🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Lực Lượng Sản Xuất Và Quan Hệ Sản Xuất – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. LÊ THỊ THU MAI
NGUYỄN MAI THẢO NHUNG
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa: PHẠM THÚY LIỄU Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Đọc sách mẫu: NGUYỄN MAI THẢO NHUNG BỘI THU
Số đăng ký xuất bản: 2650-2022/CXBIPH/12-106/CTQG. Quyết định xuất bản số: 1542-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/8/2022. ISBN: 978-604-57-7940-8.
Nộp lưu chiểu tháng 8/2022.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH (Chủ biên) PGS.TS. NGÔ TUẤN NGHĨA GS.TS. MẠCH QUANG THẮNG PGS.TS. NGUYỄN KHẮC THANH PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN
PGS.TS. LÊ MINH NGHĨA
PGS.TS. VŨ THANH SƠN
5
LỜI GIỚI THIỆU
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong phương thức sản xuất. Đó là quy luật khách quan, cơ bản, phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy định sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Khi nghiên cứu về xã hội loài người, C. Mác khẳng định mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển nhảy vọt so với trước kia. Sự phát triển đó cung cấp thêm cho chúng ta những chứng cứ thực tiễn thuyết phục, để tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của C. Mác về lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn.
6 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1954), Đại hội III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà nội dung chủ yếu là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học - kỹ thuật; cách mạng tư tưởng - văn hóa; trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Xây dựng công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Kể từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta thường xuyên đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, luôn gắn với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của Đảng, đã giúp nền kinh tế - xã hội nước ta đạt được những thành tựu đáng kể. Song, nó cũng chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển.
Nhằm làm rõ nội dung cơ bản về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện chứng của nó trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin từ đó khẳng định các giá trị bền vững, những vấn đề cần bổ sung, phát triển và đề xuất, kiến nghị những nội dung phù hợp vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, góp phần đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn chuyên khảo Giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS.TS. Phạm Văn Linh làm chủ biên.
Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp nhà nước “Tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
7 LỜI NHÀ XUẤT BẢN
quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”, mã số KX.02.13/16-20 và bổ sung, cập nhật những quan điểm, chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng.
Nội dung cuốn sách gồm bốn chương:
Chương I: Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng của một số đảng cộng sản trên thế giới về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Chương II: Nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện Việt Nam.
Chương III: Bối cảnh tác động đến nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hiện nay.
Chương IV: Tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện mới.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, biên tập, song vấn đề lý luận này tiếp tục cần được nghiên cứu, bổ sung, làm sáng tỏ trong sự vận động và phát triển không ngừng, do vậy nội dung sách khó tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 9 năm 2021
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
9
LỜI NÓI ĐẦU
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại; mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển đều phải giải quyết vấn đề này. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là mối quan hệ biện chứng, vận động và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, qua các hình thái kinh tế - xã hội. Khởi đầu trong tiến trình đó là hình thái xã hội cộng sản nguyên thủy, với những đặc trưng lao động dưới hình thức săn bắn, hái lượm của con người sinh sống trong các bộ tộc, bộ lạc, tiếp đó là chế độ chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phát triển hơn, có các đặc trưng của mối quan hệ giữa chủ nô và nông nô, với những hình thức bóc lột man rợ. Chế độ phong kiến, xét về sự tiến hóa xã hội, sẽ là văn minh hơn so với chế độ chiếm hữu nô lệ, cả về sức sản xuất xã hội, cùng với sự chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, của cải xã hội được tạo ra nhiều hơn. Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, với chế độ tư bản có mức độ
10 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
phát triển khác nhau, là đỉnh cao so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đó về trình độ phát triển sản xuất và văn minh xã hội. Chủ nghĩa tư bản đến nay vẫn tiếp tục phát triển, với đặc trưng là quan hệ tư bản và lao động làm thuê. Theo tiến trình phát triển, loài người đã và đang tiến tới một hình thái kinh tế - xã hội mới, chế độ mới là chủ nghĩa xã hội với nhiều nấc thang phát triển, ở đó con người được tự do phát triển toàn diện, bình đẳng, dựa trên trình độ phát triển cao của nền sản xuất xã hội.
Cần khẳng định rằng, đây là một quá trình lịch sử, tự nhiên, phù hợp với tiến hóa của văn minh nhân loại. Điều này cũng không có nghĩa là, trong sự vận động đó, sự chia cắt, đứt đoạn là ranh giới của các hình thái kinh tế - xã hội. Đến nay, ở đâu đó, loài người vẫn chứng kiến sự tồn tại của kinh tế tự nhiên, của chiếm hữu nô lệ, phong kiến... dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, xét về đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, tương ứng với mỗi hình thái là sự vận động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đặc trưng, là quy luật vận động xuyên suốt, bên trong dẫn tới sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng của quan hệ con người với tự nhiên và quan hệ con người với con người trong sản xuất, là mối quan hệ giữa mâu thuẫn - phù hợp..., trong xu thế phát triển của văn minh nhân loại, sự vận động này nhất định đi tới một trình độ phát triển mới cao hơn, là những nấc thang để tiến tới
11 LỜI NÓI ĐẦU
một chế độ xã hội mới. Ngược lại, trong ngắn hạn, giải quyết không tốt mối quan hệ này cũng dẫn tới sự trì trệ, chậm phát triển, thậm chí khủng hoảng xã hội, điều này có thể xảy ra ở bất cứ chế độ xã hội nào.
Chính tầm quan trọng và khía cạnh chính trị của vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã dẫn tới nhiều quan điểm, cách tiếp cận, ý kiến khác nhau về vấn đề này. Cho đến nay, do đặc điểm và sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan của thời đại, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thậm chí
được xác định, là một trong những vấn đề cốt lõi của cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại. Đồng thời, chính từ tầm quan trọng của vấn đề trong quá trình phát triển, cũng đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu kỹ lưỡng, sâu sắc hơn nội dung, bản chất của từng thành tố, mối quan hệ giữa chúng đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã từng khẳng định, phương thức sản xuất này chỉ chiến thắng phương thức sản xuất trước đó khi tạo ra năng suất lao động cao hơn, do đó để chủ nghĩa xã hội hiện thực tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, cần giải quyết mối quan hệ này thế nào?
Thực tiễn cũng cho thấy, chủ nghĩa xã hội có đủ điều kiện để giải quyết vấn đề này, mặc dù đó là quá trình không
12 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
đơn giản, cần có cách tiếp cận biện chứng, xem xét đầy đủ các yếu tố tác động trong giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó đòi hỏi lý giải thấu đáo, thuyết phục. Có vấn đề đúng về lý luận, nhưng thực tiễn vận dụng, giải quyết không đúng, dẫn tới sai lầm và đương nhiên, cũng có những vấn đề từ sai lầm về quan điểm, dẫn tới vận dụng, tổ chức thực hiện trong thực tiễn thất bại. Đây là thực tế đặt ra, đòi hỏi phải nghiên cứu, tổng kết lý luận, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại.
C. Mác, Ph. Ăngghen đã tổng kết, kế thừa những quan điểm đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó. C. Mác là người có công làm cho lý luận của các nhà tư tưởng duy tâm trước đó về lực lượng sản xuất trở thành khoa học với cách tiếp cận duy vật biện chứng. Đồng thời, ông là người đầu tiên có công phát hiện ra mối quan hệ giữa người với người, trong quá trình sản xuất, được gọi là quan hệ sản xuất, các tư tưởng trên được thể hiện nhiều trong các tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, hay Gia đình thần thánh..., từ đó ông chỉ rõ, lực lượng sản xuất, gồm tư liệu sản xuất và người lao động; quan hệ sản xuất gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối. Những tư tưởng đó được V.I. Lênin vận dụng và phát triển vào thực tiễn nước Nga, sau này là Liên Xô đến năm 1924, với sự ra đời của
13 LỜI NÓI ĐẦU
Chính sách kinh tế mới (NEP), là sự tổng kết khá đầy đủ về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng đòi hỏi phải lý giải sâu sắc sự vận dụng, phát triển lý luận trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, những thành công và thất bại. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, đồng thời cho thấy, thực tiễn sáng tạo của các quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại, như Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác.
Nghiên cứu, giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với Việt Nam hiện nay. Trước hết là yêu cầu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, bổ sung và phát triển trong điều kiện mới, sau hơn 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là chuẩn bị kỷ niệm 100 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2045, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, tầm quan trọng của nghiên cứu vấn đề này còn được đòi hỏi từ thực tiễn, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, phát huy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong điều kiện mới, đồng thời khắc phục những sai lầm, khuyết điểm đã từng có trong lịch sử cả ở Việt Nam và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước trên thế giới. Cuối cùng, một nhiệm vụ quan trọng,
14 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
đó là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực cơ hội, thù địch về các vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói riêng.
Hà Nội, tháng 9 năm 2021
T/M TẬP THỂ TÁC GIẢ
PGS.TS. Phạm Văn Linh
15
Chương I
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ VẬN DỤNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG CỘNG SẢN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
I- TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA C. MÁC, PH. ĂNGGHEN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1. Những tiền đề lý luận và thực tiễn cho sự hình thành lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Tiền đề lý luận
Phép biện chứng duy vật của C. Mác được hình thành, phát triển trên cơ sở nghiên cứu toàn bộ lịch sử loài người, đó là sự kế thừa có chọn lọc, từ thấp đến cao toàn bộ tư tưởng nhân loại. Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, quan niệm duy vật về lịch sử chưa hình thành với tư cách là hệ thống lý luận khoa học. Trong tác phẩm đó, tuy C. Mác chưa đưa ra các khái niệm như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, hình thái kinh tế - xã hội,... nhưng các quan điểm duy vật biện chứng đã cơ bản được
16 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
xác lập. Ông được coi là người đi đầu trong việc xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu những yếu tố tích cực từ những nhà tư tưởng trước đó. Trước hết là tư tưởng của Giambaxtixta Vicô (1688 - 1774) người Italia, về sự tiến triển lôgíc trong lịch sử, cho rằng lịch sử loài người là sự phát sinh, hình thành của lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại phát triển theo chu kỳ khép kín. Tiếp theo là tư tưởng của G.G. Rútxô (1712 - 1778), đã mô tả xu thế chung của lịch sử loài người, thông qua sự phát triển của các quan hệ xã hội và diễn ra theo quy luật phủ định của phủ định. Sau đó, phải kể đến tư tưởng vĩ đại của Hêghen (1770 - 1831), chia lịch sử nhân loại thành ba thời kỳ: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ đại, thời kỳ Giécmanh. Ông đã thấy được lôgíc tiến triển của lịch sử, không giới hạn trong phạm vi dân tộc mà trong phạm vi toàn thế giới. Một đại biểu khác là Xanh Ximông (1760 - 1825), người theo tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, đã phân chia lịch sử loài người thành các giai đoạn phát triển chủ yếu, gắn với các hệ thống xã hội khác nhau: thời cổ đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ; thời trung đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ phong kiến; thời kỳ cận đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ tư bản chủ nghĩa. Ông đã lấy các tổ chức xã hội làm đơn vị để phân chia các giai đoạn phát triển lịch sử và lấy phương thức lao động làm yếu tố đặc trưng cho mỗi giai đoạn. Một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng khác là Phuriê Sáclơ (1772 - 1837), đã chia lịch sử loài người thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh. Đây là tư tưởng về sự phân kỳ xã hội thành những giai đoạn khác nhau của lịch sử
17 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
theo xu hướng phát triển của loài người, mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi những biểu hiện của mối quan hệ giữa người với người. Đặc biệt, Phuriê Sáclơ đã thấy được mâu thuẫn của quá trình phát triển lịch sử, nhất là trong giai đoạn văn minh.
