🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Lối Quân Sự Của Đảng - Lịch Sử Hình Thành, Phát Triển Và Nội Dung Cơ Bản
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. CAO THỊ LAN ANH TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ ĐẶNG THU CHỈNH
LÂM THỊ HƯƠNG
ThS. TRẦN MINH NGỌC NGUYỄN HẢI ĐĂNG
BÙI BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/9-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5360-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã ISBN: 978-604-57-6104-5.
L
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
ịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong suốt hàng nghìn năm, ông cha ta đã phải liên tục đối
phó với các thế lực ngoại xâm, bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Quá trình đó không những đã hun đúc nên truyền thống bất khuất, hào hùng mà còn để lại những kinh nghiệm, bài học quý báu trong nghệ thuật chiến tranh, nghệ thuật quân sự, đó là khả năng lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, tận dụng được những điều kiện cơ bản, những thế mạnh về lịch sử - tự nhiên và chính trị - xã hội, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để có thể đánh thắng cả những đế quốc hùng mạnh nhất.
Kế thừa những giá trị cốt lõi trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự của các thế hệ đi trước, trong mỗi thời kỳ cách mạng, phụ thuộc vào tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, minh chứng bằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể từ khi có Đảng, đặc biệt là trong 30 năm chiến tranh cách mạng 1945 - 1975.
Đường lối quân sự là một bộ phận hữu cơ, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng. Nếu như trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta xác định quân sự là cốt lõi, nổi bật và có tính quyết định đến thắng lợi thì trong thời kỳ hòa bình, xây dựng, mặt quốc phòng lại là chủ yếu, còn mặt quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
6 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Nghiên cứu đường lối quân sự của Đảng góp phần hoàn thiện lý luận chiến lược quốc phòng trên cơ sở phù hợp với thực tiễn và sự chuyển biến của tình hình trong nước, quốc tế nhằm phát huy tối đa sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, đủ sức bảo vệ Nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Để góp phần làm rõ cơ sở, quá trình hình thành và phát triển đường lối quân sự của Đảng cũng như phương thức, chiến lược xây dựng, tổ chức lực lượng, căn cứ địa, hậu phương, cách thức tiến hành chiến tranh nhân dân,... Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Đường lối quân sự của Đảng - Lịch sử hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của PGS.TS. Vũ Quang Hiển.
Cuốn sách cung cấp một góc nhìn toàn diện về đường lối quân sự Việt Nam với những chiến lược, sách lược, chiến thuật thể hiện qua mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của lĩnh vực quân sự, quốc phòng phù hợp thực tiễn yêu cầu cách mạng qua các thời kỳ, đồng thời góp phần gợi mở những đề xuất nhằm tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, đủ sức đáp ứng mọi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước sự biến chuyển của tình hình, là tài liệu bổ ích đối với việc nghiên cứu chiến lược quốc phòng trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng đông đảo bạn đọc và rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các chuyên gia quân sự, các nhà nghiên cứu để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Tháng 12 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Đ
7
LỜI NÓI ĐẦU
ường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam là những chuẩn tắc cơ bản về phương hướng, nhiệm
vụ, phương châm, lực lượng, phương thức tổ chức thực tiễn về quân sự do Đảng vạch ra nhằm thực hiện những mục tiêu quân sự cụ thể trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, đường lối quân sự của Đảng là phương hướng chính trị và hệ thống các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo và chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng, xây dựng và củng cố quốc phòng nhằm giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam có nội dung rất rộng lớn, bao gồm toàn bộ các vấn đề về xác định mục đích chính trị, tính chất, đặc điểm của khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và củng cố quốc phòng; về đối tượng tác chiến chiến lược, nhiệm vụ quân sự của Nhà nước và của lực lượng vũ trang; về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ hậu phương, xây dựng nền quốc phòng; về phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự... được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời. Đường lối quân sự là một
8 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
bộ phận của đường lối chính trị (đường lối cách mạng) và phục tùng đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng1.
Đường lối quân sự của Đảng là sự phát triển lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; kế thừa và phát triển lên trình độ mới truyền thống “cả nước chung sức đánh giặc” trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa quân sự thế giới; kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn của Đảng và Nhân dân Việt Nam trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Đó là một bước phát triển cao về chất trong tri thức quân sự Việt Nam.
Đường lối quân sự của Đảng hình thành và phát triển gắn liền với sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, xây dựng khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới; nhà chiến lược thiên tài, nhà quân sự kiệt xuất, người cha thân yêu của lực lượng vũ trang. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh “là lý luận quân sự hiện đại của dân tộc Việt Nam, lý luận quân sự của thời đại giai cấp công nhân Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, được diễn đạt bằng ngôn ngữ dân tộc, khoa học và đại chúng, rất dễ hiểu đối với quần chúng
____________
1. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 302.
LỜI NÓI ĐẦU 9
nhân dân”1. “Đó là tư tưởng quân sự Việt Nam, là học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh”2. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vừa có tính chất dân tộc, vừa có ý nghĩa thời đại rất sâu sắc. Thiên tài quân sự Hồ Chí Minh được đề cập trong nhiều công trình khác nhau của các nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gớt Hôn khẳng định: “Người là một lãnh tụ chính trị nhưng Người cũng là một lãnh tụ xuất sắc về quân sự”4.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đường lối quân sự của Đảng, nhất là các công trình của các tướng lĩnh, cơ quan và nhà khoa học của Bộ Quốc phòng. Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố, đặc biệt là những luận văn quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn sách này, tác giả chọn lọc và giới thiệu một số vấn đề trong đường lối quân sự của Đảng, chủ yếu nhằm phục vụ việc học tập của sinh viên.
____________
1. Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983, tr. 173.
2. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 224. 3. Nghị quyết của UNESCO, Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 5.
4. Báo Nhân dân, ngày 17/9/1969.
10 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật của lịch sử dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc là quy luật của đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Từ khi trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ, tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là những cuộc chiến tranh khu vực vẫn diễn ra khá thường xuyên, cuộc đấu tranh vì chủ quyền biển, đảo của Việt Nam ngày càng gay gắt và có những diễn biến phức tạp, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã và đang đứng trước những thử thách mới. Để sự nghiệp đổi mới thành công, sự nghiệp kiến quốc thắng lợi, thì trước hết phải giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đường lối quân sự của Đảng không chỉ là ngọn cờ dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân chống các thế lực xâm lược trước đây, mà còn là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Bởi thế, việc nghiên cứu, học tập đường lối quân sự của Đảng nói chung, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh nói riêng vẫn luôn là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn vô cùng to lớn.
Xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất bản cuốn sách này. Chúng tôi mong nhận được sự trao đổi, góp ý của các đồng nghiệp, các nhà khoa học và bạn đọc.
Hà Nội, mùa Thu 2019
TÁC GIẢ
Phần thứ nhất
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG
12 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
13
Chương I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đ
ường lối quân sự của Đảng có cơ sở thực tiễn và lý luận rất phong phú. Đó là truyền thống quân sự của
dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và tinh hoa quân sự thế giới. Đường lối quân sự của Đảng luôn được bổ sung và làm phong phú thêm bằng những kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và củng cố quốc phòng của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
I- TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG TRƯỜNG KỲ LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM
Đường lối quân sự của Đảng trực tiếp kế thừa và phát triển lên một trình độ mới, chất lượng mới những truyền thống quân sự lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước, truyền thống quân sự Việt Nam hình thành và phát triển qua mấy
14 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
ngàn năm mà hơn một nửa thời gian đó phải dành cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Do hoàn cảnh thường xuyên có giặc ngoại xâm, các cộng đồng dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, nhất là quốc gia Đại Việt thường xuyên phải tiến hành các cuộc kháng chiến chống xâm lược với những hình thức khác nhau, khi thì tiến hành khởi nghĩa, khi thì tiến hành chiến tranh, bao gồm cả chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước; có khi từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc. “Lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh không ngừng. Dân tộc ta sống còn và phát triển được trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, chính là vì dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Chúng ta đã chiến đấu thắng lợi chống nhiều đạo quân xâm lược, chúng ta đã khắc phục được hoàn cảnh thiên nhiên để tồn tại”1. Truyền thống và di sản quân sự dân tộc là cơ sở thực tiễn hết sức phong phú cho sự hình thành và phát triển đường lối quân sự Việt Nam hiện đại, nổi bật nhất là một số điểm sau đây:
1. Truyền thống yêu nước nồng nàn, anh dũng chống ngoại xâm, tự lực tự cường, quyết chiến quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược
Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, trên các đường giao thông từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, “như một căn cứ xuất phát từ đất liền tiến ra biển cả, một đầu cầu từ biển cả vào đất liền”, vì thế những lực lượng xâm lược lớn mạnh luôn
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 709.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 15
nhòm ngó, muốn xâm chiếm nước Việt Nam, hòng bóc lột và nô dịch Nhân dân Việt Nam, lấy Việt Nam “làm bàn đạp để bành trướng thế lực của chúng về các hướng”. Chính vì vậy, trong suốt tiến trình lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải “luôn luôn đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược và liên tiếp tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để giữ gìn độc lập dân tộc, không ngừng nổi dậy khởi nghĩa và tiến hành chiến tranh giải phóng để giành lại độc lập dân tộc”. Tình cảm và ý thức dân tộc, tinh thần làm chủ đất nước, ý chí đấu tranh kiên cường và bất khuất để giữ lấy và giành lại độc lập dân tộc của Nhân dân Việt Nam ngày càng phát triển qua các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh đó. Dân tộc Việt Nam “đã dần dần xây dựng nên và phát huy mạnh mẽ một truyền thống vô cùng quý báu: truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm rất oanh liệt vì độc lập tự do”1.
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”2.
Trải qua nhiều thế hệ, những cộng đồng tộc người trên dải đất Việt Nam đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống ngoại xâm, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ để bảo vệ quyền sống, bảo vệ nền độc lập, tự chủ.
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1206. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 38.
16 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Thế kỷ III trước Công nguyên, từ buổi đầu kháng chiến chống xâm lược của nhà Tần, tinh thần thà hy sinh tất cả, chứ không đầu hàng giặc đã nổi bật trong nhân dân Âu Lạc1. Trong một ngàn năm bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ và thực hiện mưu đồ đồng hóa, cộng đồng các dân tộc vẫn giữ vững tinh thần bất khuất, ý chí tự chủ, tìm mọi cách giành lại nền độc lập. Trải qua các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan và nền tự chủ của họ Khúc, ý thức độc lập tự chủ ngày càng củng cố và phát triển. Chiến công năm 931 của Dương Đình Nghệ và đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền phản ánh sức mạnh trỗi dậy của nền văn hóa giữ nước của dân tộc, chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh vì nền độc lập tự chủ trong quan hệ với các triều đại phong kiến phương Bắc. Ý chí giành lại nền độc lập, trở lại với “nghiệp Hùng” lưu tồn và ngày càng vun đắp bằng xương máu qua nhiều thế hệ đã trở thành sức sống lâu bền, không hoàn cảnh nào có thể làm mai một. “Chính giá trị tinh thần ấy là nguồn gốc sâu xa nhất để dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm trường nô lệ, thảm họa hơn một nghìn năm bị đô hộ”2.
