🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Trí Đến Chết
Ebooks
Nhóm Zalo
Lời khen dành cho Neil Postman và Giải
trí đến chết
“Là một nhà truyền giáo nhiệt thành của thời đại Hollywood, tôi đã công khai phản đối bức tranh đen tối của Neil Postman về tương lai bão hòa của truyền thông. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng Postman nói đúng. Ông ấy đoán trước một cách chính xác rằng những người trẻ tuổi sẽ thừa hưởng một nền văn hóa truyền thông điên cuồng, chứa đầy những thứ hào nhoáng giả tạo, những câu chuyện tầm phào và sự tham lam.
- Camille Paglia
“Một cuốn sách tuyệt vời, quyền năng và đặc biệt. Đây là bản cáo trạng mà Postman đã đưa ra và cho đến nay tôi có thể thấy, đây là một bản cáo trạng không thể bác bỏ”.
- Jonathan Yardley, The Washington Post Book World
“Ông ấy bắt đầu từ nơi Marshall McLuhan đã dừng lại, xây dựng các lập luận của mình bằng các nguồn tài liệu của một học giả và sự khôn khéo của một người có tài kể chuyện”.
- The Christian Science Monitor
“Cuốn sách xuất hiện rất đúng thời điểm... Chúng ta phải đương đầu với những thử thách mà tầm nhìn tiên tri của ông ấy đặt ra”.
- Jonathan Kozol
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Trong một phần ba cuối của thế kỷ XX, Neil Postman là một trong những nhà phê bình xã hội, nhà lý thuyết giáo dục và truyền thông hàng đầu của Mỹ, và những ý tưởng cũng như khả năng tiếp cận của ông đã giúp ông được quốc tế theo dõi. Là một nhà giáo đáng kính và có tầm ảnh hưởng, ông là giáo sư với thâm niên hơn 40 năm tại Đại học New York, nơi ông thành lập chương trình Hệ sinh thái Truyền thông nổi tiếng. Với trí tuệ sâu rộng khác thường, ông là tác giả của hơn 20 cuốn sách, cho ra đời những tác phẩm lớn về giáo dục như Teaching as a Subversive Activity (tạm dịch: Dạy học trên tinh thần lật đổ), The End of Education (tạm dịch: Cái kết của giáo dục), về thời thơ ấu như The Disappearance of Childhood (tạm dịch: Sự biến mất của thời thơ ấu), về ngôn ngữ như Crazy Talk, Stupid Talk (tạm dịch: Cuộc nói chuyện điên rồ, cuộc nói chuyện ngu ngốc), về tin tức như How to Watch TV News (tạm dịch: Cách xem tin tức trên ti vi, cùng với Steve Powers) và tác động của công nghệ đối với văn hóa như Technopoly (tạm dịch: Vị thế độc quyền của công nghệ). Giải trí đến chết vẫn là cuốn sách mang lại tiếng vang lớn và được đọc nhiều nhất của ông, được dịch ra hơn 10 thứ tiếng. Ông mất vào tháng 10 năm 2003 ở tuổi 72.
Andrew Postman, con trai của Neil, là tác giả của 5 cuốn sách, bao gồm tiểu thuyết Now I Know Everything (tạm dịch: Bây giờ tôi biết mọi thứ). Trong nhiều năm, ông là chủ bút chuyên mục hằng tháng của Glamour và tác phẩm của ông đã xuất hiện trên The New York Times, The Washington Post và New York Magazine.
GIỚI THIỆU VỀ ẤN BẢN KỶ NIỆM 20 NĂM Ngay lúc này?
Một cuốn sách nghị luận xã hội đã xuất bản từ 20 năm trước ư?
Bạn đã quá bận rộn với những việc soạn email, nhận các cuộc gọi, tải xuống những bài hát, chơi trò chơi (trực tuyến, PlayStation, Game Boy), lướt web, gửi tin nhắn văn bản kiểu truyền thống, chat qua các ứng dụng, ghi hình chương trình ti vi, xem những gì bạn đã ghi hình, đọc báo và tạp chí, đọc những cuốn sách mới - vậy mà bây giờ bạn còn dừng lại và đọc một cuốn sách xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ trước, thậm chí là thiên niên kỷ trước? Thôi nào. Cứ như thể quan điểm của bạn về thời đại này có thể bị thay đổi nghiêm trọng bởi những lời lẽ đầy kích động về thế giới vào năm 1985 vậy? Khi đó, thế giới vẫn chưa bị xâm chiếm bởi Internet, điện thoại di động, máy tính xách tay, hàng trăm kênh truyền hình cáp, DVD, blog, màn hình phẳng, HDTV và iPod. Có thực sự hợp lý không khi cuốn sách này, với những linh cảm cấp bách về nguy cơ sâu xa của truyền hình, lại vẫn còn tính thời sự với thời đại ngày nay - Thời đại của Máy tính? Cuốn sách này nói về cách ti vi khiến mọi phương diện công khai của đời sống (giáo dục, tôn giáo, chính trị, báo chí) thành nội dung giải trí; cách hình ảnh làm suy yếu các hình thức giao tiếp khác, đặc biệt là nội dung văn bản. Sự thèm muốn vô tận của chúng ta đối với ti vi khiến những nội dung có sẵn trở nên thừa mứa và chẳng ai còn quan tâm đến ngữ cảnh cụ thể, đến nỗi ta bị chìm trong núi thông tin khổng lồ. Những điều thực sự có ý nghĩa bị vùi lấp và ta cũng không còn quan tâm đến những gì mình bị mất, miễn là ta được giải trí... Liệu một cuốn sách như vậy có thể liên quan đến bạn cũng như thế giới năm 2006 và hơn thế nữa hay không?
Tôi nghĩ rằng bạn đã tự có câu trả lời cho riêng mình.
Tôi cũng nghĩ câu trả lời là “có”, nhưng với tư cách là con trai của Neil Postman, ý kiến của tôi sẽ ít nhiều thiên vị. Vậy, đâu là nơi chúng ta có thể tìm thấy những chứng thực khách quan cho rằng, vào năm 2006, trong một xã hội tôn thờ ti vi và công nghệ,
Giải trí đến chết giống như một hành động thách thức, một sự khai sáng theo kiểu “tôi không nhận ra mình đang sống trong bóng tối cho đến khi có người bật công tắc đèn”? Đừng đi tìm ý kiến của những người đã theo học cha tôi tại Đại học New York - nhiều người trong số họ đã tiếp tục giảng dạy tại các trường đại học (và đôi khi là cấp ba) về những điều ông đã lập luận trong các trang sách này. Những bộ óc xuất chúng đó, giống như cha tôi, thuộc về một thời đại đã qua. Họ sống trong một môi trường truyền thông khác chúng ta, và những định kiến của họ có thể khiến họ trở thành con tin của thời đại, không còn khả năng nhìn nhận thế giới hiện tại theo đúng bản chất của nó mà chỉ tin theo cách họ muốn tin. (Xếp hạng R của một người có thể chỉ là PG-13 đối với một người khác.) Chúng ta cũng đừng dựa vào ý kiến của nhiều độc giả về ấn bản gốc của Giải trí đến chết (đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ, bao gồm tiếng Đức, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch và gần đây nhất là tiếng Trung Quốc). Nhiều người trong số họ đã viết thư cho cha tôi, hoặc trò chuyện với ông tại các sự kiện diễn giảng trước công chúng. Sự ủng hộ của họ, mặc dù rất chân thành, cũng đã diễn ra trong 2 thập kỷ và có thể đã trở nên lỗi thời. Chúng ta sẽ bỏ qua quan điểm của những giáo viên và sinh viên của cha tôi, doanh nhân và nghệ sĩ, những người bảo thủ và tự do, những người vô thần và những người hay lui tới nhà thờ, cùng tất cả những vị phụ huynh. (Chúng ta cũng sẽ bỏ qua cả Roger Waters, người đồng sáng lập ban nhạc huyền thoại Pink Floyd và đã phát hành album solo Amused to Death được lấy cảm hứng từ cuốn sách này.)
Vậy, ý kiến của ai mới đáng để quan tâm?
Khi đọc lại cuốn sách này để tìm hiểu những gì có thể nói về nó 20 năm sau, tôi đã cố nghĩ theo cách của cha tôi, vì ông không còn ở trên đời nữa. Ông mất vào tháng 10 năm 2003, ở tuổi 72. Khi tư duy theo cách của ông, tôi nhận ra ngay lập tức ai là người sẽ đánh giá tốt nhất liệu Giải trí đến chết có còn phù hợp với thời đại hay không.
Những sinh viên đại học.
Những người từ 18 đến 22 tuổi ngày nay đang sống trong một môi trường truyền thông rất khác với môi trường đã tồn tại vào
năm 1985. Mối quan hệ của họ với ti vi cũng khác bây giờ. Khi đó, MTV đang ở giai đoạn sơ khai. Ngày nay, tin tức chạy thành dải dài, quảng cáo ở góc màn hình, các chương trình “thực tế” hay 900 kênh truyền hình được coi là những điều bình thường. Ti vi không còn chiếm thế độc tôn trong môi trường truyền thông nữa. “Thời gian sử dụng thiết bị” cũng có nghĩa là hàng giờ đồng hồ ngồi trước máy tính, màn hình video, điện thoại di động và thiết bị cầm tay. Đa nhiệm trở thành tiêu chuẩn. Sự yên tĩnh đã được thay thế bằng vô số tạp âm. Đây là một thế giới khác.
(Tất nhiên, điều này diễn ra theo những cách khác biệt ở từng nhóm người - trẻ em, thanh thiếu niên, các bậc phụ huynh, người cao niên - nhưng những sinh viên đại học là một tập hợp đặc biệt phong phú, vừa hồn nhiên vừa phức tạp, rất biết cư xử tôn kính mà cũng không ngại hành xử bất kính.)
Khi các sinh viên ngày nay được đề nghị đọc Giải trí đến chết, hầu như không ai trong số chúng từng nghe nói về Neil Postman hoặc đã tiếp xúc với các ý tưởng của ông ấy (ông đã viết hơn 20 cuốn sách về các chủ đề như giáo dục, ngôn ngữ, thời thơ ấu và công nghệ). Điều đó cho thấy rằng, những quan điểm của chúng sẽ khách quan, không có thiên kiến. Tôi đã liên lạc với một số sinh viên cũ của cha tôi hiện đang là giáo viên, và những người dạy Giải trí đến chết trong các khóa học về ti vi, văn hóa, máy tính, công nghệ, truyền thông đại chúng, chính trị, báo chí, giáo dục, tôn giáo và ngôn ngữ. Tôi hỏi các giáo viên rằng, sinh viên của họ nghĩ gì về cuốn sách này, đặc biệt là tính thời sự của nó. Các giáo viên đã đủ tử tế để chia sẻ nhiều suy nghĩ của sinh viên, từ các bài luận tới các cuộc thảo luận trong lớp.
“Trong cuốn sách, Postman đưa ra quan điểm rằng, mọi người không còn dành thời gian để chiêm nghiệm nữa”, một sinh viên tên Jonathan nói. “Khi tôi đến một nhà hàng, mọi người đều đang sử dụng điện thoại di động của họ, nói chuyện hoặc chơi game. . .Tôi không có khả năng ngồi yên tại chỗ chỉ để suy nghĩ”. Theo lời một người tên Liz: “Bây giờ thì nó còn thời sự hơn. Trong lớp, chúng tôi đặt ra một câu hỏi: Bây giờ ta đã có dây cáp, thứ không tồn tại khi cuốn sách được viết. Vậy, liệu có kênh truyền hình nào không xoay quanh tính giải trí không? Chúng tôi cố gắng tìm ra một minh chứng để bác bỏ lý thuyết của Postman. Một người nói chương
trình thời tiết không có tính giải trí, nhưng một sinh viên khác lại bảo rằng, người ta đã tạo ra không ít chương trình về đề tài bão lốc và cố gắng khiến thời tiết trở nên thú vị. Câu trả lời khả dĩ duy nhất mà chúng tôi nghĩ ra được là C-SPAN - thứ mà chẳng ai xem cả”.
Cara: “Giáo viên không được đánh giá cao nếu họ không khiến các lớp học của mình có tính giải trí”. Theo nhận xét của Ben (một người mà giáo sư gọi là “sinh viên chuyên phản biện”, người đã rên rỉ “Tại sao chúng ta phải đọc cái này?” khi nhận nhiệm vụ đọc sách): “Postman nói rằng ti vi khiến mọi thứ mang tính ‘hiện tại’ - vậy mà chúng ta lại chỉ trích cuốn sách chỉ vì nó không được phát hành vào ngày hôm qua”. Reginald: “Cuốn sách này không chỉ về ti vi”. Sandra: “Cuốn sách nói rất đúng về chiến dịch bầu cử tổng thống vào năm 2004 và các cuộc tranh luận khác”.
Một sinh viên chỉ ra rằng Arnold Schwarzenegger tuyên bố ứng cử chức thống đốc bang California trên show truyền hình The Tonight Show. Maria lưu ý thêm, việc đơn giản hóa quá mức mọi thứ và tư duy “phân mảnh” do xem ti vi có thể đã góp phần dẫn tới sự phân biệt Bang Đỏ/ Bang Xanh tại nước Mỹ. Một người khác ghi nhận sự xuất hiện của một loạt “tạp chí Kinh Thánh” kiểu mới, với trang bìa có phong cách giống các tạp chí tuổi teen, với những dòng ghi trên trang bìa như “10 mẹo hàng đầu để đến gần Chúa hơn”. “Đó là một thế giới mà tôn giáo lại đi bắt chước MTV”, một sinh viên nói. Những người khác thì tự hỏi, liệu việc ngày càng nhiều trẻ em bị chẩn đoán mắc chứng rối loạn thiếu tập trung có phải là một dấu hiệu cho thấy con người có nhu cầu cần được kích thích liên tục hay không.
Kaitlin đã chuyển sang chuyên ngành báo in sau khi đọc cuốn sách. Andrea thì muốn giới thiệu nó cho bất kỳ ai quan tâm đến vấn đề đạo đức truyền thông. Mike cho biết, ngay cả những người không đồng ý với lập luận của cuốn sách - cũng như cậu ta - vẫn nên đọc nó, để “bị khiêu khích”. Nhiều sinh viên (“cả sinh viên cánh hữu lẫn cánh tả”, giáo sư nói) đặc biệt thích thú với nhận xét của cha tôi về việc giới truyền thông chuyển đổi tin tức rất đột ngột: Ngay sau khi thuật lại một sự kiện kinh hoàng, ví dụ như một vụ cưỡng hiếp, một vụ hỏa hoạn cấp độ 5 hoặc hiện tượng nóng lên toàn cầu, thì người đưa tin lại vui vẻ dẫn sang câu
chuyện về việc Janet Jackson bị “lộ hàng” hoặc phát quảng cáo về một loại bia. Điều này tạo ra một chuỗi thông tin rất ngẫu nhiên, quá chênh lệch về quy mô và giá trị, đến mức mất đi tính mạch lạc, thậm chí khiến người xem cảm thấy bị “loạn não”.
Một giáo viên khác nhận xét rằng, sinh viên thích cách dẫn dắt của cuốn sách này - bởi nó được viết bởi một cá nhân vốn là người chuyên kể chuyện. “Các em sinh viên thích cách ông ấy đề cập đến sách và những người mà các em đã từng nghe tên”, cô nói. Theo Alison: “Ông ấy không đơn giản hóa vấn đề. Ông nhắc đến những tác phẩm nghệ thuật và thơ ca tuyệt vời” . Matt nói rằng, trớ trêu thay, “Postman chứng minh rằng bạn có thể rất giải trí - và không cần một bức ảnh nào cả”. Khi nói về ấn tượng của sinh viên với cuốn sách, một giáo viên nói, “Postman nói chuyện với các em mà không dùng biệt ngữ, theo một cách khiến các em cảm thấy được tôn trọng. Các em cảm thấy ông ấy chỉ đang trò chuyện bình thường với họ, nhưng cùng lúc đó cũng truyền cảm hứng thôi thúc các em tư duy”. Một giáo sư khác lưu ý: “Những sinh viên đi đến kết luận rằng, ti vi gần như chỉ quan tâm đến việc kinh doanh các chương trình truyền hình, đề cao chủ nghĩa giật gân và kiếm tiền. Chúng chưa bao giờ nhận ra điều đó trước đây”.
Chắc chắn bạn sẽ thấy rằng, sau tất cả những gì tôi mới nói về tính khách quan, tôi đã cố tình sắp xếp để ủng hộ nội dung của cuốn sách này. Nhưng thành thật mà nói, trên đây cũng là những phản ứng áp đảo - ít nhất là trong một phần của thế hệ Gen Y, một phân khúc dân số cũng có thể có rất nhiều lý do để không thích cuốn sách này. Một giáo sư nói rằng, trong một lớp thông thường gồm 25 sinh viên đọc cuốn sách, thì có 23 người sẽ viết những báo cáo khen ngợi, còn 2 người sẽ nói cuốn sách này là một sự lãng phí thời gian ngu ngốc. Với tỷ lệ ủng hộ đạt 92% như vậy, sẽ không một ai đứng lên thể hiện quan điểm (nhất là một chính trị gia) lại cảm thấy không hài lòng.
Tất nhiên, sinh viên cũng đưa ra những lời chỉ trích về cuốn sách này. Nhiều người không thoải mái khi có ai đó công kích ngành truyền hình, trong khi ti vi là một người bạn đồng hành với họ, một nguồn vui, một sự an ủi - và họ cảm thấy mình phải bảo vệ văn hóa của bản thân. Một số người coi ti vi là văn hóa của cha mẹ họ, không phải của họ. Internet mới là thứ gắn với họ, vậy nên
những luận điểm của cuốn sách cũng ít liên quan đến họ hơn. Một số người nghĩ rằng, cha tôi đang chống lại sự thay đổi; ông quá đề cao những đức tính được bồi đắp bởi chữ viết và văn hóa của nó; ông không cởi mở để thừa nhận nhiều cải tiến xã hội tích cực mà ti vi mang lại, và nó có thể trở thành một động lực thúc đẩy ra sao. Một số người không đồng ý với nhận định của ông, rằng ti vi hoàn toàn “nắm quyền”: điều khiển từ xa, nhiều kênh đa dạng hay những thiết bị ghi hình đều cho phép bạn “tùy chỉnh” chương trình của bản thân, thậm chí bỏ qua quảng cáo. Một lời chỉ trích thường gặp là lẽ ra ông nên đưa ra các giải pháp. Sau cùng thì ta cũng đâu thể thay đổi những điều đã xảy ra, vậy bây giờ phải làm thế nào?
Vâng, thực tế là những gì ông ấy nói vào năm 1985 đã trở thành sự thật một cách đáng kinh ngạc - chúng ta đã đắm chìm vào giải trí cho đến chết.... Vậy, tại sao bạn cần đọc cuốn sách này?
Một giáo sư sử dụng cuốn sách cùng với một thử nghiệm mà bà gọi là “nhịn sử dụng phương tiện truyền thông điện tử”. Trong 24 giờ, mỗi sinh viên phải tránh xa các phương tiện truyền thông điện tử. Khi thông báo về nhiệm vụ này, bà ấy nói với tôi, 90% sinh viên chỉ nhún vai, nghĩ rằng đó không phải là vấn đề lớn. Nhưng khi họ nhận ra tất cả những thứ họ phải từ bỏ trong cả một ngày - điện thoại di động, máy tính, Internet, ti vi, radio trên ô tô... - “Họ bắt đầu nên rỉ và than vãn”. Bà ấy nói với họ rằng, họ vẫn có thể đọc sách. Bà biết đó sẽ là một ngày khó khăn, mặc dù khoảng 8 trong số 24 giờ đã được dành ra để ngủ. Bà ấy nói, nếu họ “phá luật”, ví dụ như trả lời điện thoại, hoặc chỉ đơn giản là kiểm tra email, họ sẽ phải bắt đầu lại từ đầu.
“Những báo cáo tôi nhận lại thật tuyệt vời”, giáo sư nói. “Họ viết những tiêu đề như ‘Ngày tồi tệ nhất trong đời tôi’ hay ‘Trải nghiệm tuyệt vời nhất mà tôi từng có’, thật sự là như vậy. Họ viết: “Tôi đã tưởng rằng mình sẽ chết. Tôi định bật ti vi lên nhưng nếu tôi bật, lạy Chúa, tôi sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Mỗi sinh viên lại có điểm yếu riêng - đối với một số người là ti vi, một số khác là điện thoại di động, một số người thì có điểm yếu là Internet hoặc máy tính xách tay. Nhưng dù ghét kiêng khem đến mức nào, hay thật khó cưỡng lại cám dỗ nghe thấy chuông điện thoại reo mà không trả lời, họ vẫn dành thời gian để làm những việc mà họ
chưa làm trong nhiều năm. Họ thực sự đã đi bộ xuống phố để thăm những người bạn của mình. Họ có những cuộc trò chuyện kéo dài. Một người đã viết, ‘Tôi đã làm những điều mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm’. Trải nghiệm này đã thay đổi họ. Một số bị ảnh hưởng đến mức họ phải tự nhịn thiết bị điện tử một ngày mỗi tháng. Trong khóa học đó, tôi giới thiệu họ tìm hiểu các tác phẩm kinh điển - từ Plato và Aristotle cho đến những tác phẩm đương đại. Nhiều năm sau, khi các sinh viên cũ viết thư hoặc gọi điện để hỏi thăm tôi, họ vẫn rất nhớ sự kiện nhịn sử dụng phương tiện truyền thông”.
Cũng giống như thử nghiệm “nhịn” sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử, Giải trí đến chết kêu gọi ta hành động. Theo lời của cha tôi, đó là một cuộc điều tra, một lời than thở - đúng vậy, nhưng cuốn sách còn hướng đến những điều lớn lao hơn. Nó thôi thúc ta hành động. Đó là một sự phản công với tin tức truyền hình hằng ngày, thứ mà cha tôi miêu tả là: “vô nghĩa, chỉ toàn những thông tin cung cấp cho chúng ta điều gì đó để bàn luận nhưng không thể dẫn đến bất kỳ hành động nào có ý nghĩa”. Cha tôi là một người yêu thích lịch sử, một nhà vô địch về trí nhớ tập thể - điều mà ngày nay chúng ta quen gọi là “sự ảnh hưởng của nền văn minh”, nhưng ông không sống trong quá khứ. Cuốn sách của ông thúc giục chúng ta tìm ra cách để tỉnh táo và tham gia chủ động hơn. Ý tưởng của ông ấy vẫn ở đây nhưng ông thì không, và đã đến lúc quyền kiểm soát được trao cho thế hệ mới - những “thổ địa” của thế giới mới dũng cảm này, những người hiểu rõ hơn về nó.
20 năm khiến mọi thứ không còn như xưa. Mọi thứ đều di chuyển nhanh hơn. “Sự thay đổi đã thay đổi”, cha tôi viết như vậy trong một cuốn sách khác.
Đã có rất nhiều thay đổi kể từ khi cuốn sách này xuất hiện. Các yếu tố tin tức và giải trí đã gắn bó với nhau hơn rất nhiều, bất chấp sự phản đối (một số chân chính, một số có lẽ không) đến từ bộ phận chuyên phụ trách tin tức. Khi Jon Stewart, người dẫn chương trình The Daily Show của Comedy Central, xuất hiện trên Crossfire của CNN và đưa ra quan điểm rằng, những tin tức nghiêm túc phải tách biệt với những chương trình mang tính kinh doanh. Những đoạn trích ngắn gây ấn tượng giờ chỉ còn là dòng trích
ngắn tủn mủn, và hiếm khi có ai đó lên tiếng chất vấn sự vô lý của nó. “Câu hỏi về việc truyền hình ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào đã bị chìm vào quên lãng” (Lời của cha tôi, không phải của tôi, từ năm 1985).