Tiếp theo, trong các thế kỷ XVI - XVII đã xuất hiện trên thực tế các trào lưu tư tưởng chủ nghĩa xã hội, trở thành hệ thống được miêu tả sinh động phong phú qua các tác phẩm văn học, với các đại biểu như Campanela, Tômat Morơ, Uyn Xtenli... Từ thế kỷ XV, đến cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt. Giai cấp tư sản đã từng bước thiết lập địa vị thống trị và dùng nhiều phương thức áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong hoàn cảnh lịch sử đó đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo”, các nhà tư tưởng thời cận đại đã lên án, phê phán chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế xã hội đó bằng một xã hội mới thực sự tự do, công bằng, bác ái. Giai đoạn này có rất nhiều đại biểu ưu tú, điển hình là: Tômát Morơ (1478 - 1535) tác giả của tác phẩm văn học có tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu tiên, tác phẩm Không tưởng (Utôpi). Tômađô Campanenla (1568 - 1639) là tác giả của tác phẩm văn học Thành phố mặt trời.
Thế kỷ XVIII đã xuất hiện một loạt học thuyết xã hội của Môrenli, Giăng Mêliê, Giắccơ Babơp, Mabli... Lần đầu tiên trong lịch sử, Grắccơ Babớp (1760 - 1797) và những người bạn cùng chí hướng, đã bàn đến vấn đề đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ
18 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
là tư tưởng. Cuốn Tuyên ngôn của những người bình dân của chủ nghĩa Babớp được coi là cương lĩnh hành động, chưa từng có trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đây, với những biện pháp, những nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện ngay trong quá trình hành động, để đưa đến xã hội mới công bằng.
Đỉnh cao của trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng, gồm các đại biểu là: S. Phuriê, R. Ôoen, Xanh Ximông. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khi cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản hoàn thành ở Anh và sau đó tiếp tục diễn ra ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản lật đổ chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ bản chất cố hữu: bóc lột, áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi giai cấp; cũng là giai đoạn giai cấp công nhân hiện đại, hình thành và bắt đầu thức tỉnh về ý thức chính trị. Trong thời kỳ này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đã phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, đồng thời đề xuất biện pháp, con đường và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai.
Tư tưởng nổi bật ở giai đoạn này, được thể hiện ở quan điểm của Rôbớt Ôoen (1771 - 1858) - nhà nhân đạo chủ nghĩa, nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà cộng sản thực nghiệm. Khác với S. Phuriê và C.H. Xanh Ximông, điểm nổi bật trong học thuyết của Ôoen là khuynh hướng phủ nhận và lên án chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách sâu sắc và toàn diện. Ông cho rằng, chế độ sở hữu tư nhân đã và đang là nguyên nhân của vô số tội phạm, tai họa mà con người phải chịu đựng, là nguyên nhân gây ra sự gian lận, lừa đảo, mại dâm,
19 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
tội lỗi, đói nghèo, đau khổ và các tệ nạn xã hội khác. Đó là một xã hội bất hợp lý và bất chính cần phải xóa bỏ, thay thế bằng một xã hội hoàn mỹ - xã hội xã hội chủ nghĩa. Rôbớt Ôoen đã tiến hành thực nghiệm trong xã hội bằng cách xây dựng các công xã lao động, nổi bật là ở Niu La Nác (Anh) và Inđiana (Mỹ). Trong tổ chức cơ sở của xã hội mới, mọi thành viên sống như trong một gia đình. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của công xã được xây dựng trên cơ sở cộng đồng sở hữu, lao động tập thể, thực hiện bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa tất cả các thành viên...
Những tư tưởng trên đây của chủ nghĩa xã hội không tưởng, đặc biệt là tư tưởng của Ôoen, đã được C. Mác kế thừa, trong đó có tư tưởng của Pruđông về sở hữu, khi xây dựng quan niệm về quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Khi phân tích nội dung kinh tế của sở hữu, theo C. Mác cần nhận thức đúng về phạm trù sở hữu, có nội dung kinh tế phức tạp (lợi ích, giá trị). Quan hệ sở hữu đó quy định sở hữu thuộc về ai? Cơ chế, hệ thống thực hiện lợi ích kinh tế như thế nào? Tuy nhiên, bản thân các sự vật thuộc về chủ thể này hay chủ thể khác, vẫn chưa lý giải được đầy đủ nội dung kinh tế của sở hữu. Để xác định nội dung đó, phải phân tích các mối quan hệ kinh tế hiện thực. C. Mác đã phê phán sâu sắc quan niệm về sở hữu của Pruđông, cho rằng: “Trong thế giới hiện thực thì ngược lại, phân công lao động và tất cả các phạm trù khác của ngài Pruđông đều là những quan hệ xã hội mà gộp lại sẽ tạo nên cái mà ngày nay người ta gọi là sở hữu; bên ngoài những quan hệ ấy thì sở hữu tư sản chẳng qua chỉ là ảo tưởng siêu hình và mang tính pháp lý... Khi định nghĩa sở hữu là một
20 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
quan hệ độc lập thì ngài Pruđông đã phạm phải một điều tồi tệ hơn là sai lầm có tính chất phương pháp luận: ông ta đã tỏ ra không hiểu mối liên hệ đã gắn bó tất cả các hình thức của nền sản xuất tư sản...”1. Trong bức thư gửi J.B. Sơvaitơxee, ngày 24 tháng giêng năm 1865, trao đổi những quan niệm về sở hữu mà Pruđông đã đưa ra, trong cuốn Sở hữu là gì, C. Mác lại nhắc lại một lần nữa quan điểm của mình, cho rằng: “Cái mà thực chất ông Pruđông muốn nói đến là chế độ sở hữu hiện tồn chế độ sở hữu tư sản hiện đại. Đối với câu hỏi: sở hữu ấy là gì, người ta chỉ có thể trả lời bằng một sự phân tích phê phán của “khoa kinh tế chính trị”, môn học này bao quát toàn bộ những quan hệ sở hữu ấy, không phải trong biểu hiện pháp quyền của chúng, với tư cách là những quan hệ ý chí, mà là trong hình thái hiện thực của chúng, tức với tư cách là những quan hệ sản xuất”2.
Kế thừa tư tưởng của những người đi trước, C. Mác đã xây dựng nên học thuyết của mình, bao gồm trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong cuốn Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C. Mác đã tiến hành giải phẫu kinh tế học xã hội công dân, nhưng chưa đi vào nghiên cứu tầng sâu kết cấu của xã hội đó, tức là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng như vai trò của nó... Tháng 3/1845, khi viết tác phẩm Về cuốn sách của Phriđrích Lixtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học”,
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.27, tr.663.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.16, tr.41-42.
21 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
C. Mác mới đề cập đến khái niệm lực lượng sản xuất, mặc dù kết cấu của lực lượng sản xuất, đã được nhắc đến trong cuốn Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
Ph. Lixtơ (1789 - 1846) là nhà kinh tế học của giai cấp tư sản Đức. Năm 1841, Ph. Lixtơ viết tác phẩm Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học, cổ vũ cho lý luận duy tâm về lực lượng sản xuất. Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy tâm tư biện truyền thống Đức, ông cho rằng, giá trị trao đổi mới là của cải vật chất, còn lực lượng sản xuất không phải là của cải vật chất, mà chỉ là nguyên nhân của của cải vật chất, hai cái đó hoàn toàn khác nhau. Ph. Lixtơ luận chứng rằng, cái vật chất của giá trị trao đổi thì hữu hạn, còn lực lượng sản xuất mang bản tính tinh thần thì vô hạn. Của cải vật chất của giá trị trao đổi, có thể được điều tiết bằng chính sách bảo hộ thuế quan của nhà nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia, tăng cường sức cạnh tranh quốc tế. Còn lực lượng sản xuất là do nhà tư bản đầu tư xây dựng và phát triển, mang “bản chất tinh thần”, thể hiện ra thành nguyên nhân của của cải vật chất. Lý luận của Ph. Lixtơ vừa ra đời liền được tuyên truyền rộng rãi, rầm rộ ở Đức, trở thành tuyên ngôn của tư sản Đức đang mong nắm quyền thống trị, được ví như phương thuốc thần diệu, có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của nước Đức. Bởi vậy, C. Mác không thể bỏ qua lý luận duy tâm của Lixtơ, nên sau Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, ông tiến hành phê phán nghiêm túc những tư tưởng đó.
Khi phê phán Ph. Lixtơ, trước tiên C. Mác chỉ ra bản chất duy tâm trong lý luận của ông ta: Người tư sản “muốn trở nên giàu có, muốn làm ra tiền; nhưng đồng thời nó cũng cần đạt
22 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
được sự thỏa thuận với chủ nghĩa duy tâm trước kia của công chúng Đức và với lương tâm của chính nó. Do vậy, nó cố sức chứng minh rằng nó không chạy theo những phúc lợi vật chất trên trần gian, mà thay vì những giá trị trao đổi hết sức xấu xa, cuối cùng nó hướng đến một bản chất tinh thần nào đó, đến một sức sản xuất bất tận”1. Tiếp đó, C. Mác vạch trần tính chất tư sản của lý luận đó: Lixtơ nói lực lượng sản xuất mang “bản chất tinh thần”, nhằm mục đích gieo rắc sự hoang đường để lừa bịp mọi người. “Còn trên thực tế thì bản chất tinh thần đó giúp cho kẻ “thị dân” ấy nhân dịp này, nhét đầy túi mình những giá trị trao đổi của trần gian”2.
Trên cơ sở phê phán lý luận duy tâm về lực lượng sản xuất của Lixtơ, C. Mác đưa ra luận chứng về lực lượng sản xuất trên quan điểm duy vật, cho rằng: lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó, mà là một sức mạnh vật chất. C. Mác viết: “Để xua tan vầng hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất”3.
Khi phân tích các thành tố cấu thành lực lượng sản xuất, C. Mác chia chúng thành loại sức sản xuất tự nhiên và sức sản xuất của bản thân con người. Trong điều kiện khi đó, C. Mác chú trọng phân tích về con người với tính cách là một yếu tố của lực lượng sản xuất. C. Mác chỉ rõ: trong chế độ
tư bản chủ nghĩa, nếu như việc tứ chi biến dạng, lưng còng, 1, 2, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.338, 338, 354.
23 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
vai lệch, mà làm cho năng lực sản xuất tăng lên, thì đó là một loại lực lượng sản xuất. Theo ông, con người với tính cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất, không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất, mà quan trọng hơn, cùng với sức sản xuất tự nhiên, còn trở thành một lực lượng cách mạng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh đó, C. Mác đã kết hợp quan niệm về lực lượng sản xuất vật chất, với quan điểm về chế độ công nghiệp, trong sự phát triển của xã hội. C. Mác cho rằng, trong công nghiệp có một loại lực lượng, đó là sức sản xuất - do công nghiệp tạo ra (chỉ chế độ công nghiệp tư bản chủ nghĩa), trái với ý chí và ý thức của nó. Lực lượng đó là công cụ để giai cấp tư sản ngày nay thực hiện “lòng thèm khát vị kỷ (và bẩn thỉu) về lợi nhuận của mình”. “Ngày mai các lực lượng thiên nhiên và các lực lượng xã hội do công nghiệp tạo ra sẽ phá tan xiềng xích mà người tư sản dùng để ngăn cách những lực lượng ấy với con người, và qua đó biến chúng từ chỗ là mối liên hệ xã hội thật sự thành những gông cùm quái dị của xã hội”1.
Trong khi phê phán Ph. Lixtơ, C. Mác đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tình trạng phát triển của lực lượng sản xuất với chế độ công nghiệp hiện đại, ông phát hiện ra động lực chân chính của sự phát triển lịch sử. Theo C. Mác, phải dựa trên trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, để nắm vững các quan hệ kinh tế của xã hội và nguyên nhân nội tại trong các chuyển biến xã hội. Nhận thức đó là bước chuẩn bị cho một phát kiến vĩ đại của C. Mác. Trong tác phẩm
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.350-351.
