🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giai nhân và Hòa thượng Ebooks Nhóm Zalo Giai nhân và Hòa thượng Thích Như Điển Published by United Buddhist Publisher, 2021. This is a work of fiction. Similarities to real people, places, or events are entirely coincidental. GIAI NHÂN VÀ HÒA THƯỢNG First edition. March 15, 2021. Copyright © 2021 Thích Như Điển. Written by Thích Như Điển. Mục lục Title Page Copyright Page Lời Giới Thiệu | CỦA VIÊN GIÁC TÙNG THƯ | (Nhân lần tái bản năm 2021) Chương 1. Ngôi chùa trên núi Chương 2. Tình Thầy Trò Chương 3. Tuổi trẻ mộng mơ Chương 4. Giai nhân lễ Phật Chương 5. Tha Phương Cầu Đạo Chương 6. Ngày Hội Ngộ Chương 7. Tình Nơi Sơn Tự Chương 8. Giữa Hai Chọn Lựa Chương 9. Phép Phật Nhiệm Mầu Chương 10. Thoát HÓA Lời Giới Thiệu CỦA VIÊN GIÁC TÙNG THƯ (Nhân lần tái bản năm 2021) T ác phẩm mà quý vị đang cầm trên tay này gồm có 10 chương, được xuất bản lần đầu vào năm 2006. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết về một câu chuyện khá kỳ lạ. Câu chuyện có liên quan đến một giai nhân và một hòa thượng. Cũng thông qua đó, tác giả đã khéo léo phơi bày một sự thật trong chốn nhân sinh: Khi đã lún vào vũng lầy tình ái ấy thì khổ đau là một hệ quả tất yếu và sự chọn lựa giữa Đời và Đạo không bao giờ là một lựa chọn dễ dàng. Lúc đứng Giữa hai chọn lựa đó, chàng thanh niên Ngọc Minh, hay thầy Ngộ Tánh, một nhân vật trong câu chuyện, đã có đến ít nhất ba lần tự chọn cho mình một đường đi: từ bỏ con đường công danh để đi theo nẻo Đạo, rồi từ bỏ cửa thiền để ra đi sau những chấn động, thương tổn bởi tình yêu, và cuối cùng là quyết định xa lìa cõi đời ô trược để bắt đầu lại con đường tu tập như một người mới phát tâm. Khi đắm chìm trong khổ đau bởi cuộc đời vùi dập, chàng tự mình hồi tưởng: “Thật vậy, bây giờ chàng chẳng trách ai hết, mà chỉ trách mình đã vụng đường tu nên mới ra nỗi ấy. Nếu mình thẳng một đường, đừng rẽ trái hay rẽ phải qua ngã rẽ của cuộc đời, thì đâu có ra nông nỗi như ngày hôm nay.” Và đây, những trăn trở trong cõi lòng của chàng: “Làm sao giải quyết đây? Rõ ràng chữ “ái” nó chỉ đơn giản như thế mà mọi người đều khó dứt trừ. Chàng nhớ lại khi chàng được làm lễ cho xuất gia Sư Cụ Từ Tâm có xướng bài kệ hay lắm như sau: Hủy hình thủ khí tiết, Cát ái từ sở thân, Xuất gia hoằng Thánh đạo, Thệ độ nhứt thiết nhân. Nam Mô Ly Cấu Địa Bồ Tát. Các Bồ Tát đều lìa xa chỗ đất dơ nhớp của thế gian này. Mặc dầu các Ngài là những bậc đã chứng đắc được những cái gì của vô thường sanh diệt và người xuất gia là người phải cắt dây ái, từ bỏ cái ân của những người thân kẻ thuộc trong gia đình và để hoằng dương Thánh Đạo.” Nhưng dĩ nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những trăn trở trong cuộc sống đầy đau khổ và nước mắt, thì câu chuyện này hẳn cũng không khác gì bao nhiêu câu chuyện ái tình khác của thế gian. Không! Dùng ngòi bút viết văn, sáng tác... hay thuyết giảng theo tác giả, Hòa Thượng Thích Như Điển, luôn phải chuyên chở được tâm nguyện độ sinh, hoằng hóa, trên tinh thần “văn dĩ tải đạo”. Nếu không thì chuyện viết lách hẳn không phải là công việc thích hợp của một người xuất gia “phát túc siêu phương”. Và tôi dám chắc như vậy là vì, tôi đã có duyên may được biết đến một câu chuyện có thật 100%, liên quan đến quyển tiểu thuyết này. Hơn mười năm sau khi xuất bản sách này, trong một chuyến chiêm bái Phật Tích ở Ấn Độ, tác giả đã gặp một tăng nhân tu hành tinh tấn và có trình độ học vấn vững vàng. Vị tăng sinh ấy đang du học và làm luận án tiến sĩ tại Ấn Độ. Người tu sĩ trẻ ấy tìm gặp tác giả sách này và thưa rằng: “Con chỉ muốn gặp Hòa Thượng để thưa cùng Ngài, tác giả của tác phẩm Giai Nhân và Hòa Thượng rằng, chính con cũng đã có lần đứng trước một ngã ba “Giữa hai chọn lựa”. Sau nhiều trăn trở khá gian nan trước quyết định đi ngược hay chảy xuôi theo dòng đời, con đã may mắn gặp sách này của Hòa Thượng. Con đã đọc một mạch đến hết sách, rồi đọc đi đọc lại. Nhờ vào những tình tiết câu chuyện và những lý luận giáo lý rành mạch, con đã quyết định ngay tức thì con đường đi của mình. Và như Hòa Thượng thấy đây, giờ con vẫn còn được mang hình tướng đầu tròn áo vuông. Hôm nay con mới hân hạnh được gặp tác giả và xin bạch lên Hòa Thượng lời cảm tạ thâm sâu nhất. Tác phẩm này đã là một cứu tinh của đời con.” Chúng tôi không dám nói nhiều hơn, để dành những ngạc nhiên thích thú cho độc giả khi tiếp xúc với tác phẩm. Chỉ xin nói thêm rằng, không phải ai đọc xong sách này cũng đi tu cả. Xin đừng lo xa! Sách này đã có rất nhiều người đọc, thậm chí đã được thu âm thành Audiobook do đạo hữu Tâm Kiến Chánh đọc, phổ biến rộng rãi trên rất nhiều trang mạng Internet. Viên Giác Tùng Thư xin trân trọng giới thiệu. Đức Quốc, tháng 3 năm 2021 VIÊN GIÁC TÙNG THƯ Chương 1. Ngôi chùa trên núi N gôi chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự nằm trên một triền đồi thoai thoải. Mặt chùa quay ra hướng đông nam hướng về phía biển đông, lưng chùa tựa sát vào vách núi, chung quanh là những điện đường ngang dọc, xây theo lối cổ tự ngày xưa. Đây là một ngôi chùa bề thế được bao đời chúa Nguyễn sắc phong cho các vị trụ trì tiền nhiệm tại đó, nên trong lòng ai cũng cung kính nể vì. Nơi đây đời đời truyền nối ngọn đèn Thiền, trải qua mấy trăm năm chưa có một vấn đề gì sơ xuất xảy ra. Sở dĩ được như vậy là nhờ từ Hòa Thượng khai sơn cho đến những vị Tăng Cang qua nhiều chặng đường của lịch sử đều là những bậc tu hành đắc đạo và đạo đức trác tuyệt, cho nên trên từ vua chúa, quan lại, dưới đến thứ dân, ai ai cũng đều một lòng ngưỡng mộ cung kính. Cũng có nhiều người không thích lắm về cách cư xử của triều đình là dành cho chùa quá nhiều đất đai và nhiều quyền lợi khác nữa. Do vậy mà thỉnh thoảng vẫn có những chuyện thị phi nho nhỏ. Một hôm dân làng đi lễ và ngày ấy cũng là ngày hoàng thân quốc thích lên chùa lễ bái nguyện cầu. Trong số người đi lễ ấy, có hai nho sinh áo quần nho nhã và là những trí thức đương thời, nên cách đối đáp của họ có phần liên quan đến lịch sử. Một người bảo: - Theo tiện sinh thì vua quan hà tất phải vào chùa lễ Phật. Hoặc giả nên làm chùa tại cung nội hay lập đền thờ riêng tại nhà có lẽ hay hơn. Người kia đáp: - Ngay cả chúng ta cũng phải lên đây lễ. Vì chùa đây thiêng, có Sư Cụ trụ trì đạo cao đức trọng, là một bậc tu hành chân chánh nên chúng ta mới đến lễ bái nguyện cầu. Nếu chùa mà nhiều vị trụ trì chỉ lo bái sám, nhiều khi còn bói toán, coi quẻ, xem ngày giờ nữa thì ta cũng không đến đó làm gì, chứ đừng nói đến vua quan triều đình! - Đại huynh nói phải và chí lý lắm. Sở dĩ chúng ta đi chùa này vì cảnh trí đẹp và cũng có cảnh nam thanh nữ tú đi cùng, nên tiện sinh rất hân hoan chờ đón những ngày như thế này. Nhưng tiện sinh có điều không hiểu, kính nhờ đại huynh phân giải dùm. - Nếu là chữ của Thánh Hiền thì chắc là đệ hơn huynh, nhưng có điều gì khác thì cứ xin tỏ bày tự sự. - Nguyên là tiểu đệ này hay nhìn thấy vua chúa lễ Phật mà chư tăng ni không theo phong tục nước mình lễ vua chúa, mà đôi khi vua chúa còn lạy cả chư tăng nữa. Ví dụ như vị Sư Cụ trụ trì chùa Hưng Phước này là một. - Việc ấy đã có sự sắp xếp rõ ràng rồi, thiết nghĩ đệ quên rồi chứ. Đây là nguyên nhân của đầu đuôi câu chuyện: Khi đức Phật thành đạo dưới cây bồ-đề tại Ấn Độ, thì kể từ lúc đó mọi người mới biết đến danh từ Phật và vì Phật cũng là người hoàng tộc, do vậy các vua quan thuở bấy giờ đến đảnh lễ Phật cũng là việc tự nhiên. Vả lại ở Ấn Độ, họ chia con người trong xã hội ra làm bốn giai cấp, mà giai cấp đứng đầu vẫn là giai cấp giáo sĩ, giai cấp thứ hai mới là giai cấp vua chúa, giai cấp thứ ba là thương nhân, thứ tư là giai cấp bình dân. Lại cũng còn có thêm một giai cấp nữa, đó là giai cấp hạ tiện, chỉ chuyên đi làm đầy tớ cho người. Trong khi đó Phật giáo được du nhập vào Trung quốc và Việt Nam chúng ta đầu tiên chẳng thích hợp mấy vì lẽ đạo Phật chủ trương không bái lễ quân vương, khác với đạo Nho, xem vua chúa là cha mẹ của thần dân. Trên vua chúa không có ai nữa cả, ngoại trừ thiên tử ở trên trời. - Sao mà đại huynh rành quá! Và còn nữa, thế thì tại sao các vị sư lại không lạy vua chúa như ở Trung Hoa và nước ta? - Theo quan điểm và lập luận của Hoàng Huyền thì sa môn, tức là các vị tăng sĩ, phải lễ kính vua. Ông ta xuất thân là con của quan Nam Quận Công Hoàng Ôn, thông minh, có tài và rất tự cao. Tiếp nối chức tước của cha, Hoàng Huyền cũng thâm hiểu về Phật giáo và sau khi gặp gỡ tổ Huệ Viễn tại Lô Sơn, lúc đầu rất kiêu ngạo, song lúc gặp mặt Tổ đã chí tâm cung kính, sau đó chỉ một câu đối đáp thôi là hoàn toàn kính trọng Tổ. Tuy vậy, cái chất Nho giáo ăn sâu trong dòng máu Trung Hoa, nên năm 402 sau khi nắm quyền bính trong tay, Hoàng Huyền ra lịnh thanh lọc tăng ni, cho rằng tăng ni nhiều người hư hỏng và làm phát sinh nhiều tệ trạng, cần phải thanh lọc, chỉ giữ lại ba dạng tăng ni như sau: Một là người có thể giảng giải kinh điển, xướng lên nghĩa lý, hai là người tu hành nghiêm mật, giữ giới trọn đủ, thường ở nơi chùa viện, ba là người tu dưỡng trên núi, không làm các chuyện thế gian. Để trả lời cho quan điểm và lập luận của Hoàng Huyền, Ngài Huệ Viễn bảo rằng sa-môn không cần phải lễ kính vua, lập luận như sau: “Những gì trong kinh Phật nói, thường phân làm hai khoa, một là ở trong thế tục mà hoằng pháp, hai là xuất gia tu đạo. Ở trong thế tục thì cái lễ với bề trên, cái kính với tôn thân, cái nghĩa của trung hiếu, Kinh văn đều có nói đến. Ba giáo huấn ấy Thánh Điển dạy rất rõ, sự giáo huấn ấy đồng với luật chế của vua, là điều phải làm, dường như hoàn toàn khế hợp với nhau về phương diện này hoàn toàn không có gì khác, nghĩa là các Phật tử tại gia phải lễ kính vua. Nhưng người xuất gia vốn như người khách ngoài thế gian này, hành tích không dính bám vào bất cứ điều gì. Giáo pháp mà họ tuân theo là thấu rõ bao tai họa luỵ phiền cũng do nơi có thân thể, nên chẳng cầu giữ thân này là nhằm để dứt họa hoạn, biết rành đời đời phải sinh sinh là do thuận theo lẽ biến hóa của đất trời. Thế nên không thuận theo lẽ biến hóa ấy là cốt để cầu được tông yếu. Cầu tông như thế không thể do thuận hóa mà có được, người xuất gia không coi trọng sự ban ân cho được sống hanh thông khoái lạc, diệt các họa hoạn không do nơi bám giữ thân này mà thành được, thế nên người xuất gia chẳng vì các lợi lạc được sống ấm no đầy đủ. Lý này hoàn toàn ngược lại với thế tục. Đạo và thế tục khác nhau như thế ấy.” Tuy vậy, mặc dù đế triều của Hoàng Huyền chỉ kéo dài đến năm 404 là chấm dứt, vì Lư Dụ khởi binh công phạt và giết chết Hoàng Huyền. Năm 403, Hoàng Huyền đã chính thức ban chiếu, chính thức chấp nhận cho sa-môn không cần lễ kính vương giả nữa. Vì biết rằng những nhà Nho sau này đa phần được vua chúa nghe theo, nên Tổ Huệ Viễn đã soạn luận “Sa Môn Bất Kính Vương Giả”. Và kể từ đó về sau Trung Hoa cũng như Việt Nam chúng ta, sa-môn không cần lễ vua chúa mà ngược lại đôi khi vua chúa phải lễ sa-môn. Ví dụ những ông vua đó là học trò, đệ tử của các vị Tăng Cang, Hòa Thượng. - Quả thật đại huynh là người tinh thông lịch sử, nhưng còn Huệ Viễn là ai thế? - Đó là Ngài Huệ Viễn ở chùa Đông Lâm, núi Lư Sơn bên Trung quốc. Ngài họ Dã, người làng Nhạn Môn. Thoạt đầu sư học Nho, năm 21 tuổi xuất gia, thờ Ngài Đạo An làm thầy. Sư thông hiểu giáo lý sâu sắc của Đại Thừa. Bấy giờ ở Tương Dương xảy ra giặc giã loạn lạc, Đạo An phải phân tán học trò. Sư từ biệt Thầy về Kinh Châu qua La Phù, Tầm Dương thấy đỉnh Lư Sơn cảnh trí thanh tịnh, Sư bèn trụ trì ở mé bắc ngọn núi này. Sư đã cùng với tăng, tục 123 người lập thành Bạch Liên Xã, chuyên tu tịnh nghiệp, trước tượng Phật Vô Lượng Thọ. Sư soạn cuốn Pháp Tính Luận (法性論), đề xướng thuyết Niết-bàn thường trụ, nêu ra luận điểm sa-môn không cần phải kính trọng hàng vương giả. Sư ở núi Lư Sơn hơn 30 năm, không hề ra khỏi núi, chỉ tiễn khách tới khe Hổ Khê thì quay lại. Sư viên tịch vào tháng 8 năm Nghĩa Hy 12 (416) đời Tấn An Đế, thọ 83 tuổi. - Huynh quả xứng mặt là một đại huynh thuộc hàng Nho gia của Việt Nam chúng ta! Như vậy, ở đầu thế kỷ 5, từ năm 403 cho đến nay, các vị sư đều như thế. Còn riêng Việt Nam chúng ta thì sao, thưa đại huynh? - Như đệ biết đấy, thời ấy Việt Nam chúng ta vẫn còn bị nhà Hán, rồi nhà Tấn, rồi nhà Đường cai trị. Tất cả văn học, chữ nghĩa, lễ nghi gì gì đi nữa, đều phải rập khuôn theo Trung Hoa. Do vậy, Trung Hoa sao thì Việt Nam vậy. Thời sau đó, đầu thế kỷ 6, Lý Nam Đế khởi nghĩa chống Trung Hoa và chính ông cũng là người đã ở chùa, cho nên việc sa-môn không lạy vua, ông ta chấp nhận được. Rồi đến các đời Đinh, Lê, Lý, Trần v.v... những ông vua Việt Nam của chúng ta cũng xuất thân từ cửa chùa như Lý Công Uẩn, tức là Lý Thái Tổ, sáng nghiệp triều Lý (1010 - 1222) và đã ăn cơm chùa mòn cả răng, không lẽ ông vua này lại dám buộc thầy mình là Vạn Hạnh Thiền Sư và Lý Khánh Vân lạy mình hay sao? Điều ấy chắc hẳn không có. Vì lẽ như vậy, chiếu theo đạo Nho cũng đã sai rồi, làm sao nói đến đạo Phật được. Đó là chưa kể những ông vua cuối đời nhà Lý như Lý Huệ Tông đã bỏ ngôi đi tu, đạo hiệu là Huệ Quang, nhường ngôi cho con là Lý Chiêu Hoàng trị vì thiên hạ. Sang đến nhà Trần, Vua Trần Thái Tông cũng chán mùi tục lụy, cung cấm và vị quân sư Trần Thủ Độ, nên nhà vua mới nói rằng: “Trẫm xem ngai vàng như đôi dép bỏ.” Điều ấy chắc hẳn chẳng phải vì giận hờn mà vì lẽ thấy đời là ảo mộng, cho nên mới vào núi Yên Tử để xuất gia theo Phật, nhưng Quốc Sư Phù Vân thuở ấy đâu có chấp nhận. Vả lại Trần Thủ Độ đâu có để cho vua yên. Thượng Hoàng không đi tu được thì cháu nội của Thượng Hoàng đi xuất gia, đó là Vua Trần Nhân Tông, tức là Điều Ngự Giác Hoàng. Ngài đã nhường ngôi cho con là Anh Tông để đi xuất gia. Và vẫn còn làm lợi ích cho Tổ Quốc là đem Huyền Trân Công Chúa gả cho Chế Mân và Chế Mân đã dâng hai châu là Châu Ô và Châu Rí, đồng thời siết chặt mối tình hòa hảo giữa hai nước, ngăn ngừa chiến loạn. Nếu không có Huyền Trân Công Chúa đời Trần, thì nước Việt Nam đâu có Huế và Quảng Nam ngày nay, để rồi mai này các vua nhà Lý, nhà Mạc, nhà Hồ, nhà Hậu Lê, có cơ hội vùng vẫy mở mang cho đến tận mũi Cà Mau như ngày nay. Chưa hết, khi Nguyễn Ánh thua Nguyễn Huệ phải chạy sang Xiêm La tức Thái Lan ngày nay cầu viện, nếu không nhờ chư Tăng và vua chúa Thái Lan cho ẩn náu vào cuối thế kỷ 18, thì làm sao trở về khôi phục lại quê hương mà lên ngôi năm 1802 để dựng nghiệp đế. Vì vậy, sau khi lên ngôi Hoàng Đế Gia Long đã sắc phong dựng chùa Phổ Phước, chùa Khánh Vân, Chùa Cảnh Phước ở Bangkok để cảm cái ân, cái nghĩa cứu giá của vua chúa cũng như quân thần trong khi sống loạn ly mà vẫn còn cái hồn gửi về nơi cố quốc. - Còn Sắc Tứ Hưng Phước Tự là sao đại huynh nhỉ? - Tiểu sinh này, ta là nho sinh chứ đâu phải tiểu tăng mà cái gì cũng hỏi vậy kìa, làm như ta là tiểu hòa thượng không bằng. Nhưng thôi nể lời đệ ta trả lời luôn đây. Nhưng nhớ rằng lần sau không được hỏi thêm gì nữa đấy. Chúng ta phải lên ngoạn cảnh chùa và lễ Phật nữa chứ! Chữ Sắc có nghĩa là lệnh. Chữ Tứ có nghĩa là ân phước. Có nghĩa là có lệnh ban ân phước cho chùa này. Nhưng ban cho cái gì? Đó là chức Tăng Cang hay Hòa Thượng của các vị Tổ tại đây. Vì vua nể đạo cao đức trọng của chư vị mà sắc phong như thế. Đệ nên nhớ rằng thời quân chủ chỉ có vua là trên, không còn ai trên vua nữa. Còn tên chùa Hưng Phước có lẽ do Hòa Thượng khai sơn đặt cho. Chùa này như đệ biết đấy, đã tồn tại qua mấy trăm năm rồi. Thôi chúng ta hãy cùng vào chùa đi. Chùa có năm gian, ở giữa là gian thờ Phật Tổ, có tượng A nan, Ca-diếp đứng hầu hai bên. Phía bên trên cùng thờ tam thế Phật, gồm A-di-đà, Thích-ca, Di-lặc, và tầng dưới thờ Hoa Nghiêm Tam Thánh: Phật Thích-ca, Bồ Tát Văn-thù và Bồ Tát Phổ Hiền. Gian bên mặt từ ngoài nhìn vào thờ Bồ Tát Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, và kế bên thờ Hộ Pháp Vi-đà. Gian bên trái đối diện thờ Bồ Tát Thế Chí, gian kế tiếp thờ Bồ Tát Địa Tạng. Chung quanh tường thờ các vị Bồ Tát và các vị A La Hán. Phía sau thờ Tổ và chư vị Thánh Tăng. Phía trước cửa chánh điện thờ Tiêu Diện Đại Sĩ và Quan Thánh Đế Quân. - Cả chừng đó Phật và Bồ Tát, đệ muốn cầu gì thì cứ cầu, muốn xin gì cứ xin. - Nhưng ai nấy cũng đều trầm ngâm cả, làm sao biết ai gật đầu