🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải bài tập và bài toán Cơ Sở Vật lý - Tập 2 Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. ĐÀO DUY NGHĨA NGUYỄN THỊ KIM THOA ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM THÚY LIỄU HOÀNG MINH TÁM ĐÀO DUY NGHĨA NGUYỄN THỊ KIM THOA BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/5-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5001-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-5658-4. Chủ biên PGS.TS. PHẠM VĂN LINH Biên soạn TS. LÊ MINH NGHĨA PGS.TS. NGÔ TUẤN NGHĨA TS. ĐỖ QUANG DŨNG 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Lịch sử loài người đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ trình độ thấp lên trình độ cao, với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của riêng nó. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây chính là hòn đá tảng trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và cũng là quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội loài người. Quy luật này chỉ ra rằng khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đó sẽ là động lực để kinh tế - xã hội phát triển, còn khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, dù là lạc hậu hơn hay đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì đều là lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc hiểu rõ và nhận thức đúng nội dung của quy luật này là rất quan trọng đối với việc đề ra các chủ trương, đường lối và xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việc nhận thức, vận dụng đúng quy luật này vào thực tiễn sẽ tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ, nâng cao đời sống cho người dân; ngược lại có thể gây ra sự đình trệ, thậm chí khủng hoảng kinh tế - xã hội. 5 Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về vấn đề này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay do PGS.TS. Phạm Văn Linh làm chủ biên. Cuốn sách được hình thành trên cơ sở chọn lọc các bài viết, tham luận trong Hội thảo Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và sức sống của nó trong giai đoạn hiện nay thuộc phạm vi Đề tài KX.02.13. Nội dung cuốn sách không những phản ánh những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà còn đề cập tới việc vận dụng nó vào điều kiện Việt Nam hiện nay, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Từ đó góp phần hình thành cơ sở khoa học cho việc xây dựng các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng cũng như đề xuất những gợi ý chính sách cho phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới. Chủ đề của cuốn sách hàm chứa nội dung rộng lớn và phức tạp, nhiều luận điểm, kiến nghị nêu trong cuốn sách có giá trị tham khảo tốt, song cũng còn có những đề xuất, kiến nghị cần được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi và thảo luận thêm. Tôn trọng các tác giả và để bạn đọc thuận tiện nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi giữ nguyên ý kiến của các tác giả và giới thiệu tới bạn đọc. Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 10 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT - GIÁ TRỊ CỐT LÕI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI PGS.TS. PHẠM VĂN LINH*1 I. VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 1. Lực lượng sản xuất Khái niệm lực lượng sản xuất đã được nhiều học giả trước C.Mác nêu ra, nhưng lại được kiến giải một cách duy tâm. Khái niệm này chỉ được quan niệm một cách khoa học lần đầu tiên vào tháng 3/1845, khi C.Mác viết tác phẩm Về cuốn sách của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học”. Trong cuốn sách này, C.Mác chỉ ra tính chất duy tâm trong lý luận của Lixtơ, vạch trần tính chất tư sản của lý luận đó; rằng: lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó như Lixtơ nghĩ ra, mà là một sức mạnh vật chất. C.Mác viết: “Để xua tan vầng hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có * Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. 7 nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất””1. Khi phân tích các yếu tố của lực lượng sản xuất, C.Mác sử dụng nhiều cách phân loại khác nhau như: theo công dụng của lực lượng sản xuất gồm tư liệu sản xuất và sức lao động, trong tư liệu sản xuất lại bao gồm: tư liệu lao động (công cụ lao động, phương tiện lao động) và đối tượng lao động; hoặc theo chủ thể sức sản xuất gồm sức sản xuất tự nhiên và sức sản xuất của con người. C.Mác cho rằng sức sản xuất tự nhiên là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Tuy nhiên, C.Mác nhấn mạnh rằng sức sản xuất tự nhiên không đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ (tức chiều hướng phát triển nhờ tăng năng suất lao động xã hội), ngược lại, “Một thiên nhiên quá hào phóng “sẽ dắt con người đi như dắt tay một đứa trẻ em mới tập đi”. Nó không làm cho sự phát triển của con người thành một sự tất yếu tự nhiên”2. C.Mác đề cao sức sản xuất của con người. Ông viết: “Chính sự cần thiết phải có sự kiểm soát của xã hội đối với một lực lượng nào đó của tự nhiên để tiết kiệm nó, chính sự cần thiết phải chiếm lấy nó hoặc phải thuần thục nó bằng những công trình đại quy mô do bàn tay con người dựng nên, - chính sự cần thiết đó đã đóng một vai trò hết sức quyết định trong lịch sử công nghiệp”3. Những luận điểm cơ bản về lực lượng sản xuất của C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời đại, được đúc kết như sau: - Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phản ánh khả năng con người chinh phục tự nhiên 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000, t.42, tr.354. 2, 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 2002, t.23, tr.725, 725. 8 bằng các sức mạnh hiện thực của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện của trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lực lượng sản xuất cho thấy năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhằm bảo đảm nhu cầu của con người. Để tiến hành sản xuất thì con người phải sử dụng các yếu tố vật chất, kỹ thuật nhất định. Tổng thể các yếu tố ấy là lực lượng sản xuất, bao gồm: Sức lao động, bao gồm ba yếu tố: thể lực, trí lực và kỹ năng lao động. Lao động không chỉ bao gồm công nhân trực tiếp, mà còn gồm cả công nhân gián tiếp và các nhà quản lý. Cùng với quá trình phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, tỷ lệ đội ngũ công nhân gián tiếp ngày càng tăng lên. Tư liệu sản xuất là những điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó tác động lên đối tượng lao động. Đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động của con người cùng với tư liệu lao động tác động lên làm biến đổi hình dáng, tính chất vật lý... Trong tư liệu lao động, công cụ sản xuất là nhân tố quyết định, ngoài ra còn một bộ phận là vật chuyển dẫn, là những điều kiện sản xuất chung, được gọi là kết cấu hạ tầng (như đường sá, bến cảng, hệ thống điện, viễn thông...). Trong quá trình phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng trở nên quan trọng và có vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình sản xuất và sức sản xuất của nền sản xuất xã hội. Khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực lượng sản xuất; là cái cốt lõi, yếu tố quyết định trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình: “... vì mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó... được tạo ra không phải bởi những con 9 người ấy, mà bởi thế hệ trước đó... mỗi thế hệ sau có được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới”1. Do vậy, lực lượng sản xuất có tính kế thừa và phát triển. - Trong ba yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì lao động là yếu tố quyết định nhất, quan trọng nhất bởi con người lao động chế tạo ra tư liệu lao động, và một phần đối tượng lao động; đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trò của tư liệu lao động, công cụ lao động. Ngay khoa học - kỹ thuật là yếu tố cốt lõi của lực lượng sản xuất, nhưng tự bản thân nó không thể gây ra bất kỳ sự tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động. - Lực lượng sản xuất có vai trò, chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là động lực của sự phát triển xã hội. 2. Quan hệ sản xuất Nếu phạm trù lực lượng sản xuất đã được các nhà khoa học trước C.Mác đề cập đến nhưng lại được giải thích một cách duy tâm và chỉ đến C.Mác mới được xem xét một cách duy vật khoa học thì phạm trù quan hệ sản xuất là sự sáng tạo riêng của C.Mác. Hàm nghĩa của quan hệ sản xuất được trình bày lần đầu tiên trong tác phẩm Gia đình thần thánh, khi C.Mác phân tích mối quan hệ giữa sản phẩm lao động với con người. C.Mác viết: “vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người, với tư cách là sự tồn tại vật thể của con người, thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1996, t.27, tr.657-658. 10 có của con người vì người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội của người đối với người”1. Và rằng, trong quá trình “... sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì...”2. Rằng, “khi phát triển những lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là khi sinh sống, thì con người cũng phát triển những quan hệ nhất định giữa họ với nhau,... tính chất của những quan hệ ấy tất yếu phải thay đổi cùng với sự biến cải và phát triển của những lực lượng sản xuất ấy”3. Từ cách gọi quan hệ trong quá trình sản xuất là “quan hệ xã hội” hay “quan hệ giao tiếp”, sau này, trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen mới chính thức sử dụng khái niệm quan hệ sản xuất, các ông viết: “phương thức sản xuất, những quan hệ trong đó các lực lượng sản xuất phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh cửu, mà chúng thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của con người, và bất kỳ sự thay đổi nào trong lực lượng sản xuất của con người đều tất phải dẫn đến một sự thay đổi trong những quan hệ sản xuất của con người”4. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, chính V.I.Lênin sau này đã tiếp tục khẳng định: “... cũng như mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài người là do sự phát triển của những lực lượng vật chất, sản xuất quyết định. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.2, tr.65. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.3, tr.42. 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1996, t.27, tr.664. 4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995 t.4, tr.201-202. 11 Quan hệ giữa người với nhau trong việc sản xuất những vật phẩm cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của con người là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Và chính những quan hệ ấy giải thích tất cả những hiện tượng của đời sống xã hội, những nguyện vọng, tư tưởng và luật pháp của con người”1. Có thể nêu ra rất nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng tổng hợp lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và trao đổi vật chất, thể hiện tập trung ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi hoạt động và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Trong các mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi và quan hệ phân phối sản phẩm, cũng như các quan hệ xã hội khác. Một xã hội cụ thể thường bao gồm ba loại quan hệ sản xuất cơ bản là: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai; trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo. Quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần của toàn bộ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.6-7. 12 những quan hệ tư tưởng, chính trị và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, nếu lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của sản xuất vật chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. 3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một trong những nguyên lý cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là quan hệ cơ bản của toàn xã hội, quyết định sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người. Mối liên hệ này do C.Mác phát hiện ra và được trình bày trong nhiều tác phẩm của mình, trong đó, tập trung nhất ở Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học, Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Bộ Tư bản và nhiều tác phẩm khác. Trong Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã chỉ rõ rằng, “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý 13 thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội... Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”1. Sau này, chính V.I.Lênin trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chỉ đạo cách mạng cũng đi đến kết luận: “... chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được”2. Nội dung cốt lõi của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có thể khái quát như sau: Một là, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi phương thức sản xuất hay quá trình sản xuất 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13, tr.14-16. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, 1974, t.1, tr.163. 