24 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, ông đã nêu mối quan hệ giữa “xã hội công dân”, gia đình và nhà nước. Những tư tưởng này của C. Mác đã tiếp cận một trong những mối quan hệ cơ bản, bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, tuy rằng khi đó mối quan hệ này chưa được gọi với tên như vậy. V.I. Lênin khi nhận định về cuốn Gia đình thần thánh, đã viết: Trong tác phẩm này, C. Mác đã tiến gần đến “tư tưởng về quan hệ sản xuất”. C. Mác đã bàn nhiều đến lợi ích và coi lợi ích là nhịp cầu kết nối các thành viên trong xã hội, lợi ích là động lực phát triển của lịch sử, với tư cách lợi ích là động lực của con người theo đuổi những mục đích nhất định.
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức đánh dấu sự hình thành quan niệm duy vật lịch sử của C. Mác, song những khái niệm, nguyên lý, quy luật mới chỉ được phác họa trên những nét cơ bản, còn mối quan hệ nội tại giữa chúng chưa được trình bày một cách rõ ràng. Khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, ông xuất phát từ con người hiện thực trong đời sống xã hội, nghĩa là những cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, trước hết là trong hoạt động sản xuất vật chất. Những cá nhân hiện thực là tế bào của cơ thể xã hội và từ đó cấu thành toàn bộ lịch sử loài người. Xuất phát từ đời sống hiện thực, với tất cả biểu hiện sinh động của nó, trên cơ sở quan điểm tổng hợp, C. Mác, Ph. Ăngghen đã làm rõ những yếu tố và mối liên hệ tất yếu giữa các yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội, trong đó mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một trong những mối quan hệ cơ bản.
25 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Theo C. Mác, con người muốn tồn tại trước hết cần có cái ăn, cái mặc, cái ở,... sau đó mới nói đến làm chính trị, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức..., mà muốn có cái ăn, cái ở, cái mặc,... thì phải tiến hành sản xuất vật chất. Cho nên, theo C. Mác sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Để sản xuất vật chất được, con người cần tiến hành hai “mối quan hệ song trùng”, đó là quan hệ với giới tự nhiên và quan hệ với nhau trong sản xuất vật chất. Quan hệ với tự nhiên, được biểu hiện thành cái được C. Mác gọi là lực lượng sản xuất, quan hệ với nhau trong sản xuất vật chất, được biểu hiện thành cái mà ông gọi là quan hệ giao tiếp (sau này C. Mác gọi là quan hệ sản xuất).
Như vậy, tách riêng lĩnh vực sản xuất vật chất, C. Mác, Ph. Ăngghen đã vạch ra những yếu tố cơ bản của sản xuất vật chất, đó là lực lượng sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự giao tiếp và hình thức của sự giao tiếp, phương thức sản xuất, xã hội công dân và mối liên hệ tất yếu giữa chúng. Những mối quan hệ này được các ông quy lại thành hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất. Từ xem xét lĩnh vực sản xuất vật chất, các ông đã chuyển sang xem xét những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như cơ cấu xã hội (giai cấp, gia đình, đẳng cấp,...), kiến trúc thượng tầng, chính trị, nhà nước pháp quyền, ý thức xã hội nói chung, sự sản xuất tinh thần và mối quan hệ giữa chúng. Đặt tất cả những yếu tố và những mối liên hệ nói trên trong một chỉnh thể, trong hệ thống lý luận, C. Mác đã chỉ ra sự quy định, phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng theo những trật tự, quy luật nhất định.
26 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
C. Mác, Ph. Ăngghen viết: “Quan niệm đó về lịch sử là: phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp, để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp, gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra - tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó - là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả sự hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v., và theo dõi quá trình phát triển của chúng trên cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được toàn bộ quá trình (và do đó có thể miêu tả được cả sự tác động qua lại giữa những mặt khác nhau của quá trình đó)”1.
Đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã xác định rõ hơn nội hàm của khái niệm phương thức sản xuất. Đặc biệt nói về yếu tố cấu thành thứ hai của phương thức sản xuất, C. Mác đã gọi đích danh đó là quan hệ sản xuất. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đánh dấu sự hình thành toàn bộ thế giới quan duy vật mácxít. Mặc dù tác phẩm bàn chủ yếu về giai cấp, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, nhưng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, với tư cách là cơ sở của nó, cũng được bổ sung thêm về nội dung. C. Mác đã chỉ rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện về mặt xã hội là quy luật đấu tranh giai cấp trong các xã hội có đối kháng giai cấp.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.54.
27 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được trình bày cụ thể hơn trong cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Trong lời tựa của cuốn sách này, C. Mác đã viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”1. Quan điểm trên đã xác định rõ ràng, cụ thể kết cấu xã hội phức tạp, gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ, trong đó nổi lên ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng tương ứng với quan hệ sản xuất ấy và mối liên hệ gắn bó giữa chúng.
Ý nghĩa to lớn của quan niệm duy vật lịch sử được thể hiện rõ nét trong nghiên cứu của C. Mác khi giải phẫu một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, đó là hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Kết quả nghiên cứu này được thể hiện
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.14-15.
28 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
trong bộ Tư bản. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng như mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, v.v. đã được ông trình bày một cách rõ ràng. Cũng trong tác phẩm này, C. Mác đã nêu ra luận điểm nổi tiếng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”1.
b) Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn cho sự hình thành lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen về biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chính là toàn bộ lịch sử nhân loại. Nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người, C. Mác phát hiện ra sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thông qua tính lặp đi lặp lại một cách ổn định của mối quan hệ này. Quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối, nhưng không phải là bất biến, mà luôn vận động, biến đổi một cách khách quan theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là thước đo trình độ văn minh của nhân loại. Xét đến cùng, những biến đổi của lực lượng sản xuất đưa nhân loại lần lượt phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao.
Trong hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của sự phát triển lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất thể hiện dưới những hình thức đơn giản sơ khai, trong đó hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của lực lượng sản xuất. Con người sinh sống dựa vào chiếm hữu tự nhiên, chủ yếu là hái lượm và săn bắn. Khi lực lượng sản xuất
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.21.
29 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
phát triển đến một trình độ nhất định, ở đó con người không còn hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, mà đã biết trồng trọt, thì cũng là lúc xuất hiện hình thức sở hữu thứ hai, sở hữu công xã về ruộng đất. Chế độ sở hữu công xã về ruộng đất tồn tại khá lâu trong lịch sử loài người, thậm chí ở Ấn Độ và nhiều nơi khác đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn nhiều hình thức của chế độ sở hữu công xã. Khi ngành chăn nuôi ra đời, sức sản xuất tăng lên thì cũng xuất hiện hình thức sở hữu thứ ba trong xã hội cộng sản nguyên thủy, đó là sở hữu gia đình, cá thể về súc vật. C. Mác viết: “Và một điều nữa cũng chắc chắn là khi bước vào thời kỳ có lịch sử thành văn, thì đâu đâu các đàn gia súc cũng là tài sản đã được tách riêng ra của các chủ gia đình, giống như các tác phẩm nghệ thuật thời dã man, dụng cụ gia đình bằng kim khí, các xa xỉ phẩm, và sau hết giống như gia súc - người, tức nô lệ”1.
Ở thời kỳ bắt đầu lịch sử thành văn, đất đai bị phân chia, hình thành thêm sở hữu tư nhân, nền sản xuất hàng hóa bắt đầu phát triển. Bên cạnh của cải bằng hàng hóa, đã xuất hiện thêm của cải bằng thân thể người nô lệ; bên cạnh của cải bằng tiền, còn xuất hiện của cải bằng ruộng đất. Quyền sở hữu tư nhân về những mảnh ruộng đất do thị tộc hoặc bộ lạc chia cho họ lúc ban đầu, đã được củng cố đến mức trở thành những mảnh ruộng cha truyền con nối. Ruộng đất có thể trở thành hàng hóa, người ta có thể đem bán hoặc đem cầm nợ. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thức sở hữu đặc trưng vẫn là sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã (biểu hiện
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.89-90.
30 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
của quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thủy), khi đó con người chỉ tồn tại được trên cơ sở của sự phụ thuộc lẫn nhau, phù hợp với trình độ thấp của công cụ lao động.
Đến hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, lực lượng sản xuất có bước chuyển biến lớn, công cụ lao động có sự phát triển mới, con người tiến hành sản xuất chủ yếu với những công cụ bằng kim loại, kéo theo quan hệ sản xuất có những thay đổi tương ứng. Trong giai đoạn này, những công cụ lao động bằng kim loại mềm (bằng đồng), bắt đầu được thay thế bằng công cụ lao động chế tạo từ kim loại cứng (bằng sắt), tạo nên biến đổi lớn trong năng suất lao động. Điều này đem lại cho con người một vị thế mới, thoát khỏi tình cảnh lệ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên. Cùng với đó là loại hình sở hữu công xã được thay thế bằng loại hình sở hữu tư nhân và Nhà nước nô lệ - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại ra đời. Tuy vậy, sở hữu công xã chưa mất đi mà vẫn tiếp tục tồn tại. Bên cạnh sở hữu công xã, xuất hiện thêm hình thức sở hữu nhà nước. Trong xã hội nô lệ, do năng suất lao động ngày càng tăng, nhờ công cụ được cải tiến, tù binh trong chiến tranh và những người bị phá sản trong sản xuất, không còn là gánh nặng đối với cộng đồng nữa, trái lại chính họ lại trở thành lực lượng lao động, có thể tạo ra một khối lượng sản phẩm thặng dư lớn, nhờ thế họ trở thành nô lệ. Những người nô lệ được coi là những công cụ biết nói và được đối xử như đàn gia súc. Ph. Ăngghen viết: “Đàn bà làm vợ trước kia dễ kiếm biết bao, thì nay là món hàng có giá trị trao đổi và phải mua; cả sức lao động cũng thế, nhất là từ khi các bầy gia súc vĩnh viễn trở
31 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
thành sở hữu của gia đình. Gia đình không sinh sôi nhanh như gia súc... người ta có thể dùng những kẻ địch bị bắt làm tù binh để làm việc đó, hơn nữa tù binh cũng có thể sinh sôi nảy nở dễ dàng như gia súc vậy”1. Có nhiều hình thức sở hữu trong xã hội chiếm hữu nô lệ, như sở hữu công xã, sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước, nhưng đặc trưng chung của xã hội chiếm hữu nô lệ là sự chiếm hữu về mặt thân thể người nô lệ.
Sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ, mặc dù dựa trên cơ sở bóc lột nô lệ, nhưng là một bước tiến của lịch sử. Thời kỳ đầu, nhờ bóc lột người nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ đã có những bước phát triển đột phá,... lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, nhưng về sau sự phát triển của lực lượng sản xuất đã trở nên xung đột với hình thức bóc lột dựa trên chiếm hữu người nô lệ. Những người nô lệ đã đập phá công cụ sản xuất, máy móc. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Xpáctacút lãnh đạo chống lại chế độ chiếm hữu nô lệ. Tầng lớp chủ nô tiến bộ cũng tự nhận thấy sự tồn tại của xã hội chiếm hữu nô lệ là bất hợp lý. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của xã hội chiếm hữu nô lệ, sự ra đời của xã hội phong kiến, người nô lệ được giải phóng, trở thành nông nô trong chế độ phong kiến.
Sang xã hội phong kiến, sở hữu công xã vẫn tiếp tục tồn tại, người nông nô “chẳng những là người chủ - mặc dầu đó là những người chủ phải nộp vật cống - của những mảnh đất nhỏ thuộc về nhà ở của họ, mà họ còn là những người chủ chung
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.90.