chấp nhận mà xin? - Thì đệ cứ khấn đi, thế nào cũng có sự linh hiển nếu đệ nhất tâm. Nhưng đệ muốn xin gì? - Làm sao mà đại huynh hỏi điều thầm kín ấy được. Chỉ có Phật Bồ Tát mới biết được trong lòng của tiểu đệ này thôi - Chẳng có gì bí mật cả. Thôi đệ hãy khấn đi. - Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Tồi Tà Phụ Chánh Quán Thế Âm Bồ Tát. - Cái gì mà nhiều Bồ Tát thế! Chẳng thấy khấn nội dung gì cả? - Từ từ đã đại huynh. Nhưng điều này bí mật... Đoạn khấn thầm: “Nam mô... cho con..., như vậy... Kính mong Ngài... Nếu thành tựu... con sẽ không bao giờ quên.” - Nghe chẳng rõ gì hết! - Thôi thì cứ cho là bí mật đi. Nhưng đại huynh muốn hiểu làm gì. Đây là chuyện riêng của tiểu đệ mà. Thế đại huynh có cầu nguyện gì chưa? - Sao đại huynh thấy mắc cỡ quá. Người đi lễ quá chừng mà tự nhiên mình là nho sinh cứ vái lạy như thế này xem ra các ả tín nữ phía sau họ cười cho. - Nếu thế thì đừng đi chùa vẫn hơn. - Nhưng chùa là chỗ thiện của làng mà, tại sao mà không đi? - Thôi chúng ta ra bên ngoài để xem phong cảnh một tý đã. - Người xưa thật có mắt. Vì lẽ gì chùa được gọi là “tự”? Vì sao có chữ này đệ có biết không? - Đến đây thì đệ cũng bí lối. Kính nhờ đại huynh, đã thương thì thương cho trót, xin giải nghĩa giùm. - Thôi được, đệ nghe đây! Ngày xưa vua Trung Hoa tiếp các vị sứ thần và các nước chư hầu ở một nơi gọi là “tự”. Sau này, cơ ngơi đồ sộ, mới tiếp nơi những dinh cơ khác, chứ ngày xưa tiếp ở chỗ nhỏ thôi. Chữ tự (寺) này được ghép từ hai chữ. Đó là chữ thổ (土) ở trên và chữ thốn (寸) ở dưới. Chữ thổ là tượng trưng cho đất, mà đất thì trong nhà Phật cho là vô thường, vì cái gì có hình tướng đều hư vọng cả. Ngay cả thân tứ đại này của chúng ta, cũng được cấu tạo bằng bốn chất lớn ấy, theo như lời Phật dạy, đó là: đất, nước, gió và lửa. Còn một chữ nữa gọi là bộ thốn mới thành chữ tự được. Chữ thốn ngoài ý nghĩa là một tấc (gồm 10 phân), hoặc sự việc nhỏ bé, còn có một nghĩa khác nữa là “tấc bóng quang âm khá tiếc”. Cả hai chữ này đều diễn tả sự vô thường, mà ngôi vua ai chẳng muốn bền vững lâu dài, nếu dùng mãi chữ tự thì không lâu phải thay đổi triều đại. Do đó từ đời nhà Hán trở đi, ở Trung Hoa chữ tự chỉ còn để cho chùa dùng và còn thêm vào bên sau chữ miếu nữa, để trở thành một danh từ mà nơi đó chỉ thờ Phật chứ không phải của vua. - Còn Việt Nam thì sao? - Các đời vua hậu Lê của chúng ta cũng tiếp các sứ thần ngoại quốc tại chùa. Vì lẽ chư tăng là những người hay chữ, có thể giúp cho vua chúa và các quan, bút đàm bằng chữ Hán dễ dàng hơn. Do vậy mà tiếp ở chùa. Nhưng chùa ở đây là chùa Quán Sứ. Chữ Quán Sứ nghĩa là nơi các sứ thần ở lại. Chữ quán được viết chung hai bộ là bộ quan và chữ xá. Như vậy đúng ý của các vua hơn, nên chữ quán dùng từ ấy đến nay. Sau này khi kinh đô triều Nguyễn dời vào Thuận Hoá, rồi thì chùa Quán Sứ tại Hà Nội do chư tăng ở, chứ sứ của các nước khác không còn đến để trú tại đó để được Vua tiếp nữa. - Quả thật Việt Nam cũng hay đấy chứ đại huynh nhỉ! - Coi chừng cái đuôi của Nho sĩ bị lòi ra và người đời xem thấy chướng lắm đấy! Làm sao cho bằng Phật giáo thuở bấy giờ. Đệ thấy không! Chùa nào cũng lầu ngang dãy dọc, điện trước, đền sau, còn hơn cung vua nữa. Còn vua chúa gì mà cho phải đạo chứ. Có ông như vua Thành Thái, còn phải vượt thành vào chùa để hỏi ý Hòa thượng Hải Thiệu nữa đấy. Tuy rằng các vua ấy đều học Nho học để tiến thân, giữ nghiệp đế cũng như chăn dân trị nước, chứ có ai nhờ Phật học mà thành đâu? - Sao mà đệ ganh tỵ với những bậc xuất thế làm gì. Họ suốt đời chỉ tu theo hai chữ “không tướng” trong kinh Kim Cang mà thôi. Có gì đâu mà phải tiếng to tiếng nhỏ. Vả lại từ xưa đến nay trong lịch sử nước nhà cũng như của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Ấn Độ, đã có rất nhiều ông vua bỏ ngai vàng điện ngọc để đi tu, chứ chưa thấy một nhà tu nào bỏ sự tu hành để đi làm vua cả. - Nếu đại huynh nói vậy thì Chu Nguyên Chương triều nhà Minh bên Trung Hoa và Vua Lý Công Uẩn của Việt Nam ta, không phải là những ông vua xuất thân từ cửa chùa đó sao? - Đúng vậy! Nhưng trường hợp của vua Lý Công Uẩn là vì triều đình Lê Long Đĩnh quá tồi bại. Nào hoang dâm vô đạo, nào chẻ mía trên đầu sư. Đâu có ai nỡ lòng nào, nhất là thiền sư Vạn Hạnh “chấn tích trụ vương kỳ”. Nghĩa là chống gậy giữ nghiệp đế cho Vua. Vì lòng dân, vì thời thế, vì vận nước v.v...Vả lại, Lý Công Uẩn ở chùa lúc ấy là một việc chẳng đặng đừng. Thế ấy chẳng phải Công Uẩn tự chủ, chỉ vì là con rơi nơi cửa Phật chứ không phải người có ý xuất gia rồi bỏ việc tu hành để đi làm vua. Còn Chu Nguyên Chương, sáng tổ của nhà Minh bên Trung Hoa vào thế kỷ 13 cũng thế. Những người bình nam dẹp bắc xưa nay đâu phải lúc nào cũng thắng, mà lúc nguy khốn đâu có ai phò. Chỉ có cửa chùa là nơi che chở. Cho nên người xưa nói rằng: “Phù thạnh chẳng phù suy.” Khi ân vua lộc nước tròn đầy thì kẻ hầu người hạ, nhưng lúc quốc sự nhiễu nhương, lúc ấy mới biết ai trung ai nịnh. Huống nữa là quê ta cũng như Trung Hoa hoặc Tây Tạng, có những người đáng lãnh đạo đất nước, thì việc ấy há có hại gì đâu? Triều Minh bên Trung Hoa, cũng đã 300 năm lịch sử từ thế kỷ 13 đến đầu thế kỷ 17 (1640) chứ đâu có ít và triều Lý Việt Nam ta cũng vậy thôi. Tuy là ông vua xuất thân từ cửa chùa, nhưng hết lòng chăn dân trị nước, xây chùa, dựng tháp khắp nơi, từ Hoa Lư đến Thăng Long, đâu đâu cũng thể hiện lòng từ bi cao độ ấy. Vậy thì đạo Phật có hại gì cho nước nhà. Còn đạo Nho của chúng ta thì sao, đệ hãy giở sử lại xem? - Quả thật là đệ này chẳng địch nổi đại huynh. Chắc là sau lần này đệ phải vào chùa để tương chao kinh kệ, mới có thể hiểu được những điều của đại huynh nói và từ đó cái nhìn của đệ mới có thể khác với ngày hôm nay chăng? Thế rồi, cả hai đều ra vườn chùa để ngoạn cảnh. Đây là hoa hải đường, nọ là bạch liên, hồng liên đang nở nhụy. Ở bên đồi kia là hoa thung và hoa huyên. Đây là hoa vạn thọ, hoa thược dược. Lại có cả hoa lan và hoa điệp. Bấy giờ họ mới thảo luận cùng nhau. - Hoa vạn thọ và hoa sen đệ đã biết rồi, còn hoa thung và hoa huyên, nghe nói hai hoa này tượng trưng cho cha và mẹ, nhưng Nho sinh như tụi này chưa hiểu rõ nghĩa lắm. Kính xin đại huynh vì tiểu đệ mà giải bày. - Chữ thung viết bằng Hán văn gồm hai chữ ghép lại. Một bên là bộ mộc, tức thuộc về cây cối, một bên là chữ xuân tức là mùa xuân. Ý nói mùa xuân thì hoa này nở. - Hoa nào chẳng nở vào mùa xuân? - Đệ nói như thế là sai rồi. Hoa cúc nở vào mùa thu, hoa mai nở vào mùa đông. - Xin đại huynh tiếp đi. - Chữ thung cũng có nghĩa là đánh đập. Ý nói người cha còn mạnh khoẻ hay dạy dỗ con cái bằng roi vọt. Do vậy mà chữ thung dùng để chỉ cho người cha. Ở Việt Nam, tại chùa Hưng Phước này như đệ thấy đó, có hai loại hoa thung màu trắng và màu đỏ, đệ thấy đẹp không? - Đẹp thì có đẹp, nhưng sao nghe đến đánh đập đệ ớn quá! Còn hoa huyên thì sao? - Chữ huyên viết bên trên có bộ thảo, tức thuộc về cỏ, mà cỏ thì mềm mại phải không? Cỏ cũng nở hoa phải không? Bên dưới viết chữ tuyên có nhiều nghĩa. Nhưng ở đây phải hiểu là bao la, to lớn. Vì sao vậy? Vì lòng của mẹ bao giờ cũng bao la như biển cả. Cây này tuy là cỏ, nhưng như đệ thấy đó, hoa lá đều ăn được cả. Trong kinh Thi đệ không nhớ có câu rằng “Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bội” đó sao? Nghĩa là “làm sao được cỏ huyên”, tức là cây này vậy. “Cây mọc ở sau nhà phía bắc”, tức dùng để chỉ hoa này. Nhà phía bắc là chỗ để cho đàn bà ở. Vì thế nên gọi mẹ là huyên đường. - Nhưng ở đây là chùa Hưng Phước chứ đâu phải nhà? - Đúng là vậy. Ngày xưa ý nói tượng trưng như thế thôi, chứ ai mà biết hết được chữ nghĩa của Thánh Hiền. Tuy nhiên, sau khi giải thích rồi, đệ thấy hữu lý không? - Đúng là đại huynh trí óc thông minh trác tuyệt, mà còn đẹp trai như vậy. Biết đâu hôm nay đi lễ chùa này lại chẳng gặp được ý trung nhân! - Ấy, ấy, đệ đừng nói thế, ta đâu có đi cầu duyên. Trước tiên ta phải cầu cho con đường công danh thông suốt đã, sau đó mới đại đăng khoa chứ. - Thế còn hoa lan và hoa điệp? - Chữ lan thuộc bộ mộc thuộc về cỏ cây, bộ môn thuộc về nhà cửa và chữ đông nằm bên trong cánh cửa. Nghĩa là hoa ấy nở ở hướng đông trước cửa nhà. Hoa này có nhiều loại. Vì hoa lan thơm lắm, nên dầu thơm gọi là lan du, còn có loại gọi là chạch lan, tức cây này trừ được mọt sách. Cho nên nhà để sách gọi là “lan tĩnh vân các”. Ngoài ra, mùi thơm của lan sực nức nên lại dùng để ví dụ với các chỗ tình ý hợp nhau như “lan giao”, ý nói tình bè bạn chơi với nhau rất quý mến, cũng có nghĩa là “lan ngọc”, dùng để khen ngợi các con em nhà của bạn. Cũng có cây mộc lan cao lớn người ta có thể làm nhà nữa. - Đúng là đại huynh không khác gì quyển tự điển sống, nhưng ở chùa tại sao trồng lan làm gì nhỉ? - Ở đâu lại chẳng trồng được. Thấy sắc không tham, thấy hương không đắm, ấy mới là kẻ tu hành chứ! - Vậy còn đại huynh thì sao? - Ta là người trần mắt thịt, chứ đâu phải kẻ xuất thế tìm phương giải thoát cho đời đâu? - Còn điệp là thế nào. Theo đệ nghĩ không phải là một loài hoa, nhưng sao người ta vẫn gọi là hoa điệp. - Đúng đó! Đệ cũng giỏi chữ nghĩa. Thế mà khiêm nhường. Chữ điệp gồm có ba chữ ghép lại. Đó là bộ trùng, thuộc loại động vật. Bên trên là chữ thế, tức ở giữa cuộc đời này, Phía dưới là chữ mộc, tức thuộc về cây cối, ba chữ này ghép lại thành chữ điệp nghĩa là con bướm. - Mà con bướm và hoa khác nhau chứ? - Thì bướm ấy vờn hút nhụy, nên mới có bộ mộc bên cạnh đó. Đúng chữ nghĩa phải nói là hồ điệp, tên thật hay, nhưng cũng để chỉ cho loài bướm mà thôi. Ở Việt Nam mình từ xưa đến nay, người ta dùng chữ điệp này để gọi bông hoa phượng loại nhỏ hay nở vào mùa hè. Nhất là mùa có ve sầu kêu inh tai nhức óc đó. - Nhưng đệ cũng lạ, chùa này cũng trồng hoa trà mi nữa. Đệ có nghe người xưa nói rằng: “Tiếc thay một đoá trà mi, Con ong con bướm tiếc gì cái hương...” - Là ý gì vậy, đại huynh? - À chuyện ấy là chuyện Kiều, nguyên tác được viết tại Trung Hoa, lấy tên là Thanh Tâm Tài Tử truyện, hay Đoạn Trường Tân Thanh, tức là tiếng kêu xé lòng đấy. Truyện này được viết vào thời nhà Minh, thế kỷ 14-15 bên Trung Hoa. Sau này cụ Nguyễn Du là một đại văn hào ở nước ta đã làm quan trong ba triều gồm Lê-Mạc, Nguyễn Tây Sơn, Gia Long Nguyễn Ánh vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tiếp đó cụ đi sứ sang Trung Hoa và đọc được chuyện này bằng Hán văn, đoạn đem về Việt Nam và cải biên lại bằng văn vần, dễ thuộc lắm. Truyện Kim Vân Kiều và hai câu thơ ấy ý nói rằng: Thân phận nàng Kiều cũng giống như một đóa hoa thơm, hoa đẹp, như hoa trà mi, nhưng con ong con bướm khi hút nhụy hoa đâu để ý đến hoa làm gì. Quả thật cuộc đời của người con gái “hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc mệnh” là thế ấy. - Xin cảm ơn đại huynh và bây giờ chúng ta nên đi qua bên kia để hóng gió. Hình như xa xa có một dòng suối! Nào chúng ta cùng đi. Cả hai người như là bạn tri âm, tri kỷ. Họ đã tung tăng hết nơi này đến chốn nọ trong vườn chùa Hưng Phước hôm nay, vì là ngày lễ nên ít người để ý đến. Tuy nhiên, những hành tung của họ cũng chẳng ai để ý đến làm gì. Trong chùa ai cũng nghĩ họ là những Nho sinh đi vãn cảnh chùa thế thôi. Và họ là những người đang say cảnh đẹp của chùa. Biết đâu cảnh thiền môn yên tịnh nơi núi đồi hoang dã này sẽ gây cho họ nhiều ấn tượng tốt về đạo Phật và biết đâu sau này họ thi cử đỗ đạt ra làm quan, họ sẽ là những ông quan thanh liêm và nếu chùa chiền có cần gì, thì các ông cũng có một chút cảm tình, chứ không phải đợi đến chết mới hồi đầu quy Phật. Dĩ nhiên tuy họ học Nho, nhưng Phật học họ cũng có nghiên tầm. Nhưng vì lẽ họ chưa nhập thế trên con đường công danh thì họ làm sao tu xuất thế được. - Cảnh ở đây đẹp quá phải không đệ? - Vậy là đại huynh đã mến cảnh chùa rồi! - Dĩ nhiên, chùa là cái Thiện của làng ta mà, nhưng kìa đệ xem, nước kia trong quá. - Không phải đâu đại huynh, vì nước chảy trên đá, và ở đây không có bùn, chỉ toàn là cát nên đại huynh gọi nước trong. Thế khi nước chảy đến bùn thì gọi là nước gì? - Dĩ nhiên là nước đục. - Thật ra bản thể của nước, nó không trong mà cũng chẳng đục, vì nó chảy qua chỗ sạch ta gọi nó là trong, khi chảy qua chỗ bùn ta gọi là đục. Nhưng bản thể của nước vốn không đục mà cũng chẳng trong. Đại huynh chắc rõ điều đó? - Cha chả! Ta không ngờ tiểu đệ thâm hậu! Bỏ xa ta rồi đấy. - Đại huynh quá khen, thật ra tiểu đệ này chỉ học lóm trong sách vở và thỉnh thoảng có đi chùa nghe Sư Cụ ở đây giảng như vậy. Nên mới dám lạm bàn với đại huynh như thế. Thật ra bản thể của nước chỉ có một. Đó là tánh ướt, tánh lạnh, tánh dịu dàng dễ nhập thế mà cũng dễ xuất thế, tùy theo hoàn cảnh nước sẽ xuôi dòng. Khi nước ở trên núi đồi này đại huynh gọi trong, khi giao thoa giữa ao hồ và biển cả, chắc rằng đại huynh nói đục, nhưng nước nào cuối cùng rồi cũng xuôi về biển cả, để hòa nhập với đại dương. Lúc ấy biển cả mênh mông, bầu trời lai láng, đâu có còn gì là trong đục nữa đại huynh? - Sao mà hôm nay tiểu đệ của ta giỏi quá, hiểu lẽ vô thường và sắc không bất nhị, quả đáng làm anh ta chứ không phải ta là anh ngươi. - Xin đại huynh chớ quá lời vì lẽ tiểu đệ xúc động mà nói thế thôi. Chứ thật ra tuổi đời cũng như học vấn của đệ còn thua xa đại huynh. Xin đại huynh nhận cho một lạy để tạ tội. - Tiểu đệ không nên làm thế, chúng ta chỉ là bạn bè mà thôi. Thôi chúng ta hãy đứng lên mà đi tiếp đi. Họ đi sâu vào rừng thiền chung quanh chùa Hưng Phước. Đến đâu họ cũng trầm trồ khen ngợi về cảnh trí thiên nhiên nơi ngôi chùa trên núi này và lại hỏi nhau. - Đại huynh có biết tại sao chùa lại xây trên núi không? - Cái này khó đấy, theo đệ thì sao? - Đây là chỗ hiểu của đệ nhé. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, Ngài cho chư tăng ni xuất gia, hay ở nơi rừng núi chứ không phải ở chốn thị thành. Vì đời sống xuất gia là đời sống độc cư ở nơi A Lan Nhã, tức là sống một mình trong núi đồi hiu quạnh để thúc liễm thân tâm mình. Khi nào gạn lọc tâm cho thanh tịnh, nghĩa là ngộ được ý đạo rồi, lúc ấy mới xuống núi. Do vậy, mà chùa đa phần xây trên núi. Có lẽ ý này đúng nhất, nên chúng ta thấy đời sống của những nhà tu thật là ung dung tự tại. - Cây kia là cây gì và đại huynh hãy xem bầy kiến đó! - À cây cối vốn vô tình, nhưng hay lắm đấy đệ ạ. Cây từ lòng đất mọc lên, cung cấp cho đời biết bao nhiêu là dưỡng khí, chúng ta nhờ đó mà sống được trong đời này. Khi thân cây lớn, người ta có thể chặt đốn đem về làm nhà, làm bàn ghế. Tuỳ theo loại tốt xấu mà tạo thành những sản phẩm khác nhau, để làm đẹp cho người và cuộc đời. Chẳng có cây nào vô dụng cả. Dở lắm, xấu lắm cũng làm củi để nấu cơm và cuối cùng cũng làm phân để bón lại cho đất. Chứ còn như chúng ta, thật ra, nếu chẳng làm lợi gì cho đời, người đời thường quở trách là “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”. Đúng là khi còn nhỏ chỉ báo khổ cha mẹ, còn khi lớn lên đi vào đời chỉ làm nhọc vợ, nhọc con chứ có ích gì đâu. Cây đây là cây bạch đàn, cây kia gọi là cây dương liễu. Cây nọ là cây sầu đông và đây là cây trắc bá diệp... Cây nào cũng có tên riêng của nó và cây nào cũng hữu ích cho đời. Có cây dùng cả thân lẫn lá và rễ, như cây bạch đàn, nghe đâu người ta nấu làm dầu để trị bệnh khi đau đầu nóng lạnh. Còn đàn kiến kia, đệ có biết không, chúng họp đoàn lắm đó! Kìa hãy xem chúng đang tụ họp lại để khiêng một vật gì to lắm về tổ. Nếu là con người chắc chẳng được vậy. Khi có miếng mồi lớn hay bả công danh to nơi chốn quan trường thì mạnh được yếu thua, phải không đệ? Lúc ấy chẳng ai nể ai cả và chốn quan trường trở thành chốn đấu đá nhau. Cho nên nhiều người đã chán cảnh ấy từ quan về vườn. Kẻ làm nghề gõ đầu trẻ, người đi xuất gia đầu Phật, người thì hưởng nhàn với túi thơ bầu rượu, như nhiều nhà Nho đi trước chúng mình đó. Đệ có biết không, tuy là kiến thuộc về loại động vật nhiều chân, nhưng chúng tinh khôn lắm đấy, nhất là khi trời mưa hay lụt, chúng biết trước cả loài người. Tuy là loài người tinh khôn, nhưng những thính giác và cảm giác thiên nhiên không bằng loài kiến đâu. Đệ thử tưởng tượng rằng mỗi khi có gió lớn, thì ta mới biết sắp có mưa bão, nhưng chúng thì biết từ lâu, cho nên chúng xây miệng tổ lên thật cao để ngăn mưa và đôi khi còn che tổ lại bằng cây lá nữa, để gió khỏi lay, khi mưa