14 xã hội không thể tiến hành được nếu thiếu một trong hai thành tố trên; trong đó, lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này, còn quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất mới có thể tiếp tục phát triển. Hai là, trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó và cũng do đó mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì cũng tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất. Ba là, quan hệ sản xuất luôn có khả năng tác động ngược trở lại đối với việc bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Quá trình tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác động tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu không phù hợp với nhu cầu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng trong khi đó quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối, vì nó gắn với các thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó. Chính vì thế mà C.Mác đã khẳng định: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển 15 lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”1. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bốn là, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì tái thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử, tạo ra quá trình vận động phát triển của phương thức sản xuất. 4. Những sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - Không nhận thức rõ sự phát triển lực lượng sản xuất là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Không hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất; hoặc cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền. Không thấy được vai trò của kinh tế tư nhân là động lực phát triển kinh tế 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.6, tr.553. 16 trong thời kỳ quá độ, lo sợ sự phát triển kinh tế tư nhân sẽ chệch hướng sang con đường tư bản chủ nghĩa, cho nên đã nóng vội cải tạo kinh tế cá thể và tư bản tư doanh, xóa bỏ loại hình kinh tế này, biến nền kinh tế quốc dân thành một nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa thuần nhất ngay khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, dẫn đến kìm hãm lực lượng sản xuất. - Nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội nên cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý, quan hệ phân phối và nhất là hầu như không xem xét quan hệ sản xuất trong lĩnh vực quan hệ trao đổi và quan hệ tiêu dùng; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động. - Đề cao một cách phiến diện yếu tố người về mặt số lượng, không chú ý chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất. - Không quan tâm đến những điều kiện để phát huy ưu thế của phân công và hợp tác lao động nên đã nóng vội mở rộng quy mô hợp tác xã, khiến cho sức sản xuất của lao động giảm sút, kinh tế trì trệ. - Chủ quan, duy ý chí trong chủ trương phân bố lực lượng lao động. - Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. - Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất khác nhau, những vùng, miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng quan hệ sản xuất. 17 II. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, LUẬN GIẢI NHẰM BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN 1. Những vấn đề cần tiếp tục luận giải liên quan đến lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác. C.Mác xây dựng học thuyết của mình trong điều kiện của cách mạng công nghiệp lần thứ hai (cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước, cách mạng công nghiệp lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện năng), còn ngày nay loài người đã trải qua cách mạng công nghiệp lần thứ ba với sự ra đời của kỹ thuật số (máy tính) và đang bước nhanh vào cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo. Trước cách mạng công nghiệp lần thứ tư, con người chủ yếu sử dụng tư liệu sản xuất là các tài nguyên thiên nhiên và các máy móc để sản xuất ra các sản phẩm. Song, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Thứ nhất, với đối tượng lao động, nhờ ứng dụng công nghệ trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn trong đó nhiều loại có hàm lượng tri thức ngày càng lớn hơn. Nếu căn cứ theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên thì nguồn lực tự nhiên đang ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác quá nhiều. Tuy nhiên, khoa học - công nghệ phát triển vượt bậc đã giúp con người phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của tài nguyên thiên nhiên, nhiều vật liệu trước kia tưởng chừng không có ích lại trở thành những vật có ích lớn, nhiều vật tính có ích lại được nhân lên gấp bội với 18 sự xuất hiện của nhiều ngành sản xuất mới, tạo ra đối tượng lao động mới, phong phú và giàu có hơn. Thứ hai, với tư liệu lao động (công cụ lao động và phương tiện sản xuất), cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều công cụ lao động mới và đưa đến việc thay thế từng bước các tư liệu lao động truyền thống bằng các tư liệu lao động hiện đại dựa trên thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại, tập trung ở lĩnh vực công nghệ sinh học, vật liệu mới và công nghệ thông tin. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra các công cụ lao động và phương tiện sản xuất mới với những máy móc tiêu hao ít nhiên liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, không gây ô nhiễm môi trường, tạo nên nền sản xuất phát triển bền vững. Những máy móc, công nghệ mới chứa đựng lượng thông tin cực kỳ lớn, cho phép sản xuất với năng suất, chất lượng sản phẩm đặc biệt cao. Tư liệu sản xuất chính sẽ chuyển từ chủ yếu là vật chất sang phi vật chất, tức là lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động phổ thông thấp sẽ ngày càng giảm, sản xuất sẽ có xu hướng dịch chuyển từ các nước có nhiều lao động phổ thông và tài nguyên sang những nước có nhiều lao động chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ. Những doanh nghiệp biết tận dụng các công nghệ mới với tư liệu sản xuất phi vật chất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng thu được những thành tựu lớn. Ví dụ, tập đoàn Alibaba của Trung Quốc được đánh giá là một trong những nhà bán lẻ có giá trị nhất thế giới song lại không có chút hàng lưu kho nào; hay Airbnb, nhà cung cấp phòng ở cho thuê lớn nhất thế giới nhưng lại không có chút bất động sản nào1. 1. Tom Goodwin: In the age of disintermediation the battle is all for the consumer interface, TechCrunch, March, 2015, http://techcrunch. com/2015/3/03/in-the-age-of-disintermediation-the-battle-is-allfor thecustomer-interface/ 19 Thứ ba, với người lao động, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động mạnh mẽ đối với người lao động, làm biến đổi chức năng của con người trong sản xuất: con người dần dần không còn là yếu tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chuyển sang chủ yếu là sáng tạo và điều chỉnh quá trình đó. Sự tác động này được thể hiện: (i) Làm biến đổi nội dung và tính chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất, lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hóa sâu sắc. Do đó, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phá vỡ cấu trúc thị trường lao động truyền thống ở nhiều quốc gia. (ii) Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến số lượng việc làm thông qua sự thay thế sức lao động bằng máy móc, robot, trí tuệ nhân tạo và ứng dụng công nghệ thông tin đối với một số ngành, nghề đang diễn ra nhanh chóng, thâm nhập vào nơi làm việc trên thị trường lao động. Xu hướng việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất sử dụng nhiều lao động sang sử dụng nhiều tri thức và công nghệ. (iii) Tác động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ năng kỹ thuật (mức trung bình và cao) bao gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì người lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay cốt lõi như: khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng tập trung... OECD ước tính đến năm 2020, nguồn nhân lực trong thị trường kỹ thuật số sẽ thiếu hụt lớn, riêng khu vực châu Âu có thể thiếu khoảng 825.000 chuyên 20 gia trong mảng lĩnh vực này1. (iv) Nền tảng công nghệ số, tích hợp tất cả các thông tin về công nghệ, quy trình, phương thức sản xuất, nhu cầu về ngành, nghề, kỹ năng... và nhất là khả năng kết nối, chia sẻ trên toàn thế giới thông qua các thiết bị công nghệ... sẽ làm thay đổi cách thức kết nối giữa cung và cầu trên thị trường lao động, xóa bỏ biên giới cứng của thị trường lao động giữa các quốc gia trong khu vực, khiến thị trường lao động sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm giữa các quốc gia. Người lao động giờ đây không chỉ được giải phóng về lao động chân tay mà còn được giải phóng cả về lao động trí óc. Máy móc - công cụ lao động không chỉ là cánh tay nối dài của người lao động mà cánh tay đó còn được “thông minh hóa”. Sự giao tiếp giữa người lao động - robot cao cấp - máy móc thông minh... tác động vào nguyên, nhiên, vật liệu mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí đáp ứng nhu cầu cá biệt hóa ngày càng tăng của mỗi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng thay đổi mạnh mẽ nhờ vào sự phát triển của khoa học - công nghệ. Nền sản xuất “tự động” hóa sẽ nhanh chóng chuyển sang “thông minh” hóa. Nhân lực chất lượng cao gắn với “sản xuất thông minh”, theo đó nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển. Với tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì vai trò nguồn nhân lực càng được thể hiện rõ hơn. Hệ thống công nghệ cao chính là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất hiện đại. Cho đến nay, người ta đã xác định các xu hướng chính của cách mạng công nghiệp lần thứ tư bao gồm: phương tiện tự lái, in 3D, robot cao cấp, vật liệu mới 1. OECD: Science, Technology and Industry Outlook 2014, OECD Publishing, 2014, http://dx.doi.org/10.1787/sti_outlook-2014-en. 21 và các công nghệ tích hợp khác dựa trên sự phát triển của mạng internet... Tóm lại, lực lượng sản xuất mới đã hình thành với những đặc điểm mới vượt xa với thời C.Mác. Đặc điểm của lực lượng sản xuất mới là: Một là, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Hai là, tri thức khoa học làm thay đổi đặc điểm của lực lượng sản xuất mới. Ba là, do tri thức khoa học mang tính toàn cầu nên lực lượng sản xuất mới - dựa trên tri thức khoa học - mang tính toàn cầu hoá. Bốn là, vốn người là vốn quan trọng trong lực lượng sản xuất mới. Năm là, bền vững và thân thiện với môi trường là một trong những đặc điểm mới của lực lượng sản xuất. 2. Những vấn đề liên quan đến sự biến đổi trong quan hệ sản xuất Theo các chuyên gia dự báo, hiện nay, do tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất đã thay đổi đáng kể: - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc mà còn thay đổi cả cách thức giao tiếp trong quá trình sản xuất. Con người ngày càng có xu hướng ít quan hệ trực tiếp với nhau, chuyển từ xu hướng quan hệ trực tiếp sang quan hệ gián tiếp trong quá trình sản xuất (chủ yếu là quan hệ gián tiếp qua công nghệ số hóa). Khả năng hàng triệu người kết nối với nhau qua điện thoại di động, với sức mạnh xử lý, dung lượng lưu trữ và sự tiếp cận tri thức chưa từng có tiền lệ, là không giới hạn. Thậm chí, những khả năng đó còn được nhân lên gấp bội nhờ vào những đột phá về công nghệ mới nổi trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử. 22 - Về quan hệ sở hữu, trước đây khi đề cập đến đối tượng sở hữu, C.Mác chủ yếu mới nói đến sở hữu về tư liệu sản xuất, như người nô lệ, ruộng đất, hầm mỏ, súc vật..., nhưng ngày nay đối tượng sở hữu không còn bó hẹp như quan niệm thời đó nữa. Đối tượng sở hữu hiện nay không dừng ở tư liệu sản xuất, mà đã xuất hiện những dạng mới thời C.Mác chưa hề có, đó là: năng lượng, thông tin, trí tuệ, kinh nghiệm, sở hữu số... Quan hệ sở hữu ngày càng mở rộng, tính công hữu (sở hữu cộng đồng) ngày càng gia tăng, nhất là công nghệ siêu hiện đại (IoT, dữ liệu, điện toán đám mây và các công nghệ dịch vụ miễn phí khác...). - Về quan hệ quản lý, xu hướng robot hóa nền sản xuất, nhất là robot cao cấp với trí thông minh nhân tạo sẽ trở thành người quản lý, là thành viên hội đồng quản trị... khiến năng lực, chứ không phải nguồn vốn, trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất. Ở cấp độ doanh nghiệp, hệ thống phân công lao động thế giới ngày nay được chuyên môn hóa, chi tiết theo chuỗi giá trị ngày càng phổ biến, làm biến đổi căn bản cách thức tổ chức tiến hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Lao động kỹ thuật số là xu hướng mới nhất trong phân công lao động quốc tế hiện nay. Quan hệ cung - cầu cũng thay đổi đáng kể. Hình thức nhà cung cấp, chuỗi giá trị, đối thủ cạnh tranh thay đổi, tính sáng tạo gia tăng, dẫn đến chất lượng, giá cả và tốc độ thay đổi cũng nhanh hơn, khiến các hệ thống logicstic truyền thống không còn phù hợp, phải thay bằng quy trình linh hoạt và sáng tạo hơn. Theo đó, cầu cũng thay đổi, tính minh bạch ngày càng cao, sự cá biệt hóa là một xu hướng, làm cho mối quan hệ cung - cầu ngày càng gắn kết hơn bao giờ hết, sản xuất gắn với tiêu thụ theo yêu cầu. Người tiêu dùng sản phẩm có thể đặt hàng và kiểm tra sản phẩm của mình từ A - Z trong quy trình sản xuất 3D, khiến cho doanh nghiệp buộc phải quan tâm đổi mới quy trình sản xuất kinh doanh. 