóa từ đạm ammon nhờ các vi khuẩn nitơ (Nitrobacter): NH4+ + O2  NO2- + H+ + H2O NO2- + O2  NO3- Nếu môi trường thiếu oxy thì quá trình chuyển hóa đạm chỉ đến nitrite (NO2) khi động vật thủy sản hấp thu phản ứng với Hemoglobin tạo thành Methemoglobin: Hb + NO2- = Met-Hb Phản ứng này sắt trong nhân hemoglobin của máu cá bị oxy hóa thành sắt, kết quả methemoglobin mất khả năng vận chuyển oxy. Nitrite gây độc máu cá và chuyển thành màu nâu. Ở giáp xác cấu tạo hemocyanin là Cu trong nhân thay sắt. Phản ứng của nitrite với hemocyanin kém, nhưng nitrite cũng có thể gây độc cho giáp xác. Nồng độ gây chết 50% 96 h (LC50- 96h) ở tôm nước ngọt từ 8,5-15,4mg/l. Tôm càng xanh chậm phát 43 triển ở nồng độ nitrite 1,8-6,2mg/l (Colt, 1981). Nước lợ do có nồng độ canxi và Chlo cao nên độc tố của nitrite giảm, ví dụ postlarvae tôm Sú (P. monodon) có LC50-24h là 204mg/l và LC50-96 là 45mg/l (Chen và Chin, 1988). 1.3.1.11. Sulfide hydro - H2S H2S được sinh ra do phân hủy các chất hữu cơ có chứa lưu huỳnh do vi sinh vật, đặc biệt trong điều kiện yếm khí (thiếu oxy). Khí độc H2S ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm phụ thuộc vào pH của nước, nếu pH thấp H2S sẽ rất độc (xem bảng 5). Nồng độ H2S trong ao nuôi cho phép là 0,02mg/l. Bảng 5. Tỷ lệ % H2S khác nhau theo nhiệt độ, pH của nước (Chen và Chin, 1988) pH Nhiệt độ nước (0C) 22 24 26 28 30 32 5,0 99,1 99,1 99,0 98,9 98,9 98,9 5,5 97,3 97,1 96,9 96,7 96,5 96,3 6,0 92,0 91,4 90,8 90,3 89,7 89,1 6,5 78,1 77,0 75,8 74,6 73,4 72,1 7,0 53,0 51,4 49,7 48,2 46,6 45,0 7,5 26,3 25,0 23,8 22,7 21,6 20,6 8,0 10,1 9,6 9,0 8,5 8,0 7,6 8,5 3,4 3,2 3,0 2,9 2,7 2,5 9,0 1,1 1,0 1,0 0,9 0,9 0,8 Ví dụ tôm he Nhật Bản (Penaeus japonicus) mất thăng bằng khi H2S là 0,1- 0,2mg/l và chết khi H2S là 0,4mg/l. Các khu vực nuôi tôm ở một số tỉnh phía Nam đã có nhiều ao nuôi tôm có nền đáy không tẩy dọn sạch dẫn đến hàm lượng H2S trong nước ao nuôi tôm đặc biệt là đáy ao có mùi thối của H2S, đây là một trong những nguyên nhân gây cho tôm nuôi bị sốc và dẫn đến tôm yếu và chết. Qua khảo sát khi hàm lượng H2S trong nước là 0,037-0,093mg/l thì trong lớp bùn sâu 2cm, hàm lượng H2S là 10mg/l. 1.3.1.12. Các kim loại nặng Một số kim loại nặng: Fe, Cu, Zn, Hg, Pb, Al... lượng hoà tan trong nước và đáy ao với số lượng ít. Các kim loại thường ở dạng muối hoà tan trong nước cứng, hoặc các ion kim loại kết tủa dưới dạng Cacbonat. Các lớp bùn đáy ao hấp thụ phần lớn các ion kim loại làm giảm đáng kể nồng độ ion kim loại trong nước. Tính độc của chúng trong nước thường thấp, động vật thủy sản chỉ bị ảnh hưởng do các nguồn nước thải công nghiệp đưa vào thủy vực không được xử lý. 44 Bảng 6. Độc tính của kim loại nặng với động vật thủy sản (Boyd, 1987) Kim loại LC50 96 h (g/l) Giới hạn an toàn (g/l) Cadmium- Cd 80-420 10 Chromium- Cr 2.000-20.000 100 Đồng- Cu 300-1.000 25 Chì- Pb 1.000-40.000 100 Thủy ngân- Hg 10-40 0,10 Thiếc- Zn 1.000-10.000 100 1.3.1.13. Thuốc trừ sâu Một số thuốc trừ sâu dùng cho nông nghiệp và chúng đã đổ vào các dòng sông. Lượng gây độc tính của nhiều loại thuốc trừ sâu thường từ 5-100m/l (Cope, 1964) và có một số loại độc tính ở nồng độ thấp hơn. Môi trường nhiễm thuốc trừ sâu có thể không diệt hàng loạt tôm trưởng thành, nhưng là mối nguy cho quần thể tôm, sinh vật thủy sinh kém phát triển và suy tàn. Thuốc trừ sâu nhóm Chlorinate hydrocarbon nguy hiểm nhất cho tôm cá, độc lực của nhóm này gây hại cho cả động vật thủy sinh nước ngọt và nước mặn. Thuốc diệt cỏ dùng trong nông nghiệp có thể nhiễm trong các ao nuôi trồng thủy sản. Chúng không gây độc cho động vật thủy sản nhưng chúng có thể gây độc cho phytoplankton (thực vật phù du). Ví dụ: Tucker (1987) cho biết rằng thuốc diệt cỏ Propanil N-(3,4-dichlorophenyl) propanamide, thường dùng phun vào ruộng lúa để diệt cỏ dại, thì chúng làm giảm khả năng sản xuất oxy của nhóm thực vật phù du, với nồng độ của Propanil ở mức 20-50g/l làm giảm 25% quá trình sản sinh oxy. Bảng 7. Độc tính của một số thuốc trừ sâu với động vật thủy sản (Boyd, 1987) Thuốc trừ sâu LC50 96 h (g/l) Giới hạn an toàn (g/l) Aldrin/Dieldrin 0,20-16,0 0,003 BHC 0,17-240 4,00 Chlordane 5-3.000 0,01 DDT 0,24-2,0 0,01 Endrin 0,13-12 0,004 Heptachlor 0,10-230 0,001 Toxaphene 1-16 0,005 1.3.2. Mầm bệnh Mầm bệnh là các yếu tố hữu sinh làm cho động vật thủy sản mắc bệnh gọi chung là tác nhân gây bệnh. Những tác nhân gây bệnh này do sự cảm nhiễm của động vật thủy 45 sản là vật chủ hoặc sự xâm nhập của chúng vào vật chủ. Các tác nhân gây bệnh được chia ra 3 nhóm: - Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm: virus, Ricketsia, vi khuẩn, nấm. - Tác nhân gây bệnh ký sinh: nguyên sinh động vật (động vật đơn bào), giun sán, đỉa, giáp xác... (động vật đa bào). - Một số sinh vật trực tiếp ăn động vật thủy sinh hay uy hiếp động vật thủy sinh: Côn trùng nước, rong tảo độc, sứa, cá dữ, ếch, rắn, ba ba, chim, rái cá... và được gọi là nhóm địch hại của động vật thủy sinh. 1.3.3. Vật chủ Các nhân tố ngoại cảnh (yếu tố vô sinh và hữu sinh) tác động thì động vật thủy sản không thể mắc bệnh được mà nó phụ thuộc vào sức đề kháng của cơ thể với từng bệnh của vật chủ: Vật chủ thường biểu hiện bằng những phản ứng với môi trường thay đổi. Những phản ứng của cơ thể có thể kéo dài 2-3 ngày hoặc 2-3 tuần tùy theo mức độ của bệnh. 1.3.4. Mối quan hệ giữa các nhân tố gây bệnh cho thủy sản Động vật thủy sản sống ở trong nước hay nói một cách khác nước là môi trường sống của động vật thủy sản. Động vật thủy sản sống được phải có môi trường sống tốt, đồng thời chúng cũng phải có khả năng thích ứng với môi trường. Nếu môi trường sống của động vật thủy sản xảy ra những thay đổi không có lợi cho chúng, những con nào thích ứng sẽ duy trì được cuộc sống, những con nào không thích ứng thì sẽ mắc bệnh hoặc chết. Động vật thủy sản mắc bệnh là kết quả tác dụng lẫn nhau giữa cơ thể và môi trường sống. Vì vậy, những nguyên nhân gây bệnh cho động vật thủy sản gồm 3 nhân tố sau: - Môi trường sống (1): to, pH, O2, CO2, NH3, NO2, kim loại nặng... những yếu tố này thay đổi bất lợi cho động vật thủy sản và tạo điều kiện thuận lợi cho tác nhân gây bệnh (mầm bệnh) dẫn đến động vật thủy sản dễ mắc bệnh. - Tác nhân gây bệnh (2): Virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và những sinh vật hại khác. - Vật chủ (3): Có sức đề kháng kém và mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh làm cho động vật thủy sản không chống được bệnh hoặc dễ mắc bệnh. Chỉ khi xuất hiện mối quan hệ đồng thời của các nhân tố gây bệnh (có đủ ba nhân tố 1, 2 và 3) và cả ba nhân tố này đều bất lợi thì động vật thủy sản mới có thể mắc bệnh (hình 1): Nếu thiếu 1 trong 3 nhân tố thì động vật thủy sản không bị mắc bệnh (các hình 2, 3, 4). Tuy động vật thủy sản có mang mầm bệnh nhưng môi trường thuận lợi cho động vật thủy sản và bản thân động vật thủy sản có sức đề kháng với mầm bệnh thì bệnh không thể phát sinh được. Để ngăn cản những nhân tố trên không thay đổi xấu cho 46 động vật thủy sản thì con người, kỹ thuật nuôi phải tác động đồng thời vào 3 yếu tố như: Cải tạo ao tốt, tẩy trùng ao hồ diệt mầm bệnh, thả giống tốt, cung cấp thức ăn đầy đủ về chất và lượng thì bệnh rất khó xuất hiện. 1+2 Môi trường 1 Bệnh 1+2+3 Mầm bệnh 2 1+3 2+3 Vật chủ 3 Hình 1: Mối quan hệ giữa các nhân tố gây bệnh: Vùng xuất hiện bệnh (màu đậm) có đủ ba yếu tố gây bệnh 1, 2, 3. Khi nắm được 3 nhân tố trên có mối quan hệ mật thiết, do đó xem xét nguyên nhân gây bệnh cho động vật thủy sản không nên kiểm tra một yếu tố đơn độc nào mà phải xét cả 3 yếu tố: môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Đồng thời khi đưa ra biện pháp phòng và trị bệnh cũng phải quan tâm đến 3 nhân tố trên, nhân tố nào dễ làm chúng ta xử lý trước. Ví dụ thay đổi môi trường tốt cho động vật thủy sản là một biện pháp phòng bệnh (hình 2). Tiêu diệt mầm bệnh bằng hóa chất, thuốc sẽ ngăn chặn được bệnh không phát triển nặng (hình 3). Cuối cùng chọn những giống động vật thủy sản có sức đề kháng với những bệnh thường gặp gây nguy hiểm cho động vật thủy sản (hình 4). Mầm bệnh 2 2+3 Môi trường 1 Vật chủ 3 Hình 2: Không xuất hiện bệnh do có môi trường sống tốt, không đủ ba nhân tố gây bệnh 47 Môi trường 1 1+3 Vật chủ 3 Mầm bệnh 2 Hình 3: Không xuất hiện bệnh do không có mầm bệnh, không đủ ba nhân tố gây bệnh Môi trường 1 1+2 Vật chủ 3 Mầm bệnh 2 Hình 4: Không xuất hiện bệnh do vật chủ có sức đề kháng cao, không đủ ba nhân tố gây bệnh. 1.4. PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN BỆNH Để công tác phòng trị bệnh được thực hiện tốt, trước tiên phải chẩn đoán được bệnh mới có thể đề ra các biện pháp phòng trị bệnh hữu hiệu. Các bước tiến hành chẩn đoán bệnh như sau: 48 1.4.1. Điều tra hiện trường Động vật thủy sản mắc bệnh không những biểu hiện các dấu hiệu bệnh lý trên cơ thể, mà còn thể hiện các hiện tượng trong ao. Khi có hiện tượng động vật thủy sản chết trong ao, ngoài cái chết do động vật thủy sản mắc bệnh mà có thể do môi trường nước bị nhiễm bẩn, nhiễm độc tố như các chất thải của nhà máy công nghiệp thải ra, do nước sinh hoạt của thị trấn, thị xã, thành phố thải ra, do phun thuốc trừ sâu của nông nghiệp... cũng sẽ làm cho cá tôm chết. Do đó cần phải kiểm tra hiện trường bao gồm các nội dung sau. 1.4.1.1. Tìm hiểu các hiện tượng động vật thủy sản bị bệnh thể hiện trong ao Như ta đã biết quá trình phát sinh bệnh có 2 loại: loại cấp tính và loại mạn tính: Động vật thủy sản bị bệnh cấp tính: Thường có màu sắc và thể trạng không khác với cơ thể bình thường, chỉ những nơi bị bệnh mới thay đổi. Cá thể bị bệnh đã chết ngay và tỷ lệ chết tăng lên rất nhanh, trong thời gian ngắn đạt đến đỉnh cao nhất (2-3 ngày). Động vật thủy sản bị bệnh mạn tính: Thường màu sắc có thể hơi tối (đen xám), thể trạng gầy yếu, tách đàn bơi lờ đờ trên mặt nước hoặc quanh bờ ao, tỷ lệ chết tăng lên từ từ mà trong thời gian dài mới đạt đỉnh cao (2-3 tuần). Nếu môi trường nước nhiễm độc thì đột nhiên động vật thủy sản chết hàng loạt. Do đó cần tìm hiểu kỹ các hiện tượng bệnh của động vật thủy sản để chẩn đoán bệnh một cách chính xác. Đo các chỉ tiêu môi trường