đến chúng ở sâu vào lòng đất không bị nước chảy vào. Đó là ở trên núi này, chứ ở đồng bằng chúng sợ ngập lụt thì chúng dời tổ lên vùng cao trên trần nhà. Nếu không vậy thì chúng sẽ bị chết ngập mất như đệ thấy đó. Từ cây cỏ cho đến các động vật, chúng ta cho là loài vô tình, nhưng rất hữu dụng trong cuộc sống này. Chúng nó sống hay chết, tất cả đều làm lợi cho đời. Còn con người chắc chưa hẳn thế. Con người được xem là một động vật tinh khôn nhất, lo đi chinh phục hết nơi này đến chốn nọ. Nhưng ít ai tự chinh phục trong một hoàn cảnh như thế này. Quả thật con người còn phải chịu ơn và học hỏi thêm ở những loài vô tình nữa. Chứ đừng có ỷ thế làm người mà đi chinh phục thiên nhiên. Rồi một ngày nào đó thiên nhiên sẽ phẩn nộ khiến cho con người bị họa diệt vong, mà ngày ấy chắc chẳng xa đâu! Từ lòng đất thiên nhiên đã cho ta đủ loại hoa màu cây cỏ, rau trái, côn trùng, sâu bọ v.v... Loài nào cũng có ích và nhiều loài tuy tưởng như vô ích nhưng không có chúng thì thế giới này sẽ sớm bị hủy diệt. Ví dụ như hổ báo, hùm beo, sư tử... Tuy hung dữ đối với loài người, mà thiên nhiên cần phải có chúng để cân bằng sinh thái. - Chắc là cũng giống như ông Thiện và ông Ác đang thờ trong chùa này chăng thưa đại huynh? - Đúng vậy! Ở đâu có thiện thì ở đó có ác, nhất là thế giới chúng ta đang ở, thiện và ác lẫn lộn nhau. Cho nên những thế giới ở cõi trên chỉ toàn là thiện, và những thế giới ở cõi dưới chỉ toàn là ác. Kẻ ác thì có người ác trị, kẻ thiện thì có người thiện hộ trì. Quả thật nhân nào quả nấy là như thế đó. Vì vậy cho nên chúng ta gọi là đời. Tại sao gọi là đời, vì lẽ nó vừa có cái này, mà cũng vừa có cái kia. Ông Ác ấy không phải để hù doạ con người, mà ông Ác ấy phát nguyện sanh ra làm ông hộ pháp tướng ác để độ cho người ác. Còn ông Thiện kia với dáng điệu hiền lành ai cũng muốn gần, do vậy ở trong chùa có thờ cả ông Thiện lẫn ông Ác là thế. Từ sáng đến giờ cả hai người sau khi lễ Phật cầu nguyện, họ đã dong ruỗi khắp cả vườn chùa và bây giờ mặt trời đã gần đứng ngọ, họ chuẩn bị ra về, và dời bước đến cổng Tam Quan thì gặp ngay Hòa Thượng Trụ Trì, họ tự giới thiệu: - Nam-mô A Di Đà Phật, bẩm Ngài tiểu sinh đây là Ngọc Minh và tiểu đệ đây là Vạn Tâm. Cả hai đều là nho sinh của bản làng này và hôm nay nhân trước kỳ thi cùng lên đây lễ Phật và cầu nguyện, kính mong Ngài đại xá cho sự đường đột và quấy rầy nơi an tịnh của chốn thiền môn, nơi sơn tự từ sáng đến giờ. - Mô Phật, cửa Phật là cửa từ bi, vốn sẵn sàng mở rộng cho bao nhiêu khách trần ai lạc bước hoặc kẻ hữu duyên với đạo, không nệ hà gì mà khách sáo như thế, xin cứ tự nhiên, và đã đến giờ ngọ trai rồi, xin mời nhị vị vào trong dùng trà và có thể cùng dùng trai cho tiện. - Xin cảm tạ tấm lòng tốt của Ngài, đã mở lượng từ bi cho sự đường đột dại khờ, đã không bắt lỗi mà còn không khách sáo cho tiểu sinh có cơ hội làm quen với cửa chùa, nhưng xin khất cho lần khác, vì lần này đã không dự định, phải rời khỏi gia trang và học đường một thời gian quá lâu như thế, khiến cho phụ mẫu và thầy dạy ngồi chờ tại nhà, ngưỡng mong Hòa Thượng hoan hỷ. - A Di Đà Phật cửa Phật từ bi không chấp trước, không tạo khó khăn cho khách thập phương mà cũng chẳng phải khách sáo. Xin quý khách cứ tùy tiện! Thế rồi cả hai cùng xuống núi và mỗi người đi vào một ngã rẽ của đường làng, cũng là ngã rẽ của cuộc đời. Đường đời vạn nẻo, đạo lý chỉ có một chứ không hai. Do vậy mà sau khi gặp được Hòa Thượng Trụ Trì Hưng Phước Tự họ thấy Ngài đạo mạo, ngoại tướng trang nghiêm, khiến ai mới gặp cũng sanh tâm kính ngưỡng. Đó là kết quả của bao tháng ngày ngồi thiền, trì chú, niệm Phật nơi chùa này. Vì thế trên từ vua quan, dưới đến thứ dân ai ai cũng một lòng cung kính trọng vọng. Thế mới biết phép Phật nhiệm mầu. Trên đường về mỗi người mang một tâm sự khác nhau. Kẻ thì khen chùa đẹp trang nghiêm, người thì cảm được mùi Thiền, nên có nhiều tính toán cho tương lai. Mà tương lai thì còn xa thẳm, cho nên chẳng ai thổ lộ cho ai điều gì. Chỉ có một điều chắc chắn là họ đã là bạn thân và bây giờ lại thân nhau hơn. Những gì khó khăn họ trao đổi, học hỏi, luận bàn với nhau, những gì cao siêu quá họ hỏi thầy dạy của họ và những gì mà sách Thánh Hiền không đề cập đến thì cả hai đều lên chùa Hưng Phước để gặp Hòa Thượng Trụ Trì và mong Ngài giảng cho đạo lý nhiệm mầu của đạo Phật, trong cuộc sống vốn thanh bình nhưng đều có những cam go thử thách của cuộc đời này. Chương 2. Tình Thầy Trò N gười mẹ rất đau khổ đặt đứa con mới sinh được mấy ngày trước cửa chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự rồi thì thầm khấn: “Kính lạy Bồ Tát Quán Thế Âm! Con là người mẹ bạc phước vô duyên, sinh con mà không dám nuôi. Vì miệng đời chanh chua, gièm pha muôn nẻo, nên con phải cắt núm ruột của con để lại nơi cửa Thiền, mong Ngài từ bi độ trì cho đứa trẻ. Xin ngài đoái thương và cứu vớt cho một người mẹ khổ đau.” Sương mù vẫn còn dày đặc, giăng tận xuống cổng tam quan. Sư Cụ Trụ Trì khoan thai từng bước một xuống thềm chánh điện và tiến ra phía trước cổng chùa để mở cửa. Bỗng nhiên, Sư Cụ nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh và nhìn chiếc nôi, trong ấy có một tờ giấy ghi mấy chữ nguệch ngoạc như thế này: “Kính lạy Ngài hoan hỷ nuôi giùm đứa bé. Vì lý do gì thì xin Ngài đừng tra hỏi, xin hẹn lại một ngày sau. Nếu nhân duyên hội ngộ xin bày tỏ hết ngọn ngành. Ký tên: Người mẹ đau khổ.” Cửa chùa Hưng Phước bây giờ, ngoài hồi chuông triêu mộ sớm chiều của các tịnh hạnh nhơn hô canh ngày hai buổi, còn thêm tiếng khóc của trẻ thơ nữa. Đứa bé ấy thay vì nghe lời mẹ ru với võng đưa kẽo kẹt hằng ngày thì được Hòa Thượng và các tịnh hạnh nhơn cho bé nghe lời kinh tiếng kệ cùng mõ sớm chuông mai. “Nam mô A Di Đà Phật Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” Nguyện tiếng chuông này vượt ngoài pháp giới Núi Thiết Vi u ám thảy đều nghe Nghe chuông lòng thanh tịnh, chứng viên thông Hết thảy chúng sanh đạt thành Chánh Giác. Nghe chuông ngân lòng nhẹ lâng, Trí huệ phát Bồ Đề tâm Lìa địa ngục, thoát hầm lửa Nguyện thành Phật, độ chúng sanh Phá Địa Ngục chân ngôn: Án Già Ra Đế Da Ta Bà Ha Chuông gióng lên đợt đầu Niệm kệ báu nâng cao Trên thông vào thiên đường Dưới thấu trường địa ngục Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương Giáo chủ cõi U Minh, Cứu bạt khổ chúng sinh Đại nguyện Ngài rộng thênh. Chuông gióng lên đợt hai Niệm kệ báu nâng cao Trên thông vào thiên đường Dưới thấu trường địa ngục. Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương Giáo chủ cõi U Minh, Cứu bạt khổ chúng sinh Đại nguyện Ngài rộng thênh. Chuông gióng lên đợt ba Niệm kệ báu nâng cao Trên thông vào thiên đường Dưới thấu trường địa ngục. Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương Giáo chủ cõi U Minh, Cứu bạt khổ chúng sinh Đại nguyện Ngài viên thành. Ngưỡng chúc Phật pháp mãi rạng ngời Bánh xe pháp đời đời chuyển vận. Gió hòa, mưa thuận thấm nhuần Dân an, nước thịnh, khắp cùng nơi nơi. (tiếng chuông) Trong ba cõi, bốn loài Mỗi mỗi thoát luân hồi Trong mười loại hữu tình Ắt lìa khổ ngục hình. (tiếng chuông) Năm tháng thuận gió mưa Khỏi gặp năm đói khát Đông nam sống hòa lạc Thời Nghiêu Thuấn thái bình. (tiếng chuông) Thôi chấm dứt chiến tranh. Tử nạn những thương vong Đều siêu sanh tịnh độ Đất lành, người hoàn hảo. (tiếng chuông) Loài chim bay, thú chạy Không bị lưới, bẫy giăng Kẻ lưu lãng cô thân Sớm quay về hương quán. (tiếng chuông) Vô biên thế giới Đất rộng trời cao Tín thí gần xa Phước thọ dồi dào. (tiếng chuông) Thiền môn hưng thịnh Phật pháp phát huy Thổ địa long thần Hộ Tăng an tịnh. (tiếng chuông) Cha mẹ cùng thầy học Còn, mất đều lợi lạc Tổ tiên bao đời trước Cùng nhau được siêu thoát. (tiếng chuông) Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. (Mỗi danh hiệu Phật một tiếng chuông) Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Xá Na. Nam mô Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nam mô Đức Phật Di Lặc Từ Tôn. Nam mô Đức Phật A Di Đà cõi Cực Lạc. Nam mô mười phương ba đời các Đức Phật. Nam mô Đức Bồ tát Đại Trí Văn Thù. Nam mô ĐứcBồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền. Nam Mô Đức Bồ tát Đại Bi Quán Thế Âm. Nam mô Đức Bồ tát Đại thế Chí. Nam mô Đức Bồ tát Già Lam Thánh Chúng. Mười Phương ba đời bảy đức Như Lai Cùng tám mươi tám Phật trên liên đài Chúng sanh sáu đường mong thoát khổ Chín cõi mười loài khỏi trần ai. (tiếng chuông) Chuông ngân dồn dập lại gióng lên Chùa viện chúng Tăng hãy nhớ ghi Tu tập bốn thời tuân qui chế Xuống giường cất bước giữ oai nghi. (tiếng chuông) Sau đó tụng: Đại Bi, Kinh Di Đà, Bát Nhã, Niệm Phật, Hồi hướng, Phục Nguyện, Tự quy y và cuối cùng là đọc bài Kệ dứt chuông: Trăm tám tiếng chuông hướng Phật tiền. Trên thông dưới thấu thảy an nhiên. Sáu đường chúng sanh mong thoát khổ. Chín cõi mười loài hết lụy phiền. (Mỗi câu một tiếng chuông) Nam-mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát. (ba tiếng chuông) Sư Cụ Hòa Thượng Từ Tâm, Phương Trượng Chùa Sắc Tứ Hưng Phước, là một bậc thâm nho kỳ cựu. Trước khi xuất gia Ngài đã là một vị quan văn tại chốn triều đình, xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc. Tuy không giàu có do của bất chánh, nhưng ruộng đất cha mẹ để lại cũng như bằng cấp và chỗ đứng trong xã hội, đã làm cho vị quan văn ấy không hổ phận khi xuất hiện trước bàng dân thiên hạ hay ở chốn quan trường đối với các quan trên dưới. Tuy nhiên đứng trên bàng dân để xử kiện hay giao dịch với các nước lân bang và những lần đi kinh lý, vị quan ấy thấy dẫy đầy những kịch tính mà mình phải đóng như trong phim trường, cốt cho xong một bổn phận là “cha mẹ của dân”. Cứ mỗi lần xét xử một vụ kiện như thế, vị quan này chẳng yên tâm chút nào, dẫu cho luật pháp đương thời của triều đình có nghiêm minh bao nhiêu đi chăng nữa, thì đa phần kẻ thắng vẫn là kẻ có tiền và có quyền. Do vậy mà Ngài đã chán ngấy cảnh này nên đã giũ áo từ quan, tìm vào chốn am thiền để tìm lại con người chân thật của mình. Đôi khi Ngài tự nhủ, không biết trong đời này có ai nói thật những thói hư tật xấu của mình cho người khác biết để tránh không? Hay cũng chỉ là tốt khoe xấu che. Có ai biết sợ để sám hối ăn năn những lỗi lầm của mình khi vấp phải, hay cũng chỉ là vá víu tạm thời? Chỉ chừng đó câu hỏi, và chỉ chừng đó suy tư cũng đã làm cho vị quan văn này tỉnh ngộ và chỉ có chốn thiền môn mới có thể giải quyết được những thắc mắc này. Nhất là giáo lý thậm thâm vi diệu của Hoa Nghiêm, của Bát Nhã, của Tánh Không, của Duy Thức, đã giúp Ngài tỉnh giấc mộng Nam Kha, mà chốn quan trường cũng giống như: “Xá chi một quả chuối xanh, Ba bảy người dành cho mủ dính tay.” Ngài đọc tiểu sử của Thiền Sư Huyền Quang đời Trần, tức Lý Đạo Tái, thấy vị này cũng xuất thân từ chốn quan trường, đã đỗ bằng tiến sĩ, ra làm quan một thời gian nhưng lại về hưu non và quyết chí tu hành cho đến ngày đắc đạo. Hai câu thơ mà Huyền Quang để lại vào thời ấy nay vẫn còn có ý nghĩa như thường. Đó là: “Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên.” Thói đời vốn đen bạc, lòng người thay trắng đổi đen, nhưng khi vào chùa cũng chưa phải là hết nợ. Ví như hôm nay đó, tự dưng thằng bé kháu khỉnh lại bị bỏ rơi trước chùa. Ta lại phải cưu mang. Có lẽ họ nghĩ rằng: “Cửa chùa là cửa từ bi và vị thầy cưu mang đứa trẻ chắc cũng là chuyện bình thường như chuyện của Lý Công Uẩn năm xưa chăng?” Con ai đem bỏ chùa này, A Di Đà Phật, con thầy thầy nuôi. Chưa hẳn là vậy. Đã là người xuất gia thì làm gì có con riêng, trừ phi vị ấy lập gia đình, có con cái rồi mới đi tu. Còn đây ta vốn trinh nguyên từ chốn quan trường cho đến khi được sắc phong Hòa Thượng, biết đâu ta nuôi đứa bé này để ngày sau nó sẽ giống như Công Uẩn là: “Nửa đêm chẳng dám dang chân duỗi, Chỉ sợ sơn hà xã tắc xiêu.” Biết đâu! Nhưng trong dáng điệu đứa bé này sao ta thấy nó kháu khỉnh quá, chắc rằng nghiệp lực của nó, còn nặng nợ trần duyên lắm, chứ chưa hẳn đã là một đứa bé “xuất trần thượng sĩ”. Hòa Thượng Từ Tâm nhìn đứa bé một cách chăm chú và nó cũng đáp lại Hòa Thượng bằng tiếng khóc oe oe... và đôi khi lại còn khóc to hơn nữa, khiến cho các vị tịnh hạnh nhân trong chùa phải lo đi khuấy cháo sữa cho nó. Quả thật, chùa đã bận rộn lại càng thêm bận rộn hơn nữa. Ngày lại tháng qua, đứa trẻ ấy lớn lên như thổi, được Sư Cụ Từ Tâm đặt cho Pháp Danh là Ngộ Đạo, lấy họ của mình làm chỗ dựa cho bé. Kể từ đó, chùa như rạng rỡ hơn vì có tiếng khóc của trẻ thơ. Có người hiểu chuyện, giúp Sư Cụ việc này việc nọ, như thay tả, khuấy sữa cho bé, hoặc ru cho bé ngủ, nhưng cũng thật là lạ. Bé chỉ thích nghe chuông, ít thích những lời ru ngọt ngào, vì thế cho nên nhiều người nói rằng: “Bé đúng là có căn tu nên mới gặp được Hòa Thượng.” Cũng có nhiều người không hiểu chuyện, buộc miệng bảo rằng: “Thấy đứa bé giống Hòa Thượng như đúc!” - Ấy chết! Đừng có nói đùa. Ngài là hàng quan tước, nhiều mỹ nhân nhà quyền quý ngài còn không thích, thích gì những chuyện vụng trộm như thế này. Chẳng qua vì mối từ tâm, đúng như đạo hiệu của Ngài, cho nên Ngài mới nuôi đứa bé này thôi. Nhưng ai nói gì Ngài cũng chẳng phân trần, mà cũng chẳng giải thích. Chỉ có điều lúc nào Ngài cũng hoan hỷ mỉm cười và bảo rằng “như thị, như thị...” như thế đó, như thế đó... Cái tên Ngộ Đạo, hay Đạo Ngộ nghe cũng hay hay, vì đọc theo kiểu nào cũng đều xuôi tai cả. Vì đạo mà gặp Ngài hay gặp được đạo qua Ngài cũng hay thôi. Cha mẹ chắc gì đặt được cái tên hay như thế. - Quả thật người mẹ ấy khôn ngoan đấy chứ! Một vị tịnh hạnh nhân nói thế. Trong khi đó, người khác chen vào: - Khôn gì mà khôn. Niềm vui ai hưởng chứ sự cực nhọc thì khiến cho những già này mang, mà còn làm liên lụy, phiền đến Hòa Thượng nữa. - Nói vậy thì chữ từ bi nơi cửa Phật để ở đâu? - Để ở đâu cũng được, nhưng nhiều lúc cũng cần phải đóng cửa từ bi lại, chứ như trường hợp này thì Sư Cụ quá từ bi. - Vậy thì phải giải quyết sao đây? - Đã phát nguyện làm và tu theo hạnh Bồ Tát thì chấp nhận thôi. Cái gì mình bỏ chạy, trốn tránh thì việc ấy cứ theo hoài. Việc gì mình sẵn sàng đối diện thì sẽ vượt qua được. - Già không thấy trong Bảo Vương Tam-muội Niệm Phật Trực Chỉ có nói đó sao? - Nói như thế nào? - Oan trái không cần biện bạch, vì còn biện bạch thì nhân ngã chưa xả. - Nhưng thầy mình đâu có mắc nợ ai đâu? Suốt đời từ khi làm quan cho đến khi tu hành cũng đều làm việc “thi ân chẳng cầu báo”, sao hôm nay chùa mình lại phải cưu mang thêm thằng bé này nữa? - Biết đâu là Lý Công Uẩn tái sinh, hay Chu Nguyên Chương nhập thế chăng? - Việc ấy xin miễn bàn. Lời qua tiếng lại đối đáp với nhau của hai vị tịnh hạnh nhân trong chùa, khiến Sư Cụ nghe được và từ tốn bảo rằng: - Phàm làm người chúng ta phải có lượng từ bi, ngay cả khi chúng ta, những người tu theo Bồ Tát Hạnh bị oan ức, bị xẻ thịt phanh thây còn không giận người, trách đời, huống gì đây mới chỉ là một thử thách nhỏ. Các vị nghĩ như thế, vì họ đem bỏ con trước chùa. Nếu đem ba ký lô gram vàng ròng và hột xoàn, kim cương bỏ đó, chắc quý vị không trách cứ. Nhưng chắc gì hột xoàn kim cương, đã là một điềm lành? Thôi hãy chấp nhận vậy. Vả lại “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả” xưa nay việc ấy vẫn thường, chúng sanh gây ra bao nhiêu tội lỗi chẳng cần biết, chỉ khi nghiệp đến rồi mới sợ mới lo. Còn Bồ Tát phải biết ngay từ lúc gây nhân thì quả ấy đã nắm chắc trong tay rồi. Cũng ví như nếu ta hái quả cam non đem dùng thì chắc rằng đắng lắm chẳng ăn được, nhưng hãy đợi qua thời gian, quả cam ấy chín, ta hái để ăn. Lúc ấy ta thấy ngọt. Vậy vị ngọt này từ đâu đến nếu chẳng phải là từ cái chua kia mà có? Vì thế, đức Phật dạy rằng: “Phiền não tức Bồ-đề.” Sự giải thoát giác ngộ quyết không ra ngoài những phiền não khổ đau trong đời này mà có được. Trong cái nhân đắng ấy đã hàm chứa chất ngọt rồi, chỉ vì chúng ta không biết chuyển hóa khổ đau tục lụy thành Niết-bàn an lạc đấy thôi, chứ nếu chúng ta biết áp dụng, đúng tinh thần Bồ Tát Đạo, thì làm sao chúng ta có thể tìm niềm vui riêng biệt, khi chúng sanh còn đau khổ nơi chốn hồng trần này? Vả lại, đứa bé này biết đâu sẽ tốt về sau, mà cũng có thể sẽ xấu về sau. Như trong kinh Đại Bát Niết-bàn Phật dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có tính