🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải quyết vấn đề và ra quyết định - tập 5
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NÓI ĐẦU CỦA BỘ SÁCH “SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI” (CREATIVITY AND
INNOVATION)
Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng.
Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?...” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái..., tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”.
Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý.
Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình, xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người.
PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh... Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta.
Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation).
Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller.
Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)... Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM.
Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM.
TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời.
Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á.
Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo
lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học
tốt hơn.
PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy.
Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học.
Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau:
1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới.
2. Thế giới bên trong con người sáng tạo.
3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống.
4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1).
5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2).
6. Các phương pháp sáng tạo.
7. Các quy luật phát triển hệ thống.
8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới.
Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng,
trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa.
Người viết gởi lời cảm ơn chung đến các đồng nghiệp trong nước và quốc tế, các cựu học viên đã động viên, khuyến khích để bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” ra đời. Người viết cũng chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của các cán bộ Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) thuộc Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM: Th.S. Trần Thế Hưởng, Th.S. Vương Huỳnh Minh Triết, Th.S. Lê Minh Sơn, anh Nguyễn Hoàng Tuấn, đặc biệt là Th.S. Lê Minh Sơn đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc trình bày bộ sách này trên máy tính.
Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK)
Trường đại học khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia TpHCM 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, Tp.HCM
ĐT: (848) 38301743 FAX: (848) 38350096
E-mail: [email protected]
Website: www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-v.htm (tiếng Việt) hoặc www.cstc.vn
www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-e.htm (tiếng Anh)
Phan Dũng
VỀ NỘI DUNG CỦA QUYỂN NĂM: “CÁC THỦ THUẬT (NGUYÊN TẮC) SÁNG TẠO CƠ BẢN: PHẦN
2
”
Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản được trình bày thành hai
phần, tương ứng với hai quyển sách (quyển bốn và quyển năm) của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới”.
Nếu như quyển bốn tập trung trả lời câu hỏi: “Hiểu các thủ thuật như thế nào?”, thì quyển năm này tập trung trả lời câu hỏi tiếp theo: “Sử dụng các thủ thuật như thế nào?”. Các câu trả lời cho hai câu hỏi lớn nói trên không độc lập với nhau mà bổ sung, hỗ trợ nhau: Hiểu tốt giúp sử dụng các thủ thuật tốt, ngược lại đến lượt mình, sử dụng các thủ thuật tốt giúp hiểu các thủ thuật tốt hơn và cứ như thế... Người viết mong bạn đọc thiết lập được quan hệ phản hồi dương giữa “hiểu” và “sử dụng” các thủ thuật trong quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định suốt cả cuộc đời của mình. Nói cách khác, quan hệ phản hồi dương giúp hoàn thiện các kỹ năng sáng tạo và đổi mới của bạn.
Quyển năm “Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản: Phần 2”, tương tự như quyển bốn, được thiết kế thành một chương lớn gồm bốn mục, với tên gọi “Chương 12: Áp dụng các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản”.
Trong mục một “12.1. Lý giải một cách lôgích các giải pháp sáng tạo đã có”, người viết trình bày cách tìm các thủ thuật có trong giải pháp sáng tạo cho trước, phân tích và sắp xếp chúng theo thứ tự nhất định, dựa trên lôgích nhu cầu–hệ thống.
Mục hai “12.2. Giải quyết các loại mâu thuẫn trong tư duy sáng tạo” tập trung trình bày “Bảng các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản dùng để giải quyết các mâu thuẫn kỹ thuật”, “Các biến đổi mẫu (các nguyên tắc
phân chia các mặt đối lập) dùng để giải quyết các mâu thuẫn vật lý”, các khả năng có thể và các kỹ năng sử dụng chúng. Cũng trong mục này, người viết phác họa một số nét cơ bản của “Từ điển các công cụ dùng để giải quyết các mâu thuẫn vật lý” sẽ được thành lập trong tương lai. Từ điển sẽ giúp một người sử dụng sức mạnh của tri thức và các công cụ sáng tạo, đổi mới của toàn nhân loại.