23 Ở tầm quốc gia, công nghệ ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ của họ để nêu ý kiến, cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của mình đối với toàn bộ xã hội. Quá trình đồng sở hữu công nghệ vừa là thời cơ, vừa là thách thức bởi những yếu tố an ninh phi truyền thống cũng dễ nảy sinh. - Về quan hệ phân phối, sự xuất hiện của những công nghệ mới đã tạo ra những phương thức hoàn toàn mới nhằm phục vụ cho nhu cầu hiện nay, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong những chuỗi giá trị công nghiệp hiện nay. Sự đột phá cũng đang xuất hiện từ những nhà cạnh tranh linh hoạt và sáng tạo, những người được hưởng lợi từ việc tiếp cận các phương tiện số toàn cầu để tiến hành nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán hàng và phân phối. Thuận lợi đó giúp họ cải thiện chất lượng, mẫu mã và giá cả cho phù hợp với giá trị của hàng hóa được phân phối, từ đó có thể cạnh tranh và đánh bại các đối thủ lớn khác với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Những thay đổi lớn về nhu cầu cũng đang diễn ra khi tính minh bạch ngày một cao, sự tham gia của người tiêu dùng và những hành vi mới của người tiêu dùng (ngày càng được xây dựng trên cơ sở tiếp cận mạng lưới và dữ liệu di động) buộc các công ty phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm và dịch vụ của mình. Thị trường lao động chuyển hóa thành hai nhóm: nhóm kỹ năng thấp được trả lương thấp và nhóm kỹ năng cao được trả lương cao. Xuất hiện mô hình thị trường lao động “tăng hai đầu, rỗng ở giữa”1. 1. “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - từ góc nhìn an ninh phi truyền thống”, 20/10/2017, http://hvctcand.edu.vn. 24 3. Những vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển giao thoa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã không chỉ đem lại sự phồn vinh về vật chất cho con người, mà điều quan trọng hơn là đã làm thay đổi cả phương thức sản xuất, phương thức quản lý đời sống xã hội của con người, dẫn đến những thay đổi lớn lao về kinh tế, xã hội, văn hóa... trong nhiều thập kỷ qua. Chẳng hạn: không còn sự phân định rạch ròi ranh giới của một số yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất do sự phát triển có tính chất giao thoa giữa chúng, cụ thể: (1) tổ chức quá trình sản xuất không thuần túy chỉ là một bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất mà còn là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất, nó là chất kết dính giữa các yếu tố vật chất và con người trong lực lượng sản xuất, chi phối trực tiếp tính hiệu quả của quá trình sản xuất; (2) khoa học - công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Con người dẫu vẫn là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của quá trình sản xuất, nhưng lao động quản lý, chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vi mô ngày càng giữ vị trí quan trọng hơn so với lao động trực tiếp sản xuất. Giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội hiện đại do tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư như thế nào là một thách thức lớn trong việc xử lý mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đối với các nhà nước nói riêng và với toàn nhân loại nói chung. 4. Một số gợi ý phương pháp luận bước đầu nhằm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất - Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trước tiên cần tập trung phát triển lực lượng 25 sản xuất, bao gồm trước hết là người lao động, tư liệu sản xuất (trong đó có công cụ lao động, phương tiện truyền tải và đối tượng lao động). Đó là do lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là động lực của sự phát triển xã hội. Chừng nào lực lượng sản xuất chưa phát triển thì chừng đó chưa có điều kiện để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Bởi vì, lực lượng sản xuất là nội dung, là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, trong khi quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể hoàn thiện hình thức khi chưa có nội dung nền tảng vật chất. - Không thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nếu không đồng thời hoàn thiện kiến trúc thượng tầng tương thích với cơ sở hạ tầng. - Phát triển lực lượng sản xuất phải bảo đảm sự phù hợp giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, sự cân đối giữa nguồn nhân lực và tư liệu sản xuất cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện quan hệ sản xuất không chỉ tập trung vào ba mặt quan hệ: sở hữu, quản lý và phân phối mà còn phải chú ý hoàn thiện cả hệ thống quan hệ sản xuất. - Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường. 26 QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT - NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI GS.TS. LÊ HỮU NGHĨA*1 1. Nếu như học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là hòn đá tảng của quan niệm duy vật lịch sử thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có thể nói, là hòn đá tảng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Đây là quy luật cơ bản và phổ biến của xã hội loài người, là động lực của lịch sử, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội từ hình thái này lên hình thái khác cao hơn. Quy luật này là do C.Mác phát hiện và đã được ông trình bày trong Lời tựa của tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (mặc dù trong tác phẩm này C.Mác không dùng từ “quy luật”). Có lẽ phải đến Stalin sau này, trong tác phẩm Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (năm 1952), ông mới dùng từ “quy luật”. Cụ thể là: “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” (cả tính chất và trình độ), thậm chí đưa “tính chất” lên trước “trình độ”. Về sau này, từ Liên Xô tới các nước xã hội chủ nghĩa khác, kể cả trong sách giáo khoa đều gọi tên quy luật là: “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với * Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương. 27 tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Như vậy là không đúng với tư tưởng của C.Mác. Trong Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã chỉ rõ rằng, “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội... Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”1. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13, tr.14-16. 28 Như vậy, theo C.Mác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cái quyết định, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định kết cấu nội dung của quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình này diễn ra một cách khách quan, như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người và loài người. Sau này, chính V.I.Lênin trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chỉ đạo cách mạng cũng đi đến kết luận: “... chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được”1. Giữa trình độ của lực lượng sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Trình độ lực lượng sản xuất quyết định tính chất quan hệ sản xuất (tính chất cá nhân hay tính chất xã hội); còn tính chất quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất. Khi trình độ lực lượng sản xuất thay đổi thì tính chất quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Trước chủ nghĩa tư bản, tính chất lực lượng sản xuất là tính chất cá nhân; từ chủ nghĩa tư bản trở đi, tính chất lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội và trình độ xã hội hóa cũng tiến triển theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (thể hiện qua sự phát triển của công cụ sản xuất, phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, nền sản xuất trên thế giới đi từ cơ khí hóa - tự động hóa - kinh tế tri thức - cách mạng công nghiệp 4.0). 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, 1974, t.1, tr.163. 29 C.Mác đã chỉ ra rằng quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo C.Mác, sự phù hợp đó là sự phù hợp bản chất, có tính chất động, phù hợp trong mâu thuẫn chứ không phải phù hợp hoàn toàn; trong phù hợp có không phù hợp. Đó là bởi lực lượng sản xuất “động” hơn, cách mạng hơn, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất ổn định hơn, biến đổi chậm hơn. Đó là quá trình vận động của hai mặt đối lập: phù hợp và không phù hợp. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, quan hệ sản xuất từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành xiềng xích trói buộc lực lượng sản xuất, tới một mức độ nào đó sẽ dẫn đến thời đại cách mạng xã hội diễn ra. 2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật mà trong nhận thức và vận dụng ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đều mắc phải sai lầm, gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Xu hướng chung của các sai lầm này là muốn tạo ra quan hệ sản xuất đi trước “mở đường” cho lực lượng sản xuất phát triển trong khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa thể đáp ứng được những yêu cầu mà quan hệ sản xuất mới đòi hỏi. Đây là lối tư duy nóng vội, chủ quan với mong muốn nhanh chóng xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Muốn hoàn thành công việc đó, phải thực hiện một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, phải chiến thắng sự phản kháng (thường là tiêu cực, đặc biệt dai dẳng và đặc biệt khó khắc phục) của nhiều tàn dư của sản xuất nhỏ, phải chiến thắng sức mạnh to lớn của tập quán và thói thủ cựu gắn liền với những tàn dư đó”1. Thế nhưng, khi vận dụng vào thực tế, các nước chủ nghĩa xã hội trước đây đã bỏ qua cảnh báo 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, 1977, t.39, tr.18. 30 này của V.I.Lênin bởi đã có những thành tựu nhất định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội khi tạo ra quan hệ sản xuất đi trước “mở đường” cho lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, trong dài hạn, đây có thể coi là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ, khủng khoảng kinh tế - xã hội và dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng trên là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, trong khi đó những yếu tố của quan hệ sản xuất lại “đi quá xa”, không phù hợp dẫn đến lực lượng sản xuất bị kìm nén, không tiếp tục phát triển được. Ở Việt Nam, phong trào hợp tác hóa với những hợp tác xã quy mô toàn xã trong khi người nông dân mới chỉ là những tiểu nông, trình độ quản lý, điều hành thấp kém... đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp đình trệ, thiếu lương thực diễn ra trên diện rộng; hay đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng trong khi trình độ khoa học - kỹ thuật còn rất thấp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng không được chú trọng dẫn đến thiếu hàng hóa tiêu dùng trong nhân dân là những ví dụ khá rõ nét cho tình trạng trên. 3. Một số vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới 3.1. Về vị trí và vai trò của quan hệ sở hữu. Chúng ta đều biết, sở hữu giữ vai trò cực kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Nếu không giải quyết tốt quan hệ sở hữu giữa các nhóm dân cư, các giai cấp... thì sẽ ảnh hưởng ngay đến sự phát triển kinh tế, sự ổn định xã hội, và nếu tình trạng đó kéo dài có thể gây ra những bất ổn về chính trị. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy trong nền kinh tế của chúng ta đang song song tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Giữa chúng không tránh khỏi có những mâu thuẫn, xung đột. Do đó, giải quyết các vấn đề mà quan hệ sở hữu đang đặt ra có vai trò vô cùng quan trọng để 31 huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực vào việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện được các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. 3.2. C.Mác trong bộ Tư bản đã khẳng định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”1. Luận điểm này của C.Mác cần được luận giải rõ hơn. Cụ thể, ở đây cần hiểu rõ hơn “những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực” là những cơ quan nào trong xã hội? và “tri thức xã hội phổ biến” là gì? Lâu nay chúng ta hay nói “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” - rõ ràng là không đúng tinh thần của C.Mác, vì vậy cần nghiên cứu sâu hơn, từ đó luận giải chính xác tinh thần của C.Mác. Hơn nữa, cũng cần luận giải những điều kiện thế nào để “tri thức xã hội phổ biến” chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 3.3. Trước kia chúng ta nêu, đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) lại nêu, đó là “quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp”. Nhưng hiểu thế nào là quan hệ sản 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.46, p.II, tr.372-373. 32 xuất tiến bộ, phù hợp; nội hàm là gì? Những vấn đề này vẫn đang còn bỏ ngỏ, chưa được luận giải một cách đầy đủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trong đó có đặc trưng thứ hai “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp...”1. Vậy tiêu chí của lực lượng sản xuất hiện đại là những tiêu chí gì? Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp được hiểu như thế nào? Để “tiến bộ” trước “phù hợp” có phải chăng là chúng ta đã vô tình không coi trọng đúng mức tính quy luật của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Nên chăng là “có quan hệ sản xuất phù hợp và tiến bộ” sẽ hay hơn, đúng hơn? Những vấn đề trên cần tiếp tục làm rõ và luận giải đầy đủ trong thời gian tới. 3.4. Về hoàn thiện thể chế liên quan đến quan hệ sản xuất, có một số vấn đề đặt ra như sau: (1) Về thể chế hóa quyền tài sản: (i) xác lập đầy đủ các quy định pháp lý liên quan đến quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền hưởng lợi từ việc sử dụng các tài sản) của các đối tượng trong xã hội (bao gồm Nhà nước, các loại hình tổ chức, các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, các cá nhân; (ii) xây dựng các quy định nhằm đảm bảo trong thực tế việc thực hiện quyền tài sản của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân; (iii) xây dựng và hoàn thiện các quy định, các tổ chức bảo vệ quyền tài sản của các đối tượng trong xã hội. (2) Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là việc Nhà nước và các chủ thể có quyền sở hữu trí tuệ sử dụng các phương thức pháp 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70. 33 lý để bảo đảm quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ của mình (bao gồm quyền tác giả và quyền liên đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng), chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối tượng này. Quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự hoặc hình sự do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hoặc do chính các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền tự bảo vệ. Với sự phát triển của kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế thời gian qua, vấn đề sở hữu trí tuệ đang ngày càng được coi trọng ở Việt Nam. Đây là điều tất yếu bởi tài sản trí tuệ hiện được coi là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, nhất là trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, bùng nổ mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Việc xây dựng được thể chế về sở hữu trí tuệ tốt sẽ giúp bảo vệ được tài sản quan trọng này, tạo niềm tin với những người làm công tác sáng tạo trong nước cũng như niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Muốn vậy, trước mắt, chúng ta cần thực hiện tốt Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản liên quan đến sở hữu trí tuệ đang có hiệu lực. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu, cập nhật, bổ sung để ngày càng hoàn thiện quy định về sở hữu trí tuệ cho phù hợp với tình hình mới. (3) Hoàn thiện thể chế về doanh nghiệp nhà nước: Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Trong kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có vai trò là lực lượng nòng cốt. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những nguồn lực to lớn về vốn, tài nguyên, nhân lực... và đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, thực tế “Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, 34 chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước”1. Vì vậy, hoàn thiện thể chế đối với doanh nghiệp nhà nước là việc vừa cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài để hoàn thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.99. 35 NỘI DUNG CỐT LÕI TRONG LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VỚI QUAN HỆ SẢN XUẤT GS.TS. ĐỖ THẾ TÙNG*1 C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét: Quá trình sản xuất biểu hiện ra là một quan hệ song trùng: Một mặt là quan hệ giữa con người và tự nhiên (được gọi là lực lượng sản xuất) và mặt khác là quan hệ giữa người với người trong sản xuất (được gọi là quan hệ sản xuất). Lực lượng sản xuất là yếu tố có tính quyết định, cách mạng nhất và không ngừng phát triển. Quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định hơn. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ cao hơn thì quan hệ sản xuất hiện tồn lại trở thành xiềng xích, cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất, do đó tất yếu sẽ được thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới. 1. Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa những yếu tố vật và người trong sản xuất. * Nguyên Trưởng khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 36 Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cái cung cấp những vật liệu cho lao động biến thành của cải. Khi phân tích quá trình lao động, C.Mác cũng chỉ rõ: Lao động trước hết là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Những yếu tố giản đơn của quá trình lao động là sự hoạt động có mục đích hay bản thân sự lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. C.Mác còn gọi lao động là nhân tố người hay nhân tố chủ quan, còn đối tượng lao động và tư liệu lao động (gộp lại là tư liệu sản xuất) là nhân tố vật hay nhân tố khách quan. Lực lượng sản xuất biểu hiện ở sức sản xuất của lao động, C.Mác đã chỉ rõ: Sức sản xuất của lao động được quyết định bởi nhiều tình hình, trong đó có trình độ khéo léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào quy trình công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện thiên nhiên. 1.1. Nhân tố người Xu hướng lịch sử tự nhiên là lao động cá thể, phân tán từng bước chuyển thành lao động hiệp tác, tập trung hay còn gọi là lao động xã hội. Trước chủ nghĩa tư bản, hiệp tác lao động giản đơn cũng đã có ở những trang trại lớn của địa chủ và trong các phường hội, nhưng phổ biến vẫn là lao động riêng lẻ. Còn sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ thực sự bắt đầu ở nơi nào mà cùng một tư bản cá biệt thuê nhiều công nhân trong cùng một lúc. Do đó, hiệp tác lao động là điểm xuất phát lịch sử và lôgic của sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác đã nêu lên 7 ưu thế của lao động hiệp 37 tác và 3 điều kiện để phát huy những ưu thế ấy. Hiệp tác lao động giản đơn phát triển lên hiệp tác có phân công trong công trường thủ công; đại công nghiệp tái hiện 2 loại phân công đó giữa các máy trong công xưởng. Còn người với người lại hiệp tác với nhau theo yêu cầu của máy1. Đại công nghiệp đòi hỏi giáo dục bách khoa và có thể xóa bỏ sự phân công theo kiểu công trường thủ công bằng cách buộc chặt cùng một công nhân vào cùng một công việc. Từ một nghề chuyên môn một đời điều khiển một dụng cụ bộ phận trở thành một nghề chuyên môn suốt đời phục vụ một chiếc máy bộ phận. Ph.Ăngghen dự báo trong tương lai, khi đại công nghiệp phát triển rất cao, việc sản xuất bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần những con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành này sang ngành khác tùy theo nhu cầu của xã hội. C.Mác cũng dự đoán: Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự sẽ trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí, mà phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào tiến bộ kỹ thuật, hay phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học vào sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản 1. “Từ quan điểm của C.Mác về những xu hướng phát triển chủ yếu của lực lượng sản xuất, suy nghĩ về vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 07/7/2005; “Tìm hiểu quan điểm của V.I.Lênin về xã hội hóa lao động để vận dụng vào thực hiện lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xã hội hóa nông nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 894, tháng 4/2017. 38 xuất mà chủ yếu là một loại lao động, trong đó con người là chủ thể kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy. Khi ấy, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề này, việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn trở thành quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về lượng sẽ được quy vào một phần nhỏ hơn, còn về chất được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến và đối với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ. Hệ thống máy móc tự động được phát triển cùng với sự tích lũy những tri thức xã hội và nói chung, sự tích lũy sức sản xuất dẫn đến chỗ cơ sở chủ yếu của sản xuất và của cải sẽ không phải là lao động trực tiếp nữa mà là tri thức1. Việc phân bố lực lượng lao động cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì phần lớn lao động tập trung ở nông thôn. Khi năng suất lao động của những người trực tiếp làm nông nghiệp tăng lên, chỉ cần số người ít hơn cũng đủ bảo đảm lương thực, thực phẩm cho nhân dân, thì lao động nông nghiệp chuyển bớt sang công nghiệp và dịch vụ, và từ nông thôn vào thành phố và các khu công nghiệp. Không những thế, lực lượng sản xuất còn vượt biên giới quốc gia, tham gia vào phân công lao động quốc tế. 1. “Quan điểm của C.Mác về sự phát triển của hệ thống máy móc và ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Triết học, số 2 (141), tháng 02/2003. 39 1.2. Nhân tố vật Nhân tố vật gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gộp lại là tư liệu sản xuất). Đối tượng lao động là tất cả những vật mà lao động chỉ có việc bứt ra khỏi mối quan hệ trực tiếp giữa chúng với đất đai, như: cá dưới nước, gỗ trong rừng nguyên thủy, quặng trong vỉa quặng... Đối tượng lao động đã được lọc qua một lần lao động gọi là nguyên liệu. Tư liệu lao động là một vật hay là toàn bộ những vật mà con người đặt ở giữa họ và đối tượng lao động, và được họ dùng làm vật truyền dẫn hoạt động của họ vào đối tượng ấy để tạo ra của cải theo mục đích của mình. Việc sáng tạo và sử dụng những tư liệu lao động là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao động. Các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Theo nghĩa rộng, tư liệu lao động còn gồm tất cả những điều kiện vật chất cần thiết nói chung, để cho quá trình lao động có thể diễn ra. Những điều kiện đó tuy không trực tiếp gia nhập vào quá trình lao động, nhưng nếu không có chúng thì hoặc giả quá trình lao động hoàn toàn không thể tiến hành được, hoặc giả sẽ chỉ diễn ra dưới một dạng không hoàn hảo mà thôi, như đất đai, nhà xưởng, kênh đào, đường sá,... Cùng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học - công nghệ, các tư liệu lao động cũng được thay thế bằng những cái mới, có hiệu quả cao hơn; đối tượng lao động ban đầu chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng ngày càng cạn kiệt. Song nhờ khoa học - công nghệ mà phát hiện thêm những chất có ích mới, tăng thêm công dụng của những chất đã biết và tận dụng phế liệu, phế phẩm, do đó nguyên liệu ngày càng phong phú. 40 1.3. Quan hệ giữa nhân tố người và nhân tố vật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất Khi nghiên cứu tích lũy tư bản, C.Mác đã phát hiện: Năng suất lao động xã hội là đòn bẩy mạnh nhất của tích lũy. Và việc tăng năng suất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động, hay là thể hiện ra ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá trình lao động so với nhân tố khách quan của quá trình đó. Trong bối cảnh kinh tế tri thức ngày càng phát triển, và đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0) thì xu hướng trên tiếp diễn mạnh hơn. Có những rôbốt và máy tự động không có người điều khiển. Dĩ nhiên, nguyên lý lao động sống cải tử hoàn sinh cho máy móc, nếu không có lao động sống thì máy móc hiện đại cũng thành vật chết vẫn đúng. Nhưng ở đây, lao động sống chỉ chế tạo ra máy và lập trình cho máy hoạt động chứ không cần lao động trực tiếp điều khiển. Con người vẫn là yếu tố chủ yếu của lực lượng sản xuất, nhưng bản thân con người cũng thay đổi theo hướng nâng cao về chất lượng, giảm về số lượng. C.Mác đã nhấn mạnh: Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, tất cả những máy móc đều là sản phẩm lao động của con người, đều là những cơ quan của bộ óc con người, do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đa vật hóa của tri thức. 2. Quan hệ sản xuất Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp 41 thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng, pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Cơ cấu của quan hệ sản xuất bao gồm: 2.1. Quan hệ sở hữu Chỉ riêng lao động thì chưa phải là nguồn gốc của của cải. Lao động đi đôi với giới tự nhiên cung cấp cho lao động những vật liệu để chế biến thì mới trở thành nguồn gốc của của cải. C.Mác nhấn mạnh: Chỉ trong chừng mực mà con người ngay từ đầu đối xử với giới tự nhiên, nguồn gốc đầu tiên của mọi tư liệu lao động và đối tượng lao động, với tư cách là kẻ sở hữu, trong chừng mực nào mà con người đối xử với giới tự nhiên coi đó là vật thuộc về mình, thì chừng ấy lao động của con người mới trở thành nguồn gốc của của cải. Cho nên người nào không có sở hữu nào khác ngoài sức lao động của mình ra thì trong mọi trạng thái xã hội và văn hóa đều nhất định sẽ phải lệ thuộc vào những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện vật chất của lao động. Người đó chỉ có thể lao động và do đó chỉ có thể sinh sống khi được những kẻ này cho phép. Sản xuất hàng hóa nhỏ thì dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân của những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ. Còn trong sản xuất hàng hóa lớn thì nhà tư bản là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, còn người lao động chỉ còn làm chủ sức lao động. 2.2. Quan hệ sở hữu quyết định địa vị của con người trong quá trình sản xuất Người sản xuất nhỏ vừa làm chủ sở hữu tư liệu sản xuất vừa làm chủ sức lao động nên tự chủ trong việc kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất của chính mình để tạo ra của cải. Còn trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhà tư bản là chủ sở hữu tư liệu sản xuất nên đóng vai trò người tổ chức và chỉ huy 42 sản xuất, khi quy mô sản xuất đã lớn thì họ trút bỏ chức năng này cho những người làm thuê cao cấp (manager, CEO) và hiện nguyên hình là chủ sở hữu tư bản. Người lao động đã bị tách khỏi tư liệu sản xuất, mất quyền sở hữu tư liệu sản xuất, chỉ còn là người chủ sở hữu sức lao động, nên phải bán sức lao động cho nhà tư bản, và chịu sự chỉ huy của nhà tư bản (hay những người làm thuê cao cấp của họ), như chấp hành mệnh lệnh của viên tướng trên chiến trường. 