nhất định.” Cái đúng của ngày hôm qua, cũng có thể là cái sai của ngày hôm nay, và cái sai của ngày hôm nay, có thể vẫn là cái đúng của ngày mai, vì tất cả pháp đều là Phật Pháp cả. Dầu cho pháp ấy là pháp của thế gian hay xuất thế gian. Biết đâu người mẹ đau khổ của đứa bé này đang hối hận mà cũng đang hạnh phúc. Hạnh phúc vì con mình được nhà chùa nuôi nấng tử tế và được huấn luyện học hỏi hằng ngày nơi chốn thiền môn, nên người mẹ rất an lòng. Có người mẹ nào mà chẳng thương con. Biết đâu bà ta mỗi ngày đang dõi mắt trông vào chùa để xem hành hoạt của con mình, vì thế mà hạnh phúc. Nhưng cũng biết đâu người mẹ đau khổ ấy rất khổ tâm, vì muốn chuộc lại con mình, nhưng sợ miệng đời đen bạc dèm pha. Do vậy mà vẫn âm thầm chịu đựng khổ đau. Và biết đâu Bồ Tát Quán Thế Âm đang thử lòng những kẻ tu hành như chúng ta có thật sự cứu khổ khi kẻ lâm nguy đến kêu cầu với mình chăng? Vả thật có nhiều lý do để mà suy đoán, nhưng nghĩ suy làm gì cho mệt trí. Hãy xem đây là một niềm vui, là hạnh phúc rồi. Vì ta đã làm an lòng cho một người mẹ khổ đau như thế.” Mới đó mà đã tròn ba tuổi, bé Ngộ Đạo lúc nào cũng quấn quít bên Sư Cụ như thầy trò, như cha con và cũng như ông cháu. Người ngoài nhìn vào một già một trẻ lúc nào cũng bên cạnh nhau ra điều tâm đắc lắm. Một hôm Sư Cụ Từ Tâm bảo rằng: - Ngày mai là mồng một, chiều nay chúng ta sám hối. - Sám hối là gì vậy ông? - Sám hối là sám hối. Bây giờ con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Lớn thêm một chút nữa ông sẽ giải thích cho. Bé vâng lời lên chánh điện vào giờ lễ sám hối. Bây giờ ai trông thấy bé cũng muốn gần. Kẻ xoa đầu, người vuốt tóc, trên ba cái chỏm trái đào còn lại hiện lên trên đôi má ửng hồng, giống như một hoa sen đang kỳ nở hương thơm ngát. Có người thì trêu cháu hỏi mẹ cha ở đâu. Người thì kín đáo hơn cho bé trái đào, trái ổi để được bồng ẵm và nâng niu bé. Ai làm cách nào bé cũng thuận theo và vì thế Hòa Thượng được khen là người mát tay nuôi dạy trẻ. Có người bảo: - Từ nhỏ đến giờ Sư Cụ đâu có bao giờ chăm sóc trẻ thơ đâu mà Ngài tài tình quá nhỉ. - Thì chăm lo cho chốn quan trường cũng là một hình thức chăm sóc không phải sao? Ấy là người lớn. Còn ở đây là trẻ thơ, khó dạy khó bảo lắm. Có người lại tò mò muốn biết mẹ cháu là ai, biết đâu trong những người đi lễ chùa vào những lễ sám hối hay những ngày lễ lớn trong năm lại chẳng có mẹ cháu. Hãy để ý xem hành động của một người mẹ thật và một người bàng quan thì sẽ rõ. - Đâu có ai dại gì mà nhận con lại trong lúc này. Vì Sư Cụ chăm sóc kỹ quá mà! Một người đàn bà nói thế. - Đã là con thì hùm dữ chẳng ăn thịt con. Sao người mẹ nào lại đành đoạn thế? Một bà khác nói: - Theo tôi cứ để yên như thế là xong, lớn lên biết đâu tiểu sẽ đi tu. Vì ngày xưa người ta vẫn thường ví: “Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa.” - Nhưng sư phụ mình đâu phải người thường. Đó là bậc quan lại của triều đình. Đã bỏ chốn quan trường vào cửa Phật xuất gia, thì chắc rằng Ngài cũng phải cho tiểu này học đến nơi đến chốn chứ. - Ừ tùy theo thằng bé, nếu nó thông minh. - Trông dáng nó kìa, vừa xinh vừa hồng hào, trông như quả đào chín mọng ấy! - Ấy, đừng khen con trẻ ở tuổi này. Sau lễ sám hối hôm đó, bé Ngộ Đạo được vào liêu phòng của Hòa Thượng Phương Trượng và bé cất tiếng hỏi: “Bạch sư ông, mẹ cha của con sao chẳng thấy đến chùa lễ Phật?” Câu hỏi của bé khiến sư ông suy nghĩ hồi lâu mới trả lời. - Chắc là bận lắm! - Nhưng con chưa bao giờ gặp. - À, chuyện này thì dài dòng lắm, làm sao con hiểu hết được đây. Nếu ông có nói cho con nghe bây giờ, thì sau này chắc gì con còn nhớ. Vì con còn quá nhỏ, thôi để từ từ khi con lớn lên năm, bảy tuổi ông sẽ kể cho con nghe. Lúc ấy, con sẽ có được sự nhận định rõ ràng hơn. Còn bây giờ thì ... - .... con muốn nghe - Nhưng ở tuổi này con nghe đâu có ích gì. Con hãy trở lại phòng mình đi ngủ sớm, ngày mai còn phải cùng ông ra vườn tưới cây kiểng và xem bướm hay hoa nở nữa. Con nít khi bị dụ vào mục tiêu khác, nhất là mục tiêu nào chúng thích thì sẽ sớm quên ngay những gì chúng đang đòi hỏi. Dầu cho việc đòi hỏi ấy có quan trọng đi nữa cũng sẽ dễ quên đi. Sáng hôm sau cả hai ông cháu đều ra vườn và họ thủ thỉ với nhau ra chiều tâm đắc lắm. Đây là bụi hoa mai, đây là giàn hoa thiên lý, đây là hoa cẩm chướng, đây là hoa anh đào. - Nhưng tại sao gọi là hoa, thưa ông? - Thì tại nó là hoa. Nhưng sau này con lớn khôn lên, con học chữ Hán để biết thì ý nghĩa kỳ diệu lắm! Chữ Hán là một loại chữ tượng hình, từ đời ông Bành Tổ bên Tàu đã hơn năm ngàn năm nay, họ dùng chữ tượng hình để viết và gọi tên con người, con vật, cây cỏ v.v..Ví dụ như chữ hoa (花) viết bên trên là bộ thảo (艸) có nghĩa là loài cây cỏ. Bên dưới là chữ hóa (化) có nghĩa là sự biến đổi của đất trời vạn vật. Nếu chiết tự thêm ra nữa thì một bên có bộ nhân đứng (亻) tức là người, còn bên kia là bộ chủy (匕) ví như cuộc đời này yên lặng. Mọi việc đều vô sự mà có đầy đủ việc ăn uống an lành. Như thế cả ba bộ ghép lại thành chữ hoa. Hoa là kết tinh của cuộc đời, của con người và của sự vật. Hoa mang hương sắc đến cho đời, điểm tô cho đời thêm lộng lẫy nên thơ và chính hoa cũng làm cho đời khổ lụy. - Tại sao vậy ông? - Thì cũng như trường hợp của mẹ con đó. Người ta khi nghĩ đến một người đàn bà còn trẻ mà bạc phước thì người ta nói uổng một đời hoa. - Vậy mẹ con đã chết hay còn sống? - Chắc rằng... - Mẹ con đã chết hả ông? - Điều đó không chắc lắm, vì con là đứa con rơi, mẹ con đem bỏ trước cửa chùa vào một ngày mùa đông mưa gió, mới đó mà cũng bốn, năm năm rồi. Quả thật thời gian trôi nhanh thật, đâu có ai ngờ... - Ngờ gì thưa ông? - Biết đâu mẹ con đã vào chùa tu niệm. - Mà cũng chưa chắc, hay là mẹ con đã lấy chồng khác. - Hoặc giả mẹ con đã biệt xứ ra đi, mà cũng chưa chắc nữa. Biết đâu mẹ con đang ở gần đây để xem sự trưởng thành của con. Đâu có người mẹ nào mà chẳng thương con... - Nhưng còn ba của con...? - Đó là điều bí hiểm nữa, chỉ có mẹ con là người biết rõ thôi. - Thôi! Con đừng hỏi nữa, hãy lo học và cầu nguyện, biết đâu một ngày nào đó, sẽ có ngày hội ngộ, và lúc trùng phùng con sẽ rõ biết hơn. Còn ông, ông chỉ biết đến đó và ông cũng biết cuộc đời của con người vốn gốc của nó là khổ đau tục luỵ mà thôi. - Con hãy nhìn cây này xem. - Là cây gì vậy ông? - Là cây nghệ đó. - Cây này làm thuốc hay lắm. Nếu bị thương mà không có thuốc gì đắp lên vết thương thì cứ giả nhỏ củ nghệ đắp lên vết thương và ràng lại cho kỹ, vết thương sẽ mau lành. - Vậy con lấy lá đắp lên chân con nghe? - Không phải vậy. Vả lại con có bị thương đâu. Lại nữa củ nghệ mới có tác dụng chứ lá thì chẳng công hiệu gì đâu. - Còn đây là trà hoa nữ, đó là hoa tý ngọ, hoa phù dung. - Tại sao gọi là trà hoa nữ, tý ngọ với phù dung, thưa ông? - Thì loại nào sớm nở chiều tàn người ta gọi là phù dung. Vì nó đẹp, nhưng nó phù du lắm. Có đó rồi mất đó. Đẹp đó rồi xấu đó. Tất cả chỉ là phù du mộng ảo, như chốn quan trường vậy thôi. - Ông nói gì con không hiểu? - À chuyện này dài dòng lắm, nếu có nói con cũng chẳng hiểu đâu. Chuyện ngày xưa ấy mà, khi ông còn là một quan văn của chốn triều đình, mà bây giờ thôi không bàn đến chuyện ấy nữa. - Vậy những loại hoa kia? - À, tý ngọ là do người ta đọc lệch, đúng ra phải là tỵ ngộ, vì hoa này mỗi ngày chỉ nở một lần vào giờ tỵ và kéo dài không qua giờ Ngọ, tức là khoảng 9, 10 giờ cho đến quá 12 giờ trưa thì tàn, cho nên người ta gọi là dân gian còn gọi là hoa mười giờ. - Còn trà hoa nữ? - Có lẽ người con gái hái hoa này để ướp trà nên người xưa gọi như vậy chăng? Điều ấy ông chẳng biết. - Nhưng tại sao chùa mình trồng nhiều hoa thế hở ông? - Như con biết đó, cây cỏ, hoa lá vốn vô tình, nhưng nó mang lại niềm vui cho đời. Nhất là chùa mình nằm trên triền núi này mà không trồng hoa thì chẳng đẹp mắt chút nào. Chỉ toàn là đá và cây cỏ thì khách thập phương khi vãng lai không có nơi dạo chơi thưởng ngoạn. Do vậy mà ông cho trồng nhiều hoa và cây ăn trái. Con thấy đó, cây cỏ tuy vô tình, nhưng nếu mình thương nó, chăm sóc thì nó cũng vui tươi hớn hở đón chào mình, như người khách quý đi xa vừa trở lại cố hương. Còn nếu mình hất hủi nó, không lo bón phân tưới nước cho nó, chẳng khác nào mình đem con bỏ chợ vậy. - Như thế ba mẹ của con không thương con phải không ông? - Ấy! Chẳng phải thế, ông lỡ lời vậy thôi, chứ ông và các vị tịnh hạnh nhân ở chùa chăm sóc cho con còn hơn cha mẹ của con nữa đó. Con thấy đúng không? - Tại sao con thấy nhớ ba mẹ con quá! - Ai cũng vậy thôi. Nhưng con hãy nghe ta nói tiếp đây. Ở đây có cây chanh, kia có cây bưởi, gần đó có cây cam và cây lựu. Lúc nào những cây này cũng có trái quanh năm suốt tháng và nhờ như vậy mà chùa mình có cây trái xanh tươi cúng Phật khỏi phải đi chợ. Hoa cũng vậy, quanh vườn chùa mình dư để cúng Phật. Mà con nhớ khi nào có cúng Phật phải lựa những hoa đẹp, hoa tươi, trái cây xanh tốt để cúng. Và đó là thể hiện lòng mình đối với Phật Tổ. - Con xin vâng lời ông, khi nào được phép của ông con sẽ làm điều đó. Nhìn lên bầu trời quang đãng vào buổi sớm mai, sư ông Từ Tâm muốn dạy tiếp cho điệu Ngộ Đạo những bài học vở lòng nơi chốn thiền môn nên ông ôn tồn bảo: - Con có biết rằng những con chim ấy bay đi đâu không? - Chắc là về quê của nó. - Quê của nó ở đâu vậy? - Chắc là ở bên núi kia. - Nhưng núi kia chắc gì có tổ của nó! Mỗi sáng chim đi kiếm mồi và mỗi chiều chim bay về tổ. Con chim nó vẫn có cội có nguồn, và lòng người cũng thế. - Nhưng nguồn gốc của con, con không rõ. - Rồi một ngày kia con sẽ biết. Đoạn Sư Cụ Từ Tâm quay sang chuyện khác để bày cho điệu Ngộ Đạo trong bước sơ cơ chập chững ở cửa Thiền. - Con hãy nhìn ra ngoài đi. Phía trước có cái gì đó? - Đó là cửa tam quan mà ông vẫn thường hay nói. - Nhưng chắc rằng con không hiểu chữ tam quan là gì? Bây giờ ông giải nghĩa đây: Tam là ba, quan là cái cửa. Cái cửa ấy có ba chứ không phải có một. Phía giữa gọi là Trung quan, Phía trái gọi là Không quan, và phía phải gọi là Giả quan. - Chữ Nho nhiều quá phải không ông? - Ừ, thì xưa đến nay ta vẫn dùng vậy. Con hãy nghe tiếp đây. Chữ Không có nghĩa là tất cả mọi việc, mọi vật trên đời này tuy có hình tướng đấy, nhưng những hình tướng ấy đều do sự giả hợp mà thành. Tất cả các hợp tướng ấy được cấu tạo bởi đất nước gió lửa, rồi khi tàn suy cái gì của đất trả về cho đất, cái gì của lửa trả về cho lửa, cái gì của gió trả về cho gió, cái gì của nước lại trở về với nước. Do vậy mà nói “không” là như thế. Còn một cái “Không” vượt lên trên cái có nữa kia. Nhưng bây giờ con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Từ từ, thủng thẳng năm ba năm nữa, ông sẽ dạy cho con, ráng chờ nghe. Còn chữ Giả có nghĩa là không có thật tướng, tuy chúng ta thấy có cung vàng điện ngọc, nhà cửa lầu đài, con người, sự vật v.v..., nhưng dưới con mắt của người hiểu đạo, thì chẳng có gì là thật hết. Tuy có đó nhưng là giả tướng. Do đó gọi là “giả quan”. Có nghĩa là cái cửa đi vào chỗ không tướng. Ừ mà cái này khó lắm, chắc chừng ba bốn chục năm nữa con mới hiểu được. Còn cái cửa giữa ấy gọi là trung quan. Trung có nghĩa là ở giữa. Có nghĩa là không thật mà cũng chẳng hư, không chơn mà cũng chẳng giả, là con đường vượt lên mọi sự đối đãi trong cuộc đời, trong thế gian phiền não này. Do vậy đi vào chùa là đi vào con đường ở giữa. Con đường này không phải là con đường không có bên mặt, không có bên trái, mà là con đường vượt lên trên bên mặt và vượt lên cả trên bên trái. Do vậy gọi là trung đạo hay trung quan là thế. - Nghe ông giảng thật là hay, nhưng con không nhớ hết. Thôi để dành lúc khác vậy. Nhưng thưa ông tại sao trời có mưa và có nắng. Tại sao trời không mưa hoài để ông cháu mình khỏi tưới cây hả ông? - Ấy thế! Chẳng phải vậy đâu! Mưa hoài cũng thối đất, mà nắng hoài cũng cháy rừng. Vì vậy thiên nhiên tuy vô hình nhưng hay lắm đó. Như con thấy kìa, trên khoảng không ấy có một cụm mây đang là đà bay đó, không phải không có nguyên do đâu. Nước biển hay nước sông khi gặp gió rồi bốc hơi bay lên trên, rồi hơi biến thành mây. Mây gặp lạnh thành mưa. Cứ thế và cứ thế. Trong cõi tử sanh này luôn luôn hoán chuyển và tồn tại đã bao nhiêu triệu năm như thế. Còn nơi nào không có gió, không có điều kiện thuận lợi, thì nước không bốc hơi được. Cho nên không có mưa, mà không có mưa thì ông bà ta gọi là hạn hán. Mùa màng sẽ mất mát, thu hoạch kém, lúa thóc không có, người ta phải đói kém. Do vậy mà có nhiều hệ lụy trong cuộc đời, như chiến tranh, đói nghèo, cháy rừng v.v... Thật ra, tất cả cũng đều do lỗi con người gây ra cả. Vì lẽ ai cũng muốn phần thắng về mình. Lo đi chinh phục thiên nhiên, để có nước nhiều hơn, hay để có năng lượng nhiều hơn, cho nên thiên nhiên mất quân bình, rồi từ đó sinh ra không biết bao nhiêu là hệ luỵ của cuộc đời. Con lớn lên một chút nữa sẽ hiểu được nhiều sự việc hơn. Như ở trong rừng này, tuy chim chóc và côn trùng ta thấy dường như vô tích sự, có con còn phá hoại mùa màng nữa và cũng có con giết hại những con trùng ấy để nuôi sống bản thân chúng. Nhưng nhờ thế mà môi trường được quân bình. Cũng như trong thế gian, có đàn ông thì phải có đàn bà, có nam phải có nữ để bổ sung cho nhau. Chỉ những thế giới giải thoát bên trên mình mới không cần hai thân như ở cõi này. Mà chỉ cần một thân là đủ, vì nơi đó chỉ có biến hóa mà thôi, ai muốn gì thì biến ra hình tướng ấy. - Hay quá là hay, có lẽ vì vậy con thấy Bồ Tát Quán Thế Âm ở chùa mình có nhiều tay nhiều mắt và nhiều đầu phải không ông? Chứ bình thường con đâu thấy ai nhiều tay như vậy. Lúc đầu con thấy hình tượng ấy con sợ, nhưng bây giờ thì không, vì con thấy nhiều người hay đến cầu nguyện trước hình tượng của Ngài, chắc là Bồ Tát linh thiêng lắm? - Ừ, đúng vậy! Bồ Tát ấy không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà, mà Bồ Tát muốn độ cho người đàn ông thì hiện ra thân đàn ông. Ngài muốn độ cho người nữ thì hiện ra người nữ. Thậm chí hình thể của vua quan, hay người ở cõi âm kia, Bồ Tát Quán Âm cũng có thể hiện thân được tất cả. Nếu kẻ nào có lòng tin và xưng dương tán thán danh hiệu của Ngài, thì sẽ được Ngài độ trì. Ví dụ như con muốn học giỏi, hiểu đạo nhanh v.v..., thường ngày nên lễ lạy Ngài và xưng danh hiệu của Ngài thì con sẽ được toại ý. - Con chỉ muốn gặp được cha mẹ con thôi. Không biết Bồ Tát có gia hộ không? - Dĩ nhiên là có. Nhưng phải tùy duyên, con cứ việc cầu nguyện. Chắc chắn việc ấy sẽ đến. Nhưng thế gian này tất cả đều bị ràng buộc, dễ gì cởi trói được đâu con. Con người, cuộc đời, sự vật, tiền tài, danh vọng, tình yêu, sự cảm thông, lòng từ bi, sự hận thù, hơn thua, được mất, giàu nghèo, ôi thôi là mộng ảo và thật tướng lại đan lẫn với nhau, làm sao con người có thể thoát ra khỏi chỗ vô minh này? - Ông nói gì con không hiểu. Con chỉ nhớ lờ mờ thôi. Nhưng cha mẹ con là con người có thật mà ông? - Đúng thế! Là con người bằng xương bằng thịt, nhưng bằng dục vọng họ đã sinh con ra và không có trách nhiệm nuôi dưỡng. Nhưng thôi, việc ấy hạ hồi phân giải. Nói làm chi cho thêm đau lòng trong lúc này, mà dẫu cho có phân tích rõ ràng, con cũng khó hiểu và chấp nhận, sẽ hẹn một ngày khác vậy. Hai người một già một trẻ, một ông một cháu như ra chiều tâm đắc lắm. Có những lúc Sư Cụ Từ Tâm hình như chỉ nói hay thuyết giảng cho đất trời vạn vật nghe, cho cỏ cây hoa lá vui mừng, cho chim xanh bay trên trời cao, đừng mỏi cánh, cho suối chảy êm tai hơn, chứ thật ra với tuổi lên năm, lên bảy, điệu Ngộ Đạo có hiểu gì đâu. Có thể đó là nỗi niềm của Sư Cụ đã vào ra chốn quan trường, đã bao lần ngao ngán và cũng có thể vì hiểu đạo và luật vô thường nên mới chọn ẩn thân nơi núi thẳm rừng sâu như thế này. May mà có điệu Ngộ Đạo, lúc nào cũng lủi thủi theo sau ông, và nhân cơ hội ấy mới nghe được những nỗi niềm này. Tuy chẳng có người bên cạnh lắng nghe Sư Cụ, nhưng có lẽ Hộ Pháp và chư vị Thiện Thần đi tuần đâu đó sẽ dừng công việc lại để lắng nghe ông. Trong luật ở chùa ở dạy rằng: “Cần tảo già-lam địa, Thời thời phước huệ sanh. Tuy vô tân khách chí, Diệc hữu thánh nhân hành.” Dịch nghĩa: “Siêng quét đất già-lam, Trí huệ sanh liền liền. Tuy chẳng người khách đến, Thánh nhân mãi đi tuần.” Dịch thơ: “Siêng năng quét đất vườn chùa, Ươm mầm tuệ giác bốn mùa nở hoa. Tuy dù vắng khách lại qua, Thánh nhân