nước, so sánh với các giới hạn cho phép để nuôi động vật thủy sản. 1.4.1.2. Điều tra tình hình quản lý chăm sóc Động vật thủy sản mắc bệnh có liên quan đến vấn đề chăm sóc và quản lý ao: Bón phân quá nhiều, chất lượng thức ăn kém phẩm chất, cho ăn quá nhiều... dễ dẫn đến chất lượng nước thay đổi: Oxy hoà tan giảm, ảnh hưởng đến sức khỏe của động vật thủy sản. Ngược lại bón phân ít, thức ăn không đủ, môi trường nước nghèo, động vật thủy sản gầy yếu dễ bị mầm bệnh tấn công. 1.4.1.3. Điều tra tình hình biến đổi thời tiết khí hậu thủy hóa và sinh vật gây hại Trong mùa vụ nuôi động vật thủy sản không thích hợp: Nóng quá, rét quá, mưa gió thất thường, thủy triều kiệt... đều là những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sức khỏe của động vật thủy sản. Do đó chúng ta cần phải điều tra thời gian trước đó từ đó 5-7 ngày về các chế độ thủy hóa của ao nuôi trồng thủy sản: to, pH, độ trong, oxy hoà tan, NH3, H2S, NO2... để phân tích cho động vật thủy sản nuôi. Một số sinh vật gây hại cho động vật thủy sản: Tảo độc, sứa, cá dữ, lưỡng thê, bò sát, chim và động vật có vú... 49 1.4.2. Kiểm tra cơ thể động vật thủy sản 1.4.2.1. Kiểm tra bằng mắt thường Kiểm tra bằng mắt thường là một phương pháp chủ yếu để kiểm tra bệnh nhằm xác định các tác nhân gây bệnh ở chỗ bị bệnh hoặc các hiện tượng phản ứng của cơ thể đối với tác nhân gây bệnh. Đối với ký sinh trùng lớn như: Giáp xác, nấm thủy my... có thể nhìn thấy bằng mắt thường được. Nhưng một số tác nhân gây bệnh nhỏ: vi khuẩn, ký sinh đơn bào... mắt thường không nhìn thấy được nhưng chúng ta có thể dựa vào các dấu hiệu bệnh lý: Bệnh do vi khuẩn thường biểu hiện xuất huyết viêm, thối rữa, hoại tử, dựng vảy, ăn mòn vỏ... các bệnh ký sinh trùng thường thể hiện tiết nhiều chất nhờn, chảy máu hoặc có các bào nang thành chấm nhỏ. Do đó cần phải xem xét tỷ mỷ các dấu hiệu để chẩn đoán bệnh trên các bộ phận như sau: Kiểm tra trên da, vỏ: Đối với cá có thể đặt cá trên khay men theo thứ tự quan sát từ đầu đến miệng, mắt, nắp mang, vảy, vây, tia vây có các tác nhân gây bệnh: Nấm thủy my, rận cá, trùng mỏ neo, đỉa, giun, bào nang của ký sinh đơn bào (Myxobolus). Đối với tôm: Các sinh vật bám trên vỏ, trên các phần phụ: Râu, chân, đuôi, sự ăn mòn, đen râu của vỏ và phần phụ. Kiểm tra mang: Đối với cá kiểm tra các tơ mang và nắp mang có đóng mở lại bình thường, trên tơ mang có nhiều nhớt hay không, dính bùn và ký sinh trùng, giáp xác, sán lá đơn chủ ký sinh. Đối với tôm có Isopod ký sinh trong mang không. Kiểm tra nội tạng: Kiểm tra toàn bộ hệ tiêu hóa của cá, dạ dày, ruột có thức ăn không, có hơi không, trên thành có xuất huyết không, giun sán ký sinh trong dạ dày ruột. Kiểm tra cơ quan khác: gan, thận, lá lách, bóng hơi có các bào nang của giun sán, điểm xuất huyết của bệnh vi khuẩn. Đối với tôm kiểm tra gan, tụy, màu sắc... 1.4.2.2. Kiểm tra bằng kính hiển vi Kiểm tra các chỗ bị bệnh mà mắt thường không quan sát được: Sử dụng kính hiển vi để kiểm tra ký sinh trùng đơn bào, giun sán nhỏ. Đối với tôm nhuộm tươi gan tụy bằng Xanh malachite để kiểm tra thể ẩn bệnh MBV (Monodon baculovirus)... Kiểm tra tôm Quá trình phát sinh bệnh có 2 loại: bệnh cấp tính và bệnh mạn tính: Bệnh cấp tính: Tôm có màu sắc và thể trạng không khác với bình thường, thường có dấu hiệu bệnh đặc trưng. Tôm bị bệnh có thể chết ngay và tỷ lệ chết tăng lên rất nhanh, trong thời gian ngắn đạt đến đỉnh cao nhất (2-5 ngày), ví dụ như bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh phát sáng. Bệnh mạn tính: Tôm bị bệnh mạn tính thường màu sắc hơi tối đen, thể trạng gầy yếu, chậm lớn, tôm tách đàn bời lờ đờ trên mặt nước hoặc quanh bờ ao, tỷ lệ chết tăng lên từ từ, trong một thời gian dài mới đạt đỉnh cao (2-3 tuần có thể 1-2 tháng). Ví dụ bệnh MBV, bệnh ăn mòn vỏ, bệnh nấm. 50 Dựa vào các dấu hiệu bệnh của tôm, cần quan sát các thay đổi của tôm như sau: Những biến đổi màu sắc của tôm: Màu sắc của tôm bình thường sẽ liên quan với các điều kiện môi trường nước. Chẳng hạn ở những ao cạn hoặc nước trong tôm có khuynh hướng sậm màu hơn tôm ở nước sâu hoặc nước ít trong. Tuy nhiên sự thay đổi về màu sắc cũng có thể là một dấu hiệu về sức khỏe của tôm. Tôm bị sốc hoặc bị bệnh thường thay đổi màu sắc, ví dụ tôm chuyển màu đỏ thì có thể là do sự phóng thích sắc tố caroten bởi sự hoại tử gan tụy và dĩ nhiên là tôm chết thường có màu đỏ. Những con tôm còi hay chậm lớn thường thấy một vết đỏ hoặc trắng dọc lưng do sự tập trung sắc tố màu nâu vàng. Tôm ủ bệnh thường có vỏ cứng và tối màu. Tôm đang ở trong giai đoạn bệnh nặng sẽ có cơ màu trắng đục hoặc hơi đỏ. Hầu hết các vết thương ở tôm sẽ chuyển màu đen hay nâu chỉ sau một thời gian ngắn. Đó là do sự sinh ra các sắc tố đen hay nâu sậm (melanin) để chống lại vi sinh vật (vì có tính độc) và bảo vệ tôm khỏi nhiễm bệnh. Ngoài sự chuyển màu đen, có một số trường hợp không bình thường khác có thể ảnh hưởng đến phần phụ. Phần phụ có thể bị cong hoặc bị gãy và đuôi có thể bị sưng phồng lên. Hiện tượng sưng lên như vậy thường là hậu quả của sự nhiễm trùng từ những vùng đáy ao bị ô nhiễm bẩn bởi chất thải. Những biến đổi ở ruột, gan tụy: Tôm bệnh nặng thì dừng ăn và những con đang ốm sẽ ăn ít hơn bình thường. Ruột không có thức ăn là dấu hiệu của tôm bệnh trong khi những con tôm có ít thức ăn trong ruột có thể ở giai đoạn đầu của bệnh. Ruột cũng có thể có màu trắng hơn hay đỏ hơn so với màu bình thường của màu thức ăn viên. Màu đỏ có thể là do tôm ăn những động vật không xương sống có màu đỏ trong ao như giun nhiều tơ. Nếu ruột có màu đỏ không phải do giun nhiều tơ thì đó là dấu hiệu cho biết tôm đã ăn xác của các con tôm chết trong ao và điều này chứng tỏ rằng trong ao đã có tôm chết. Màu sắc của hệ gan tụy cũng có thể thay đổi và nguy hiểm nhất là màu vàng mà ta thường gọi là bệnh đầu vàng. Hiện tượng tôm bị mềm vỏ: Một dấu hiệu khác thường thấy là tôm bị mềm vỏ kinh niên. Thông thường vỏ tôm cứng lại sau khi lột xác 24 giờ. Nếu vỏ không cứng được thì nó sẽ bị nhăn, biến dạng và trở nên mẫn cảm hơn với các bệnh. Có rất nhiều nguyên nhân gây hiện tượng mềm vỏ như: - Thức ăn hôi thối, kém chất lượng (nấm Asperrgillus trong thức ăn) hoặc thiếu thức ăn. - Thả giống mật độ cao. - pH thấp. 51 - Hàm lượng lân trong nước thấp. - Thuốc trừ sâu. Sinh vật bám: Một trong những dấu hiệu thông thường nhất của sức khỏe kém là hiện tượng đóng rong (sinh vật bám) hay sự phát triển của các vi sinh vật trên bề mặt cơ thể tôm. Khi các sinh vật bám trên vỏ, chúng thường có khuynh hướng thu gom những chất vẩn cặn và bề ngoài tôm có màu xanh rêu hoặc bùn. Nếu tôm khỏe thì nó sẽ tự làm sạch cơ thể đều đặn và sau khi lột xác thì hiện tượng đóng rong sẽ mất đi nhưng đối với tôm yếu thì sự tự làm sạch và lột xác kém thường xuyên hơn. Nước ao nuôi bẩn thì ngoài sự ảnh hưởng tới sức khỏe tôm, còn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho các sinh vật gây bệnh. Vì vậy làm tăng sự phát triển của sinh vật bám trên cơ thể tôm. Những biến đổi ở mang: Khi tôm khỏe thường giữ mang rất sạch, nhưng tôm bệnh hay yếu thì mang có màu nâu do quá trình tự làm sạch kém nên các chất bẩn bám vào mang và có thể nhìn thấy qua vỏ đầu ngực. Nếu mang thực sự bị tổn thương thì mang tôm có màu đen. Mang tôm cũng có thể có màu đen trên mang hoặc ở bên trong vỏ giáp do các muối sắt tích tụ lại. Nếu mang có màu hồng thì có thể do tôm sống trong môi trường có hàm lượng oxy hoà tan thấp (<3mg/l). Những biến đổi ở cơ: Cơ bụng của tôm sẽ không lấp đày vỏ giáp nếu bị đói kéo dài ngay sau khi lột xác. Cơ tôm (thịt) sẽ trở nên đục bởi nếu có hiện tượng sốc cấp tính, nhiễm nấm. Sự nhiễm khuẩn mãn tính cục bộ sẽ gây thành những vết thương đen trong cơ. 1.4.3. Thu mẫu để phân lập xác định vi khuẩn, nấm, virus, ký sinh trùng Có nhiều bệnh ở động vật thủy sản không thể xét nghiệm ngay tại hiện trường, vì thế phải thu mẫu bệnh phẩm để tiến hành phân tích mô bệnh học, xét nghiệm virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng để xét nghiệm, phân lập, xác định loài. Phân tích sinh học phân tử bằng kỹ thuật PCR, RT-PCR, kỹ thuật lai Insitu... 52 Chương 2 NGUYÊN LÝ PHÒNG TRỊ BỆNH Ở ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 2.1. NGUYÊN LÝ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN Động vật thủy sản sống trong nước nên vấn đề phòng bệnh không giống động vật sống trên cạn. Khi động vật thủy sản bị bệnh, không thể chữa từng con mà phải tính cả ao hay trọng lượng cả đàn để chữa bệnh nên việc tính toán hàm lượng thuốc khó chính xác, tốn kém, các loại thuốc chữa bệnh ngoài da cho động vật thủy sản thường phun trực tiếp xuống nước chỉ áp dụng với ao nuôi diện tích nhỏ, còn các thủy vực có diện tích mặt nước lớn rất khó sử dụng và hiệu quả thường không cao. Các loại thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản thường phải trộn vào thức ăn, nhưng lúc bị bệnh, động vật thủy sản không ăn, nên dù có sử dụng loại thuốc tốt sẽ không có hiệu quả. Có một số thuốc khi chữa bệnh cho động vật thủy sản có thể tiêu diệt được nguồn gốc gây bệnh nhưng kèm theo phản ứng phụ. Đặc biệt những con khỏe mạnh cũng phải dùng thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng. Vì vậy, các nhà nuôi trồng thủy sản luôn luôn đặt vấn đề phòng bệnh cho động vật thủy sản lên hàng đầu hay nói một cách khác “phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết”. Công tác phòng bệnh cho động vật thủy sản cần phải sử dụng các biện pháp tổng hợp như sau: - Cải tạo và vệ sinh môi trường nuôi động vật thủy sản. - Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh cho động vật thủy sản - mầm bệnh. - Tăng cường sức đề kháng cho cơ thể động vật thủy sản - Vật chủ. 2.2. BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH TỔNG HỢP CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 2.2.1. Cải tạo và vệ sinh môi trường nuôi động vật thủy sản 2.2.1.1. Thiết kế xây dựng các trạm, trại nuôi động vật thủy sản phải phù hợp với điều kiện phòng bệnh cho động vật thủy sản Địa điểm thiết kế xây dựng các trạm trại nuôi cá, tôm, trước tiên nguồn nước phải có quanh năm và nước sạch sẽ không độc hại với cá, tôm. Không có các nguồn nước thải đổ vào, nhất là nguồn nước thải các nhà máy công nghiệp, nếu có phải tính đến khả năng cải tạo để tránh động vật thủy sản khỏi bị dịch bệnh và chết ngạt bởi thiếu oxy. Xây dựng hệ thống công trình nuôi cá, tôm giữa các ao nên có hệ thống mương dẫn nước vào, thoát nước ra độc lập. Như vậy, giá trị công trình có cao hơn nhưng phù hợp 53 với công tác phòng và trị bệnh cho cá, tôm. Mỗi khi có một ao cá, tôm bị bệnh sẽ dễ dàng cách ly không lây nhiễm bệnh cho các ao khác. Đối với các công trình xây dựng hồ chứa nước khi xây dựng thiết kế cần tính toán kết hợp giữa thủy lợi và nuôi động vật thủy sản cần có các công trình phụ trợ chắn giữ cá tôm, thu hoạch cá tôm đồng thời chú ý tạo được nguồn nước dẫn vào hồ ít nguồn bệnh và độc hại cho cá tôm. Nên sử dụng một diện tích nhất định để chứa các chất thải sau mỗi chu kỳ nuôi, ngăn chặn các mầm bệnh lan truyền ra xung quanh. Đối với các khu vực nuôi tôm thâm canh (theo hình thức chăn nuôi công nghiệp) cần phải xây dựng ao chứa (lắng và lọc) diện tích chiếm từ 15- 20% và ao xử lý nước thải (chiếm từ 10-15% diện tích). 