32 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
của những đất đai của công xã nữa”1. Bên cạnh sở hữu công xã, còn có sở hữu nhỏ của nông dân. Người nông dân tự do làm chủ những mảnh ruộng của mình. Trong chế độ phong kiến, sở hữu ruộng đất gắn liền với tư hữu, C. Mác viết: “Nói chung, sự thống trị của chế độ tư hữu bắt đầu từ chế độ chiếm hữu ruộng đất; chế độ chiếm hữu ruộng đất là cơ sở của chế độ tư hữu”2. Trong xã hội phong kiến, công cụ lao động thủ công và đi liền với nó là ngành tiểu thủ công nghiệp khá phát triển và ngành thương nghiệp cũng rất phát triển. Vì thế, cùng với sở hữu ruộng đất ở nông thôn, thì ở thành thị có sở hữu phường hội, tức là tổ chức phong kiến của thủ công nghiệp. Như vậy, trong xã hội phong kiến hình thức chủ yếu của quan hệ sản xuất, một mặt là sở hữu ruộng đất dựa trên lao động của nông nô, bị cột chặt vào nó, mặt khác là lao động của bản thân, tiến hành với một tư bản nhỏ, chi phối lao động của thợ bạn, phù hợp với trình độ thủ công của lực lượng sản xuất.
Trong khi ở phương Tây, chế độ tư hữu về ruộng đất tồn tại phổ biến, thì ở phương Đông lại không như vậy. Sự phát triển ở phương Đông có những nét riêng, độc đáo, C. Mác gọi là “phương thức sản xuất châu Á”. Ở châu Á khi đó không tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất. Trong bức thư gửi cho Ph. Ăngghen ngày 02/6/1853, C. Mác viết: “không có chế độ tư hữu về ruộng đất. Đây là chiếc chìa khóa đích thực ngay cả cho bầu trời phương Đông”3, và “vua là người chủ sở hữu duy nhất
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.1000.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.119.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.28, tr.340.
33 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
của tất cả ruộng đất trong nước”1. Trong bức thư gửi lại cho C. Mác ngày 07/6/1853, Ph. Ăngghen cũng thừa nhận như vậy, ông viết: “Việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất quả thật là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương Đông. Đó là cơ sở của toàn bộ lịch sử chính trị và tôn giáo của phương Đông”2.
Đến xã hội tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất có nhiều biến đổi lớn: phương thức sản xuất tự cung tự cấp trong xã hội phong kiến bị nền sản xuất hàng hóa tư bản phủ định, công cụ lao động thủ công bị thay thế bằng công cụ cơ khí một cách phổ biến. Nếu như hình ảnh tiêu biểu tượng trưng cho lực lượng sản xuất phong kiến là chiếc cối xay gió, thì sang chủ nghĩa tư bản là đầu máy hơi nước. Chủ nghĩa tư bản tạo nên một bước tiến lớn trong lịch sử loài người, đã tạo ra một khối lượng của cải đồ sộ, bằng tổng số tất cả của cải do các xã hội trước tạo nên. Những thay đổi to lớn của công cụ lao động, của nền sản xuất hàng hóa, đã chi phối quá trình biến đổi của quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sở hữu công xã về ruộng đất vẫn tiếp tục tồn tại, thậm chí còn phổ biến ở nhiều nơi. C. Mác viết: “Ở Ấn Độ, đến ngày nay, vẫn còn có rất nhiều hình thức của chế độ sở hữu công xã. Ở nước Đức, chế độ sở hữu đó đã là hiện tượng phổ biến; những ruộng đất công hiện vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, là những tàn dư của chế độ sở hữu công xã: người ta vẫn thường thấy, đặc biệt là ở miền núi, những vết tích rõ rệt của chế độ sở hữu ấy”3. Theo C. Mác, sự
1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.28, tr.339, 345. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.761.
34 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
tồn tại của sở hữu công xã trong xã hội tư bản chủ nghĩa, là loại hình thức sở hữu cực kỳ lạc hậu, lạc hậu hơn cả sở hữu tư nhân hiện đại và không thể dung thứ được. Sở hữu ruộng đất tiếp tục tồn tại trong chủ nghĩa tư bản, nhưng khác với trong chế độ phong kiến, sở hữu ruộng đất tồn tại với tư cách là hàng hóa, cho nên thường xuyên diễn ra sự cạnh tranh giữa những người sở hữu ruộng đất, biến sở hữu nhỏ thành sở hữu lớn của một số ít người, bên cạnh sự cạnh tranh còn là sự tước đoạt ruộng đất, tư liệu lao động, công cụ sản xuất của đông đảo nhân dân lao động. Sự tước đoạt đó bị chi phối bởi quy luật nội tại của bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dưới chủ nghĩa tư bản, do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao nên quan hệ sản xuất có sự biến đổi, đã xuất hiện một số hình thức sở hữu mới, như: sở hữu cổ phần (xuất hiện từ thế kỷ XVII), hợp tác xã, sở hữu tư bản nhà nước (xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX)... Tuy nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất đặc trưng vẫn là sở hữu tư nhân. Đến nay, do lực lượng sản xuất phát triển mang tính chất xã hội hóa cao độ nên sự thay đổi của quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa tư bản, cũng có nhiều biến đổi khác với trước kia. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở hữu tư nhân vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhưng cũng xuất hiện thêm nhiều hình thức sở hữu mới mà thời C. Mác chưa hề có, như công nhân cũng có sở hữu trong các xí nghiệp cổ phần của các nhà tư bản và xuất hiện các xí nghiệp công quản, v.v..
Sự biến đổi của quan hệ sản xuất trong lịch sử nhân loại, sự phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, là xu hướng chung của tất cả các hình thái kinh tế - xã hội, phù hợp
35 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
với sự phát triển của phân công lao động trong sự phát triển của lực lượng sản xuất từng thời kỳ lịch sử. Đây là cơ sở thực tiễn khách quan, góp phần khẳng định tính đúng đắn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do C. Mác phát hiện.
2. Nội dung lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất trong hình thái kinh tế - xã hội
Khi nghiên cứu quy luật vận động của lịch sử, C. Mác thấy rằng, sản xuất vật chất là cơ sở của sự ra đời, tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Từ đó, C. Mác đi đến kết luận: thực chất của lịch sử loài người là lịch sử của sản xuất vật chất. Kết luận của C. Mác thể hiện tính biện chứng và quan điểm duy vật khoa học sâu sắc. Theo quan điểm biện chứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng đều có nguyên nhân, do đó để tìm hiểu một hiện tượng nào đó thì phải tìm hiểu từ nguyên nhân sinh ra nó. Sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người, có nguồn gốc sâu xa từ sản xuất vật chất, vì vậy để nghiên cứu lịch sử loài người không thể không xuất phát từ sản xuất vật chất. Chính nhờ sự lựa chọn điểm xuất phát nghiên cứu đúng, C. Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, làm cho triết học không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, mà còn duy vật cả trong lĩnh vực xã hội.
Khi nghiên cứu sản xuất vật chất, C. Mác đã phát hiện “mối quan hệ song trùng”. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức,
36 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
C. Mác viết: “sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì”1. Để tiến hành sản xuất vật chất, con người phải quan hệ với tự nhiên. Đó không phải là quan hệ nhìn ngắm, mà là quan hệ chiếm hữu, quan hệ cải tạo, quan hệ chinh phục giới tự nhiên nhằm sáng tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu của con người. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được biểu hiện thành cái mà C. Mác gọi là lực lượng sản xuất. Nhưng con người không thể tiến hành sản xuất vật chất hiệu quả nếu hoạt động một cách riêng lẻ, tách rời nhau, phải hợp sức với nhau, nương tựa vào nhau, liên kết với nhau, mới chinh phục được giới tự nhiên. Quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất được biểu hiện thành cái mà C. Mác gọi là quan hệ sản xuất. Có thể nói, các thuật ngữ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cũng như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là những vấn đề do C. Mác là người đầu tiên nêu ra.
Như vậy, lực lượng sản xuất là thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện năng lực thực tiễn của con người, thể hiện trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Có nhiều cách diễn giải khác nhau về lực lượng sản xuất, tuy nhiên có thể định nghĩa về lực lượng sản xuất một
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.42.
37 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
cách ngắn gọn như sau: lực lượng sản xuất là sự kết hợp hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất trước hết là với công cụ lao động, nhằm tạo nên một sức sản xuất nhất định. Hay, lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất và kinh nghiệm lao động của họ, tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất vật chất... Như vậy, có thể thấy về mặt kết cấu, lực lượng sản xuất gồm hai bộ phận cơ bản: người lao động và tư liệu sản xuất.
Người lao động có hai đặc trưng: tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo lao động,... và sức lao động (sức cơ bắp). Giữa hai đặc trưng nêu trên, đặc trưng nào quan trọng hơn? Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét trong những điều kiện lịch sử nhất định. Nếu ở những xã hội dựa trên trình độ thấp của lực lượng sản xuất, khi công cụ lao động chủ yếu còn ở trình độ thủ công, công cụ cầm tay, thì sức lao động giữ vai trò quan trọng hơn, vì ai có thể lực tốt hơn sẽ sản xuất ra nhiều của cải hơn. Còn trong thời đại ngày nay, ở những nước công nghiệp phát triển, thì yếu tố tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo,... ngày càng trở nên quan trọng hơn. Ngoài ra, nếu xét trên cả bề rộng không gian lẫn chiều dài thời gian, thì yếu tố tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo... giữ vai trò ngày càng tăng lên, vì suy đến cùng, sức lao động cơ bắp của người lao động chỉ có giới hạn nhất định, con người không thể tăng mãi sức cơ bắp của mình, còn lao động trí tuệ của con người là vô hạn, bởi bộ não con người không chỉ phản ánh nguyên xi giới tự nhiên mà còn có khả năng sáng tạo. Điều đó làm cho người lao động trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn lực lâu dài, nguồn lực đặc biệt, nguồn lực vô tận của sản xuất vật chất.
38 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Tư liệu sản xuất gồm công cụ lao động, đối tượng lao động, phương tiện sản xuất (như đường sá, cầu cống, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, bao bì,...). Đối tượng lao động là tất cả những gì mà lao động của con người hướng tới, như: đất đai và các lớp đất đai bên trong nó, thế giới thực vật và động vật, các vật liệu khác... Công cụ lao động là những vật hoặc tổ hợp những vật mà con người đặt giữa mình và đối tượng lao động để truyền tác động của con người tới đối tượng lao động. C. Mác đã dự báo “tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”1, đó là yếu tố khoa học, rõ ràng khoa học thẩm thấu vào trong lực lượng sản xuất, không phải là một bộ phận độc lập nằm bên ngoài lực lượng sản xuất.
Người lao động giữ vị trí hàng đầu trong lực lượng sản xuất, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”2, còn công cụ lao động giữ vị trí quyết định trong tư liệu sản xuất, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, là “khí quan vật chất” nối dài “khí quan nhục thể” của con người, nhân lên sức mạnh của con người, là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động nói lên thực chất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Phương tiện sản xuất là yếu tố làm cho lực lượng sản xuất trở nên đồng bộ hoặc mất tính đồng bộ. Ngày nay khoa học giữ vai trò ngày càng quan trọng, làm
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.46, ph.2, tr.372. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.257.
39 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
cho kinh tế thế giới chuyển sang một bước ngoặt mới trong quá trình phát triển, đó là kinh tế tri thức.
Vai trò của lực lượng sản xuất trong hình thái kinh tế - xã hội: Hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ một xã hội cụ thể, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử loài người, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Hình thái kinh tế - xã hội, về mặt cấu trúc, gồm ba bộ phận cấu thành cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng (ngoài những yếu tố cơ bản này, mỗi hình thái kinh tế - xã hội, còn những yếu tố không cơ bản khác, như: quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình, v.v.), trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định sự phát triển của xã hội. Xét đến cùng, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, đưa xã hội loài người phát triển không ngừng từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác ngày càng cao. Khi nói về vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội loài người, C. Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”1. b) Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất trong hình thái kinh tế - xã hội
Nội hàm cơ bản của quan hệ sản xuất, lần đầu tiên được C. Mác trình bày trong tác phẩm Gia đình thần thánh, khi
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.269.
40 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
phân tích mối quan hệ giữa con người với sản phẩm lao động: “vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người, với tư cách là sự tồn tại vật thể của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người vì người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội của người đối với người”1. Trong cuốn Hệ tư tưởng Đức, phạm trù quan hệ sản xuất đã hình thành về căn bản, cho rằng, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, là một mặt của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của “mối quan hệ song trùng” của sản xuất vật chất thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó.