Mục ba “12.3. Chương trình rút gọn dùng để giải quyết vấn đề và ra quyết định” tổng hợp và tổ chức lại các ý chính, được trình bày từ quyển một đến nay thành một chương trình định hướng, gồm nhiều bước, mang tính kế hoạch để thực hiện quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết
định một cách tối ưu, tránh thử và sai. Các ví dụ lấy từ các lĩnh vực khác nhau minh họa việc áp dụng “Chương trình rút gọn” giải các bài toán cũng được trình bày chi tiết trong mục ba này.
Mục bốn (12.4) được dành cho “Tổng kết hệ thống các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản”. Nói cách khác, mục bốn giúp bạn có cái nhìn tổng quát sau khi đã đọc quyển bốn và quyển năm. Trong đó, người viết đặc biệt nhấn mạnh các ích lợi (công dụng) của các thủ thuật.
Cuối cùng, Phụ lục cung cấp nhiều thí dụ đa dạng (Phụ lục 1) lấy từ những lĩnh vực khác nhau, các chuyện vui (Phụ lục 2), các tranh vui (Phụ lục 3). Bạn đọc có thể dùng chúng như các bài tập rèn luyện để có được các kỹ năng áp dụng các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản.
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”.
“Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”.
“Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”.
Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”.
Chương 12:
ÁP DỤNG CÁC THỦ THUẬT (NGUYÊN TẮC) SÁNG TẠO CƠ BẢN
12.1. LÝ GIẢI MỘT CÁCH LÔGÍCH CÁC GIẢI PHÁP SÁNG TẠO ĐÃ CÓ
12.1.1. Mở đầu
Trong cuộc sống, học tập, công việc, nhiều người, nhiều nơi chỉ quan tâm đến giải pháp hoặc sản phẩm cuối cùng (hiểu theo nghĩa rộng) mà không quan tâm đến quá trình suy nghĩ, hành động của người tạo ra những giải pháp hoặc sản phẩm cuối cùng đó. Ví dụ, trong cuộc sống, nhiều người chỉ quan tâm các vật dụng mình dùng có đáp ứng các nhu cầu của mình không; trong học tập, nhiều thầy cô chỉ quan tâm lời giải các bài tập của học sinh đúng hay sai; trong công việc, nhiều người quản lý chỉ quan tâm kết quả làm việc của cấp dưới có đạt yêu cầu đề ra hay không…
Trong khi đó, PPLSTVĐM có đối tượng nghiên cứu và tác động là quá trình suy nghĩ, hành động giải quyết vấn đề và ra quyết định để có được kết quả cuối cùng: Bài toán cho trước giải xong. PPLSTVĐM quan niệm, nếu con người có quá trình suy nghĩ và hành động đúng thì lời giải, quyết định tốt (sản phẩm cuối cùng) là hệ quả tất yếu của quá trình đó. PPLSTVĐM có nhiệm vụ xây dựng và trang bị cho những người học hệ thống các phương
pháp (phương pháp luận), các kỹ năng cụ thể sử dụng phương pháp để họ có được quá trình suy nghĩ và hành động đúng (xem mục 3.2. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) là gì? của quyển một).
Trong ý nghĩa vừa nêu, PPLSTVĐM đặc biệt quan tâm đến quá trình suy nghĩ và hành động của người giải bài toán. Nói cách khác, PPLSTVĐM phải nghiên cứu trả lời nhiều câu hỏi liên quan, trong đó có hai câu hỏi sau:
1) Quá trình suy nghĩ dẫn đến ý tưởng giải quyết được vấn đề thường xảy ra như thế nào?
2) Quá trình suy nghĩ dẫn đến ý tưởng giải quyết được vấn đề cần phải xảy ra như thế nào (cần sử dụng phương pháp nào) thì tối ưu?
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, nhà nghiên cứu phải tìm hiểu các giải pháp sáng tạo đã có, khôi phục lại quá trình suy nghĩ dẫn đến ý tưởng lời giải nhằm phát hiện ra cách (phương pháp) suy nghĩ thường dùng.