2.2.1.2. Cải tạo ao đầm và dụng cụ trước khi ương nuôi động vật thủy sản Tẩy dọn ao trước khi ương nuôi động vật thủy sản bao gồm tháo cạn, nạo vét bùn dưới đáy ao, tu sửa lại bờ mương máng, dọn sạch cỏ rác, phơi khô đáy ao, sau đó dùng các loại hóa chất để khử trùng ao với mục đích: - Diệt địch hại và sinh vật là vật chủ trung gian cạnh tranh thức ăn của tôm, cá như các loài cá dữ, cá tạp, giáp xác, côn trùng, nòng nọc, sinh vật đáy... - Diệt sinh vật gây bệnh cho động vật thủy sản như vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào và các loài ký sinh trùng. - Cải tạo chất đáy làm tăng chất dinh dưỡng, giảm chất độc tích tụ ở đáy ao. - Đắp lại lỗ rò rỉ, tránh thất thoát nước trong ao, xoá bỏ nơi ẩn nấp của sinh vật hại cá, tôm. 2.2.1.3. Các biện pháp khử trùng ao nuôi Dùng vôi để tẩy ao Ao nuôi sau khi đã tháo cạn nước dùng vôi sống, vôi bột hoặc vôi tôi. Liều lượng dùng phụ thuộc vào điều kiện môi trường thông thường dùng 1000-1500 kg/ha. Vôi bột rải đều khắp ao, vôi sống thì cho vào các hố giữa ao, vôi tan ra và lúc đang nắng, dùng gáo cán gỗ múc rải khắp đáy ao. Sau khi bón vôi một ngày cần dùng bàn trang hoặc bừa đảo đều rồi phơi nắng một tuần mới thả cá, tôm vào ương nuôi. Có một số ao quá trũng không tháo cạn được thì cho vôi xuống ao còn đầy nước, nếu nước sâu 1m, dùng khoảng 200 kg - 220 kg vôi/ha. Nếu đáy ao xì phèn thì phải rửa chua 3-5 lần, sau đó bón vôi khắp đáy ao và phơi khô. Cả hai phương pháp đều có khả năng tiêu trừ mầm bệnh và địch hại. Phương pháp sau tác dụng triệt để hơn, phương pháp trước, lúc tháo nước vào ao ương nuôi, sinh vật gây bệnh và địch hại có thể theo vào Dùng vôi nung khử trùng ao không những tiêu diệt được mầm bệnh mà còn có tác dụng cải tạo đáy ao, pH của nước ổn định, làm giàu chất dinh dưỡng trong môi trường 54 nuôi. Đối với lồng bè nuôi tôm, có thể dùng nước vôi loãng 10%, quét trong và ngoài để khử trùng. Vôi nung dễ kiếm, rẻ tiền và dễ sử dụng, có hiệu quả kinh tế cao. Theo nước vào 2,5% Đất ao và bùn xói mòn 91% Phân bón 0,5% Vôi 1% Thức ăn 5% Thay nước 3% Tháo cạn ao thu hoạch 2,5% Dùng Chlorua vôi Ca(OCl)2 Khối bùn phải vét 92% Thu hoạch cá 2,5% Liều lượng dùng căn cứ vào khối lượng nước trong ao, thường dùng 50g/m3 (50ppm) cho Ca(OCl)2 vào thùng gỗ để cho tan sau đó rắc xuống ao và dùng thuyền đưa nước để Ca(OCl)2 trộn đều phát huy tác dụng tốt hơn. Sau khi rắc xuống 1 tuần có thể thả cá tôm vì độc lực đã giảm. Các bể, dụng cụ ương nuôi ấu trùng khử trùng bằng Ca(OCl)2 nồng độ 200-220ppm (200-220gam/m3 nước) thời gian ngâm qua 1 đêm. Ca(OCl)2 có khả năng diệt vi khuẩn, sinh vật gây bệnh, diệt cá tạp, nòng nọc, trai ốc, côn trùng... Ca(OCl)2 có tác dụng diệt trùng, diệt tạp gần như vôi nhưng dùng số lượng ít, độc lực giảm nhanh nhưng không có tác dụng cấp chất dinh dưỡng cho thủy vực nuôi cá. 2 Ca(OCl)2 + 2H2O = Ca(OH)2 + 2 HOCl +CaCl2 HOCl = H+ + OCl Bảng 8. Định lượng vôi sử dụng cải tạo và khử trùng ao nuôi Độ pH của đất Bột đá vôi (CaCO3) kg/ha Vôi nung (CaO) kg/ha > 6 1.000 - 1.500 500 - 1.000 5 - 6 3.000 - 3.500 1.500 - 2.000 4 - 5 5.000 - 8.000 2.500 - 4.000 < 3 12.000 - 14.000 8.000 - 10.000 55 Dùng thuốc nam (quả bồ hòn, rễ cây thuốc cá) Dùng quả bồ hòn và cây thuốc cá diệt tạp hiệu quả cao vì trong chúng có độc tố phá vỡ hồng cầu của cá tạp. Ao đã tát cạn dùng 40 kg/ha Nếu ao nước sâu 1m dùng 60-75 kg/ha. Rễ cây thuốc cá dùng với liều 4 gram khô/m3 nước. 2.2.1.4. Vệ sinh môi trường nuôi Vệ sinh môi trường nuôi bằng biện pháp cơ học Trong quá trình nuôi tôm cá thương phẩm thức ăn thừa và phân tôm cá có thể gây ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là thời gian cuối chu kỳ nuôi. Những sản phẩm khí độc như: H2S, NH3 ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của tôm cá. Biện pháp dùng hệ thống sục khí để tăng cường hàm lượng oxy hoà tan trong ao, đặc biệt là tầng đáy, tạo điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí phát triển sẽ làm giảm thiểu lượng khí độc trong ao. Sục khí mạnh cũng sẽ làm các khí độc thoát ra khỏi ao, đồng thời gom các chất thải trong ao vào một nơi nhất định, giúp xi-phông đáy rút các chất thải ra khỏi ao nuôi tốt hơn. Vệ sinh môi trường nuôi bằng hóa dược Vệ sinh môi trường nước nuôi tôm cá thường xuyên bằng vôi bột tùy theo pH của nước ao. Vôi bột có tác dụng cung cấp Ca++ cho ao, ổn định pH, khử trùng làm sạch nước ao. Nếu pH <7 dùng 2kg vôi/100m3; pH từ 7-8,5 có thể dùng 1kg vôi/100m3, định kỳ bón từ 2-4 lần/tháng; pH >8,5 dùng bột đá vôi (CaCO3) để bón, liều 1kg/100m3. Đối với ao nuôi tôm thâm canh có thể dùng vôi đen-dolomite (Ca và Mg), chú ý chất lượng vôi đen và nguồn gốc. Trong quá trình nuôi tôm cá nên thường xuyên bón vôi 2-4 lần/tháng với liều lượng 1-2kg/100m3 nước (100-200kg/ha với độ sâu 1m). Dùng một số hóa dược có tính oxy hóa mạnh phun vào ao: thuốc tím (KMnO4) nồng độ 2-5g/m3 hoặc Benzalkonium Chloride (BKC) nồng độ từ 0,1-0,5 g/m3 để tham gia vào quá trình oxy hóa các khí độc (H2S, NH3) thành các vật chất đơn giản không độc. Vệ sinh môi trường bằng sinh học Trong chăn nuôi công nghiệp đối với cá, tôm, để đạt được năng suất cao có thể dùng một số chế phẩm sinh học để cải thiện yếu tố môi trường nuôi. Tác dụng của chế phẩn sinh học cụ thể như sau: - Cải thiện chất nước, ổn định pH, cân bằng hệ sinh thái trong ao. - Loại bỏ các chất thải chứa nitrogen trong ao nuôi, những chất thải này gây độc cho động vật thủy sản. Sau đó chúng được chuyển hóa thành sinh khối làm thức ăn cho các động vật thủy sản. - Giảm bớt bùn ở đáy ao. - Giảm các vi khuẩn gây bệnh như: Vibrio spp., Aeromonas spp. và các loại virus khác: Virus gây bệnh đốm trắng, đầu vàng... - Hạn chế sử dụng hóa chất và kháng sinh tồn dư. 56 2.2.2. Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh cho động vật thủy sản 2.2.2.1. Khử trùng cơ thể động vật thủy sản Ao đã được tẩy dọn sạch sẽ và sát trùng đáy ao, nước mới tháo vào ao cũng đã lọc kỹ nhưng cá giống có thể mang mầm bệnh vào ao hồ. Do vậy, nguồn cá tôm giống thả vào thủy vực cần tiến hành kiểm dịch, nếu có sinh vật gây bệnh ký sinh trên cơ thể cá tôm thì tùy theo kết quả kiểm tra mà chọn thuốc trị bệnh cho thích hợp. Thường người ta dùng phương pháp tắm cho cá, tôm bằng các loại thuốc: - Muối ăn NaCl 2-4% (đối với nước ngọt) hoặc nước ngọt (đối với nước mặn) thời gian 5-10 phút. - CuSO4.5H2O (phèn xanh) 2-5ppm thời gian 5-15 phút. - Formalin 200-300ppm thời gian 30-60 phút. 2.2.2.2. Khử trùng thức ăn và nơi cho ăn Đối với thức ăn là thực vật thủy sinh thượng đẳng dùng Ca(OCl)2 liều 6ppm ngâm trong 20 phút. Thức ăn là động vật nên rửa sạch và dùng thức ăn còn tươi, tốt nhất là nấu chín. Phân hữu cơ cần ủ với 1% vôi bột sau đó mới sử dụng. Xung quanh nơi cho động vật thủy sản ăn, thức ăn thừa thối rữa gây nhiễm bẩn, tạo điều kiện cho vi sinh vật gây bệnh phát triển. Do đó thức ăn thừa phải vớt bỏ, rửa sạch máng ăn và thường xuyên khử trùng địa điểm cho ăn... khử trùng nơi cá, tôm đến ăn dùng loại thuốc nào hay số lượng nhiều ít còn tùy thuộc vào chất nước, độ sâu, nhiệt độ nước, diện tích nơi cho cá, tôm ăn, tình hình phát sinh bệnh cá, tôm của cơ sở thời điểm trước đó và hiện tại. Nên dùng vôi nung hoặc Chlorua vôi Ca(OCl)2 treo 2-3 túi xung quanh chỗ cho ăn để tẩy trùng thường xuyên. Liều lượng 2-4 kg vôi nung/túi hoặc 100- 200g Chlorua vôi/túi. 2.2.2.3 Khử trùng dụng cụ chăn nuôi Sinh vật gây bệnh có thể theo dụng cụ lây lan bệnh từ ao, bể bị bệnh sang ao, bể cá, tôm khỏe. Vì vậy, dụng cụ của nghề nuôi nên dùng riêng biệt từng ao. Sau khi sử dụng xong phải có biện pháp khử trùng đảm bảo vệ sinh. Dụng cụ đánh bắt, quần áo bảo hộ lao động sau khi sử dụng phải dùng dung dịch Ca(OCl)2 200ppm để ngâm ít nhất 1 giờ và rửa lại bằng nước sạch. 2.2.2.4. Dùng thuốc phòng ngừa trước mùa phát triển bệnh Đại bộ phận các loại bệnh của cá tôm phát triển mạnh trong các mùa vụ nhất định, thường mạnh nhất vào cuối Xuân đầu Hè, mùa thu đối với miền Bắc, mùa mưa đối với miền Nam. Do đó phải có biện pháp dùng thuốc phòng ngừa dịch bệnh, hạn chế được tổn thất. 57 Dùng thuốc phòng các bệnh ngoại ký sinh: Trước mùa phát sinh bệnh dùng thuốc rắc khắp ao để phòng ngừa thường đạt kết quả tốt. Ngoài ra còn có thể treo túi thuốc xung quanh nơi cho ăn hình thành một vùng khử trùng các vi sinh vật gây bệnh. Để đạt hiệu quả cao cần chú ý: Nồng độ thuốc xung quanh nơi cá, tôm ăn vừa phù hợp, nếu quá cao cá, tôm sẽ không đến ăn nhưng ngược lại nếu nồng độ quá thấp cá, tôm đến ăn nhưng không tiêu diệt được mầm bệnh. Do đó sau khi treo túi thuốc cần theo dõi, nếu không thấy cá đến ăn chứng tỏ nồng độ quá cao cần giảm xuống hoặc bớt túi thuốc. Dùng thuốc phòng các bệnh nội ký sinh: Thuốc để phòng ngừa các loại bệnh bên trong cơ thể cá, tôm phải qua đường miệng vào ống tiêu hóa. Với cá tôm không thể cưỡng bức nên trộn vào thức ăn để cho ăn tùy theo yêu cầu phòng ngừa từng loại bệnh mà tính số lượng thuốc. Số lần cho ăn và chọn loại thuốc nào cho thích hợp để có hiệu quả cao. Dùng