C. Mác đã luận giải rằng, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, rằng “đứa trẻ nào cũng biết là một nước sẽ chết đói nếu ngừng lao động, tôi không nói trong một năm mà ngay trong một vài tuần lễ bởi một chân lý đơn giản là “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa”2. Và để có nước uống, thức ăn, nhà ở... thì con người cần sản xuất vật chất. Để sản xuất vật chất, con người phải thực hiện “mối quan hệ song trùng”, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác, Ph. Ăngghen gọi đây là hình thức giao tiếp.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.65.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.40.
41 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Về sau, trong cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông mới sử dụng khái niệm quan hệ sản xuất, theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, có thể định nghĩa quan hệ sản xuất như sau: Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi hoạt động cho nhau, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất xét về kết cấu, gồm có ba bộ phận cấu thành cơ bản: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ chức quản lý sản xuất, trong phân phối sản phẩm lao động. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ trung tâm, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, cũng như các quan hệ xã hội khác.
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác đã chỉ rõ, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất vật chất. Ông cho rằng, trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại, sản xuất vật chất chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của sự kết hợp giữa hai nhân tố cơ bản của sản xuất là người lao động và tư liệu sản xuất. Chừng nào hai nhân tố đó tách rời nhau thì chúng chỉ dừng ở vai trò là những nhân tố tồn tại dưới dạng khả năng của quá trình sản xuất vật chất. Từ đó C. Mác khẳng định,
42 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
phương pháp đặc thù để tiến hành sự kết hợp giữa hai nhân tố đó, chính là cái cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế trong lịch sử. Do vậy, sự phát triển của mối quan hệ giữa lao động và sở hữu cần được nghiên cứu dưới góc độ là mối quan hệ giữa các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là đặc trưng cơ bản của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ quy định các quan hệ khác trong hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định. Trong lịch sử nhân loại, có hai hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất xuất hiện đầu tiên trong xã hội cộng sản nguyên thủy, còn sở hữu tư nhân tồn tại trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. C. Mác viết: “Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra”1.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Mỗi chế độ kinh tế - xã hội đều có một hình thức tổ chức, quản lý sản xuất riêng. Quan hệ này thể hiện quyền lực của một cá nhân, tổ chức hay cộng đồng đối với quá trình sản xuất vật chất. Về thực chất,
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.1059-1060.
43 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
tổ chức quản lý sản xuất là việc tổ chức và điều hành cách thức vận động của một nền sản xuất nhất định. Người nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất là người quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, số lượng bao nhiêu, v.v.. Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, trong chế độ tư hữu, người sở hữu tư liệu sản xuất trở thành người tổ chức, quản lý sản xuất, người không có tư liệu sản xuất trở thành người bị điều hành theo sự tổ chức, quản lý của người sở hữu tư liệu sản xuất.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Quan hệ phân phối sản phẩm là một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất. Việc phân phối sản phẩm cho mỗi cá nhân được xác định trên cơ sở tỷ lệ tham dự của cá nhân vào sản phẩm được sản xuất ra, tuy nhiên, tỷ lệ đó như thế nào lại lệ thuộc bản chất của mỗi chế độ xã hội. Quan hệ phân phối sản phẩm bị quy định bởi quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, song do nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của người lao động cho nên nó tác động đến hành vi, thái độ của con người trong quá trình sản xuất vật chất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất. Nếu quan hệ lợi ích được giải quyết thỏa đáng, phân phối công bằng, người lao động sẽ có thái độ tích cực trong quá trình sản xuất, góp phần đưa năng suất lao động lên cao và thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ phân phối không phù hợp, không giải quyết tốt các quan hệ lợi ích, vi phạm lợi ích của người lao động, khi đó người lao động sẽ mất động lực, thái độ không tích cực, dẫn đến kìm hãm sản xuất.
44 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Vai trò của quan hệ sản xuất trong hình thái kinh tế - xã hội:
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội gồm nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau, tạo thành cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định. Các loại hình quan hệ sản xuất đó tác động qua lại lẫn nhau hợp thành một cơ cấu kinh tế nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, thường bao gồm ba loại quan hệ sản xuất cơ bản, đó là: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và tạo nên cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng giữ vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất thống trị.
Theo C. Mác, quan hệ sản xuất với tư cách một tổng thể, là tiêu chuẩn trực tiếp để phân biệt các giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử loài người, phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của toàn bộ những quan hệ tinh thần, tư tưởng, của hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Trong Lời tựa viết cho cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C. Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
45 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”1. Như vậy, theo C. Mác toàn bộ các quan hệ sản xuất xã hội, tồn tại hiện thực trong mỗi phương thức sản xuất, “hợp thành” cơ cấu kinh tế của xã hội. Từ trong toàn bộ các quan hệ xã hội, ông đã chỉ ra quan hệ sản xuất là cái cơ bản, quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
Nói cách khác, quan hệ sản xuất là “bộ xương” của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Nếu lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của toàn bộ hoạt động sản xuất tinh thần, của những quan hệ tư tưởng và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Quan hệ sản xuất nếu xem xét trong nội bộ một phương thức sản xuất, thì sẽ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác, nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì quan hệ sản xuất “hợp thành” cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó người ta dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở thực tại đó.
3. Nội dung lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Trong lịch sử loài người, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng, là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, bên trong giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất luôn luôn biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, và với sự
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.
46 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất do nhiều nhân tố tác động, trước hết là lực lượng sản xuất. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định trong mỗi phương thức sản xuất. Tư tưởng đó đã được C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức: “Tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được, quyết định trạng thái xã hội”1. Lực lượng sản xuất không những là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất, thay đổi các quan hệ xã hội. Khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất, trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác cũng đã viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”2. Do đó, lực lượng sản xuất, xét đến cùng giữ vai trò quyết định sự thay đổi của phương thức sản xuất, dẫn tới thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội. Còn quan hệ sản xuất chỉ là cái biểu hiện bên ngoài, là hình thức xã hội của một phương thức sản xuất nhất định, quan hệ sản xuất bị
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.42.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
47 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
quyết định bởi nội dung của phương thức sản xuất, đó chính là lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến đổi, phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ nhu cầu của con người, con người không bao giờ thỏa mãn với những cái đã có, thường xuyên nảy sinh nhu cầu mới cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu ấy, buộc con người phải khám phá tự nhiên, cải tạo tự nhiên, chinh phục tự nhiên. Trên cơ sở ấy, con người làm phong phú tri thức, kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo của mình và sáng tạo ra những tư liệu sản xuất mới. Đó cũng chính là sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình ấy làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, nhưng tồn tại và phát triển mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, bởi vì:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất không phải do một cá nhân tạo ra, mà là sản phẩm tổng hợp của sự hợp tác và phân công lao động của cả cộng đồng người, trên nền tảng của các yếu tố quan hệ sản xuất tương ứng. Sự hợp tác và phân công lao động ấy, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ ai, là một tất yếu khách quan của sự phát triển của xã hội. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác, Ph. Ăngghen viết: “lực lượng xã hội, - tức là lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời nhờ sự hợp tác của những cá nhân khác nhau do phân công lao động quy định - biểu hiện, không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự hợp tác đó xuất hiện
48 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
không phải là một cách tự nguyện mà là một cách tự nhiên; mà biểu hiện như là một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà bản thân họ cũng chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ không thể chế ngự được và trái lại, lực lượng ấy đang trải qua một chuỗi những giai đoạn và trình độ phát triển chẳng những độc lập đối với ý chí và hành động của loài người mà trái lại còn”1.
Thứ hai, mỗi người, mỗi thế hệ không thể tự lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình, mà phải kế thừa một cách tự nhiên những lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại, cùng với các yếu tố đã lỗi thời của phương thức sản xuất cũ và các yếu tố mới của quan hệ sản xuất cũng xuất hiện. C. Mác viết: “Thật là thừa nếu nói thêm vào đó rằng, con người không được tự do trong việc lựa chọn lực lượng sản xuất của mình, lực lượng lại là cơ sở của toàn bộ lịch sử của con người; bởi vì mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó”2.
Lực lượng sản xuất phát triển liên tục và lần lượt trải qua các trình độ: thủ công, cơ khí, tự động hóa, tin học hóa. Trình độ thủ công là trình độ thấp của lực lượng sản xuất, tồn tại trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Trình độ cơ khí xuất hiện cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ở trình độ này, con người lao động bằng máy móc đưa năng suất lao động lên cao, của cải tăng lên không ngừng, v.v..
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.49.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.657.
49 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ của lực lượng sản xuất là một tất yếu khách quan, do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. C. Mác khẳng định: “Sự chiếm hữu đó trước hết được quy định bởi đối tượng cần chiếm hữu, ở đây là những lực lượng sản xuất đã phát triển thành một tổng thể xác định và chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến. Dưới góc độ này, sự chiếm hữu đó đã nhất thiết phải có tính chất phổ biến, phù hợp với những lực lượng sản xuất và với sự giao tiếp”1. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C. Mác viết: “khi những tư liệu sản xuất vật chất, những lực lượng sản xuất mà thay đổi và phát triển thì những quan hệ xã hội trong đó những cá nhân sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất xã hội cũng thay đổi, biến đổi theo”2. Điều này cho thấy, ngoài việc lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn một nghĩa khác là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này được xem xét từ lực lượng sản xuất, phải lấy lực lượng sản xuất làm thước đo, làm tiêu chuẩn. Sự phù hợp này do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra, nhằm đáp ứng những yêu cầu của lực lượng sản xuất. C. Mác đã viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.97.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.553.
50 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ”1. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, không phải là sự phù hợp chung chung trừu tượng, mà là sự phù hợp rất xác định. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động”2. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một trạng thái, trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện sử dụng, kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, mang lại năng suất lao động cao. Sự phù hợp đó tạo điều kiện, và là cơ sở, là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển.
Biện chứng của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất diễn ra theo quá trình: phù hợp - không phù hợp - phù hợp - v.v.. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sự phù hợp chứa đựng mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn. Bởi vì, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, trong khi đó quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối (do tác động của thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền,...). Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.14.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.31.
51 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Chính vì thế, C. Mác đã khẳng định: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”1. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp lại trở nên không phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng gay gắt, quan hệ sản xuất “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất”2. Mâu thuẫn phát triển đến một mức độ nhất định, tất yếu lực lượng sản xuất sẽ đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó.
Ph. Ăngghen viết: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa”3. Sự đòi hỏi khách quan là phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp lại tiếp tục thúc
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.553.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.607.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.467.
52 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đến một giai đoạn nào đó, quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp, lại trở nên không phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất, do vậy con người lại phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất,... Cứ như vậy, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng, như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình”1.
C. Mác và Ph. Ăngghen có sự phân biệt giữa mâu thuẫn và xung đột. Tuy nhiên, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, các ông chưa phân biệt rõ hai khái niệm “mâu thuẫn” và “xung đột” giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà vẫn còn
có sự đồng nhất giữa hai khái niệm này. Sau này, các ông đã chỉ rõ mâu thuẫn và xung đột không phải là một. Mâu thuẫn đối kháng giữa chúng tồn tại trong suốt lịch sử phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn đối kháng đó chỉ trở thành xung đột ở một giai đoạn phát triển nhất định trong chủ nghĩa tư bản, khi mà quan hệ sản xuất trở thành cái kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã có bước tiến mới trong việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
53 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ông đã xác định rõ, xung đột giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, với tính cách là cơ sở của cuộc cách mạng xã hội. Ở tác phẩm này, trong thư gửi cho Annencốp (1847), trên cơ sở phân biệt rõ các khái niệm “mâu thuẫn”, “xung đột” giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, C. Mác rút ra kết luận: Tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải từ sự đối kháng tự nó giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất,
mà từ “sự xung đột giữa những lực lượng sản xuất đã đạt được của con người với những quan hệ xã hội của họ không còn phù hợp với những lực lượng sản xuất ấy nữa”1.