Fox News xây dựng nên chỗ đứng của riêng mình và phát triển mạnh mẽ. Tập đoàn kinh doanh đang trên đà tăng trưởng, đặc biệt là khi so sánh với các công ty truyền thông. Khi đưa tin hằng ngày, các công ty truyền thông không phát những hình ảnh ghê rợn về chiến tranh, nhưng dù sao họ cũng không làm như vậy 20 năm trước (mặc dù cách đây 40 năm thì họ có làm). Chất lượng đồ họa của máy tính và trò chơi điện tử đã được cải thiện đáng kể. Hình thức hợp tác sáng tạo ngày càng phát triển, nhờ vào phong trào “mã nguồn mở” - thứ đã tạo ra hệ điều hành Linux cho chúng ta. Tuy nhiên, nhiều cộng đồng khác đang sụp đổ: Ngày càng ít người tham gia các câu lạc bộ gặp gỡ thường xuyên, không còn mấy gia đình ăn tối cùng nhau và mọi người không còn mời bạn bè đến nhà hay thân thiết với hàng xóm của họ như trước đây. Ngày càng có nhiều quản lý trường học, chính trị gia và giám đốc điều hành doanh nghiệp mong muốn trang bị máy tính cho các trường học, như thể đó là chìa khóa để cải thiện nền giáo dục Mỹ. Số giờ trung bình người Mỹ dành ra để xem ti vi vẫn ổn định, vào khoảng 4,5 giờ mỗi ngày (đến tuổi 65, một người sẽ dành ra 12 năm để ngồi trước màn hình ti vi). Tình trạng béo phì ở trẻ em đang gia tăng. Một số thứ khiến con cái chúng ta bận tâm nhiều hơn trước đây, một số thứ khác thì không. Xã hội ngày nay có thể có nhiều hy vọng hơn trước kia, mà cũng có thể ít hơn. Có lẽ con số tổng là không đổi.
Theo cuốn sách này: Viễn cảnh mà một nhà văn người Anh (George Orwell) đưa ra, một viễn cảnh mà nhiều người lo sợ sẽ thành hiện thực, về cơ bản là không có cơ sở; trong khi viễn cảnh mà một nhà văn người Anh khác (Aldous Huxley) miêu tả, một viễn cảnh ít được biết đến và ít người sợ hãi hơn, lại chính xác một cách đáng sợ. Cha tôi đã chứng minh cho quan điểm của mình một cách thuyết phục, nhưng đó là lập luận của một thời điểm khác - Thời đại của Truyền hình. Các công nghệ và phương tiện truyền thông mới giờ đây đang phát triển mạnh mẽ.
May mắn thay, lý do quan trọng nhất khiến tôi thấy Giải trí đến
chết vẫn giữ nguyên được tính thời sự, đó là cha tôi đã đặt ra những câu hỏi hay đến nỗi chúng có thể được áp dụng cho những thứ không phải truyền hình, về tất cả các kiểu phát triển mang tính biến đổi, về các sự kiện đã xảy ra từ sau năm 1985, về những thứ diễn ra sau khi ông qua đời, về mọi điều vẫn chưa được định hình.
Những câu hỏi này có thể tiếp tục được sử dụng cho nhiều thế hệ sau (mặc dù một ngày nào đó, “nhiều thế hệ sau” có thể chỉ là một giai đoạn kéo dài 3 năm). Câu hỏi của ông có thể dành cho tất cả các công nghệ và phương tiện truyền thông. Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta quá say sưa với những thứ này? Chúng giải phóng chúng ta hay bỏ tù chúng ta? Chúng cải thiện hay làm tổn hại nền dân chủ? Chúng khiến các nhà lãnh đạo có trách nhiệm hơn hay vô trách nhiệm hơn? Hệ thống của chúng ta sẽ minh bạch hơn hay mờ ám hơn? Chúng biến chúng ta thành những công dân tốt hơn hay những người tiêu dùng chi mạnh tay hơn? Những sự đánh đổi ta phải thực hiện liệu có xứng đáng không? Nếu như câu trả lời là không đáng, nhưng chúng ta vẫn không thể ngăn mình đón nhận những điều mới mẻ hấp dẫn (bởi đó là bản năng của chúng ta), vậy thì ta có thể đưa ra những chiến lược nào để duy trì quyền kiểm soát? Để duy trì nhân cách? Để tìm kiếm những điều ý nghĩa? Cha tôi không “keo kiệt” về những điều này. Ông không bao giờ thiếu lạc quan, điều ông ấy thiếu là sự chắc chắn. “Chúng ta phải cẩn thận trong việc khen ngợi hoặc lên án vì tương lai có thể có những điều bất ngờ”, ông viết. Ông ấy cũng không sợ ti vi (như một số người đã nghĩ). Ông viết: “A-Team và Cheers không phải là mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng. Mà vấn đề nằm ở các chương trình như 60 Minutes, Eyewitness News và Sesame Street”.
Một học viên của cha tôi, đồng thời cũng là một giáo sư, cho biết các sinh viên của ông ấy đón nhận Giải trí đến chết còn hào hứng hơn những người đã đọc cuốn sách cách đây 5 hoặc 10 năm. “Khi cuốn sách lần đầu tiên ra mắt, nó đã đi trước thời đại và một số người không hiểu được tầm vóc của nó”, ông nói. “Đó là một cuốn sách của thế kỷ XXI được xuất bản vào thế kỷ XX”. Năm 1986, ngay sau khi cuốn sách được xuất bản và bắt đầu gây tiếng vang, cha tôi có mặt trên ABC’s Nightline, thảo luận với Ted Koppel về tác động của ti vi đối với xã hội nếu chúng ta để nó kiểm soát chúng ta, thay vì ngược lại. Tại thời điểm đó, để chứng minh quan
điểm của ông, rằng khoảng thời gian chú ý ngắn ngủi và sự thèm muốn của chúng ta đối với nội dung mang tính dễ chịu có thể làm ngắt mạch bất kỳ buổi thảo luận ý nghĩa nào, cha tôi nói,
“Ví dụ nhé, Ted, chúng ta đang thảo luận một điều quan trọng về văn hóa, nhưng trong 30 giây nữa, chúng ta sẽ phải dừng lại để nhường chỗ cho một quảng cáo bán ô tô hoặc kem đánh răng”.
Ông Koppel, một trong số ít những người hành xử nghiêm túc trên truyền hình, đã nở một nụ cười gượng - hay đó là một nụ cười mệt mỏi?
“Thực ra là, Tiến sĩ Postman ạ”, ông ta nói, “thời lượng quảng cáo chỉ cỡ 10 giây thôi”.
Vẫn còn thời gian mà.
Andrew Postman
Brooklyn, New York
Tháng 11 năm 2005
Vào năm 1985...
Dân số Mỹ là 240 triệu người. Chiến tranh Lạnh vẫn đang tiếp diễn. Mikhail Gorbachev vừa trở thành nhà lãnh đạo Liên Xô. Ronald Reagan là tổng thống Mỹ. Các nhân vật chính trị lớn khác bao gồm Walter “Fritz” Mondale, ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ năm trước; Geraldine Ferraro, người ứng cử vị trí phó tổng thống; thượng nghị sĩ Gary Hart và John Glenn (Glenn là một cựu phi hành gia). Ed Koch là thị trưởng thành phố New York. David Garth là nhà tư vấn truyền thông hàng đầu cho các ứng cử viên chính trị.
Các chương trình truyền hình được xếp hạng cao nhất bao gồm Dynasty, Dallas (mặc dù đã được vài năm kể từ khi bộ phim truyền hình Who Shot J.R.? [tạm dịch: Ai bắn J.R?] thu hút khán giả xem truyền hình trên toàn quốc), tiếp đến là The A-Team, Cheers và Hill
Street Blues. Dan Rather, Tom Brokaw và Peter Jennings là những người dẫn những bản tin thời sự hằng đêm. Những tín đồ của truyền hình đang tận hưởng thời kỳ hoàng kim. Các nhân vật hàng đầu gồm Jimmy Swaggart, Pat Robertson, Jim Bakker, Billy Graham, Jerry Falwell, Robert Schuller và Oral Roberts. Howard Cosell gần đây đã nghỉ hưu sau nhiều năm là giọng đọc thể thao được chú ý nhất trên ti vi. Chương trình Entertainment Tonight và kênh truyền hình cáp MTV, cùng ra đời trước đó vài năm, đều gặt hái được nhiều thành công.
Máy tính Mac được 11 tuổi, tờ báo USA Today đã ra đời được 3 năm, và tờ People Magazine thì được 10 năm. Tiến sĩ Ruth Westheimer tổ chức một chương trình gọi qua radio nổi tiếng, đưa ra lời khuyên về giới tính một cách tươi vui và thẳng thắn. Người Mỹ gốc Phi được gọi là người da màu. Martina Navratilova là tay vợt nữ xuất sắc nhất thế giới. Trivial Pursuit là trò chơi tập thể bán chạy nhất. Một số nghệ sĩ giải trí mà cha tôi có ấn tượng là diễn viên hài Shecky Greene, Red Buttons và Milton Berle, ca sĩ Dionne Warwick, người dẫn chương trình trò chuyện trên truyền hình David Susskind. Thậm chí là vào năm 1985, họ đã bước qua thời kỳ đỉnh cao.
A.P.
LỜI TỰA
Chúng ta đều để mắt trông chừng cái năm 1984. Khi năm đó đến và lời tiên tri không thành hiện thực, những người Mỹ trầm tư đã hát mừng một cách nhẹ nhàng để ca ngợi chính mình. Cái gốc của nền dân chủ tự do vẫn được giữ vững. Dù nỗi kinh hoàng có xảy ra ở nơi nào đi chăng nữa, thì người Mỹ, ít nhất là như vậy, đã không bị những cơn ác mộng của Orwell[1] ghé thăm.
Nhưng chúng ta quên rằng, bên cạnh tầm nhìn đen tối của Orwell, còn có một tác phẩm khác - hơi cũ hơn, ít nổi tiếng hơn, nhưng không kém phần rùng rợn: cuốn Brave New World (Thế giới mới nhiệm màu) của Aldous Huxley. Trái ngược với suy nghĩ thông thường ngay cả với giới trí thức, Huxley và Orwell không đưa ra những lời tiên tri giống nhau. Orwell cảnh báo rằng, chúng ta sẽ bị khuất phục bởi sự áp bức từ bên ngoài. Nhưng trong tầm nhìn của Huxley, không cần một thế lực to lớn nào để tước bỏ sự tự chủ, sự chín chắn và lịch sử của con người. Theo ông, mọi người sẽ yêu thích cảnh bị áp bức, ngưỡng mộ những công nghệ làm suy giảm khả năng tư duy của họ.
Điều mà Orwell lo sợ là sự xuất hiện của những con người cấm lưu hành sách vở. Điều mà Huxley lo sợ lại là chẳng có lý do gì để cấm một cuốn sách, vì sẽ chẳng còn ai muốn đọc sách nữa. Orwell sợ sẽ có những kẻ cấm lan tỏa tin tức, không cho ta hay biết chút gì. Huxley lại sợ những kẻ cung cấp cho ta quá nhiều thông tin, khiến ta trở nên thụ động và chỉ biết đến mình. Orwell sợ rằng sự thật sẽ bị che giấu với chúng ta. Huxley thì sợ sự thật sẽ bị nhấn chìm trong một đại dương toàn những thông tin không quan trọng, vô nghĩa lý. Orwell lo sợ chúng ta sẽ trở thành một nền văn hóa bị giam cầm. Huxley lo sợ chúng ta sẽ trở thành một nền văn hóa phù phiếm, chỉ bận tâm đến những thú vui giải trí. Như Huxley đã lưu ý trong cuốn Brave New World Revisited (tạm dịch: Tái ngộ Thế giới mới nhiệm màu), những người theo chủ nghĩa tự do dân sự và những người theo chủ nghĩa duy lý - những người luôn cảnh giác chống lại chế độ chuyên chế - “đã không tính đến sự ham thích gần như vô hạn của con người đối với những yếu tố gây sao nhãng”. Huxley nói thêm rằng, trong tác phẩm 1984, mọi người bị
kiểm soát bởi những nỗi đau đớn. Trong Brave New World, họ lại bị kiểm soát bằng những khoái cảm. Tóm lại, Orwell sợ rằng những thứ chúng ta căm ghét sẽ hủy hoại chúng ta. Huxley thì sợ rằng, những thứ chúng ta yêu thích sẽ hủy hoại chúng ta.
Cuốn sách này bàn về khả năng rằng, có thể mọi thứ sẽ xảy ra đúng như những gì Huxley suy đoán, chứ không phải Orwell.
vào những thời điểm khác nhau trong thành phố đã trở thành tâm điểm của tinh thần Mỹ rạng ngời. Ví dụ, vào cuối thế kỷ XVIII,
Boston - trung tâm của chủ nghĩa cấp tiến chính trị - đã cho nổ một phát súng vang dội khắp thế giới - một phát súng không thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào khác ngoài vùng ngoại ô Boston. Tất cả người Mỹ đều nuôi dưỡng “tinh thần Boston” trong trái tim mình. Vào giữa thế kỷ XIX, New York trở thành biểu tượng về một nước Mỹ đa dạng, hội tụ nhiều nền văn hóa. Vào đầu thế kỷ XX, Chicago đã trở thành biểu tượng của năng lượng công nghiệp Hoa Kỳ. Nếu một người bán thịt lợn được dựng tượng đâu đó tại Chicago, thì bức tượng đó giống như một lời nhắc nhở về thời kỳ mà nước Mỹ được đặc trưng bởi những tuyến đường sắt, những đàn gia súc, nhà máy thép và những ý tưởng kinh doanh liều lĩnh. Nếu không có bức tượng nào như vậy, thì cần phải có, cũng giống như ta có bức tượng Minute Man để gợi nhớ Thời đại Boston, hay tượng Nữ thần Tự do để gợi nhớ Thời đại New York.
Ngày nay, chúng ta xem thành phố Las Vegas, Nevada như một phép ẩn dụ về tính cách và khát vọng Mỹ. Las Vegas là một thành phố hoàn toàn xoay quanh những ý tưởng giải trí, là một lời khẳng định về tinh thần của một nền văn hóa mà ở đó, tất cả những hình thức trò chuyện và bàn luận ngày càng giàu tính giải trí hơn. Chính trị, tôn giáo, tin tức, thể thao, giáo dục và thương mại của chúng ta đã bị biến thành những hình thức kinh doanh mà không vấp phải sự phản đối nào, thậm chí cũng không mấy ai để ý đến điều đó. Kết quả là chúng ta đang trở thành những cá nhân bước trên con đường Giải trí đến chết.
Vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, Tổng thống Mỹ [Ronald Reagan] là một cựu diễn viên điện ảnh Hollywood. Một trong những đối thủ nặng ký của ông vào năm 1984 [John Glenn] cũng là một nhân vật nổi bật trên chương trình truyền hình hấp dẫn nhất trong những năm 1960, thậm chí còn là một phi hành gia. Đương nhiên là có một bộ phim đã được thực hiện về cuộc phiêu lưu ngoài Trái đất của ông ấy. Ứng cử viên được đề cử trước đó, George McGovern, từng là người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Saturday Night Live. Một ứng cử viên khác, mục sư Jesse Jackson, cũng từng làm điều tương tự.
Trong khi đó, cựu Tổng thống Richard Nixon, người từng tuyên bố ông đã thất bại trong cuộc bầu cử vì bị những chuyên viên trang điểm phá hoại, đã đưa ra lời khuyên cho Thượng nghị sĩ
Edward Kennedy nếu muốn nghiêm túc tranh cử tổng thống: phải giảm được khoảng 10kg. Mặc dù Hiến pháp không đề cập đến điều này, nhưng có vẻ như những người béo đang bị loại trừ khỏi việc tranh cử vào các chức vụ chính trị cấp cao. Hình như cả những người hói đầu cũng vậy. Và hầu hết những ai không được “nâng cấp” ngoại hình bởi những chuyên gia thẩm mỹ cũng thế. Thật sự thì, chúng ta có thể đã đạt đến mức mà việc làm đẹp sẽ thay thế ý thức hệ để trở thành một lĩnh vực chuyên môn mà chính trị gia phải có năng lực kiểm soát.
Các nhà báo tại Mỹ, tức là các phát thanh viên truyền hình, không hề bỏ qua điểm mấu chốt này. Hầu hết họ dành nhiều thời gian cho máy sấy tóc hơn là viết kịch bản, kết quả là họ trở thành nhóm những người quyến rũ nhất ở Las Vegas. Mặc dù Đạo luật Truyền thông Liên bang không nói gì, nhưng những người không “ăn hình” sẽ không có cơ hội đứng trước công chúng và tường thuật “tin tức trong ngày”. Mặt khác, những người hấp dẫn trước camera có thể yêu cầu mức lương lên đến hơn 1 triệu đô la mỗi năm.
Rất lâu trước khi thế giới phát hiện ra, các doanh nhân Mỹ đã biết rằng, chất lượng và sự hữu dụng của sản phẩm phải đi kèm với sự khéo léo khi trưng bày nó.
Cách đây không lâu, tôi thấy Billy Graham trò chuyện cùng Shecky Green, Red Buttons, Dionne Warwick, Milton Berle và những người khác để vinh danh George Burns - người đang ăn mừng vì đã “tồn tại” được 80 năm trong ngành giải trí. Mục sư Graham đùa một chút với Bums về việc chuẩn bị hành trang để hướng tới một đời sống vĩnh hằng. Mặc dù Kinh Thánh không đề cập gì hết, nhưng Mục sư Graham đảm bảo với khán giả rằng, Chúa yêu những người có thể giúp mọi người bật cười vui vẻ. Đó là một nhầm lẫn vô tình. Ông đã nhầm NBC sang Chúa.
Tiến sĩ Ruth Westheimer là một nhà tâm lý học, người phụ trách một chương trình radio nổi tiếng và một màn trình diễn ở hộp đêm - những phương tiện mà cô sử dụng để thông tin đến khán giả của mình mọi điều về tình dục và sự muôn hình vạn trạng của nó, thông qua những ngôn từ vốn chỉ được dùng trong phòng ngủ và các góc phố riêng tư. Tính giải trí của cô cũng xấp xỉ mục sư Billy
Graham, và cô từng nói rằng, “Tôi không cố trở nên hài hước. Nhưng nếu sự việc thành ra như vậy, tôi sẽ tận dụng nó. Nếu người ta gọi tôi là một nghệ sĩ giải trí, tôi thấy điều đó thật tuyệt. Khi một giáo sư giảng dạy một cách hài hước, mọi người sẽ ghi nhớ lâu hơn”. Cô ấy không nói về những gì họ ghi nhớ được hoặc những thứ họ nhớ thì có tác dụng gì. Nhưng cô ấy đã nêu lên một trọng điểm: Thật tuyệt khi trở thành một nghệ sĩ giải trí. Thật vậy, ở Mỹ, Đức Chúa Trời ưu ái tất cả những ai sở hữu cả tài năng lẫn hình thức để mua vui cho người khác - cho dù họ là nhà thuyết giáo, vận động viên, doanh nhân, chính trị gia, giáo viên hay nhà báo. Ở Mỹ, những người kém thú vị nhất, những người chẳng buồn cười chút nào, chính là những nghệ sĩ giải trí chuyên nghiệp.
Những người quan tâm và lo lắng cho nền văn hóa - những người đọc những cuốn sách như thế này - sẽ biết rằng, những ví dụ trên không phải là vài ba khoảnh khắc bốc đồng mà vẫn thường xuyên xảy ra. Không thiếu những nhà phê bình đã quan sát và nhận ra một thực tế, đó là những cuộc thảo luận trước công chúng ở Mỹ đã dần biến mất hoặc bị chuyển đổi thành những màn trình diễn kiếm tiền. Nhưng tôi tin rằng, phần lớn bọn họ không thuật lại sự việc từ gốc và nói rõ ý nghĩa của sự lao dốc này, khi hoạt động truyền thông Mỹ xoay quanh một loạt những thứ vô thưởng vô phạt. Ví dụ, những người từng viết một cách mạnh mẽ về vấn đề này nói với chúng ta rằng, những gì đang xảy ra là tàn dư của chủ nghĩa tư bản kiệt quệ; hoặc ngược lại, đó là kết quả vô vị khi chủ nghĩa tư bản đạt đến độ hoàn thiện; hoặc là hậu quả sinh ra từ chứng loạn thần kinh của Thời đại Freud; hoặc là quả báo khi chúng ta để Đức Chúa Trời biến mất; hoặc tất cả đều xuất phát từ lòng tham và những hoài bão quả to lớn.
Tôi đã xem xét cẩn thận những lời giải thích này, và tôi không nói rằng không có gì đáng để học hỏi từ chúng. Những người theo học thuyết của Marx, Freud, Lévi-Strauss... đều không nên bị coi nhẹ. Bản thân tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu câu chuyện tôi kể có thể đến gần với sự thật trọn vẹn. Tất cả chúng ta, như Huxley đã nói, là những chuyên gia tóm lược, nghĩa là không ai trong chúng ta có đủ trí thông minh để nắm bắt toàn bộ sự thật. Nhưng có một ý kiến khá cụ thể mà ta có thể xem xét, đó là giá trị của vấn đề nằm ở tính trực tiếp của nó, thể hiện qua các hình thức trò chuyện của con người. Cách chúng ta thực hiện những cuộc trò chuyện sẽ
quyết định đâu là những ý tưởng mà ta có thể diễn đạt một cách dễ dàng. Và những ý tưởng nào được diễn đạt một cách dễ dàng chắc chắn sẽ trở thành “nội dung” quan trọng của một nền văn hóa.
Tôi sử dụng từ “trò chuyện” một cách ẩn dụ, để không chỉ nói về những cuộc hội thoại mà còn bao hàm tất cả các kỹ thuật và công nghệ cho phép mọi người thuộc một nền văn hóa cụ thể trao đổi thông điệp. Theo nghĩa này, toàn bộ nền văn hóa là một cuộc trò chuyện, hay chính xác hơn là một tập hợp các cuộc trò chuyện, được tiến hành theo nhiều hình thức khác nhau. Trọng tâm chú ý của chúng ta ở đây là làm cách nào để kiểm soát hình thức của các hoạt động truyền thông và thậm chí là quyết định loại nội dung có thể sinh ra từ các hình thức đó.
Để lấy một ví dụ đơn giản nhằm hiểu điều này có nghĩa là gì, hãy tìm hiểu về “công nghệ” thời cổ xưa - tín hiệu khói. Mặc dù tôi không biết chính xác nội dung nào đã được người da đỏ đưa vào tín hiệu khói, nhưng tôi có thể khá chắc rằng nó không bao gồm những lập luận triết học. Những làn khói không đủ khả năng để diễn đạt các ý tưởng về bản chất của sự tồn tại, và ngay cả khi điều đó là khả thi, một triết gia đến từ bộ lạc Cherokee cũng sẽ sớm đốt hết củi trước khi đến được tiên đề thứ hai. Bạn không thể sử dụng khói để truyền đạt thông tin triết học. Hình thức đó không phù hợp với nội dung cần chuyển tải.