thuốc để phòng ngừa các bệnh bên trong cơ thể cần lưu ý: - Thức ăn nên chọn loại cá tôm thích ăn, nghiền thành bột trộn thuốc vào, tùy theo tính ăn của cá, tôm mà chế tạo loại thức ăn nổi hay chìm. - Độ dính thích hợp giữa thuốc và thức ăn, nếu thức ăn có độ dính thấp, thuốc gặp nước sẽ tan ngay, ngược lại nếu độ dính quá cao thức ăn vào ruột do thời gian ngắn chưa kịp hấp thu đã bị bài tiết ra ngoài sẽ không có hiệu quả phòng bệnh. - Kích thước thức ăn lớn nhỏ theo cỡ miệng bắt mồi của cá, tôm. - Tính số lượng thức ăn cho chính xác, thường bỏ thức ăn xuống ao căn cứ theo trọng lượng cá, nên tính số lượng tất cả các loài có ăn cùng thức ăn đó trong thủy vực. - Cho ăn số lượng ít hơn bình thường để ngày nào hết ngày đó sau đó tăng dần nhất là cá bị bệnh đường ruột. 2.2.2.5. Tiêu diệt vật chủ cuối cùng ở trên cạn Một số vi sinh vật ký sinh có vật chủ trung gian là cá nhưng vật chủ cuối cùng lại là động vật trên cạn như chim và một số động vật có vú khác. Do vậy, có thể áp dụng các biện pháp săn bắn, phá tổ của các loài chim ăn cá, săn bắt thú ăn cá. Tuy nhiên, việc làm này cần phải xem xét cẩn thận sao cho phù hợp với các quy định có liên quan của pháp luật. - Dọn sạch cỏ rác, san bằng quanh ao để không còn nơi ẩn nấp và để trứng. - Xử lý nguồn phân hữu cơ theo đúng kỹ thuật trước khi bón xuống ao ương nuôi cá. - Không ăn cá, tôm sống. 2.3. TĂNG CƯỜNG SỨC ĐỀ KHÁNG BỆNH CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN Nguyên nhân gây bệnh xâm nhập vào những cơ thể có phát sinh ra bệnh hay không còn tùy thuộc vào yếu tố môi trường và bản thân cơ thể vật chủ. 58 Nếu vật chủ có sức đề kháng tốt, có khả năng chống đỡ lại các yếu tố gây bệnh nên không mắc bệnh hoặc bệnh nhẹ. Ngược lại khả năng chống đỡ yếu, dễ dàng nhiễm bệnh. Do đó một trong những khâu quan trọng để phòng bệnh cho động vật thủy sản là tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản. 2.3.1. Kiểm tra chất lượng và tình hình bệnh của động vật thủy sản trước khi thả nuôi Các động vật thủy sản từ các nước nhập vào nước ta cũng như động vật thủy sản của nước ta xuất khẩu ra nước ngoài hoặc cá, tôm chuyển từ vùng này qua vùng khác đều phải tiến hành kiểm dịch. Khi có bệnh phải dùng các biện pháp xử lý nghiêm nghặt để đảm bảo an toàn dịch bệnh, hạn chế lây lan từ địa phương này sang địa phương khác. Động vật thủy sản bị nhiễm bệnh nếu không được kiểm soát, phát hiện kịp thời đến khi thả ra nuôi trong các thủy vực mặt nước lớn sẽ lây lan bệnh mạnh không thể có biện pháp chữa trị hiệu quả. 2.3.2. Cải tiến phương pháp quản lý, nuôi dưỡng động vật thủy sản Thả ghép các loài cá và mật độ thả thích hợp Trong kỹ thuật nuôi cá người ta thường nuôi ghép nhiều loài cá và chọn mật độ thả tương đối dày để nâng cao sản lượng. Đứng về góc độ phòng bệnh, nếu trong cùng một thủy vực nuôi ghép nhiều loài cá tất nhiên mật độ của từng loài sẽ thưa hơn, thuận lợi cho phòng bệnh. Đồng thời mỗi loài cá có khả năng miễn dịch đối với một số vi sinh vật gây bệnh nên điều kiện để phát sinh ra bệnh trong thủy vực nuôi ghép ít hơn ao nuôi chuyên một loài với mật độ dày. Như vậy nuôi ghép nhiều loài cá vừa tận dụng được nguồn thức ăn, không gian sống rộng rãi lại phòng bệnh tốt. Tuy nhiên tỷ lệ ghép và loài ghép không thích hợp sẽ gây ra hiện tượng tranh giành thức ăn cá sẽ bị gầy đi. Trong các thủy vực nuôi ghép những loài cá nào và mật độ bao nhiêu căn cứ vào độ sâu, chất nước, thức ăn, tính ăn của cá, biện pháp chăm sóc, quản lý cũng như trang thiết bị. Nuôi mật độ quá dày, cá sống chật chội, cá bị bệnh dễ lây lan bệnh cho cá khỏe, cá sinh trưởng chậm, cá gầy yếu, sức đề kháng giảm, dễ nhiễm bệnh và gây ra chết hàng loạt, mùa hè dễ thiếu oxy làm cho cá chết ngạt. Nhiều loại bệnh thường hay phát triển mạnh trong các ao ương cá mật độ dày, ao có mực nước thấp. Mùa Hè nhiệt độ cao, ương cá hương mật độ dày tỷ lệ hao hụt cao do ký sinh trùng Trichodina ký sinh. Nếu nuôi mật độ quá dày phải thường xuyên sục khí và cho ăn đầy đủ đồng thời theo dõi môi trường và chăm sóc quản lý tốt. Nuôi luân canh các động vật thủy sản Trong một ao nuôi hay một khu vực nuôi động vật thủy sản quá trình nuôi đã tích lũy nhiều chất thải và các mầm bệnh. Những chất thải và các mầm bệnh này sẽ ảnh 59 hưởng và gây bệnh cho các chu kỳ nuôi tiếp. Dựa vào các đặc tính mùa vụ của các đối tượng nuôi chúng ta có thể nuôi xen canh trên một ao nuôi, giúp cho các đối tượng nuôi mới không bị nhiễm bệnh của các chu kỳ nuôi trước và chúng có thể tiêu diệt được các mầm bệnh đó. Một ao nuôi tôm sau nhiều vụ liên tiếp thường tích luỹ mầm bệnh của tôm ở đáy ao. Do vậy, khi nuôi các lứa tôm mới việc tẩy dọn ao không đảm bảo vệ sinh tôm dễ mắc bệnh. Sau một chu kỳ nuôi tôm, nếu chúng ta nuôi cá rô phi hay trồng rong câu, sẽ có thể làm giảm các mầm bệnh trong đáy ao, vì những mầm bệnh là virus gây bệnh ở tôm không gây bệnh cho cá rô phi và rong câu. Một ao nuôi ba ba nhiều vụ, dưới đáy ao sẽ tích luỹ nhiều chất thải gây ô nhiễm, xuất hiện sinh vật bám đơn bào: Zoothamnium, Tokophrya, Epistylis... Sau chu kỳ nuôi ba ba chúng ta nuôi các loài cá ăn thức ăn là động vật, thực vật phù du và sinh vật bám (mè, trôi, rô phi...), cá ăn các sinh vật bám thường gây bệnh cho ba ba và cá ăn sinh vật phù du, kích thích sinh vật phù du phát triển sẽ lọc sạch dần môi trường nước. Ở những khu vực khí hậu thay đổi lớn như miền Bắc Việt Nam chúng ta nên nuôi tôm Sú ở các đầm nước lợ từ tháng 5-8, sau đó ta nuôi rô phi và mùa đông nuôi cua thì sẽ đảm bảo cho các đối tượng nuôi đều phát triển tốt và không nhiễm bệnh. Bởi vì tháng 5-8 thời tiết ấm và ổn định ta có thể nuôi tôm Sú rất phù hợp. Từ tháng 8-11 thời tiết mưa nhiều, nắng nóng nên ta chỉ có thể nuôi rô phi chúng có thể chịu đựng được điều kiện môi trường như vậy và dọn các mầm bệnh của tôm thải ra. Mùa Đông và mùa xuân từ tháng 12-4 sang năm, cua có thể chịu đựng được nhiệt độ lạnh nên chúng có thể sinh trưởng và không bị bệnh nắng nóng mùa hè. Cho cá, tôm ăn theo phương pháp “4 định” Thực hiện biện pháp kỹ thuật cho cá, tôm ăn theo “4 định”, cá tôm ít bệnh tật, nuôi cá tôm đạt năng suất cao - Định chất lượng thức ăn: Thức ăn dùng cho cá, tôm ăn phải tươi, sạch sẽ, không bị mốc, không bị ôi, không có mầm bệnh và độc tố. Thành phần dinh dưỡng thích hợp đối với yêu cầu phát triển cơ thể cá trong các giai đoạn. - Định số lượng thức ăn: Dựa vào trọng lượng cá, tôm để tính lượng thức ăn, thường sau khi cho ăn từ 3-4 giờ cá tôm ăn hết là lượng vừa phải. Cá tôm ăn thừa nên vớt bỏ đi để tránh hiện tượng thức ăn phân hủy làm ô nhiễm môi trường sống. - Định vị trí để cho ăn: Muốn cho cá tôm ăn một nơi cố định cần tập cho cá tôm có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định. Cho cá tôm ăn theo vị trí vừa tránh lãng phí thức ăn lại quan sát các hoạt động bắt mồi và trạng thái sinh lý sinh thái của cơ thể cá tôm. Ngoài ra để phòng bệnh cho cá tôm trước các mùa vụ phát sinh bệnh có thể treo các túi thuốc ở nơi cá tôm đến ăn, có thể tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh. - Định thời gian cho ăn: Hàng ngày cho cá tôm ăn 2 lần. Ví dụ như nuôi cá lồng, nuôi mật độ dày nên cho ăn nhiều lần hơn nhưng số lượng ít đi. 60 Các cơ sở nuôi cá tôm thường dùng phân hữu cơ bón xuống thủy vực bổ sung chất dinh dưỡng để cho sinh vật phù du phát triển cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho cá tôm. Phân bón phải ủ kỹ với 1% vôi nung và bón liều lượng thích hợp nếu không sẽ làm xấu môi trường nước ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể cá tôm. Thực hiện biện pháp kỹ thuật cho cá tôm ăn theo “4 định” tùy từng mùa vụ, chất nước, điều kiện môi trường và trạng thái cơ thể cá tôm... mà có sự thay đổi cho thích hợp. Thường xuyên chăm sóc, quản lý Hàng ngày nên có chế độ thăm ao theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện bệnh và xử lý ngay không cho bệnh phát triển và kéo dài. Cần quan sát biến đổi chất nước, bổ sung nguồn nước mới đảm bảo đầy đủ oxy và hạn chế các chất độc. Để tạo môi trường cá sống sạch sẽ cần dọn sạch cỏ tạp, tiêu trừ địch hại và vật chủ trung gian, vớt bỏ xác sinh vật và cá chết, các thức ăn thừa, tiêu độc nơi cá đến ăn để hạn chế sinh vật gây bệnh sinh sản và lây truyền bệnh. Thao tác đánh bắt, vận chuyển nên nhẹ nhàng, tránh xây xát cho cá Trong nước luôn luôn tồn tại các sinh vật gây bệnh cho cá. Vì vậy, trong quá trình ương nuôi, vận chuyển đánh và bắt thao tác phải thật nhẹ nhàng. Nếu để cá bị thương là điều kiện thuận lợi cho sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể. 2.3.3. Chọn giống cá tôm có sức đề kháng cao Qua thực tiễn sản xuất, thấy có hiện tượng một số ao nuôi cá bị bệnh, đa số cá trong ao bị chết nhưng có một số con có khả năng miễn dịch một số bệnh và sinh trưởng rất nhanh qua đó chứng tỏ sức đề kháng của cá trong cùng một giống cá có sự sai khác rất lớn từ đó người ta đã lợi dụng đặc tính này chọn giống cá có sức đề kháng cao chống được bệnh. Dùng phương pháp đơn giản và dễ làm là gây sốc bằng Formalin để chọn đàn tôm giống khỏe và ít nhiễm bệnh. Thả 150-200 ấu trùng tôm vào dung dịch Formalin 50- 100ppm (50-100ml Formalin 36-38%/m3 nước) trong thời gian 1-2 giờ. Nếu tỷ lệ ấu trùng tôm sống sau khi sốc > 95% là đàn tôm giống khỏe ít nhiễm bệnh virus. Khi nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh, tốt nhất nên kiểm tra tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh virus (MBV, đốm trắng) bằng phương pháp mô bệnh học và PCR. Chọn tôm bột (Postlarvae) có hình dạng bình thường, chủy, các phần phụ (râu, chân bơi, chân bò, đuôi) không gẫy hoặc ăn mòn có màu đen. Tỷ lệ giữa độ dày ruột và độ dày cơ ở đốt bụng thứ 6 là 1:4 (độ dày của ruột bằng 1/4 độ dày của cơ), ruột tôm có thức ăn. Tôm bột khỏe, đuôi có các sắc tố, các phần phụ đuôi mở rộng. Trạng thái của tôm bột khỏe khi bơi cơ thể thẳng, phản ứng nhanh với tác động từ bên ngoài, bơi chủ động ngược dòng khi khuấy nước. Khi dòng nước khuấy yên tĩnh, tôm có xu hướng bám vào thành chậu nhiều hơn bị nước cuốn vào giữa chậu. Tôm yếu hoạt động lờ đờ, phản ứng chậm, cơ thể cong, dị hình và không đều. 61 Chọn giống cá tôm miễn dịch tự nhiên Cá tôm sống trong các thủy vực tự nhiên cũng như trong ao nuôi có lúc xảy ra dịch bệnh làm cho đa số cá có thể chết nhưng cũng có một số ít sống sót do bản thân có khả năng sản sinh ra kháng thể có tác dụng chống lại tác nhân gây bệnh tạo được tính miễn dịch. Người ta đưa số cá này nuôi và nhân đàn với mục đích tạo được giống cá nuôi có khả năng chống đỡ với bệnh. Chalor Limsuwan (2000) đã đề xuất dùng tôm Sú bố mẹ đánh bắt ở độ sâu 60-120m, kích thước từ 26-30cm để làm giống do ít bị nhiễm bệnh đốm trắng hơn tôm đánh bắt ở vùng nước nông ven bờ. Lai tạo để chọn giống có sức đề kháng cao Ứng dụng đặc tính di truyền miễn dịch của cá người ta tiến hành lai tạo để có giống cá mới, có sức đề kháng cao, chống đỡ các loại bệnh tật. Ở nước ta, các nhà khoa học cho lai tạo các loại hình cá chép với nhau, cá chép Việt Nam với cá chép Hung, cá chép Indonesia tạo giống cá chép V1 tạo con lai có sức đề kháng tốt hơn cá bố mẹ. Gây miễn dịch nhân tạo Người ta dùng vắc xin tiêm, trộn vào thức ăn của cá, tôm làm cho cơ thể tạo ra được khả năng miễn dịch làm vô hiệu hóa tác nhân gây bệnh. Sử dụng vắc xin cho cá không những có tác dụng phòng mà còn có tác dụng chữa bệnh. Cá tôm sống trong môi trường khi bị nhiễm một loại bệnh nào đó có một quá trình dài được ủ bệnh nên cơ thể cá có khả năng sản sinh ra kháng thể và kháng nguyên. 