Trong các tác phẩm của mình, C. Mác mới chỉ đề cập đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất với tính cách là mâu thuẫn mang tính khách quan, C. Mác chưa đề cập đến trường hợp mâu thuẫn này do yếu tố chủ quan của con người gây nên. Ông xuất phát từ công cụ sản xuất và đặt trong mối quan hệ với hình thức sở hữu để đánh giá, xem xét về sự phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác, Ph. Ăngghen đã viết: “Chúng ta vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất, và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những giai đoạn công nghiệp nhất định. Trong industrie extractive2, sở hữu tư nhân còn hoàn toàn ăn khớp với lao động; trong công nghiệp nhỏ và trong toàn bộ nông nghiệp, cho tới nay, sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.669.
2. Công nghiệp khai khoáng.
54 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
sản xuất hiện có; trong công nghiệp lớn thì mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân, chỉ là sản vật của một nền công nghiệp lớn, và nền công nghiệp lớn này phải đạt đến một trình độ phát triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn đó”1.
Việc phát hiện, giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến độ trở nên mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu thì cuộc cách mạng xã hội nổ ra. C. Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”2. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn ấy giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng...”3. Giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới, lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội, nhằm xóa bỏ quan hệ sở hữu cũ, thiết lập quan hệ sở hữu mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất.
Trong quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất không giữ vị trí thụ động,
1, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.94-95, 107. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.
55 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
mà nó có tính độc lập tương đối, tác động trở lại hết sức to lớn đến lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, nên nó có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất (nội dung) theo hai khuynh hướng trái ngược nhau: Một là, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất sẽ trở nên không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất khi nó lỗi thời, trở thành xiềng xích đối với lực lượng sản xuất. Biểu hiện của sự không phù hợp là năng suất lao động thấp, sản xuất giảm sút, người lao động không hăng hái làm việc. Song, tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất chỉ là tạm thời, nó chỉ có thể gây khó khăn, cản trở, làm chậm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một thời gian nhất định, không thể làm tan rã lực lượng sản xuất. Theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Hai là, khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra phương thức kết hợp tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, đưa ra hệ thống tổ chức quản lý cao hơn, phương thức phân phối hợp lý hơn. Do đó, nó sẽ giải phóng người lao động, thông qua hệ thống lợi ích phù hợp, kích thích mọi người hăng hái lao động, sáng tạo trong sản xuất, cả giai cấp bị trị lẫn giai cấp thống trị đều thấy có lợi. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở chỗ, năng suất lao động
56 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
tăng cao, sản xuất phát triển, người lao động hăng hái, phấn khởi sản xuất.
Với phát hiện vĩ đại này, C. Mác đã tìm ra quy luật khách quan của mọi nền sản xuất xã hội là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là cái quy định các mối quan hệ kinh tế, là cơ sở sâu xa của tiến trình phát triển lịch sử loài người. Trong sự vận động của các quá trình sản xuất vật chất của xã hội, sự phù hợp và không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất luôn luôn chuyển hóa, thay thế lẫn nhau, khi phù hợp, khi không phù hợp, từ phù hợp đến không phù hợp và mâu thuẫn được giải quyết sẽ tạo ra sự phù hợp mới, cao hơn, v.v.. Đó là quá trình vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất và các phương thức sản xuất, đưa xã hội chuyển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn.
Việc C. Mác, Ph. Ăngghen phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc. Trước C. Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vị trí thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra đời của quan niệm duy vật về lịch sử, trong đó hạt nhân là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đã cung cấp cho nhân loại một phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội:
Thứ nhất, sản xuất vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất, là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Do đó, không
57 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
thể xuất phát từ tư tưởng, ý thức, hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất, mà cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, xã hội không phải là sự kết hợp một cách rời rạc, ngẫu nhiên giữa các cá nhân, mà là một cơ thể thống nhất, sống động. Các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một chỉnh thể có cấu trúc hệ thống thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất giữ vị trí là quan hệ cơ bản, bản chất quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau, phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, để giải thích chính xác các sự kiện của đời sống xã hội, phải sử dụng phương pháp trừu tượng hóa, cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau trong đời sống xã hội (chính trị, pháp luật, khoa học, văn hóa,...) và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo những quy luật khách quan, chứ không theo nguyện vọng chủ quan của con người. Do đó, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội, cần đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Đó là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó, cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất
58 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
II- LÝ LUẬN CỦA V.I. LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT, SỰ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN NƯỚC NGA
1. Lý luận của V.I. Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trước khi giành chính quyền và trong thời kỳ nội chiến
Trước Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở Nga nhưng chưa vững mạnh, nước Nga tuy đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa song vẫn là nước tư bản loại yếu, trình độ chưa bằng một số nước tư bản phát triển ở Tây Âu và còn bị lệ thuộc vào tư bản phương Tây. Mặc dù vậy, nước Nga đã đạt được trình độ khá cao về tổ chức sản xuất công nghiệp. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Nhà nước Xôviết - chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời ở nước Nga. Cùng với việc củng cố chính quyền của giai cấp vô sản, nhiệm vụ cấp thiết của V.I. Lênin cùng Đảng Cộng sản (b) Nga, là chuẩn bị tiền đề cho việc khôi phục kinh tế và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, từ một nền kinh tế lạc hậu và
kiệt quệ, đối phó cùng lúc với thù trong giặc ngoài, bị 14 nước tư bản đế quốc bao vây, các lực lượng phản động ở trong nước chống phá. Để thực hiện công cuộc này, chính quyền Xôviết đã ban hành một số chính sách quan trọng như: Sắc lệnh về quốc hữu hóa ruộng đất, ngày 08/11/1917; Sắc lệnh về thực hiện
59 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
chế độ kiểm soát của công nhân ngày 14/11/1917, là biện pháp quá độ để công nhân làm quen với việc quản lý xí nghiệp, ngăn chặn những hành vi phá hoại của tư sản; quyết định quốc hữu hóa đường sắt, hầm mỏ, bưu điện, giao thông, ngân hàng lớn, các cơ sở công nghiệp, thương nghiệp..., được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng kinh tế tối cao, được thành lập ngày 02/12/1917.
- Nội dung cơ bản của Chính sách cộng sản thời chiến: Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, để bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được, V.I. Lênin nêu khẩu hiệu: “Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù” và chính quyền Xôviết đã thi hành Chính sách cộng sản thời chiến (1918 - 1921), thực chất đây là một biện pháp tình thế nhằm thích ứng với trạng thái ngặt nghèo của Nhà nước Xôviết non trẻ.
Nội dung cơ bản của Chính sách cộng sản thời chiến, bao gồm các vấn đề như: Trưng thu lương thực thừa của nông dân, Nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội; Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm, không những đối với đại công nghiệp mà cả với trung và tiểu công nghiệp; nhanh chóng quốc hữu hóa tất cả xí nghiệp lớn, sau đó là những xí nghiệp vừa và nhỏ có từ 5 công nhân trở lên (nếu sản xuất bằng máy móc) và 10 công nhân trở lên (nếu không sản xuất bằng máy móc), nhằm thực hiện “Quốc doanh hóa - Nhà nước hóa” nền kinh tế; nhanh chóng xóa bỏ thương nghiệp tư nhân, cấm buôn bán trao đổi sản phẩm ở trên thị trường, nhất là lúa mì, thực hiện chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng,
60 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
xóa bỏ ngân hàng nhà nước; đặt chế độ lao động cưỡng bức với nguyên tắc: Không làm thì không ăn.
Mục đích trước tiên của chính sách này, là tập trung tất cả các lực lượng có được của Nhà nước Xôviết vào việc đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài. Bên cạnh đó, Chính sách cộng sản thời chiến còn có tác dụng là thủ tiêu tận gốc rễ của
chủ nghĩa tư bản ở nước Nga, qua đó có thể nhanh chóng tiến lên xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước đã tiến hành một số biện pháp cứng rắn như: tập trung hóa việc quản lý kinh tế và chính trị; tước đoạt giai cấp tư sản, địa chủ, phân bố bắt buộc các nguồn lao động, kể cả huy động cán bộ vào các ngành then chốt; thực hiện lao động nghĩa vụ chung và các hình thức lao động không trả tiền khác; khuynh hướng Nhà nước trưng thu của những người sản xuất toàn bộ sản phẩm thặng dư, xu hướng bình quân hóa điều kiện vật chất và tương tự như thế, chuyển sang chế độ phân phối bằng hiện vật thông qua Nhà nước theo nguyên tắc bình quân; sử dụng tối thiểu vai trò các kích thích bằng kinh tế.
Chính sách cộng sản thời chiến có vai trò quan trọng đối với thắng lợi của Nhà nước Xôviết trong cuộc chiến tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa tư bản. Nhờ đó, Nhà nước Xôviết huy động được các nguồn lực cho xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ, đáp ứng nhu cầu tối cần thiết của quân đội và nhân dân, để quân đội có sức chiến đấu, bảo đảm đánh thắng thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Xôviết. Có thể khẳng định, trong điều kiện chiến tranh, về cơ bản
61 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Chính sách cộng sản thời chiến phù hợp để bảo vệ Đảng Cộng sản (b) Nga và Chính quyền Xôviết non trẻ.
Về hạn chế, Chính sách cộng sản thời chiến, không phải là chính sách tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chỉ là một biện pháp tình thế, phù hợp với tình trạng cấp bách trong tình thế có chiến tranh. Các biện pháp mệnh lệnh hành chính, thiên về việc sử dụng quyền lực nhà nước đã được ban bố và thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, nhất là sau khi kết thúc chiến tranh, phương pháp mệnh lệnh hành chính đã bộc lộ bất cập. Nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng; công nghiệp giảm sút; nguyên vật liệu dự trữ cạn kiệt; giao thông vận tải tê liệt, tình trạng mất mùa diễn ra ở khắp nơi, nhân dân nhiều địa phương bị đói và thiếu thốn; tài chính, tín dụng lâm vào tình trạng rối loạn; xu hướng hiện vật hóa trong kinh tế tăng dần; đời sống người lao động càng thêm khó khăn so với hồi chiến tranh, tình trạng biến chất của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra, lợi ích người nông dân bị thiệt hại,...
Nội chiến kết thúc tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa được đặt ra từ năm 1918. Tuy nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước Nga Xôviết vào cuối năm 1920, đầu năm 1921 đã khác nhiều so với đầu năm 1918. Mô hình kinh tế - xã hội theo quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, không cần qua các giai đoạn trung gian, không cần qua hình thức quá độ đã tỏ ra bất cập. V.I. Lênin đã nhận ra giải pháp tình thế chỉ đúng trong thời điểm ngặt nghèo, đã trở thành khuyết điểm khi nó bị kéo dài quá mức. V.I. Lênin
62 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
nhận định: “Mùa xuân 1921, chúng ta thấy rõ rằng, chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”1.
Chính sách cộng sản thời chiến, xem như thử nghiệm đầu tiên về mô hình chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên đã khủng hoảng và yêu cầu phải đổi mới. V.I. Lênin sớm nhận thấy những đặc điểm kinh tế chính trị khác trước, phát hiện những mâu thuẫn dẫn đến khủng hoảng và đã đưa ra sự phân tích khoa học về các mâu thuẫn ấy. V.I. Lênin và những người đồng chí của mình đã nghiêm túc xem xét, nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn
về lý luận và thực tiễn thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ đó thấy được nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng cả về lý luận và thực tiễn.
- Nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng:
Về lý luận: V.I. Lênin khi đó chưa đề ra lý luận về thời kỳ quá độ và thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thực tiễn của nước Nga. Sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ tư bản ở Nga khiến rất nhiều người tin rằng việc tổ chức sản xuất và phân phối trong xã hội mới, phù hợp với dự kiến về xã hội chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác và Ph. Ăngghen đề ra, trong đó không có kích thích kinh tế, không sản xuất hàng hóa, xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ... được coi là những tất yếu, là sự phát triển nhanh chóng tất yếu để đi lên chủ nghĩa cộng sản.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.44, tr.254.