Thời phong kiến độc lập tự chủ, ngọn lửa chiến tranh vì đại nghĩa đã bồi đắp thêm truyền thống yêu nước, tôi luyện
____________
1. Trong Nhân gian huấn, Hoài Nam Tử thời Hán viết: “Người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư”.
2. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, t. 5, tr. 22.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 17
thêm ý chí độc lập tự chủ của quân dân Đại Việt. Trước họa xâm lăng, thái độ duy nhất của toàn dân là quyết đứng lên chiến đấu đến cùng. Lời tuyên bố đanh thép của Trần Thủ Độ vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (1258); những tiếng hô: “Quyết đánh” của các bô lão vang lên trong Hội nghị Diên Hồng mùa Đông năm Giáp Thân (1284); lời thề “Sát Thát” (giết giặc Mông - Thát) trên cánh tay mỗi tướng lĩnh và quân sĩ nhà Trần (1285); tinh thần quyết chiến của Trần Quốc Tuấn: “Bệ hạ muốn hàng trước hết hãy chém đầu tôi đi đã” (1287)1... là những biểu hiện hùng hồn của tinh thần anh dũng, bất khuất của cả một dân tộc trong cuộc chiến đấu vì sự tồn vong của một quốc gia độc lập.
Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của quân dân Đại Việt không ngừng vang lên những lời thơ, lời hịch, lời kêu gọi chiến đấu, khẳng định ý chí quyết chiến, quyết thắng. Bài thơ Nam quốc sơn hà có giá trị như một bản tuyên cáo đầu tiên về nền độc lập của quốc gia Đại Việt sau nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”2.
____________
1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, Sđd, t. 5, tr. 28.
2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t. I, tr. 279.
18 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Thế kỷ XIII, trước họa xâm lăng của đế quốc Mông - Nguyên, trong lời hịch gửi các tỳ tướng, Trần Quốc Tuấn nói: “Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm...”1. Đó là một sản phẩm điển hình của tinh thần quốc gia phong kiến, tỏ lòng ái quốc, tinh thần hy sinh và ý chí quyết tiêu diệt quân xâm lược.
Sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh (thế kỷ XV) trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:
“Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương, Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt không bao giờ thiếu...”2
Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh (thế kỷ XVIII), Quang Trung kêu gọi quân sĩ: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”3.
____________
1, 2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t. II, tr. 82, 282.
3. Dẫn theo Trần Trọng Tân: Anh Hùng dân tộc Nguyễn Huệ, một thiên tài, 29/01/2009, https://www.sggp.org.vn/anh-hung-dan-toc-nguyen hue-mot-thien-tai-67651.html.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 19
Bước vào lịch sử cận đại, từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Sau một thời gian chống xâm lược, triều đình nhà Nguyễn đi dần vào con đường đầu hàng. Bất chấp tình hình đó, nhân dân anh dũng nổi dậy kháng chiến khắp nơi dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực... ở trong Nam, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám,... ở ngoài Bắc, khiến cho thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới chinh phục và bình định được Việt Nam (1858 - 1896) và sau đó nền thống trị của người Pháp vẫn không ngừng bị rung chuyển. Nếu trước đây quân dân Đại Việt phải thường xuyên đương đầu với sự xâm lược của các nước lớn, nhưng cùng trình độ phát triển ở chế độ phong kiến, thì đến đây, Nhân dân Việt Nam phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược thực dân của một cường quốc tư bản, không những có diện tích và dân số lớn hơn mà còn có trình độ phát triển hơn hẳn một phương thức sản xuất về kinh tế và kỹ thuật, cũng như về trang bị và vũ khí.
Trong quá trình lâu dài và liên tục hơn 20 thế kỷ chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên một truyền thống quân sự độc đáo, tích lũy được một hệ thống tri thức quân sự phong phú.
Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, ý chí tự lực tự cường, quyết đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược là di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh vô tận, được kế thừa và phát huy cao độ trong suốt tiến trình chống chủ nghĩa thực dân vì độc lập tự do, cũng như trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
20 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
2. Cả nước chung sức đánh giặc - nét độc đáo trong truyền thống quân sự của dân tộc
Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam thường phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh1. Đất nước không rộng, người không đông, nhân tài vật lực có hạn, lực lượng quân đội không nhiều. Nếu chỉ dùng lực lượng quân đội đơn thuần thì không thể đánh thắng được giặc. Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn là đặc điểm về so sánh lực lượng trong những cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt. Trong hoàn cảnh ấy, để giữ gìn quê hương, đất nước, để chiến thắng những đội quân xâm lược hung bạo, không thể chỉ cậy vào quân đội mà phải phát huy sức mạnh của toàn dân, của cả nước.
Truyền thuyết Thánh Gióng thời Vua Hùng dựng nước Văn Lang đã sớm kết tinh những nét tiêu biểu của lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước, kết tinh truyền thống chống ngoại xâm, ý chí chiến đấu quật cường, sức mạnh vô địch của dân chúng tham gia chiến đấu. “Thánh Gióng lớn lên như thổi
____________
1. Cuộc đụng đầu giữa quân dân Văn Lang với thế lực phong kiến bành trướng phương Bắc thế kỷ III trước Công nguyên là một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, nhưng lực lượng hai bên rất khác nhau. Bấy giờ, đế chế Tần đã là một đế quốc phong kiến rộng lớn, còn nước Văn Lang có số dân khoảng hai triệu, cư trú chủ yếu trên địa bàn rừng núi phía Bắc. Thế kỷ X và XI, trong hai lần kháng chiến chống xâm lược Tống, lúc đó, nước Tống có khoảng trên 50 triệu dân, còn Đại Việt chỉ có chừng 4 triệu người. Thế kỷ XIII, đế quốc Mông - Nguyên ba lần cho quân sang xâm lược Đại Việt. Đó là một đế quốc khổng lồ, tàn bạo nhất thế giới đương thời, có tham vọng làm bá chủ thế giới. Đến thế kỷ XVIII, nước Đại Việt có trên dưới 10 triệu người, chống lại đế quốc Mãn Thanh to lớn, đã chinh phục và thống trị cả một vùng rộng lớn với trên 300 triệu dân…
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 21
khi nghe tiếng gọi cứu nước. Thánh Gióng dùng cả gậy sắt và tre ngà để tiêu diệt địch. Cùng theo Thánh Gióng đi đánh giặc, có người dân cày cầm vồ, người câu cá cầm cần câu, em bé chăn trâu cầm khăng... Truyền thuyết trong sáng và đầy tính chất tượng trưng đó chính là hình ảnh “toàn dân đánh giặc”, “cả nước đánh giặc” của dân ta từ thời chưa có sử viết”1. Đó là khởi nguồn của truyền thống toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay.
Đặc điểm lấy ít đánh nhiều đòi hỏi phải thực hiện cả nước chung sức đánh giặc, toàn dân đoàn kết để giữ nước, gắn nước với nhà, “còn nước còn nhà”, “nước mất nhà tan”, gắn làng với nước, “còn làng còn nước”, “tình làng nghĩa nước”. Nhà, làng và nước gắn kết với nhau trong một quan hệ keo sơn bền chặt. Thời Trần có quy định: thôn xã nào đầu hàng giặc sẽ bị trị tội.
Toàn dân là lính, cả nước chung sức đánh giặc là nét đặc sắc trong truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam. Già, trẻ, trai, gái cùng đánh giặc là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử giữ nước. Nước có giặc trăm họ ai cũng là binh. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”2. Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì hận mình còn nhỏ tuổi không được dự bàn kế đánh giặc.
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1209. 2. Những tấm gương liệt nữ trong chiến tranh cứu nước thời nào cũng có: Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng anh dũng khởi nghĩa giành lại giang sơn và hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Đông Hán; Thái hậu Dương Vân Nga, Ỷ Lan phu nhân trong kháng chiến chống xâm lược Tống; Linh từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ trong kháng chiến chống quân Nguyên, nữ tướng Bùi Thị Xuân chỉ huy đạo tượng binh Tây Sơn hồi thế kỷ XVIII…
22 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Trong lực lượng chống xâm lăng, có đủ các thành phần dân chúng, các tầng lớp, dân tộc từ khắp mọi miền đất nước. Trên chiến trường đánh quân xâm lược Tống, cùng với Lý Thường Kiệt, Hoằng Chân, Chiêu Văn, có những tộc trưởng của các dân tộc thiểu số như Tôn Đản, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc. Trong quân đội thời Trần, bên cạnh những tướng chỉ huy xuất thân từ hàng ngũ quý tộc như Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư..., còn có những người xuất thân từ tầng lớp bình dân như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... Người anh hùng “áo vải cờ đào” thế kỷ XVIII được nhiều sĩ phu yêu nước cộng sự nhiệt tình trong kháng chiến. Nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến đông đảo, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đánh giặc, từ việc rèn đúc vũ khí, chuẩn bị chiến thuyền, sửa chữa cầu đường, đóng góp lương thực, vận tải tiếp tế cho quân đội, đến việc cất giấu lương thực, có khi phải đốt cả lúa gạo để khỏi lọt vào tay quân giặc, hoặc chạy vào rừng quyết không hợp tác với giặc, hoặc trực tiếp đánh giặc ngay ở các bản làng, thôn ấp, bảo vệ quê hương.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Trong các cuộc khởi nghĩa dân tộc và chiến tranh dân tộc trong lịch sử nước ta trước kia, về tổ chức quân sự mà nói, thì thường có dân chúng vũ trang tổ chức thành nghĩa quân, hoặc có quân đội dân tộc, và tương đối phổ biến là có sự kết hợp giữa dân chúng vũ trang và quân đội dân tộc, giữa quân đội dân tộc và dân chúng vũ trang”1.
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1207.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 23
Truyền thống cả nước chung sức đánh giặc dựa trên cơ sở chăm lo nền tảng xã hội vững bền, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Để “an dân”, động viên sức mạnh của nhân dân, phải thi hành những chính sách tiến bộ. Lý Thường Kiệt hết sức quan tâm đến việc “đủ ăn” là nguyện vọng của dân. Trần Quốc Tuấn đúc kết những nguyên lý giữ nước: “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức”, phải “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”1. Nguyễn Trãi nhấn mạnh phải “yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than”, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Buổi đầu thời Lê, triều đình ban lệnh “Không được khinh động đến sức dân”. Đến thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ chủ trương “làm sao cho dân yên ổn, có ruộng cày...”, “mở mang cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hóa không ứ đọng, làm lợi cho dân”. Các triều đại phong kiến tiến bộ đều chú ý bồi dưỡng, khoan thư sức dân, ra chiếu khuyến nông, chăm lo thủy lợi, có khi giảm miễn tô thuế để mở mang kinh tế và tăng cường đoàn kết giữa triều đình và dân chúng. Một khi nhân dân được quan tâm, gắn bó với chế độ xã hội, với người lãnh đạo, thì truyền thống yêu nước được phát huy, trở thành chỗ dựa vững chắc nhất cho cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, thực hiện tốt mọi chủ trương của Nhà nước, làm cho “Nhân dân ai cũng là binh”.
____________
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t. II, tr. 79.