2.3. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ phân phối kết quả sản xuất Người sản xuất nhỏ làm chủ cả tư liệu sản xuất và cả sức lao động nên cũng làm chủ toàn bộ kết quả sản xuất, mặc dù nhìn chung kết quả này hạn hẹp. Nhà tư bản với tư cách chủ sở hữu tư liệu sản xuất được chiếm hữu toàn bộ kết quả sản xuất, sau khi hoàn lại giá trị các tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng và trả tiền công cho công nhân, nhà tư bản chiếm hữu toàn bộ giá trị thặng dư không phải hoàn lại vật ngang giá, hay còn gọi là chiếm hữu lao động của người khác mà không phải trả công. Người công nhân làm thuê chỉ làm chủ sở hữu sức lao động nên nhận được tiền công, một bộ phận giá trị mới do họ tạo ra. Tóm lại, quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những điều kiện vật chất của sản xuất hay là tư liệu sản xuất; quan hệ giữa người với người trong tổ chức và quản lý sản xuất; và quan hệ giữa người với người trong phân phối kết quả sản xuất. 3. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan 43 hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Nhưng không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi; hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành. Nói một cách vắn tắt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất hiện có hay xác lập quan hệ sản xuất mới đều xuất phát từ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Ví dụ: Chế độ tư hữu dựa trên cơ sở lao động của bản thân người chủ sở hữu tư liệu sản xuất đã có ở trong chế độ nô lệ, chế độ nông nô, nhưng chỉ đạt tới sự thịnh vượng, chỉ bộc lộ hết toàn bộ tinh lực của nó, ở chỗ nào mà người lao động là kẻ tư hữu tự do về những điều kiện lao động do chính mình sử dụng. Nhưng phương thức sản xuất này lại đòi hỏi xé lẻ ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, cho nên nó gạt bỏ sự hợp tác, loại trừ việc ứng dụng những phương pháp cải tiến hiện đại trong nông nghiệp. Người nông dân bị trói chặt vào miếng đất mà họ phải bỏ tất cả tinh lực của mình vào đó để có được một thu nhập nhỏ bé. Vì vậy, nó chỉ thích hợp với những giới hạn tự nhiên chật hẹp của sản xuất và của xã hội. Đến một trình độ nhất định thì phương thức 44 sản xuất này lại đẻ ra những phương tiện vật chất để thủ tiêu bản thân nó. Hoặc là do cạnh tranh dưới tác động của quy luật giá trị sẽ phân hóa thành hai cực, một số ít người phát đạt, tập trung được tư liệu sản xuất vào trong tay, trở thành nhà tư bản, đa số người phá sản thành công nhân làm thuê. Hoặc là công nghiệp phát triển đã hàng ngày hàng giờ xóa bỏ sản xuất nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đòi hỏi một mặt, tách người lao động ra khỏi quyền sở hữu những điều kiện thực hiện lao động, buộc họ phải bán sức lao động, mặt khác, biến tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản. Nhà tư bản nhờ nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất nên có quyền chiếm hữu giá trị thặng dư do công nhân làm thuê tạo ra. Công lao to lớn của chủ nghĩa tư bản là thúc đẩy sức sản xuất của lao động và xã hội hóa lao động. Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Nhưng mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa lại ngày càng gay gắt, dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế. Lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản. Chính sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn nói trên và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới. Lực lượng sản xuất phát triển cao cùng sự không tương xứng giữa sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đều thể hiện ra rõ hơn. Do đó, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa được chuyển thành sở hữu chung của xã hội về tư liệu sản xuất. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen 45 nhận định: Tư bản không phải là một lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội. Cho nên, nếu tư bản biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không phải là một sở hữu cá nhân chuyển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.42. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.474-475, 604, 615-617. 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13, tr.14, 15, 16. 4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.18, tr.84-85. 5. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.19, tr.26-27. 6. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1994, t.20, tr.373, 376, 641. 7. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.23, tr.68-69, 266-267, 603-604, 876-877, 977, 1057. 8. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1994, t.46, p. II, tr.348-384. 46 NHỮNG LÝ LUẬN CỐT LÕI VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT, LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN GS.TS. CHU VĂN CẤP*1 I. NHỮNG NỘI DUNG LÝ LUẬN CỐT LÕI VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN Quan hệ kinh tế - xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất gọi là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: (1) Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất hay còn gọi là quan hệ sở hữu. (2) Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức và quản lý, thích ứng với quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối, lưu thông. (3) Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội hay còn gọi là quan hệ phân phối, lưu thông. Trong ba mặt ấy, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở của hệ thống quan hệ sản xuất của bất cứ xã hội nào; quyết định những đặc trưng quan trọng nhất của quan hệ sản xuất, quyết định địa vị của các giai cấp trong xã hội. * Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 47 Bài viết đi sâu phân tích những nội dung lý luận về sở hữu của C.Mác và Ph.Ăngghen theo ba góc độ: (1) Những giá trị bền vững. (2) Những vấn đề liên quan đến sở hữu thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa xuất hiện. (3) Ý nghĩa của vấn đề đối với Việt Nam hiện nay. 1. Những giá trị bền vững 1.1. Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý chí đối với vật (hay nhóm vật) nào đó Theo C.Mác, phương pháp luận nghiên cứu khái niệm sở hữu phải đi từ việc phân tích nền sản xuất xã hội. Chỉ dựa vào việc nghiên cứu các điều kiện vật chất của đời sống xã hội mới có thể đưa ra được một định nghĩa đúng đắn về sở hữu và vị trí, vai trò của nó trong hệ thống quan hệ xã hội nói chung. Sản xuất xã hội là quá trình tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của con người. Muốn sản xuất ra của cải vật chất, một mặt, buộc con người lao động phải kết hợp với tư liệu sản xuất, gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động; mặt khác, buộc con người phải kết hợp với con người, tức là kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. C.Mác viết “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”1. Trong quá trình này đã xuất hiện những mối quan hệ giữa con người với con người. Theo C.Mác: việc chiếm hữu của 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.6, tr.552. 48 cải vật chất là kết quả của quá trình sản xuất xã hội, trước hết, được thể hiện qua chiếm hữu tư liệu sản xuất. Từ đó, mối quan hệ giữa con người với con người được hình thành do sự chiếm hữu tư liệu sản xuất. Đến lượt mình, mối quan hệ đó được thể hiện dưới hình thức của các quan hệ sở hữu. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác đã chỉ ra rằng: Những hình thức sở hữu là những mối quan hệ nhất định, bản thân vật thể không phải là sở hữu, sở hữu chỉ tồn tại nơi mà con người nằm trong mối quan hệ nhất định với nhau trong quá trình sản xuất và chiếm hữu những vật thể đó. 1.2. Sở hữu giữ vị trí cực kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị Thứ nhất, về mặt kinh tế: Vấn đề sở hữu có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất: sở hữu chính là mối quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan giữa con người với con người trong quá trình lao động sản xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải của xã hội. Nhờ có mối quan hệ khách quan này, con người có thể tiến hành được quá trình sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh thần, và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã hội loài người mới có thể tồn tại và phát triển. “... nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả, do đó, cũng không có một xã hội nào cả”1. Thứ hai, về mặt chính trị: C.Mác cho rằng giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyền quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội; giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1998, t.46, p.I, tr.43. 49 thì giai cấp đó cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác của xã hội, là giai cấp thống trị xã hội. C.Mác viết “... tất cả những cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng đầu tiên đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo hộ sở hữu thuộc một loại nào đó...”1. 1.3. Bản chất và nội dung của quan hệ sở hữu nhìn từ góc độ kinh tế và pháp lý (1) Nội dung kinh tế của sở hữu: là cơ sở và là điều kiện của sản xuất2. Nói đến sở hữu là nói đến quan hệ của các yếu tố sản xuất, đồng thời cũng là nói đến quan hệ chiếm hữu các yếu tố sản xuất và kết quả sản xuất. Vì vậy, nội dung kinh tế của sở hữu là những lợi ích kinh tế mà chủ sở hữu được hưởng. Chính lợi ích và quyền lợi này là động lực thúc đẩy các chủ sở hữu tìm cách gia tăng phạm vi và quy mô sở hữu của mình. Sự thay đổi về phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu của các chủ thể sẽ dẫn đến sự thay đổi tương quan vị trí của các chủ thể trong đời sống kinh tế - xã hội. V.I.Lênin đã viết: Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu. Lợi ích kinh tế mà mỗi người đạt được là tùy thuộc vào địa vị, vị trí của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất. Chính lợi ích và quyền lợi kinh tế này là động lực thúc đẩy các chủ thể luôn tìm cách gia tăng quy mô và phạm vi sở hữu của mình. Hay nói cách khác, sở hữu trở thành phương tiện trọng yếu để đạt tới những mục tiêu về kinh tế của các chủ thể. Vai trò động lực này được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra: lợi ích kinh tế là những động cơ lay chuyển những quần chúng đông đảo, khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người thì chúng lay động “đời sống nhân dân”. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.21, tr.173. 2. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1998, t.46, p.I, tr.42. 50 (2) Nội dung pháp lý của sở hữu: thể hiện những quy định của luật pháp về quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm của chủ sở hữu. Nhà nước quy định các chế độ và các hình thức sở hữu trong luật pháp, nhà nước luôn hướng tới bảo vệ lợi ích về sở hữu của các chủ thể, và tạo điều kiện, kích thích các chủ thể sở hữu phát huy khả năng trong việc phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội trên cơ sở bảo đảm lợi ích hợp lý của các chủ sở hữu. Nhà nước muốn tăng cường sức mạnh kinh tế của mình bằng việc nhà nước chỉ nắm những khâu trọng yếu nhất và sử dụng quyền lực của mình hướng các chủ sở hữu khác phục vụ cho mục tiêu chung của toàn xã hội. Trong các quy định pháp luật đối với các hình thức sở hữu, quy định về quyền sở hữu có vị trí hết sức quan trọng. Nhà nước không chỉ xác định rõ ràng các chế độ sở hữu và các hình thức biểu hiện của chế độ sở hữu, các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, mà còn phải xác định đặc trưng, vị trí của mỗi hình thức sở hữu, mối quan hệ tương hỗ giữa các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức kinh tế để chủ sở hữu thực thi quyền và trách nhiệm của mình, từ đó có các chính sách thích hợp để huy động các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. (3) Sự thống nhất giữa nội dung kinh tế và pháp lý của sở hữu. Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu có quan hệ chặt chẽ với nhau; nội dung kinh tế là hình thái hiện thực của sở hữu; nội dung pháp lý là những quy định luật pháp về quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm của chủ sở hữu. Nội dung kinh tế được bảo đảm bằng hệ thống luật pháp của nhà nước; nội dung pháp lý thể hiện ở việc nhà nước phải xác định rõ phạm vi các chế độ và các hình thức sở hữu, tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và ổn định để huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực bảo đảm lợi ích của chủ sở hữu và góp phần vào lợi ích chung của toàn xã hội. 51 Tóm lại, sở hữu là sự thống nhất hai mặt: sở hữu là một quan hệ kinh tế hiện thực sinh động và sở hữu với tư cách là quan hệ pháp lý của quan hệ sản xuất, sơ cứng và ít thay đổi. 1.4. Sở hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác viết: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt những quan hệ xã hội hoàn toàn khác nhau. Cho nên định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”1. Lịch sử đã biết đến hai loại hình sở hữu: tư hữu và công hữu/công cộng. Đặc trưng của chế độ tư bản chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị; đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở trình độ chín muồi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất giữ vị trí thống trị. 1.5. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xóa bỏ “chế độ tư hữu” vẫn nguyên giá trị và mang tính thời đại Để đi đến luận điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ tự do cạnh tranh. Từ đó chỉ rõ mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó: (1) Xóa bỏ chế độ tư hữu và sự hình thành chế độ sở hữu xã hội (công cộng, công hữu, sở hữu chung) là tất yếu như nhau. (2) Xóa bỏ “chế độ tư hữu tư sản” là xóa bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa của chế độ tư hữu ấy - quá trình xóa bỏ sự đối lập gay gắt giữa 2 cực “tư bản và lao động”. Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.234. 52 Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”1. (3) Mục đích của xóa bỏ “chế độ tư hữu tư bản” là nhằm tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy toàn bộ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn, bảo đảm việc cung cấp đầy đủ sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Xóa bỏ “chế độ tư hữu tư bản” là một quá trình lâu dài không thể nóng vội... Ph.Ăngghen cho rằng, chế độ tư hữu cũng phải được thủ tiêu và phải được thay thế bằng chế độ cộng đồng về tài sản. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Thủ tiêu chế độ tư hữu là nói một cách vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội; việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển của công nghiệp”2. Và “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa. Bản thân chế độ tư hữu cũng đã ra đời như vậy”3. C.Mác khẳng định, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ công hữu công cộng là một quá trình lâu dài phải dựa trên những điều kiện hiện thực và kết quả của hoạt động hiện thực trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan. C.Mác viết: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa 1, 2, 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.618, 467, 467. 53 chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”1. Điều kiện vật chất đó trong thời đại của C.Mác chính là sự phát triển của công nghiệp bởi cách mạng công nghiệp ở một loạt nước Tây Âu vào những năm 70 của thế kỷ XVIII và kết thúc vào những năm 20 của thế kỷ XIX. * Tác động của xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản: Thứ nhất, thủ tiêu chế độ tư hữu và xây dựng xã hội mới là tiền đề cho sự phát triển toàn diện con người. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản viết: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”2. Đây chính là luận điểm gắn kết phát triển con người với tiến bộ xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rằng: “... việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới và sẽ tạo nên những con người mới đó” và nền công nghiệp do toàn xã hội thực hiện một cách có kế hoạch lại càng cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện đủ sức vận hành toàn bộ hệ thống sản xuất. Xã hội cộng sản chủ nghĩa không chỉ có lực lượng sản xuất phát triển cao, không chỉ là xã hội có của cải vật chất phong phú, dồi dào, mà ở đó tất thảy mọi người đều được tạo cơ hội và điều kiện để phát triển toàn diện về tất cả các mặt. Sự phát triển toàn diện của con người là một quá trình tiến bộ không ngừng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao nhất định, khi mà không còn tình trạng người bóc lột người, giai cấp 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13, tr.15-16. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.628. 54 này bóc lột giai cấp khác, thì khi đó con người thực sự phát triển toàn diện. Thứ hai, xóa bỏ chế độ tư hữu nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội và tăng năng suất lao động xã hội tạo ra nhiều của cải cho xã hội vẫn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, việc xóa bỏ chế độ tư hữu sẽ tạo ra các điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động. Đó là: - Xóa bỏ chế độ tư hữu và hình thành xã hội mới sẽ tiêu diệt cạnh tranh của những cá nhân riêng lẻ với nhau và thay vào đó là sự hợp tác của những người lao động. - Thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thay thế nó bằng việc sử dụng chung tất cả mọi công cụ sản xuất và việc phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận chung, tức là bằng cái mà người ta gọi là sự cộng đồng về tài sản. - Xóa bỏ chế độ tư hữu cũng có nghĩa thủ tiêu sự xung đột của lực lượng sản xuất và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên đã giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất,... làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên. Những ý tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen ngày nay vẫn không hề giảm giá trị, trái lại còn được vận dụng và phát triển trong thời đại ngày nay. 2. Những vấn đề liên quan đến sở hữu thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa xuất hiện 2.1. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có những điều chỉnh lớn về quan hệ sản xuất, quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nhằm thích ứng với điều kiện phát triển mới. Đó là: Về quan hệ sở hữu, hình thức sở hữu hỗn hợp được hình thành từ sự liên kết các chủ sở hữu tư nhân riêng lẻ dưới những hình 55 thức khác nhau, chủ yếu là các công ty cổ phần, trở thành xu hướng được phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đồng thời, “việc hữu sản hóa người lao động” cũng trở nên ngày càng mạnh mẽ. Với các hình thức này, các doanh nghiệp tư bản vừa huy động thêm vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, vừa làm dịu bớt những mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn chủ - thợ trong một doanh nghiệp. Về quan hệ tổ chức quản lý, các nhà tư bản đi đầu trong việc đổi mới tổ chức quản lý quá trình sản xuất với việc ứng dụng các phương pháp quản lý, quản trị hiện đại, nhằm tăng năng suất lao động, giảm chi phí kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Về quan hệ phân phối, các chế độ phúc lợi xã hội được cả nhà tư bản - chủ sở hữu và nhà nước tư bản quan tâm hơn nhằm tạo ra sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp và giảm những bất bình xã hội. Trong những năm gần đây, người ta đề cập nhiều đến “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” (Corporate Social Responsability - CSR). Theo đó, chủ sở hữu không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn có trách nhiệm phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái nữa. Không những thế, trong chủ nghĩa tư bản ngày nay đã xuất hiện “doanh nghiệp xã hội”, tức là một tổ chức có các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện các mục tiêu mang tính xã hội, lợi nhuận thu được được sử dụng để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hay chủ sở hữu và tồn tại nhiều doanh nhân cộng đồng - doanh nhân nhưng không bó gọn trong sản xuất kinh doanh mà hướng tới lợi ích cộng đồng. 56 2.2. Chủ nghĩa tư bản ngày nay, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động..., đã xuất hiện thêm các hình thức sở hữu mới. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bên cạnh sở hữu của nhà tư bản và sở hữu độc quyền tư bản còn có sự tồn tại của sở hữu doanh nghiệp nhà nước hay sở hữu tư bản độc quyền nhà nước, bằng nhiều con đường khác nhau như thông qua quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư bản đang trên đường phá sản, đầu tư xây dựng mới bằng vốn nhà nước tư sản và liên kết với các chủ doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp nhà nước. Hình thức sở hữu các doanh nghiệp nhà nước ở các nước tư bản phát triển phát triển mạnh vào những năm 70 của thế kỷ XX. Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước là hình thức sở hữu dựa trên sự liên minh kinh tế giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền, vừa bảo vệ cho lợi ích của các tổ chức độc quyền, vừa phục vụ cho nhà nước tư sản. Như vậy, sở hữu các doanh nghiệp tư bản độc quyền nhà nước là sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước với các tổ chức độc quyền; là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền. 2.3. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, song song với việc phát triển tổ chức kinh tế đơn sở hữu tư nhân, cũng đã hình thành các tổ chức kinh tế đa sở hữu, trên cơ sở sự liên kết, liên doanh các chủ sở hữu tư nhân hay chủ sở hữu tư nhân ủy quyền cho người khác thực hiện quyền sử dụng các đối tượng sở hữu của họ, dưới các hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận (tham gia vào các công ty trách nhiệm hữu hạn, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần...). Chủ sở hữu được hưởng lợi và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ quy mô tài sản và vốn mà họ sở hữu trong hình thức tổ chức tương ứng. 2.4. Xuất hiện sở hữu trí tuệ. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, đã làm xuất hiện nền 57 kinh tế tri thức. Tri thức/trí tuệ đã trở thành một trong các yếu tố quyết định của sản xuất hiện đại và là một đối tượng quan trọng của sở hữu. Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ - những kết quả từ hoạt động tư duy, sáng tạo của con người. Đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi vật chất, nhưng có giá trị vật chất, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại; bao gồm: (1) quyền tác giả của các tác phẩm văn học, nghệ thuật...; (2) sáng chế, giải pháp hữu ích; (3) bí mật kinh doanh; (4) kiểu dáng công nghiệp; (5) nhãn hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ; (6) chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng hóa; (7) tên thương mại; (8) giống cây trồng mới; (9) thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; (10) quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. 2.5. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần - loại hình doanh nghiệp đa sở hữu - so với thời của C.Mác. Trong Bộ Tư bản, việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản, C.Mác gọi đây là sự phủ định cái phủ định. Bởi sở hữu tư sản đã phủ định sở hữu nhỏ, cá thể..., nay sở hữu tư sản lại bị sở hữu công cộng/ công hữu phủ định nó. “Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra”1. C.Mác cũng đề cập đến các hình thức quá độ trong quá trình thực hiện “sự phủ định cái phủ định” là các hợp tác xã lao động, cũng như các công ty cổ phần - loại hình doanh nghiệp đa sở hữu. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.23, tr.1059-1060. 58 Ph.Ăngghen đã từng đề cập đến công ty cổ phần của nhà tư bản tập thể và công ty cổ phần trực tiếp mang hình thức xã hội, đối lập với tư bản tư nhân. Ph.Ăngghen cũng cho rằng “... xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể...”1. Ở đây, Ph.Ăngghen không gọi là “phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa”, bởi lẽ, trong thời kỳ đó ở Anh, Mỹ và nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành nhiều doanh nghiệp tập thể của những người lao động. Hiện nay ở Mỹ, công ty cổ phần chiếm đến 90% tổng số các loại hình doanh nghiệp, ở Nhật Bản đến 99%... 3. Ý nghĩa của vấn đề đối với Việt Nam hiện nay 3.1. Về bài học kinh nghiệm vận dụng “không mấy thành công” quan điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác và Ph.Ăngghen Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam, đã coi chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cái đối lập với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, là yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ là yếu tố “hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” và “vin” vào quan điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nên nhà nước đã thực hiện áp đặt nhiều biện pháp hành chính trong cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nhưng trong điều kiện khắc nghiệt đó, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và khu vực kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và phát triển dưới những hình thức và mức độ khác nhau: một bộ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1994, t.25, p.I, tr.673. 59 phận nhỏ tồn tại trong khung khổ pháp luật của nhà nước; một bộ phận tồn tại dưới dạng “kinh tế ngầm” nằm ngoài sự kiểm soát và thống kê của nhà nước. Việc không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân và khu vực kinh tế tư nhân đã làm mất đi động lực phát triển của nền kinh tế và là một trong các nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. 