luôn vẫn đoái hoài tới lui.” Như thế ấy, có nghĩa là chung quanh ta vẫn có bậc khuất mặt khuất mày, người trên kẻ dưới đủ đầy cả, nếu ta có lòng tin, có lòng cầu nguyện, thì tiếng nói này có thể bay bổng đến 10 phương vô biên thế giới và biết đâu, lúc ấy sẽ có loài hữu tình hay vô tình nghe được. Rồi phát tâm tu hành giác ngộ. Như vậy ta cũng có công đức. Có lần, một vị đại sư bên Trung quốc giảng kinh Hoa Nghiêm mà chẳng ai hiểu cả, vì đây là một hiện thực siêu thế giới, chỉ có Phật với Phật mới hiểu còn Bồ Tát có nghe cũng ngẩn ngơ thôi. Sau đó vị đạo sư này không nản, ông ta ra vườn chùa dựng tất cả những hòn đá lên ngay thẳng và ông ta bắt đầu giảng về diệu lý kinh Hoa Nghiêm, sau khi giảng, Ngài hỏi lại có hiểu không thì tất cả những hòn đá đều gật đầu. Như thế, dầu cho loài vô tình đi chăng nữa, chúng cũng có một sự cảm nhận. Cho nên, đừng cho là sự vật không hiểu mình, mà chỉ lo rằng chính con người không thể hiểu hết sự vật mà thôi. Từ kinh nghiệm bản thân, sau bao nhiêu năm tu hành, nên Sư Cụ lúc nào cũng nói cho cháu mình nghe, nói cho cỏ cây và nói với chim ngàn, gió núi. Nói cho thú rừng hay nói cho chính mình nghe. Nói xong tự mình giải thích và cũng tự mình đồng ý hay phản đối lại tư tưởng của mình, khi tư tưởng nào đó lập luận không đúng với Chánh Pháp. Chùa Hưng Phước bây giờ trông như đẹp hẳn hơn xưa, vì nơi đó có sức hồi sinh, có mầm non đang phát triển. Thế hệ người lớn tuổi, một ngày nào đó rồi phải ra đi, trở về với đất trời vạn vật. Còn tuổi trẻ, tuổi còn mộng mơ, của cuộc đời thanh xuân đầy hứa hẹn, tràn đầy nhựa sống ở một tương lai khá dài. Do vậy mà cảnh vật cũng tươi hơn, để đón chào một tâm hồn như thế. Dường như Sư Cụ Từ Tâm cũng đã đoán biết được hết những vấn đề này, nên đã cố công chuyển hết năng lực vào thế hệ kế thừa ấy. Tuy tuổi tác khác nhau xa, nhưng việc hiểu đạo chẳng cần nơi tuổi. Chẳng nhớ ông Tô-đà-di, mới bảy tuổi đến cầu Phật xuất gia. Phật hỏi rằng: - Ông từ đâu tới? - Ba cõi chẳng có nơi nào là nhà của con cả. Ông đáp như thế Nghe trả lời như thế cả đại chúng đều giật mình và Phật cho người này thọ giới tỳ-kheo lúc 7 tuổi, mặc dù theo Luật định thì phải đến tuổi 20 mới là tuổi đầy đủ oai nghi tế hạnh, để làm một bậc sa-môn đi vào đời tế độ quần sanh. Dường như Sư Cụ Từ Tâm có được thiên nhãn nên đã thấy được việc này chăng hay chú bé này là thần đồng? Hoặc có một lý do gì đó mà Sư Cụ vẫn canh cánh bên lòng. Chương 3. Tuổi trẻ mộng mơ T hời gian mới đó mà đã mười mùa đông qua, xuân lại, hạ đến, thu sang. Nơi núi đồi cô tịch này, chú tiểu Ngộ Đạo ngày nào mới nằm trong nôi trước cửa chùa mà bây giờ đã trở thành một chú sa-di với vẻ mặt khôi ngô tuấn tú và kiêm luôn cái mã đẹp trai nữa, nên trông vào ai cũng trầm trồ. Chỉ có Sư Cụ Hòa Thượng Từ Tâm lúc nào cũng canh cánh bên lòng là không biết chú có thể đi trọn con đường tu niệm để giải thoát sanh tử luân hồi không. Nếu mà lỡ vướng vào vòng tục luỵ, thì có lẽ chẳng qua do duyên nghiệp mà thôi. Nhưng nếu vậy, thì Ma Vương vẫn còn ngự trị ở thế giới này quá nhiều? “Phải chiến thắng chúng để tự cứu lấy mình” là phương châm mà Hòa Thượng vẫn thường dạy chú hằng ngày khi có dịp học luật Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi và Quy Sơn Cảnh Sách. Thấy chú vẫn dạ dạ vâng vâng, nhưng chẳng biết nghiệp lực của chú như thế nào. Sư Cụ thở dài ra chiều đăm chiêu lắm, và lần bước đi về hướng phương trượng của mình, để mặc chú ngồi nơi trai đường, đưa mắt hướng về một hướng xa xăm nào đó. Chẳng biết chú nghĩ gì, nhưng có vẻ đăm chiêu lắm, đoạn chú nhảy vọt khỏi ghế vào hậu liêu cởi áo nhật bình, chân trần, đầu không nón, lần dò ra con suối gần chùa. Tuy Sư Cụ không la rầy quở trách gì vì trong giờ Ngọ không lo chỉ tịnh mà còn lang thang ra bờ suối để làm gì, nhưng Sư Cụ muốn quan sát hành vi của chú. Chú cởi trần tắm gội hồn nhiên trong lứa tuổi ấu thơ của chú. Tuy không có cha mẹ chăm sóc kỹ càng nhưng hai vị tịnh hạnh nhân ở chùa và nhất là Sư Cụ thương chú còn hơn cháu ruột của mình, nên có bao nhiêu tâm huyết đều dồn hết cho chú trong mọi phương diện của mình. Vì vậy chú rất hãnh diện với bạn bè. Giờ đây chương trình tu học của chú nghiêm khắc hơn. Mỗi sáng dậy sớm để hô chung, thay vì nằm nghe chuông thay lời mẹ ru như khi chú mới vào chùa nữa và bây giờ chú phải học thuộc lòng và tự gióng chuông lấy. Sau đó chấp tác, quét dọn vườn chùa hoặc tưới cây. Tiếp theo là dùng sáng và xuống núi vào làng để đi học chữ Hán với một ông thầy đồ. Sau khi ở trường về, chú dùng cơm trong yên lặng tỉnh thức và chỉ giấc trưa như hôm nay sau giờ cơm là tương đối rảnh rang, nên chú mới xuống suối, chứ bình thường chú nghỉ trưa và để sửa soạn chuẩn bị cho bài vở buổi chiều học chữ Hán, các kinh điển căn bản và các quyển Luật với Sư Cụ. Công phu chiều đã có các vị tịnh hạnh nhân lo rồi. Sau khi dùng tối, chú lại thỉnh chuông nữa và sau đó ôn bài, đi ngủ. Công việc chỉ chừng ấy thôi nhưng ngày nào cũng như ngày ấy, chẳng có gì thay đổi, nên hôm nay chú muốn thay đổi một chút là đi tắm dưới suối, nơi mà hai nho sinh Ngọc Minh và Vạn Tâm đã có lần vãn cảnh ngồi nơi đây. Chú bây giờ biết bơi rồi và còn có thể lặn sâu xuống suối nữa. Ở dưới đó những chú cá thật tinh nghịch đang tung tăng với đàn, chú vớ được một con tương đối lớn, đoạn chú lấy một dây nhợ buộc vào bụng cá và đầu bên kia buộc vào một hòn sỏi tương đối lớn, sau đó thả cá xuống dòng suối và chú bật cười lớn lên khi thấy cá kia không tự làm chủ được nữa. Sư phụ Từ Tâm đứng bên bờ suối ẩn mình trong thân cây để cho chú đừng thấy và quan sát những hành vi của chú, Sư Cụ nhắm mắt lại và niệm Nam mô A Di Đà Phật. Thật tội lỗi, thật là tội lỗi cho một chú sa-di như thế! Giới đầu vẫn là giới cấm không được sát sanh. Mô Phật có lẽ hành động thuộc về tánh chứ không phải tướng. Vì là tánh không ai bày mà cũng biết. Nếu là tướng phải có người bày mới làm được. Sư Cụ nghĩ về cuộc đời, về nghiệp sát, về chủng tử vô minh của con người, đoạn than dài, tuy hơi lớn nhưng chú Ngộ Đạo không nghe được vì tiếng suối chảy lớn hơn làm át tiếng Sư Cụ. Thật là đường tu chẳng dễ, đứa bé ấy từ nhỏ đến giờ đâu có ai bày việc này đâu, mà bé vẫn có thể làm được chuyện ta chưa bao giờ dạy ấy. Tiếp đó, chú tìm đến một hang ếch và cũng làm những động tác như vậy, khiến ếch không nhúc nhích nổi. Còn chú thì chú cười thật khoái với lứa tuổi hồn nhiên, với những “chiến công” nho nhỏ vừa thành tựu. Chú rất vui và lên bờ mặc quần áo khô. Thế rồi chú nghe đâu đó có hai chú dế đang gầm gừ gáy to, tiếng như có ý sắp xung kích với nhau. Chú áp sát tai mình xuống để nghe động tĩnh như thế nào. Sau khi đoán đúng mục tiêu, chú chỉ có cách ly gián một trong hai con vào bẫy và tìm cách ngắt râu con dế mèn ấy. Sư Cụ đứng xa xa nhìn mà cảm thấy đau lòng, nhưng Ngài vẫn không nói gì. Ngài chỉ cố quan sát để thấy được những tội lỗi do căn tánh từ bao đời huân tập, hẳn rồi Ngài sẽ dạy sau. Vì Ngài không thiếu gì phương pháp để dạy luyện tâm và luyện thân. Chú càng leo cao lên mé núi càng thấy nhiều hang rắn, và thế là chú bắt đầu xoăn tay áo lên để ra tay nghĩa hiệp. Lần này vì con rắn lớn và mạnh nên chú đã tìm dây nhợ dài hơn và hòn sỏi lớn hơn để cho rắn khỏi vẫy vùng. Sau khi cột chặt rắn và thả ra, rắn vẫn cứ tìm cách bò và vùng vẫy ra khỏi nơi bị trói buộc ấy. Đó là lối tự vệ duy nhất trong lúc này, chứ chẳng còn cách nào hơn nữa. Càng vẫy vùng lại càng dính vào dây nhợ và cuối cùng con rắn ấy nằm bất động một hồi lâu để thở và tìm cách khác để uốn mình. Đêm đó, chú về ngủ tại liêu tây của chùa và Sư Cụ vẫn ở phương trượng. Đêm nay Ngài không ngủ, mắt Ngài chẳng nhắm lại được vì những việc làm của tiểu Ngộ Đạo ngày hôm nay dưới suối gần chùa, nên Sư Cụ trồi dậy hé nhẹ cánh cửa rồi tìm hai hòn đá khá to và sợi dây thừng, đoạn nhẹ bước đi về hướng liêu phía tây, nhẹ tay đẩy cửa bước vào. Thấy chú tiểu vẫn ngủ say như cuộc đời của chú đang hiện thực. Sư Cụ cố càng nhẹ tay càng tốt, lòn tay xuống phía dưới mình chú để cột sợi dây vào và hai đầu dây là hai hòn đá lớn. Sư Cụ bước ra khỏi cửa sau khi đã biết chắc rằng những hòn đá ấy đã bám chặt vào lưng của chú. Khi trở mình cảm thấy có cái gì đó hơi lạ nằm trên lưng, nên chú hốt hoảng trồi dậy, nhưng trễ lắm rồi, vì hai hòn đá to tướng và một sơi dây thừng đã cột lên mình chú. Chú tự biết đây là hình phạt không lời của Sư Cụ đã dạy cho chú vào tối hôm ấy. Chú cố gắng lục lọi mối dây để cởi trói nhưng vô ích. Do vậy chú mang cả hai hòn đá trên lưng và bước ra sau Tổ Đường để sám hối. Vừa mếu máo vừa nước mắt lưng tròng chú thỏ thẻ: - Con có muốn như thế đâu. - Nhưng ai làm cho con cá, con ếch, con dế phải chịu sự trói thân? - Con đã hiểu rồi và bây giờ con ra suối để tìm cách mở chúng ra, để trả chúng về vị trí cũ. - Có trễ lắm không? Nhưng trước khi đi hãy đọc bài kinh sám hối đã. - Mô Phật con xin vâng: Đệ Tử kính lạy Đức Phật Thích Ca Phật A Di Đà Mười Phương Chư Phật Vô lượng Phật Pháp Cùng Thánh Hiền Tăng Đệ Tử lâu đời lâu kiếp Nghiệp chướng nặng nề Tham giận kiêu căng Si mê lầm lạc Ngày nay nhờ Phật Biết sự lỗi lầm Thành tâm sám hối Thề tránh điều dữ Nguyện làm việc lành Ngửa trông ơn Phật Từ bi gia hộ Thân không tật bệnh Tâm không phiền não Hằng ngày an vui tu tập Pháp Phật nhiệm mầu Để mau ra khỏi luân hồi Minh tâm kiến tánh Trí huệ sáng suốt Thần thông tự tại Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng Cha mẹ anh em. Thân bằng quyến thuộc Cùng tất cả chúng sanh Đều trọn thành Phật đạo. - Giỏi lắm! Bây giờ thì con biết con đã làm gì rồi phải không. - Mô Phật. Chú vừa cởi trói cho con cá, vừa đọc: Chúng sanh không số lượng, Thề nguyện đều độ khắp. Phiền não không cùng tận, Thề nguyện đều dứt sạch. Tiếc thay, sau khi mở dây buộc đá cho cá, thì cá đã chết tự bao giờ. Chú hối hận lắm, bật ra tiếng nấc và khóc to như chưa bao giờ được khóc như thế. Những lúc như vậy, Sư Cụ Hòa Thượng cũng có mặt. Ngài đứng trên đồi cao nhìn xuống suối, xem những hành động hối lỗi của chú bé 10 tuổi, với một nét mặt rất từ bi. Đoạn chú đi tìm con ếch, đặng cởi trói cho nó. Sau khi mở dây ra, ếch vẫn còn bơi được. Chú hoàn hồn và miệng mỉm một nụ cười như có Bồ Tát Quán Âm từ đâu đó đã đến cứu mạng cho con ếch và đồng thời cũng cứu cho chính chú, vì mình đã tự tạo lỗi lầm ấy qua sự tinh nghịch của tuổi thơ. Nhờ đây chú đang học được một bài học lỗi lầm, thật đích đáng là nhân nào quả nấy. Chú lẩm bẩm trong miệng rằng: Cũng chính vì thế mà ta bị sư ông buộc hai hòn đá rất nặng, phải mang trên lưng đây. Không biết ta có phải mang đi trong suốt kiếp luân hồi, hay ta chỉ mang nó trong một đoạn đường sanh tử mà thôi. Đoạn chú rảo bước lên đồi với những bước đi thật gượng gạo. Vì lẽ trên lưng chú bây giờ hai hòn đá dường như nặng hơn lúc đi xuống dưới suối kia. Tuy chú chưa biết so sánh với tuổi hồn nhiên mới lớn ấy, nhưng chắc chắn một điều là đi lên khó hơn là đi xuống. Vì vậy ai ai cũng phải cầu đi lên, chứ ai nguyện đi xuống đâu. Có lẽ chỉ trừ những vị Bồ Tát muốn cứu độ, thì chắc chắn một điều đối với các Ngài ở đây cũng vậy thôi. Vì trong các Ngài chẳng có người độ và cũng chẳng có người được độ. Còn ta, ta vẫn là chú bé của chùa này, chẳng có ý nghĩa gì so với một đại nguyện to lớn, với các Bồ Tát cả. Thôi ta hãy ráng lên chứ kẻo con dế mèn không còn cơ hội sống nữa. Khi chú đến bên miệng hang của dế thì thấy hình ảnh thật tang thương. Một con đã giẫy ra chết cứng và con khác thì đang kêu gào. Có lẽ nó thuộc một gia đình chăng, là chồng hay vợ? Sao ta nỡ đoạn lìa cuộc sống yêu thương của nó như thế và không biết bây giờ con của nó dưới hang sẽ ra sao. Ừ mà số phận ta cũng thế, có mẹ cha mà cũng bạc phước như những con dế này, may mà ta có sư ông bên cạnh, nếu không thì... Dòng suy tư của chú bị đứt quãng và chú cứ thế cắm đầu đi lên chỗ con rắn, bị chú bắt cột vào bụng khi nãy. Bây giờ chỉ còn một đống máu và một mớ rắn con. Chú chẳng biết làm sao vì tay chú gián tiếp đã vấy máu của chúng sanh. Chú mang mấy con rắn con về chùa để cầu siêu và lấy mấy hòn đá bên sườn đồi dựng bia tưởng niệm chúng và thầm đọc bài chú vãng sanh. “Nam-mô A-di-đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.” Chú đọc hết sức chú tâm không dừng nghỉ, nhiều lần như thế, chẳng biết những con rắn ấy có siêu không, nhưng tâm chú thấy nhẹ hẳn đi phần nào, giống như trên mình chú đã trút nặng được ngàn cân, mặc dầu hai cục đá vẫn còn trĩu nặng trên vai của chú. Lững thững vào đến trước cửa chánh điện. Ngay lúc ấy Sư Cụ Từ Tâm cũng đã bước theo sau và nhẹ nhàng đặt tay lên vai chú: - Con thấy những hành động sai trái thiếu suy nghĩ của con chăng? - Bạch sư ông! Con đã hối hận lắm rồi. - Bây giờ con sẽ tính sao đây? - Mỗi đêm con sẽ sám hối để tội lỗi được tiêu trừ. - Con có biết rằng khi vật dơ thì cần gì để rửa không? - Mô Phật, bạch sư ông lấy nước để rửa. - Còn khi tâm dơ? - Dạ .....Dạ ......Dạ...... - Chắc không lấy nước rửa được phải không? - Mô Phật, đúng thế. - Người tu hành vốn biết do sanh tử phiền não triền phược trong nhiều đời nhiều kiếp, do nghiệp lực mà thành thân này. Nay có thân này mà không biết tu thân, còn mang thêm nghiệp sát nữa, thì quả là uổng công cha mẹ sanh thành và uổng cơm của tín thí đàn na, con hiểu chưa? - Mô Phật, con xin vâng. Sư Cụ Từ Tâm sau khi giảng cho chú tiểu Ngộ Đạo bài học căn bản về giới sát xong, thì lúc ấy chú cũng đã quỵ xuống trên sàn chùa lúc nào không hay biết. Sư Cụ nhẹ nhàng lấy hai cục đá sau lưng đi và để vào một chỗ kín làm dấu ấn ghi lại ngày này năm xưa chú đã một lần hối cải như thế. Một hôm Sư Cụ ngồi suy niệm về thế giới này, về sự cấu thành cũng như giả hợp của nó qua lời dạy của Phật trong luận A Tỳ Đàm về sự thành lập nên thế giới này. Đầu tiên là do gió chuyển động rồi lay chuyển nước. Nước bị thổi lâu ngày biến thành đất và lửa sẽ xuất hiện. Cứ như thế mà một thế giới được thành lập, rồi hai thế giới, ba thế giới. Cho đến tam thiên đại thiên thế giới, rồi đến thế giới thành tựu có nhiều mặt trời, sức nóng ức chế thế gian, nên chẳng có sinh vật nào sống nổi. Chỉ khi nào thế giới ấy còn một mặt trời, chúng sanh nơi đó mới có thể tồn tại. Thế giới thịnh hành trong một thời gian dài, vì con người còn có tu bát quan trai giới, còn tu theo thập thiện nghiệp đạo. Cứ như thế con người hưởng phước do chư thiên và thiện thần hỗ trợ. Nhưng rồi con người không chừa bỏ những tội lỗi như sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu v.v..., nên Tứ thiên vương cũng như vua Thích Đề Hoàn, không hỗ trợ nữa. Ngược lại các ác quỷ xuất hiện trên thế gian này lại nhiều. Rồi một hôm, nơi chúng ta đang ở sẽ lần lượt xảy ra các việc tiểu tam tai, rồi đại tam tai. Cuối cùng là hoại diệt tan rã. Cứ như thế và như thế lặp đi lặp lại nhiều lần. Biết bao giờ mới thoát hết kiếp tử sinh. Khi con người bị tật bệnh hoành hành, có nhiều người bị chết, súc vật cũng chết, không có thuốc gì chữa khỏi. Sau đó đói khát triền miên, xảy ra trên nhiều châu lục. Rồi chiến tranh khiến con người phải giết chóc, giành giật với nhau để tranh sự sống về mình. Đây gọi là thời kỳ đầu của tiểu tam tai. Kế tiếp là đại tam tai sẽ đến gồm nước dâng cao lên, cả hàng trăm ngàn thước, cuốn trôi hết tất cả nhà cửa, của cải con người và súc vật. Rồi gió sẽ thổi mạnh để làm cho thế giới này hủy hoại. Giai đoạn sau cùng là lửa trong lòng đất sẽ phun ra đốt cháy hết mọi loài. Trong ấy may mắn thay còn sót lại độ chừng 10 ngàn người và trong ấy có một người biết tu học làm phước bố thí, tu thập thiện, rồi lần lượt kêu gọi mọi người cùng tu tập với nhau. Lúc ấy các thiện thần cảm động nên đã giúp đỡ họ và thế giới này và những thế giới khác an ổn hơn. Người người có thể vào rừng hái rau, hái củi đem về dùng trong nhà, gạo lúa từ từ sẽ mọc, mọi sinh vật sẽ sinh sôi nảy nở như xưa. Càng suy nghĩ Sư Cụ càng hiểu rõ sự biến dịch của cuộc đời và tạo hóa. Do vậy mà chính bản thân Ngài cũng muốn rằng sau khi lâm chung quyết niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc chứ không ở lại cõi Ta-bà. Có nghĩa là chịu đựng, kham nhẫn nhiều hơn nữa, như nơi này. Vì nỗi khổ của chúng sanh đâu có giới hạn. Lúc nhỏ mới sinh ra từ lòng mẹ, dù vô tình hay cố ý đã gây ra quá nhiều tội lỗi rồi. Mô Phật! Đúng