Để lấy một ví dụ gần gũi hơn: Như tôi đã gợi ý trước đó, thật khó tưởng tượng rằng một người như Tổng thống thứ 27 của Hoa Kỳ, William Howard Taft, cằm nọng, nặng gần 140kg, lại có thể trở thành ứng cử viên tổng thống trong thế giới ngày nay. Hình dáng cơ thể của một người đàn ông căn bản không liên quan đến những ý tưởng của anh ta khi anh phát biểu trước công chúng qua văn bản, qua đài phát thanh hoặc qua tín hiệu khói. Nhưng cơ thể lại trở thành một yếu tố quan trọng khi ta lên sóng truyền hình. Sự thô kệch “ngộp thở” của một hình ảnh nặng cỡ 140kg dù là một hình ảnh đang phát biểu, sẽ dễ dàng lấn át bất kỳ sự tinh tế logic hoặc tinh thần nào được truyền đạt qua lời nói. Đối với truyền hình, hoạt động truyền thông được thực hiện chủ yếu qua hình ảnh trực quan, có nghĩa là truyền hình cho chúng ta một cuộc trò chuyện bằng hình ảnh chứ không phải bằng lời nói. Sự xuất hiện
của người quản lý hình ảnh trong đấu trường chính trị và cùng lúc đó, sự vắng bóng của những người viết lời phát biểu đã chứng thực rằng, truyền hình đòi hỏi một loại nội dung không giống như những phương tiện truyền thông khác. Bạn không thể nói triết lý chính trị trên truyền hình. Nội dung đó không phù hợp với hình thức của truyền hình.
Một ví dụ khác phức tạp hơn: Thông tin, nội dung, hoặc nói chung là “thứ” tạo nên cái được gọi là “tin tức trong ngày”, sẽ không thể tồn tại trong một thế giới thiếu các phương tiện truyền thông để biểu đạt nó. Ý tôi không phải là những thứ như hỏa hoạn, chiến tranh, giết người và các vụ ngoại tình không xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới này. Ý tôi là, nếu như thiếu một công nghệ để lan tỏa tin tức về các sự kiện đó, mọi người sẽ không thể để ý tới chúng, không thể đưa chúng vào đời sống hằng ngày của họ. Những thông tin như vậy đơn giản sẽ không thể tồn tại và trở thành một phần nội dung của nền văn hóa. “Tin tức trong ngày” hoàn toàn được tạo ra bởi phương thức điện báo (và từ đó về sau, mức độ lan tỏa được nhân lên bởi các phương tiện truyền thông mới hơn), khiến những thông tin bị tách rời khỏi ngữ cảnh có thể được lan truyền rộng rãi với tốc độ đáng kinh ngạc. Tin tức trong ngày là sản phẩm sinh ra từ trí tưởng tượng được công nghệ hỗ trợ. Nói chính xác hơn, nó là một sự kiện truyền thông. Chúng ta để ý đến các sự kiện rời rạc diễn ra khắp các nơi trên thế giới, vì ta có nhiều phương tiện truyền thông với hình thức rất phù hợp để truyền đạt những cuộc trò chuyện rời rạc như vậy. Các nền văn hóa không có hệ thống truyền thông với tốc độ ánh sáng - ví dụ như các nền văn hóa mà tín hiệu khói là công cụ truyền tin vượt không gian hiệu quả nhất - sẽ không có tin tức trong ngày. Nếu không có phương tiện phù hợp với hình thức của nó, tin tức trong ngày sẽ không tồn tại.
Như vậy, nói một cách rõ ràng nhất, cuốn sách này là một hành trình tìm hiểu về thực tế văn hóa quan trọng nhất của Mỹ trong nửa sau thế kỷ XX: sự suy tàn của Thời đại Đọc chữ và sự trỗi dậy của Thời đại Truyền hình. Sự biến đổi này đã dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ về nội dung và ý nghĩa của hoạt động truyền thông, vì 2 phương tiện truyền thông quá khác nhau không thể truyền đạt cùng một ý tưởng. Khi ảnh hưởng của tài liệu in ấn giảm dần, những nội dung về chính trị, tôn giáo, giáo dục và nhiều điều khác
phải thay đổi và xử lý lại sao cho phù hợp nhất với vô tuyến truyền hình.
Nếu tất cả những điều này nghe có vẻ giống như quan điểm của Marshall McLuhan, rằng phương tiện truyền tải chính là thông điệp, tôi sẽ không phủ nhận sự liên hệ này. Tôi gặp McLuhan 30 năm trước, khi tôi đang học cao học còn ông là một giáo sư tiếng Anh không ai biết tới. Khi đó, cũng như bây giờ, tôi luôn tin rằng ông ấy có phong cách giao tiếp giống Orwell và Huxley - nghĩa là trò chuyện như một nhà tiên tri. Tôi vẫn kiên định với lời dạy của ông ấy, rằng cách rõ ràng nhất để nhìn thấu một nền văn hóa là chú ý đến các công cụ dùng để trò chuyện của nó. Tôi có thể nói thêm rằng, sự quan tâm của tôi đối với vấn đề này thực chất được gợi lên bởi một nhà tiên tri còn tầm vóc hơn McLuhan, cổ xưa hơn Plato. Khi học Kinh Thánh thời còn trẻ, tôi nhận thấy những điểm cơ bản của ý tưởng rằng, các hình thức truyền thông sẽ ưu tiên một số kiểu nội dung cụ thể, do đó truyền thông có khả năng nắm quyền chỉ huy một nền văn hóa. Trong 10 điều răn của Thiên Chúa, thì ở lời răn dạy thứ hai, dân Israel bị cấm tạo ra những hình ảnh cụ thể về bất kỳ điều gì: “Ngươi không được tạo ra bất kỳ hình tượng nào, không được tạo ra bất kỳ thứ gì tượng trưng cho những vật ở trên trời cao, dưới mặt đất và trong làn nước”.
Sau đó, tôi cũng như rất nhiều người khác đã băn khoăn rằng, tại sao Chúa lại đưa ra những chỉ dẫn về cách con chiên đặt ra (hoặc không đặt ra) các biểu tượng cho trải nghiệm tôn giáo của họ. Đây là một mệnh lệnh đạo đức kỳ lạ trừ khi người đưa ra nó cho rằng, có một mối liên hệ giữa các hình thức giao tiếp của con người với chất lượng của một nền văn hóa. Chúng ta có thể đưa ra một lời phỏng đoán táo bạo, đó là nếu một người được yêu cầu phải tin yêu một đấng thiêng liêng trừu tượng, thì sẽ thật không phù hợp nếu người ấy lại có thói quen vẽ tranh, tạc tượng hoặc nói chung là diễn tả ý tưởng của họ dưới bất kỳ hình thức cụ thể nào. Chúa của người Do Thái tồn tại trong Ngôi Lời (Word) và thông qua Ngôi Lời, một quan niệm chưa từng có và đòi hỏi trình độ tư duy trừu tượng phải đạt mức cao nhất. Do đó, sự mô tả bằng hình tượng (Iconography) đã trở thành một sự báng bổ khi để một kiểu Chúa mới xâm nhập nền văn hóa. Những người như chúng ta, những người đang trong quá trình chuyển đổi văn hóa của mình từ việc tập trung vào câu chữ sang tập trung vào hình
ảnh, sẽ đạt được nhiều lợi ích nếu dành thời gian suy ngẫm về lời răn này. Nhưng ngay cả khi tôi phán đoán sai, tôi vẫn tin rằng mình đang đưa ra một giả định khôn ngoan và sát thực, đó là các phương tiện truyền thông sẵn có tại một nền văn hóa có ảnh hưởng chi phối đến việc hình thành các mối bận tâm về tri thức và xã hội của nền văn hóa đó.
Tất nhiên, lời nói vẫn là phương tiện cơ bản và không thể thiếu. Nó tạo nên con người chúng ta, giúp ta tiếp tục là con người, và trên thực tế, là yếu tố định nghĩa nên con người. Điều này không có nghĩa là nếu không có các phương tiện giao tiếp khác, tất cả mọi người có thể nói về những điều giống nhau theo cùng một cách và thuận tiện như nhau. Chúng ta đủ hiểu biết về ngôn ngữ để hiểu rằng, các biến thể trong cấu trúc ngôn ngữ sẽ dẫn đến các biến thể về “thế giới quan”. Cách mọi người nghĩ về thời gian và không gian, về các sự vật và quá trình, sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đặc điểm ngữ pháp trong ngôn ngữ của họ. Do đó, chúng ta không thể mặc định rằng, tâm trí của tất cả loài người đều có cùng một cách lý giải về cách thế giới này được tạo dựng.
Hãy thử tưởng tượng xem thế giới quan giữa các nền văn hóa khác nhau sẽ còn phân hóa như thế nào khi chúng ta nghĩ về muôn hình vạn trạng các loại công cụ để tiến hành các cuộc trò chuyện. Văn hóa được tạo thành từ những lời nói, sau đó lại được tái tạo bằng mọi cách thức giao tiếp - từ hội họa đến chữ tượng hình, từ bảng chữ cái đến màn hình ti vi. Mỗi phương tiện, giống như bản thân ngôn ngữ, có thể tạo ra một phương thức truyền thông độc đáo bằng cách cung cấp một định hướng mới để ta suy nghĩ, diễn đạt và cảm thụ. Tất nhiên, đây chính là ý của McLuhan khi nói phương tiện truyền tải chính là thông điệp. Tuy nhiên, quan điểm của ông cần được sửa đổi một chút, bởi hiện tại, cách nói này có thể khiến người ta nhầm lẫn một thông điệp (message) sang một phép ẩn dụ (metaphor). Một thông điệp biểu thị một tuyên bố cụ thể và rõ ràng về thế giới. Nhưng các hình thức truyền thông của chúng ta hiện nay lại không đưa ra những tuyên bố rõ ràng như vậy. Thứ mà truyền thông đưa ra hiện giờ giống những phép ẩn dụ hơn. Chúng khá kín đáo nhưng lại có tính ám chỉ mạnh mẽ, buộc người tiếp nhận phải thuận theo những định nghĩa đặc biệt của chúng về thực tại. Cho dù chúng ta đang trải nghiệm thế giới qua lời nói, chữ in hay máy quay truyền hình, thì các phương tiện
truyền thông đều đưa ra những hình ảnh ẩn dụ để phân loại thế giới cho chúng ta. Những phép ẩn dụ đang sắp xếp thế giới, đóng khung nó, phóng to nó, thu nhỏ nó, tô màu nó. Như Ernst Cassirer đã nhận xét:
Thực tế vật chất dường như đang trở nên mờ nhạt khi những hoạt động mang tính tượng trưng của con người tăng lên. Thay vì tự mình đối phó với những sự việc, con người lại liên tục đối thoại với chính mình. Anh ta tự bao bọc mình trong các hình thức ngôn ngữ, các hình ảnh nghệ thuật, các biểu tượng thần thoại hoặc các nghi thức tôn giáo mà anh ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu rõ.
Khi các phương tiện truyền thông đan xen vào nhau, chúng sẽ định hướng những gì chúng ta nhìn thấy và hiểu biết. Điều đáng kể là người ta lại rất hiếm khi chú ý đến sự thật này. Một người đọc sách, xem truyền hình hoặc liếc nhìn đồng hồ của mình thường không quan tâm đến việc tâm trí của họ được tổ chức và điều khiển như thế nào bởi những hành động này, và càng không quan tâm một cuốn sách, một chiếc ti vi hoặc chiếc đồng hồ sẽ khơi gợi nên ý tưởng nào về thế giới. Nhưng có những người đã quan tâm - ví dụ như Lewis Mumford. Ông không phải kiểu người nhìn đồng hồ chỉ để xem bây giờ là mấy giờ. Không phải là ông ấy không quan tâm đến nội dung của đồng hồ, mà là ông quan tâm nhiều hơn đến cách đồng hồ gợi nên ý tưởng về “khoảnh khắc”. Ông quan tâm đến triết lý của đồng hồ, coi đồng hồ như một phép ẩn dụ (nền giáo dục của chúng ta không nói gì mấy về điều này và các nhà sản xuất đồng hồ thì hoàn toàn không có ý kiến gì hết). “Đồng hồ”, Mumford kết luận, “là một cỗ máy hiệu quả có ‘sản phẩm’ là giây và phút”. Đồng hồ có tác dụng tách rời thời gian khỏi các hoạt động của con người và do đó, hình thành ý tưởng về một thế giới độc lập gồm các khoảng liên tiếp có thể đo lường được. “Các khoảnh khắc nối tiếp nhau” hóa ra không phải là quan niệm của Chúa hay của tự nhiên, mà là ý tưởng được hình thành bởi con người khi anh ta tự trò chuyện với bản thân về một chiếc máy do anh ta tạo ra.
Trong cuốn sách Technics and Civilization (tạm dịch: Kỹ thuật và nền văn minh), Mumford chỉ ra rằng, bắt đầu từ thế kỷ XIV, đồng hồ đã biến chúng ta thành những người quản lý thời gian, sau đó
trở thành người tiết kiệm thời gian và giờ là nô lệ của thời gian. Trong quá trình này, chúng ta trở nên bất kính với Mặt trời và các mùa trong năm, vì trong một thế giới được tạo thành từ giây và phút, quyền lực của tự nhiên bị gạt bỏ. Thật vậy, với việc phát minh ra đồng hồ, con người không còn coi thiên nhiên vĩnh hằng là thước đo cho mọi thứ và trọng tâm của mọi hoạt động nữa.
Bảng chữ cái đã giới thiệu một hình thức trò chuyện mới giữa con người và con người và đến nay, chữ viết đã trở thành một điều quá phổ biến.
Có thể nhìn thấy lý lẽ của một người thay vì chỉ có thể nghe họ nói là một vấn đề không hề nhỏ, mặc dù nền giáo dục của chúng ta, một lần nữa, chỉ dành ra rất ít thời gian để nói về điều này. Tuy nhiên, rõ ràng là chữ viết đã tạo ra một quan niệm mới về tri thức, cũng như một ý thức mới về trí thông minh, về công chúng tiếp nhận và về việc truyền đạt lại kiến thức cho hậu thế - tất cả những điều này đều được Plato nhận ra khi văn bản mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Ông viết trong bức thư thứ bảy: “Không một người thông minh nào lại mạo hiểm thể hiện quan điểm triết học của mình bằng ngôn ngữ, đặc biệt là thứ ngôn ngữ không thể thay đổi được - và đây lại chính là đặc điểm của chữ viết”. Ấy thế mà, Plato vẫn viết rất nhiều và hiểu rõ hơn bất kỳ ai khác rằng, việc thiết lập nên các quan điểm bằng các ký tự viết tay là sự khởi đầu của triết học, chứ không phải sự kết thúc. Triết học không thể tồn tại nếu không có sự phản biện, và việc viết lách tạo điều kiện để những chiêm nghiệm của ta được xem xét kỹ lưỡng một cách liên tục và tập trung. Chữ viết “nắm bắt” lời nói, để nó không vút bay đi và cũng nhờ chữ viết mà ta có những nhà ngữ pháp, nhà logic học, nhà tu từ học, nhà lịch sử, nhà khoa học - tất cả những người này đều phải sử dụng ngôn ngữ thành thạo để có thể hiểu những từ ngữ nhất định có nghĩa là gì, nó sai sót ở đâu và nó sẽ dẫn ta tới những ý tưởng nào.
Plato biết tất cả những điều này, có nghĩa là ông biết rằng, chữ viết sẽ mang đến một cuộc cách mạng về tri giác, cụ thể là khiến cơ quan xử lý ngôn ngữ chuyển từ tai sang mắt. Người ta kể rằng, để thúc đẩy sự chuyển đổi này, Plato đã nhấn mạnh các sinh viên phải có kiến thức về hình học trước khi bước chân vào học viện của ông. Nếu câu chuyện này là thật thì đó là một ý tưởng rất hợp
lý, vì như nhà phê bình văn học vĩ đại Northrop Frye nhận xét, “Chữ viết không chỉ là một lời nhắc nhở đơn giản mà có sức mạnh lớn hơn nhiều: Nó tái tạo quá khứ trong hiện tại, và không những đưa đến cho ta những điều quen thuộc, nó còn tạo nên ánh sáng lấp lánh của những điều tưởng tượng”.
Tất cả những gì Plato dự đoán về kết quả của chữ viết giờ đây đã được các nhà nhân chủng học hiểu rõ - đặc biệt là những ai nghiên cứu về các nền văn hóa mà lời nói là cách duy nhất để thực hiện các cuộc trò chuyện phức tạp. Như Northrop Frye đã gợi ý, các nhà nhân chủng học biết rằng chữ viết không chỉ đơn thuần là sự lặp lại của lời nói. Chữ viết là một kiểu lời nói khác hẳn, là ma pháp của thánh thần. Những người sáng tạo ra chữ viết chắc hẳn đã cảm thấy như vậy - đó là lý do tại sao chúng ta không còn ngạc nhiên khi biết rằng, thần Thoth của Ai Cập, người được cho là đã mang chữ viết đến cho vua Thamus, cũng là một vị thần ma thuật. Những người như chúng ta có thể không thấy chữ viết có gì kỳ diệu, nhưng các nhà nhân chủng học lại biết rõ chữ viết thần kỳ như thế nào đối với những người chỉ thuần túy sử dụng lời nói để giao tiếp. Chữ viết không trò chuyện với ai cả nhưng lại trò chuyện với tất cả mọi người. Thật kỳ lạ làm sao, khi ta phải đối mặt với sự im lặng khi đặt ra câu hỏi trong một đoạn văn bản. Thật bối rối làm sao, khi ta phải hướng đến một nhóm công chúng mà ta không hề không nhìn thấy - điều mà mọi tác giả viết sách phải làm. Và ta còn phải tự chỉnh sửa những gì mình viết, bởi ta biết rằng một người đọc nào đó có thể sẽ phản bác hoặc hiểu nhầm ý tưởng của ta.
Tôi đề cập đến tất cả những điều này bởi cuốn sách của tôi viết về cách loài người đang trải qua một sự biến đổi diện rộng đầy nhiễu động, khi đi từ sự kỳ diệu của chữ viết sang sự kỳ diệu của điện tử. Ý tôi muốn nói ở đây là, sự xuất hiện của chữ viết hay đồng hồ trong nền văn hóa không chỉ đơn thuần tăng cường sức mạnh của con người, mà còn biến đổi cách tư duy của anh ta - và tất nhiên, biến đổi cả nội dung của nền văn hóa. Đó là điều tôi muốn nói khi gọi một phương tiện là một phép ẩn dụ. Ở trường học, chúng ta được dạy rằng, một phép ẩn dụ gợi lên ý niệm về một sự vật bằng cách so sánh nó với một sự vật khác. Bằng sức mạnh của sự gợi ý, phép ẩn dụ tạo ra một cách tư duy cố định trong tâm trí chúng ta, khiến ta không thể hình dung ra thứ này mà
không nghĩ đến thứ kia. Ví dụ: Ánh sáng là sóng, ngôn ngữ là một cái cây, Chúa là một người thông tuệ và đáng kính, tâm trí là một hang động tối tăm được tri thức soi sáng. Nếu những phép ẩn dụ này không còn hữu ích với chúng ta, ta phải tìm ra những phép ẩn dụ khác. Ánh sáng là hạt, ngôn ngữ là một dòng sông, Chúa là một phương trình vi phân (theo tuyên bố của Bertrand Russell), tâm trí là một khu vườn cần được chăm sóc.
Nhưng các phép ẩn dụ sinh ra từ hoạt động truyền thông của chúng ta lại không rõ ràng và sống động như những phép ẩn dụ trên đây, mà phức tạp hơn nhiều. Để hiểu được tính ẩn dụ đó, chúng ta phải xét đến các hình thức biểu tượng của thông tin, nguồn thông tin, số lượng và tốc độ thông tin, ngữ cảnh mà chúng ta nhận thông tin. Vì vậy, ta cần phải đào sâu để tìm hiểu, để nắm được rằng đồng hồ đã tái tạo thời gian thành những khoảng độc lập, nối tiếp nhau; rằng chữ viết tái tạo tâm trí thành một tấm bảng mà trên đó, ta ghi ra những trải nghiệm của mình; rằng máy điện báo đã tái tạo tin tức thành một loại hàng hóa. Chưa hết, việc đào sâu như vậy sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu chúng ta bắt đầu từ giả định rằng, với mọi công cụ mà ta tạo ra, một ý tưởng có thể phát triển vượt ra ngoài chức năng ban đầu của nó. Chẳng hạn, người ta chỉ ra rằng, việc phát minh ra kính đeo mắt vào thế kỷ XII không chỉ giúp cải thiện thị lực mà còn đưa ra ý tưởng rằng, con người không cần phải chấp nhận những điều được thiên nhiên ban tặng hoặc sự tàn phá của thời gian. Kính đeo mắt bác bỏ suy nghĩ cơ thể người là một thứ định mệnh bất di bất dịch, bằng cách nêu lên ý tưởng rằng, chúng ta có thể cải thiện cơ thể cũng như tâm trí của bản thân. Tôi không nghĩ là quá đà khi nói rằng, có một mối liên hệ giữa việc phát minh ra kính đeo mắt ở thế kỷ XII và nghiên cứu tách gen ở thế kỷ XX.
Ngay cả một công cụ như kính hiển vi, cơ bản không phải là một công cụ sử dụng hằng ngày, cũng bao hàm một ý tưởng khá mạnh mẽ - không phải về sinh học mà là về tâm lý học. Bằng cách tiết lộ một thế giới cho đến nay vẫn bị che khuất khỏi mắt thường, kính hiển vi đưa ra một gợi ý về cấu trúc của tâm trí.
Nếu mọi thứ không giống như vẻ ngoài của chúng, nếu vi khuẩn đang ẩn nấp trên và dưới da của chúng ta (trong khi ta không thể nhìn thấy), nếu cái vô hình kiểm soát cái hữu hình, thì phải chăng
những cái tôi cũng đang ẩn náu ở một nơi nào đó mà chúng ta không nhìn thấy được? Phân tâm học thực chất chính là một chiếc kính hiển vi soi vào tâm trí, phải không? Ý niệm về tâm trí của chúng ta từ đâu mà đến, nếu như không phải từ chính những phép ẩn dụ được tạo ra từ các công cụ của ta? Khi nói một người có chỉ số IQ đạt 126, điều đó có nghĩa là gì? Không có con số nào trong đầu của mọi người cả. Trí thông minh không có định lượng hay độ lớn, chỉ là chúng ta tin rằng nó có. Và tại sao chúng ta lại tin như vậy? Bởi chúng ta có các công cụ ngụ ý rằng tâm trí vận hành theo cách đó. Thật vậy, các công cụ tư duy gợi lên trong ta các ý niệm về cơ thể của mình, thông qua những cách dùng từ như “đồng hồ sinh học”, “mã di truyền”, “đọc biểu cảm gương mặt của một người như đọc một cuốn sách”, “nét mặt là chiếc máy điện báo truyền đi suy nghĩ của ta”.
Khi Galileo nhận xét rằng, ngôn ngữ của tự nhiên được viết bằng toán học, ông ấy chỉ muốn đưa ra một phép ẩn dụ. Còn bản thân tự nhiên không nêu ý kiến gì hết. Tâm trí hay cơ thể của chúng ta cũng vậy. Các cuộc trò chuyện của chúng ta về thiên nhiên và về bản thân mình được thực hiện bằng bất kỳ “ngôn ngữ” nào mà chúng ta thấy có thể dễ dàng sử dụng. Chúng ta không nhìn nhận thiên nhiên, trí thông minh, động cơ hay hệ tư tưởng của con người theo đúng bản chất của nó, mà chỉ dựa vào cách diễn giải của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện truyền thông của chúng ta. Phương tiện truyền thông là phép ẩn dụ của chúng ta. Phép ẩn dụ tạo ra nội dung cho nền văn hóa của chúng ta.