Để trả lời câu hỏi thứ hai, nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá xem phương pháp suy nghĩ được tìm ra ở trên đã thực sự tối ưu chưa. Ở đây có hai khả năng. Khả năng thứ nhất, phương pháp suy nghĩ được tìm ra là thực sự tối ưu. Lúc đó, người ta có thể phổ biến phương pháp suy nghĩ được tìm ra cho đông đảo mọi người dùng để giải các bài toán mới. Khả năng thứ hai, phương pháp suy nghĩ tìm ra chưa tối ưu, nhà nghiên cứu phải đưa ra các phương pháp hoàn thiện hơn hoặc xây dựng phương pháp suy nghĩ khác (người viết sẽ gọi chung là các phương pháp đã được hoàn thiện và các phương pháp mới) thực sự tối ưu.
Như bạn đọc đã biết, thực tế nghiên cứu cho thấy, khả năng thứ hai đã xảy ra: Phương pháp suy nghĩ được tìm ra là phương pháp thử và sai (xem Chương 2: Sáng tạo một cách tự nhiên của quyển một) với khá nhiều nhược điểm và bị chi phối bởi nhiều hiện tượng tâm lý, chưa được người suy nghĩ điều khiển một cách chủ động (xem các mục 6.4. Các hiện tượng tâm lý tham gia vào quá trình biến đổi thông tin thành tri thức và 6.5. Tính ì tâm lý của quyển hai). Điều này dẫn đến các nghiên cứu hoàn thiện phương pháp thử và sai và xây dựng các phương pháp mới, trong đó, các nghiên cứu và các kết quả thu được của TRIZ đóng vai trò rất quan trọng (xem Chương 4: Tổng quan các kết quả đạt được trong lĩnh vực phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) của quyển một).
Các phương pháp, đặc biệt, các phương pháp mới, trước hết, phải được thử nghiệm thành công trên các bài toán đã có lời giải, hiểu theo nghĩa, nhờ suy nghĩ theo những phương pháp mới, những người khác (không phải là tác giả của giải pháp) cũng đi đến các ý tưởng lời giải, nhưng với năng suất và hiệu quả cao hơn so với quá trình suy nghĩ của tác giả đã xảy ra trước đó trên thực tế. Nói cách khác, trước hết, các phương pháp mới phải có khả năng lý giải một cách lôgích các giải pháp sáng tạo đã có. Sau đó, các phương pháp mới sẽ được dùng để giải các bài toán chưa giải. Chính vì vậy, mục 12.1 này tập trung “lý giải một cách lôgích các giải pháp sáng tạo đã có” dựa trên nội dung của các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản, mà các thủ thuật này cần được dùng một cách có ý thức để thu lại được các giải pháp sáng tạo đã có. Lôgích nói đến ở đây là lôgích nhu cầu–hệ thống, sẽ được trình bày trong mục nhỏ 12.1.2. Mục nhỏ 12.1.3 sẽ đề cập các thủ thuật phản ánh lôgích nhu cầu–hệ thống, được dùng để lý giải các giải pháp sáng tạo đã có.
Mục nhỏ 12.1.4 sẽ tổng hợp những gì trình bày trong các mục nhỏ 12.1.2. Lôgích nhu cầu–hệ thống và 12.1.3. Diễn giải lôgích nhu cầu–hệ thống bằng các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bảnthành một chương
trình gồm nhiều bước, được thực hiện tuần tự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc dễ dàng lý giải một cách lôgích các giải pháp sáng tạo đã có.
Mục nhỏ 12.1.5 sẽ trình bày một số thí dụ áp dụng “Chương trình phát hiện các thủ thuật và làm tái hiện quá trình suy nghĩ lôgích để có được hệ thống cải tiến cho trước” (gọi tắt là “Chương trình lý giải lôgích”), đã được xây dựng trong mục nhỏ 12.1.4.