63 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Về thực tiễn: Nước Nga Xôviết sau nội chiến rất lạc hậu, nghèo đói, cơ sở vật chất, kỹ thuật còn yếu, công cụ sản xuất lại lạc hậu và bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Chính sách cộng sản thời chiến thực chất là việc dẫn tới chỗ Nhà nước hóa toàn bộ; các chính sách thực hiện lúc đó không khuyến khích sản xuất mà còn có tác dụng ngược, kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Điều này đã thúc đẩy Đảng Cộng sản (b) Nga và chính quyền Xôviết, đứng đầu là V.I. Lênin phải tìm kiếm con đường nhằm khắc phục những khó khăn vô cùng to lớn để phát triển đất nước. Sự phát triển nhanh của quan hệ sản xuất đi trước khá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đã góp phần làm cho xã hội bị khủng hoảng. Việc Nhà nước hóa, cũng như sự độc quyền của Nhà nước về sản xuất và phân phối
cùng với những hạn chế của sự độc quyền đã được V.I. Lênin cố gắng tìm cách khắc phục.
2. Lý luận của V.I. Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong Chính sách kinh tế mới (NEP) đến năm 1924
Tháng 3/1921, V.I. Lênin đã đề ra Chính sách kinh tế mới thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, trong giai đoạn nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình, xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nước Nga lúc đó: Sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, gồm: kinh tế kiểu gia trưởng, kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp của nông dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; kinh tế xã hội chủ nghĩa... Các thành phần kinh tế đó tồn tại, xen kẽ và tác động lẫn nhau trong thời quá độ lên chủ
64 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông, sản xuất hàng hóa nhỏ vẫn chiếm ưu thế; nền đại công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, còn vô cùng non yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển; sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng ngay sau khi nội chiến kết thúc; nước Nga làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị các nước tư bản chủ nghĩa bao vây, chống phá quyết liệt. Bản chất sâu xa của những khó khăn trên có nhiều nguyên nhân, trong đó căn bản nhất vẫn là sự không hợp lý trong giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Để giải quyết vấn đề phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, thực hiện quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, V.I. Lênin thực hiện hàng loạt chính sách, đó là:
a) Thuế lương thực
Việc ra đời của chính sách thuế lương thực - sự khởi đầu của NEP - đã đánh dấu sự chuyển biến mới về chất hết sức quan trọng trong minh liên công - nông ở nước Nga lúc đó. Theo V.I. Lênin, trong điều kiện nước Nga lúc này, “đó là một trong những vấn đề chính trị chủ yếu”1. V.I. Lênin cho rằng, để khôi phục và phát triển kinh tế, cần dùng những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và phát triển mạnh lực lượng sản xuất. Bởi vì, theo V.I. Lênin: “muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.244.
65 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
có bánh mì và nguyên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay, “trở ngại” lớn nhất là ở đó”1.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, theo V.I. Lênin, phải áp dụng Chính sách thuế lương thực với nội dung chủ yếu: (1) Nhà nước xác định mức thuế lương thực ổn định cho nông dân; (2) Người nông dân sau khi đã đóng thuế lương thực theo quy định sẽ được tự do bán sản phẩm, để mua những sản phẩm công nghiệp và các sản phẩm cần thiết khác; nếu sản xuất càng nhiều lương thực, sau khi đóng thuế, lương thực còn lại, người nông dân bán ra càng nhiều và thu nhập càng cao.
b) Khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp
V.I. Lênin coi trao đổi hàng hóa chính là một hình thức chủ yếu của mối quan hệ kinh tế, giữa thành thị và nông thôn, coi đây là một tiền đề cần thiết để xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Cơ chế trao đổi sản phẩm kinh tế hàng hóa nhằm đạt các mục tiêu: Một là, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Thông qua trao đổi hàng hóa thúc đẩy quá trình phân công lao động, khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển. Hai là, đây là con đường tốt nhất và chắc chắn nhất để Nhà nước có điều kiện giải quyết vấn đề lương thực, sản xuất hàng hóa nông nghiệp, qua đó thúc đẩy nông dân mở rộng diện tích canh tác và thâm canh. Kết quả là, không chỉ tổng sản lượng lương thực tăng lên mà cả lượng lương thực Nhà nước có được qua con đường trao đổi và
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.262-263.
66 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
thu thuế cũng gia tăng. Ba là, làm cho các ngành kinh tế hoạt động ở cả thành thị và nông thôn sôi động hơn.
Từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga Xôviết lúc đó, V.I. Lênin đã thực hiện hai chính sách: thuế lương thực và trao đổi hàng hóa. Cả hai chính sách này đều thể hiện quan điểm xuất phát từ nông nghiệp, nông dân. Điều đáng lưu ý là, trong chính sách thuế lương thực còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực. Chính quyền đã chuyển cơ chế quản lý hành chính tập trung cao độ sang quản lý dựa trên sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển thị trường.
Để thực hiện trao đổi sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp, có hai vấn đề cần giải quyết: thứ nhất, phải có nguồn hàng hóa công nghiệp để trao đổi; thứ hai, mâu thuẫn giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, để thực hiện NEP với sự phục hồi và kích thích xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất hàng hóa nhỏ. Về vấn đề này, V.I. Lênin cho rằng: Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là không tránh khỏi. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng, tuy nhiên, không được coi thường, buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy.
Sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Lênin chỉ ra rằng, nước Nga kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế, trao đổi tự do, phát triển kinh tế nhỏ, tiểu tư sản là sự phát triển mang tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Vấn đề là ở chỗ, thái độ của Nhà nước vô sản cần như thế nào?
Theo V.I. Lênin, cách tốt nhất là những người công nhân cấp cho nông dân những sản phẩm công nghiệp, do những công xưởng lớn xã hội chủ nghĩa sản xuất ra, để đổi lấy lúa
67 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
mì và nguyên liệu. Do điều kiện chưa thể thực hiện được, V.I. Lênin đưa ra hai cách giải quyết: một là, ngăn cấm, triệt để chặn mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, tức là của thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương, sự trao đổi này là xu hướng không thể tránh khỏi khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ; hai là, hướng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Theo V.I. Lênin thì đây là cách có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý.
V.I. Lênin kiên quyết phản đối việc đối lập tuyệt đối giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, thu phục và trả lương cao chuyên gia tư sản là giải pháp tốt nhất xúc tiến chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có
kinh nghiệm tổ chức quản lý, không chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng, để đi tới một năng suất lao động cao hơn dưới chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. V.I. Lênin nhấn mạnh, phải học những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, áp dụng cách thức tổ chức lãnh đạo quản lý tiên tiến của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được hay không là tùy vào sự kết hợp giữa chính quyền Xôviết, với những tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản. V.I. Lênin chỉ rõ: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xôviết + trật tự đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc + ... = chủ nghĩa xã hội”1.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.684.
68 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Người nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát tư sản, nó gần chủ nghĩa xã hội hơn kinh tế của sản xuất hàng hóa nhỏ và tư bản tư nhân. Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga lúc bấy giờ gồm: (i) Tô nhượng, theo V.I. Lênin “là một sự liên kết, một sự liên minh, một hợp đồng kinh tế với tư bản tài chính tiên tiến ở các nước tiên tiến”1; (ii) Hợp tác xã của người tiểu nông; (iii) Nhà nước thu hút tư bản thương mại, trả hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ; (iv) Nhà nước cho nhà tư bản thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng, đất đai. Các hình thức này đều có thể thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tổ chức thương nghiệp, phát triển hàng hóa - tiền tệ nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ, bảo đảm sự phát triển vững chắc.
V.I. Lênin đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện một nước còn tồn tại phổ biến sản xuất nhỏ, đồng thời khẳng định: “Ở đây không phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội, mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội”2; “chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn là một bước tiến to lớn,
dù cho... chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, bởi vì trả “học phí” là một việc đáng giá,... điều ấy không những không làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại, có thể đưa chúng
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.43, tr.99.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.363.
69 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất”1. Ông khẳng định: “việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội... bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế”2.
Rõ ràng, cơ chế kinh tế của NEP mang tính chất quá độ, gián tiếp theo hướng “không đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản; mà là chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, bằng cách cố gắng nắm vững những cái đó một cách thận trọng và từng bước, hoặc bằng cách nhà nước điều tiết những cái đó, nhưng chỉ trong chừng mực làm cho chúng sẽ được phục hồi lại”3. Trong NEP, V.I. Lênin đã phát hiện tính quy luật của việc chuyển hóa kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội thông qua hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
V.I. Lênin đã chỉ ra chức năng mới của Nhà nước vô sản trong phát triển kinh tế là: điều tiết việc mua bán hàng hóa và lưu thông tiền tệ, tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn, bán lẻ, phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, các quan hệ tín dụng, coi thương nghiệp là mắt xích quan trọng trong việc triển khai NEP. Sở dĩ V.I. Lênin coi thương nghiệp là mắt
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.666-667.
2, 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.189, 275.
70 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
xích trong triển khai NEP, vì mục tiêu quan trọng của NEP là thiết lập sự liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Trong điều kiện kinh tế lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa chúng.
Nội dung cơ bản của NEP có thể được nói gọn lại là: Khôi phục và phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ, những mắt xích trung gian để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, là phương thức để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, củng cố chính quyền Xôviết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức với biện pháp kinh tế để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là những hình thức và phương pháp mới, Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi.
Xét về bản chất, NEP là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là đổi mới nhận thức với việc thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và là động lực quan trọng để phát triển kinh tế.
Có thể thấy về bản chất, chính sách NEP là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khắc phục tâm lý chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, đáp ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế trong thời
71 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là nền kinh tế hàng hóa và có nhiều thành phần, phù hợp với quan hệ sản xuất hiện có.
III- NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT, SỰ VẬN DỤNG CỦA XTALIN VÀO THỰC TIỄN LIÊN BANG XÔVIẾT
1. Bối cảnh tác động tới nhận thức của Xtalin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất a) Bối cảnh quốc tế
Một là, cục diện thế giới sau khi V.I. Lênin mất về cơ bản, vẫn không thay đổi. Với Hiệp ước Vécxây (1919), tuy phương Tây có sự phân hóa giữa các nước thắng trận và thua trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng vẫn là một khối thống nhất về sự chống đối, thù địch với chính quyền Xôviết. Sự chống đối đó không giảm đi, vẫn có xu hướng gia tăng. Các quan hệ quốc tế của Nhà nước Xôviết với các nước
tư bản chủ nghĩa, về nhiều mặt vẫn trong trạng thái đối địch là chính, mặc dù đã có những cải thiện nhất định trong thời kỳ Lênin. Ngoài các khía cạnh về chính trị, những tài sản của nước ngoài và của người nước ngoài bị tịch thu, trong thời kỳ những năm sau Cách mạng Tháng Mười, trong thời kỳ nội chiến khốc liệt, cùng với các yếu tố chính trị khác, là những trở ngại lớn cho việc bình thường hóa các quan hệ ngoại giao, và tất nhiên là cả quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Liên Xô với đa số các nước châu Âu và Mỹ lúc bấy giờ. Những nhà đầu tư nước ngoài được mời vào kinh doanh ở đất nước Xôviết thông qua chính sách tô nhượng của V.I. Lênin gặp phải những sự trở ngại từ phía chính quyền Xôviết.