Mục đích của tôi trong cuốn sách này là chỉ ra một sự thay đổi lớn về những ẩn dụ truyền thông đang diễn ra ở Mỹ, với kết quả là
phần lớn hoạt động truyền thông đang đưa ra những nội dung vô nghĩa. Với định hướng này, nhiệm vụ của tôi trong các chương tiếp theo rất dễ hiểu. Trước tiên, tôi phải chứng minh rằng dưới sự quản lý của các tài liệu in ấn, hoạt động truyền thông trước kia ở Mỹ khác với hiện tại như thế nào. Nhìn chung, công tác truyền thông khi đó diễn ra mạch lạc, nghiêm túc và hợp lý. Còn dưới sự quản lý của truyền hình, truyền thông bằng một cách nào đó lại trở nên vụn vặt và vô nghĩa. Nhưng để tránh nguy cơ khiến bài phân tích của mình trở thành một sự phàn nàn viết theo phong cách học thuật, một kiểu ca cẩm tinh hoa chống lại những điều “rác rưởi” trên truyền hình, trước tiên tôi phải giải thích rằng, trọng tâm của tôi là về nhận thức luận, không phải về mỹ học hay phê bình văn học. Thật vậy, tôi cũng thích xem tin rác như tất cả mọi người, và tôi biết rõ rằng ngành in ấn đã tạo ra một lượng tin rác đủ để lấp tràn đại vực Grand Canyon.
Và vì vậy, tôi không phản đối những thứ tạp nham trên truyền hình. Điều tốt đẹp nhất trên truyền hình chính là những thông tin rác của nó, không một ai và không điều gì có thể bị đe dọa nghiêm trọng bởi tin rác. Bên cạnh đó, chúng ta không đo lường một nền văn hóa bằng những điều hiển nhiên là tầm thường, mà bằng những điều mà nền văn hóa ấy tuyên bố là quan trọng. Đây mới là vấn đề của chúng ta. Truyền hình đang rất tầm thường và sẽ cực kỳ nguy hiểm khi tham vọng của nó lên cao, khi nó thể hiện mình như một phương tiện truyền tải các cuộc thảo luận văn hóa quan trọng. Nghịch lý ở đây là các nhà trí thức và giới phê bình lại không ngừng thúc giục truyền hình làm như vậy. Chính những người đó đang không đánh giá truyền hình đúng mức. Giống như các tài liệu in ấn, truyền hình cũng giống như triết học về thuật tu từ. Do đó, để bàn luận nghiêm túc về truyền hình, người ta phải bàn về nhận thức luận.
Nhận thức luận là một chủ đề phức tạp và thường không rõ ràng, xoay quanh nguồn gốc và bản chất của tri thức. Điều cần chú ý ở đây là nhận thức luận quan tâm đến định nghĩa về sự thật, cũng như nguồn gốc của các định nghĩa đó. Đặc biệt, tôi muốn chỉ ra rằng, các định nghĩa về sự thật bắt nguồn từ đặc tính của phương tiện truyền thông mà thông qua phương tiện đó thông tin được truyền tải. Tôi muốn thảo luận về mối liên quan giữa truyền thông và nhận thức luận.
Với hy vọng đơn giản hóa tiêu đề của chương sách này - truyền thông là nhận thức luận - tôi xin mượn một từ của Northrop Frye, người đã sử dụng một nguyên tắc mà ông gọi là “sự cộng hưởng” (resonance). “Thông qua sự cộng hưởng”, ông viết, “một tuyên bố cụ thể trong một ngữ cảnh cụ thể sẽ có ý nghĩa rất quan trọng”. Frye đưa ra một ví dụ, đó là cụm từ “chùm nho uất hận”, lần đầu tiên xuất hiện trong sách Isaiah với ngữ cảnh nói về cuộc tàn sát dân Edom trong tương lai. Nhưng theo Frye, “Cụm từ này từ lâu đã thoát ly ngữ cảnh đó và chuyển sang nhiều ngữ cảnh mới”. Frye tiếp tục mở rộng ý tưởng về sự cộng hưởng để nó vượt ra ngoài các cụm từ và câu văn. Một nhân vật trong một vở kịch hoặc một câu chuyện - chẳng hạn như Hamlet hoặc Alice của Lewis Carroll - có thể tạo nên sự cộng hưởng. Các vật thể có thể cộng hưởng và các quốc gia cũng vậy: “Những chi tiết nhỏ nhất về địa lý của 2 quốc gia nhỏ bé, Hy Lạp và Israel, đã ghi dấu mạnh mẽ trong ý thức của chúng ta, cho đến khi các chi tiết ấy trở thành một phần của tấm bản đồ thế giới trong hình dung của chính ta, cho dù ta đã từng đến những quốc gia này hay chưa”.
Khi nói về nguồn gốc của sự cộng hưởng, Frye cho rằng phép ẩn dụ là nguồn sức mạnh chính - nghĩa là sức mạnh của một cụm từ, một cuốn sách, một nhân vật hoặc một lịch sử sẽ thống nhất với nhau và gợi nên một loạt cách nhìn nhận đa dạng. Vì vậy, Athens trở thành một ẩn dụ về trí tuệ, Hamlet là ẩn dụ về sự thiếu quyết đoán, còn cuộc phiêu lưu của Alice là phép ẩn dụ về việc tìm kiếm trật tự trong một thế giới phi lý.
Tôi khẳng định rằng, mọi phương tiện giao tiếp đều có sự cộng hưởng, vì sự cộng hưởng là một phép ẩn dụ lớn. Bất kể nguồn gốc ban đầu và giới hạn của ngữ cảnh là gì, một phương tiện truyền thông luôn có thể vượt xa khỏi ngữ cảnh đó và trở thành những ngữ cảnh mới đầy bất ngờ.
Bởi phương tiện truyền thông hướng dẫn chúng ta tổ chức tâm trí và tích lũy kinh nghiệm về thế giới, nó tiến vào ý thức và các thể chế xã hội của chúng ta dưới vô số hình thức đa dạng. Đôi khi, nó tác động đến quan điểm của chúng ta về lòng mộ đạo, cái thiện, cái đẹp; cũng như cách chúng ta suy nghĩ về sự thật.
Để giải thích điều này xảy ra như thế nào, rằng phương tiện
truyền thông đã áp đặt những định kiến vô hình lên một nền văn hóa ra sao, tôi sẽ đưa ra 3 trường hợp thực tế.
Trường hợp đầu tiên liên quan tới một bộ tộc ở miền tây châu Phi không có hệ thống chữ viết. Tuy nhiên, truyền thống truyền miệng của họ đã giúp hình thành nên các ý tưởng về luật dân sự ở nơi này. Khi xảy ra tranh chấp, những người khiếu nại đến gặp thủ lĩnh của bộ lạc và bày tỏ sự bất bình. Không có luật thành văn nào làm chỉ dẫn, nhiệm vụ của người đứng đầu là phải rà soát lại kho tàng các câu tục ngữ và câu chuyện mình từng nghe, để tìm ra kiến thức phù hợp với hoàn cảnh và thỏa mãn được những người đang khiếu nại.
Khi điều đó được hoàn thành, tất cả các bên đều đồng ý rằng công lý đã được thực thi, sự thật đã được phơi bày. Bạn sẽ nhận ra rằng, đây chủ yếu là phương pháp được áp dụng ở những nền văn hóa truyền miệng. Nền văn hóa đó sử dụng lời nói, trí nhớ, những cách diễn đạt có tính công thức và các câu chuyện ngụ ngôn như các phương tiện để khám phá và trình bày sự thật. Như Walter Ong đã chỉ ra, trong các nền văn hóa truyền miệng, những câu tục ngữ, châm ngôn không phải là các công cụ thỉnh thoảng mới được sử dụng, mà “chúng không bao giờ ngừng lại. Chúng hình thành nên bản chất của tư tưởng. Tư tưởng không thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào nếu không có chúng, vì tư tưởng tồn tại trong chúng”.
Đối với những người như chúng ta, sự phụ thuộc vào các câu tục ngữ và châm ngôn thường chỉ xuất hiện khi ta giải quyết các khúc mắc liên quan tới trẻ em. “Mười cơ hội kiếm tiền chẳng bằng một đồng tiền nắm chắc trong tay”, “trâu chậm uống nước đục”, “dục tốc bất đạt”... đều là những cách nói mà chúng ta thường dùng để dạy dỗ trẻ em, nhưng lại thật kỳ cục nếu được xướng lên trong một phòng xử án chuyên quyết định các vấn đề “nghiêm trọng”. Giả sử, một nhân viên tòa án lên tiếng hỏi bồi thẩm đoàn rằng họ đã có quyết định cuối cùng hay chưa và nhận được câu trả lời thế này: “Đã là người thì ai chẳng phạm sai lầm, đánh kẻ chạy đi chứ sao lại đánh người chạy lại”. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, cách nói đó có thể gây ấn tượng, nhưng người ta sẽ không thể chấp nhận được nếu một hình thức ngôn ngữ “nghiêm túc” hơn không được đưa ra ngay lập tức.
Các thẩm phán, luật sư và bị cáo không cho rằng những câu tục ngữ và châm ngôn là cách phản ứng phù hợp để giải quyết các tranh chấp pháp lý. Về điều này, họ khác với người thủ lĩnh bộ lạc. Trong một phòng xử án hoạt động dựa trên các văn bản in ấn, nơi những cuốn sách luật, những tập hồ sơ và các tài liệu văn bản khác là công cụ để xác định phương pháp tìm ra sự thật, truyền thống truyền miệng đã mất đi tính cộng hưởng - nhưng không phải mất hoàn toàn. Người ta vẫn phải nói ra miệng lời khai, với giả định rằng lời nói thành tiếng, chứ không phải chữ viết, sẽ phản ánh trung thực hơn tâm trí của nhân chứng. Thật vậy, tại nhiều phòng xử án, các thành viên của bồi thẩm đoàn không được phép ghi chép. Họ phải lắng nghe sự thật, hoặc điều ngược lại của sự thật, chứ không được đọc nó. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, có một sự xung đột về tính cộng hưởng trong quan niệm của chúng ta về chân lý của pháp luật. Một mặt, vẫn còn tồn tại niềm tin vào sức mạnh của lời nói, rằng lời nói thuần túy sẽ cung cấp sự thật; mặt khác, có một niềm tin mạnh mẽ hơn nhiều vào tính xác thực của chữ viết và cụ thể là các văn bản in ấn. Niềm tin thứ hai này không có chút khoan nhượng nào đối với thơ ca, tục ngữ, châm ngôn, truyện ngụ ngôn hoặc bất kỳ cách diễn đạt thông tuệ nào khác của truyền thống truyền miệng. Luật là những điều mà các nhà lập pháp và các vị quan tòa đã viết ra. Trong nền văn hóa của chúng ta, luật sư không cần phải thông tuệ, họ cần được thông tin ngắn gọn, chính xác.
Một nghịch lý tương tự cũng tồn tại trong các trường đại học. Tại đây, một số người vẫn có quan điểm rằng, lời nói là phương tiện truyền tải chân lý mang tính căn bản. Nhưng phần lớn việc giảng dạy tại trường đại học đang gắn chặt với cấu trúc và logic của văn bản. Để minh chứng cho điểm này, tôi xin đưa ra trải nghiệm của cá nhân mình, khi tôi chứng kiến một việc được tiến hành rộng rãi thời Trung cổ - bảo vệ luận án tiến sĩ bằng cách hùng biện. Tôi sử dụng từ “Trung cổ” theo nghĩa đen, vì ở thời Trung cổ, các học trò luôn được kiểm tra miệng, và truyền thống đó vẫn tiếp diễn với giả định rằng, một người muốn có học hàm, học vị thì phải có khả năng lên tiếng bảo vệ cho tác phẩm của mình một cách thành thục. Nhưng tất nhiên, tác phẩm dưới dạng văn bản vẫn luôn là thứ quan trọng nhất.
Trong trường hợp tôi đang nghĩ đến, một thí sinh đã đưa vào
luận án của mình một ghi chú, nhằm mục đích ghi nguồn tài liệu cho một trích dẫn, với nội dung như sau: “Điều này được nói với người thực hiện nghiên cứu tại khách sạn Roosevelt vào ngày 18 tháng 1 năm 1981, trước sự chứng kiến của Arthur Lingeman và Jerrold Gross”. Sự dẫn nguồn này thu hút sự chú ý của ít nhất 4 trong số 5 giám khảo, tất cả họ đều nhận xét rằng, một thứ như vậy khó có thể coi là một dạng tài liệu và cần được thay thế bằng trích dẫn từ một cuốn sách hoặc bài báo. Có lẽ bởi thí sinh biết không có tuyên bố bằng văn bản nào được đưa ra về những gì anh ta đã nghe tại khách sạn Roosevelt, anh ta bào chữa cho bản thân một cách mạnh mẽ với lý do là anh có những nhân chứng đảm bảo, rằng họ sẵn sàng chứng thực tính chính xác của trích dẫn này, và hình thức mà một ý tưởng được truyền đạt không liên quan đến tính đúng đắn của nó. Trên đà hùng biện, thí sinh này lập luận thêm rằng, trong luận án của mình, anh đã dẫn ra hơn 300 tài liệu tham khảo đến các công trình đã được xuất bản và rất khó có khả năng bất kỳ công trình nào trong số đó lại được các giám khảo kiểm tra độ chính xác. Từ đó, anh nêu lên câu hỏi, “Tại sao các ngài lại mặc định rằng, một trích dẫn được lấy ra từ văn bản là chính xác, trong khi một trích dẫn có tham chiếu là lời nói thì không?”
Lời phản hồi mà anh ta nhận được đại ý như sau: Bạn đã nhầm lẫn khi tin rằng, hình thức mà một ý tưởng được truyền đạt không liên quan đến tính đúng đắn của nó. Trong thế giới học thuật, những tác phẩm đã xuất bản được đầu tư hơn, uy tín và chân thực hơn lời nói miệng. Những gì mọi người nói thường được thốt ra một cách ngẫu nhiên hơn là những gì họ viết. Những dòng chữ viết ra đã được chính tác giả chiêm nghiệm kỹ càng và trau chuốt, cũng như được các cơ quan chức năng và các biên tập viên xem xét. Văn bản có độ khách quan cao hơn. Đó cũng là lý do tại sao mà trong luận án, bạn tự gọi mình là “người thực hiện nghiên cứu” chứ không nói tên của bản thân. Bởi vì bản chất của chữ viết là hướng đến thế giới, không phải hướng đến một cá nhân cụ thể. Đó là nguyên nhân vì sao chữ viết gần với sự thật hơn lời nói. Hơn nữa, chúng tôi chắc chắn bạn muốn hội đồng chúng tôi đưa ra một tuyên bố bằng văn bản, rằng bạn đã vượt qua phần kiểm tra của mình (nếu điều đó xảy ra) hơn là chúng tôi chỉ nói miệng với bạn rằng bạn đã sát hạch thành công. Tuyên bố bằng văn bản của chúng tôi đại diện cho “sự thật”, còn thỏa thuận miệng sẽ chỉ là
một tin đồn.
Thí sinh khôn ngoan kia không nói thêm gì về vấn đề này nữa, ngoại trừ việc bảo rằng anh ta sẽ thực hiện bất kỳ thay đổi nào mà hội đồng đề xuất.
Anh cũng thực sự mong muốn rằng, nếu như anh bảo vệ “miệng” thành công, một tài liệu bằng văn bản sẽ chứng thực điều đó. Anh ta sau cùng cũng vượt qua sát hạch và người ta cũng viết cho anh những điều anh mong muốn.
Ví dụ thứ 3 về tầm ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đối với nhận thức của ta có thể được rút ra từ phiên tòa xét xử Socrates vĩ đại. Khi Socrates bắt đầu bào chữa trước bồi thẩm đoàn gồm 500 người, ông nói lời xin lỗi vì không có một bài phát biểu được chuẩn bị kỹ lưỡng. Ông nói với những người anh em Athens của mình rằng, ông sẽ có những lúc ấp úng, nên ông cầu xin họ đừng cắt lời ông khi điều đó xảy ra, yêu cầu họ tôn trọng ông như cách họ tôn trọng một người lạ đến từ thành phố khác, và ông hứa rằng ông sẽ nói cho họ biết sự thật, không tô điểm, không hùng biện. Bắt đầu phát biểu theo cách này tất nhiên là phong cách đặc trưng của Socrates, nhưng không phải là điều đặc trưng trong thời đại của ông. Socrates biết rất rõ, những người anh em ở Athens của ông không coi các nguyên tắc hùng biện và sự diễn đạt chân lý là những điều tách biệt. Những người như chúng ta thấy lời bào chữa của Socrates rất thú vị, vì chúng ta đã quen nghĩ tài hùng biện là một sự trang trí cho lời nói - thường chỉ là lớp vỏ ngoài giả tạo và không cần thiết. Nhưng đối với những người đã phát minh ra thuật hùng biện, các triết gia Hy Lạp của thế kỷ V trước Công nguyên và những người thừa kế của họ, thì hùng biện không chỉ đơn thuần là một cơ hội để thực hiện những màn trình diễn ấn tượng, mà còn là một phương tiện gần như không thể thiếu để đưa ra những bằng chứng và lý lẽ, từ đó truyền đạt chân lý và sự thật.
Đây không chỉ là yếu tố then chốt trong nền giáo dục của người Athens (quan trọng hơn nhiều so với triết học) mà còn là một loại hình nghệ thuật ưu việt. Đối với người Hy Lạp, hùng biện là một dạng văn nói. Mặc dù nó luôn gắn với một màn thể hiện bằng lời nói miệng, nhưng sức mạnh của hùng biện trong việc phơi bày
chân lý lại nằm ở sức mạnh của ngôn từ được viết ra để trình bày các lập luận một cách có trật tự. Mặc dù bản thân Plato phản bác quan niệm về chân lý này, nhưng những người cùng thời với ông tin rằng, hùng biện là phương tiện thích hợp để “ý kiến đúng đắn” được khám phá và trình bày rõ ràng. Việc coi thường các quy tắc hùng biện, tức là chỉ nói ra những suy nghĩ của mình một cách ngẫu nhiên, không có điểm nhấn hay cảm xúc mãnh liệt, được coi là hạ thấp hiểu biết của khán giả và có dấu hiệu giả dối. Do đó, chúng ta có thể giả định rằng, lý do khiến nhiều người trong số 280 bồi thẩm viên bỏ phiếu rằng Socrates có tội là vì họ thấy cách hành xử của ông không phù hợp với một vấn đề đòi hỏi tính trung thực.
Điểm mà tôi đang lưu ý ở đây và các ví dụ trước đó là: Chân lý có sự gắn kết mật thiết với các thành kiến về hình thức diễn đạt. Chân lý chưa bao giờ hiện ra một cách trần trụi. Nó phải xuất hiện với một vẻ ngoài chuẩn chỉnh, nếu không nó sẽ không được ghi nhận. Đây chính là một cách để thể hiện rằng, “chân lý” là một loại định kiến văn hóa. Quan niệm về chân lý trong mỗi nền văn hóa được thể hiện dưới những hình thức biểu tượng nhất định (trong khi nền văn hóa khác có thể coi đó là những điều tầm thường). Đối với người Hy Lạp thời Aristotle, và trong 2.000 năm sau đó, những chân lý khoa học được khám phá bằng cách suy diễn bản chất của sự vật từ một tập hợp các tiền đề hiển nhiên. Theo quan điểm của Aristotle, phụ nữ có ít răng hơn nam giới và trẻ sơ sinh sẽ khỏe mạnh hơn nếu được thụ thai vào ngày có gió từ phương Bắc thổi tới. Aristotle đã 2 lần kết hôn, nhưng theo những gì chúng ta được biết, ông chưa từng đề nghị các bà vợ cho ông đếm răng của họ. Về ý kiến sản khoa của ông, chúng ta có thể khá chắc chắn rằng, ông không sử dụng bảng câu hỏi để khảo sát. Đối với ông, những hành động như vậy dường như vừa thô lỗ vừa không cần thiết, vì đó không phải là cách để xác định chân lý của sự việc. Phương pháp suy diễn cung cấp cho ông một con đường chắc chắn hơn.
Chúng ta không nên vội vàng chế nhạo những định kiến của Aristotle. Chúng ta cũng có rất nhiều định kiến, chẳng hạn như định kiến về phương trình mà con người hiện đại tạo ra. Trong định kiến này, chúng ta không khác gì mấy với Pythagores và những người tin theo ông ta, những người đã cố gắn kết vạn vật
trên đời với những con số. Thời nay, nhiều nhà tâm lý học, nhà xã hội học, nhà kinh tế học... sẽ dựa vào những con số để tìm ra chân lý và sự thật, nếu không thì họ sẽ không làm được gì cả. Bạn có thể tưởng tượng một nhà kinh tế học hiện đại lại trình bày thực trạng về mức sống của chúng ta bằng cách ngâm nga một bài thơ không? Hoặc bằng cách kể về những điều đã xảy ra với ông ta khi tản bộ buổi đêm ở miền Đông St. Louis? Hoặc bằng cách đưa ra một loạt các câu châm ngôn và truyện ngụ ngôn, bắt đầu bằng câu châm ngôn về người giàu, con lạc đà và cái lỗ kim? Cách đầu tiên sẽ bị coi là không phù hợp, cách thứ hai chỉ đơn thuần là kể ra một giai thoại, cách cuối cùng thì quá trẻ con. Tuy nhiên, những hình thức ngôn ngữ này chắc chắn có khả năng diễn đạt thực trạng về các mối quan hệ kinh tế, cũng như bất kỳ mối quan hệ nào khác, và thực sự đã được sử dụng bởi nhiều dân tộc khác nhau. Nhưng đối với tâm trí thời hiện đại đã quen với những phép ẩn dụ truyền thông, ta tin rằng sự thật trong kinh tế học sẽ được thể hiện tốt nhất bằng các con số.
Có lẽ quan điểm trên là chính xác. Tôi sẽ không tranh luận thêm về điều này. Tôi chỉ muốn mọi người chú ý đến một thực tế: đang tồn tại ít nhiều áp đặt khi nói đến hình thức được dùng để diễn đạt sự thật. Chúng ta phải nhớ rằng, Galileo chỉ nói ngôn ngữ của tự nhiên được viết bằng toán học. Ông ấy không nói tất cả mọi thứ đều được viết bằng toán học. Và ngay cả sự thật về tự nhiên cũng không cần được thể hiện bằng toán học. Trong phần lớn lịch sử loài người, ngôn ngữ của tự nhiên là ngôn ngữ của thần thoại và nghi lễ. Người ta có thể nói thêm rằng, những hình thức này khuyến khích con người trở thành một phần của tự nhiên. Thật không phù hợp một chút nào, khi một quốc gia sẵn sàng thổi tung hành tinh này lại nhiệt tình khen ngợi bản thân vì đã tìm ra cách đúng đắn để nói về tự nhiên.
Một số cách diễn đạt sự thật có thể tốt hơn những cách khác, do đó đem tới tác động lành mạnh hơn cho những nền văn hóa đang áp dụng cách diễn đạt ấy. Tôi hy vọng có thể thuyết phục bạn rằng, sự suy tàn của nhận thức luận gắn với văn viết và sự trỗi dậy kèm theo đó của nhận thức luận gắn với truyền hình đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống công chúng, khiến chúng ta trở nên ngu ngốc hơn theo từng phút. Đó là lý do tại sao tôi cần phải nhấn mạnh rằng, sức nặng được gán cho bất kỳ hình
thức diễn đạt sự thật nào cũng liên quan tới sức ảnh hưởng của phương tiện truyền thông. “Trăm nghe không bằng một thấy” - hay “thấy là tin” - luôn là một nguyên tắc có vị thế ưu việt, là chân lý của nhận thức. Còn vị thế của những điều như “nói là tin”, “đọc là tin”, “suy luận là tin”, “cảm nhận là tin”... đã trải qua nhiều thăng trầm khi sự thay đổi của các phương tiện truyền thông ảnh hưởng tới các nền văn hóa. Khi một nền văn hóa chuyển từ truyền miệng sang viết, văn bản in ấn rồi truyền hình, thì những quan niệm của nền văn hóa đó về sự thật cũng chuyển đổi theo. Như Nietzsche nhận xét, mọi triết lý đều chỉ là triết lý của một giai đoạn cuộc đời. Chúng ta có thể nói thêm rằng, mỗi nhận thức luận đều chỉ là nhận thức luận của một giai đoạn phát triển của phương tiện truyền thông. Sự thật, giống như thời gian, là sản phẩm của một cuộc độc thoại ở con người, thông qua các kỹ thuật giao tiếp mà người đó phát minh ra.