24 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Trong xây dựng lực lượng quân đội, các triều đình phong kiến Việt Nam rất chú trọng yếu tố chất lượng, quân “cốt tinh”, tuyển chọn và rèn luyện đội ngũ tướng lĩnh tài trí, trung thành, có uy tín và năng lực chỉ huy, quân sĩ thiện chiến; giáo dục sự đoàn kết nhất trí của tướng sĩ để xây dựng “đội quân một lòng như cha con”1. Ở thế kỷ X, triều đình Đinh, Tiền Lê tổ chức lực lượng theo chế độ “thập đạo quân”. Về danh nghĩa, trong nước có một đạo quân đông đến hàng chục vạn người, song trên thực tế đó là chế độ tổ chức quân đội theo “ngạch biên số”. Lúc hòa bình, hầu hết số quân đó ở nhà sản xuất, lúc có chiến tranh, tất cả được huy động vào đội ngũ đã định sẵn. Theo sử gia Ngô Thì Sĩ, “bấy giờ binh và nông chưa chia, khi có việc thì gọi ra, xong việc lại giải tán về làm ruộng”. Các thời Lý, Trần, Lê đều áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông”, thực hiện “trăm họ đều là binh” để đảm bảo lực lượng sẵn sàng cho những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm; biết tổ chức ra nhiều thứ quân, có quân trung ương, quân các lộ (tỉnh) và hương binh, thổ binh, dân binh ở các làng, xã...
Mỗi khi tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh, những người lãnh đạo luôn quan tâm xây dựng chỗ đứng chân, dựa vào những điều kiện thiên thời, địa lợi và nhân hòa để dựng “đất căn bản” nhằm giải quyết vấn đề tiềm lực, tập hợp và rèn luyện lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn sắm vũ khí; khi thì dựa vào vùng rừng núi, khi thì dựa vào vùng đầm lầy, khi
____________
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t. II, tr. 77.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 25
thì từ rừng núi tiến về đồng bằng, mở rộng căn cứ địa, khai thác ngày càng nhiều sức người, sức của cho khởi nghĩa và chiến tranh.
Thế kỷ III trước Công nguyên, dân Tây Âu và Lạc Việt chiến đấu ròng rã hàng chục năm chống quân xâm lược nhà Tần, cử người kiệt tuấn lên làm tướng, đánh đêm, đánh úp giết hàng chục vạn quân Tần, và cuối cùng giành thắng lợi. Cách tổ chức lực lượng và cách đánh đó là một hình thức của dân chúng vũ trang, vì căm thù quân xâm lược mà tự nguyện đứng lên chiến đấu.
Thời An Dương Vương đã có tổ chức quân đội dân tộc, gồm bộ binh và thuỷ binh; có thành Cổ Loa vừa là căn cứ bộ binh, vừa là căn cứ thuỷ binh, có vũ khí lợi hại là “nỏ liên châu” bắn được nhiều mũi tên một lúc, sản xuất được số lượng rất lớn mũi tên đồng, đánh dấu một bước tiến quan trọng về kỹ thuật quân sự. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào “nỏ thần” mà không dựa vào lực lượng toàn dân, lại mất cảnh giác trước hoạt động gián điệp của đối phương thì vẫn có thể dẫn đến họa mất nước.
Trong 10 thế kỷ mất nước, nhân dân liên tiếp nổi dậy đấu tranh giành độc lập, những cuộc khởi nghĩa dân tộc liên tiếp diễn ra. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Hai Bà Trưng, rồi những cuộc khởi nghĩa của Chu Đạt, Lương Long, Bà Triệu, Lý Bí, Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Thanh... đến cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ và chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, chấm dứt ách đô hộ của nước ngoài, giành lại nền độc lập. Trong 1.000 năm đó, lực lượng vũ trang là nghĩa
26 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
quân bao gồm nhiều tầng lớp, dân tộc ở cả miền núi và miền xuôi.
Thời phong kiến độc lập tự chủ, chế độ “toàn dân là binh” được xây dựng và hoàn chỉnh dần qua các triều đại. Sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, nhà nước phong kiến tập quyền thời Đinh mới được xây dựng đã có chế độ kiểm kê dân số để tuyển lính. Lực lượng vũ trang được tổ chức theo cách “khi có việc thì gọi ra, khi xong việc lại cho về làm ruộng”, xây dựng được 10 đạo quân khoảng mấy vạn người do Thập đạo tướng quân Lê Hoàn chỉ huy.
Các thời Lý, Trần, Lê sơ đều thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, chia dân đinh thành “hoàng nam” (từ 18 đến 20 tuổi) và “đại hoàng nam” (từ 21 đến 60 tuổi) thay phiên nhau ra lính, đến khi có chiến tranh thì tuyển vào quân ngũ. thời Trần động viên lực lượng toàn dân theo tinh thần “cả nước chung sức”, thực hiện “tận dân vi binh”.
Các nhà nước phong kiến đã xây dựng nhiều thứ quân khác nhau như quân của triều đình ở trung ương, quân của các lộ, của các vương hầu và tù trưởng thiểu số ở địa phương; có hương binh, dân binh, thổ binh ở làng, xã, trang động. Quân của triều đình là quân tại ngũ, gọi là “quân thiên tử” (thời Đinh - Lê), “quân túc vệ”, “cấm vệ” (thời Lý - Trần). Bên cạnh đó có “quân ở ngoài”, đặt ở nông thôn “lúc vô sự thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết”. Chính quyền phong kiến tổ chức ra hương binh, thổ binh để duy trì quyền thống trị ở làng xã, nhưng trong chiến tranh là để cùng dân chúng chiến đấu chống xâm lược, hình thành nên một lực lượng vũ trang rộng rãi của dân chúng.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 27
3. Đánh giặc bằng tài thao lược kiệt xuất, dùng trí tuệ cao hơn giặc để thắng giặc
Dựa vào lực lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang được tổ chức hợp lý, cách đánh giặc của những thế hệ tiền bối rất độc đáo và sáng tạo, luôn giành thế chủ động, không cho quân xâm lược phát huy lối đánh sở trường của chúng; chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm không chỉ bằng tinh thần dũng cảm hy sinh, mà còn bằng trí thông minh sáng tạo, bằng tư tưởng chiến lược tiến công1 và nghệ thuật quân sự độc đáo trong khởi nghĩa cũng như trong chiến tranh2.
____________
1. Tư tưởng quân sự truyền thống của dân tộc là tư tưởng tiến công, tuy có những bước phòng ngự, rút lui cần thiết trong thời kỳ đầu. Những người lãnh đạo khởi nghĩa và chiến tranh đã biết đánh giá sức mạnh của kẻ thù một cách đúng đắn, biết chọn đúng phương hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công rất linh hoạt, khi thì đánh phủ đầu vào căn cứ địch, khi thì cho địch vào sâu, tạm lùi một bước tạo thời cơ thuận lợi để chuyển sang phản công kiên quyết, khi thì tiến công bền bỉ, liên tục, từ nhỏ đến lớn, tiến tới đánh thắng mọi kẻ thù.
2. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, có nhiều hình thức khởi nghĩa và chiến tranh, khi thì tiến hành khởi nghĩa vũ trang rộng khắp, nhanh chóng lật đổ ách đô hộ của kẻ thù, giành thắng lợi trong cả nước; khi thì khởi nghĩa ở một vài địa phương rồi phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc, kết hợp tác chiến của quân với sự nổi dậy của dân, từng bước lật đổ nền thống trị của địch. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng có sự kết hợp giữa tác chiến của quân và sự nổi dậy của nhân dân ở những vùng địch chiếm, bằng nhiều phương thức khác nhau: phân tán đánh nhỏ, tiến lên đánh tập trung; kết hợp đánh tập trung và đánh phân tán, kết hợp đánh lớn và đánh nhỏ, kết hợp đánh tiêu diệt và đánh tiêu hao.
28 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Lý Thường Kiệt thực hiện “tiên phát chế nhân”, tiến công trước, phòng ngự vững chắc, chủ động phản công đúng lúc. Trần Quốc Tuấn “dĩ đoản chế trường”, chế ngự sức mạnh kẻ địch và phản công khi chúng suy yếu, mệt mỏi. Lê Lợi, Nguyễn Trãi “lấy yếu chống mạnh”, tiến hành đánh lâu dài, từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh, từng bước tạo lực, tạo thế, tạo thời cơ giành thắng lợi. Quang Trung chỉ huy đánh thần tốc, tiến công mãnh liệt từ nhiều hướng khiến quân Thanh không kịp trở tay.
Hồ Chí Minh nhắc đến kinh nghiệm “ngày xưa tổ tiên ta đã phải kháng chiến trường kỳ mới thắng được ngoại xâm”1. Đánh lâu dài là một phương châm chiến lược; lấy ít địch nhiều, “lấy đoản binh chế trường trận”; dùng mai phục, tận dụng yếu tố bí mật bất ngờ, kết hợp đánh tập trung và đánh phân tán, đánh tiêu diệt và đánh tiêu hao; kết hợp quân đội triều đình với lực lượng vũ trang của dân chúng; đánh giặc bằng mưu cao mẹo giỏi; kết hợp nhiều cách đánh phong phú, linh hoạt; kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh; cũng có khi vừa đánh vừa đàm buộc đối phương phải rút quân về nước... “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”2 là đặc điểm nổi bật trong truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, tạo nên trường
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, tr. 215.
2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t. II, tr. 285.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 29
phái quân sự Việt Nam với tư tưởng và nghệ thuật quân sự đặc sắc.
Trong chiến đấu chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam không chỉ giành thắng lợi bằng tinh thần dũng cảm hy sinh, mà còn bằng trí thông minh sáng tạo, bằng nghệ thuật quân sự độc đáo, thể hiện trong tài thao lược kiệt xuất, khi thì tiến hành khởi nghĩa vũ trang rộng khắp, nhanh chóng lật đổ ách đô hộ của kẻ thù, giành thắng lợi trong cả nước; khi thì khởi nghĩa ở một vài địa phương rồi phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng, kết hợp tác chiến của quân đội với nổi dậy của dân chúng, từng bước giành thắng lợi. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cũng có sự kết hợp giữa tác chiến của quân và nổi dậy của dân ở những vùng địch chiếm và nhiều phương thức tiến hành chiến tranh khác nhau1.
Dân tộc Việt Nam có nghệ thuật thắng địch trong những cuộc chiến tranh lâu dài, đồng thời lại có nghệ thuật thắng địch trong những cuộc chiến tranh tương đối ngắn, có khi rất ngắn; biết đánh giá địch đúng đắn, biết chọn đúng phương hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công, vận dụng chiến lược tiến công rất linh hoạt, khi thì đánh phủ đầu vào căn cứ đối phương; khi thì cho đối phương tiến vào nội địa, tạm lùi một bước, tạo thời cơ có lợi để phản công; khi thì tiến công bền bỉ, liên tục, từ nhỏ đến lớn, tiến tới chiến thắng hoàn toàn.
____________
1. Xem Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 25.
30 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Dân tộc Việt Nam không những có truyền thống và kinh nghiệm tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của những thế lực phong kiến nước ngoài, giành lại chủ quyền dân tộc, mà còn có truyền thống và kinh nghiệm tiến hành chiến tranh bảo vệ đất nước khi đã có một quốc gia độc lập, chống lại những đội quân xâm lược lớn mạnh. Đó là một di sản quân sự hết sức quý báu.
Truyền thống quân sự và kinh nghiệm chống ngoại xâm của dân tộc là cơ sở rất quan trọng để hình thành nên đường lối quân sự của Đảng. Kế thừa và phát triển truyền thống đó, năm 1941, Hồ Chí Minh nhắc nhở sự cần thiết phải phát huy truyền thống dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm: “Tấm gương oanh liệt của các bậc lão tiền bối như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến còn treo đó. Tinh thần anh dũng của các liệt sĩ ở Thái Nguyên, Yên Bái, Nghệ An hãy còn đây”1. “Đồng bào ta quyết nối gót người xưa, phấn đấu hy sinh đặng phá tan xiềng xích”2.