Việc lý giải một cách lôgích quá trình suy nghĩ dẫn đến lời giải bài toán trong các giải pháp sáng tạo đã có, đem lại cho người thực hiện việc lý giải không ít các ích lợi như:
1) Giúp người thực hiện hiểu lý do, ý nghĩa, giá trị của các giải pháp sáng tạo đã có tốt hơn. Điều này cũng tương tự như khi bạn đọc một tác phẩm văn học. Nếu bạn nắm được cả các điều kiện, hoàn cảnh, các nhu cầu lịch sử cụ thể của những con người thuộc thời đại mà tác phẩm phản ánh; bạn lại “nhập thân” được vào các nhân vật trong tác phẩm, bạn sẽ hiểu tác phẩm đó và thông điệp của nó tốt hơn, không chỉ về xúc cảm mà còn cả về lý trí.
2) Giúp hiểu, nắm được lôgích của quá trình suy nghĩ dẫn đến các giải pháp sáng tạo đã có, do vậy, người thực hiện ghi nhớ, tái hiện quá trình đó dễ dàng hơn và lâu quên hơn.
Điều này giải thích vì sao những người đã tự tìm ra lời giải bài toán nào đó, nhưng không phải bằng lôgích mà bằng phương pháp thử và sai; hoặc theo kiểu suy nghĩ mãi thì bật ra (lóe ra) lời giải; hoặc bằng linh tính (trực giác), sau này gặp lại chính bài toán đó, nhiều khi không giải lại được. Tương tự, những người học thuộc lòng lời giải một số bài toán nào đó (trong các sách toán mẫu, văn mẫu…, tuyển tập các bộ đề thi đại học và lời giải) mà không nắm lôgích quá trình suy nghĩ, họ có thể đạt điểm cao trong kỳ thi nhờ “trúng tủ”. Nhưng khi đã quên thì họ hầu như không thể tái hiện được lời giải cũng như quá trình suy nghĩ dẫn đến lời giải. Điều này cũng giải thích vì sao nhiều bậc cha mẹ đã từng học qua phổ thông nhưng sau đó không kèm cặp gì được cho con cái khi chúng cũng học phổ thông, cũng giải những bài toán như mình đã giải ngày xưa.
3) Giúp chuyển giao lôgích của quá trình suy nghĩ dẫn đến các giải pháp sáng tạo đã có sang giải các bài toán tương tự chưa giải, nhờ vậy, các bài toán tương tự sẽ được giải định hướng hơn, nhanh hơn.
4) Giúp xây dựng các phương pháp suy nghĩ mới có phạm vi áp dụng rộng hơn, mang tính định hướng cao hơn, do vậy, làm giảm đáng kể số lượng các phép thử sai.
Nhằm minh họa các ích lợi vừa nêu, người viết phân tích một trường hợp cụ thể. Ví dụ có bài toán sau: “Bạn có hai chiếc bình tương ứng đựng đúng 3 và 5 lít nước; một lượng nước không giới hạn. Làm cách nào bạn có thể lấy được đúng 4 lít nước?”
Giả sử người ta đã cho bạn biết lời giải hoặc tự bạn tìm ra lời giải sau nhiều lần thử và sai… chứ không phải nhờ lôgích. Lời giải đó như sau:
“– Múc nước đầy bình 5 lít.
- Đổ nước từ bình 5 lít sang bình 3 lít. Lúc này còn lại 2 lít nước trong bình 5 lít.
- Đổ hết nước có trong bình 3 lít đi.
- Đổ 2 lít nước trong bình 5 lít sang bình 3 lít.
- Múc nước đầy bình 5 lít.
- Đổ đúng 1 lít nước từ bình 5 lít sang cho đầy bình 3 lít. Điều này hoàn toàn làm được vì lúc này bình 3 lít đã có sẵn 2 lít nước. Kết quả người ta thu được đúng 4 lít nước.”
Nếu bạn học thuộc lòng lời giải, ích lợi chỉ thể hiện ra khi bạn “trúng tủ”, trong thời gian ngắn hạn (xem điểm 2 ở trên).
Chúng ta thử lý giải một cách lôgích quá trình suy nghĩ dẫn đến lời giải bài toán:
“Giả sử đã thu được đúng 4 lít nước, vậy 4 lít nước đó phải ở trong bình 5 lít vì bình 3 lít không đựng đủ 4 lít nước (xem Hình 209a).