Trí thông minh được định nghĩa là khả năng của một người trong việc nắm bắt sự thật về mọi thứ. Trong mỗi một nền văn hóa, trí thông minh sẽ gắn với những đặc điểm của hình thức giao tiếp quan trọng trong nền văn hóa đó. Trong nền văn hóa truyền miệng thuần túy, trí thông minh thường gắn liền với sự khéo léo khi sử dụng những câu cách ngôn, tức là khả năng nghĩ ra những câu nói cô đọng và có thể áp dụng rộng rãi. Chúng ta được biết là vua Salomon thông tuệ biết tới 3.000 câu châm ngôn. Trong một nền văn hóa đề cao văn bản, những người biết nhiều câu châm ngôn lại bị cho là những kẻ kỳ quặc, thùng rỗng kêu to. Trong một nền văn hóa truyền miệng, người ta rất đề cao khả năng ghi nhớ, vì ở một nơi không có chữ viết, tâm trí con người phải vận hành như một thư viện di động. Quên mất cách nói hoặc làm một điều gì đó sẽ trở thành một mối nguy cho cộng đồng. Trong nền văn hóa của những tài liệu in ấn, việc ghi nhớ một bài thơ, một luật lệ hay bất cứ điều gì khác không có ý nghĩa gì đáng kể ngoài bộc lộ một chút tài lẻ. Chuyện ghi nhớ đó gần như không có tác dụng gì quan trọng và chắc chắn không được coi là một dấu hiệu của trí thông minh xuất sắc.
Có thể bất cứ ai đọc cuốn sách này cũng đã biết thế nào là trí thông minh trong một nền văn hóa in ấn, nhưng bạn sẽ còn ý thức được điều đó rõ hơn nữa khi ngẫm về những gì bạn cần làm để đọc cuốn sách này. Trước hết, bạn cần phải bất động ít nhiều trong
một thời gian khá dài. Nếu bạn không thể ngồi yên (khi đọc cuốn sách này hoặc bất kỳ cuốn sách nào khác), nền văn hóa của chúng ta có thể “dán nhãn” bạn là một kẻ tăng động hoặc vô kỷ luật - nói chung là một dạng khiếm khuyết trí tuệ. Văn hóa in ấn đưa ra những yêu cầu khá khắt khe đối với cơ thể cũng như tâm trí của chúng ta. Dù vậy, kiểm soát cơ thể của bạn chỉ là một yêu cầu tối thiểu. Bạn còn phải học cách không chú ý đến hình dạng của các con chữ trên trang giấy. Tức là bạn phải bỏ qua hình dạng chữ cái để đi thẳng vào ý nghĩa của những từ ngữ mà chữ cái tạo thành. Nếu quá bận tâm đến hình dạng của các chữ cái, bạn sẽ là một người đọc kém, có thể bị cho là ngu ngốc. Nếu đã học được cách hiểu ý nghĩa của các từ mà không còn bị yếu tố thẩm mỹ gây sao nhãng, bạn lại phải tiếp tục học cách duy trì thái độ khách quan, đảm bảo tư duy độc lập.
Điều này đòi hỏi bạn phải hoàn thành nhiệm vụ mà Bertrand Russell gọi là “khả năng miễn nhiễm với thuật hùng biện”, nghĩa là bạn phải phân biệt được sự quyến rũ và văn phong mượt mà (nếu có) của từ ngữ với logic lập luận mà những từ ấy đưa ra. Nhưng đồng thời, dựa vào giọng điệu của bài viết, bạn cũng phải rút ra được thái độ của tác giả đối với chủ đề đang được bàn tới, cũng như thái độ tác giả muốn bày tỏ với người đọc. Nói cách khác, bạn phải biết sự khác biệt giữa một lời nói đùa với một lập luận. Và để đánh giá chất lượng của một lập luận, bạn cần làm nhiều việc cùng một lúc: Bạn cần trì hoãn “phán quyết” cho đến khi toàn bộ lập luận kết thúc; hoãn lại việc đặt ra các câu hỏi cho đến khi bạn xác định được bài viết có trả lời thắc mắc cho bạn hay không, nếu có thì là ở dòng văn nào, thời điểm nào; đồng thời, bạn cần lấy những kinh nghiệm của bản thân để đối chiếu với bài viết, nhằm tiến hành tư duy phản biện với những điều tác giả đưa ra. Bạn cũng phải có khả năng kiềm chế, không đưa ra những kiến thức và kinh nghiệm không liên quan đến lập luận trong bài viết. Và để làm tất cả những điều này, bạn phải từ bỏ quan điểm cho rằng từ ngữ là một thứ kỳ diệu. Trên hết, bạn phải học cách tiếp nhận thế giới trừu tượng, vì có rất ít cụm từ và câu văn trong cuốn sách này gợi ra những hình ảnh cụ thể. Trong một nền văn hóa dựa vào tài liệu in ấn, thì khi giải thích gì đó cho những người không thông minh, chúng ta hay nói rằng mình phải “vẽ hẳn tranh ra” thì những người ấy mới hiểu được vấn đề. Điều đó ngụ ý rằng, một người thông minh có thể sống thoải mái mà không cần hình ảnh,
trong một lĩnh vực bao gồm nhiều khái niệm và sự khái quát hóa.
Ta cần hiểu rõ thế nào là trí thông minh trong một nền văn hóa mà các ý niệm về sự thật được dựa trên tài liệu in ấn. Trong những chương tiếp theo, ta sẽ biết được nước Mỹ vào thế kỷ XVIII và XIX có lẽ là nơi có nền văn hóa in ấn phát triển hơn cả. Nhưng tới thế kỷ XX, ý niệm của người Mỹ về sự thật và trí thông minh đã thay đổi do phương tiện truyền thông mới thay thế phương tiện cũ.
Nhưng tôi không muốn đơn giản hóa vấn đề quá mức cần thiết. Cụ thể, tôi muốn đưa ra 3 điểm để biện hộ cho bản thân trước những phản bác có thể đã nảy lên ở những người đọc cẩn thận.
Đầu tiên, tôi không quan tâm đến việc tuyên bố rằng: Những thay đổi về phương tiện truyền thông dẫn đến những thay đổi về cấu trúc tâm trí của con người, hoặc những thay đổi về năng lực nhận thức của họ. Đã có những người đưa ra tuyên bố như vậy (như Jerome Bruner, Jack Goody, Walter Ong, Marshall McLuhan, Julian Jaynes và Eric Havelock). Tôi nghĩ rằng họ đúng, nhưng tuyên bố đó không cần thiết đối với lập luận mà tôi trình bày trong cuốn sách này. Vì vậy, tôi sẽ không tự đặt gánh nặng lên vai mình và tranh luận xem có phải “người truyền miệng” thì kém thông minh hơn “người viết lách”, còn “người truyền hình” thì kém thông minh hơn cả hai nhóm người này hay không. Lập luận của tôi chỉ giới hạn ở việc nói rằng, một phương tiện mới có quy mô lớn sẽ làm thay đổi cấu trúc truyền thông. Phương tiện đó khuyến khích một số cách tư duy nhất định, ưu tiên một số định nghĩa nhất định về trí thông minh và sự khôn khéo, cũng như đẩy mạnh một loại nội dung nhất định. Nói tóm lại, phương tiện mới sẽ thay đổi cấu trúc truyền thông bằng cách tạo ra các hình thức mới để diễn đạt sự thật. Tôi không phải là người theo chủ nghĩa tương đối trong vấn đề này.
Tôi tin rằng, nhận thức luận do truyền hình tạo ra không chỉ thua kém hơn nhận thức luận dựa trên tài liệu in ấn, mà còn rất nguy hiểm và phi lý.
Điểm thứ hai là sự thay đổi về nhận thức luận mà tôi sẽ trình bày chi tiết vẫn chưa bao gồm (và có lẽ sẽ không bao giờ bao gồm)
tất cả mọi con người, mọi sự việc. Dù thực tế là một số phương tiện truyền thông cũ đã biến mất (ví dụ như hệ thống ngôn ngữ dựa trên hình vẽ [pictograph] và các cuốn sách “tỏa sáng” [illuminated manuscript][2]), các hình thức trò chuyện khác sẽ luôn tồn tại. Ví dụ như lời nói và chữ viết. Do đó, nhận thức luận của các hình thức mới như truyền hình không phải là hoàn toàn không có cạnh tranh.
Tôi thấy khá hữu ích khi ta nghĩ theo cách này: Những thay đổi trong môi trường biểu tượng[3] cũng giống như những thay đổi trong môi trường tự nhiên. Ban đầu sự thay đổi chỉ diễn ra dần dần, tích lũy từng chút một, nhưng sau đó, một cách đột ngột, sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất (nói theo cách của các nhà vật lý học). Một dòng sông bị ô nhiễm từ từ bỗng chốc trở nên cực kỳ độc hại; hầu hết cá ở đó bị chết và việc bơi lội ở dòng sông này sẽ gây hại cho sức khỏe. Nhưng ngay cả khi ấy, dòng sông vẫn là dòng sông và người ta vẫn có thể đi thuyền trên đó. Nói cách khác, ngay cả khi sự sống ở dòng sông bị hủy hoại, bản thân dòng sông vẫn không biến mất và nó cũng không mất hết công dụng, nhưng giá trị của nó bị giảm sút nghiêm trọng và tình trạng ô nhiễm của dòng sông sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ cảnh quan xung quanh. Môi trường biểu tượng của chúng ta cũng giống như vậy. Tôi tin rằng, sự thay đổi về lượng mà phương tiện truyền thông điện tử tạo ra đã dẫn tới sự thay đổi về chất không thể vãn hồi ở môi trường biểu tượng.
Hiện nay, chúng ta có một nền văn hóa mà thông tin, ý tưởng và nhận thức luận được đưa ra dưới dạng truyền hình, chứ không phải bằng chữ viết. Chắc chắn là mọi người vẫn đang đọc nhiều thứ và có nhiều cuốn sách được xuất bản, nhưng công dụng của tài liệu in ấn và việc đọc không còn giống như ngày xưa - ngay cả ở các trường học, thành lũy cuối cùng mà tài liệu in ấn được cho là bất khả chiến bại. Người ta chỉ đang tự lừa mình khi tin rằng truyền hình và sách vở cùng tồn tại, theo nghĩa “cùng tồn tại” là “có giá trị ngang nhau”. Không có sự ngang bằng ở đây. Tài liệu in ấn giờ đây chỉ đơn thuần là một nhận thức luận đang trên đà suy tàn, và nó sẽ tiếp tục ở trong trạng thái đó, cùng với sự hỗ trợ ít nhiều của máy tính, các tờ báo và tạp chí đã được thiết kế sao cho giống như màn hình ti vi. Giống như những con cá sống sót trên dòng sông nhiễm độc và những người chèo thuyền trên đó, trong
chúng ta vẫn còn những người mà ý thức của họ vẫn gắn với vùng nước cũ hơn, trong sạch hơn.
Điểm thứ ba là trong phép loại suy mà tôi đưa ra ở trên, dòng sông chủ yếu tượng trưng cho cái mà chúng ta gọi là hoạt động truyền thông công cộng - các hình thức thảo luận về chính trị, tôn giáo, tin tức và thương mại của chúng ta. Theo lập luận của tôi, nhận thức luận dựa trên truyền hình đang gây ô nhiễm cho hoạt động giao tiếp công cộng và những thứ liên quan, chứ không phải là nó khiến mọi thứ bị ô nhiễm. Ti vi mang tới niềm vui cho người lớn tuổi, người ốm yếu và tất cả những ai chỉ ngồi một mình trong nhà nghỉ. Tôi cũng nhận thức được tiềm năng của truyền hình trong việc đưa rạp hát đến với đông đảo dân chúng (một giá trị mà theo quan điểm của tôi là chưa được coi trọng đủ nhiều). Cũng có những ý kiến cho rằng, truyền hình có khả năng khơi gợi cảm xúc rất mạnh mẽ, khiến người xem nảy sinh tình cảm và muốn hành động để phản đối những cuộc chiến tranh, những sự phân biệt chủng tộc... Ta không thể coi nhẹ những điều này cũng như những ích lợi khác của truyền hình.
Nhưng vẫn còn một lý do khác khiến tôi không muốn mọi người nghĩ rằng tôi đang “tổng công kích” truyền hình. Bất cứ ai có chút hiểu biết về lịch sử truyền thông đều biết rằng, mọi công nghệ tư duy mới đều đòi hỏi một sự đánh đổi.
Nó cho ta thứ gì đó và sẽ tước đi thứ gì đó - hai thứ ấy chưa chắc đã có giá trị tương đương. Sự thay đổi về phương tiện truyền thông cũng vậy. Đôi khi những thứ nó tạo ra nhiều hơn những thứ nó phả hủy. Nhưng đôi khi, điều ngược lại xảy ra. Chúng ta phải cẩn thận trong việc khen ngợi cũng như lên án vì trong tương lai, những điều bất ngờ có thể xuất hiện. Chính việc phát minh ra máy in là một ví dụ điển hình. Công nghệ in ấn đã hình thành ý tưởng hiện đại về tính cá nhân, nhưng lại phá hủy ý thức cộng đồng và tinh thần hòa nhập thời Trung cổ. Chữ viết tạo ra các tác phẩm văn xuôi nhưng lại biến thơ ca thành một hình thức biểu đạt hiếm xuất hiện và thuộc về giới tinh hoa. Chữ viết đã mở đường cho khoa học hiện đại nhưng lại biến sự nhạy cảm tôn giáo thành mê tín dị đoan. Chữ viết giúp quốc gia - dân tộc phát triển, nhưng lại biến lòng yêu nước trở thành một thứ cảm xúc có thể gây chết người.
Hiển nhiên rằng, quan điểm của tôi là sự thống trị kéo dài 400 năm của chữ viết đem lại nhiều lợi ích hơn là gây hại. Hầu hết các ý tưởng hiện đại của chúng ta về việc sử dụng trí tuệ đều được hình thành từ tài liệu in ấn, cũng giống như các ý tưởng của ta về giáo dục, tri thức, sự thật và thông tin. Tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng, khi chữ viết di chuyển ra vùng ngoại vi của nền văn hóa còn truyền hình tiến vào vị trí trung tâm, thì tính nghiêm túc, sự rõ ràng và giá trị của hoạt động truyền thông sẽ giảm sút một cách nguy hiểm. Đây là một hành trình tìm hiểu mà chúng ta phải giữ tâm trí mình cởi mở.
Trong Autobiography of Benjamin Franklin (tạm dịch: Tự truyện
Franklin), có một đoạn trích dẫn đáng chú ý được cho là của Michael Waters, một người quen lâu năm của Franklin và là một trong những người sáng lập ra giáo phái Dunker. Welfare phàn nàn với Franklin rằng, nhiều người tin theo các tôn giáo khác đang lan truyền những lời dối trá về các thành viên của Dunker, cáo buộc nhóm Dunker tuân theo những nguyên tắc kinh tởm mà trên thực tế, họ hoàn toàn không hay biết gì về những “nguyên tắc” đó. Franklin gợi ý rằng, sự công kích đó có thể sẽ bớt đi nếu nhóm Dunker xuất bản các tài liệu trình bày niềm tin và các quy tắc kỷ luật của họ. Welfare trả lời rằng, ý tưởng đó đã được những tín hữu của ông thảo luận, nhưng cuối cùng đã bị phản bác. Ông giải thích lý do của họ như sau:
Khi chúng ta lần đầu tập hợp lại với nhau thành một đoàn hội, Chúa đã rất hài lòng khi tâm trí chúng ta được soi sáng và nhận thấy rằng, một số học thuyết mà ta từng coi là chân lý, thực chất đã sai lầm, còn những điều khác mà ta từng coi là sai lầm, hóa ra lại là chân lý. Đôi lúc, Ngài sẽ vui lòng đưa thêm cho ta ánh sáng, và những nguyên tắc của chúng ta sẽ được cải thiện, và những lỗi lầm của chúng ta cũng sẽ giảm đi. Bây giờ, chúng ta không chắc rằng ta đã đi đến cuối hành trình hay chưa, đã đạt đến sự hoàn thiện về kiến thức tâm linh và thần học hay chưa. Và chúng ta sợ rằng, nếu như chúng ta cảm thấy bản thân đã đi đến giới hạn và bị cầm tù bởi giới hạn, ta có lẽ sẽ không muốn tiến bộ hơn nữa, và suy nghĩ đó sẽ còn mạnh mẽ hơn ở những người kế tục ta. Họ cho rằng những người đi trước và những người sáng lập đã tạo nên những điều rất thiêng liêng, và họ không bao giờ được phép đi lệch khỏi những gì đã có.
Franklin mô tả cảm xúc này là một ví dụ hiếm thấy trong lịch sử nhân loại về sự khiêm nhường của một giáo phái. Khiêm nhường chắc chắn là tính từ hợp lý để sử dụng ở đây, nhưng tuyên bố trên còn rất ấn tượng vì những lý do khác. Ở đây, những người Dunker đã đưa ra một điều răn khi truyền bá tôn giáo: Ngươi đừng viết ra những nguyên tắc của mình, đừng in ra những ấn phẩm, kẻo ngươi sẽ bị mắc kẹt trong những thứ đó mãi mãi.
Dù thế nào, thật là một tổn thất đáng kể khi ta không nắm rõ chi tiết quá trình cân nhắc của nhóm Dunker. Điều đó chắc hẳn sẽ làm sáng tỏ tiền đề của cuốn sách này, rằng hình thức thể hiện các
ý tưởng sẽ ảnh hưởng đến tương lai của những ý tưởng đó. Điều quan trọng là, sự thảo luận của họ đã thể hiện sự không tin tưởng của nước Mỹ thời thuộc địa đối với các văn bản in ấn.
Chúng ta biết rằng, có không ít sách vở trên tàu Mayflower đi từ Anh đến Mỹ, quan trọng nhất là Kinh Thánh và cuốn Description of New England (tạm dịch: Tìm hiểu New England) của thuyền trưởng John Smith. (Đối với những người nhập cư hướng đến một vùng đất chủ yếu chưa được khai phá, chúng ta có thể đoán rằng cuốn sách của John Smith đã được đọc với sự tỉ mỉ tương đương những gì người ta dành cho Kinh Thánh.) Chúng ta cũng biết rằng, trong những ngày thuộc địa hóa đầu tiên, mỗi mục sư được cấp 10 bảng Anh để mở một thư viện tôn giáo. Và mặc dù rất khó đánh giá tỷ lệ biết chữ, nhưng cũng có đủ bằng chứng để kết luận rằng, từ năm 1640 đến năm 1700, tỷ lệ biết chữ của nam giới ở Massachusetts và Connecticut là khoảng từ 89% đến 95% - vào thời kỳ đó, hiếm có nơi nào trên thế giới lại tập trung nhiều nam giới biết chữ như vậy. (Tỷ lệ biết chữ của phụ nữ ở các thuộc địa đó ước tính đạt 62% trong giai đoạn 1681-1697.)
Cần phải hiểu rằng, đọc Kinh Thánh là việc quan trọng hàng đầu ở tất cả các hộ gia đình, vì những người này theo đạo Tin Lành, có cùng niềm tin với Luther rằng công nghệ in ấn là “hành động ân điển cao nhất của Đức Chúa Trời, nhờ đó việc truyền bá phúc âm được thúc đẩy”. Tất nhiên, việc truyền bá phúc âm còn có thể được thúc đẩy bởi những cuốn sách khác ngoài Kinh Thánh, chẳng hạn như cuốn sách nổi tiếng Bay Psalm Book (tạm dịch: Sách Psalm vùng Vịnh), được in năm 1640 và thường được coi là cuốn sách bán chạy đầu tiên của Mỹ. Nhưng không nên cho rằng những người này chỉ giới hạn việc đọc trong lĩnh vực tôn giáo. Hồ sơ về các di chúc cho thấy rằng, 60% điền trang ở hạt Middlesex từ những năm 1654 đến 1699 đều có sách. Từ năm 1682 đến 1685, nhà bán sách hàng đầu ở Boston đã nhập 3.421 cuốn sách từ một đại lý Anh quốc, hầu hết là những cuốn sách nằm ngoài chủ đề tôn giáo. Thực tế này còn thêm phần ý nghĩa khi ta biết rằng, những cuốn sách trên được dành cho khoảng 75.000 người khi đó đang sống ở các thuộc địa phía Bắc.
Ngoài thực tế là những người Thanh giáo theo chủ nghĩa Calvin buộc phải biết chữ (vì yêu cầu của tôn giáo), còn 3 yếu tố khác
giải thích cho sự quan tâm của những thực dân đối với tài liệu in ấn. Vì tỷ lệ nam giới biết chữ ở Anh vào thế kỷ XVII không vượt quá 40%, nên chúng ta có thể giả định rằng, những người di cư đến New England đều xuất thân từ các khu vực có nền giáo dục phát triển ở Anh hoặc từ các nhóm dân số có học, hoặc cả hai. Nói cách khác, họ đến đây với tư cách là những độc giả và tin rằng việc đọc sách ở Tân Thế giới cũng quan trọng như ở Cựu Thế giới. Thứ hai, từ năm 1650 trở đi, hầu như tất cả các thị trấn ở New England đều thông qua luật yêu cầu phải duy trì một trường dạy “đọc và viết”. Ngoài ra, các cộng đồng lớn cũng cần phải có một trường dạy ngữ pháp. Trong tất cả các luật này, Satan xấu xa đều bị nhắc tới, rằng sức mạnh của hắn sẽ bị tước đi trước quyền năng của giáo dục. Nhưng vẫn có những lý do khác để giải thích cho việc tại sao giáo dục phải tồn tại, theo như một lời ca phổ biến vào thế kỷ XVII:
Từ những mái trường, dòng suối tri thức sẽ mãi mãi chảy trôi
Vì quyền được biết, được học hỏi của mọi người là lẽ thiêng liêng cao đẹp.
Nói cách khác, những người này có nhiều mục tiêu hơn là khuất phục Satan. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một sự thay đổi đáng kể về nhận thức luận đã diễn ra, theo đó mọi dạng tri thức được truyền tải và thể hiện qua những trang giấy in. “Hơn bất kỳ phương thức nào”, Lewis Mumford viết về sự thay đổi này, “cuốn sách in đã giải phóng mọi người khỏi sự thống trị của cái tức thời và cái cục bộ... Một ấn phẩm giúp ta vượt ra khỏi các sự kiện xung quanh... Ta tồn tại trong những cuốn sách, và phần còn lại của thế giới dần trở nên mờ ảo. Học tập chính là học qua sách”. Như vậy, chúng ta có thể cho rằng, việc học hành của thanh niên không chỉ là nghĩa vụ đạo đức mà còn là mệnh lệnh trí tuệ. (Nước Anh quê hương họ là một hòn đảo có rất nhiều trường học. Ví dụ, tính đến năm 1660, đã có 444 trường học ở Anh, mỗi trường cách nhau gần 20km). Hiển nhiên rằng, tỷ lệ biết chữ gia tăng có mối liên hệ chặt chẽ với việc đi học. Ở những nơi không bắt buộc đi học (như ở đảo Rhode) hoặc các luật về giáo dục còn chưa phổ biến (như ở New Hampshire), tỷ lệ biết chữ tăng chậm hơn những nơi khác.