II- THỰC TIỄN ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG KIÊN CƯỜNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Kể từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đứng lên làm cách mạng, chống lại những đế quốc xâm lược lớn mạnh,
____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 229.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 31
vận dụng những phương thức đấu tranh khác nhau, trong sự biến chuyển của những điều kiện lịch sử cụ thể của tình hình trong nước và thế giới.
Về mặt đối tượng, những thế lực xâm lược Việt Nam là những đế quốc lớn mạnh đến từ các châu lục Á, Âu, Mỹ. Đó là thực dân Pháp - một cường quốc thực dân già đời1, quân phiệt Nhật Bản - một trong ba phátxít hung bạo, đế quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới2, có chiến lược toàn cầu; Trung Quốc với chính sách vừa hợp tác vừa kiềm chế Việt Nam và tham vọng độc chiếm Biển Đông. Đó là những cường quốc có diện tích lớn, dân số đông, nền kinh tế công nghiệp phát triển cao, trình độ khoa học kỹ
____________
1. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1945 - 1954, Pháp là một nước có diện tích lớn, dân số đông, nền kinh tế công nghiệp phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, quân đội nhà nghề thiện chiến, vũ khí và phương tiện chiến tranh nhiều và hiện đại, lại được Mỹ và Anh giúp sức. Trong khi đó, Việt Nam là một quốc gia đất không rộng, người không đông, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển, lực lượng vũ trang đang trong quá trình xây dựng, thiếu thốn về trang bị vũ khí, trong 5 năm 1945 - 1949 chưa có sự giúp đỡ của quốc tế. Tương quan lực lượng của Việt Nam so với Pháp được ví như “châu chấu đá voi”.
2. Trong khoảng 20 năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Mỹ phát triển rất mạnh, trở thành trung tâm kinh tế - tài chính duy nhất thế giới, với giá trị tổng sản lượng công nghiệp chiếm 53% giá trị tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp bằng hai lần tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của các nước Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật; trữ lượng vàng của Mỹ chiếm 3/4 trữ lượng vàng quốc tế; khoảng 50% số tàu thuyền đi lại trên biển là của Mỹ. Mỹ lại là nước nắm ưu thế về vũ khí hạt nhân.
32 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
thuật tiên tiến, có quân đội nhà nghề thiện chiến với đầy đủ các quân chủng và binh chủng, được trang bị nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại; sử dụng những chính sách xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới với nhiều loại hình chiến lược chiến tranh khác nhau, đặc biệt là đế quốc Mỹ với các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân...
Về vận dụng phương thức đấu tranh, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh, khi thì tiến hành khởi nghĩa, khi thì tiến hành chiến tranh, kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng, kết hợp chiến tranh giải phóng dân tộc với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đó để lại cho Đảng và Nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Trong khởi nghĩa vũ trang, Đảng và Nhân dân Việt Nam có kinh nghiệm khởi nghĩa ở nông thôn, đồng thời có kinh nghiệm khởi nghĩa ở thành thị; vừa có kinh nghiệm khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận, lại vừa có kinh nghiệm tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc.
Trong chiến tranh cách mạng, Nhân dân Việt Nam có kinh nghiệm tiến hành một cuộc chiến tranh lâu dài chống chiến tranh xâm lược thực dân kiểu cũ, từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang làm chủ yếu; lại có kinh nghiệm tiến hành một cuộc chiến tranh lâu dài chống chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, kết hợp khởi
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 33
nghĩa và chiến tranh, kết hợp tiến công quân sự của các lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng, đồng thời có kinh nghiệm tiến hành chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân; có nhiều kinh nghiệm về chiến tranh du kích, từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh phân tán và đánh tập trung, kết hợp đánh tiêu hao và đánh tiêu diệt, kết hợp tiến công đối phương ở cả mặt trận chính diện và phía sau lưng; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; kết hợp quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp ba vùng chiến lược: nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao...
Về điều kiện lịch sử trong nước và quốc tế, Nhân dân Việt Nam có kinh nghiệm tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh trong những điều kiện lịch sử rất khác nhau.
Ở trong nước, cuộc đấu tranh cách mạng được tiến hành trong những điều kiện rất khác biệt: khi nhân dân chưa có chính quyền cách mạng, khi đã nắm được chính quyền ở từng địa phương hay trong cả nước; khi thì dựa vào sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân đang hình thành, khi lại dựa vào tính hơn hẳn của chế độ mới đang được xây dựng; khi thì cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi thì đất nước tạm thời bị chia thành hai miền và tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; khi thì cả nước độc lập,
34 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
thống nhất cùng thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về mặt quốc tế, cách mạng Việt Nam phát triển trong tình hình thế giới thường xuyên biến động. Nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh vũ trang trong những trật tự thế giới khác nhau, từ trật tự Vécxây - Oasinhtơn trước Chiến tranh thế giới thứ hai đến trật tự hai cực Ianta và cục diện Chiến tranh lạnh, rồi trật tự thế giới đa cực hình thành từ những năm 90 của thế kỷ XX; khi thì có chiến tranh thế giới, khi thì không có chiến tranh thế giới; khi thì cách mạng Việt Nam bị bao vây cô lập, không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, khi có sự giúp đỡ quốc tế của nhiều lực lượng khác nhau trên thế giới; khi thì nội bộ phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết, thống nhất, khi thì chia rẽ, mất đoàn kết, rồi tan rã; có khi các nước lớn trên thế giới đối đầu gay gắt với nhau, nhưng có khi lại hòa hoãn, thỏa hiệp với nhau...
Trong bối cảnh sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập, chiến tranh công nghệ cao, những cuộc chiến tranh và xung đột khu vực xảy ra ở nhiều nơi, cuộc cạnh tranh địa - chính trị giữa các cường quốc diễn ra ngày càng gay gắt, khu vực Biển Đông ngày càng nóng thêm, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cũng đã và đang đặt ra những yêu cầu mới về nội dung, về tổ chức, xây dựng và bố trí lực lượng, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng hậu phương của chiến tranh nhân dân...
Thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ với những điều kiện lịch sử khác nhau không chỉ là cơ sở hình
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 35
thành nên đường lối quân sự của Đảng, mà còn thường xuyên góp phần bổ sung và phát triển đường lối đó.
III- ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG,
HỌC THUYẾT QUÂN SỰ MÁC - LÊNIN
VÀ TINH HOA QUÂN SỰ THẾ GIỚI
1. Đường lối quân sự bắt nguồn từ đường lối chính trị, phục tùng đường lối chính trị của Đảng
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân. Khởi nghĩa và chiến tranh không biểu hiện lợi ích của một vài người cá biệt, mà là biểu hiện lợi ích căn bản và lâu dài của toàn thể giai cấp này hay giai cấp khác, hoặc ít ra cũng của tầng lớp đông đảo nhất và có ảnh hưởng nhất trong giai cấp ấy. Theo V.I. Lênin, “Chiến tranh là kế tục của chính trị bằng những thủ đoạn khác. Mọi cuộc chiến tranh đều gắn liền với chế độ chính trị sinh ra nó. Chính đường lối chính trị do một nhà nước nhất định, một giai cấp trong lòng nhà nước đó, theo đuổi từ lâu trước khi xảy ra chiến tranh, là đường lối chính trị mà giai cấp này tất nhiên phải theo đuổi trong quá trình chiến tranh, bằng cách thay đổi hình thức của nó mà thôi”1.
Chính trị có tầm quan trọng quyết định không những trong việc chỉ đạo chuẩn bị, mà còn trong quá trình chỉ đạo ____________
1. V.I. Lênin: Chiến lược và chiến thuật quân sự trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 98.
36 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
tiến hành chiến tranh từ khởi đầu đến kết thúc. Các giai cấp và các nhà nước tiến hành chiến tranh sẽ dựa vào đường lối, chính sách của họ mà quy định những nhiệm vụ chiến tranh và không ngừng thực hiện những nhiệm vụ ấy trong thực tế. Chính trị chi phối quân sự, nên không được tách rời những mục đích chính trị với những khả năng quân sự của đất nước. Nếu tách rời những điều đó sẽ hết sức nguy hiểm đối với diễn trình và kết thúc của chiến tranh. Chính vì thế, phải nghiên cứu một cách toàn diện và thỏa đáng những nhiệm vụ chính trị cùng với những khả năng kinh tế và quân sự để xác định đúng những thủ đoạn và phương pháp nhằm đạt mục tiêu chiến tranh.
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân mang tính cách mạng triệt để, nhằm thực hiện đường lối chính trị, thực hiện những mục tiêu chính trị của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối quân sự bao giờ cũng xuất phát từ đường lối chính trị và phục tùng đường lối đó, phấn đấu để thực hiện mục đích chính trị của cách mạng bằng hình thức đấu tranh vũ trang hoặc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị.
Sức mạnh chính trị - tinh thần của chiến tranh trước hết là do mục đích của chiến tranh quyết định. Đường lối chính trị của Đảng, mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng phản ánh quy luật phát triển của lịch sử dân tộc, phản ánh nguyện vọng sâu xa của Nhân dân Việt Nam. Khi đường lối đó thâm nhập trong quần chúng sẽ trở thành quyết tâm, ý
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 37
chí cách mạng mãnh liệt, động lực tinh thần vô cùng to lớn của chiến tranh cách mạng.
Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, Đảng đã kiên trì giáo dục có hệ thống cho cán bộ, đảng viên, quân đội và nhân dân về đường lối và nhiệm vụ cách mạng, mục đích của chiến tranh, sự đánh giá đúng đắn lực lượng so sánh và xu hướng phát triển của nó, tính chất lâu dài, gian khổ và tất thắng của chiến tranh cách mạng. Đảng không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trong quân đội và nhân dân, giáo dục ý thức giai cấp và ý thức dân tộc.
Đường lối quân sự không thể tách rời, mà phải bắt nguồn và phục tùng đường lối chính trị. Trên cơ sở nắm vững mục tiêu cách mạng, nhằm đúng kẻ thù cách mạng, đường lối quân sự quán triệt sâu sắc tư tưởng cách mạng bạo lực, quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng và quan điểm thực tiễn của Đảng trong quá trình chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh. Nó thể hiện ở đường lối động viên, tổ chức quần chúng và phương pháp cách mạng nhằm huy động đến mức cao nhất các lực lượng lên trận địa cách mạng, làm cho khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam trở thành những điển hình về khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân trong thời đại mới.
Từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh giành chính quyền, tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, đường lối quân sự hình thành và không ngừng phát triển.
38 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Báo cáo Xây dựng Quân đội nhân dân hoàn thành chiến tranh giải phóng tại Đại hội II của Đảng (tháng 02/1951) khẳng định: “Vũ trang tranh đấu là kế tục tranh đấu chính trị, vũ trang tranh đấu là một hình thức cao của cuộc đấu tranh chính trị, vũ trang tranh đấu có nhiệm vụ thực hiện mục đích chính trị của cách mạng, căn cứ vào đường lối chủ trương của Đảng.
Đường lối chính trị của Đảng quyết định đường lối tranh đấu vũ trang.
Mục đích chính trị của cách mạng quyết định nhiệm vụ của tranh đấu vũ trang”1.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, Đảng đề ra đường lối cách mạng, giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với mục tiêu giành chính quyền về tay Nhân dân. Đường lối quân sự của Đảng hình thành, bao gồm một hệ thống quan điểm về xây dựng lực lượng và khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Đảng đề ra đường lối kháng chiến kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương, nhằm giành độc lập và thống nhất hoàn toàn. Đại hội II của Đảng (tháng 02/1951) xác định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội qua ba giai đoạn chiến lược, trong đó giai đoạn trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Đường lối quân sự của Đảng phát triển thành đường lối
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 252.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 39
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Thời kỳ xây dựng miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước. Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng phát triển thêm một bước mới với nội dung phong phú.