62 Chương 3 THUỐC PHÒNG TRỊ BỆNH CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN 3.1. TÁC DỤNG CỦA THUỐC 3.1.1. Tác dụng cục bộ và tác dụng toàn thân Thuốc dùng ở tổ chức nào, cơ quan nào thì dừng và phát huy tác dụng ở đó như dùng cồn Iode, xanh Methylen bôi trực tiếp vào các vết thương, vết loét của cá bệnh. Ca(OCl)2 tác dụng khử trùng bên ngoài cơ thể cá. Tác dụng cục bộ của thuốc không chỉ xảy ra ở bên ngoài cơ thể mà cả bên trong như một số thuốc vào ruột ở đoạn nào phát huy tác dụng ở đoạn ấy. Tác dụng hấp thu là thuốc sau khi vào cơ thể hấp thu đến hệ thống tuần hoàn phát huy hiệu quả như dùng sulphathiazin trị bệnh đốm đỏ. 3.1.2. Tác dụng trực tiếp và tác dụng gián tiếp Căn cứ vào cơ chế tác dụng của thuốc chia ra tác dụng trực tiếp và tác dụng gián tiếp. Tổ chức tế bào cơ quan nào đó của người cũng như sinh vật tiếp xúc với thuốc phát sinh ra phản ứng thì gọi là tác dụng trực tiếp của thuốc, còn tác dụng gián tiếp là do tác dụng trực tiếp mà dẫn đến một số cơ quan khác phát sinh ra phản ứng. 3.1.3. Tác dụng chọn lọc của thuốc Tính mẫn cảm của các cơ quan trong cơ thể sinh vật với thuốc không giống nhau nên tác dụng trực tiếp của thuốc với các tổ chức cơ quan của cơ thể sinh vật cũng có khả năng lựa chọn. Do quá trình sinh hóa của tế bào tổ chức của các cơ quan không giống nhau, tế bào tổ chức của cơ quan nào phân hóa càng cao, quá trình sinh hóa càng phức tạp thì khả năng can thiệp của thuốc càng lớn nên tính mẫn cảm với thuốc càng cao như hệ thống thần kinh. Tuy mỗi tổ chức cơ quan có đặc trưng riêng nhưng trên một số khâu có sự giống nhau nên nhiều loại thuốc ngoài khả năng lựa chọn cao đối với các tế bào của cơ quan ra còn có thể tác dụng trực tiếp với một số tổ chức cơ quan khác, nhất là lúc lượng thuốc tăng. Vì vậy, tính lựa chọn của thuốc cũng mang tính tương đối. Hiện nay dùng một số hóa chất để tiêu diệt sinh vật gây bệnh có tính lựa chọn tương đối cao nên với nồng độ không độc hại với cơ thể ký chủ nhưng can thiệp được quá trình sinh hóa riêng của sinh vật gây bệnh nên phát huy hiệu quả trị liệu cao. Những sinh vật gây bệnh ký sinh trong cơ thể ký chủ có khả năng thích ứng càng cao chứng tỏ quá trình sinh hóa càng gần với tổ chức ký chủ nên tiêu diệt nó rất khó như virus ký sinh trong tế bào tổ chức của người cũng như sinh vật. 63 Ngoài một số thuốc có tính chất lựa chọn cao với các tổ chức cơ quan ra, một số thuốc lại có tác dụng độc hại đối với tế bào chất nói chung. Thuốc vào cơ thể can thiệp quá trình sinh hóa cơ bản nhất của bất kỳ tế bào chất nào. Vì vậy, chúng tác dụng đến sự sống của tất cả các tổ chức cơ quan như các ion kim loại mạnh kết hợp với gốc SH của men làm rối loạn chức năng hoạt động của hệ thống men nên tế bào tổ chức không tổng hợp được protein. 3.1.4. Tác dụng chữa bệnh và tác dụng phụ của thuốc Dùng thuốc để chữa bệnh nhằm mục đích tiêu diệt nguyên nhân gây bệnh và các triệu chứng bệnh nên thường người ta dùng thuốc chữa bệnh lại có thêm thuốc bồi dưỡng khôi phục lại chức năng hoạt động của các tổ chức cơ quan. Trong quá trình sử dụng thuốc tuy đạt được mục đích chữa lành bệnh nhưng có một số thuốc gây ra một số phản ứng phụ có thể gây tác hại đến cơ thể như: - Do tính toán không chính xác nên nồng độ thuốc quá cao, một số thuốc duy trì hiệu lực tương đối dài ở trong nước. Có khi dùng nồng độ thuốc trong phạm vi an toàn nhưng điều kiện môi trường biến đổi xấu hoặc cơ thể động vật thủy sản yếu cũng dễ bị ngộ độc, với các bệnh ở bên trong cơ thể động vật thủy sản phải dùng thuốc trộn với thức ăn nhưng có một số động vật thủy sản không ăn nên tính lượng thuốc khó chính xác, những con tham ăn có thể ăn liều lượng nhiều cũng dễ bị ngộ độc. Do đó mỗi khi dùng thuốc trị bệnh cho động vật thủy sản cần tăng cường công tác quản lý chăm sóc. - Dùng thuốc tiêm cho động vật thủy sản có một số con sau khi tiêm bị lở loét, có nhiều ao động vật thủy sản bị bệnh sau khi dùng thuốc để chữa, động vật thủy sản khỏi bệnh đáng ra sinh trưởng nhanh nhưng do ảnh hưởng của thuốc động vật thủy sản trong ao sinh trưởng không đều, một số con sinh trưởng rất chậm. Hiện tượng này ở gia súc, ở người rõ hơn ở động vật thủy sản. 3.1.5. Tác dụng hiệp đồng và tác dụng đối kháng của thuốc Cùng một lúc dùng hai hay nhiều loại thuốc làm cho tác dụng mạnh hơn lúc dùng riêng rẽ. Trái lại một số thuốc khi dùng riêng lẻ tác dụng lại mạnh hơn pha trộn nhiều loại thuốc bởi giữa chúng có thể triệt tiêu tác dụng làm cho hiệu quả điều trị giảm, tuy nhiên vấn đề này ở động vật thủy sản nghiên cứu còn ít. 3.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÁC DỤNG CỦA THUỐC Tác dụng của thuốc mạnh hay yếu do nhiều nguyên nhân ảnh hưởng nhưng yếu tố chính là mối quan hệ tương hỗ giữa thuốc và cơ thể sinh vật. 3.2.1 Tính chất lý hóa và cấu tạo hóa học của thuốc Tính chất dược lý của thuốc có quan hệ mật thiết với tính chất lý học, hóa học của thuốc, hay nói cách khác tác dụng của thuốc trên cơ thể sinh vật phụ thuộc vào tính chất 64 lý hóa và cấu tạo hóa học của thuốc chẳng hạn thuốc có độ hoà tan lớn, thuốc dạng lỏng cơ thể dễ hấp thu nên tác dụng sẽ nhanh hơn. Tính chất hóa học của thuốc can thiệp vào quá trình sinh hóa của sinh vật để phát huy tác dụng dược lý như muối CuSO4 tác dụng lên protein làm kết vón tế bào tổ chức dẫn đến tiêu diệt nhiều nguyên sinh động vật ký sinh trên cá. Tính chất lý hóa của thuốc nó quyết định khả năng hấp thu, phân bố, biến đổi và bài tiết của thuốc trên cơ thể sinh vật từ đó mà xem xét tác dụng dược lý mạnh hay yếu. Tác dụng dược lý quyết định bởi cấu tạo hóa học của thuốc. Mỗi khi cấu tạo hóa học của thuốc thay đổi thì tính chất dược lý cũng thay đổi theo. Các loại thuốc Sulphamid sở dĩ nó có khả năng ức chế vi khuẩn vì có cấu tạo giống para amino benzoic axit (PABA) là "chất sinh trưởng" của vi khuẩn nên đã tranh giành thay thế PABA dẫn đến ức chế vi khuẩn sinh sản, sinh trưởng. 3.2.2. Liều lượng thuốc Liều lượng thuốc nhiều hay ít đều có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Dùng liều quá ít không phát sinh tác dụng, dùng liều lượng thuốc nhỏ nhất phát sinh được tác dụng thì gọi là liều lượng thuốc thấp nhất có hiệu nghiệm. Liều lượng thuốc lớn nhất mà cơ thể sinh vật chịu đựng được không có biểu hiện ngộ độc là liều lượng thuốc chịu đựng cao nhất, là liều lượng cực đại. Nếu vượt quá ngưỡng này động vật thủy sản sẽ bị ngộ độc. Liều lượng dẫn đến động vật thủy sản ngộ độc gọi là lượng ngộ độc, vượt hơn động vật thủy sản sẽ chết gọi là liều lượng tử vong. Thuốc dùng để trị các bệnh bên ngoài của động vật thủy sản thường dựa vào thể tích nước để tính liều lượng thuốc. Đối với các bệnh bên trong cơ thể thì căn cứ vào trọng lượng cơ thể để tính lượng thuốc. Thường người ta chọn ở giữa hai mức: Liều thuốc nhỏ nhất có hiệu nghiệm và liều cao nhất có thể chịu đựng được, trong phạm vi này sẽ an toàn với động vật thủy sản. Thuốc tốt thường có phạm vi an toàn lớn. Muốn chọn liều lượng nào để chữa bệnh cho động vật thủy sản có hiệu quả cao và an toàn với động vật thủy sản cần phải nắm vững tình trạng cơ thể, giai đoạn phát triển và đặc điểm sinh vật học của giống loài động vật thủy sản cần trị bệnh cũng như điều kiện môi trường động vật thủy sản sống mới có quyết định chính xác. Có lúc trong phạm vi an toàn thuốc vẫn có thể gây ngộ độc đối với động vật thủy sản. 3.2.3. Phương pháp dùng thuốc Phương pháp dùng thuốc không giống nhau tốc độ hấp thu sẽ khác nhau nên nồng độ thuốc trong cơ thể cũng sẽ khác nhau dẫn đến ảnh hưởng tác dụng của thuốc. Phòng trị các bệnh bên ngoài cơ thể động vật thủy sản thường phát huy tác dụng cục bộ của thuốc, còn đối với phòng trị các bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản lại dùng phương pháp tác dụng hấp thu của thuốc. Để phòng trị bệnh cho động vật thủy sản thường dùng các phương pháp sau đây: 65 3.2.3.1. Tắm cho động vật thủy sản Tập trung động vật thủy sản trong một bể nhỏ, pha thuốc với nồng độ tương đối cao tắm cho động vật thủy sản trong thời gian ngắn để trị các sinh vật gây bệnh bên ngoài cơ thể động vật thủy sản. Phương pháp này có ưu điểm là tốn ít thuốc không ảnh hưởng đến sinh vật phù du là thức ăn của động vật thủy sản trong thủy vực nhưng muốn trị bệnh phải kéo lưới đánh bắt động vật thủy sản, động vật thủy sản dễ bị xây xát và lại không dễ dàng đánh bắt chúng trong thủy vực nên tiêu diệt sinh vật gây bệnh cho động vật thủy sản khó triệt để. Phương pháp này thường thích hợp lúc chuyển cá, tôm từ ao này qua nuôi ao khác, lúc cần vận chuyển đi xa hoặc con giống trước khi thả nuôi thương phẩm ở các thủy vực cần sát trùng tiêu độc. Đối với các ao nuôi động vật thủy sản nước chảy cần hạ thấp mực nước cho nước chảy chậm lại hay dừng hẳn