Cuối cùng, những người Anh di cư này không cần phải in sách
hay nuôi dưỡng các nhà văn của riêng mình, mà họ đưa nguyên truyền thống văn học tinh tế từ quê hương tới Mỹ. Năm 1736, những cơ sở bán sách đã quảng cáo rằng họ sẵn có các tờ báo như Spectator, Tatler và Guardian. Năm 1738, xuất hiện quảng cáo cho các tác phẩm như Essay Concerning Human Understanding (tạm dịch: Luận về sự hiểu biết của con người) của Locke, Homer của Pope, A Tale of a Tub (tạm dịch: Truyện về cái thùng) của Swift và Fables (tạm dịch: Truyện ngụ ngôn) của Dryden. Timothy Dwight, chủ tịch Đại học Yale, đã mô tả thực tế ở Mỹ khi ấy một cách ngắn gọn:
Sách thuộc hầu hết mọi thể loại, về hầu hết mọi chủ đề, đều đã tới tay chúng ta. Về khía cạnh này, thực tế diễn ra tại nước ta là điều hiếm thấy. Vì chúng ta nói cùng một ngôn ngữ với người dân Vương quốc Anh và căn bản có mối giao hảo yên ả với đất nước đó, việc giao thương giữa ta với họ giúp sách vở ngập tràn nước Mỹ. Chúng ta có một lượng lớn sách vở về nghệ thuật, khoa học và nhiều lĩnh vực khác để đáp ứng nhu cầu của mình.
Một điểm quan trọng của thực tế này là không tồn tại tầng lớp quý tộc văn chương ở nước Mỹ thuộc địa. Đọc sách không được coi là một hoạt động tinh hoa, và những ấn phẩm được phổ biến một cách bình đẳng cho tất cả mọi người. Một nền văn hóa đọc không phân chia đẳng cấp đã phát triển mạnh mẽ, theo như Daniel Boorstin viết, “Nó lan tỏa khắp chốn. Trung tâm của nó ở khắp mọi nơi bởi nó không thực sự cố định ở đâu cả. Mọi người đều gần gũi với những gì được nói trong các ấn phẩm. Mọi người đều có thể nói cùng một ngôn ngữ. Đây là sản phẩm của một xã hội nhân dân, bận rộn và linh hoạt”. Đến năm 1772, Jacob Duché viết: “Người lao động nghèo nhất ở bờ biển Delaware nghĩ rằng, anh ta cũng có quyền tự do thể hiện cảm xúc của mình đối với các vấn đề tôn giáo hoặc chính trị không khác gì một quý ông, một học giả... Đây chính là khi sách vở được phổ biến đến tất cả mọi người, khi hầu như mọi cá nhân đều là người đọc sách”.
Ở một nơi mà sở thích đọc sách thịnh hành như vậy trong dân chúng, chúng ta không cần quá ngạc nhiên khi biết rằng, tác phẩm Common Sense (Lẽ thường) của Thomas Paine, xuất bản vào ngày 10 tháng 1 năm 1776, đã bán được hơn 100.000 bản vào tháng 3
cùng năm. Vào năm 1985, một cuốn sách sẽ phải bán được 8 triệu bản (trong 2 tháng) để tương ứng với độ thu hút này (xét tới sự thay đổi về dân số). Nếu chúng ta tính xa hơn tháng 3 năm 1776, Howard Fast còn đưa ra những số liệu ấn tượng hơn: “Không ai biết chính xác có bao nhiêu bản sao đã được in ra. Các nguồn thận trọng nhất ước tính là hơn 300.000 bản. Những nguồn khác cho rằng con số lên tới gần nửa triệu. Giả sử cuốn sách được in 400.000 bản, thì xét trên tỷ lệ dân số 3.000.000 người lúc đó, nó sẽ tương đương với một cuốn sách bán được 24.000.000 bản thời nay [1961]. Hiện tại, sự kiện truyền thông duy nhất có thể tạo ra sự chú ý đông đảo như vậy ở Mỹ là Super Bowl.
Ở đây, ta nên dừng lại một chút để nói về Thomas Paine, vì ông chính là minh chứng cho trình độ dân trí cao trên diện rộng thời đó. Cụ thể, tôi muốn lưu ý rằng, mặc dù có xuất thân khiêm tốn, nhưng Paine chưa từng bị ai chất vấn rằng liệu ông có thực sự là tác giả của những tác phẩm (được cho là) do ông viết hay không (Shakespeare từng phải đối diện với nghi vấn như vậy). So với Shakespeare, chúng ta biết nhiều điều hơn về cuộc đời của Paine. Thomas Paine quả thật không được học tập chính quy nhiều như Shakespeare, và ông xuất thân từ tầng lớp lao động thấp nhất trước khi tới nước Mỹ. Bất chấp những nhược điểm này, Paine đã viết về triết học chính trị và có những tranh luận sánh ngang về tính minh bạch và sức sống (dù không phải về số lượng) với các tác phẩm của Voltaire, Rousseau cũng như các triết gia Anh đương đại, bao gồm cả Edmund Burke. Tuy nhiên, không ai đặt câu hỏi rằng, làm thế nào mà một thợ may yếm nịt, không được học hành và đến từ tầng lớp nghèo khó của nước Anh lại có thể tạo ra những áng văn xuôi đáng kinh ngạc đến vậy? Đôi khi, nền tảng giáo dục khiêm tốn của Paine bị những kẻ đối địch nhắm đến (và bản thân ông cũng cảm thấy mình kém cỏi vì sự thiếu hụt này), nhưng người ta không bao giờ nghi ngờ rằng, khả năng viết văn tài tình có thể bắt nguồn từ một người đàn ông bình phàm.
Cũng cần nhắc lại tên đầy đủ của cuốn sách được đọc nhiều nhất của Paine: tác phẩm Common Sense, Written by an Englishman (Lẽ thường, được viết bởi một người Anh). Dòng “được viết bởi một người Anh” rất quan trọng, vì như đã lưu ý trước đó, người Mỹ không viết nhiều sách trong thời kỳ thuộc địa - điều mà Benjamin Franklin đã cố giải thích bằng cách tuyên bố rằng người
Mỹ còn quá bận rộn làm những việc khác. Có lẽ đúng là vậy thật. Nhưng người Mỹ không bận rộn đến mức không dùng được máy in (dù không phải để in những cuốn sách do người Mỹ viết). Chiếc máy in đầu tiên ở Mỹ được sử dụng vào năm 1638 để hỗ trợ cho Đại học Harvard, lúc đó mới được 2 năm tuổi. Ngay sau đó, hoạt động in ấn diễn ra ở Boston và Philadelphia mà không vấp phải sự phản đối của Hoàng gia, một thực tế đáng ngạc nhiên vì tại thời điểm ấy, người ta không được phép dùng máy in ở Liverpool và Birmingham, cũng như nhiều thành phố Anh quốc khác. Tính năng được tận dụng sớm nhất của máy in là để in các bản tin, chủ yếu sử dụng loại giấy rẻ tiền. Sự phát triển chậm chạp của nền văn học Mỹ không liên quan tới sự chăm chỉ của con người hay sự sẵn có của văn học Anh, mà bởi sự khan hiếm của giấy chất lượng cao. George Washington đã buộc phải ghi những thông tin quan trọng cho tướng lĩnh của mình trên những mảnh giấy xấu xí, và các tài liệu của ông không được đựng trong phong bì, bởi giấy quá khan hiếm để sử dụng cho một việc như vậy.
Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XVII, nền văn học bản địa dần xuất hiện. Ngày 25 tháng 9 năm 1690, tại Boston, Benjamin Harris in ấn bản đầu tiên của một tờ báo dài 3 trang mà ông gọi là Publick Occurrences Both Forreign and Domestick. Trước khi tới Mỹ, Harris đã tham gia “phơi bày” âm mưu của dân Công giáo: tàn sát người Tin lành và thiêu hủy London (âm mưu này thực ra không tồn tại). Harris, không xa lạ gì với những trò dối trá, đã đưa ra những lời sau khi viết quảng bá cho tờ Publick Occurrences: Đây là một tờ báo cần thiết để chống lại sự dối trá đang tràn ngập Boston. Ở cuối bài viết, ông kết luận: “Sẽ không ai không thích tờ báo này, ngoại trừ những kẻ cảm thấy tội lỗi vì đã gây nên những tội ác tàn bạo”. Đúng là có những người không thích tờ báo của Harris. Số thứ hai của tờ Publick Occurrences không bao giờ xuất hiện. Do đó, cuộc đấu tranh giành quyền tự do thông tin bắt đầu nổ ra ở Tân Thế giới - điều đã xuất hiện ở Cựu Thế giới từ một thế kỷ trước.
Nỗ lực chết yểu của Harris đã truyền cảm hứng để nhiều tờ báo khác được xuất bản. Ví dụ, tờ Boston News-Letter, ra mắt năm 1704, thường được coi là tờ báo đầu tiên của Mỹ được xuất bản liên tục. Tiếp theo là tờ Boston Gazette (năm 1717) và tờ New-England Courant (năm 1717) với người chủ bút, James Franklin, là anh trai của Benjamin. Đến năm 1730, có 7 tờ báo được xuất bản thường
xuyên ở 4 thuộc địa, và đến năm 1800 đã có hơn 180 tờ. Năm 1770, tờ New York Gazette đã tự vinh danh chính nó và các tờ báo khác như sau:
Báo chí là dòng suối Tri thức,
Là nguồn thông tin xuyên suốt đất nước này,
Về mọi cuộc thảo luận hiện đại và mới mẻ.
Vào cuối thế kỷ XVIII, mục sư Samuel Miller hãnh diện khoe rằng, số lượng đầu báo ở Mỹ nhiều hơn 2/3 số lượng đầu báo ở Anh, nhưng dân số Mỹ chỉ bằng một nửa nước Anh.
Năm 1786, Benjamin Franklin quan sát thấy rằng, người Mỹ quá bận rộn với việc đọc báo và những cuốn pamphlet[4] đến nỗi họ hiếm có thời gian dành cho sách. (Nhưng họ dường như luôn có thời gian dành cho cuốn American Spelling Book [tạm dịch: Chính tả kiểu Mỹ] của Noah Webster, vì nó đã bán được hơn 24 triệu bản trong giai đoạn từ năm 1783 đến 1843. Ta không nên bỏ qua lưu ý của Franklin về những tập pamphlet. Sự phổ biến của báo chí ở tất cả các thuộc địa đi kèm với sự xuất hiện rộng khắp của các tập pamphlet và những tờ broadside[5]. Alexis de Tocqueville lưu ý đến thực tế này trong cuốn sách Democracy in America (tạm dịch: Nền dân chủ Mỹ) xuất bản năm 1835: “Ở Mỹ, các đảng phái không viết sách để phản bác quan điểm của nhau, mà họ xuất bản những tập pamphlet - loại tài liệu được lan tỏa trong một ngày với tốc độ nhanh đáng kinh ngạc và sau đó hết giá trị thông tin”. Ông có ý nhắc đến cả báo chí lẫn pamphlet khi đưa ra nhận xét sau: “Việc phát minh ra súng ống đã khiến những kẻ lệ thuộc trở nên ngang hàng với tầng lớp quý tộc trên chiến trường, nghệ thuật in ấn giúp mọi tầng lớp được tiếp cận với cùng một nguồn tri thức, bưu điện vận chuyển cùng một loại thông tin tới tận cửa mái nhà tranh cũng như cánh cổng cung điện”.
Vào thời điểm Tocqueville đang đưa ra các nhận xét về nước Mỹ, việc in ấn đã lan rộng đến tất cả các vùng miền của đất nước. Miền Nam chậm hơn so với miền Bắc, không chỉ trong việc hình thành các trường học mà còn ở việc sử dụng máy in. Trước năm
1736, ở Virginia không có tờ báo nào được xuất bản định kỳ cho đến khi tờ Virginia Gazette ra đời. Nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, tốc độ thể hiện quan điểm thông qua tài liệu in ấn diễn ra tương đối nhanh chóng. Ví dụ, tuyển tập Federalist Papers (tạm dịch: Những bài báo liên bang) gồm tổng cộng 85 bài luận của Alexander Hamilton, James Madison và John Jay (tất cả đều dưới bút danh Publius). Ban đầu, những bài viết này xuất hiện trên một tờ báo ở New York trong giai đoạn 1787-1788, nhưng được đọc rộng rãi ở miền Nam cũng như miền Bắc.
Khi nước Mỹ bước sang thế kỷ XIX, mọi vùng miền của nó đã hình thành một nền văn hóa hoàn toàn dựa trên các tài liệu in ấn. Từ năm 1825 đến 1850, số lượng người đăng ký đến thư viện đọc sách đã tăng gấp 3 lần. Cái gọi là “thư viện thợ máy và người học việc” - nghĩa là thư viện dành cho giai cấp công nhân - cũng nổi lên như một yếu tố thúc đẩy dân trí. Vào năm 1829, Thư viện Người học việc ở New York có 10.000 cuốn sách, phục vụ 1.600 người học việc. Đến năm 1857, thư viện này phục vụ 750.000 người. Được Quốc hội hỗ trợ hạ giá cước bưu điện vào năm 1851, mọi người có thể dễ dàng tiếp cận các tờ báo giá 1 xu, ấn phẩm xuất bản định kỳ, tài liệu tôn giáo và những cuốn sách đóng bìa giá rẻ. Từ năm 1836 đến năm 1890, 107 triệu bản in McGuffey Reader[6] đã được phân phối đến các trường học.
Và mặc dù việc đọc tiểu thuyết không được coi là một cách sử dụng thời gian thật sự hữu ích, người Mỹ vẫn say sưa đọc. Về các tiểu thuyết của Walter Scott, được xuất bản từ năm 1814 đến năm 1832, Samuel Goodrich viết: “Việc Walter Scott ra tiểu thuyết mới sẽ khiến nước Mỹ sôi sục hơn cả những trận chiến của Napoléon... Tất cả mọi người đều đọc những tác phẩm này, tất cả mọi người - từ những cá nhân trí thức nhất đến những cá nhân giản dị nhất”. Các nhà xuất bản rất nóng lòng muốn cung cấp những cuốn sách có tiềm năng bán chạy. Đôi khi, họ gửi tin báo đến các tàu thuyền chở hàng, cho biết rằng, chỉ trong vòng một ngày, tiểu thuyết mới nhất của Bulwer hoặc Dickens đã bị sao chép thành rất nhiều bản. Không có luật bản quyền quốc tế, những bản in vi phạm bản quyền tràn lan mà không có lời phàn nàn nào từ công chúng hay các tác giả được đối đãi như danh nhân. Khi Charles Dickens đến thăm Mỹ vào năm 1842, người ta tiếp đón ông giống như cách ta tung hô các ngôi sao truyền hình, siêu sao bóng bầu dục và Michael
Jackson ngày nay. “Tôi không thể tả cho anh sự chào đón mà tôi nhận được”, Dickens viết cho một người bạn. “Chưa bao giờ có một vị vua hay hoàng đế nào trên trái đất lại được đám đông tung hô đến vậy, được tiếp đón ở những buổi dạ hội và những bữa tiệc tối lộng lẫy, được các cơ quan công quyền nhiều nơi chờ đợi.... Nếu tôi đi ra ngoài bằng xe ngựa, đám đông sẽ vây quanh và hộ tống tôi về nhà. Nếu tôi đi tới rạp hát, tất cả mọi người sẽ đồng loạt đứng lên”. Một người phụ nữ bản địa, Harriet Beecher Stowe, không được chú ý đến như vậy - và tất nhiên, ở miền Nam, nếu như xe ngựa của bà ấy bị đám đông bao quanh, đám đông đó sẽ không đưa bà ấy về nhà. Tuy nhiên, cuốn Uncle Tom’s Cabin (Túp lều bác Tom) của bà ấy đã bán được 305.000 bản trong năm đầu tiên xuất bản, tương đương với doanh số 4 triệu bản ở Mỹ ngày nay.
Alexis de Tocqueville không phải là vị khách nước ngoài duy nhất bị ấn tượng bởi sự say mê của người Mỹ với các ấn phẩm. Trong suốt thế kỷ XIX, rất nhiều người Anh đã đến Mỹ để tận mắt chứng kiến điều gì đang diễn ra ở các thuộc địa. Tất cả bọn họ đều ấn tượng với trình độ văn hóa cao và đặc biệt là độ phổ biến của việc đọc đến tất cả các tầng lớp dân chúng.
Ngoài ra, họ cũng rất ngạc nhiên trước độ phủ rộng rãi của các giảng đường, tại đó hoạt động diễn thuyết tiếp tục củng cố cho truyền thống học hỏi dựa trên văn bản. Nhiều giảng đường là kết quả của phong trào Lyceum, một hình thức giáo dục dành cho người lớn. Thường gắn với những nỗ lực của Josiah Holbrook, một nông dân New England, phong trào Lyceum có mục đích là truyền bá kiến thức, phát triển các trường học phổ thông, thành lập các thư viện và đặc biệt là tổ chức các giảng đường. Đến năm 1835, đã có hơn 3.000 Lyceum (giảng đường) ở 15 tiểu bang. Hầu hết các giảng đường này nằm ở phía đông Allegheny, nhưng đến năm 1840, những không gian truyền bá kiến thức này còn xuất hiện ở Iowa và Minnesota. Trong một chuyến đi xuyên Mỹ, Alfred Bunn, một người Anh, đã nhận xét như sau vào năm 1853: “Thực chất là mỗi ngôi làng đều có giảng đường”. Ông nói thêm: “Thật là một điều đáng kinh ngạc... khi chứng kiến những người thợ trẻ, thợ thủ công, nữ công nhân nhà máy... gấp gáp hòa mình vào bầu không khí sôi nổi của giảng đường đông đúc sau khi một ngày làm việc mệt mỏi kết thúc”. Người đồng hương của Bunn, J. F. W.
Johnston, đã dự những buổi diễn giảng tại Viện Smithsonian và “nhận thấy các giảng đường luôn chật cứng, với sức chứa lên tới 1.200 hay 1.500 người”. Trong số các giảng viên, nhiều người là những trí thức, nhà văn và các cây viết hóm hỉnh hàng đầu trong thời đại của họ. Có thể kể tới Henry Ward Beecher, Horace Greeley, Louis Agassiz và Ralph Waldo Emerson (họ được trả phí 50 đô la khi tới diễn giảng).
Trong cuốn tự truyện của mình, Mark Twain dành 2 chương để kể về trải nghiệm khi là một giảng viên tại Lyceum. Ông viết: “Tôi bắt đầu làm giảng viên vào năm 1866 ở California và Nevada. Tôi đã giảng ở New York một lần và ở thung lũng Mississippi một vài lần. Năm 1868, tôi đã giảng ở toàn bộ khu vực phía Tây và trong 2 hay 3 mùa tiếp theo, tôi đã thêm được các vùng phía Đông vào tuyến giảng dạy của mình”. Có vẻ là Emerson đã bị trả lương thấp hơn kể từ khi Twain nhận xét rằng, một số giảng viên tính phí tới 250 đô la khi họ nói chuyện ở thị trấn và 400 đô la khi họ nói chuyện ở thành phố (theo điều kiện ngày nay, con số đó gần như bằng giá một bài giảng của một phát thanh viên truyền hình đã nghỉ hưu).
Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận là, đến thế kỷ XIX, giống như mọi xã hội khác mà ta biết, nước Mỹ đã trở thành một nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tài liệu in ấn cũng như những cuộc diễn giảng dựa trên tài liệu in ấn. Như Richard Hofstadter nhắc nhở chúng ta, nước Mỹ được thành lập bởi những người trí thức - một điều hiếm khi xảy ra trong lịch sử của các quốc gia hiện đại. Ông viết: “Những Kiến quốc phụ là những nhà hiền triết, những nhà khoa học, những người hiểu biết sâu rộng. Nhiều người trong số họ học tập theo phong cách cổ điển, tận dụng kinh nghiệm đọc dày dạn của mình vào các khía cạnh lịch sử, chính trị và pháp luật để giải quyết các vấn đề cấp bách của thời đại”.
Ảnh hưởng của tài liệu in ấn trong mọi lĩnh vực truyền thông diễn ra liên tục và mạnh mẽ không chỉ vì số lượng ấn phẩm mà còn vì vị thế độc tôn của nó. Không thể không nhấn mạnh điểm này, đặc biệt là đối với những người không muốn thừa nhận những khác biệt sâu sắc trong môi trường truyền thông thời bấy giờ và hiện tại. Chẳng hạn, đôi khi ta nghe người ta nói rằng: Ngày nay, chúng ta có nhiều tài liệu in ấn hơn bao giờ hết. Đây chắc
chắn là một nhận định chính xác. Nhưng từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, về cơ bản, tài liệu in ấn là tất cả những gì chúng ta có. Không có phim để xem, đài để nghe, hình ảnh để ngắm nhìn, bản ghi âm để phát. Không có ti vi. Những hoạt động hướng tới công chúng được thể hiện thông qua các ấn phẩm - do đó tài liệu in ấn trở thành hình mẫu, những phép ẩn dụ và cả thước đo cho mọi hoạt động truyền thông. Sự cộng hưởng của cấu trúc tuyến tính, thiên về phân tích của tài liệu in ấn - nhất là các tài liệu chuyên cung cấp tin tức và kiến thức - có thể được cảm nhận ở khắp mọi nơi, ví dụ như ngay trong cách mọi người nói chuyện. Tocqueville nhận xét về điều này trong Democracy in America: “Một người Mỹ không thể trò chuyện với bạn, nhưng anh ta có thể thảo luận với bạn, và bài nói của anh giống như một bài luận văn. Anh nói chuyện với bạn như thể anh đang phát biểu trong một cuộc họp; và nếu có cơ hội bày tỏ sự thân tình trong cuộc thảo luận, anh ta sẽ gọi người mà anh đang trò chuyện là ‘Quý ông’”.
Hành vi kỳ quặc này không mấy liên quan đến tính cách cố chấp của một người Mỹ, mà chủ yếu phản ánh việc anh ta có phong cách trò chuyện dựa trên cấu trúc của tài liệu in ấn. Vì tài liệu in ấn không mang tính cá nhân và hướng đến một độc giả vô hình, nên những gì Tocqueville đang mô tả ở đây là một dạng “nói ra tiếng tài liệu in ấn” - ta có thể quan sát hiện tượng này ở nhiều hình thức truyền miệng. Chẳng hạn, trên bục giảng kinh, các bài giảng đạo thường là những bài diễn văn có giọng điệu trang nghiêm, không có tính cá nhân. Ngay cả trong thời kỳ Đại Tỉnh thức - một phong trào phục hưng đức tin phản đối việc giảng đạo nặng tính phân tích và quá bình đạm, thì những nhà thuyết giáo nhiệt thành nhất của phong trào này cũng sử dụng một bài diễn thuyết có thể dễ dàng chuyển đổi sang tài liệu in ấn. Người có bài giảng lôi cuốn nhất thời đó là mục sư George Whitefield, người bắt đầu thuyết giảng trước những đám đông trên khắp nước Mỹ từ năm 1739. Tại Philadelphia, ông nói chuyện với một một đám đông gồm 10.000 người - những cá nhân đã bị kích động khi Whitefield tuyên bố rằng, họ sẽ vĩnh viễn bị thiêu cháy trong lửa địa ngục nếu họ không tin vào Đấng Cứu thế. Benjamin Franklin đã chứng kiến một buổi giảng của Whitefield và đề nghị giúp ông xuất bản sách. Sau đó, các bài viết và bài giảng của Whitefield đã được Franklin xuất bản tại Philadelphia.
Tuy nhiên, tài liệu in ấn không chỉ ảnh hưởng đến hình thức của hoạt động truyền thông. Điều đó sẽ không có ý nghĩa gì đáng kể nếu như chúng ta không xét đến kết nối quan trọng hơn, rằng hình thức truyền thông sẽ xác định bản chất của nội dung. Karl Marx hiểu rõ rằng, ngành in ấn không chỉ đơn thuần xoay quanh một cỗ máy, mà đó là một cấu trúc truyền thông. Nó vừa loại bỏ một số kiểu nội dung, vừa tạo điều kiện để những nội dung nhất định phát triển, từ đó ưu tiên nhóm công chúng phù hợp với kiểu nội dung được đẩy mạnh. Bản thân ông không khám phá đầy đủ vấn đề này và nhiệm vụ được chuyển giao cho những người khác. Bản thân tôi cũng phải thử sức, để khám phá cách tài liệu in ấn hoạt động như một phép ẩn dụ và nhận thức luận đã tạo ra những hoạt động truyền thông lý trí như thế nào - chúng ta ngày nay không còn như vậy nữa.