Từ sau ngày thống nhất đất nước, Đảng đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược, trong đó xây dựng đất nước là hàng đầu, đồng thời thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đường lối quân sự của Đảng tiếp tục phát triển, mà nội dung chủ yếu là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn liền với an ninh nhân dân.
Đường lối quân sự của Đảng bắt nguồn từ đường lối chính trị, phục tùng đường lối chính trị và trở thành “một bộ phận hữu cơ của đường lối chính trị”1. Thực tế khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng chứng tỏ hùng hồn rằng, chỉ có dựa trên đường lối chính trị đúng đắn, thì đường lối quân sự của Đảng mới từng
____________
1. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Sđd, tr. 71.
40 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
bước hình thành và phát triển, thâm nhập trong quần chúng, tạo nên sức mạnh vật chất của thế trận toàn dân đánh giặc một cách toàn diện để chiến đấu và chiến thắng những đội quân xâm lược lớn mạnh.
2. Học thuyết quân sự Mác - Lênin
Những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học là C. Mác và Ph. Ăngghen đã đề ra những luận điểm làm cơ sở xuất phát cho luận điểm quân sự và học thuyết quân sự mới. C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên đã vạch ra bản chất và nguồn gốc của chiến tranh và quân đội, chứng minh rằng thái độ của giai cấp vô sản đối với các cuộc chiến tranh là tùy thuộc theo tính chất của mỗi cuộc chiến tranh đó. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, phương pháp tiến hành chiến tranh, tổ chức và trang bị của quân đội, chiến lược và chiến thuật đều phụ thuộc vào điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội và trước hết là phụ thuộc vào phương thức sản xuất. Các ông vạch rõ tầm quan trọng của nghệ thuật quân sự đối với giai cấp vô sản và đã đề ra một số luận điểm quan trọng trong vấn đề này.
C. Mác và Ph. Ăngghen sớm đặt ra vấn đề vũ trang quần chúng trong khởi nghĩa và đấu tranh cách mạng, chống lại quan điểm xây dựng quân đội nhà nghề của giai cấp thống trị. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, khi giai cấp công nhân cùng giai cấp nông dân và nhân dân lao động đã giác ngộ và nổi dậy, thì nhất định phải có vũ trang mới giành được chính quyền. Để bảo vệ thành quả cách mạng, C. Mác và Ph. Ăngghen nêu quan điểm tổ chức ra những lực lượng vũ trang như dân binh,
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 41
dân cảnh, hoặc những đơn vị vũ trang tương đối tập trung ở từng địa phương, chủ yếu là phải vũ trang quần chúng. Trong điều kiện lịch sử lúc đó, C. Mác và Ph. Ăngghen chưa đặt vấn đề tập trung xây dựng một đội quân thường trực lớn mạnh, “vấn đề tổ chức lực lượng vũ trang mà chủ nghĩa Mác đề ra là vấn đề vũ trang quần chúng, chứ chưa phải là vấn đề xây dựng quân đội”1.
Theo Ph. Ăngghen, khi giai cấp công nhân nắm được chính quyền thì tất cả những người có sức khỏe trong công nhân, nông dân và nhân dân lao động đều được động viên và được vũ trang, tạo ra sức mạnh quân sự to lớn.
Trên cơ sở tổng kết các cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp vô sản và các cuộc đấu tranh trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã phát triển và cụ thể hóa những vấn đề quan trọng nhất của học thuyết mácxít như: vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, của nhân tố kinh tế - xã hội và nhân tố tinh thần trong chiến tranh hiện đại; tầm quan trọng của tổ chức quân sự và trang bị kỹ thuật hiện đại của quân đội trong đấu tranh vũ trang; mối liên hệ chặt chẽ và tính phụ thuộc của tổ chức quân sự và nghệ thuật quân sự vào chế độ xã hội và sự phát triển của binh khí kỹ thuật, những quy luật, những phương pháp và hình thức đấu tranh vũ trang; sự thống nhất và tầm quan trọng của việc lãnh đạo chính trị và quân sự trong chiến tranh... Theo V.I. Lênin, để tiến hành chiến tranh, phải động viên mọi lực lượng trong
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 992.
42 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
nhân dân. Phải biến cả nước thành một dinh luỹ cách mạng. Tất cả hãy chi viện cho chiến tranh và tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước đều phải dành cho công cuộc bảo vệ cách mạng.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng năm 1905 và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin và Đảng Cộng sản Nga đã đề ra yêu cầu thay thế quân đội thường trực bằng vũ trang nhân dân, bằng lực lượng dân cảnh. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cương lĩnh cách mạng dân chủ tư sản cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin chủ trương thực hiện vũ trang nhân dân, chủ yếu là công nhân và nông dân. V.I. Lênin khẳng định, không một lực lượng nào trên thế giới dám cả gan xâm phạm đến nước Nga tự do, nếu trụ cột của nền tự do đó là nhân dân vũ trang đã tiêu diệt nền quân phiệt, đã biến tất cả binh lính thành công dân và biến tất cả công dân có khả năng mang vũ khí thành binh lính.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, liên quân 14 nước đế quốc bao vây, tiến công nước Nga. Nguy cơ xâm lược đó trực tiếp đặt ra cho Nhà nước Xôviết nhiệm vụ tất yếu phải vũ trang để chống đế quốc xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xem lại hình thức tổ chức quân sự của mình. V.I. Lênin chủ trương phải vũ trang quần chúng đồng thời nhất định phải tổ chức quân đội thường trực, trên cơ sở vũ trang quần chúng mà xây dựng Hồng quân công nông. Theo V.I. Lênin, việc xây dựng quân đội chính quy
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 43
phải được đưa lên hàng đầu. Đó là một quân đội khác hẳn về chất so với quân đội của giai cấp tư sản, là một quân đội kiểu mới, quân đội nhân dân, quân đội cách mạng, quân đội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin cho rằng, “Hồng quân xã hội chủ nghĩa, một quân đội mà tất cả mọi người xã hội chủ nghĩa chủ trương thành lập, dựa trên cơ sở vũ trang toàn dân”1. “Để bảo đảm chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động và trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột”, trong Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột (tháng Giêng năm 1918), V.I. Lênin “ra sắc lệnh vũ trang những người lao động, thành lập Hồng quân xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân”2. Từ đó Hồng quân công nông ra đời.
Trong chiến tranh hiện đại, quân đội thường trực có những ưu thế rõ rệt so với hệ thống dân cảnh: không lệ thuộc vào địa phương nên có tính cơ động cao; được trang bị vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại; được tập trung huấn luyện trong thời gian dài, một cách toàn diện và có hệ thống theo sát những yêu cầu không ngừng phát triển của kỹ thuật quân sự và nghệ thuật quân sự; có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, được đào tạo công phu, tích lũy được nhiều kinh nghiệm; do đó có sức mạnh chiến đấu lớn và luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu cao...
____________
1. V.I. Lênin: Chiến lược và chiến thuật quân sự trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, Sđd, tr. 361.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t. 35, tr. 264.
44 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
“Cống hiến vĩ đại của Lênin là ở chỗ, Người không những đã xác nhận nguyên lý của Mác và Ăngghen về vũ trang nhân dân mà còn phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen, nêu lên nguyên lý cần thiết phải xây dựng một quân đội thường trực chính quy của Nhà nước Xôviết trên cơ sở vũ trang nhân dân, một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động”1.
Trong quá trình lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, Đảng luôn xuất phát từ những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa và chiến tranh, tiến hành phân tích tình hình cụ thể, nhận thức sâu sắc những quy luật riêng biệt của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam, từ đó mà định rõ phương hướng, phương châm, nguyên tắc cơ bản để xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ địa, hậu phương cũng như chỉ đạo phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân nhằm hoàn thành nhiệm vụ quân sự của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng. Cho nên, đường lối quân sự của Đảng không những phản ánh những quy luật của đấu tranh cách mạng, của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nói chung, mà còn phản ánh những quy luật riêng biệt của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Phương thức tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh, mà trung tâm là chuyển hóa tương quan lực lượng, thực hiện lời
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1197.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 45
chỉ dẫn của Ph. Ăngghen về một dân tộc nhỏ, để chiến thắng một quân đội lớn mạnh thì không được giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. “Khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách mạng, những đội du kích ở khắp mọi nơi - đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng được một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đối lập với một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn”1. Quần chúng nhân dân đông đảo được vũ trang chính là lực lượng cơ bản để tiến hành phương thức chiến tranh như thế.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định tính tất yếu của bạo lực trong cách mạng vô sản. Theo Ph. Ăngghen, “bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”2. Chủ nghĩa Mác chủ trương “vũ trang cho giai cấp công nhân”. Trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin nêu sự cần thiết phải xây dựng quân đội thường trực kiểu mới của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, giải quyết những vấn đề then chốt trong xây dựng Hồng quân. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển những quan điểm này khi chủ trương vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với hình thức tổ chức ba thứ quân.
____________
1. Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, J. Xtalin: Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 72.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 259.
46 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Các nhà sáng lập học thuyết quân sự Mác - Lênin hết sức coi trọng xây dựng hậu phương, khẳng định hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh; bàn nhiều về mối liên hệ giữa kinh tế, hậu phương với chiến tranh, quân đội và quốc phòng trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Theo V.I. Lênin, “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc. Một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”1.
Học thuyết quân sự Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cho sự hình thành đường lối quân sự của Đảng nói chung.
3. Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quân sự của các nước trên thế giới
Trong quá trình lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú ý học tập, vận dụng kinh nghiệm quân sự của các nước trên thế giới.
Trong nghệ thuật lấy ít thắng nhiều, những nhà quân sự nổi tiếng trên thế giới đều hiểu cái lợi của việc dùng lực lượng nhỏ mà giành thắng lợi lớn. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, khuynh hướng chủ yếu trong tác chiến vẫn là lấy nhiều đánh ít khi tiến công. Họ cho rằng, nếu binh lực ít hơn kẻ địch thì
____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 497.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 47
không nên đánh, không nên “lấy trứng chọi đá”1. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, luôn phải chiến đấu với những đội quân xâm lược lớn hơn mình nhiều lần, thì lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn lại là đặc điểm xuyên suốt và trở thành một nghệ thuật quân sự đặc sắc.
Là một nhà hoạt động quốc tế, Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều vấn đề quân sự ở các nước trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc những nội dung tích cực, phù hợp của tinh hoa quân sự thế giới. Người nghiên cứu nhiều vấn đề quân sự của cách mạng tư sản Pháp, của Công xã Paris và quân đội nước Pháp thời cận đại. Người ca ngợi tinh thần anh dũng chiến đấu của quần chúng lao động trong cách mạng tư sản Pháp. Người nghiên cứu nhiều danh tướng ở các nước phương Tây như Napôlêông (Napoléon) của nước Pháp, Nenxơn (Nelson) của nước Anh. Người chú ý việc giải quyết vấn đề thời gian trong chiến tranh của các danh tướng đó.