3.2. Từ “xóa bỏ chế độ tư hữu” đến việc thừa nhận đa sở hữu và nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân Trên cơ sở nhận thức rõ hơn quan điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác và Ph.Ăngghen và trên cơ sở nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần và đa dạng hóa các hình thức tổ chức kinh doanh được khẳng định một cách nhất quán từ Đại hội VI đến Đại hội XII của Đảng; trong đó, điểm nổi bật của đổi mới tư duy và hành động trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là: Sự thừa nhận, phát triển sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Từ chỗ coi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế tư nhân là bộ phận kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và phải đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng thu hẹp và xóa bỏ đã đi đến khẳng định, thừa nhận sự tồn tại và bảo hộ sở hữu tư nhân hợp pháp, coi kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, được phép phát triển trong các ngành, nghề, lĩnh vực nhà nước không cấm, “Kinh tế tư nhân là một 60 trong những động lực của nền kinh tế”1. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, lĩnh vực pháp luật không cấm... coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế hoàn toàn không ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ: thực hiện mục tiêu cao đẹp ấy là một quá trình lâu dài với nhiều chặng đường và nhiều trình độ phát triển khác nhau từ thấp đến cao. Trong mỗi chặng đường ấy, điều quan trọng là huy động sự nỗ lực của toàn xã hội giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội. Hơn nữa, sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp tư nhân không tồn tại một cách biệt lập, mà tồn tại và phát triển trong mối quan hệ tương tác với các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác. Tất cả chúng tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của sự quản lý, điều tiết của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước là yếu tố trực tiếp chi phối chiều hướng phát triển của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3.3. Hoàn thiện thể chế liên quan đến hoàn thiện quan hệ sản xuất, bao gồm: (1) Thể chế hóa quyền tài sản: xác lập đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền hưởng lợi từ việc sử dụng các tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cộng đồng dân cư, doanh nghiệp; thực hiện quyền tài sản; bảo vệ quyền tài sản. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.74. 61 (2) Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ: - Thực hiện tốt Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009). - Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là nhà nước và chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sử dụng các phương thức pháp lý để bảo đảm quyền sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ của mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên quyền sở hữu các đối tượng này. Quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự hoặc hình sự. (3) Hoàn thiện thể chế về doanh nghiệp nhà nước. II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Những luận điểm cơ bản về lực lượng sản xuất của C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời đại Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất, kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố ấy là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất xã hội, con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được khái quát thành lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội bảo đảm nhu cầu của con người. - Trong lực lượng sản xuất, con người - người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng con người không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, trong thời kỳ công trường thủ công, trong các khía cạnh của con người thì khía cạnh sức lực cơ bắp có vẻ nổi trội; trong thời kỳ đại công nghiệp cơ khí thì khía cạnh năng lực, 62 kỹ năng, kinh nghiệm lao động lại nổi trội hơn; trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay thì khía cạnh tri thức lại nổi trội. - Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất (đối tượng lao động và tư liệu lao động). Nếu trong lực lượng sản xuất con người là yếu tố quan trọng nhất, thì tư liệu lao động là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển của tư liệu lao động/công cụ lao động thể hiện trình độ hay thước đo trình độ chinh phục thiên nhiên của con người. Sự thay đổi một cách căn bản tư liệu lao động/công cụ lao động, theo nghĩa nào đó, đã góp phần quyết định kéo theo sự thay đổi các thời đại kinh tế. C.Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những là cái thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành”1. C.Mác viết: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”2. Trong lịch sử, công cụ lao động đã trải qua ba trình độ: thủ công, cơ khí hóa và tự động hóa. Cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay, không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động hóa. - Khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực lượng sản xuất; là cái cốt lõi, yếu tố quyết định trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình... Vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua..., không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.23, tr.269-270. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.187. 63 lực lượng sản xuất do những thế hệ trước đây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới (xem Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp ngày 28/12/1846). Vậy có thể hiểu lực lượng sản xuất là có tính kế thừa và phát triển. Trong ba yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì người lao động là yếu tố quyết định nhất, quan trọng nhất bởi con người lao động chế tạo ra tư liệu lao động, và một phần đối tượng lao động, đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trò của tư liệu lao động, công cụ lao động; và, khoa học kỹ thuật là yếu tố cốt lõi và quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ sự tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. 2. Sự phát triển mới của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay (thời đại C.Mác chưa có như hiện nay) Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử phát triển các hình thái kinh tế - xã hội, mà thước đo là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thường xuyên vận động và phát triển. Ngày nay, do sự tác động của khoa học và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển với những diện mạo mới. Do đó, quan niệm về lực lượng sản xuất cũng có nhiều thay đổi. 2.1. Ngày nay, những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ hiện đại là nhân tố quyết định tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại - C.Mác đã khẳng định: Khi khoa học phát triển đến một mức độ nhất định nào đó sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 64 C.Mác đã tiên đoán: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (Wissen, knowlegde) đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”1. - Khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo nghĩa: (i) là nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất, ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất và trở thành nhân tố không thể thiếu của quá trình sản xuất; (ii) thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất; làm cho quá trình sản xuất chính là quá trình ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ thuật; (iii) có ý nghĩa sống còn đối với quá trình sản xuất. Theo nghĩa nào đó, khoa học kỹ thuật - công nghệ luôn là nhân tố quan trọng mang tính quyết định trong phát triển xã hội ở mọi thời đại, đặc biệt trong giai đoạn phát triển hiện nay. Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ là tiêu chí để phân biệt thời đại phát triển trong lịch sử và tiến bộ xã hội của loài người. Nhưng như chúng ta đã biết; dù có trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học kỹ thuật - công nghệ cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định vẫn là con người, mặc dù khoa học kỹ thuật - công nghệ nâng cao địa vị, vị thế và sức mạnh của con người. Song, khoa học kỹ thuật phát triển, tác động phải thông qua con người và bị chi phối bởi con người. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 2000, t.46, p.II, tr.372. 65 2.2. Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại Với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất hiện đại, con người lao động là những người có sức mạnh cơ bắp và trí tuệ, có năng lực thích ứng với mọi biện pháp của đời sống kinh tế - xã hội. Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại là những người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất bằng việc chế tạo và sử dụng những tư liệu sản xuất hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm có năng suất cao, hiệu quả lớn, giá trị gia tăng lớn... Trước đây, nói đến người lao động là chỉ nói tới những người tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất, ngày nay, do khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, con người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất đang có xu hướng giảm, con người lao động đứng ngoài quá trình sản xuất, điều khiển quá trình sản xuất thì đang có xu hướng tăng lên, hay nói cách khác, công nhân áo xanh giảm, công nhân áo trắng thì tăng lên. Điều này được C.Mác dự báo khi phân tích quá trình phát triển của nền đại công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển: “... toàn bộ quá trình sản xuất thì biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong lĩnh vực công nghệ”1, “... do đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân... Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một lao động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất”2 và “Thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy”3. 1, 2, 3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 2000, t.46, p.II, tr.357- 358, 368-369, 370. 66 2.3. Nhân tố tư liệu sản xuất trong lực lượng sản xuất hiện đại Về tư liệu lao động/công cụ lao động: lịch sử trình độ của công cụ lao động nhìn chung trải qua ba giai đoạn chủ yếu: thủ công, cơ khí hóa và tự động hóa. Cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay, chạy bằng sức gió, mà là tự động hóa. Ngày nay, đối tượng lao động cũng khác trước rất xa. Trong nền văn minh nông nghiệp, đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất. Trong nền văn minh công nghiệp thì đối tượng lao động là ruộng đất, các nguồn nguyên liệu cần thiết cho sản xuất công nghiệp là than đá, dầu khí,... Trong thời đại kinh tế tri thức thì đối tượng lao động được mở rộng, ngoài các nguyên liệu, đối tượng lao động của nền công nghiệp còn có công nghệ thông tin... Tư liệu sản xuất - bộ phận của lực lượng sản xuất hiện đại - còn bao gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của sản xuất: kết cấu hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc... 2.4. Đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại - Ngày nay, tri thức khoa học mang tính toàn cầu nên lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên tri thức khoa học cũng mang tính toàn cầu. Lực lượng sản xuất ngày nay càng được xã hội hóa cao và quốc tế hóa. Toàn cầu hóa kinh tế trước hết là toàn cầu hóa lực lượng sản xuất. - Lực lượng sản xuất hiện đại tạo nên mối liên hệ bền vững giữa con người với tự nhiên. Trong mỗi đơn vị sản phẩm hiện nay, hàm lượng tri thức tăng lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng giảm đi, do đó tác động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu. Việc sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản xuất giảm mạnh, làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hơn nữa còn tiến tới tái chế chất thải, hướng tới nền kinh tế ít phát thải và chất thải. 67 Tóm lại, có thể hiểu lực lượng sản xuất hiện đại chính là lực lượng sản xuất dựa trên hệ thống công nghệ mới được đặc trưng bởi năng suất rất cao, hiệu quả lớn, ngày càng ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, tiêu hao ngày càng ít năng lượng và nguyên liệu cho một sản phẩm, tỷ lệ ngày càng cao. Người lao động là người công nhân trí thức: có sức khỏe sung mãn, trí tuệ cao, năng lực hành động tốt... III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT: NHỮNG GIÁ TRỊ BỀN VỮNG VÀ SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN MỚI CỦA ĐẢNG TA 1. Những luận điểm còn nguyên giá trị và sự phát triển mới 1.1. Những luận điểm còn nguyên giá trị (1) Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất - Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa hai hệ thống con, thể hiện ở chỗ: lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, lực lượng sản xuất thay đổi thì sớm hay muộn cũng kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa”1. (2) Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định bước chuyển khách quan, tự nhiên từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác C.Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để phân tích xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, tìm ra quy luật về sự phát triển của xã hội loài người. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.467. 68 C.Mác khẳng định, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định bước chuyển khách quan và tự nhiên từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Tất cả mọi xung đột trong lịch sử, suy đến cùng đều có gốc rễ từ mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội. C.Mác đã phát hiện ra quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ nhất định thì mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ đã lạc hậu và trở thành lực cản sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển là yêu cầu khách quan. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất, tức là trong đó các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất tạo ra địa bàn đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo điều kiện tối ưu cho việc kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó. Nhưng mặt khác, lực lượng sản xuất là luôn luôn biến đổi, bởi vậy đến một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển ở một trình độ mới cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Điều này ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi xã hội bằng cách này hay cách khác phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển - điều đó cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. 69 1.2. Sự phát triển mới của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển giao thoa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã không chỉ đem lại sự phồn vinh về vật chất cho con người, mà điều quan trọng hơn là đã làm thay đổi cả phương thức sản xuất, phương thức quản lý đời sống xã hội của con người, dẫn đến những thay đổi lớn lao của kinh tế, xã hội, văn hóa... trong nhiều thập kỷ qua. Chẳng hạn: không còn sự phân định rạch ròi ranh giới của một số yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất do sự phát triển có tính chất giao thoa giữa chúng, cụ thể: (1) tổ chức quá trình sản xuất không thuần túy chỉ là một bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất mà còn là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất, nó là chất kết dính giữa các yếu tố vật chất và con người trong lực lượng sản xuất, chi phối trực tiếp tính hiệu quả của quá trình sản xuất; (2) khoa học và công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Con người dẫu vẫn là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của quá trình sản xuất, nhưng lao động quản lý, chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vi mô ngày càng giữ vị trí quan trọng hơn so với lao động trực tiếp sản xuất. 2. Sự vận dụng và phát triển nhận thức về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam 2.1. Sự vận dụng ở Việt Nam trước đổi mới Nhận thức không đúng và thiếu tôn trọng quy luật kinh tế khách quan thể hiện rất rõ ở sự sai lầm của việc áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp mà biểu hiện của nó là phủ định đa sở hữu, đa thành phần kinh tế và khẳng định sự độc quyền của sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trong 10 năm đầu xây dựng kinh 70 tế trên phạm vi cả nước cho thấy rõ điều đó. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã vi phạm những quy luật kinh tế khách quan: (1) Vi phạm quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hay nói cách khác, lực lượng sản xuất quyết định tính tương thích đối với quan hệ sản xuất. Thế nhưng, lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp lại cho rằng quan hệ sản xuất có thể đi trước một bước lực lượng sản xuất để hướng dẫn và mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất. Chính vì lẽ đó mà chúng ta chủ trương xóa bỏ nhanh chóng sở hữu phi xã hội chủ nghĩa (sở hữu tư nhân) để nhanh chóng xây dựng chế độ công hữu, xác lập vị thế độc quyền của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đây là một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất trong tư duy lý luận và thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Từ đó dẫn đến những sai lầm trong đường lối kinh tế trong nhiều năm qua. (2) Vi phạm các quy luật của kinh tế thị trường: quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh... Thực chất, đây là hậu quả của việc nhận thức và vận dụng sai lầm quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng từ đây đã hình thành nên cơ chế độc quyền phân phối sản phẩm và độc quyền của Nhà nước về giá cả, làm cho nền kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp, triệt tiêu mọi động lực cạnh tranh, phát huy các năng lực sẵn có và tiềm năng phát triển trong xã hội. Duy trì quá lâu cơ chế này cũng là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng toàn diện kinh tế - xã hội sau 10 năm cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. 71 2.2. Tư duy mới về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần Thứ nhất, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) xác định rõ quan điểm từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, coi đây là sự vận động của quy luật khách quan. Đại hội VI cũng khẳng định sự tồn tại và phát triển tất yếu nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm phát huy tiềm năng và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, giải phóng lực lượng sản xuất. Cũng từ đây, tư duy về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng thay đổi căn bản, quan niệm về “hoàn thành cuộc cách mạng quan hệ sản xuất” và giải quyết vấn đề “ai thắng ai” trong tư duy cũ về thời kỳ quá độ đã bị xóa bỏ hoàn toàn”. Thứ hai, “giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có” mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” là ý tưởng quan trọng trong việc sửa chữa sai lầm vi phạm quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Ở Việt Nam, sự đột phá về kinh tế, “giải phóng lực lượng sản xuất” mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979), trong Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư, trong các Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ năm 1981 là tiền đề tạo động lực cho sản xuất phát triển và là những cơ sở đầu tiên cho sự đổi mới mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế hàng hóa. Đại hội VI của Đảng xác định cần phải thực sự tôn trọng các thành phần kinh tế cùng tồn tại; tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có thể đóng góp tốt nhất cho sự phát triển của sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “... sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ... theo 72 nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động... Các chính sách kinh tế phải nhằm khai thác nhanh và có hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của nền kinh tế... Những lực lượng sản xuất ấy đang bị kìm hãm vì những sai lầm, thiếu sót trong việc... tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý. Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có...”1. Thứ ba, sự phát triển mới trong nhận thức về quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật sự phù hợp giữa quan hệ giữa sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khi mà lực lượng sản xuất phát triển cao, quan hệ sản xuất lạc hậu thì gây cản trở, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ở nước ta, trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước nghèo nàn, kém phát triển, nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”2. 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.377-380, 390. 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên): Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011. 2. GS.TS. Lê Hữu Nghĩa: “Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 8/2014. 3. “Phát triển lực lượng ở Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, số tháng 01/2018. 4. GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu: “Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30/9/2015. 5. ThS. Lê Thị Chiên: “Về lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng 02/2016. 6. Phạm Thị Ngọc Trâm: “Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 8 (207), tháng 8/2018. 7. Đề tài khoa học mã số: KX.01.12/11-15, Báo cáo tổng hợp đề tài: Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới, do GS.TS. Lương Xuân Quỳ làm chủ nhiệm, Trường Đại học Kinh tế quốc dân là cơ quan chủ trì, Hà Nội, 2015, tr.77-85. 8. “Lý luận sản xuất và quan hệ sản xuất nhìn từ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Tài chính, số tháng 9/2014 (theo lyluanchinhtri.vn). 74 NỘI DUNG LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT GS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG*1 1. Về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo tinh thần chủ nghĩa C.Mác Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác chỉ ra rằng, mỗi một xã hội cụ thể trong một giai đoạn lịch sử cụ thể luôn có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên các quan hệ sản xuất ấy. Lực lượng sản xuất theo quy luật khách quan tự thân luôn vận động phát triển và đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn này được giải quyết sẽ làm cho phương thức sản xuất mới ra đời, kéo theo nó là toàn bộ kiến trúc thượng tầng thay đổi. Nghĩa là một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới được ra đời từ trong lòng xã hội cũ, hình thái kinh tế - xã hội cũ. Quá trình này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết * Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 75 là công cụ lao động, để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong lực lượng sản xuất thì người lao động là quan trọng nhất. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ phục vụ tự nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động. Phương tiện sản xuất (đường sá, cầu cống, xe cộ, bến cảng, hệ thống kho chứa...) là yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng nhất, là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, là nhân tố xét đến cùng quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là bộ khung, bộ xương của hình thái kinh tế - xã hội, là cơ sở để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, bao gồm quan hệ về sở hữu với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi lao động với nhau; quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quy định các quan hệ khác. Tổng hợp các quan hệ sản xuất sẽ hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội và là cơ sở hạ tầng của xã hội ấy. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trước đây, đã có lúc chúng ta tuyệt đối hóa quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, chưa đánh giá đúng vai trò của quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. C.Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, phần Lời tựa đã viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, 76 những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”1. Quá trình này diễn ra một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người và loài người. Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ph.Ăngghen viết: “... người ta thấy rằng toàn bộ lịch sử đã qua, trừ trạng thái nguyên thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai cấp; rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy; do đó cơ cấu kinh tế của xã hội luôn luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13. tr.14-15. 77 phải dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền và chế độ chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định”1. 2. Nhận thức lý luận và vận dụng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu Một là, trước đây ở Liên Xô và Đông Âu thường quan niệm xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được hình thành thông qua cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, mà cụ thể là thay đổi một cách triệt để sở hữu tư nhân bằng sở hữu công hữu dưới hai hình thức là toàn dân và tập thể. Đây là lối tư duy nóng vội, chủ quan để nhanh chóng xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin từng cảnh báo: “Muốn hoàn thành công việc đó, phải thực hiện một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, phải chiến thắng sự phản kháng (thường là tiêu cực, đặc biệt dai dẳng và đặc biệt khó khắc phục) của nhiều tàn dư của sản xuất nhỏ, phải chiến thắng sức mạnh to lớn của tập quán và thói quen thủ cựu gắn liền với những tàn dư đó”2. Tuy nhiên, mãi đến Chính sách kinh tế mới - NEP (từ tháng 3/1921 với Đại hội X của Đảng Cộng sản Liên Xô đến tháng 12/1927 với Đại hội XV), tư duy nóng vội, chủ quan mới được điều chỉnh: chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần trong thương nghiệp và công nghiệp, phát triển nông nghiệp trên cơ sở thỏa hiệp với nông dân và thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực để đảm bảo lợi ích của nông dân trên mảnh đất của họ. Chấp nhận quan 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.19, tr.303. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, 1977, t.39, tr.18. 78