Cuộc tranh luận đầu tiên trong số 7 cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Abraham Lincoln và Stephen A. Douglas diễn ra vào ngày 21 tháng
8 năm 1858, tại Ottawa, Illinois. Douglas sẽ phát biểu trước, trong 1 giờ; sau đó Lincoln có 1 giờ và 30 phút để phản hồi; và Douglas tiếp tục có nửa giờ nữa để phản biện phần phản hồi của Lincoln. Màn tranh luận này ngắn hơn đáng kể so với những gì từng diễn ra trước đây giữa hai người đàn ông này. Họ thực ra đã tranh luận với nhau vài lần trước đó, và tất cả những lần đối đầu đó đều kéo dài và mệt mỏi. Ví dụ, vào ngày 16 tháng 10 năm 1854, tại Peoria, Illinois, Douglas có một bài diễn văn dài 3 giờ dành cho Lincoln, và theo thỏa thuận, Lincoln phải đưa ra phản hồi. Khi đến lượt Lincoln, ông nhắc khán giả rằng lúc đó đã là 5 giờ chiều, và ông ấy có thể sẽ phải trình bày với thời gian tương tự như Douglas, rồi Douglas sau đó sẽ còn lên tiếng phản biện. Do vậy, Lincoln đề nghị khán giả hãy về nhà, ăn tối và trở lại để lắng nghe 4 giờ đồng hồ đàm luận nữa. Khán giả đồng ý một cách
vui vẻ và mọi thứ diễn ra theo như kế hoạch mà Lincoln đề xuất.
Đây là kiểu khán giả gì vậy? Những người này là ai mà có thể vui vẻ lắng nghe 7 giờ đồng hồ diễn thuyết? Nhân tiện, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, Lincoln và Douglas không phải là ứng cử viên tổng thống. Tại thời điểm làm việc tại Peoria, họ thậm chí còn không phải là ứng cử viên cho Thượng viện Mỹ. Nhưng khán giả của họ không bận tâm đến những thứ như địa vị chính thức. Đây là những người coi những sự kiện tranh luận là cần thiết để được giáo dục về chính trị, là một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội của họ. Nhóm khán giả này đã quen với những màn diễn thuyết kéo dài như vậy. Chương trình hội chợ của hạt hoặc tiểu bang thường có nhiều diễn giả tham gia, hầu hết bọn họ dành ra 3 giờ cho phần trình bày của mình. Ngoài ra, vì người ta không muốn diễn giả nêu lên vấn đề mà không được phản hồi, nên các đối thủ của họ cũng sẽ trình bày trong quãng thời gian tương tự. (Có thể nói thêm rằng, các diễn giả không phải lúc
nào cũng là nam giới. Tại một hội chợ kéo dài vài ngày ở Springfield, vào mỗi buổi tối, một phụ nữ đã thuyết trình về “Ảnh hưởng của phụ nữ trong các phong trào tiến bộ vĩ đại ngày nay”.)
Hơn nữa, những người này không phụ thuộc vào các hội chợ hoặc sự kiện đặc biệt để thỏa mãn nhu cầu diễn thuyết của mình.
Hoạt động “diễn thuyết gốc cây” diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là ở các bang phía Tây. Ở những gốc cây bị đốn hạ hoặc một số không gian mở tương tự, một diễn giả sẽ tập hợp khán giả và “chiếm lĩnh gốc cây” trong 2 hoặc 3 giờ. Hầu hết các khán giả đều thể hiện sự tôn trọng và chú ý lắng nghe, nhưng họ vẫn bộc lộ cảm xúc và không hề im lặng. Chẳng hạn, trong suốt các cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas, khán giả sẽ hô lên những lời khích lệ diễn giả (“Nói cho bọn họ biết đi, Abe!”) hoặc bày tỏ thái độ khinh thường (“Ông giỏi thì trả lời câu đó thử xem”). Việc vỗ tay diễn ra thường xuyên, thường được dành cho một đoạn hài hước hoặc hoa mỹ hoặc một quan điểm có sức nặng. Tại cuộc tranh luận đầu tiên ở Ottawa, Douglas
đã đáp lại tràng pháo tay kéo dài bằng một tuyên bố đáng chú ý và tiết lộ nhiều thông tin. “Các bạn của tôi”, ông ấy nói, “khi chúng ta thảo luận về những câu hỏi này, tôi sẽ dễ dàng đón nhận sự im lặng hơn là tiếng vỗ tay. Tôi mong muốn các bạn chú ý đến tôi bằng sự suy xét, thấu hiểu và lương tâm của các bạn, chứ không phải bằng những cảm xúc háo hức”. Ta khó đánh giá được gì về lương tâm hay sự suy xét của các khán giả. Nhưng ta có thể phân tích một số điều về việc thấu hiểu.
Trước hết, khả năng chú ý của khán giả thời trước rõ ràng là rất ấn tượng so với các tiêu chuẩn hiện tại. Có khán giả người Mỹ nào ngày nay có thể chịu đựng được 7 giờ thảo luận không? Hoặc 5 giờ? Hoặc 3 giờ? Đặc biệt là trong tình huống không hề có hình ảnh nào được sử dụng? Thứ hai, những khán giả này phải có năng lực nghe phi thường, vì họ có thể nghe hiểu những câu rất dài và phức tạp. Trong bài phát biểu của Douglas tại Ottawa, ông đã đưa vào bài diễn văn kéo dài 1 giờ của mình 3 nghị quyết dài về vấn đề bãi bỏ chế độ nô lệ, sử dụng những từ ngữ chuyên ngành luật. Lincoln, khi đưa ra phản hồi, thậm chí còn đọc lên những đoạn dài hơn trích từ một bài phát biểu mà ông đã thực hiện vào một dịp trước đó. Cấu trúc câu mà Lincoln và Douglas sử dụng trong các cuộc tranh luận rất phức tạp và tinh tế. Thật khó để tưởng tượng những người hiện tại ở Nhà Trắng có thể đưa ra những câu nói theo phong cách như vậy trong tình huống tương tự. Và nếu vị tổng thống ngày nay làm điều đó, ông ta chắc chắn sẽ phải đối diện với nguy cơ rằng, khán giả của ông không thể tập trung hoặc không hiểu ông đang nói gì. Những người của nền văn hóa truyền
hình cần “ngôn ngữ đơn giản” cả về âm thanh lẫn hình ảnh.
Khán giả của Lincoln và Douglas rõ ràng nắm khá tường tận những vấn đề đang được tranh luận, bao gồm cả kiến thức về các sự kiện lịch sử và các vấn đề chính trị phức tạp. Tại Ottawa, Douglas đưa ra 7 chất vấn cho Lincoln, tất cả đều sẽ trở nên vô nghĩa về mặt hùng biện trừ khi khán giả đã biết về phán quyết Dred Scott, sự đối đầu giữa Douglas và Tổng thống Buchanan, sự bất mãn của một số đảng viên Dân chủ, vấn đề bãi bỏ nô lệ và bài phát biểu nổi tiếng “Ngôi nhà bị chia cắt” của Lincoln. Cả hai diễn giả Douglas và Lincoln đều liên tục sử dụng các phép tu từ phức tạp, những lời châm biếm, mỉa mai, ẩn dụ phức tạp, mệnh đề mâu thuẫn... Không một biện pháp dùng từ nào trong số này có thể gia tăng hiệu quả của bài phát biểu nếu như khán giả không có nhận thức đầy đủ về nghệ thuật tu từ được sử dụng.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu cho rằng công chúng năm 1858 là hình mẫu của trí tuệ chuẩn chỉnh. Tất cả các cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas đều được tiến hành trong một bầu không khí hội hè. Người ta chơi nhạc tưng bừng (dù không phải ngay trong buổi tranh luận) và rao bán hàng rong; trẻ em nô đùa ầm ĩ; rượu thì lúc nào cũng tràn ly. Đây cũng là những hoạt động xã hội quan trọng tương tự như các cuộc hùng biện. Nhưng tôi không có ý tầm thường hóa những điều này. Như tôi đã chỉ ra, những khán giả ở đây là những cá nhân mà những hoạt động trí thức lẫn công việc kinh doanh đã tích hợp trọn vẹn vào đời sống xã hội. Như Winthrop Hudson đã chỉ ra, ngay cả các cuộc họp những người theo phong trào Giám lý cũng kết hợp dã ngoại với việc lắng nghe diễn giảng. Thật vậy, hầu hết các khu đất cắm trại ban đầu được hình thành vì lý do tôn giáo, về sau được chuyển đổi thành các trung tâm hội nghị để đáp ứng các nhu cầu về giáo dục Nói cách khác, việc sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện lập luận phức tạp là một hình thức truyền thông quan trọng, thú vị và phổ biến trong hầu hết mọi lĩnh vực công cộng.
Tôi chọn các cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas làm điểm khởi đầu cho chương này không chỉ vì chúng là ví dụ điển hình của hoạt động truyền thông chính trị vào giữa thế kỷ XIX, mà còn vì chúng minh họa cho sức mạnh của chữ viết trong việc kiểm soát những đặc điểm của bài diễn văn. Cả người nói và người nghe đều
quen thuộc với một kiểu hùng biện rất giàu tính văn học. Giữa tất cả những sự huyện náo diễn ra xung quanh sự kiện diễn thuyết, các diễn giả khó lòng đem tới nhiều điều giá trị và các khán giả cũng không mấy mong đợi - nhưng ngôn ngữ là một ngoại lệ. Đối với bất kỳ ai đã đọc những lời phát biểu của Lincoln và Douglas, điều này được bộc lộ rõ ràng từ đầu đến cuối. Trên thực tế, những cuộc tranh luận đã được bắt đầu với việc Douglas đưa ra lời giới thiệu sau đây - những lời thể hiện rõ đặc điểm của mọi phần diễn thuyết diễn ra sau đó:
Thưa các quý ông và quý bà: Hôm nay, xuất hiện trước quý vị với mục đích thảo luận về các chủ đề chính trị hàng đầu hiện đang gây chấn động dư luận. Theo một thỏa thuận giữa ông Lincoln và tôi, chúng tôi có mặt ở đây hôm nay để cùng thảo luận, với tư cách là đại diện của hai đảng chính trị lớn của Tiểu bang và Liên minh, dựa trên các nguyên tắc đã được đưa ra giữa các đảng phái, và sự xuất hiện của đông đảo mọi người đã cho thấy sự quan tâm sâu sắc của công chúng đối với những vấn đề đang làm chúng ta chia rẽ.
Đây là ngôn ngữ văn viết thuần túy. Việc nói những điều trên thành tiếng cũng không thay đổi sự thật đó. Và việc khán giả có thể dùng tại để xử lý những nội dung này là điều đáng chú ý đối với những người mà nền văn hóa của họ không còn cộng hưởng mạnh mẽ với chữ viết. Lincoln và Douglas không chỉ viết trước tất cả các bài phát biểu của họ mà còn lập kế hoạch phản biện bằng văn bản. Ngay cả những tương tác tự phát giữa hai diễn giả cũng là những câu có cấu trúc, độ dài và cách tu từ theo phong cách văn viết. Dĩ nhiên là vẫn có những câu văn nói trong các bài thuyết trình của họ. Sau cùng, không một diễn giả nào lại không quan tâm tới tâm trạng của khán giả. Tuy nhiên, tính cộng hưởng của chữ viết vẫn thể hiện vô cùng mạnh mẽ. Nói tóm lại, các cuộc tranh luận của Lincoln và Douglas có thể được mô tả như những văn bản tri thức được “nhấc” ra khỏi trang giấy in. Đó cũng là ý Dougla muốn nói khi quở trách khán giả. Ông ấy tuyên bố rằng, ông mong muốn được thấu hiểu chứ không cần người ta háo hức, như thể khán giả cần trở thành những người đọc yên lặng và tập trung suy ngẫm, còn ngôn ngữ của ông chính là văn bản mà họ phải ngẫm ngợi. Tất nhiên, điều này đưa chúng ta đến nhiều câu hỏi: Phép ẩn dụ từ chữ viết có ý nghĩa gì với hoạt động truyền thông? Đặc điểm
nội dung của chữ viết là gì? Chữ viết đòi hỏi những gì ở công chúng? Chữ viết hướng tới kiểu tư duy như thế nào?
Tôi nghĩ rằng, ta phải bắt đầu bằng cách chỉ ra một thực tế rõ ràng là: Chữ viết, cũng như bài diễn thuyết dựa trên chữ viết, là một thứ chứa nội dung - một nội dung mệnh đề, ngữ nghĩa, có thể diễn giải. Điều này nghe có vẻ kỳ quặc, nhưng vì tôi sẽ sớm lập luận rằng phần lớn hoạt động truyền thông của chúng ta ngày nay chỉ có nội dung mệnh đề ở mức tối thiểu, nên tôi phải nhấn mạnh vấn đề này. Bất cứ khi nào ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chính - đặc biệt là ngôn ngữ gắn với những giới hạn nghiêm ngặt của in ấn, thì không thể nào khác được, chắc chắn rằng một ý tưởng, một sự thật, một lời tuyên bố sẽ được nêu lên. Ý tưởng đó có thể tầm thường, sự thật đó có thể không quan trọng, tuyên bố đó có thể sai lầm - nhưng không ai có thể phản bác ngôn ngữ chính là công cụ dẫn lối tư duy cho chúng ta. Ngoài điều đó ra, ngôn ngữ tường thuật đâu còn nét hấp dẫn nào khác? Nếu như không chứa ý nghĩa, từ ngữ sẽ khó lòng thu hút sự chú ý của chúng ta. Hình dạng của các chữ viết không đặc biệt thú vị đối với thị giác. Ngay cả âm thanh của những từ ngữ khi được ai đó nói thành tiếng cũng hiếm khi hấp dẫn, trừ khi người viết ra những lời đó có năng khiếu thơ ca. Nếu một câu văn không đưa ra được một sự thật, một yêu cầu, một câu hỏi, một lời khẳng định, một lời giải thích, thì nó là vô nghĩa, chỉ là một lớp vỏ ngữ pháp trống rỗng. Do đó, khi hoạt động truyền thông lấy ngôn ngữ làm trung tâm - đặc trưng của nước Mỹ thế kỷ XVII và XIX - thì nó có xu hướng giàu tính nội dung và tính nghiêm túc. Những đặc điểm này càng thể hiện rõ khi hình thức truyền thông gắn liền với tài liệu in ấn.
Truyền thông lúc này có tính nghiêm túc bởi công chúng buộc phải thấu hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ. Một câu văn thúc đẩy tác giả phải nói lên điều gì đó, còn người đọc cần biết được những điều mà tác giả muốn nói. Và khi tác giả và độc giả tìm hiểu về vấn đề ngữ nghĩa, họ đang tiến vào một thử thách trí tuệ. Điều này đặc biệt đáng chú ý ở hành động đọc, vì không phải lúc nào tác giả cũng đáng tin cậy. Họ có thể nói dối, họ viết những điều khó hiểu, họ khái quát hóa quá mức, họ viết những điều phi logic, và đôi khi, họ đi ngược lẽ thường. Người đọc phải được trang bị vũ khí, với tư duy luôn ở trong trạng thái sáng suốt. Điều này không dễ dàng vì anh ta phải một mình đối diện với văn bản. Trong quá
trình đọc, phản ứng của một người hoàn toàn mang tính độc lập, người đó chỉ có thể dựa vào trí tuệ của bản thân mình. Đối mặt với sự trừu tượng lạnh lùng của các câu chữ chính là nhìn vào ngôn ngữ một cách trần trụi, tách biệt với những thứ hoa mỹ bề ngoài và sự hỗ trợ của cộng đồng. Vì vậy, đọc sách về bản chất là một công việc rất nghiêm túc. Tất nhiên, nó cũng là một hoạt động đề cao lý trí.
Từ Erasmus ở thế kỷ XVI đến Elizabeth Eisenstein ở thế kỷ XX, hầu hết mọi học giả từng vật lộn với câu hỏi “Đọc sách có tác dụng gì đối với tâm trí con người?” đều đưa ra kết luận rằng, quá trình này thúc đẩy tư duy lý trí; rằng tính mệnh đề và có trật tự của chữ viết khuyến khích thứ mà Walter Ong gọi là “sự quản lý kiến thức đề cao tính phân tích”. Để thấu hiểu chữ viết, ta phải đi theo một luồng tư duy - một việc đòi hỏi khả năng phân loại, suy luận và lập luận đáng kể. Nó có nghĩa là phát hiện ra những lời nói dối, những điều mơ hồ và sự khái quát hóa quá mức, để phát hiện những điều đi ngược lại logic và lẽ thường. Nó cũng có nghĩa là cân nhắc các ý tưởng, so sánh và đối chiếu các khẳng định, để kết nối sự tổng hợp này với sự tổng hợp khác. Để đạt được mức độ này, người đọc phải duy trì một khoảng cách nhất định với chính những từ ngữ. Trên thực tế, điều này được hỗ trợ bởi hình thức văn bản không có tính cá nhân. Đó là lý do tại sao một người đọc giỏi không dừng lại để vỗ tay ngay cả khi đọc được một đoạn văn tràn đầy cảm hứng. Tư duy phân tích quá bận rộn để làm việc đó.
Tôi không có ý ám chỉ rằng, tư duy phân tích là điều không tồn tại trước khi chữ viết xuất hiện trên đời. Điều tôi đang đề cập ở đây không phải là tiềm năng của tâm trí cá nhân mà là các khuynh hướng tư duy của một nền văn hóa. Trong một nền văn hóa do tài liệu in ấn chi phối, hoạt động truyền thông có xu hướng gắn liền với tính mạch lạc, có trật tự của những sự thật và ý tưởng. Công chúng trong nền văn hóa này thường có đủ năng lực để nắm bắt hình thức truyền thông đó. Trong một nền văn hóa dựa trên tài liệu in ấn, người viết sẽ phạm sai lầm nếu như nói dối, tự viết những câu từ mâu thuẫn với nhau, không tiến hành khái quát hóa đầy đủ và đưa ra các mối liên hệ phi logic. Trong một nền văn hóa dựa trên tài liệu in ấn, người đọc sẽ phạm sai lầm nếu họ không tập trung chú ý, không để tâm vào những gì mình đang tiếp nhận.
Trong thế kỷ XVIII và XIX, tài liệu in ấn đã đưa ra một định nghĩa về trí thông minh đề cao việc sử dụng trí óc một cách khách quan, lý trí, đồng thời khuyến khích các hình thức truyền thông với nội dung nghiêm túc, có trật tự, có logic. Không phải ngẫu nhiên mà Thời đại Lý tính lại cùng tồn tại với sự phát triển của văn hóa in ấn, trước tiên ở châu Âu và sau đó là ở Mỹ. Sự phổ biến của chữ viết đã thắp lên hy vọng rằng, thế giới và những bí ẩn muôn hình vạn trạng của nó có thể được thấu hiểu, được dự đoán và được kiểm soát. Vào thế kỷ XVIII, khoa học - ví dụ điển hình của việc quản lý kiến thức đề cao tính phân tích - bắt đầu tái thiết thế giới. Vào thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản được ca ngợi là hệ thống kinh tế tự do và lý trí, sự mê tín của tôn giáo bị công kích dữ dội, quyền thiêng liêng của các vị vua bị coi là một định kiến, mọi người công nhận ý tưởng về sự tiến bộ không ngừng và sự cần thiết của việc phổ cập văn hóa thông qua giáo dục trở nên rất rõ ràng.
Có lẽ suy nghĩ lạc quan nhất về mọi thứ mà tài liệu in ấn mang tới được thể hiện qua một đoạn văn trong tự truyện của John Stuart Mill:
Cha tôi cảm thấy rằng, nhân loại sẽ đạt được mọi thứ nếu tất cả mọi người đều được học đọc, nếu họ được tiếp cận với mọi loại ý kiến thông qua từ ngữ và văn bản, và nếu như thông qua quyền bầu cử, họ có thể đề cử một cơ quan lập pháp giúp ý kiến mà họ đã thông qua có hiệu lực.
Tất nhiên, đây là một hy vọng không bao giờ thành hiện thực. Không một thời điểm nào trong lịch sử của Anh hoặc Mỹ (hay bất kỳ nơi nào khác) mà lý trí có toàn quyền thống trị như Mill tưởng tượng. Tuy nhiên, không khó để chứng minh rằng, trong thế kỷ thứ XVIII và XIX, hoạt động truyền thông của người Mỹ - điều bắt nguồn từ niềm yêu thích dành cho chữ viết - đã rất nghiêm túc, đề cao những lập luận lý trí và do đó, được tạo thành từ những nội dung giàu ý nghĩa.
Ta có thể thấy rõ sự khác biệt giữa đặc điểm của truyền thông trong nền văn hóa in ấn và truyền thông trong nền văn hóa truyền hình nếu nhìn vào hệ thống pháp luật.
Trong một nền văn hóa dựa trên tài liệu in ấn, các luật sư thường được giáo dục kỹ càng, luôn đề cao lý trí và có khả năng trình bày tranh luận một cách ấn tượng. Theo nhận xét của Tocqueville, có một vấn đề thường bị bỏ qua trong lịch sử của nước Mỹ, đó là vào thế kỷ XVIII và XIX, nghề luật sư đại diện cho “một cơ quan đặc quyền trong lĩnh vực trí tuệ”. Nhiều anh hùng của nhân dân là các luật sư, như Prentiss của Alabama hay Abe Lincoln của Illinois - những người mà tài lôi kéo bồi thẩm đoàn của họ đậm tính sân khấu, không mấy khác biệt với những luật sư người ta thấy trên các chương trình truyền hình ngày nay. Tuy nhiên, những nhân vật vĩ đại của nền pháp lý Hoa Kỳ - John Marshall, Joseph Story, James Kent, David Hoffman, William Wirt và Daniel Webster - là những hình mẫu của trí tuệ trang nhã, lý trí và sự uyên thâm. Họ tin rằng, nền dân chủ - với tất cả những phẩm chất của nó - có nguy cơ dẫn tới chủ nghĩa cá nhân vô kỷ luật. Khát vọng của những người này là cứu lấy nền văn minh Mỹ bằng cách “tạo ra tính duy lý cho luật pháp”. Giáo sư luật nổi tiếng Job Tyson cho rằng, một luật sư phải biết rõ các tác phẩm của Seneca, Cicero và Plato. George Sharswood, có lẽ hình dung được sự giáo dục về pháp luật sẽ suy thoái trong thế kỷ XX, đã đưa ra một nhận định vào năm 1854 rằng, chỉ đọc luật một cách thuần túy sẽ khiến tâm trí bị tổn hại, “trói buộc tâm trí vào những kiến thức chuyên môn đã trở nên quá quen thuộc, khiến nó không thể có được những góc nhìn bao quát và toàn diện”.
Một luật sư sẽ cần phải là một người xuất sắc về khả năng viết và đọc, bởi lý do là người này có trách nghiệm giải quyết các vấn đề pháp lý. John Marshall là một hình mẫu vĩ đại về lý trí. Ông là ví dụ điển hình về một cá nhân đề cao chữ viết - khách quan, có óc phân tích, coi trọng logic và khinh thường những lập luận mâu thuẫn.