Trong thời gian hoạt động ở Liên Xô, Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều về Hồng quân Xôviết, rút ra bốn ưu điểm của Hồng quân: “biết phép chiến đấu”; được hưởng một nền văn hóa giáo dục tốt đẹp; có mối quan hệ đặc biệt giữa quân và dân; có những vị chỉ huy tối cao sáng suốt, đủ đức, tài. Nhờ
____________
1. Tôn Tử, một nhà quân sự có tài trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, không hề phủ nhận khả năng lấy ít thắng nhiều, nhưng ông lại đưa ra luận điểm rằng: “Phép dùng binh là có binh lực gấp mười lần thì bao vây, gấp năm lần thì tiến công, gấp đôi thì bắt địch phân tán, bằng ngang thì có thể đánh được; nhưng nếu binh lực ít hơn thì rút lui, yếu hơn thì tránh. Cho nên, lấy binh lực nhỏ mà đánh liều thì sẽ trở thành tù binh của kẻ địch lớn”.
48 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
đó Hồng quân lập được nhiều chiến công, hoàn thành nhiệm vụ được giao1.
Về xây dựng lực lượng quân sự, trước Cách mạng Tháng Mười, đi đôi với việc xây dựng đạo quân chính trị của cách mạng, V.I. Lênin đã lãnh đạo Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân Nga xây dựng một lực lượng vũ trang làm lực lượng xung kích cho cao trào cách mạng của quần chúng. Lực lượng đó giữ vai trò quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Nghiên cứu về quân đội ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh ghi chép Những hiểu biết cơ bản về quân sự2. Người cũng quan tâm nghiên cứu, phổ biến kinh nghiệm tổ chức, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang ở cơ sở. Những năm 1941 - 1944, Người viết Kinh nghiệm du kích Tàu, Kinh nghiệm du kích Pháp, Kinh nghiệm du kích Nga.
Những di sản quân sự phương Đông cổ đại được Hồ Chí Minh chắt lọc qua việc biên dịch Phép dùng binh của ông Tôn Tử (1943), Phép thuật làm tướng của Khổng Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: Phép dùng binh của ông Tôn Tử “tuy đã lâu đời nhưng nguyên tắc đến nay vẫn rất đúng. Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về quân sự đúng, mà dùng về chính trị cũng rất hay”3. Trong những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền và những ngày đầu của chế độ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, Hồ Chí Minh viết 11 bài về
____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 252-254.
2, 3. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 455, 557.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 49
cách dùng binh của Tôn Tử để huấn luyện cho dân chúng và bộ đội.
Nghiên cứu về cuộc chiến tranh ái quốc của nhân dân Liên Xô chống phátxít Đức, các nhà quân sự Việt Nam nhận thấy sức mạnh to lớn của vũ trang quần chúng, của chiến tranh du kích. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong tất cả các lời hiệu triệu của J. Xtalin đều kêu gọi các chiến sĩ Hồng quân, Hải quân, các chiến sĩ du kích gái, trai. Các lực lượng vũ trang của quần chúng trong vùng tạm bị chiếm cũng như trong nhiều trận quyết chiến quan trọng có tác dụng rất to lớn, và phối hợp tác chiến rất đắc lực với quân đội Xôviết. Những bản tổng kết của nhiều tên tướng phátxít Đức cũng phải thừa nhận rằng chiến tranh du kích phát triển rộng rãi ở những vùng bị phátxít Đức chiếm đóng, đã làm đảo lộn các nguyên lý của khoa học quân sự Đức, và đã làm cho quân đội phátxít Đức gặp những khó khăn và tổn thất rất lớn. Trong cách mạng Trung Quốc, chiến tranh nhân dân được phát động ở những vùng nông thôn rộng lớn và đã giành được thắng lợi lớn. Trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Hồng quân đã sát cánh chiến đấu với các đội du kích được tổ chức trong vùng sau lưng địch. Sức mạnh lớn lao của chiến tranh nhân dân được phát huy trong cuộc nội chiến chống Trung Hoa Quốc dân Đảng đã giải phóng lục địa Trung Quốc1.
Sau khi cách mạng và nội chiến ở Liên Xô kết thúc, song song với việc giảm quân số đồng thời nâng cao chất lượng Hồng quân, trong nhiều năm hệ thống dân cảnh vẫn được ____________
1. Xem Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 993-994.
50 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
duy trì dưới nhiều hình thức. Trong chiến tranh chống phátxít Đức (1941 - 1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, các tổ chức du kích, dân quân, công nhân chiến đấu... đã phát huy tác dụng to lớn cùng với Hồng quân đánh thắng phátxít Đức. Trong những vùng bị quân Đức chiếm đóng, hàng vạn chiến sĩ du kích do Đảng Cộng sản tổ chức đã chiến đấu anh dũng, tiêu diệt hàng triệu sinh lực quân Đức. Ngay trên các mặt trận chính diện, nhân dân vũ trang sát cánh chiến đấu với Hồng quân, giữ vững từng tấc đất. Trong nhiều chiến dịch lớn, hàng chục sư đoàn dân quân cùng nhân dân phối hợp với Hồng quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giành nhiều thắng lợi.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Sự kết hợp chiến đấu chặt chẽ giữa quân đội thường trực của Nhà nước Xôviết và nhân dân vũ trang trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, trong đó Hồng quân Liên Xô đóng vai trò chủ yếu là một bức tranh sinh động về chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại”1.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các thuộc địa ngày càng phát triển mạnh. Từ trong khói lửa của những cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng đã ra đời các lực lượng vũ trang cách mạng. Bằng nhiều hình thức đấu tranh, nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc giành được độc lập. Nhiều nước phải trải qua đấu tranh vũ trang, trở thành những nước dân tộc chủ nghĩa. Trong và sau khi giành thắng lợi, nhiều nước ____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1201.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 51
đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách tổ chức quân đội của chính quyền nhà nước dân tộc, đồng thời cũng thực hiện vũ trang cho nhân dân ở những trình độ khác nhau.
Những yếu tố tích cực, tinh hoa quân sự thế giới, từ cổ chí kim, từ phương Đông đến phương Tây được Đảng và Hồ Chí Minh chủ động tiếp thu có chọn lọc và vận dụng trong điều kiện lịch sử mới để phục vụ việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở Việt Nam.
Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm quân sự thế giới, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của Nhân dân Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với hình thức tổ chức ba thứ quân; về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại...
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng chủ trương vừa vũ trang quần chúng, vừa thành lập quân đội cách mạng. Những quan điểm đầu tiên của Đảng nêu rõ việc thành lập đội tự vệ, huấn luyện quân sự cho quần chúng lao động, chuẩn bị điều kiện xây dựng các đội du kích tiến hành chiến tranh du kích và khởi nghĩa vũ trang, xây dựng quân đội công nông.
Trong quá trình học tập, vận dụng lý luận và kinh nghiệm quân sự của thế giới, Đảng đã kịp thời đấu tranh khắc phục khuynh hướng giáo điều, sáng tạo thêm lý luận mới, đóng góp vào kho tàng kinh nghiệm và lý luận quân sự của cách mạng thế giới.
52 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN... IV- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vừa là cơ sở vừa là một bộ phận cấu thành đường lối quân sự của Đảng, bao gồm “những vấn đề có tính quy luật của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng; về quốc phòng và quân đội trong thời đại mới nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; sản phẩm tổng hợp của quá trình vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam; tiếp thu tinh hoa quân sự cổ kim Đông Tây của nhân loại; phát huy nghệ thuật quân sự của một nước nhỏ đánh một nước lớn”1.
Hồ Chí Minh trực tiếp hoạch định đường lối và chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng Việt Nam, để lại một di sản tư tưởng quân sự từ khởi nghĩa toàn dân đến chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng của chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa - hậu phương của chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, trong đó có tư tưởng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
1. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân đạo và hòa bình
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị nước Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa, đàn áp
____________
1. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2003, t. 4, tr. 705.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 53
phong trào yêu nước của Nhân dân. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”1. Để cứu nước, cứu dân phải đánh đuổi giặc cướp nước, đập tan chính quyền của đế quốc, tay sai. Trong chiến tranh phải tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương, làm thất bại mọi âm mưu quân sự và chính trị của chúng thì mới có thể giành thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Theo Hồ Chí Minh, “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”2. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”3.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc. Việc ký kết với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 là sự thể hiện tinh thần đó.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 114.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 391.
54 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Trong khi tiến hành chiến tranh, Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách cứu vãn hòa bình. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ trong quân đội Pháp và những kiều dân Pháp ở Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các nước, vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu gọi đàm phán hòa bình.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh gửi nhiều thông điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ, đề nghị đàm phán hoà bình để kết thúc chiến tranh. Khi quân Mỹ tăng cường chiến tranh, một mặt Người kêu gọi quân dân “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đồng thời chủ trương vừa đánh vừa đàm để kết thúc chiến tranh.
Với tinh thần yêu chuộng hòa bình giữa các dân tộc, tư tưởng nhân đạo đối với con người, Hồ Chí Minh viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong.
Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”1. Hồ Chí Minh nhắc nhở quân đội và nhân dân đối xử tử tế, nhân đạo với tù binh, khoan dung, độ lượng với những người lầm đường lạc lối, giúp họ cải tà quy chính.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 510.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 55
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau. Đó là điểm xuất phát của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang
- Khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang toàn dân, nhằm mục tiêu giành chính quyền.
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “Để một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương có cơ thắng lợi:
1. Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng”1.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. “Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng”2, “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”3.
Trong bản chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (ngày 22/12/1944), Hồ Chí Minh viết: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”4.
Khởi nghĩa vũ trang không phải là một cuộc đấu tranh quân sự thuần túy. Trong tác phẩm Con đường giải phóng, Hồ Chí Minh nói rõ: Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân vùng
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 520.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 283, 297.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 539.
56 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
dậy dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc đấu tranh to tát về chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại.
- Để tiến hành khởi nghĩa thắng lợi phải có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đúng thời cơ. Hồ Chí Minh hết sức coi trọng việc chuẩn bị lực lượng và vấn đề thời cơ. Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng do Người chủ trì (tháng 5/1941) khẳng định: Cách mạng Việt Nam phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị xác định: chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm; “chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần và lực lượng để đối phó với những khó khăn mới”1. Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng tích cực chỉ đạo phát triển lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng để chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa.
Vận dụng luận điểm của V.I. Lênin về tình thế cách mạng, trong tác phẩm Con đường giải phóng, Hồ Chí Minh nêu ba điều kiện của thời cơ khởi nghĩa:
Một là, chính quyền thực dân, đế quốc đã lung lay bối rối đến cao độ, không thể ngồi yên nắm giữ địa vị của chúng như trước.
Hai là, quần chúng đói khổ đã căm thù thực dân, đế quốc đến cực điểm, đã thấy cần phải đồng tâm hiệp lực, nổi dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc, thực dân, vì mọi người hiểu rằng nếu ngồi yên cũng chết.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 513.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 57
Ba là, đã có một chính đảng cách mạng đủ sức tổ chức, lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa theo một đường lối đúng đắn, một kế hoạch phù hợp, đảm bảo giành thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang. Khi còn ở Quế Lâm, Trung Quốc (tháng 11/1940), nghe tin về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Người nói: Tình hình chung trên thế giới ngày càng có lợi cho ta, nhưng thời cơ chưa đến, chưa thể khởi nghĩa được. Song nay khởi nghĩa đã nổ ra rồi, thì cần rút lui cho khéo để duy trì phong trào.