Để có 4 lít nước trong bình 5 lít, phải đổ đúng 1 lít nước ra khỏi bình đựng 5 lít nước (xem Hình 209b).
Như vậy cần có thêm bình đựng đúng 1 lít nước, trong khi đó trong tay người giải bài toán chỉ có bình 3 lít. Giá như bình 3 lít biến thành bình 1 lít thì bài toán sẽ giải xong. Bạn đọc tinh ý có thể thấy mâu thuẫn vật lý (ML) có mặt ở đây: Bình thứ hai phải là bình đựng đúng 3 lít nước để thỏa mãn
điều kiện của bài toán và phải là bình đựng đúng 1 lít nước để thu được đúng 4 lít nước ở bình 5 lít, bằng cách đổ từ bình 5 lít sang bình thứ hai đúng 1 lít nước. Giải quyết mâu thuẫn vật lý này, để bình 3 lít biến thành bình 1 lít, cần có sẵn 2 lít nước trong bình 3 lít (xem Hình 209c).
Làm sao có được đúng 2 lít nước? À, , nghĩa là đổ đầy nước vào bình 5 lít; đổ 3 lít nước sang bình 3 lít; đổ hết nước ra khỏi bình 3 lít; đổ 2 lít nước từ bình 5 lít sang bình 3 lít… (xem Hình 209d).”
Rõ ràng, hiểu, nắm được lôgích của quá trình suy nghĩ giải bài toán nói trên, bạn ghi nhớ, tái hiện quá trình đó và đi đến lại lời giải dễ dàng hơn, lâu quên hơn, giúp các con bạn học tập tốt hơn (xem điểm 2 ở trên). Trong ý nghĩa này, các thầy cô cần dạy học sinh lôgích (cách, phương pháp lập luận, suy luận) suy nghĩ giải các bài toán (hiểu theo nghĩa rộng) chứ không phải nhồi nhét các kiến thức rời rạc, thiếu lôgích một cách áp đặt.
Bạn còn có thể chuyển giao lôgích tìm ra từ việc lý giải quá trình suy nghĩ giải bài toán cụ thể nói trên sang giải các bài toán tương tự, ví dụ, bài toán dưới đây:
“Một người ra sông múc nước, trong tay chỉ có hai cái bình. Bình thứ nhất đựng được đúng 9 lít nước. Bình thứ hai – đúng 4 lít nước. Hỏi người đó làm thế nào có được đúng 6 lít nước?”
Người viết tin rằng, bạn sẽ giải bài toán này một cách dễ dàng, nhanh chóng bằng cách áp dụng lôgích đã tìm ra (xem Hình 209 và văn bản đi kèm). Cao hơn nữa, dựa trên lôgích đã tìm ra, bạn còn có thể tự sáng tạo thêm nhiều bài toán “lấy nước” cụ thể khác để đố những người khác giải.
Ngoài ra, để kết thúc mục nhỏ này, người viết muốn nhấn mạnh bằng cách nhắc lại thêm một lần nữa về tầm quan trọng của tư duy bằng hình ảnh, hình vẽ (xem mục nhỏ 6.4.3. Ngôn ngữ, ký hiệu, hình vẽ của quyển hai): Không chỉ bài toán “lấy nước” cần vẽ hình (xem Hình 209) để giúp bạn suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc, bao quát mà về nguyên tắc, bất kỳ bài toán nào bạn cũng nên đặt vấn đề sử dụng tư duy thị giác (Visual Thinking). Nhờ vậy, việc phát hiện ra lôgích cần tìm, khi bạn phải lý giải quá trình suy nghĩ dẫn đến những giải pháp sáng tạo đã có, cũng trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn.