là pháp Phật nhiệm mầu! Đoạn Ngài ngồi yên niệm Phật. Mắt Ngài khép kín lại như không còn muốn nhìn thấy mọi sự vật trong đời này nữa. Nhưng quá khứ lại hiện về trong tâm tưởng của Ngài. Sự gièm pha dầu đúng hay sai gì rồi cũng đến tai vua, khiến cho sự kiện ấy phải đem ra giải quyết trước các quan văn, võ của triều đình. Câu chuyện ấy dài dòng lắm, nhưng tóm gọn đại ý được diễn tiến như sau: “Trong làng nọ có một gia đình giàu cự phách, giàu nứt vách đổ tường. Phú ông là một người tốt tướng lẫn tốt bụng, cưới được cô vợ đầu cũng rất tâm đầu ý hợp. Nhưng chẳng may bà này vắn số và ra đi sớm, để lại cho ông một cậu con trai mới vừa chập chững biết đi. Cảnh gà trống nuôi con ấy cũng khó xử. Nên nhiều người trong gia tộc bàn với phú ông là sau khi đại tang trong ba năm xong, thì nên tục huyền để bà vợ kế đảm đang gia nghiệp, nếu không thì chẳng có ai lo cho ông khi trái gió trở trời. Nghe riết rồi cũng nhàm tai, bởi vì ông nghĩ rằng: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.” Đó là vấn đề mà bao nhiêu đời nay đã xảy ra trên quả địa cầu này rồi, nên ông muốn dành riêng cái tình thương ấy và cái gia nghiệp này cho con trai đầu lòng mà thôi. Nhưng khổ nỗi ruộng đất cò bay thẳng cánh, đám tá điền chẳng ai coi. Rồi nào gia sản, trâu bò, lúa thóc và kẻ ăn người ở v.v... cuối cùng thì ông đã lấy vợ kế. Vì nhiều lời bàn ra tán vào hữu lý và chính ông cũng thấy được điều ấy nữa. Một cô gái trung niên, vóc dáng mặn mà chưa lập gia đình đã được cưới hỏi đàng hoàng để về làm vợ kế phú ông. Thời gian trải qua không bao lâu, cô vợ bé nở nhụy khai hoa và tặng cho ông cũng như gia đình vốn hẩm hiu thiếu tiếng khóc trẻ thơ lâu nay, một bé trai bụ bẫm, ai nhìn thấy cũng phải mừng thầm. Cả hai bé càng ngày càng lớn và đảm đang gia nghiệp của cha mình. Chúng chơi chung với nhau rất thân thiện và không hề có ý nghĩ là “con trước, con sau” mà chúng chỉ nghĩ đơn thuần chúng là hai đứa trẻ được sinh ra trong nhà này, nhưng một đứa được kêu người đàn bà kia là dì, một đứa kêu là mẹ, còn cha thì chúng gọi chung không phân biệt gì cả. Tuổi thơ chúng rất hồn nhiên chẳng hiểu gì, nhưng cảm thấy có cái gì đó không ổn nơi người lớn, khi có chén bát khua động giữa cha và dì, không hài lòng nhau về một vấn đề gì đó. Dĩ nhiên là mối tình riêng của ông đã dành cho người vợ trước rất mặn nồng, dù cho bà này đã mất cách đây hơn mấy năm rồi và tình thương ấy cũng đã dành đặc biệt cho cậu con đầu qua những biểu hiện cử chỉ thường ngày. Khi người vợ lẽ thấy vậy thì chẳng bằng lòng và có tiếng bấc, tiếng chì trách ông, nhưng ông chỉ làm thinh vì không muốn có sự đụng chạm không cần thiết ấy. Nhưng tức nước thì vỡ bờ, đó là gần như luật định vô hình lâu nay của nhân thế, nên một hôm bà nhỏ mới đề nghị rằng nên gửi cậu cả đi học xa, còn công việc nhà có bà và cậu con lo liệu cũng không có gì trở ngại. Mới đầu ông hơi lo và cậu thứ cũng không muốn anh mình đi xa nên cứ cản mẹ mình. Cuối cùng rồi phú ông cũng phải cho cậu đi học xa, vì lịnh bà tuy thời Nho giáo không thịnh hành, nó không mạnh mấy, nhưng trong bóng tối và trong gia đình người đàn bà, nhất là đàn bà đẹp mà người đó lại là người vợ mình nữa thì người chồng dễ xiêu lòng lắm. Đó là chuyện tự nhiên thôi. Chẳng ai trách cứ làm gì. Hơi đâu mà còn lo chuyện hàng xóm láng giềng. Giang sơn bây giờ vào một tay bà. Thế là bà thao túng và buộc ông chồng phải làm giấy di chúc tất cả tài sản cho người con của bà. Phú ông vẫn làm thinh chẳng nói gì và trong khi đó đã âm thầm làm di chúc cho con trai cả của mình và đứa con thứ chỉ được một phần nhỏ thôi. Bà nói gì ông cũng chịu đựng, không phân bua, không trách móc và cũng không thổ lộ chuyện chia tài sản bên trên. Nhưng một hôm ông đi vắng, bà lục lạo tìm được di chúc này và bà tìm cách sửa tên con trưởng thành con thứ. Vì cùng họ thì tên chỉ sửa một nét là xong. Âm mưu ấy bà đã thành công và bà mừng thầm là mọi việc sẽ xảy ra như bà sắp đặt. Sau khi phú ông qua đời bà chắc mẫm là con của mình sẽ thừa hưởng cái tài sản kếch sù đó, nhưng khi đem gia phả và tờ di chúc ra trình cho gia tộc hai bên họ hàng xem thì một chuyện không may xảy đến. Đó là do con gián vô tình nào đó gặm nhấm nét bút sửa cái tên con trưởng thành con thứ, bây giờ tên ấy vẫn là Lê Văn Nam (男) chứ không phải là Lê Văn Dũng (勇 ) nữa. Vì cái nét thêm vào bên trên đã mất đi rồi. Thế là bà té xỉu. Chuyện đã lở rồi cũng phải đem đến cửa quan phân xử để ra lẽ công bằng. Nhưng bây giờ thì nhân chứng không còn. Vả lại ai hơi đâu mà đi tìm cho được con gián để chống án lại với bà ta. Hoặc giả cả hai người con, họ cũng chẳng màng gì cái gia tài này. Tuy bà nói để gia tài ấy cho con bà, nhưng thật ra đó là một cách nói để cho bà dễ chuyên quyền về sau thôi. Lúc ấy Sư Cụ làm quan văn và chứng kiến cuộc xử ấy. Sư Cụ cảm thấy có nhiều điều đáng hổ phận làm người. Nghĩa là lòng tham của con người không có giới hạn. Hết rắp tâm đày con trưởng đi xa, lại lập tâm thâu tóm tài sản bằng cách sửa lại di chúc. Còn con dán ấy có phải thiên sứ không? Biết đâu trong cái vô hình vẫn còn linh hồn của người xưa đâu đó về giúp cho việc chính và cảnh cáo người có tâm tà vậy. Vì vậy cho nên người xưa thường nói “trời cao có mắt” là vậy. Như tình thương là cái gì khó nói được bằng lời, nhưng nó đã đan kết tình huynh đệ với nhau, mặc dù họ có chung và riêng của hai dòng máu. Có lẽ kiếp trước họ là những người có nguyện lực nên mới sanh vào trong nhà này để cảnh tỉnh người mẹ và người dì tham lam ích kỷ ấy. Sư Cụ quý là quý cái tinh thần ấy. Cả hai đã chẳng màng lợi danh phú quý. Một người thì mai danh ẩn tích, một người xuất gia đầu Phật. Còn bà mẹ tuy nhận được cái gia tài đồ sộ ấy nhưng cũng chẳng biết để làm gì. Cuối cùng rồi của đất trời cũng phải trả lại cho thiên nhiên vũ trụ mà thôi. Đang suy nghĩ về cuộc đời miên man như thế thì bỗng đâu đằng sau có tiếng cất cao: - Nam mô A Di Đà Phật, chúng con kính chào Sư Cụ - Các cậu hôm nay không đến trường sao? - Chúng con đã được nghỉ hè và có thời giờ lên đây để viếng lại Hưng Phước Tự và bạn con đây Ngọc Minh muốn bạch Ngài một việc. - Thôi chúng ta hãy vào Tổ Đường dễ nói chuyện hơn. Chàng thư sinh thật điển trai, trông nét mặt thật khôi ngô tuấn tú ấy sau khi đảnh lễ Tổ và Sư Cụ một lạy, lại quỳ xuống để bộc bạch thưa: - Kính lạy Ngài con là nho sinh Ngọc Minh từ chỗ vô tình đến cửa Phật hôm nọ, mà bây giờ chẳng biết nhân duyên gì khiến con cứ muốn xuất gia đầu Phật để giúp mình và cứu đời ra khỏi chốn tử sanh. Ngoài ra con cũng tìm đọc sách Phật trong thời gian gần đây rất nhiều, nên đã hiểu rõ luật vô thường của nhân thế. Kính mong Ngài mở rộng lòng từ mà tế độ cho tiểu sinh này xuất gia đầu Phật. - Mô Phật! Cửa thiền là cửa từ bi. Nhưng muốn trở thành người xuất gia phải cần thử thách một thời gian ít nhất từ ba tháng đến sáu tháng, để tự hỏi lại lòng mình có thật sự vì lý tưởng mà đi tu, hay vì một chuyện nhất thời nào đó mà đường công danh không lo cho trọn vẹn, trốn cha mẹ để vào chùa tu niệm là một việc không nên. Xưa nay đã có lắm người làm, nhưng cuối cùng rồi chẳng đâu vào đâu cả. Ta mong rằng con hãy hiểu rõ điều này. Ngọc Minh mừng quá dập đầu lạy tạ ba lạy rồi thưa: - Theo con nghĩ, nếu con được Sư Cụ từ bi tế độ cho xuất gia đầu Phật thì còn gì cao quý hơn nữa. Con sẽ thực hiện những điều mà Sư Cụ chỉ dạy. Vạn Tâm thui thủi ra về, vì bạn hiền bây giờ đã “lánh chốn hồng trần” rồi nên từ đây trở đi, nơi chốn trường thi hay ở chốn quan trường đâu còn ai để mà tâm sự nữa. Trong khi Vạn Tâm buồn thì Ngọc Minh vui, vì Minh đã thực hiện được nguyện ước của mình. Chú tiểu Ngộ Đạo bây giờ có thêm người bạn đồng liêu mới hơn chú cả 10 tuổi thì cũng rất vui. Vì lâu nay chẳng có ai cùng trang lứa để cùng chơi, hoặc có những người lớn hơn ít tuổi để chỉ vẽ chuyện trò, cũng chỉ vì không có người cùng chơi, nên Ngộ Đạo đã chơi những trò chơi tuổi thơ trong vô thức và đã bị Sư Cụ phạt cho một hình phạt nên thân. Đeo đá tuy không nặng lắm! Nhưng đeo nghiệp vào người mới là điều quan trọng. Đang mừng vui vì có bạn mới thì được nghe tiếng ngâm thơ thật già dặn và vừa có hồn văng vẳng xa xa từ trên phương trượng đường vang dội đến: Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân, Bắt phong trần, phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao, Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa, Thiện căn vốn tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Lời quê góp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh... Chữ “canh” ở cuối câu sao mà thấm thía cho tình huống này của Ngọc Minh lắm thế. Xong đâu đấy họ một trẻ, một thanh niên chụm đầu lại với nhau hỏi chuyện: - Chú Ngộ Đạo ơi! Chú ở đây lâu chưa? - Huynh biết đó, từ khi lọt lòng mẹ là Ngộ Đạo này đã được ở chùa rồi. - Trong chùa lâu nay, chú học cái gì vậy? - Thì hai thời công phu sáng và công phu chiều. Tất cả bằng chữ Hán hết, nhưng đọc âm tiếng Việt, mà huynh chắc là đọc nhanh hơn đệ, vì huynh là một nho sinh học chữ Hán từ thuở nhỏ mà. Ở đây Sư Cụ dậy sớm lắm, mình phải lo pha trà cho Sư Cụ. Sau đó dộng đại hồng chung, rồi ngồi thiền, rồi công phu. Mới đầu không quen buồn ngủ lắm, nhưng bây giờ thì đệ quen rồi. Buổi trưa cúng ngọ, buổi chiều đi công phu chiều và niệm Phật, gióng chuông u minh. Tối đi tịnh độ thì đã có các vị tịnh hạnh nhân rồi. Ngoài ra, còn học nhiều thứ lắm. - Học cái gì vậy? Ngộ Tánh hỏi Ngộ Đạo như vậy. - Sư Cụ đặt cho huynh cái pháp danh hay quá xá. Tánh đã ngộ mà còn là Ngọc Minh nữa thì chắc rằng không mấy chốc, tánh ấy sẽ sáng ngời như ngọc ấy. - Ai biết đâu, chắc Sư Cụ nhìn người mà đặt tên chăng? - Có lẽ vậy, nhưng công chuyện của huynh ngoài học thuộc lòng hai thời công phu ra, sau đó mới được xuất gia, rồi học bốn quyển Luật. Gồm Tỳ Ni tức những câu chú ngắn, để ứng dụng trong những oai nghi như đi đứng nằm ngồi trong chùa hằng ngày. Rồi Quy Sơn Cảnh Sách, đây là bài cảnh tỉnh của Tổ Quy Sơn hay lắm. Ngoài ra, còn học 24 oai nghi ở chùa cũng như 10 giới của tăng sĩ mới vào chùa nữa. Huynh đừng lo ở đây không có gì để học. Thế còn huynh học cái gì ở trường vậy? - Ôi thôi, đủ thứ! Mới đầu học “Tam Thiên Tự” tức là ba ngàn chữ Hán. Ví dụ như “thiên là trời, địa là đất, cử là cất, tồn là còn, tử là con, tôn là cháu, lục là sáu, tam là ba, gia là nhà, quốc là nước, tiền là trước, hậu là sau, ngưu là trâu, mã là ngựa v.v...” Còn dài lắm, đến 3000 chữ kia, tất cả phải học thuộc lòng. Lớn lên thì học Tứ Thư, Ngũ Kinh của Khổng Tử và các học trò của ông, rồi mới chuẩn bị bài vở đi thi. - Thế huynh thi có đậu không? - Dĩ nhiên là đậu. - Nhưng sao không ra làm quan cho nó oai mà đi tu chi vậy? - Anh có lý do của anh chứ, vì cảm mùi Thiền, cũng như em vậy. Tại sao em phải tu? - Dĩ nhiên là do nhân duyên thôi. Hai người dường như tâm đắc lắm, cứ khi nào có thời giờ rảnh là họ hàn huyên tâm sự với nhau như anh em ruột thịt trong nhà. Sư Cụ Từ Tâm có một cái nhìn thật cảm thông. Vì từ nhỏ đến giờ, chú tiểu Ngộ Đạo đâu có ai làm bạn để nói chuyện. Chỉ biết vâng lời những người trên mà thôi, còn bây giờ thì đã có người tâm đắc nên Sư Cụ cũng mừng, mặc dầu tuổi của họ chênh lệch với nhau nhiều lắm. Cũng có lúc chú Ngộ Đạo hỏi những chữ Hán khó nơi chú Ngộ Tánh, nhưng đa phần là chú Ngộ Tánh phải hỏi chú Ngộ Đạo. Vì lẽ những chuyện trong chùa đối với chú vẫn còn mới mẻ quá. Một hôm Ngộ Tánh hỏi Ngộ Đạo rằng: - Thế đệ ở chùa lâu vậy, có khi nào được khen và bị phạt không? - Khen cũng có, nhưng thỉnh thoảng thôi, còn bị phạt hơi nhiều đó. - Tại sao vậy? - Thì tại làm sai. Nhẹ thì quỳ hương, còn nặng như hình phạt vừa rồi phải mang đá đó. - Nhưng tại sao phải mang? - Vì tạo nghiệp sát sanh. - Vậy là gì? - Đó là mấy con cá và mấy con ếch, dế cũng như rắn. - Sao đệ gan vậy. Những con ấy đâu có làm hại gì mình, mà đệ làm thế? - Thì là chơi cho vui mà. - Sư Cụ phạt như thế nào? - Bắt mang hai hòn đá sau lưng, như những con vật kia bị đệ buộc vào lưng vậy. - Có nặng lắm không? - Dĩ nhiên là nặng. Nhưng đó cũng là bài học cho em suốt cả một cuộc đời. - Đó cũng là một lẽ, nhưng theo huynh nghĩ chắc Sư Cụ Hòa Thượng muốn cho em trở thành người lỗi lạc về sau này đó. - Lỗi lạc? - Đúng vậy. - Tại sao lại lỗi lạc? - Em không biết sao. Một chữ thạch (石) là một hòn đá, hai chữ Thạch chẳng có nghĩa gì, nhưng ba chữ Thạch viết chung với nhau sẽ thành chữ lỗi (磊), ý nói là nhiều đá hay là nặng nhọc mà cũng có nghĩa là lỗi lạc (磊落). Chắc sau này đệ sẽ lỗi lạc, sẽ nổi tiếng lắm. Còn chữ lạc (落) có nghĩa là rơi xuống. Ví dụ như hoa lạc, lạc vận v.v... mà lạc có nghĩa là đánh mất đi. Nếu đánh mất đá thì được, đánh mất bản tâm của mình thì nguy quá. - À đúng rồi, có lẽ vì đi lạc vào suối nên đệ mới bắt được cá. - Đó là chủ ý chứ lạc gì? - Dĩ nhiên là đệ chủ ý, nhưng vì đi xuống nên gọi là lạc. Chắc lạc đường cũng chữ ấy phải không huynh? - Chữ Hán nhiều nghĩa lắm, để huynh sẽ giải thích cho đệ sau. Một hôm Sư Cụ gọi hai chú vào để dạy học và nói qua một số công chuyện hằng ngày trong chùa, các chú phải làm và tiện thể bảo chú Ngộ Đạo mang vào một thau nước, Sư Cụ rửa mặt và nhúng tay vào đó rửa, đoạn hỏi Ngộ Đạo rằng: - Nước này còn dùng được không? - Bạch Ngài không ạ! - Vì sao thế? - Vì đã bẩn rồi. - Ừ, tâm con người cũng thế. Nếu không biết cách giữ gìn cũng sẽ giống như một chậu nước dơ này mà thôi. Nếu không biết tự chủ, không biết sửa mình, thì dẫu cho ở gần Phật gần Tổ cũng chẳng có ích lợi gì. Thế nên con hãy đem thau nước đó đổ đi. - Mô Phật, xin vâng! - Nước đổ rồi có còn hốt lại được chăng? - Mô Phật, không. - Đúng thế! Sự lỗi lầm của thế nhân cũng giống như là những giọt nước dơ đã bị đổ, lỡ tạo tội rồi thì khó mà bào chữa. Vì tội đã tạo rồi. Tuy nhiên, nếu mình biết đã gây ra tội thì sám hối. Sau khi sám hối tội sẽ nhẹ đi và tin vào chư Phật, chư vị Bồ Tát, các Ngài ấy sẽ giúp cho ta sớm hiểu rõ được nhân quả nghiệp báo v.v..., từ đó ta sẽ tinh tấn hơn. - Mô Phật, chúng con đã rõ. - Ta bây giờ đã lớn tuổi, muốn nhập thất một thời gian để tịnh tâm. Trước khi ta nhập thất, ta sẽ cho hai con thọ giới sa-di. Ngộ Tánh tuy mới vào chùa, nhưng tuổi lớn rồi, nên được cạo tóc và thọ giới chung một lần với Ngộ Đạo. Ngày xưa khi Phật còn tại thế những ai trên 20 tuổi đi xuất gia được thọ giới tỳ-kheo liền chứ không cần phải thọ giới sa-di như những người dưới 20 tuổi. Nhưng ngày nay thì căn tánh của chúng sanh chậm lụt lắm, do vậy mà dầu cho lớn bao nhiêu tuổi đi chăng nữa, sau khi xuất gia rồi phải thọ giới sa di, rồi mới được thọ giới tỳ-kheo. Đó là Luật. Ta sẽ mời Chư Tôn Thiền Đức quanh vùng đến để làm lễ cho hai con và mọi việc chùa bên trong đã có hai vị tịnh hạnh nhân lo rồi, còn bên ngoài thì Ngộ Tánh lo tiếp xúc với các Phật tử. Ngộ Đạo tuy ở chùa lâu nhưng còn nhỏ, hãy lo đi học thêm và nên tiếp sức với huynh Ngộ Tánh của con. - Mô Phật! Chúng con xin vâng! Cả hai chú tiểu cùng nhìn nhau, vì biết rằng ngày ấy sẽ đến. Nhưng sao Sư Cụ nhập thất sớm thế? Có phải vì một lý do gì ẩn chứa bên trong chăng? Hay Sư Cụ muốn cho cả hai sống cuộc sống tự chủ như bài học vừa rồi Sư Cụ đã dạy? Hay là có một chuyện gì đây mà Sư Cụ muốn cho chúng ta phải tự định đoạt? Hoặc giả Sư Cụ thử thách chúng mình chăng? Nếu thử thì thiếu gì cách để thử, để trở thành người lỗi lạc. Làm sao mà cục đá thứ ba sớm đeo vào lưng hai chú như thế? Mà chắc rằng cha mẹ bao giờ cũng thương con, chứ có bao giờ ghét bỏ đâu. Bởi thế ngày xưa người ta thường bảo, “thương thì cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Có lẽ chúng mình đang nằm trong trường hợp này chăng? Cả hai chú đảnh lễ Sư Cụ và lui về liêu phòng của mình để lo những công việc riêng. Cánh cửa Phương Trượng Đường từ từ khép lại và bên ngoài thấy có dán một chữ “bế”, có nghĩa là Sư Cụ chẳng tiếp xúc với ai cả, cho đến ngày ra thất. Chương 4. Giai nhân lễ Phật M ới đó mà Sư Cụ nhập thất cũng đã đúng tám năm rồi. Thời gian ấy trôi qua một cách nhanh chóng. Hai tịnh hạnh nhân càng già hơn xưa, trong khi hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh càng ngày càng lớn khôn chững chạc. Họ không còn là bạch diện thư sinh như khi còn là một nho sinh nữa. Nhưng dưới lớp áo nâu sồng, họ vẫn là những con người bằng da bằng thịt, ai