sau đó rắc thuốc xuống tắm cho động vật thủy sản một thời gian rồi nâng dần mực nước lên và cho nước chảy như cũ, nồng độ dùng nên thấp hơn nồng độ tắm nhưng lại cao hơn nồng độ rắc đều xuống ao. 3.2.3.2. Phương pháp phun thuốc xuống ao Dùng thuốc phun xuống ao tạo môi trường động vật thủy sản sống có nồng độ thuốc thấp song thời gian tác dụng của thuốc dài. Phương pháp này tuy tốn thuốc nhưng tiện lợi, dễ tiến hành, trị bệnh kịp thời không tốn nhân công và ngư lưới cụ. Phương pháp phun thuốc xuống ao có thể tiêu diệt sinh vật gây bệnh ở các cơ quan bên ngoài của động vật thủy sản và sinh vật gây bệnh tồn tại trong thủy vực tương đối triệt để. Tuy nhiên một số thủy vực không có hình dạng nhất định thường tính thể tích không chính xác - gây phiền phức cho việc định lượng thuốc dùng. Ngoài ra có một số thuốc phạm vi an toàn nhỏ, sử dụng không quen có thể ảnh hưởng đến động vật thủy sản. Dùng một số thuốc phun xuống ao có thể tiêu diệt sinh vật làm nghèo nguồn dinh dưỡng là thức ăn của động vật thủy sản. Thuốc dùng tương tự như tắm nhưng nồng độ giảm đi 10 lần. 3.2.3.3. Dùng thuốc bôi trực tiếp lên cơ thể động vật thủy sản Động vật thủy sản bị cảm nhiễm một số bệnh ngoài da, vây... thường dùng thuốc có nồng độ cao bôi trực tiếp vào vết loét hay nơi có ký sinh trùng ký sinh để giết chết sinh vật gây bệnh như: bệnh đốm đỏ, bệnh lở loét, bệnh do trùng mỏ neo, giun tròn ký sinh. Phương pháp này có thể dùng lúc đánh bắt cá bố mẹ để kiểm tra hay cho đẻ nhân tạo hoặc phòng trị bệnh lở loét nhiễm trùng cho ba ba. Ưu điểm tốn ít thuốc, độ an toàn lớn, thuận lợi và ít ảnh hưởng đến động vật thủy sản. 3.2.3.4. Ngâm dầm xuống ao Dùng một số cây thuốc nam ngâm xuống nhiều nơi trong ao hay ngâm vào gần bờ đầu hướng gió, nhờ gió đẩy lan ra toàn ao sau khi lá dầm phân giải. Phương pháp này có thể tiêu diệt sinh vật gây bệnh bên ngoài cơ thể động vật thủy sản và sinh vật gây bệnh 66 trong thủy vực. Trong thực tiễn sản xuất nghề cá thường dùng một số cây phòng bệnh cho cá. Ở nước ta dùng cây xoan bón xuống ao làm phân cũng có tác dụng phòng và trị bệnh do ký sinh trùng: trùng bánh xe (Trichodina), trùng mỏ neo (Lernaea) ký sinh trên cá, đặc biệt là giai đoạn ương cá hương, cá giống. Hoặc dùng cây thuốc cá để tiêu diệt các loài cá tạp ở ao nuôi tôm. 3.2.3.5. Treo túi thuốc Xung quanh giàn cho động vật thủy sản ăn treo các túi thuốc để tạo ra khu vực sát trùng, động vật thủy sản lui tới bắt mồi nên sinh vật gây bệnh ký sinh bên ngoài cơ thể động vật thủy sản bị diệt trừ. Phương pháp treo túi thuốc thích hợp để phòng bệnh cho động vật thủy sản và trị bệnh lúc mới phát sinh. Những cơ sở cá đã có thói quen ăn theo nơi quy định và nuôi cá lồng mới có thể tiến hành treo túi thuốc được. Phương pháp này dùng số thuốc ít nên tiết kiệm được thuốc lại tiến hành đơn giản, động vật thủy sản ít bị ảnh hưởng bởi thuốc. Nhưng chỉ tiêu diệt được sinh vật gây bệnh ở trong vùng cho động vật thủy sản ăn và trên một số động vật thủy sản thường xuyên đến bắt mồi ở quanh giàn thức ăn. Cần chọn liều lượng thuốc cao nhất nhưng không ức chế động vật thủy sản tìm đến giàn thức ăn để bắt mồi. Nồng độ thuốc yêu cầu duy trì từ 2-3 giờ. Thường treo liên tục trong vòng 3 ngày. 3.2.3.6. Chế biến thuốc vào thức ăn Dùng thuốc hoặc vắc xin trộn vào loại thức ăn ngon nhất, sau đó cho chất dính vào chế thành hỗn hợp đóng thành viên để cho động vật thủy sản ăn theo các liều lượng. Phương pháp này dùng trị các bệnh do các sinh vật ký sinh bên trong cơ thể động vật thủy sản. Lúc động vật thủy sản bị bệnh nặng, khả năng bắt mồi yếu thậm chí ngừng ăn nên hiệu quả trị liệu sẽ thấp chủ yếu là phòng bệnh. 3.2.3.7. Tiêm thuốc cho động vật thủy sản Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào xoang bụng hoặc cơ của cá và các động vật thủy sản kích thước lớn. Phương pháp này liều lượng chính xác, thuốc hấp thu dễ nên tác dụng nhanh. Hiệu quả trị liệu cao nhưng lại rất phiền phức vì phải bắt từng con, thường chỉ dùng biện pháp tiêm để chữa bệnh cho cá bố mẹ hay tiêm vắc xin cho cá hoặc những lúc cá bị bệnh nặng mà số lượng cá bị bệnh nặng không nhiều hay một số giống loài động vật thủy sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. 3.2.4. Quá trình thuốc ở trong cơ thể Thuốc sau khi vào cơ thể phát sinh ra các loại tác dụng nhưng đồng thời cơ thể cũng làm cho thuốc có những biến đổi. Quá trình thuốc ở trong cơ thể qua sự biến đổi tương đối phức tạp như sau: 67 3.2.4.1 Thuốc được hấp thụ Tốc độ hấp thu thuốc của cơ thể là nhân tố quyết định sự hiệu nghiệm của thuốc nhanh hay chậm. Tốc dộ hấp thu của thuốc phụ thuộc vào các yếu tố: - Phương pháp dùng thuốc ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ của thuốc. Nếu dùng thuốc để tiêm tác dụng nhanh, hiệu quả trị liệu cao hơn uống. Cùng một phương pháp dùng thuốc nếu diện tích hấp thu càng lớn thì khả năng hấp thụ nhanh, hiệu nghiệm của thuốc sẽ nhanh hơn. - Tính chất lý hóa của thuốc: Thuốc dịch thể dễ hấp thu hơn thuốc tinh thể nhưng tinh thể lại hấp thu nhanh hơn chất keo. - Điều kiện môi trường: Điều kiện môi trường như độ muối, độ pH, nồng độ thuốc đều ảnh hưởng đến khả năng hấp thu thuốc của cơ thể. Ngoài ra, bản thân cơ thể có các yếu tố bên trong cũng ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc như lúc đói, ruột rỗng hấp thu thuốc dễ hơn lúc no ruột có nhiều thức ăn hay chất cặn bã, hệ thống tuần hoàn khỏe mạnh hấp thu thuốc tốt hơn. 3.2.4.2. Phân bố của thuốc trong cơ thể Thuốc sau khi hấp thu vào trong máu một thời gian ngắn, sau đó qua vách mạch máu nhỏ đến các tổ chức. Thuốc phân bố trong các tổ chức không đều là do sự kết hợp của các chất trong tế bào tổ chức của các cơ quan có sự khác nhau, ví dụ như các loại sulphamid thường tập trung ở thận. 3.2.4.3. Sự biến đổi của thuốc trong cơ thể Thuốc sau khi vào cơ thể phát sinh các biến đổi hóa học làm thay đổi tác dụng dược lý, trong đó có rất ít sau biến đổi khả năng hoạt động của thuốc mạnh lên nhưng tuyệt đại đa số sau biến đổi hóa học hiệu nghiệm và độc lực của thuốc giảm thậm chí hoàn toàn mất tác dụng. Quá trình biến đổi của thuốc trong cơ thể gọi là tác dụng giải độc. Trong gan có hệ thống men rất phong phú tham gia xúc tác quá trình biến đổi hóa học của thuốc nên tác dụng giải độc thực hiện chủ yếu ở gan. Vì vậy, nếu gan bị bệnh dẫn đến cơ năng hoạt động yếu cơ thể dễ bị ngộ độc thuốc. 3.2.4.4. Bài tiết của thuốc trong cơ thể Tác dụng của thuốc mạnh hay yếu, thời gian dài hay ngắn quyết định ở liều lượng và tốc độ thuốc hấp thu vào cơ thể sinh vật đồng thời còn quyết định bởi tốc độ bài tiết của thuốc trong cơ thể. Thuốc vào cơ thể sau khi phân giải một số dự trữ lại còn một số bị bài tiết thải ra ngoài. Thuốc vừa hấp thu vào cơ thể mà bài tiết ngay là không tốt vì chưa kịp phát huy tác dụng. Cơ quan bài tiết chủ yếu của cá là thận, đến ruột và mang. Nếu thận, ruột, mang cá bị tổn thương hay bị bệnh thì phải thận trọng lúc sử dụng thuốc lúc phòng trị bệnh cá bởi lúc này cá rất dễ bị ngộ độc. 68 3.2.4.5. Tích trữ của thuốc trong cơ thể Cùng một loại thuốc nhưng dùng nhiều lần lặp đi lặp lại do khả năng giải độc hoặc khả năng bài tiết của cơ thể bị trở ngại thuốc tích trữ trong cơ thể quá nhiều mà phát sinh ra trúng độc thì gọi là ngộ độc do tích thuốc, thuốc tồn đọng lại trong cơ thể gọi là sự tích trữ của thuốc. Chức năng hoạt động giải độc và bài tiết thuốc của cơ thể vẫn bình thường nhưng do cung cấp thuốc nhiều lần cơ thể chưa kịp phân giải và bài tiết nên cũng có thể làm cho thuốc tích trữ. Vì vậy nên thường phải khống chế sao cho lượng thuốc vào không lớn hơn lượng thuốc bài tiết ra khỏi cơ thể. Trong thực tế người ta dùng một lượng thuốc tương đối lớn hơn để có tác dụng sau đó cho bổ sung theo định kỳ số lượng thuốc ít hơn cốt để duy trì một nồng độ nhất định trong cơ thể có khả năng tiêu diệt nguyên nhân gây bệnh như dùng các loại sulphamid để chữa bệnh cho cá thường dùng biện pháp này. Trong phương pháp trị bệnh cho động vật thủy sản người ta thường ứng dụng sự tích trữ của thuốc, cho thuốc vào cơ thể dần dần để đạt hiệu nghiệm trị liệu và duy trì thuốc trong cơ thể một thời gian tương đối dài. Tuy vậy cần chú ý đừng để sự tích trữ chữa bệnh phát triển thành tích trữ trúng độc như thuốc trừ sâu 666 tuy độc lực thấp nhưng đó là một chất ổn định khó bị phân giải nên khi vào cơ thể nó lưu lại thời gian dài và lượng tích trữ sẽ lớn dễ ngộ độc nên hiện nay trong nông nghiệp, chăn nuôi, trong phòng trị bệnh cho động vật thủy sản chúng ta không sử dụng thuốc này. 3.2.5. Về trạng thái hoạt động của vật chủ Mỗi loài động vật thủy sản có đặc tính sinh vật học riêng đồng thời môi trường sống có khác nhau nên phản ứng với thuốc có khác nhau, loài cá nào có tính mẫn cảm cao, sức chịu đựng yếu thì không thể dùng thuốc với liều lượng cao nên tác dụng của thuốc giảm và ngược lại. Ví dụ cá rô phi và cá mè hoa giai đoạn cá hương 2-3cm, tắm dung dịch nước muối NaCl 4% sau 9 phút cá mè hoa chết, sau 150 phút cá rô phi chết. Như vậy nếu dùng NaCl tắm để trị một số bệnh cho cá thì với rô phi thời gian tắm dài nên tác dụng thuốc mạnh hơn, khả năng tiêu diệt một số sinh vật gây bệnh sẽ lớn. Ngoài ra, cá đực, cá cái và tuổi cá cũng chi phối đến tác dụng của thuốc chữa bệnh. Con đực thường sức chịu đựng với thuốc cao hơn con cái. Cá còn nhỏ tính mẫn cảm với thuốc cũng mạnh hơn. Chẳng hạn, dùng muối CuSO4 tắm cho cá con, nếu dùng nồng độ 10ppm tắm cho cá trắm cỏ giai đoạn cá bột sau 2h30’ sẽ chết. Cá trắm cỏ hương sau 4h10’ cá sẽ chết. Cùng loài, cùng tuổi, cùng môi trường sống nhưng sức chịu đựng của từng cá thể cũng khác nhau. Thường con khỏe mạnh có thể dùng thuốc nồng độ cao, thời gian dùng có thể kéo dài hơn con bị yếu. Trong số đàn bị bệnh, con bị bệnh nặng dễ bị ngộ độc hơn con bị bệnh còn nhẹ. Vì vậy, khi chữa bệnh cho đàn bị bệnh phạm vi an toàn sẽ giảm nên cần chú ý liều dùng và biện pháp cung cấp nước khi cần thiết. 