Tháng 5/1941, trong Lời kêu gọi đồng bào, Nguyễn Ái Quốc phân tích nguyên nhân thất bại của các cuộc khởi nghĩa trước đây: Một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân chưa đồng tâm hiệp lực. Mùa thu năm 1944, Hồ Chí Minh chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa ở Cao - Bắc - Lạng vì cả nước chưa có điều kiện hưởng ứng, kẻ thù có thể tập trung lực lượng đàn áp khởi nghĩa ở một địa phương.
Hồ Chí Minh luôn dự đoán thời cơ. Cuối năm 1944, bắt mạch chính xác thời cuộc, Hồ Chí Minh dự đoán cơ hội để dân tộc Việt Nam đứng lên tự giải phóng sẽ đến trong vòng một năm hoặc một năm rưỡi nữa.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Hồ Chí Minh nhận định: thời cơ thuận lợi đã tới, và căn dặn cán bộ: “Dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”1. Ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc
____________
1. Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001, tr. 196.
58 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ”1. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một điển hình thành công về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán thời cơ, nhận định chính xác thời cơ, đồng thời kiên quyết chớp thời cơ phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. - Phương thức tiến hành khởi nghĩa vũ trang là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Hồ Chí Minh nêu sự khác biệt của Việt Nam so với các nước phương Tây: Ở các nước Âu, Mỹ cuộc khởi nghĩa thường hay bắt đầu từ những cuộc bãi công chính trị rồi mới tiếp đến các cuộc vũ trang bạo động. Ở Đông Dương, khởi nghĩa có thể bùng ra ở một vài nơi rồi lan dần khắp nước. Khởi nghĩa bùng ra ở nơi nhiều rừng núi tiện cho lối đánh du kích.
Tư tưởng khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa thể hiện ở Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì: Trong những hoàn cảnh nhất định thì với lực lượng sẵn có, ta có thể tiến hành một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn để giành thắng lợi trong cả nước2.
Từ kinh nghiệm thành công hay thất bại của các cuộc khởi nghĩa ở trong nước và các nước khác, Hồ Chí Minh xác định vị trí chiến lược của chiến tranh du kích. Đó là “cách
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 596.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 132.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 59
đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc”1. Tác phẩm Con đường giải phóng có viết: “Du kích là một cách chiến tranh của dân chúng dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều”. Khởi nghĩa thắng lợi hay không một phần là do du kích có tổ chức vững hay không, phát triển có rộng rãi trong nhân dân hay không.
Tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần ở vùng nông thôn, giành chính quyền bộ phận trong cao trào kháng Nhật, cứu nước là một quá trình đẩy nhanh sự tích luỹ về lượng để dẫn tới bước nhảy vọt về chất khi thời cơ đến. Đó là một thành công của nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng chiến tranh nhân dân
- Kháng chiến toàn dân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh. Hồ Chí Minh đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng nàn của Nhân dân, “đó là một truyền thống quý báu của ta”2. Hồ Chí Minh khẳng định: “Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta”3.
Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 12/1946), Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 499.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 38.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 525.
60 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh nói: “Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”1. “Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân”2. “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”3. Ngày 09/4/1965, trả lời phóng viên báo Acahata (Nhật Bản), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong thời đại chúng ta một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian ác và có nhiều vũ khí”4.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh không chủ trương tiến hành chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào lực lượng quân đội và tiến hành một số trận sống mái với kẻ thù, mà chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân.
Mục đích chiến tranh chính nghĩa làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ.
- Kháng chiến toàn diện.
Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được”5. Trong chiến tranh “quân sự
____________
1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 533, 526.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 23, 412.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 344.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 61
là việc chủ chốt”1, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị. Những thắng lợi chính trị đó sẽ làm cho thắng lợi về quân sự to lớn hơn”2.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược. Hồ Chí Minh chủ trương “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế kháng chiến, phá hoại kinh tế của đối phương. Hồ Chí Minh kêu gọi hậu phương thi đua với tiền phương, coi “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”3, “phải nắm vững tay cày tay súng, đẩy mạnh quốc phòng, trật tự trị an, củng cố dân quân, tự vệ, luôn luôn nâng cao cảnh giáo, sẵn sàng chiến đấu”4.
Theo Hồ Chí Minh, “Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng”5. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Lấy dân làm gốc, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện là nội dung cốt lõi nhất, nổi bật nhất của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”6.
- Kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài nhằm chống
____________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 29, 221, 44. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 493.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 366.
6. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Sđd, tr. 207.
62 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
lại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của quân xâm lược: “Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”1, “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”2.
Hồ Chí Minh phân tích:
“Với binh nhiều, tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau.
Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến”3. “Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau”4.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”5.
Tự lực cánh sinh là một phương châm chiến lược rất quan trọng. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc nói: muốn cứu nước thì không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 539.
2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 426, 423, 424. 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 63
mình đã”1. Tháng 8/1945 khi thời cơ tổng khởi nghĩa xuất hiện Hồ Chí Minh kêu gọi “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”2.
Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần độc lập tự chủ: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”3.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hành tư tưởng này, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
4. Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng chiến lược tiến công: “Kiên quyết không ngừng thế tiến công” bằng nhiều lực lượng, nhiều hình thức đấu tranh là một tư tưởng lớn trong nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh.
Khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải chủ động và kiên quyết tiến hành chiến tranh. Hồ Chí Minh kêu gọi cả
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 320.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 596.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445.
64 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
dân tộc vùng dậy, chủ động đánh giặc; trao cho lực lượng vũ trang lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trong kháng chiến chống thực dân Pháp và lá cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong tác phẩm Cách đánh du kích (1944), Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc “Giữ quyền chủ động”, “Bao giờ cũng giữ thế công”.
Tư tưởng chiến lược tiến công thể hiện cao nhất trong việc giành và giữ thế chủ động, “giữ quyền chủ động chính để giữ thế công. Giữ thế công mới đánh được giặc”1. Hồ Chí Minh nói: “Giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù, muốn đánh nó chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được... giữ được chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ”2. Muốn vậy phải biết địch, biết mình, luôn làm chủ tình thế. “Ta biết rõ địch thì thắng. Nếu để địch biết rõ ta thì sẽ thất bại”3. Phải “thấy trước, chuẩn bị trước”4. Giữ quyền chủ động tiến công nhưng không mạo hiểm mà phải chắc thắng.
5. Kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu
Lực là sức mạnh vật chất và tinh thần.
Thế là không gian và địa bàn hoạt động, là cách bố trí lực lượng, cách chọn hướng tiến công để phát huy sức mạnh chiến đấu. Quyền chủ động chiến lược gắn liền với xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân. Thế lợi thì lực mạnh.
____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 503.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 595.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 552.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 65
“Thế địch như lửa. Thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa”1. Trong Bài nói chuyện với cán bộ cao cấp trong quân đội (tháng 5/1969), Hồ Chí Minh phân tích: “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”2.
Thời là thời gian, thời điểm, thời cơ tiến công địch. Đánh địch vào thời điểm bất ngờ thì mới giành được thắng lợi. Hồ Chí Minh viết:
“Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công”3.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thời gian trong chiến tranh, nắm vững mối quan hệ giữa “thời” và “thế”, kiên quyết chớp thời cơ để giành thắng lợi.
Trong điều kiện nhất định, thời gian có thể trở thành yếu tố chủ yếu để giành thắng lợi. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Phải tranh thủ thời gian. Ta cũng phải tranh thủ thời gian chuẩn bị. Đó là một điều kiện để thắng đối phương. Trong quân sự, thời gian là rất quan trọng, điều kiện thiên thời đứng vào bậc nhất, trước địa lợi và nhân hoà. Có tranh thủ được thời gian, mới đảm bảo được yếu tố thắng địch”4.
Mưu là mưu trí, mưu lược, mưu cơ, mưu kế.
Để thắng kẻ địch mạnh phải dùng mưu kế. Hồ Chí Minh rất sáng tạo trong việc dùng mưu, lập kế để tiến công địch. ____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 179.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 567.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 326.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 461.
66 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Muốn vận dụng lực, thế, thời có kết quả, phải dùng mưu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải quyết đoán, dũng cảm, khi tiến đánh thì phải thật nhanh, nếu trù trừ, do dự sẽ mất thời cơ. Nhưng đánh nhanh không phải là hấp tấp, vội vàng, quên cả cơ mưu, phải vừa nhanh, vừa có mưu kế giỏi mới thắng địch.
Hồ Chí Minh nói, phải “dụ quân giặc vào bẫy để đánh”1, “tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, náo phía Đông đánh phía Tây”2, “du kích cũng như đánh cờ, mưu cao, kế khéo bao giờ cũng ăn”3. Người dạy dĩ nhu xử cương.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nghệ thuật lừa địch, đánh địch bất ngờ: “Về việc quân, không thể đường đường chính chính được mà bao giờ cũng phải áp dụng chiến thuật lừa dối... muốn thắng quân địch phải bày mưu kế làm sao lừa được quân địch vào cạm bẫy, nên không thể không dùng chiến thuật giả dối được”4. “Muốn giả trá, thì dù mình có tài năng cũng làm như mình không có tài năng gì”5. “Thời kỳ tiến đánh quân địch đã đến nơi, nhưng làm thế nào để cho quân địch tưởng là chưa đánh vội”6.
Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh là bậc thầy về “tạo lực”, “lập thế”, “tranh thời” trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng Việt Nam.
6. Đánh bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi cách, mọi vũ khí. Kết hợp đánh du kích với đánh tập trung, đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt
Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh không ____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 505, 504.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 392.
4, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 285, 286, 286.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 67
chỉ đề cập đến những vấn đề chiến lược, mà còn cả những vấn đề chiến thuật và chiến dịch.
Đó là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Hồ Chí Minh chú trọng uốn nắn tư tưởng nóng vội, ham ăn to, thắng lớn khi chưa có đủ điều kiện, thực hiện “góp gió thành bão”, góp nhiều thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to.
Theo Hồ Chí Minh, trong tác chiến phải phát huy tinh thần và dựa vào ưu thế chính trị để đánh địch; vũ khí thô sơ nhưng tinh thần dũng cảm, biết tích cực tìm địch mà đánh, hễ đánh là quyết thắng, trong trường hợp gay go quyết liệt phải có tinh thần “quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”1.
Hồ Chí Minh yêu cầu quân đội phải giết nhiều giặc, cướp nhiều súng, quán triệt tư tưởng đánh tiêu diệt địch: “Đối với một người, làm thương tổn 10 ngón tay không đau đớn bằng cắt đứt hẳn đi 1 ngón tay. Về quân sự cũng vậy, đánh bại 10 sư đoàn không bằng trừ diệt 1 sư đoàn”2.
Phải đánh địch bằng mọi cách: “tập kích”, “phục kích”, “đánh phá đồn bốt”; đánh bằng mọi quy mô: “từng người đánh, từng đơn vị đánh”, “đánh to, đánh nhỏ, khi tập trung khi phân tán”, “xuất quỷ nhập thần, thiên biến vạn hoá”, làm cho kẻ địch không biết đâu mà lường.
Trong chiến tranh phải kết hợp tác chiến với địch vận, đánh vào lòng người. Hồ Chí Minh nói với cán bộ làm công tác binh vận, địch vận: “Sách quân sự có câu: Đánh mà thắng
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 44.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 516.
68 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
địch là giỏi, không đánh mà thắng lại càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng địch là nhờ địch vận”1.
7. Về xây dựng lực lượng khởi nghĩa và chiến tranh
Xây dựng lực lượng chính trị là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh, vì đó vừa là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh quân sự, vừa là lực lượng trực tiếp đánh giặc, đấu tranh từ hình thức thấp đến cao.