trông thấy cũng rất ngưỡng mộ. Có lẽ vì cái dáng đẹp trai bên ngoài của hai chú. Một hôm hai chú lên đồi hái củi đem về chùa. Trên đường đi, họ trao đổi với nhau rằng: - Này Ngộ Đạo! Đệ thấy ở chùa như thế có thích không? - Dẫu có thích hay không thì đệ cũng phải ở thôi, chứ cha mẹ đâu có mà nương nhờ. Đâu phải như huynh còn gia đình để thăm viếng. - Huynh muốn hỏi là đệ có thấy gì thay đổi nơi nội tâm và ngoại hình hay không? - Ừ, thì dĩ nhiên là có. - Nhưng có cái gì? - Thì có cái như sư huynh có đó. - Cái đó thì sanh ra trong đời này ai mà chẳng có. - Ví dụ như ăn, uống, ngủ nghỉ và mộng mơ v.v... - Tại sao những câu kinh lời kệ không giúp cho ta quên đi kiếp nhân sinh này nhỉ? - Tại huynh trước khi đi xuất gia chắc đã vương vấn vào nợ trần? - Điều ấy chẳng phải, nhưng... - Nhưng cái gì hả sư huynh? - Việc này khó nói lắm. - Đệ vẫn nghe Sư Cụ dạy rằng: “Mọi sự ham muốn trong cuộc đời này nó cũng giống như một cơn ngứa vậy thôi. Nếu ta càng gãi thì sẽ càng ngứa. Tốt nhất là đừng gãi.” - Ừ! Đúng vậy! Nhưng chữ tốt nhất thật là khó đấy. Ta vẫn cảm thấy cõi lòng sao sao ấy. Đệ có thấy thế chăng? - Thỉnh thoảng đệ vẫn thấy, nhưng quên đi rất mau. Vì đệ không để ý đến nó nữa. Vả lại việc gì đến, mình cứ để cho nó đến và việc gì đi cứ để cho nó đi, đâu có gì mà phải luyến tiếc. Cứ chấp nhận là xong. - Nếu thế ai muốn lấy đệ làm đối tượng thì đệ nghĩ sao? - Dĩ nhiên là trong “tam thập lục kế” mình phải chọn một. Còn huynh? - Ta vốn yếu mềm trước sắc đẹp. - Mà cái gì đẹp vậy sư huynh? - Cái gì cũng đẹp hết. - Nhưng Sư Cụ dạy cho chúng ta biết rằng “tất cả những thứ ấy không có thật tướng” mà. - À, à... này đệ hãy nhìn xem. Cả hai huynh đệ đều đưa mắt qua bên trái để nhìn thấy hai con rắn đực và cái đang cuốn quýt xoắn tròn lại với nhau, như chẳng muốn rời, mặc dù có bóng người đứng gần đó. Ngộ Đạo thì cuối đầu xuống, trong khi đó Ngộ Tánh vẫn cứ nhướng đầu lên để xem màn cuối ra sao. Ngộ Tánh bỗng giật mình khi nghe tiếng gọi của Ngộ Đạo: - Này huynh. - Cái gì thế? - Thôi chúng ta hãy về đi! Trên đường về, hai chú vẫn chuyện trò với nhau về mọi lẽ tử sanh, ân ái trong cuộc đời và xa xa đâu đó trên cành cây có một cặp chim uyên ương đang thỏ thẻ với nhau. Rồi nhìn lên cao hơn nữa, có cặp ngỗng trời đang sánh nhau bay về tổ. Ngộ Tánh thấy chúng hạnh phúc lắm. Trong khi đó chính mình, mặc dù ở chùa lâu nay, nhưng chưa thấy được cái hạnh phúc thật sự là gì? Mắt và tâm không ăn khớp nhau, nên Ngộ Tánh té chúi nhũi về phía trước khiến Ngộ Đạo phải chồm đến để đỡ sư huynh mình. Thỉnh thoảng hai chú vẫn thấy một cặp bò rừng, một cặp bọ hung, một cặp chuồn chuồn, chúng vẫn kết chặt vào nhau, để tạo nên nòi giống cho những thế hệ kế tiếp. Còn người tu, Ngộ Tánh quay lại hỏi Ngộ Đạo: - Có khi nào đệ thấy trong lòng an lạc và hạnh phúc không? - Có chứ! - Khi nào vậy? - Khi nào chúng ta đang hiện hữu, lúc ấy chúng ta hạnh phúc. - Vậy thì hạnh phúc là gì? - Là cái mà người ta đang có, chứ không phải cái mà người ta đang tìm. - Vậy sao? - Ai sẽ làm chủ được mình khi đứng trước một giai nhân? - Mình sẽ làm chủ lấy mình chứ còn ai nữa. - Nếu đệ gặp một người đẹp thì đệ sẽ làm sao? - Đệ sẽ quán mọi pháp không thật tướng. Mọi cái, ngay cả thân này thật ra cũng chỉ là một cái túi dơ thôi. Đâu có gì gọi là đẹp, khi nó chết đi rồi, để đó chừng ba ngày không chôn là thối. Vì nó chỉ là một hợp tướng của đất, nước, gió, lửa mà thôi. - Nếu vậy, có người đẹp đến ôm đệ thì sao? - Thì cứ để cho họ ôm. Còn huynh? - Chắc là huynh sẽ chạy trốn. - Chạy trốn đâu bằng đối diện. Hãy tự đối diện với mình và với nàng, thì mới rõ được tất cả những thật tướng của cuộc đời. - Nói thì dễ chứ gặp thực tế, chẳng phải đơn giản đâu. - Đúng thế! Nhưng dễ hay khó vẫn do lòng mình thôi... Họ vừa đi vừa nói chuyện như thế và về đến cổng tam quan trước chùa lúc nào chẳng hay biết. Bỗng đâu hai tịnh hạnh nhơn xuất hiện, ngỡ rằng việc gì đã xảy ra với Sư Cụ trong thất, nhưng không ngờ được báo tin rằng: - Chỉ còn ba ngày nữa là công nương con gái quan tể tướng của triều đình sẽ đi chùa, cầu nguyện cho mẫu thân đang bị bệnh. Cả hai tịnh hạnh nhân lo lắng lắm và hỏi rằng: - Bây giờ sư phụ đang nhập thất, chùa mình phải tính sao đây? - Thì cô ấy cứ tới chùa chứ có sao? - Ai là người sẽ tiếp đón? - Dĩ nhiên là chúng tôi. Ngộ Đạo và Ngộ Tánh này. - Còn lễ nghi thì sao? - Vẫn như xưa nay như Sư Cụ thường dặn. Cả mấy ngày sau đó, trong ngoài chùa được quét dọn tươm tất như chưa bao giờ việc ấy từng xảy ra với ngôi chùa Sắc Tứ Hưng Phước này. Ngộ Đạo thì mong rằng giá như Sư Cụ ra thất trong lúc này thì hay biết mấy, còn Ngộ Tánh thì ngược lại, vì Ngộ Tánh có chủ đích riêng của mình. Điều này có lẽ Sư Cụ cũng thừa biết nên Ngài chẳng có động tịnh gì cả, để xem thử hai người đệ tử của mình trưởng thành như thế nào trong nội tâm và cơ thể. Sư phụ mới an lòng để ra đi một cách tự tại được. Khi tuổi già không cho phép Sư Cụ ở lại mãi với cõi đời này. Sáng hôm sau, cổng tam quan của chùa mở sớm và hôm nay cả ba cánh cửa đều mở hết. Vì dầu sao công nương cũng là con gái của bậc đệ nhất quốc công của triều đình đương đại, chỉ thua công chúa một bậc thôi. Vả lại, cha nàng và cả gia tộc nàng đều hộ trì ngôi chùa Hưng Phước từ mấy trăm năm nay. Do vậy việc đón rước để làm lễ cầu nguyện tại chùa là điều tất yếu vậy. Từ ngoài cổng chùa, sau khi xuống kiệu, nàng đã được các tỳ nữ dìu vào bên trong cổng tam quan. Nàng vẫn có thói quen đi bên mặt không vào cửa giữa, mặc dù hai cánh cửa giữa cũng được mở tung ra. Có lẽ nàng ngại hay vì sanh ra trong gia đình quyền quý và nho giáo, nên nàng vẫn được ăn học lễ nghi như thế. Đèn đuốc bên trên chánh điện đã được đốt lên sáng trưng. Khói hương trầm nghi ngút hòa quyện với gió ban mai, hòa lẫn với tiếng chuông, làm cho không khí nơi chánh điện vốn đã trang nghiêm, nay lại càng trang nghiêm hơn nữa. Trong khi hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh y áo sa-di sẵn sàng đứng đón để trao nhang cho nữ tỳ. Đoạn, nữ tỳ trao lại cho công nương, con quan Tể Tướng. Ngộ Tánh thầm suýt xoa: - Ôi! Người đâu mà đẹp thế! Suýt chút nữa là Ngộ Tánh buộc miệng nói ra như thế rồi, nhưng dừng ngay kịp vì biết rằng trước mặt mình còn có nhiều người nữa. Sau khi khấn vái và cắm ba cây nhang lên, nàng cúi xuống ba lần lễ lạy và sau đó cả hai chú dâng lời cầu nguyện cho mẫu thân của công nương, tức vợ quan Tể Tướng. Cả chánh điện mọi người đều đứng lên và công nương liếc mắt nhìn qua chú Ngộ Đạo, bỗng dưng như bị điện giật, nàng tự nhủ thầm rằng: - Người đâu mà đẹp thế. Tại sao phải xuất gia như vậy, ẩn mình vào chốn thiền môn để làm gì? Trong khi đó chú Ngộ Đạo vẫn không có một dấu hiệu hay tín hiệu nào có được sự cảm xúc như nàng. Buổi lễ Phật cầu nguyện của công nương hôm đó đã xong, và mọi sinh hoạt tại ngôi chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự vẫn bình lặng như mọi ngày, chỉ có một người trong hai người lúc nào cũng như thấp thỏm chờ mong một cái gì đó, nên trông thấy có vẻ khổ tâm lắm. Đó là chú Ngộ Tánh. Sư Cụ tuy ở trong thất, nhưng cũng đoán biết được kết quả của buổi lễ Phật hôm ấy rồi, và cũng còn hay tin rằng một trong hai đệ tử xuất gia của mình, bây giờ không còn siêng năng tụng kinh niệm Phật, ngồi Thiền, lễ bái nữa, đó là Ngộ Tánh. Mỗi lần nhìn về phía liêu tây của hai chú, Ngài trầm ngâm suy nghĩ và Ngài muốn cho các chú được yên tâm tu học, nên đã có kế hoạch sắp truyền ra, nhưng để xem mây nước trôi nổi đến đâu, lúc ấy Ngài mới có quyết định. Vả lại Ngài cũng đã quá biết rằng xưa nay “đệ tử tầm sư dị, sư tầm đệ tử nan”, nên Ngài cố dùng uy lực của mình để độ người Nho sinh ấy. Hắn vốn cũng là con nhà lành, chỉ vãn cảnh chùa đôi ba lần đã sinh ra mến cảnh, và mong học hỏi nơi cửa Thiền, nên đã phát nguyện xuất gia. Điều ấy hẳn quý thôi! Nhưng đúng là cái nghiệp. Cái nghiệp này nó nặng gấp ngàn cân. Vật nặng mình có thể đỡ được, chứ nghiệp nặng, mỗi người phải tự xoay xở lấy để mà bước ra. Một hôm, chú Ngộ Đạo vào bên cạnh giường của sư huynh mình và cất tiếng hỏi: - Tại sao huynh không dậy tụng kinh mà cũng chẳng cơm cháo gì hết vậy. Có cần đệ này giúp gì chăng? - Cái huynh cần chắc đệ không giúp gì được. - Sao lạ thế? - Ờ, thì trên đời có nhiều cái lạ lắm. - Nhưng đệ nhìn thấy huynh có gì đó bí ẩn. - Đã gọi là bí ẩn thì làm sao nói ra được. - Thế nhưng người ta có thể cảm nhận được mà. - Vậy đệ hãy cảm nhận giùm đi. - Chắc là vương vấn rồi chứ gì? - Đệ nói vương vấn cái gì? - Thì sư huynh hẳn biết rồi mà. - Bây giờ ta muốn đệ giúp ta một việc. - Giúp việc gì, nếu không ngoài khả năng của đệ. - Ta muốn gặp công nương. - Huynh có đường đột không đấy? Có được lệnh Sư Cụ chưa? Nhất là sự dị nghị của thế gian và nhà của quan Tể Tướng kín cổng cao tường, đâu phải tới lui lúc nào cũng được. Vả lại chúng ta là những người xuất gia, đi đến cửa quan để làm gì? Nếu họ biết việc đường đột ấy thì chỉ khổ thân cho cả đám. - Nhưng bây giờ biết làm sao hơn, hay sư đệ mang lá thư này tìm cách trao cho cô nữ tỳ hôm nọ, rồi nhờ cô ấy trao giùm cho công nương chắc cũng được. - Việc này không có đệ rồi đó. Nói xong Ngộ Đạo bước ra khỏi phòng rồi tự suy nghĩ về buổi lễ Phật hôm ấy của tiểu thư. Sau khi gặp tiểu thư rồi, tâm hồn của sư huynh mình dường như đờ đẫn ra. Ngồi đâu quên đó, lúc nào nhìn gương mặt cũng như mất hồn, đã đánh rơi một cái gì đó, nhưng ngẫm lại cho cùng trên đường sanh tử này, ta đã rơi bao nhiêu lượt như thế rồi nhỉ. Kết hợp rồi chia ly, chia ly rồi kết hợp. Lúc thương nhau thì nói đẹp, nói hay. Lúc ghét nhau chẳng có lời xấu nào chẳng dùng đến. Quả là con người có muôn vạn cách nói để che đậy những hành vi tội lỗi của mình, mà vốn bị cái ái tình, cái tình cảm, cái nghiệp duyên nó đã làm cho không có cơ hội thoát ra khỏi. Ngẫm phận mình, tuy là một đứa con hoang bị mẹ bỏ rơi trước cửa chùa và nhờ Sư Cụ nuôi nấng dạy dỗ đã gần hai mươi năm qua, trong tâm của mình vẫn dửng dưng với mọi việc xảy đến, trước mắt hoặc sau lưng mình. Ví dụ như tiểu thư ấy đẹp như thế nào, thì mình chẳng rõ biết, nhưng sư huynh thì ví như “cá lặn chim sa”, rõ ràng là mỗi người nghĩ mỗi khác về việc này. Bởi vậy cho nên cái này có người cho là đẹp thì người kia bảo xấu và ngược lại cũng vậy. Vậy xấu hay đẹp là do quan niệm về nghiệp lực nó chiêu cảm, chứ đâu phải là tại con người. Ví như câu chuyện của Tổ Bát Nhã Đa La đời thứ 27 bên Ấn Độ, đã hỏi Bồ Đề Đạt Ma trước khi đi xuất gia và nhận làm đệ tử của Ngài. Khi được biết là viên ngọc quý nhất của triều đình đã được vua cha tặng cho Tổ Bát Nhã Đa La, trong khi hai ông anh thì tiếc rẻ. Còn đến lúc hỏi Ngài thì Ngài bảo còn một loại quý hơn ngọc nữa, đó là cái tâm của con người. Đúng là vậy, cho nên sau này Bồ Đề Đạt Ma mới được truyền y bát. Nếu trả lời chỉ có ngọc kia là quý, thì chỉ được ngôi vua mà thôi. Vậy thì rõ ràng là việc đẹp xấu, có giá trị hay không là do trình độ hiểu biết nhân duyên và nghiệp lực của mỗi người. Riêng tiểu thư con quan Tể Tướng thì chẳng khá gì hơn, sau khi đi dâng hương làm lễ cầu nguyện cho mẹ về dinh mấy hôm nay cũng nằm liệt giường liệt chiếu. Gia nhân nghĩ rằng nàng lậm gió lậm sương nhưng không phải, xem mặt mày trở nên hốc hác lạ thường, biếng ăn mất ngủ. Đúng là một người đã lậm tình. Nhưng tình chi một thứ tình quái lạ. Ở chốn triều ca, có không biết bao nhiêu công tôn vương tử đi cầu hôn mà chẳng màng đến, bây giờ sau khi lễ Phật về, lại lậm tình bởi một người đã xuất gia, muốn thoát vòng tục lụy. Quả là điều nghịch lý. Bây giờ quan Tể Tướng phải tính sao đây. Nếu không, việc này mà loan truyền ra bên ngoài thì là cả một vấn đề khó xử. Ban đầu mẹ của tiểu thư tưởng nàng chỉ ốm nắng do trái gió trở trời, nên đã mời biết bao nhiêu lương y đến. Nhưng nàng cũng chẳng uống một giọt thuốc nào. Có vị biết tâm bệnh của nàng nên khuyên hãy tìm cho được người nàng thích thì mọi chuyện sẽ yên. Khi hỏi mãi mới biết rằng tiểu thư đã để ý đến chú Ngộ Đạo, chỉ mới nhìn dáng hình chú ấy trong chiếc áo nâu sồng là đã đem lòng thương ngay, nhưng làm sao bây giờ để giải bày tâm sự ấy cho cha mẹ và chú hiểu được lòng mình. Thế là trống đánh xuôi mà kèn lại thổi ngược là ý này chăng? Có biết bao người thương ta mà ta không để ý đến, thế mà ta phải lòng một kẻ xuất gia. Tâm sự ấy tiểu thư đã thổ lộ hết cho người nữ tỳ thân cận để tìm cách giúp nàng. Khi mẹ vào giường bệnh, nàng chẳng dám nói sự thật, chỉ ấm ớ cho qua chuyện. Đến khi gạn kỹ người hầu của nàng, thì bà mới biết đầu đuôi câu chuyện. Sau khi suy đi tính lại nhiều lần, bà cũng chẳng tìm ra một phương cách nào cả. Dẫu sao đi nữa, gia đình bà cũng là một gia đình Phật Tử thuần thành. Danh dự ấy, niềm tin vào Tam Bảo lâu nay của gia đình như thế, không lẽ bây giờ hạ mình nơi cửa Phật để giải bày tâm sự của con gái mình chăng? Chắc điều ấy không thể được vì tội lỗi lắm. Nếu mình không khuyên một người đi xuất gia được thì mình cũng không nên làm cho một người đã xuất gia rồi trở lại với đời sống của thế nhân, mà vốn cuộc đời này đâu có cái gì đẹp hơn là con người muốn thoát tục? Sau khi suy nghĩ như vậy, bà vào lại bên giường con gái và cất tiếng gọi: - Con ơi! Con muốn gì? - Điều con mong muốn chắc con không dám trình bày. - Mẹ đã hiểu cả rồi. Nhưng cớ sự ra nông nổi này thì phải giải quyết sao đây? - Biết làm sao bây giờ nữa, nếu con không gặp và không thương được người con yêu thì con sẽ chết. Nghe đến chết là bà mẹ cuống cuồng lên và tìm cách cầu cứu nơi chồng mình. Hôm nay quan Tể Tướng không vào triều. Một mình ông ngồi trên bộ sập gụ xưa có chạm hình tứ quý để uống trà và đọc truyện Đông Chu Liệt Quốc. Thấy bà vào, ông đỡ chiếc kiếng cận giơ lên cao rồi khẽ hỏi: - Bà vào đây có chuyện gì? - Chắc mọi việc ông đã rõ. Về con gái nhà mình chứ còn gì nữa? - Nhưng bây giờ ăn làm sao, nói làm sao với bàng dân thiên hạ đây? - Ông thì bao giờ cũng thể diện hết. Nhưng nếu con mình nó chết thì sao. - Để từ từ tôi suy nghĩ đã, đừng đem cái chết của con ra mà hù doạ.Thật sự ra, những người nói chết thường ít dám chết lắm. Chỉ có những kẻ âm thầm không nói gì hết, kẻ đó mới đáng quan tâm. - Theo ông nghĩ thì chúng ta phải làm sao? - Bà để đó tôi sẽ tính. Suốt đêm đó ông không ngủ. Không phải ông giận gì con gái cưng của mình hay ông không tìm ra phương pháp giải cứu được trận này, vốn ông là một vị tướng của triều đình tả xông hữu đột, nơi nào ông cũng thắng cả. Còn bây giờ trận giặc của gia đình, ông chẳng biết phải tiến thối sao đây. Phải chi là quân địch lúc nào tấn công, lúc nào rút lui ông đều rành rẽ, nhưng đây là chuyện của con mình, một chuyện theo ông khó chấp nhận được. Cũng có lúc ông nghĩ rằng thôi mình nên biên thư để tỏ bày tự sự của con mình cho Sư Cụ chùa Hưng Phước biết mà liệu định. Vì trước khi đi xuất gia, Sư Cụ Từ Tâm cũng là một quan văn trong sạch ở chốn triều ca. Việc ấy chẳng khó gì khi trao đổi ý kiến. Nhưng xét cho cùng ông lại thôi và cứ để cho dòng suy tư tiếp tục hướng đến một cõi xa xăm nào đó. Trong khi đó chú Ngộ Đạo ở chùa vẫn hồn nhiên như lứa tuổi đôi chín vừa lớn lên trong cuộc đời. Thỉnh thoảng còn đi đến trước cửa phòng của sư huynh mình và ngâm bài thơ rằng: “Sư vừa cất tiếng nam-mô, Bỗng đâu có bóng một cô bước vào. Tim sư rộn rực nôn nao, Bỏ chuông, bỏ mõ, ra vào chẳng yên.” Ngộ Đạo vừa ngâm vừa đãi tiếng cuối cùng thật dài khiến cho Ngộ Tánh nằm trong phòng cũng bật cười. Không biết đây là tâm sự của Ngộ Tánh hay là của tiểu thư. Nghĩ một chặp Ngộ Đạo ngâm tiếp. “Tim này ví xẻ làm đôi, Trót dâng cúng Phật, chao ôi còn nàng. Lung linh dưới ánh trăng vàng, Như Lai Điều Ngự trên làn tóc em.” Hai câu sau chót mới là tuyệt vời, đa phần ta quán Phật ra em, nhưng ở đây thì quán em ra Phật. Không biết giờ đây sư huynh của mình có quán được như thế chăng? Đêm hôm ấy, Ngộ Tánh nằm mơ thấy đức Hộ Pháp về bảo rằng: “Phàm mọi việc ở đời đều có nhân có quả. Tất cả đều kết thành một chuỗi dài Thập Nhị Nhân Duyên, mà trong ấy vô minh đứng đầu. Bởi vì chúng ta chính từ vô minh phiền não mà trổi dậy trong cõi luân hồi, nhưng cũng nhờ vô minh phiền não mà ta thành Vô thượng Bồ-đề. Ở trong sự khổ đau tục lụy nếu ta nhận chân rõ được nguyên nhân và hậu quả, ta sẽ thấy rõ đường đi nẻo về, còn nếu không chịu