Một điều mà người Mỹ ngày nay khá khó tưởng tượng, đó là trước kia, người Mỹ không chỉ quen thuộc với các vấn đề pháp lý nổi bật trong thời đại của họ, mà còn quen thuộc với ngôn ngữ mà các luật sư nổi tiếng đã sử dụng để tranh luận trong các vụ xét xử. Điều này đặc biệt đúng với Daniel Webster, và như một lẽ tự nhiên, trong truyện ngắn nổi tiếng của mình, Stephen Vincent Benét đã chọn Daniel Webster để tranh luận với Ác quỷ. Làm sao mà Ác quỷ có thể thắng được một người đàn ông sử dụng thứ
ngôn ngữ như dưới đây cơ chứ? (Theo miêu tả của Joseph Story, Thẩm phán Tòa án Tối cao)
...Rất rõ ràng và dễ hiểu khi đưa ra những tuyên bố, rất toàn diện khi bao quát các chủ đề, rất sinh động khi đưa ra các minh họa từ những sự kiện thực tế. Phân tích sắc bén. Có khả năng tháo gỡ một mệnh đề phức tạp và chuyển nó thành những yếu tố đơn giản để những bộ óc thông thường nhất cũng có thể hiểu được. Có thể đưa ra các lý lẽ của riêng mình bất chấp số lượng đối thủ đông đảo. Rất cảnh giác và thận trọng để không bị cuốn vào những tình huống không thể kiểm soát, hoặc khiến sức mạnh của mình bị dàn trải ở những đấu trường không quan trọng.
Đây là đoạn văn ấn tượng nhất trong thế kỷ XIX mà tôi biết khi miêu tả về một người có tư duy được hình thành từ tài liệu in ấn. Đây chính xác là hình mẫu lý tưởng mà James Mill đã nghĩ đến khi dự đoán về những điều kỳ diệu của chữ viết. Và nếu ta không thể đạt tới hình mẫu này, thì nó vẫn là một lý tưởng mà mọi luật sư đều khao khát vươn đến.
Một lý tưởng như vậy đã vượt xa khỏi phạm trù luật pháp. Ngay cả trong những hoạt động thương mại thường nhật, sự cộng hưởng của hình thức truyền thông lý trí dựa trên chữ viết cũng rất phổ biến. Nếu chúng ta coi quảng cáo là tiếng nói của thương mại, thì lịch sử của nó chỉ ra rất rõ rằng, vào thế kỷ XVIII và XIX, những người có sản phẩm để bán tin rằng những khách hàng tiềm năng của mình là người có học, có lý trí và kỹ năng phân tích. Thật vậy, lịch sử quảng cáo trên báo chí ở Mỹ có thể được coi như một phép ẩn dụ về sự sa sút của tư duy dựa trên chữ viết. Ban đầu, nó đề cao lý trí, và đến bây giờ, nó chỉ còn còn xoay quanh sự giải trí. Trong nghiên cứu kinh điển của Frank Presbrey, The History and Development of Advertising (tạm dịch: Lịch sử và sự phát triển của ngành quảng cáo), ông đã thảo luận về sự suy thoái của chữ viết. Ông có đề cập đến “thời kỳ tăm tối” của việc thể hiện con chữ trên những bản in. Thời kỳ này bắt đầu vào năm 1704 khi những quảng cáo trả tiền đầu tiên xuất hiện trên một tờ báo Mỹ, The Boston NeusLetter. Có tổng cộng 3 quảng cáo, chiếm 10cm ở một cột báo. Một quảng cáo tuyên bố sẽ trao thưởng cho người bắt được một tên trộm, một quảng cáo thì nói sẽ hậu tạ cho người tìm thấy một
cái đe bị thất lạc. Quảng cáo thứ 3 thì thực sự rao bán một thứ gì đó và trên thực tế, nó cũng không khác với những quảng cáo bất động sản mà người ta có thể thấy trên tờ New York Times ngày nay:
Tại Vịnh Oyster, Long Island, thuộc N. York: Có một Nhà Xưởng có thể được cho Thuê hoặc Bán. Khuôn viên có Đồn điền, bao gồm một Nhà Gạch mới và rộng lớn, cùng với một ngôi nhà chắc chắn khác có Bếp, Phòng làm việc và Chuồng trại. Ngoài ra, có một Vườn cây ăn quả mới trồng và 20 mẫu đất trống. Nhà Xưởng có thể được Thuê kèm theo Đồn điền hoặc không. Liên hệ ông William Bradford Printer ở N. York để biết thêm thông tin chi tiết.
Trong hơn một thế kỷ rưỡi sau đó, các quảng cáo tiếp tục xuất hiện ở hình thức này và chỉ có vài thay đổi nhỏ. Ví dụ, 64 năm sau khi ông Bradford quảng cáo một bất động sản ở Vịnh Oyster, huyền thoại Paul Revere đã đăng quảng cáo sau đây trên tờ Boston Gazette:
Nhiều người không may bị mất Răng Cửa do Tại nạn và một số lý do khác, dẫn đến Tổn hại không chỉ về Ngoại hình mà còn ảnh hưởng đến việc họ Nói chuyện tại nơi Công cộng cũng như nơi Riêng tư. Thông tin này dành cho tất cả những người như vậy, rằng họ có thể thay thế răng cũ bằng những chiếc Răng Giả, nhìn rất Tự nhiên và Đáp ứng được các Nhu cầu Trò chuyện, với sự hỗ trợ của PAUL REVERE, Goldsmith, gần cầu tàu Dr. Clarke, Boston.
Revere tiếp tục nói trong một đoạn khác rằng, với những người đã đến chỗ John Baker làm răng giả và khốn khổ khi mấy chiếc răng bị lỏng ra, họ có thể đến gặp Revere để được siết răng chặt lại. Ông ta cũng ngụ ý mình đã học cách làm điều đó từ chính John Baker.
Phải gần 100 năm sau thông báo của Revere, các nhà quảng cáo mới cố gắng vượt qua các giới hạn gắn với việc in ấn mà các nhà xuất bản yêu cầu. Và phải đến cuối thế kỷ XIX, quảng cáo mới hoàn toàn chuyển sang phương thức truyền thông hiện đại của nó. Vào cuối năm 1890, quảng cáo (vẫn là một thứ được tạo thành từ các từ ngữ) được coi là một công việc thực sự nghiêm túc và đề
cao lý tính, với mục đích truyền tải thông tin và đưa ra các tuyên bố dưới dạng mệnh đề. Điều nay giống với những gì mà Stephen Douglas đã nói, nhưng trong một ngữ cảnh khác: Quảng cáo mong muốn được thấu hiểu chứ không cần người ta phải háo hức. Điều này không có nghĩa là trong thời kỳ chữ viết được sử dụng rộng rãi, mọi tuyên bố được đưa ra đều chính xác. Từ ngữ không thể đảm bảo tính chân thật của nội dung mà thay vào đó, chúng tạo ra một ngữ cảnh khiến người đọc phải đặt câu hỏi: “Điều này là đúng hay sai?” Vào những năm 1890, ngữ cảnh đó bị phá vỡ, trước tiên là do sự xâm nhập ồ ạt của các bức hình minh họa và ảnh chụp, sau đó là việc sử dụng ngôn ngữ không có tính mệnh đề. Ví dụ: vào những năm 1890, các nhà quảng cáo đã áp dụng kỹ thuật sử dụng khẩu hiệu. Presbrey cho rằng, quảng cáo hiện đại đã bắt đầu bằng việc sử dụng câu khẩu hiệu kiểu như sau: “Bạn chỉ cần nhấn nút; chúng tôi lo liệu mọi điều còn lại.” Cùng lúc đó, những câu nói có vần điệu bắt đầu được sử dụng.
Vào năm 1892, Procter & Gamble đã mời công chúng đề xuất giai điệu để quảng cáo sản phẩm xà phòng Ivory. Năm 1896, Hornby’s Oats (H-O) lần đầu tiên sử dụng hình ảnh một em bé ngồi trên ghế cao, với bát ngũ cốc trước mặt, tay cầm thìa, gương mặt sung sướng. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà quảng cáo không còn cho rằng những khách hàng tiềm năng của mình là những người lý trí nữa. Quảng cáo trở thành một thứ vừa tận dụng tâm lý học, vừa đề cao lý thuyết thẩm mỹ. Lý trí phải “dọn nhà” sang các lĩnh vực khác.
Để hiểu vai trò của tài liệu in ấn trong việc xây dựng nên một nước Mỹ từng đề cao trí tuệ, sự thật và giá trị bản chất của hoạt động truyền thông người ta phải lưu ý rằng, thói quen đọc trong thế kỷ XVIII và XIX có chất lượng hoàn toàn khác so với thói quen đọc hiện nay. Như tôi đã nói, chữ viết từng giữ vị thế độc tôn để thu hút sự chú ý của công chúng và cung cấp cho họ tri thức. Đông đảo công chúng không có phương tiện nào khác, ngoài hoạt động truyền khẩu, để tiếp cận với thông tin. Ví dụ, những người nổi tiếng được công chúng được biết đến chủ yếu qua lời nói của họ in ra trên giấy, chứ không phải qua ngoại hình hay thậm chí là cách diễn thuyết của họ. Rất có thể là trong số 15 tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, nhiều người sẽ không được nhận ra nếu họ đi qua những công dân bình thường trên phố. Điều này cũng đúng với các
luật sư, mục sư và nhà khoa học vĩ đại của thời đại đó. Nghĩ về những người đàn ông đó là nghĩ về những gì họ đã viết, là đánh giá họ qua những quan điểm công khai, những lập luận và kiến thức đã được tổng hợp ra các ấn phẩm của họ. Khi nghĩ về bất kỳ tổng thống nào gần đây của chúng ta, hoặc thậm chí là những nhà thuyết giáo, luật sư và nhà khoa học nổi tiếng hiện nay, bạn sẽ ít nhiều hiểu được chúng ta đã rời xa trạng thái nhận thức trên như thế nào. Hãy nghĩ đến Richard Nixon, Jimmy Carter hoặc Billy Graham, hoặc thậm chí là Albert Einstein và điều hiện lên trong đầu bạn sẽ là một hình ảnh, một khuôn mặt - rất có thể là một khuôn mặt trên màn hình ti vi (trong trường hợp của Einstein, thứ hiện lên là khuôn mặt trên một bức ảnh chụp). Mặt khác, hầu như không có từ ngữ nào hiện lên trong tâm trí. Đây là sự khác biệt về tư duy trong một nền văn hóa lấy chữ viết làm trung tâm với một nền văn hóa lấy hình ảnh làm trung tâm.
Đó cũng là sự khác biệt giữa sống trong một nền văn hóa không có nhiều cơ hội để giải trí và một nền văn hóa đầy ắp những cơ hội như vậy. Cậu bé nông dân vừa cày ruộng vừa cầm sách trên tay, người mẹ đọc to những câu chuyện cho cả gia đình cùng nghe vào một buổi chiều Chủ nhật, người lái buôn đọc thông báo về những sản phẩm mới nhất - đây là những kiểu độc giả khác với ngày nay. Mọi người không đọc sách một cách vô thưởng vô phạt, vì họ không có nhiều thời gian cho việc đó. Đọc sách được coi như một hành động đáng trân trọng, diễn ra hằng ngày hoặc hằng tuần với ý nghĩa đặc biệt nào đó. Chúng ta cũng cần nhớ rằng, đây là một nền văn hóa không có điện. Sẽ không dễ dàng đọc được dưới ánh nến hay sau này là đèn măng xông. Chắc chắn rằng việc đọc chủ yếu được thực hiện trong khoảng thời gian từ lúc bình minh đến khi mọi người bắt đầu các công việc trong ngày. Việc đọc phải được thực hiện một cách nghiêm túc với mục đích rõ ràng. Thời hiện đại, chúng ta có khái niệm kiểm tra “khả năng đọc hiểu” của người đọc - đây hẳn là một điều rất kỳ cục vào những năm 1790, 1830 hay 1860. Đã đọc thì đương nhiên là phải hiểu rồi? Theo như những gì chúng ta biết, thời đó không tồn tại thứ gọi là “khó khăn khi đọc” - tất nhiên là ngoại trừ những người không được đi học. Đi học có nghĩa là học cách đọc, vì nếu không biết cách đọc, người ta không thể tham gia vào các cuộc trò chuyện về văn hóa. Nhưng hầu hết mọi người đều có thể đọc và đã tham gia vào các cuộc thảo luận như vậy. Đối với những người này, đọc sách vừa là cách
họ kết nối với thế giới, vừa là hình mẫu thế giới trong họ. Từng dòng, từng trang sách đã cho họ biết rằng, thế giới là một nơi trang nghiêm, mạch lạc, có thể được kiểm soát bằng lý trí và có tiềm năng cải thiện bằng những lời phê bình logic và phù hợp.
Vào thế kỷ XVIII và XIX, ta gần như luôn có thể tìm thấy sự cộng hưởng của chữ viết và đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ của nó với tất cả các hình thức truyền thông. Người Mỹ cho rằng, để có thể hòa nhập vào đời sống xã hội, một người phải có khả năng làm chủ con chữ. Đối với họ, quyền lợi của một công dân trưởng thành chắc chắn sẽ không tồn tại với một cá nhân không có khả năng đọc viết chuẩn chỉnh - đó là lý do tại sao độ tuổi bỏ phiếu ở hầu hết các bang được ấn định là 21 tuổi, cũng như giải thích nguyên nhân tại sao Jefferson lại coi phổ cập giáo dục là hy vọng to lớn nhất của nước Mỹ.
Thực tế có thể đúng như những gì Frederick Jackson Turner đã viết, rằng thứ tinh thần khiến tâm trí người Mỹ luôn sục sôi xuất phát từ sự thật là biên giới đất nước đang ngày càng mở rộng. Nhưng những lời của Paul Anderson cũng đúng rằng “Không phải chỉ là nói suông khi tuyên bố rằng, những cậu bé nông dân vừa cày ruộng vừa cầm sách trên tay có thể trở thành Shakespeare, Emerson hay Thoreau”. Không phải vì biên giới được mở rộng mà Kansas trở thành bang đầu tiên cho phép phụ nữ được bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử ở trường học, hay Wyoming là bang đầu tiên đảm bảo quyền bình đẳng tuyệt đối giữa nam nữ trong vấn đề bầu cử. Phụ nữ có lẽ là những người đọc thông thạo hơn nam giới, và thậm chí ở các bang vùng biên giới, phương tiện truyền thông chủ yếu cũng đến từ các tài liệu in ấn.
Về khoảng thời gian mà tâm trí người Mỹ nằm dưới sự thống trị của những con chữ, tôi gọi nó là Thời đại Diễn giải. Diễn giải là một phương thức tư duy, một phương pháp học tập và một phương tiện biểu đạt. Hầu hết tất cả các đặc điểm mà chúng ta gắn với hoạt động truyền thông đều được củng cố bởi chữ viết - yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động diễn giải, tức là thúc đẩy khả năng suy nghĩ tinh tế về các khái niệm, đề cao suy luận, coi trọng lý trí và trật tự, quay lưng với những lập luận mâu thuẫn, đảm bảo sự tách bạch và tính khách quan, cũng như cho phép người tiếp nhận thông tin không phải lập tức phản hồi. Vào
cuối thế kỷ XIX, Thời đại Diễn giải dần kết thúc, và những dấu hiệu ban đầu của kẻ thay thế đã xuất hiện. Thứ thay thế cho Thời đại Diễn giải là Thời đại Giải trí.
Vào giữa thế kỷ XIX, có 2 ý tưởng xuất hiện và sự giao thoa của chúng đã mang tới cho nước Mỹ thế kỷ XX một ẩn dụ mới về hoạt
động truyền thông. Sự giao thoa này đẩy lùi Thời đại Diễn giải và đặt nền móng cho Thời đại Giải trí. Một ý tưởng khá mới mẻ, còn ý tưởng còn lại thì đã xưa cũ như những bức tranh trong hang động Altamira. Chúng ta sẽ sớm bàn về ý tưởng cũ, còn trước tiên, ý tưởng mới là: Hoạt động vận tải có thể tách rời khỏi hoạt động giao tiếp, khoảng cách không phải là một hạn chế cố hữu đối với việc truyền tải thông tin.
Người Mỹ của những năm 1800 rất quan tâm đến vấn đề “chinh phục” không gian. Đến giữa thế kỷ XIX, biên giới nước Mỹ đã mở rộng ra Thái Bình Dương, và hệ thống đường sắt thời kỳ đầu, bắt đầu được xây dựng từ những năm 1830, đã bắt đầu vận chuyển người và hàng hóa đi khắp lục địa. Nhưng trước những năm 1840, thông tin chỉ có thể di chuyển ngang với tốc độ của người đưa tin - hay nói chính xác hơn, thông tin chỉ di chuyển với tốc độ tương tự như một đoàn tàu, tức là khoảng 56km/giờ. Trước những hạn chế đó, sự phát triển của Mỹ với tư cách là một quốc gia thống nhất đã bị chậm lại. Trong những năm 1840, Mỹ vẫn là một tổ hợp các khu vực, mỗi khu vực đối thoại theo những cách riêng, giải quyết lợi ích riêng của mình. Một cuộc giao lưu trên toàn lục địa vẫn chưa thể thực hiện được.
Giải pháp cho những vấn đề này, như mọi học sinh đều biết, chính là điện. Không ai ngạc nhiên khi chính một người Mỹ đã tìm ra cách thực tế để đưa điện vào phục vụ thông tin liên lạc và bằng cách đó, loại bỏ dứt điểm vấn đề về khoảng cách. Tất nhiên, tôi đang nhắc đến Samuel Finley Breese Morse, “người không gian” đúng nghĩa đầu tiên của Mỹ. Chiếc máy điện báo của ông đã xóa bỏ các đường ranh giới giữa các bang, khiến những khu vực không còn biệt lập và tạo ra tiềm năng về việc truyền thông trên toàn phạm vi nước Mỹ - thông qua việc “ôm trọn” lục địa trong một mạng lưới thông tin.
Nhưng điều đó phải trả một giá đáng kể, vì điện báo đã dẫn đến một việc mà Morse không lường trước được khi ông dự đoán rằng điện báo sẽ khiến “cả đất nước trở thành một khu phố”. Điện báo đã xóa bỏ định nghĩa phổ biến về thông tin khi ấy, qua đó khiến hoạt động truyền thông có một ý nghĩa mới. Henry David Thoreau nằm trong số ít những người hiểu được hệ quả này. Ông nhận xét trong cuốn Walden rằng, “Chúng ta gấp rút xây dựng hệ thống điện
báo từ Maine đến Texas, nhưng có lẽ là, chẳng có gì quan trọng để truyền đi từ Maine đến Texas cả... Chúng ta háo hức vượt qua Đại Tây Dương và để Cựu Thế giới đến gần hơn với Tân Thế giới thêm vài tuần, nhưng có lẽ, tin tức đầu tiên lọt vào tai người Mỹ khi ấy sẽ là Công chúa Adelaide mắc bệnh ho gà”.
Thoreau hóa ra đã chính xác. Ông hiểu điện báo sẽ tạo ra một định nghĩa riêng về truyền thông, rằng nó không những giúp hiện thực hóa việc truyền tin giữa Maine và Texas, mà còn khiến mọi người buộc phải chú ý đến tin tức đó - một thông tin có nội dung không giống như những gì mà Người Đọc chữ đã quen thuộc.
Điện báo đã “công kích” khái niệm truyền thông dựa trên chữ viết theo 3 hướng, thông qua việc cung cấp những thông tin không quan trọng, không có ý nghĩa và không mạch lạc trên diện rộng. Những người sành sỏi trong lĩnh vực này trở nên kích động trước thực tế rằng, điện báo cho phép người ta đưa ra thông tin mà không cần ngữ cảnh; nghĩa là giá trị của thông tin không cần phải gắn với bất kỳ chức năng nào để phục vụ việc ra quyết định và hành động trong những tình huống xã hội và chính trị, mà chỉ cần gắn với sự mới mẻ, khơi gợi sự quan tâm và tò mò của người tiếp nhận. Điện báo đã biến thông tin thành một thứ hàng hóa, một “thứ” có thể được mua và bán mà không liên quan gì tới giá trị sử dụng và ý nghĩa của nó.
Nhưng điện báo không “đơn thương độc mã”. Tiềm năng của điện báo trong việc biến thông tin thành hàng hóa có thể sẽ không bao giờ trở thành hiện thực nếu như không có cái bắt tay giữa điện báo và báo chí. Những tờ báo giá một xu, nổi lên vào những năm 1830 - trước khi điện báo xuất hiện một thời gian ngắn, đã bắt đầu quá trình “vô thưởng vô phạt hóa” tin tức. Các tờ báo như New York Sun của Benjamin Day và New York Herald của James Bennett đã quay lưng lại với truyền thống coi báo chí là công cụ thể hiện quan điểm chính trị một cách lý trí và cung cấp những thông tin thương mại cấp bách, mà thay vào đó, lấp đầy các trang báo của họ bằng tin tức về các sự kiện giật gân, chủ yếu liên quan đến cướp, giết, hiếp. Mặc dù những tin tức kích thích con người như vậy đóng vai trò rất khiêm tốn trong việc định hình các quyết định và hành động của độc giả, nó lại mang tính địa phương, tức là nói về những địa điểm và con người nằm trong phạm vi hiểu
biết của độc giả. Bên cạnh tin tức địa phương, những thông tin mà các tờ báo này cung cấp vẫn đề cao tính chức năng và có chất lượng vượt thời gian, vì thông tin gắn liền với các vấn đề và quyết định mà người đọc phải giải quyết, nhằm xử lý những khúc mắc trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng của họ.
Máy điện báo đã thay đổi tất cả những điều trên với tốc độ đáng kinh ngạc. Trong vòng vài tháng kể từ sau màn trình diễn công khai đầu tiên của Morse, “tính địa phương” và “vượt thời gian” của tin tức đã đánh mất vị thế của mình trên các tờ báo, bị lu mờ trước đặc tính “vượt không gian” và “tốc độ cao”. Trên thực tế, việc một tờ báo ứng dụng công nghệ điện báo đã diễn ra chỉ một ngày sau khi Morse minh chứng về khả năng làm việc của máy điện báo. Sử dụng cùng một đường dây từ Washington đến Baltimore mà Morse đã xây dựng, tờ Baltimore Patriot đã cung cấp cho độc giả những thông tin về hành động của Hạ viện đối với vấn đề Oregon. Bài báo kết luận phần đưa tin của mình bằng dòng sau: “.. như vậy, chúng tôi có thể cung cấp cho độc giả thông tin từ Washington chỉ trong vòng 2 giờ đồng hồ. Vấn đề về khoảng cách thật sự đã biến mất”.
Trong một thời gian ngắn, các vấn đề thực tiễn (chủ yếu liên quan đến sự khan hiếm đường dây điện báo) đã giúp quan niệm cũ về tin tức (tin tức là thông tin chức năng) vẫn được bảo toàn. Nhưng những người có tầm nhìn trong giới xuất bản đã nhanh chóng nhận thấy những gì sắp diễn ra, do đó dồn toàn lực để lắp đặt đường dây điện báo cho toàn lục địa. William Swain, chủ sở hữu của Philadelphia Public Ledger, không chỉ đầu tư mạnh vào Magnetic Telegraph, công ty điện báo thương mại đầu tiên, mà còn trở thành chủ tịch của nó vào năm 1850.
Không lâu sau đó, sự phát triển của một tờ báo không còn phụ thuộc vào chất lượng hay tính hữu ích của tin tức, mà phụ thuộc vào những yếu tố như số lượng thông tin mà nó cung cấp, nó có thể đưa tin từ khoảng cách nào, với tốc độ ra sao. James Bennett của New York Herald đã khoe rằng, trong tuần đầu tiên của năm 1848, tờ báo của ông có 79.000 từ lấy từ nội dung điện báo - nhưng ông ấy không nói bao nhiêu từ trong số đó là thông tin có ý nghĩa đối với độc giả. Chỉ 4 năm sau khi Morse triển khai đường dây điện báo đầu tiên của quốc gia vào ngày 24 tháng 5 năm 1844,