Lực lượng chính trị là đạo quân cách mạng vô cùng đông đảo, bao gồm tất cả quần chúng được giác ngộ và tổ chức. “Muốn có đội quân vũ trang phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện cầm súng thì mới thắng được”2.
Trên cơ sở lực lượng chính trị vững mạnh, Hồ Chí Minh từng bước chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, nhấn mạnh muốn phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, chủ yếu phải dựa vào nhân dân, dựa vào đấu tranh chính trị của quần chúng.
Về tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Nhìn thấy nhu cầu trước mắt và lâu dài của lực lượng vũ trang, trong Chỉ thị thành lập Đội
____________
1. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Sđd, tr. 213.
2. Vũ Anh: Hồi ký Bác Hồ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 120.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 69
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tháng 12/1944) Hồ Chí Minh nêu luận điểm vũ trang toàn dân đi đôi với xây dựng quân đội. Theo Hồ Chí Minh, “trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên”1.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi quân đội đã phát triển, có khả năng tác chiến tập trung, nhưng Hồ Chí Minh vẫn hết sức quan tâm chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích và nhấn mạnh vai trò của chiến tranh du kích.
Với hình thức tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân, chiến tranh nhân dân Việt Nam vừa có lực lượng cơ động chiến lược, vừa có lực lượng tại chỗ rộng khắp; có khả năng giải quyết yêu cầu tác chiến tập trung và phân tán; chủ động tác chiến trong mọi lúc mọi nơi với sự kết hợp nhiều hình thức và quy mô khác nhau, thường xuyên chiến đấu giam chân, chia cắt lực lượng quân xâm lược.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề tăng cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang. Trong Bài nói chuyện tại trường chính trị trung cấp quân đội tháng 10/1951, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng ____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 539.
70 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
có chính cương, chính sách. Đã là quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng”1.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở tăng cường đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, đoàn kết giữa quân với dân, đoàn kết quốc tế. Phải mở rộng dân chủ nhưng đồng thời phải tăng cường kỷ luật. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. “Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật”2.
Về quan hệ quân dân, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng quân đội nhân dân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”3. Lực lượng vũ trang vừa phải đánh giặc giỏi, vừa phải ra sức giúp đỡ nhân dân và tuyên truyền, vận động nhân dân. Khi cần thiết phải tích cực tham gia xây dựng kinh tế và giúp dân sản xuất.
Hồ Chí Minh coi trọng các yếu tố tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang. Người nhắc nhở các lực lượng vũ trang phải tăng cường huấn luyện quân sự, ra sức rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, thể lực và nâng cao trình độ văn hoá. “Toàn quân ta phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hoá”4. “Quân đội ta nhất định phải tiến từng bước tiến lên chính quy hiện đại”5.
Lực lượng vũ trang phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ
____________
1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 217, 135.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 574.
4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 324, 588.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 71
luật, tuyệt đối phục tùng chỉ huy. Theo Hồ Chí Minh, “Quân đội ta là quân đội dân chủ, nhưng dân chủ không phải là không có mệnh lệnh. Mỗi mệnh lệnh đưa xuống, cấp trên đã thảo luận cân nhắc kỹ càng nên cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng và kiên quyết chấp hành, nhất là lúc tác chiến”1.
Về giáo dục cán bộ quân đội, Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”2. “Tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi (đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm) thì nước mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn”3. Người đề ra 6 yêu cầu đối với người làm tướng là “Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm - Trung”. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phải gương mẫu. Chính trị viên đối với chiến sĩ “phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”4. Cán bộ “phải thương yêu đội viên. Từ tiểu đội trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên... Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt”5.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng nâng cao chất lượng mọi mặt của quân đội. Để làm được điều đó, theo Hồ Chí Minh, phải “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội”6, “tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ
____________
1, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 217, 76.
2, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309, 484.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 563.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 365.
72 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
nghĩa cho toàn quân”1, “phải tăng cường huấn luyện quân sự và kỹ thuật, phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ và kỷ luật, phải hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất”2.
8. Về xây dựng căn cứ địa, hậu phương của khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân
- Căn cứ địa, hậu phương vững chắc nhất là lòng dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, “phải dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém vật chất”3.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xây dựng cơ sở chính trị trong Nhân dân. Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”4.
Ở đâu có Nhân dân Việt Nam yêu nước thì ở đó có sẵn nhân tố của căn cứ địa, hậu phương. Vì thế, nhất thiết phải dựa vào dân, triệt để khai thác điều kiện nhân hòa. “Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng”5.
Muốn khai thác điều kiện đó phải kiên trì công tác vận động quần chúng. Tháng 7/1952, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra là nhất
____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 365.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 28, 29.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 516.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 73
định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi. Muốn thế phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân. Giáo dục không phải là đưa sách vở bắt dân phải học, làm thế tức là phản lại lợi ích của dân, của cách mạng, là quan liêu, mệnh lệnh. Phải vận động nhân dân để dân tự nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả ngay lúc đó thôi, còn sau thì không thấm”1.
Khai thác sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. - Xây dựng căn cứ địa, hậu phương ở khắp nơi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều loại hình hậu phương của chiến tranh nhân dân: hậu phương chiến lược và hậu phương tại chỗ; ở cả rừng núi và đồng bằng, ở cả nông thôn và thành thị; từ cơ sở chính trị đến căn cứ địa, hậu phương; ở cả phía sau tiền tuyến và ở cả sau lưng đối phương, trong lòng đối phương.
Năm 1940, khi còn ở Quế Lâm, Hồ Chí Minh đã tính đến việc xây dựng căn cứ địa ở Cao Bằng, rồi phát triển xuống Thái Nguyên. Đầu năm 1941, khi mới về nước Người chọn Cao Bằng làm nơi đứng chân đầu tiên vì đó là nơi “có phong trào tốt từ trước”, “có hàng rào quần chúng bảo vệ”, có địa thế hiểm yếu, tiến có thể đánh, lui có thể giữ, nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về xuôi thì cách mạng mới thắng lợi. Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, khi vùng giải
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 448.
74 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
phóng ở Việt Bắc được mở rộng, bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu giải phóng và củng cố thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước.
Sau ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Hồ Chí Minh cử một số cán bộ làm nhiệm vụ củng cố căn cứ địa Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Hồ Chí Minh khẳng định: “Việt Bắc trước kia là căn cứ của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy cái địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình”1.
Nông thôn rừng núi là nơi có đủ điều kiện làm chỗ đứng chân và xây dựng căn cứ địa, hậu phương từ nhỏ đến lớn. Đó là nơi “có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ”2. “Tại nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập”3. “Đội du kích hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở nhỏ đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đánh đuổi được quân giặc và thành lập chính quyền cách mạng trong địa phương”4.
Trong khi coi trọng xây dựng nơi đứng chân ở rừng núi, Hồ Chí Minh chủ trương xây nơi đứng chân ở cả đồng bằng. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, bộ đội hoạt động ở đồng bằng: Các chú ở đồng bằng không có rừng cây, nhưng lại có rừng người, phải dựa vào dân mà chiến đấu. Căn cứ trong lòng ____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 239.
2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 536.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 75
dân là căn cứ vững chắc nhất. Ở đồng bằng, địa hình không thuận lợi như rừng núi, nhưng nếu biết dựa vào đông đảo quần chúng nhân dân được giác ngộ, đồng sức, đồng lòng thì đó sẽ là “rừng người, núi người che chở cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh chú trọng chỉ đạo xây dựng hậu phương chiến lược như căn cứ địa Việt Bắc và các vùng tự do ở Khu IV, Khu V... Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người động viên nhân dân ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt để làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, làm căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam.
Mặt khác, Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng hậu phương tại chỗ của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân rộng lớn ở khắp nơi, ngay cả trong vùng đối phương chiếm đóng, nhằm biến hậu phương của quân xâm lược thành tiền phương của chiến tranh cách mạng.
Trong các đô thị, tuy không thể xây dựng căn cứ địa, hậu phương như ở rừng núi, nhưng có thể xây dựng cơ sở chính trị. Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng (tháng 5/1941) xác định “mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, sản nghiệp, hầm mỏ, đồn điền...”1. Đó là điều kiện để phát động quần chúng nổi dậy, đánh vào các cơ quan đầu não của địch, giành thắng lợi quyết định trong tổng khởi nghĩa; là chỗ dựa để làm rối loạn sào huyệt của kẻ thù trong chiến tranh. Trong Thư gửi Đội du kích Thủ đô (tháng 11/1948), Hồ Chí Minh viết: ____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 130.
76 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
“Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ đô và Vệ quốc quân cần phải thường khuấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công”1.
- Xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh toàn diện. Về chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức Đảng; xây dựng mặt trận và các đoàn thể quần chúng, giáo dục truyền thống yêu nước và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân vì “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”2. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề xây dựng chính quyền: “Chưa thành lập được chính quyền địa phương
thì căn cứ địa khó thành lập và không thể củng cố được”3. Về quân sự, phải xây dựng lực lượng vũ trang. “Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích khá to cần phải xây dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất”4. Về kinh tế, Hồ Chí Minh nói: “Phải bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế của ta, đấu tranh kinh tế với địch”5. “Nếu chỉ biết đánh mà không nghĩ đến kinh tế thì khi hết gạo sẽ không đánh được”6. Người kêu gọi đẩy mạnh tăng gia sản xuất, “hậu phương thi đua với tiền phương”7, sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm, lập “hũ gạo kháng chiến”, “hũ gạo chống Mỹ, cứu nước” để góp phần nuôi quân đánh giặc.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 647.
2, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 164, 39, 446, 44. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 536.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 29.
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 77
Về văn hóa - xã hội, phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”1.
Trong khi ra sức xây dựng căn cứ địa, hậu phương, khai thác sức người, sức của của toàn dân phục vụ khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vận động quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ từ hậu phương quốc tế.
- Xây dựng gắn liền với bảo vệ căn cứ địa, hậu phương. Để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của quân xâm lược, bảo vệ căn cứ địa, hậu phương, phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: “Địch bắn phá ở đâu, chúng không cho ta biết trước, cho nên bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, chúng ta cũng phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng”2. Trong chiến đấu bảo vệ căn cứ phải chủ động ngăn địch từ bên ngoài: “Lúc bảo vệ căn cứ địa cách mạng, đội du kích cũng phải dùng lối phòng ngự. Nhưng lối phòng ngự này là lối phòng ngự thế công chứ không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá”3.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 40.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 693.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 523.
78 ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Khi địch đã tiến vào trong căn cứ thì phải: 1. Dùng lối điều quân lanh lẹ mà phòng ngự, 2. Hết sức dùng mọi cách ngăn cản quân giặc, 3. Thực hành vườn không nhà trống, 4. Hô hào dân chúng tham gia vào việc đánh giặc, 5. Lúc quân giặc tiến vào căn cứ địa mình, mình đánh phá đằng sau chúng, 6. Dùng lối đánh chim sẻ hay lối đánh người Mán1.
Với tư tưởng chủ động tiến công, Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp xây dựng và mở rộng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến với đẩy mạnh chiến đấu thu hẹp hậu phương của đối phương: “Chiến trường sau lưng địch phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt, tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch”2.
9. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân hình thành và phát triển trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, kết hợp xây dựng và bảo vệ hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng và bảo vệ miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện ở những nội dung cơ bản như sau:
____________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 525-526.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 28.