nhận ra bản lai diện mục của mình là ai, thì mãi vẫn còn quay cuồng trong chốn sanh tử tử sanh ấy. Trong Luận Đại Thừa Khởi Tín và Luận Đại Trí Độ, chư Tổ Sư truyền thừa cũng đã dạy cho chúng ta rõ ràng là tâm này vốn thanh tịnh bình đẳng, giác ngộ, nhưng cái tánh giác từ vô thỉ kiếp ấy ta không giữ gìn mà quên đi, lo lăng xăng vào ra đâu đó, rồi mãi vui say với ngũ dục gồm: tài, sắc, danh, thực, thùy, rồi quên bản tâm mình vốn thanh tịnh. Bây giờ chỉ cần cắt hẳn dây ái ân, đoạn lìa việc sanh tử là Niết Bàn Diệu Tâm sẽ ngự nơi tâm của mình. Hãy đừng bắt bóng mà quên hình. Vì hình ảnh đẹp của giai nhân đó, nó cũng là ảo ảnh của cuộc đời mà thôi. Tại sao ngươi đã dám từ bỏ con đường danh lợi của một nho sinh vào chùa xuất gia đầu Phật, đã là một bậc đại nhân rồi, mà bây giờ mới chỉ thoáng qua một hình ảnh mỹ miều mà ngươi đã quên đi cái ngũ trược ác thế ấy. Đời này vốn chẳng có gì vui. Hãy cố gắng lên đi. Vì chỉ có con đường tu mới có thể giải thoát sanh tử được. Ngươi hãy nhìn xem, lâu đài, cung điện, ngai vàng, vợ đẹp, con ngoan. Tất cả đều do tứ đại hợp thành. Từ đất người ta xây lên bao nhiêu cung vàng điện ngọc, nhưng qua bao nhiêu cuộc bể dâu của lịch sử rồi đất ấy cũng trả lại cho đất mà thôi. Thân này cũng thế, chỉ là một cái túi da đựng không biết bao nhiêu đồ phế thải bên trong. Nào ruột non, ruột già, lá lách, bàng quan, tụy tạng, gan, mật, mỡ, đờm v.v... ôi thôi là đủ thứ. Những cao lương mỹ vị ta mới dùng hôm qua, đến ngày sau thải ra ruộng đồng ta đã chẳng dám nhìn lại, thì sắc đẹp cũng chỉ thế thôi. Sắc đẹp không đánh đổ được niềm tin, sắc đẹp không giữ được ngai vàng. Sắc đẹp chỉ đem lại khổ đau và tục luỵ. Điều ấy chắc thật như thế. Xưa nay ít có người nào ham sắc mà ngộ đạo bao giờ. Như ngươi học Luật chắc cũng đã biết rõ. Ngày xưa Vua Trụ vì ham vui nơi rượu và sắc đẹp mà mất nước. Còn mình là người tu tuy không có giang sơn to lớn, nhưng không lẽ cũng để đánh mất cái bản tâm vốn thanh tịnh ấy ư? Còn nữa, việc đi xuất gia vốn do ngươi tự chọn, chứ đâu có ai bắt ép, mà vốn ý nghĩa của hai chữ xuất gia nó quan trọng lắm. Đầu tiên là ra khỏi nhà thế tục. Cái nhà ấy sáng vui, chiều buồn, tối giận, khuya hờn. Rồi lại cứ tiếp diễn như thế. Cái nhà mà có cả bao nhiêu niềm vui lẫn nỗi buồn chen lẫn với nhau đó, ngươi đã một lần ra khỏi rồi. Bây giờ ngươi lại muốn trở lại chăng? Mà cái nhà ấy vốn đã quá nhiều phiền não. Nói rộng ra là cái xã hội này đây, đâu có gì vui. Tất cả cái gì cũng là lợi danh, danh lợi, mạnh được, yếu thua. Nơi chốn quan trường cũng thế. Sức mạnh nằm ở nơi kẻ có quyền thế, tiền bạc. Còn lẽ phải vẫn còn nằm chờ sau bức màn nhung. Ngươi có hiểu điều ta nói chăng? Còn nghĩa thứ ba của việc xuất gia cao cả hơn nữa. Đó là ra khỏi ba cõi, mà ba cõi này vốn không yên, giống như trong nhà lửa vậy. Ngươi đã có lần học trong luận A Tỳ Đàm, Phật đã nói về sự hình thành của thế giới này rồi, do Sư Cụ Từ Tâm dạy và Ngộ Đạo đã kể qua. Ngươi còn nhớ nữa chăng? Khi tiểu tam tai đến và đại tam tai tới thì giàu nghèo sang hèn gì cũng chẳng còn gì cả. Lúc ấy chỉ có người biết tu là còn sống sót mà thôi. Từ cõi người cho đến cõi chư Thiên ở Vô sắc giới, cõi nào dẫu đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa mà không tu thì cũng lâm vào đại nạn như thường. Tại sao ngươi đã được vớt lên thuyền Bát Nhã rồi mà còn muốn trèo xuống trở lại thế gian đầy khốn khổ kia?” Ngộ Tánh toát mồ hôi sau khi la ú ớ mấy câu chữ được chữ mất: “Con đã... con đã chuẩn bị rớt xuống rồi. Hãy cứu con với!” Nghe tiếng la lớn bên cạnh giường mình, Ngộ Đạo tỉnh dậy lần qua giường Ngộ Tánh hỏi xem việc gì đã xảy ra. Ngộ Tánh bị đánh thức liền ngồi dậy và kể lại tự sự câu chuyện của Đức Hộ Pháp Vi Đà đã báo mộng nhắc nhở mình cho Ngộ Đạo nghe và văng vẳng đâu đây vẫn còn nghe những lời quở trách ấy. - Đó, huynh thấy chưa. Hộ Pháp Vi Đà chùa mình linh lắm đấy! Việc của huynh làm và huynh đang mơ tưởng Hộ Pháp đều biết hết mà. - Biết mà tại sao không giúp cho ta? - Giúp là giúp kéo huynh ra khỏi chỗ bùn dơ tục luỵ, chớ không lẽ giúp xe lại duyên nợ cho anh ở một thuở xa xôi nào đó trong kiếp luân hồi? Thôi huynh ơi! Hãy quên nàng ấy đi. Họ là con nhà quan. Còn mình chỉ là kẻ tu hành không hơn không kém. Đúng là: Cái vòng tục lụy cong cong, Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào. - Tại sao vậy huynh? Theo đệ nghĩ thì đâu có cái gì mà làm cho huynh say đắm như vậy? - Bộ đệ không thấy cô ta đẹp sao? - Dĩ nhiên là đẹp. Nhưng kết quả của cái đẹp ấy là gì? Nào ai biết được. Huynh còn nhớ câu chuyện bà vợ thứ của vua Tần Bà Sa La chăng? - Chuyện như thế nào, đệ thử kể xem. - Nguyên là thứ phi vua Tần Bà Sa La đẹp tuyệt vời. Lúc nào bà ta cũng rất hãnh diện về sắc đẹp ấy. Một hôm trong pháp hội tại Trúc Lâm Tịnh Xá, Đức Phật biết căn cơ ngộ đạo của bà ta đã đến và để trừ khử cái tâm cao ngạo về sắc đẹp kia nên Đức Phật liền hóa ra một nàng tiên đẹp hơn bà ta nữa. Bà ta rất ngưỡng mộ, đồng thời cũng rất lấy làm xấu hổ. Vì có người đâu mà đẹp hơn 10 lần mình như thế, mà lâu nay bà ta cứ nghĩ chỉ có mình bà là đẹp nhất ở cái thành Ma Kiệt Đà này thôi. Đoạn đức Phật hóa ra một người con gái đẹp như bà. Lúc này bà ta rất vui, vì có người cũng giống bà. Sau đó Phật hóa ra một người con gái xấu xí cũng từ người đẹp ấy, rồi cuối cùng một đống xương khô, cái nào cũng rã rời riêng lẽ, chẳng có cái nào liền với cái nào. Từ đó bà tỉnh ngộ về “vô thường” và sau khi nghe Phật thuyết pháp bà đã xin Phật và nhà vua xuất gia. Chính sự xuất gia của bà đã làm cho bao nhiêu vương tôn, công tử trong xứ Ma Kiệt Đà lúc bấy giờ rất ngạc nhiên và khâm phục. Cuối đời bà chứng được quả A La Hán. Phật đặt tên cho bà là Aya Khema, trong Trưởng Lão Ni Kệ có chép lại câu chuyện này. Bộ Huynh không nhớ sao? - Chỉ nhớ loáng thoáng thôi. Còn bây giờ ta chỉ nhớ có một người. - Lại một người nữa, bộ huynh không sợ Hộ Pháp Vi Đà trách sao? Thôi hãy nằm tịnh dưỡng đi, đệ sẽ mang cháo vào cho sư huynh sau khi đã dâng đồ dùng sáng cho Sư Cụ trước cửa thất. Trong khi mang cháo vào cho Sư Huynh Ngộ Tánh dùng thì Ngộ Đạo ngẫm nghĩ lại mà giựt mình. Mới đó mà Thầy nhập thất cũng đã hơn 8 năm rồi. Trong 8 năm ấy không biết bao nhiêu là việc thay ngôi đổi chủ ở bên ngoài. Không biết là Sư Cụ có hiểu hết không. Chứ còn Ngộ Đạo chứng kiến không biết bao nhiêu nỗi thăng trầm của nhân thế. Bao nhiêu việc thay ngôi đổi chủ và cũng từ trong sự khổ đau của nhân thế ấy Ngộ Đạo đã nắm vững vàng lý đạo nhiều hơn. Bây giờ Ngộ Đạo đã tự tin lấy mình và quyết đi cho đến đích cuối nẻo tử sinh trong cuộc sống vốn đầy khổ đau tục luỵ này. Ngộ Đạo tiếp tục suy nghĩ. Phàm cái gì mình ham thích, cái ấy nó ít đến với mình. Ví dụ bướm đang đậu mình đến bắt thì nó bay. Còn mình không thích cái gì đó tại sao nó cứ gần gũi mình. Có lẽ vì vậy mà trong tám nỗi khổ, đức Phật có nói về “oán tắng hội khổ” hoặc “ái biệt ly khổ” cũng là những điều nhức nhối cho kiếp nhân sinh này lắm. Đã biết đời là khổ rồi, nên mới xuất gia học Đạo như Ngộ Tánh kia. Thế mà cái pháp danh ấy Sư Cụ đã cố ý cho anh ta thấy ra cái tánh của mình. Vốn tánh ấy có khả năng thành Phật, nhưng sao huynh Ngộ Tánh chẳng thấy, chỉ thấy chi cái khổ sở trong kiếp nhân sinh, lại còn bảo mình làm ông tơ bà nguyệt nữa. Thôi cái ấy em xin chừa. - Sư huynh ơi! Cháo đây. Sư huynh hãy ngồi dậy đi. Hôm nay trông đỡ nhiều rồi đó. Chẳng có ai thương mình đâu. Chỉ có cơm cháo thương thôi. Sư huynh rán dùng vài chén là khoẻ liền hà. Cháo này do hai vị tịnh hạnh nhơn ở nhà trù nấu đó. Còn riêng em thì nêm nếm cho vừa miệng sư huynh đó. Nào hãy gắng lên. - Nhưng bệnh ta đâu phải thuộc về thân mà ăn cháo? - Nếu thuộc về tâm huynh cứ tự chữa đi chứ ai mà chữa được. - Có chứ. - Ai vậy? - Tiểu thư. - Tiểu thư, tiểu thư lúc nào cũng tiểu thư hết. Tiểu thư cũng chết lên chết xuống kia kìa. - Ủa bộ tiểu thư cũng tương tư à? - Chắc vậy. - Mà tương tư ai vậy. - Chứ còn ai vào đó nữa, ngoại trừ sư huynh, vì sư huynh lớn và đẹp trai nữa này. Chắc là tiểu thư phải lòng sư huynh rồi đó. - Có chắc vậy không? - Phải chờ thời gian và năm tháng trả lời. - Sự chờ đợi của ta bây giờ mỗi phút giây là nó dài như hàng thế kỷ. Đệ có cách gì giúp ta chăng? - Có - Có? Có cách gì? - Hãy ăn cháo đi, sau khi khỏe mạnh sẽ có tin vui. Thế là từ đó trở đi Ngộ Tánh mạnh hẳn ra không cần ăn cháo nữa, mà mỗi ngày chàng nho sinh hôm nào cũng lên phía trước tượng Đức Hộ Pháp Vi Đà để cầu nguyện. Chẳng biết Ngộ Tánh đã cầu gì, nhưng lâu lâu lại thấy như tha thiết lắm và cuối cùng thì đứng lên lạy xuống nhiều lần. Trong khi đó tiểu thư con quan tể tướng bệnh trạng cũng giảm dần. Vì thời gian và quan san cách trở. Nàng cũng có nhiều niềm vui khác nên đã quên đi một chú tiểu mang tên Ngộ Đạo đẹp trai ngày nào tại chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự. Cha mẹ nàng rất mừng. Vì biết đâu ông bà cha mẹ nhiều đời đã giúp cho gia đình này trong cơn nguy khốn ấy được toại nguyện. Chương 5. Tha Phương Cầu Đạo C ánh cửa thất nơi Phương Trượng đường đã được mở vào sáng nay sau hơn tám năm Sư Cụ Từ Tâm nhập thất để mỗi tối trì tụng kinh Kim Cang, niệm Phật và trì thần chú Đại Bi. Tuy Ngài không tiếp xúc với thế sự hằng ngày, nhưng mọi việc xảy ra bên ngoài Ngài đều biết rõ, nhất là việc nội tự trong thời gian qua. Đầu tiên, Ngài bước xuống thiền sàng lễ Phật và đi quanh vườn chùa, đưa mắt nhìn chỗ này, chỗ nọ, đoạn quay lại Phương Trượng Đường và gọi hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh vào dặn rằng: - Nay thì Ngộ Đạo tuy chưa đủ 20 tuổi để thọ giới Tỳ Kheo, nhưng theo Luật định kẻ ở chùa từ nhỏ đến lớn, có thể tính mỗi năm là thêm một tháng. Do vậy hơn 18 năm qua, con ở chùa là hơn một năm rưỡi, cộng với hơn 18 tuổi của con, vị chi là gần 20 tuổi. Cái tuổi có thể đăng đàn thọ Cụ túc giới nơi “Tuyển Phật Trường”. Còn Ngộ Tánh, tuy tánh ấy vẫn chưa sáng, vì đã trải qua một cơn giông tố nội tâm, tuy nhiên giới luật sẽ ràng buộc kẻ tu hành và giúp ta thoát qua chặng đường sanh tử, nên ta quyết định cho hai con thọ “Cụ Túc Giới”. Sau khi thọ xong, đúng theo luật các con phải ở thêm năm năm nữa với ta, nhưng ta thiết nghĩ các con nên chuẩn bị hành trang, ta sẽ cho các con đi tha phương cầu học đạo giải thoát. - Mô Phật, chúng con xin vâng. Cả hai nhìn nhau trong tâm trạng kẻ buồn người vui. Vì nghĩ rằng cái ngày ấy chắc chắn rồi cũng phải đến trong cuộc đời của một người tu sĩ như hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh. Sau khi thọ giới tỳ-kheo tại chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự, hai tân tỳ-kheo Ngộ Đạo và Ngộ Tánh theo lời dạy của Sư Cụ chuẩn bị hành trang thật kỹ càng để đến các nước láng giềng học Đạo. Nước đầu tiên mà hai thầy tân tỳ-kheo này đến là Ấn Độ. Trước khi đi, hai thầy cũng đã tìm quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” của Ngài Huyền Trang biên soạn vào năm 645 tức vào năm Trinh Quán thứ 19, tại Trung Hoa, bằng chữ Hán để học. Các vị này sau khi đọc xong đều trầm trồ thán phục. Ngày ấy vào thế kỷ 7 mà Ngài chỉ đi bộ suốt hai năm, chuyến đi và lúc về nào kinh sách, tượng Phật, xá lợi nặng nề trên hai vai và voi ngựa và Ngài cũng đã phải lặn lội qua những con sông sâu. Khổ cực biết dường nào. Thời gian ấy cũng tốn hai năm nữa. Cộng thêm với 15 năm ở Ấn Độ và các nước lân bang, trong đó có năm năm ở tại Đại Học Na-lan-đà, Ngài Huyền Trang học Du Già Sư Địa Luận và các bộ Luận lớn với Pháp Sư Giới Hiền. Ngài ra đi lúc 33 tuổi và về lại kinh đô Trường An lúc đó 50 tuổi. Vua Đường Thái Tông dâng cho Ngài cung Ngọc Hoa để Ngài chủ trì dịch những kinh sách tiếng Phạn đã mang về ra tiếng Trung Hoa, đến 657 bộ. Suốt 19 năm trường như thế, Ngài đã miệt mài với kinh điển. Buổi sáng Ngài chủ trì phiên dịch, buổi chiều giảo chính lại câu văn và buổi tối thăng toà thuyết pháp về những gì đã dịch được trong ngày hôm ấy. Đến năm 664, Ngài viên tịch thọ 69 tuổi. Như vậy cả cuộc đời, Ngài đã hy sinh cho hậu thế biết dường bao. Đặc biệt trong quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” Ngài đi đến đâu cũng đều có ghi lại rõ ràng từng nơi, từng Phật tích về phong tục tập quán, ngôn ngữ, bộ phái v.v. Nếu không có tài liệu ấy những người học Phật đi sau thật là khốn khổ. Hai thầy đọc đến đoạn Ngài Huyền Trang đến Bồ-đề Đạo Tràng, nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, hai Thầy nhớ lại câu Ngài Huyền Trang đã cảm thán lúc ấy như sau: “Phật tại thế thời, ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân, Phật diệt độ, Áo não thử thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.” Nghĩa là: “Lúc Phật tại thế, con trầm luân, Nay được thân người, Phật diệt độ, Buồn trách sao mình nhiều nghiệp chướng, Chẳng thấy thân vàng của Như Lai.” Đó là tâm trạng của Ngài Huyền Trang hồi thế kỷ 7. Còn bây giờ đã gần 1.000 năm sau, hai thầy tân tỳ-kheo Ngộ Đạo và Ngộ Tánh mới đến được xứ Ấn Độ và lần đầu tiên họ tìm đến Bồ-đề Đạo Tràng để đảnh lễ Phật. Họ đi quanh Đại Tháp ba vòng như để hồi tưởng lại Như Lai sau khi diệt độ và cứ mỗi nơi có ghi lại dấu tích gì hai thầy đều chí thành cung kính đảnh lễ. Khi đến Kim Cương Toà dưới cội Bồ-đề, nơi đây đức Thế Tôn đã thành Chánh Đẳng Chánh Giác, họ quỳ xuống oà khóc như trẻ thơ vắng mẹ lâu ngày, bây giờ mới gặp lại. Họ mừng quá và thầm nghĩ rằng: “Đúng là mình có phước duyên, chứ bao nhiêu người đâu có được cơ hội ấy. Họ nhìn cành lá cây Bồ-đề vẫn còn tỏa rộng, che rợp cả lối đi và có nhiều cành còn vươn cao lên phía đại tháp nữa. Họ cụng đầu nhiều lần vào cành cây Bồ-đề và gục đầu khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc như thế. Kế đến họ đi ra phía sau, nơi Đức Phật lần đầu tiên quy y cho hai người thương nhân Miến Điện. Lúc ấy khi Phật vừa thành đạo thì hai thương nhân này đến, muốn xin quy y. Phật đã nhận lời và khi ấy mới có Nhị bảo chứ chưa có Tam Bảo. Nghĩa là chưa có Tăng đoàn. Rồi họ đi đến chỗ tuần lễ thứ hai, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy sau khi Đức Phật thành đạo để đảnh lễ những nơi mà Phật đã trầm tư cũng như nói lên những câu nói thật giá trị lịch sử. Ví dụ như câu: “Không phải khi mới sinh ra, người ta là một bà-la-môn, mà người ta phải làm gì đó mới có thể trở thành một bà-la-môn” v.v... Quang cảnh Bồ-đề Đạo Tràng chung quanh còn hoang phế lắm. Hai thầy ghé thăm Đại học Ma-kiệt-đà đã một thời huy hoàng sánh với Na-lan-đà, cũng như thăm hang đá nơi Đức Phật tu khổ hạnh, rồi qua sông Ni-liên-thiền để xem nơi Đức Phật tắm rửa trước khi thành đạo. Gần đó, có Linh Thứu sơn, Trúc Lâm Tinh Xá và Đại học Na-lan-đà họ cũng đã ghé qua. Khi đi lên con đường của vua Tần-bà-sa-la từng đi thuở trước, họ hình dung rằng vua đã phải cực nhọc như thế nào. Rồi đến động đá A-nan và Ngài Xá-lợi-phất. Chính nơi động đá này, theo Ngài Huyền Trang ghi lại trong Đại Đường Tây Vức Ký thì Ngài A-nan tu Thiền bị ma quấy nhiễu và Ngài phải nhờ đến Phật giúp an tâm cho. Ngài là vị thị giả luôn hầu cận bên Đức Phật, nên hang đá này nằm phía dưới chân núi, còn hương thất của Phật nằm tận trên đỉnh cao. Điều ấy cũng hợp với một trong năm điều kiện của Ngài đưa ra khi nhận làm thị giả cho Phật là: “Bất cứ ai, trước khi muốn gặp Đức Phật thì phải qua Ngài.” Nếu A-nan thấy Phật đang bận ngồi Thiền hoặc giảng Pháp, Ngài sẽ không cho vị khách ấy gặp, dầu cho vị khách đó là ai đi chăng nữa. Còn Ngài Xá-lợi-phất, bậc trí tuệ bậc nhất bao giờ cũng ở gần Tăng chúng để dạy dỗ họ. Khi hai thầy Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đến đây, những tu viện trên núi Linh Thứu chỉ còn là những nền đá trơ gan cùng tuế nguyệt. Năm tháng chất chồng, thời gian thay đổi, tất cả rồi cũng phải như thế thôi. Đó là Đức Phật và những vị quân vương nổi tiếng. Còn thân phận của hai người, thật ra chẳng có một mảy may ý nghĩa gì so với cuộc sống thế trần này. Họ leo lên tận đỉnh núi để nhìn xuống kinh đô xứ Ma-kiệt đà, rồi đưa mắt nhìn xuống nền móng nhà tù khi vua A-xà thế đã giam giữ phụ vương mình để đoạt ngôi, vì theo lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa. Chính nơi đây Đức Phật đã truyền giới Bát Quan Trai cho vua Tần-bà-sa-la và dùng thần thông để cho Hoàng hậu Vi-đề-hy thấy hết các cảnh giới Tịnh độ