12.1.2. Lôgích nhu cầu–hệ thống
Trong mục nhỏ trước (12.1.1. Mở đầu), người viết có sử dụng thuật ngữ “lôgích” trong việc lý giải các giải pháp sáng tạo đã có. Từ “lôgích” có nhiều nghĩa (xem mục 8.1. Mở đầu của quyển ba). Do vậy, trước hết, người viết cố gắng làm rõ nghĩa của thuật ngữ “lôgích” được dùng ở đây:
- Thuật ngữ “lôgích” không phải hiểu theo nghĩa “khoa học về các quy luật của tư duy và các hình thức của nó” như “lôgích học hình thức, lôgích học biện chứng”. Tuy vậy, “lôgích” được dùng để lý giải các giải pháp sáng tạo đã có liên quan mật thiết đến tư duy lôgích (hình thức), tư duy biện chứng và nhiều hơn thế, còn liên quan đến các khoa học nghiên cứu tư duy khác, các kiến thức cần thiết phục vụ cho mục đích “lý giải”.
- Thuật ngữ “lôgích” hàm ý “cách suy luận (suy lý), lập luận, lý lẽ” nhưng không phải mang tính chủ quan kiểu “lôgích của kẻ mạnh”.
- Thuật ngữ “lôgích” hàm ý “tính hợp lý, chặt chẽ, quy luật nội tại của cái nào đó”. Trong trường hợp của chúng ta, “cái nào đó” chính là quá trình suy nghĩ, hành động tối ưu của con người dẫn đến các giải pháp sáng tạo, dẫn đến kết quả: Các bài toán cụ thể giải xong, tạo ra sự phát triển.
Như chúng ta đã biết (xem mục nhỏ 4.2.1. Các quy luật sáng tạo phải tìm chính là các quy luật phát triển của quyển một), sự phát triển có lôgích của nó và đó cũng chính là lôgích của sáng tạo và đổi mới. Lôgích này mang tính khách quan, được thể hiện trong các quy luật phát triển ở các mức độ cụ thể– khái quát khác nhau.
Đối với sự phát triển do con người tạo ra, cụ thể hơn, đối với các đối tượng do con người phát hiện ra (các phát minh) hoặc được tạo ra một cách nhân tạo (các sáng chế), tư duy giải quyết vấn đề và ra quyết định của con người chỉ trở nên tối ưu khi quá trình tư duy đó được thực hiện tuân theo (phản ánh được) lôgích khách quan về sự phát triển nói trên. Về mối liên hệ giữa “khách quan” và “chủ quan”, bạn đọc có thể xem lại mục nhỏ 4.2.2. Sáng tạo của con người: Khía cạnh chủ quan và khía cạnh khách quan của quyển một.
Tóm lại, về mặt nguyên tắc, con người chủ quan phải có lôgích suy nghĩ phù hợp lôgích khách quan về sự phát triển mới có thể đạt được năng suất và hiệu quả cao, về lâu dài, mới điều khiển được tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định).
Lôgích chủ quan, tùy theo các giai đoạn cụ thể của quá trình suy nghĩ giải các bài toán cụ thể, có thể có phần nào đó thuộc tư duy lôgích (hình thức), tư duy biện chứng, tư duy hệ thống, tư duy theo kiến thức của chuyên ngành nào đó… và các tổ hợp của chúng.
Ví dụ, trong phần lý giải một cách lôgích quá trình suy nghĩ giải bài toán “lấy nước” của mục nhỏ 12.1.1. Mở đầu (xem Hình 209 và văn bản kèm theo), khi người giải nghĩ rằng: “Giả sử đã thu được đúng 4 lít nước, vậy 4 lít nước đó phải ở trong bình 5 lít vì bình 3 lít không đựng đủ 4 lít nước (xem Hình 209a)”.
Người giải đã dùng trí tưởng tượng lôgích và tư duy lôgích (hình thức) (xem mục nhỏ 6.4.9. Trí tưởng tượng của quyển hai và mục nhỏ 8.5.2. Suy luận diễn dịch của quyển ba).
Cụ thể, người giải tưởng tượng đã thu được đúng 4 lít nước, rồi xuất phát từ tiền đề là phán đoán đúng, phản ánh hiểu biết chung: “Nếu là bình n lít thì nó chỉ có thể chứa được lượng nước m lít: 0