72 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Hai là, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cuối những năm 20 của thế kỷ XX, đỉnh điểm là đại suy thoái 1929 - 1933, làm gia tăng cách nhìn tiêu cực về chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư hữu và sản xuất tự phát vô chính phủ, lợi nhuận trên hết được coi là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa. Nguy cơ đe dọa từ bên ngoài đối với đất nước Xôviết
trong bối cảnh khủng hoảng có sự suy giảm. Thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Đức đang vật lộn bởi gánh nợ bồi thường chiến phí cho các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất theo Hiệp ước Vécxây, không trực tiếp đe dọa, mà còn có sự gia tăng các quan hệ hợp tác kinh tế với Liên Xô trong nhiều năm (1919 - 1939). Nhiều công ty tư
bản của các nước phương Tây, trong điều kiện nguy khốn của khủng hoảng, bất chấp cả chính sách cấm vận của chính phủ tìm mọi cách để xuất khẩu các thiết bị, công nghệ tiên tiến để đổi lấy vàng, nguyên liệu và lương thực của Liên Xô trong thời kỳ 1929 - 1933.
Năm 1933, A. Hítle lên nắm quyền ở Đức, nguy cơ của chủ nghĩa phátxít xuất hiện, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nền kinh tế và cả đất nước Xôviết chuyển sang tình trạng thời chiến. Một khi toàn bộ các nguồn lực vật chất đều đã nằm trong tay Nhà nước và sự thống nhất về mặt thể chế kinh tế và thể chế chính trị, đã cho phép huy động một cách hiệu quả nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Chiến thắng chủ nghĩa phát xít đã làm cho uy tín của Xtalin lên cao hơn giai đoạn trước. Từ đó, mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết ảnh hưởng ra nhiều nước sau chiến tranh như một “tất yếu khách quan”.
73 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
Ở một mức độ nhất định, mô hình đó còn có ảnh hướng khá rõ nét trong đường lối của những nước Bắc Âu và của Cộng hòa Liên bang Đức, khi lựa chọn con đường “kinh tế thị trường xã hội” trong chiến lược phát triển.
Ba là, chiến tranh lạnh do phương Tây phát động là một lý do để Xtalin khẳng định những quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội, trong Hội thảo kinh tế toàn Liên bang Xôviết năm 1951. Những kết luận của Xtalin trong Hội thảo này, đã trở thành cơ sở nền tảng để giới học giả Xôviết biên soạn bộ sách giáo khoa các môn khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giáo trình Kinh tế chính trị cho các hệ đào tạo khẳng định quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội là “không ngừng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của nhân dân”, cũng như các quy luật kinh tế đặc thù của chủ nghĩa xã hội là: “Phát triển cân đối có kế hoạch nền kinh tế quốc dân”; “năng suất lao động không ngừng tăng lên”; “phân phối theo lao động”. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội và hòa bình thế giới; mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia, các nước xã hội chủ nghĩa.
b) Bối cảnh trong nước
Bối cảnh Liên Xô sau năm 1924 có nhiều thay đổi. Chỉ vài năm sau khi V.I. Lênin mất, trong các chính sách và tổ chức xây dựng kinh tế dưới sự lãnh đạo của Xtalin đã bắt đầu có những thay đổi, thể hiện sự đánh giá không đúng về thực trạng nền kinh tế Xôviết, về những thành tựu, hạn chế của Chính sách kinh tế mới. Những đánh giá đó phản ánh sự sai lầm ban đầu về vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để xử lý
74 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
những vấn đề cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, biểu hiện như sau:
Một là, coi nhẹ, thậm chí có khuynh hướng phủ nhận kinh tế tư nhân. Vai trò của kinh tế tư nhân ngày một gia tăng trong nền kinh tế, số người giàu tăng lên nhanh trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới. Tại các đô thị đã xuất hiện ngày một nhiều các tiểu chủ, các hộ cá thể kinh doanh hàng hóa phát đạt, không ít người đã từng giàu có thời kỳ trước cách mạng nay xuất hiện đông đảo hơn. Báo chí Xôviết thời kỳ sau khi V.I. Lênin mất, bắt đầu dành những ngôn từ không thiện cảm cho giới chủ tư nhân, như “Nepman” để chỉ những tư nhân giàu lên ở đô thị và “culắc mới” ở nông thôn trong những năm thực hiện NEP. Dưới con mắt Xtalin, tầng lớp này có ảnh hưởng tiêu cực hơn là tích cực đối với chế độ.
Hai là, nóng vội trong phát triển kinh tế hợp tác. Ở các vùng nông thôn, tầng lớp trung nông, những nông dân giỏi làm nông nghiệp, gia tăng về số lượng và giàu lên về của cải, không muốn tham gia tích cực vào các hình thức kinh tế hợp tác mà chính quyền Xôviết đề ra và cổ vũ. Theo Xtalin, tầng lớp trung nông khá giả lên trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới là culắc (phú nông), có địa vị tương đương với tư bản kinh doanh nông nghiệp và vì thế họ ở phía đối lập với chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, vai trò của trung nông trong các cuộc bạo động, chống chính sách “trưng thu lương thực thừa” những năm 1919 - 1920, cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cách nhìn nhận và đánh giá của Xtalin, về nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về cơ bản, đó là lý do mà trung nông, culắc hay “Nepman” đều là đối tượng trong công cuộc
75 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
cải tạo xã hội chủ nghĩa: “Những lời nói cho rằng tên culắc không đến nỗi tồi tệ như tên tư bản thành thị, rằng tên culắc hoàn toàn không nguy hiểm hơn một tên Nepman ở thành thị, rằng vì thế, nên hiện nay chúng ta chẳng có gì để phải “sợ” bọn culắc cả - những lời nói như thế, chỉ là những lời nói ba hoa trống rỗng theo kiểu phái tự do nhằm ru ngủ tính cảnh giác của giai cấp công nhân và của quần chúng nông dân cơ bản mà thôi”1.
Ba là, sự đoàn kết, bầu không khí dân chủ trong tổ chức Đảng các cấp,... không còn được coi trọng và phát huy. Xu hướng tập trung lấn át tính dân chủ, làm cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I. Lênin có những biến dạng. Chính điều này làm ảnh hưởng tới tính chất đúng đắn trong các nghị quyết, chính sách của Đảng. Trong điều kiện đó, dân chủ chỉ còn là hình thức, chủ yếu tập trung là chính, rất khó có cơ hội có ý kiến khác với Xtalin trong các vấn đề của Đảng và Nhà nước Xôviết. Đó là một biểu hiện rõ nhất về sự xa rời những nguyên tắc và phương thức lãnh đạo của V.I. Lênin.
Bốn là, từ cuối năm 1925, tư tưởng muốn đẩy nhanh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện. Chính sách kinh tế mới được nhìn nhận như một giải pháp tình thế, không phải là “kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội” như V.I. Lênin quan niệm. Vì vậy, đề cao các nguy cơ bên trong và cả bên ngoài, là
lý do thuyết phục nhất để áp dụng các biện pháp hành chính trong chính sách đối nội, đối ngoại. Trong Nghị quyết của
1. I.V. Xtalin: Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.229.
76 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
Đại hội XIV, đã ghi rõ những luận điểm về sự cần thiết phải gia tăng vai trò của Nhà nước Xôviết trong lĩnh vực kinh tế theo hướng biệt lập, khép kín: “Đất nước Xôviết cần phải trở thành một chủ thể kinh tế độc lập không phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới vì nó là tư bản chủ nghĩa”. Cũng tại Đại hội này, những ý kiến khác biệt với Xtalin bắt đầu chịu những chỉ trích gay gắt, kể cả những ý kiến đúng.
Năm là, đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa chủ chốt vẫn đang chìm trong khủng hoảng kinh tế (Anh, Đức, Pháp, Italia,..) hoặc bắt đầu chập chững gượng dậy sau khủng hoảng (Mỹ). Liên Xô đã kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ hai ngoạn mục, nền kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển, không cần tới các quan hệ kinh tế chính thức về Nhà nước với bên ngoài. Trong nước thường xuyên xuất hiện cụm từ “Liên Xô đã trở thành một cường quốc công nghiệp tiên tiến”, “Đã không còn thất nghiệp ở đô thị và nghèo khổ ở nông thôn”; “tất cả lưu thông hàng hóa đều nằm trong tay Nhà nước và các nông trang tập thể”.
Vì vậy, Xtalin tuyên bố Liên Xô đã kết thúc thời kỳ quá độ, chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi, không có bất kỳ một sự phê phán nào trong nội bộ về những khiếm khuyết của mô hình kinh tế Xôviết đã xuất hiện ngay từ thời điểm đó. Thắng lợi trong chiến tranh chống phát xít và công cuộc khôi phục nhanh chóng nền kinh tế sau chiến tranh, được coi là sự minh chứng rõ rệt nhất về những ưu việt của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết.
Tại Hội thảo kinh tế toàn Liên bang Xôviết năm 1951, khi đề cập những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
77 Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...
trong đó, Xtalin thêm vào hai chữ “tính chất” trong diễn đạt về quy luật “quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Những kết luận đó của Xtalin khi đó, ngay lập tức được coi là cơ sở nền tảng để biên soạn Bộ sách giáo khoa về cả ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Nhận thức và vận dụng của Xtalin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất a) Nhận thức và vận dụng của Xtalin về giải quyết quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất bằng các biện pháp chuyên chính vô sản
Xtalin lúc đầu cho rằng, một nền kinh tế kế hoạch hóa không phụ thuộc vào những quy luật khách quan, là phạm trù riêng có của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, khi cách mạng vô sản thành công và xóa bỏ tình trạng “trần như nhộng”, không có tư liệu sản xuất của người lao động, nên cũng xóa bỏ luôn một trong hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Tất cả người lao động trở thành người chủ, cùng nhau sở hữu mọi tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Với quan niệm như thế, Xtalin cho rằng, tình trạng tự phát di chuyển lao động như ở các nước phương Tây hoặc dưới chế độ Sa hoàng và cả trong thời kỳ Chính sách kinh tế mới ở nước Nga Xôviết đã không còn nữa. Làm cho sức lao động không còn là hàng hóa, tự do di chuyển được coi là thành tựu của chính quyền Xôviết. Xtalin phát biểu tại Hội nghị Cán bộ kinh tế (23/6/1931): “Hiện tượng tự phát đó bắt nguồn từ nạn thất nghiệp, từ sự phân hóa ở nông thôn, từ tình trạng khổ cực và
78 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ...
sợ đói, đã xua đuổi những người nông thôn ra thành thị... hoàn cảnh đã thay đổi. Thứ nhất, chúng ta đã thanh toán xong nạn thất nghiệp; như vậy chúng ta đã diệt trừ được lực lượng đã đè nặng lên “thị trường lao động”. Thứ hai, chúng ta đã đào tận rễ nạn phân hóa ở nông thôn; như vậy là chúng ta đã khắc phục được chính cái tình trạng khổ cực của quần chúng; tình trạng đã xua đuổi người nông dân ra thành thị”1.
Luận điểm “chỉ có dưới chủ nghĩa tư bản sức lao động mới trở thành hàng hóa” và giá trị thặng dư là phạm trù riêng có của chủ nghĩa tư bản, còn ở đất nước Xôviết không có thứ hàng hóa đó, cũng như không có sản xuất giá trị thặng dư, chỉ có
sản xuất “sản phẩm thặng dư” ngày càng nhiều. Xtalin xác định: giải quyết vấn đề thiếu hụt sức lao động cho công nghiệp, thành thị bằng cách ký các thỏa thuận trực tiếp giữa các xí nghiệp công nghiệp với các nông trang tập thể, một công việc hoàn toàn loại bỏ thị trường sức lao động, thị trường quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Quan điểm này dẫn tới nhiều khó khăn, thực chất là vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Xtalin đã cho rằng, nguyên nhân căn bản của tình trạng khó khăn là do nền “kinh tế tiểu nông” và “kinh tế trung nông”, trên cơ sở đó, phải tăng tốc việc xóa bỏ kinh tế hộ nông dân và đưa tất cả nông dân vào các nông trang tập thể, với niềm tin là nông trang tập thể là đơn vị sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn “kinh tế tiểu nông”, “kinh tế trung nông” cũng như
ưu việt hơn “kinh tế địa chủ” và “kinh tế culắc”. Ở nông thôn 1. I.V. Xtalin: Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, Sđd, tr.432.