69 Đối với động vật thủy sản bậc thấp: giáp xác, ấu trùng nhuyễn thể... sức chịu đựng kém hơn động vật bậc cao: cá, lưỡng thê, bò sát. 3.2.6. Điều kiện môi trường động vật thủy sản sống Động vật thủy sản là động vật máu lạnh nên chịu sự chi phối rất lớn các biến động của môi trường. Điều kiện môi trường tác dụng đến cơ thể ký chủ từ đó ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc nhất là các loại thuốc dùng để trị các bệnh bên ngoài cơ thể. Trong phạm vi nhất định khi nhiệt độ cao tác dụng của thuốc sẽ mạnh hơn do đó cùng một loại thuốc nhưng mùa hè dùng nồng độ thấp hơn mùa đông. Như dùng KMnO4 tắm cho cá trị bệnh do ký sinh trùng mỏ neo (Lernaea) ký sinh ở nhiệt độ 15- 200C dùng liều lượng 1/5 vạn. Nhưng nếu nhiệt độ 21-300C chỉ dùng liều 1/10 vạn. Dùng HgNO3 tắm cho cá với liều lượng 0,1-0,3mg/l trong 3 ngày có thể tiêu diệt ký sinh trùng Ichthyophthirius nhưng nồng độ có sự thay đổi theo nhiệt độ: nhiệt độ nước 100C dùng 0,3mg/l, nếu nhiệt độ nước 10-200C dùng 0,2-0,25mg/l Còn nhiệt độ trên 200C chỉ dùng 0,1-0,15mg/l. pH của thủy vực có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc, pH cao tác dụng của thuốc sẽ yếu nên độ an toàn của thuốc sẽ cao. Chất hữu cơ trong môi trường nước nhiều sẽ làm cho tác dụng của thuốc giảm nên phạm vi an toàn của thuốc tăng. Hàm lượng oxy trong nước cao, sức chịu đựng của động vật thủy sản với thuốc càng cao nên phạm vi an toàn càng lớn. Trong môi trường nước có nhiều chất độc sức chịu đựng của cơ thể động vật thủy sản với thuốc giảm nên chỉ dùng thuốc ở nồng độ thấp, thời gian dùng cũng phải ngắn - vì thế tác dụng của thuốc sẽ giảm. Ngoài ra độ trong, độ cứng, độ muối, diện tích, độ sâu của thủy vực... đều có liên quan ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. 3.3. MỘT SỐ HOÁ CHẤT VÀ THUỐC THƯỜNG DÙNG CHO NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 3.3.1. Hóa dược 3.3.1.1. Đá vôi... CaCO3 Đá vôi hay vỏ sò (hàu) được nghiền nhỏ thành bột mịn kích thước hạt 250-500 mesh, hàm lượng CaCO3 lớn hơn 75%. Đá vôi nghiền càng mịn dùng cho ao nuôi tôm có tác dụng tốt hơn. Đá vôi dùng làm hệ đệm của nước có thể dùng số lượng lớn và ít ảnh hưởng đến pH, cung cấp Ca+2 cho ao nuôi tôm. Dung dịch đá vôi 10% đạt độ pH khoảng 9. Liều lượng dùng cho ao nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh 100-300 kg/ha/lần bón, bón định kỳ 2-4 lần/tháng tùy thuộc vào pH của nước ao. 3.3.1.2. Vôi đen... Dolomite - CaMg(CO3)2 Đá vôi đen có hàm lượng CaCO3 60-70% và MgCO3 30-40%. Đá vôi được nghiền mịn dùng làm cải thiện hệ đệm của môi trường nước ao và cung cấp Ca+2, Mg+2. Dung 70 dịch 10% có pH từ 9-10. Liều lượng dùng cho ao nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh 100-300 kg/ha/lần bón, bón định kỳ 2-4 lần/tháng tùy thuộc vào pH của nước ao. Hiện nay có nhiều hãng sản xuất dolomite, nguyên tắc chung là dùng đá vôi đen... CaMg(CO3)2 nghiền thành bột mịn, kích thước hạt 250-500 mesh. 3.3.1.3. Vôi nung - CaO Vôi nung thường có dạng cục màu trắng tro, để trong không khí hút ẩm dần dần chuyển thành Ca(OH)2 làm yếu tác dụng nên bảo quản cần đậy kín. Bón CaO xuống ao ở trong nước oxy hóa thành Ca(OH)2 toả nhiệt sau cùng chuyển thành CaCO3. Có khả năng sát thương làm chết động vật thực vật thủy sinh trong môi trường nước, bao gồm cả địch hại và sinh vật gây bệnh cho tôm. Làm trong nước và lắng đọng chất lơ lửng. Các muối dinh dưỡng trong bùn thoát ra nước làm thức ăn trực tiếp cho thực vật thủy sinh. CaCO3 làm xốp chất đáy, không khí được thông xuống đáy ao làm tăng khả năng phân hủy chất hữu cơ của vi khuẩn. CaCO3 cùng với CO2, H2CO3 hoà tan trong nước giữ cho pH của ao ổn định và giữ môi trường hơi kiềm thích hợp đời sống của tôm. Thường dùng vôi nung để tẩy ao, cải tạo chất đáy, chất nước và tiêu diệt địch hại, phòng bệnh do vi sinh vật gây ra ở tôm. Phương pháp sử dụng vôi khử trùng đáy ao: 1000 kg/ha, khử trùng nước 15-20 g/m3 (một tháng khử trùng 1-2 lần). 3.3.1.4. Zeolite Vôi (CaO) và đất sét (cao lanh- SiO2, Al2O3, Fe2O3...) được nghiền thành bột hoặc dạng hạt để hấp phụ được các chất thải ở trong môi trường nước và đáy ao (NH3, H2S, NO2), liều lượng sử dụng tùy theo các nhà sản xuất. Khi ao nuôi tôm bị ô nhiễm, lượng các chất thải trên quá chỉ tiêu cho phép thì có thể dùng Zeolite. Liều dùng tùy theo các hãng sản xuất, thường 150-250 kg/ha/lần. 3.3.1.5. Formalin (36 - 38%) Thành phần: Gồm có 36-38% trọng lượng của Formadehyde (HCHO) trong nước. Tên khác: Formadehyde, Formol. - Formalin được sử dụng để tẩy trùng ao, bể ương ấu trùng tôm giống, phòng và trị bệnh ký sinh đơn bào, vi sinh vật gây bệnh khác. - Liều dùng: Phun vào nước ao, bể nồng độ 15-25ppm, tắm 200-250ppm thời gian 30-60 phút. 3.3.1.6. Sulphat đồng - Coper sulphate - CuSO4.5H2O CuSO4.5H2O tinh thể to hay dạng bột màu xanh lam đậm ngậm 5 phân tử nước, mùi kim loại, ở trong không khí từ từ bị phong hóa, dễ tan trong nước và có tính axit yếu (toan tính). CuSO4.5H2O có tác dụng kìm hãm và có khả năng tiêu diệt các sinh vật gây bệnh tương đối mạnh. Khả năng diệt trùng của CuSO4.5H2O bị các yếu tố môi trường chi phối rất lớn. Thường trong thủy vực có nhiều mùn bã hữu cơ, độ pH cao, môi trường 71 nước cứng đặc biệt môi trường nước lợ, nước mặn, độc lực của CuSO4.5H2O giảm nên phạm vi an toàn lớn. CuSO4.5H2O có thể kết hợp với một chất hữu cơ tạo thành phức chất làm mất khả năng diệt sinh vật gây bệnh. Ngược lại, trong môi trường nhiệt độ cao thì tác dụng của CuSO4.5H2O càng lớn nên phạm vi an toàn đối với động vật thủy sản nhỏ. Do đó dùng CuSO4.5H2O để trị bệnh cho động vật thủy sản thường căn cứ vào điều kiện môi trường động vật thủy sản sống để chọn nồng độ thích hợp đảm bảo khả năng diệt trùng và an toàn cho động vật thủy sản. Ở Việt Nam, các tác giả Hà Ký, Bùi Quang Tề, Nguyễn Thị Muội đã thí nghiệm và ứng dụng trong sản xuất, dùng CuSO4 phòng trị bệnh rất hiệu qủa đối với các bệnh ký sinh trùng đơn bào: trùng bánh xe (Trichodina, Trichodinella, Tripartiella), trùng loa kèn (Apiosoma, Zoothamnium, Epistylis, Tokophrya, Acineta), tả quản trùng (Chilodonella), Cryptobia... hạn chế sự phát triển một số tảo độc phát triển trong ao nuôi, khử trùng đáy ao diệt các mầm bệnh, diệt các ký chủ trung gian như ốc và nhuyễn thể khác. Phương pháp sử dụng thuốc: - Tắm nồng độ: 3-5ppm (3-5g/m3) thời gian từ 5-15 phút; - Phun xuống ao nồng độ: 0,5-0,7ppm (0,5-0,7g/m3); - Treo túi thuốc trong lồng nuôi cá: 50g thuốc/10 m3 lồng. Trong các ao ương giàu dinh dưỡng (nhiều mùn bã hữu cơ) và nước lợ, nước mặn dùng CuSO4.5H2O phòng trị bệnh sẽ giảm hiệu lực. CuSO4.5H2O có thể gây một số phản ứng phụ cho cá làm dãn ống nhỏ của thận, làm hoại tử các ống nhỏ quanh thận, phá hoại các tổ chức tạo máu, làm gan tích mỡ. Các ion Cu++ bám lên tổ chức mang cá và tích tụ trong cơ, gan làm cản trở men tiêu hóa hoạt động làm ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi của cá dẫn đến cá sinh trưởng chậm. Vì vậy, chúng ta nên thận trọng trong khi dùng, dùng liều lượng thích hợp và không dùng nhiều lần gần nhau cho một ao nuôi cá. 3.3.1.7. Cupric chloride... CuCl2 CuCl2 là chất bột màu xanh lam, không mùi, tan trong nước, để ẩm ướt có thể chảy nước. Ảnh hưởng của các chất hữu cơ đối với CuCl2 nhỏ hơn CuSO4. Dùng CuCl2 để diệt ốc Lennaea là ký chủ trung gian của nhiều loại sán lá ký sinh trên cá. Liều dùng cần tính chính xác để tránh gây ngộ độc cho cá. Thường dùng nồng độ 0,7ppm phun xuống ao hoặc tắm 5ppm thời gian 5 phút để trị đỉa ký sinh. 3.3.1.8. Thuốc tím: Potassium permanganate KMnO4 Thuốc tím dạng tinh thể nhỏ dài 3 cạnh màu tím không có mùi vị, dễ tan trong nước. 2KMnO4 + H2O = 2KOH + 2MnO2 +3O Dung dịch oxy hóa mạnh, gặp chất hữu cơ oxy nguyên tử vừa giải phóng lập tức kết hợp chất hữu cơ nên không xuất hiện bọt khí và làm giảm tác dụng diệt khuẩn. MnO2 72 kết hợp với abbumin cơ thể tạo thành hợp chất muối albuminat. Lúc nồng độ thấp tác dụng kìm hãm, ở nồng độ cao tác dụng kích thích và ăn mòn tổ chức. KMnO4 có thể oxy hóa các chất độc hữu cơ nên có tác dụng khử độc. Thuốc tím dễ bị ánh sáng tác dụng làm mất hoạt tính nên cần bảo quản trong lọ có màu đậy kín. Thường trước khi thả tôm giống dùng thuốc tím nồng độ 10-15ppm tắm cho tôm 1-2h ở nhiệt độ 20-30oC, nếu nhiệt độ thấp thì tăng nồng độ lên, khi tắm chú ý sức chịu đựng của từng loài tôm. 3.3.1.9. Sodium Thiosulfate - Natri thiosulfate Công thức hóa học: Na2S2O3.5H2O Tên khác: Hypo; Tioclean Dùng để trung hoà hóa chất (thuốc tím, chlorine...) còn dư trong quá trình xử lý nước hay ấp trứng bào xác Artemia. Hấp thu các độc tố tảo, kim loại nặng, khí độc NH3, H2S trong ao nuôi tôm. Liều dùng: 10-15g /m3 nước. 3.3.1.10. Hydrogen Peroxite (nước oxy già) Công thức hóa học: H2O2 Công thức cấu tạo: Dùng để oxy hóa các mùn bã hữu cơ trong quá trình xử lý đáy ao nuôi tôm. Dùng diệt bớt tảo trong ao nuôi tôm khi độ trong <25cm, liều dùng 3-5 ml/m3, 4-5 ngày một lần. Dùng nước oxy già làm tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nước, muốn tăng 1mg oxy/l thì cần 4ml/m3 H2O2 nồng độ 50%. 3.3.1.11. Ethylene diamine tetra acetic axit (EDTA) Tên hóa học: Ethylene diamine tetra acetic axit Tên khác: EDTA-Ethylene diamine tetra acetic axit Công thức hóa học: C10H12N2O8 Công thức cấu tạo: 73 Sử dụng EDTA cho vận chuyển tôm giống pha với nồng độ 10ppm (10g/m3). Hấp thu các độc tố tảo, kim loại nặng, khí độc NH3, H2S trong ao nuôi tôm. Liều lượng tùy theo các nhà sản xuất. 3.3.1.12. Sodium dodecyl sulfate (SDS or NaDS) Tên hóa học: Sodium lauryl sulfate Công thức hóa học: C12H25O4SNa Công thức cấu tạo: Hấp thu hoặc phân giải các độc tố, làm sinh vật phù du chết đột ngột trong ao nuôi tôm. Liều lượng tùy theo các nhà sản xuất. 3.3.1.13. Calcium hypochlorite (Chlorua vôi) Công thức hóa học: Ca(OCl)2 Công thức cấu tạo: Điều chế Ca(OCl)2 bằng cách cho khí Chlorua tác dụng với vôi đã hút ẩm tạo thành chất bột màu trắng, có mùi Chlorua có vị mặn tan trong nước và trong rượu. Calcium hypochlorite là một hỗn hợp của các chất -Ca(OCl)2, -CaCl2, - Ca(OH)2. Trong đó hàm lượng Chlorua có hiệu nghiệm chiếm 25 -30%. Ca(OCl)2 vào nước tác dụng với nước tạo thành chất có khả năng diệt khuẩn và một số sinh vật gây bệnh tương đối mạnh. 2 Ca(OCl)2+ 2 H20 = Ca(OH)2 + 2HOCl + CaCl2 HOCl = H+ + OCl HOCl có khả năng diệt khuẩn mạnh hơn OCl-, nó có thể oxy hóa và ức chế men trong tế bào vi khuẩn làm cho trao đổi chất bị rối loạn ức chế sinh trưởng và sinh sản của vi khuẩn, Ca(OCl)2 làm ức chế nhiều loài vi khuẩn ở thể dinh dưỡng và nha bào. Trong điều kiện môi trường nước nhiều mùn bã hữu cơ tác dụng của Ca(OCl)2 có tác dụng khử NH3 và H2S. Ca(OCl)2 rất dễ bị phân giải nên để nơi khô ráo, điều kiện nhiệt độ thấp, tránh ánh sáng, bịt kín để ở nhiệt độ thấp. Tốt nhất trước khi dùng tính độ hiệu nghiệm của chất Chlo sau đó mới tính liều lượng thuốc Ca(OCl)2 cần dùng. Ca(OCl)2 là một loại thuốc dùng để phòng trị bệnh tôm chủ yếu trị các bệnh do vi khuẩn ký sinh ở 74 bên ngoài cơ thể tôm và trong môi trường nước. Phun Ca(OCl)2 xuống ao nuôi nồng độ 1ppm, tắm cho tôm nồng độ 8-10ppm thời gian 30 phút, mùa phát bệnh một tháng phun hai lần. Chlorine - Thành phần là một hợp chất màu trắng, giàu Chlo (50-70% tùy thuộc vào các hãng sản xuất), dễ tan trong nước. Khi tan trong nước giải phóng Chlo làm nước có mùi hắc đặc trưng - Chlorine dùng để tẩy dọn ao (1-2kg /100m2 nước), xử lý nước trong bể ương nồng độ 15-30ppm, khử trùng dụng cụ đánh bắt và nuôi tôm nồng độ 200-220ppm để qua đêm sau rửa sạch. 3.3.1.14. Benzalkonium chloride Công thức cấu tạo: - Tên khác: Alkyldimethylbenzylammonium chloride - Benzalkonium chloride là một hợp chất giàu Chlo (80%) dùng vệ sinh môi trường, phun xuống ao, bể nuôi nồng độ 10-20ppm thời gian 24 giờ. Phòng trị bệnh ký sinh đơn bào, phun xuống ao nồng độ 0,5-1,0ppm. 3.3.1.15. Trichloroisocyanuric axit Công thức hóa học: C3Cl3N3O3). Tên khác: SymChlosene, trichloro-s-triazinetrione Công thức cấu tạo: Hoạt chất: có chứa 91,5% chlo hữu hiệu Công thức hóa học: C3O3N3Cl3 75 Thuốc có tác dụng khử trùng mạnh diệt các vi sinh vật gây bệnh và các sinh vật khác trong môi trường nước. Liều lượng dùng 0,2-0,4ppm (0,2-0,4 gam/m3) cho các ao đang nuôi và khử trùng nước trước khi nuôi tôm là 1-2ppm (1-2g/m3). 3. 3.1.16. Sodium dichloroicyanurate Công thức cấu tạo: Công thức hóa học: C3Cl2N3NaO3 Tên hợp chất: Sodium dichloroicyanurate - NaDCC Hoạt chất: Có chứa >75% Chlo hữu hiệu Tên khác: VH-A2; Aquasept A Thuốc có tác dụng khử trùng diệt các vi sinh vật gây bệnh trong môi trường nước trước khi nuôi tôm. Liều lượng dùng 1-2ppm (1-2 gam/m3). 3.3.1.17. Methylen blue (Xanh methylen) Công thức hóa học: C16H18N3SCl Công thức cấu tạo: Tên khác: Methylene blue B; Methylthiomin chloride; Urolen blue. Xanh Methylen có màu xanh đậm, kết tinh hình trụ sáng bóng hay dạng kết tinh bột ngậm 3 phân tử nước, không có mùi vị, để ra không khí không bị biến đổi, dễ tan trong nước và trong rượu. Xanh Methylen là một loại thuốc nhuộm thuộc thiophen, nó có thể oxy hóa làm cho men trong tế bào vi khuẩn mất hoạt tính. Dùng Xanh Methylen để trị các bệnh cho động vật thủy sản như: nấm thủy mi, ký sinh trùng quả dưa (Ichthyophthyrius), tà quản trùng (Chinodonella), sán lá đơn chủ 16 76 và 18 móc (Dactylogyrus và Gyrodactylus) thường dùng liều 2-5ppm, trong một tuần lặp lại vài lần sẽ có kết quả tốt. 3.3.2. Kháng sinh 3.3.2.1. Erythromycin Công thức hóa học: C37H67NO13 Công thức cấu tạo: Thuốc erythromycin có kết tinh màu trắng tro, kiềm tính, khó tan trong nước. Trong dung dịch toan tính dễ biến chất nếu pH <4 hoàn toàn mất hiệu nghiệm nhưng ngược lại trong dung dịch kiềm tính, khả năng diệt khuẩn tăng lên. Bảo quản trong điều kiện nhiệt độ thấp. Erythromycin là kháng sinh phổ rộng, ngăn cản sự tổng hợp protein ở Riboxom trong tế bào vi khuẩn. Erythromycin có phổ như penicillin, tác dụng mạnh với vi khuẩn Gram (+), một số vi khuẩn gram âm cũng có tác dụng, ngoài ra còn tác dụng với nhóm Clamidia. - Kết quả thử kháng sinh đồ: Kháng sinh erythromycin mẫn cảm cao với Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, Vibrio salmonicida, Vibrio sp., Pseudomonas sp. Dùng erythromycin để trị bệnh phát sáng, bệnh đỏ dọc thân của ấu trùng, bệnh đỏ thân, bệnh ăn mòn vỏ kitin, bệnh đốm nâu ở tôm càng xanh do vi khuẩn gây ra. Trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, mỗi ngày dùng 2-5 gram/100kg cá. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2ppm sau đó qua ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4 gram/100kg tôm, từ ngày thứ 2 giảm bớt 1/2 cho ăn liên tục trong 5 ngày. Erythromycin sử dụng thay thế kháng sinh cấm: Chloramphenicol, nitrofuran, furazon. 77 3.3.2.2. Oxytetracycline Công thức hóa học: C22H24N2O9 Công thức cấu tạo: Tác dụng: Có phổ kháng khuẩn rộng. Ở nồng độ thấp ức chế vi khuẩn nhưng dùng nồng độ cao có thể diệt khuẩn. Vi khuẩn có thể nhờn thuốc oxytetracycline nếu dùng thời gian dài và dùng lặp lại nhiều lần. Thuốc oxytetracycline hấp thu vào cơ thể nhanh nhưng độc lực với vật nuôi thấp, ở trong môi trường kiềm dễ làm cho tính hiệu nghiệm giảm. Dùng oxytetracycline để phòng trị các bệnh nhiễm vi khuẩn Vibrio như bệnh phát sáng, bệnh đỏ dọc thân của ấu trùng, bệnh đỏ thân, bệnh ăn mòn vỏ kitin, bệnh đốm nâu ở tôm càng xanh. Trộn vào thức ăn cho tôm ăn liên tục trong một tuần liền, từ ngày thứ 2 giảm bớt thuốc, liều dùng 10-12 gram thuốc với 100kg trọng lượng tôm/ngày. Kìm hãm vi khuẩn, với nhiều cầu khuẩn và trực khuẩn gram (-) và Gram (+), xoắn khuẩn, Rickettsia, protozoa. 3.3.2.3. Rifampin Công thức hóa học: C43H58N4O12 Công thức cấu tạo: Tác dụng: - Có tác dụng diệt cầu khuẩn Gram (+) như tụ cầu, nhất là Staphylococcus aureus, Staphylococcus epidermidis, trực khuẩn Gram (+) như Chlostridium perfringens. Trực khuẩn gram (-) như E. coli, Salmonella typhimurium... 78 - Kết quả thử kháng sinh đồ: Kháng sinh rifampin mẫn cảm cao với Vibrio sp., Pseudomonas sp. Liều dùng: Dùng cho tôm với liều 50-100mg/kg/ngày, thời gian sử dụng 7-10 ngày. 3.3.2.4. Co-trimoxazole (Trimmethoprim/sulfamethoxazole) Co-trimoxazole là sự phối hợp giữa sulfamethoxazole và Trimmethoprim theo tỷ lệ 1:5. Thuốc có phổ kháng khuẩn rộng. Co-trimoxazole dạng bột màu trắng hoặc hơi vàng, khó tan trong nước, dễ tan trong axeton và cồn. Trong không khí không thay đổi nhưng dễ bị ánh sáng làm đổi màu nên bảo quản trong các chai màu có nắp kín. Hấp thu vào trong cơ thể, cá bài tiết chậm nên dễ duy trì nồng độ trong máu với thời gian dài (từ 2-15 mg/100ml). Do đó có hiệu quả trị bệnh cao, tác dụng phụ và độc lực tương đối thấp. Tác dụng: Dùng co-trimoxazole để điều trị các bệnh của tôm bị bệnh đỏ thân, bệnh ăn mòn vỏ kitin. Liều dùng: Cho tôm ăn từ 2-5g/100kg tôm/ngày (20-50mg/kg tôm/ngày), dùng liên tục trong 6 ngày, qua ngày thứ 2 giảm đi 1/2. Co-trimoxazole sử dụng thay thế kháng sinh cấm: Chloramphenicol, nitrofuran, furazon, metrodidazole. 3.3.3. Vitamin và khoáng vi lượng Vitamin C (L-ascorbic axit, L-ascorbate): Vitamin C tổng hợp tinh thể màu trắng, dễ tan trong nước, dễ hấp thụ qua niêm mạc ruột, không tích luỹ trong cơ thể, thải trừ qua nước tiểu. Vitamin C rất cần cho hoạt động cơ thể, tham gia vào quá trình oxy hóa khử, cần thiết để chuyển axit Folic thành axit Folinic. Tham gia vào quá trình chuyển hóa Glucid, ảnh hưởng đến sự thẩm thấu mao mạch và đông máu. Vitamin C phòng trị hội chứng đen mang của tôm he. Liều dùng cho tôm 2-3 g vitamin C/1kg thức ăn cơ bản có thể phòng được bệnh chết đen của tôm he. 79 Khoáng vi lượng: Gồm các chất sắt (Fe), đồng (Cu), man gan (Mn), kẽm (Zn), cobal (Co), natri (Na), kali (K), canxi (Ca), manhê (Mg), Chlo (Cl)... là các chất khoáng vi lượng cần bổ sung thường xuyên và theo từng giai đoạn cho tôm nuôi. Giúp cho tôm lột xác nhanh và tạo vỏ cứng mới, kích thích sinh trưởng. 3.3.4. Các chế phẩm sinh học - Probiotic Từ “probiotics” có nguồn gốc từ Hy Lạp có nghĩa là “cho cuộc sống”. Tuy nhiên, định nghĩa về probiotics đã phát triển nhiều theo thời gian. Lily và Stillwell (1965) đã mô tả probiotics như hỗn hợp được tạo thành bởi vi sinh vật có khả năng thúc đẩy sự phát triển của đối tượng khác. Phạm vi của định nghĩa này được mở rộng hơn bởi Sperti vào đầu những năm bảy mươi bao gồm dịch chiết tế bào thúc đẩy phát triển của vi sinh vật. Sau đó, Parker (1974) đã áp dụng khái niệm này đối với phần thức ăn gia súc có một ảnh hưởng tốt đối với cơ thể vật chủ bằng việc góp phần vào cân bằng hệ vi sinh vật trong ruột. Vì vậy, khái niệm “probiotics” được ứng dụng để mô tả “cơ quan và chất mà góp phần vào cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột”. Định nghĩa chung này sau đó được làm cho chính xác hơn bởi Fuller (1989), ông định nghĩa probiotics như “một chất bổ trợ thức ăn chứa vi sinh vật sống mà có ảnh hưởng có lợi đến vật chủ bằng việc cải thiện cân bằng hệ vi sinh vật ruột của nó”. Khái niệm này sau đó được phát triển xa hơn “vi sinh vật sống (vi khuẩn lactic và vi khuẩn khác, hoặc nấm men ở trạng thái khô hay bổ sung trong thực phẩm lên men mà thể hiện một ảnh hưởng có lợi đối với sức khỏe của vật chủ sau khi được tiêu hóa nhờ cải thiện tính chất hệ vi sinh vật vốn có của vật chủ”. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chứng minh vùng ruột thật sự là một hệ sinh thái vi sinh vật ở người trưởng thành, mặc dù phương pháp trị liệu kháng sinh, bệnh tật hoặc thay đổi chế độ ăn có thể dẫn đến thay đổi hệ sinh thái này, nhưng trạng thái mất cân bằng này dường như có khả năng tự hiệu chỉnh. Vi khuẩn probiotic được tiêu thụ với số lượng lớn cũng không đủ để trở thành chủng chiếm ưu thế trong ruột và có thể hiếm khi được phát hiện trong mẫu ruột hoặc phân sau một hay hai tuần sau sự tiêu hóa. Do đó, quan trọng là chúng ta phải hiểu trên thực tế ảnh hưởng của probiotic có thể được đem lại bởi các sự kết hợp và cơ cấu hoạt động ít thân thiết hơn và tạm thời hơn so với hệ vi sinh vật của người (Sanders, 1999). Vì vậy, định nghĩa về probiotics hiện tại chỉ còn là “vi sinh vật sống mà đi ngang qua vùng ruột và làm lợi cho sức khỏe của người và động vật”. Fuller (1989) và Tannock.G.W (2002) định nghĩa probiotic là: “cung cấp các chủng vi khuẩn sống mà chúng tác động có lợi cho sự cân bằng vi sinh vật đường ruột của động vật”. Chế phẩm sinh học là các nhóm vi sinh vật trong môi trường ao nuôi và trong cơ quan tiêu hóa của tôm. Có nhóm vi khuẩn hoạt động khắp nơi trong ao và có 80