🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dòng Tên Sử Lược Ebooks Nhóm Zalo Dòng Tên sử lược LỜI NÓI ĐẦU Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn. iii NỘI DUNG PHẦN I: KHAI NGUYÊN ............................................. 1 THÁNH INHÃ: BỐI CẢNH LỊCH SỬ ........................ 2 TUỔI TRẺ (1491-1521) ............................................... 8 HOÁN CẢI ................................................................. 16 ƠN GỌI TÔNG ĐỒ .................................................... 23 HÀNH HƯƠNG GIÊRUSALEM .............................. 34 BƯỚC ĐẦU TIÊN HỌC TẬP .................................... 39 ĐẠI HỌC PARIS ....................................................... 46 NHÓM BẠN MONTMARTRE ................................. 51 THÁNH INHÃ MỘT MÌNH VỀ TÂY BAN NHA RỒI ĐI VENEZIA .............................................................. 62 ĐOÀN TỤ .................................................................. 69 TIẾN VỀ ROMA ........................................................ 75 MÙA CHAY 1539 ...................................................... 81 DÒNG TÊN ĐƯỢC GIÁO HỘI CÔNG NHẬN ....... 100 HỌP MẶT MÙA XUÂN 1541 ................................. 107 NHỮNG SỨ VỤ ĐẦU TIÊN ................................... 115 GÂY DỰNG MẦM NON ........................................ 131 SOẠN THẢO NỘI QUI ........................................... 137 THAM DỰ CÔNG ĐỒNG TRENTO....................... 155 THÁNH INHÃ TẠI NHÀ ĐỨC MẸ TRÊN ĐƯỜNG ................................................................................... 161 PHẦN II: NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM ............ 179 DÒNG TÊN 25 NĂM SAU THÁNH INHÃ ............. 180 DÒNG TÊN DƯỚI THỜI TỔNG QUẢN AQUAVIVA (1581 -1615) .............................................................. 195 DÒNG BỊ GIẢI THỂ ................................................ 213 DÒNG SỐNG SÓT .................................................. 247 DÒNG ĐƯỢC TÁI LẬP .......................................... 254 HAI THẾ KỈ DÒNG MỚI ........................................ 264 PHẦN III: CÁC SỨ VỤ ............................................ 279 SỨ VỤ TẠI MADURA (1604-1546) ....................... 280 100 NĂM DÒNG TÊN TRUYỀN ĐẠO Ở NHẬT BẢN (1549 - 1652) ............................................................. 295 KHỞI ĐẦU CÔNG CUỘC TRUYÊN GIÁO TẠI TRUNG HOA ............................................................ 327 CUỘC TRANH LUẬN VỀ THÍCH NGHI VỚI VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC Ở CHÂU Á ............................ 356 iv CHA ĐẮC LỘ VÀ SỨ VỤ VIỆT NAM ................... 378 SỨ VỤ TẠI PARAGUAY: CỘNG HÒA GUARANÍ ................................................................................... 393 PHỤ TRƯƠNG: LINH MỤC PEDRO ARRUPE (1907 - 1991) .................................................................................. 424 v PHẦN I: KHAI NGUYÊN THÁNH INHÃ: BỐI CẢNH LỊCH SỬ Châu Âu thế kỉ XVI Đế quốc Roma bao trùm quanh Địa Trung Hải chính thức chia đôi năm 395, và từ đó suy yếu hẳn. Trước sức tấn công của dân man-di, đế quốc Tây sụp để năm 476. Người man-di sống thành những bộ lạc hay những quốc gia nhỏ xíu. Năm 800, với sự ủng hộ của Giáo hội, Charlemagne tái lập đế quốc Roma, bắt vua chúa các nước nhỏ phải phục tùng. Đế quốc này kéo dài chẳng được bao lâu cũng tan rã. Năm 962, Otto I quy tụ các nước nhỏ ở Đức và Ý thành lập đế quốc La Đức. Trong thực tế, Châu Âu đầy những quốc gia nhỏ độc lập theo chế độ phong kiến. Tuy nhiên, cả Châu Âu vẫn còn một nguyên lý thống nhất là Kitô giáo, được tượng trưng cụ thể bằng Đức Giáo Hoàng. Chính vì thế mà cả Châu Âu đồng lòng trong những trận viễn chinh của các đoàn binh Thánh Giá vào thế kỉ XI-XIII. Những cuộc viễn chinh thánh giá không đem lại kết quả lâu bền nào, trái lại, người Hồi bành trướng không ngừng. Năm 1453, kinh thành Ponstantinopoli của đế quốc thất thủ. Toàn bộ đế quốc Roma cũ sụp đổ. Đến thế kỉ XVI, người Arập chiếm trọn bán đảo Balkan, đẩy biên giới của Châu Âu Kitô giáo đến tận Wiên (thủ đô Áo). Phong trào phục hưng Triết lý kinh viện ngự trị độc tôn suốt hai thế kỉ trong khắp các đại học Châu Âu từ thời thánh Tôma. Quá lệ thuộc, người ta chỉ quanh quẩn trong những vấn đề giả tạo, chẳng dính dáng gì đến đời sống cụ thể. 2 Vào thế kỉ XV, một trào lưu tư tưởng mới xâm nhập giới trí thức Châu Âu. Khi đế quốc Đông sụp đổ, nhiều nhà trí thức lánh nạn sang phương tây, đem theo cả những tư tưởng Hy Lạp. Người ta nô nức trở về với nền văn hóa ngoại giáo cổ truyền. Phong trào phục hưng khởi đầu ở Ý chẳng bao lâu sau đã lan rộng khắp Âu Châu, làm thay đổi mọi thứ cảm quan của thời Trung Cổ. Một thời đại mới đang bắt đầu với lối suy tưởng mới, nền văn chương mới, lối kiến trúc mới, nếp sống mới. Phong trào phục hưng được nhiều vị Giáo hoàng bảo trợ như Sixtô V (1471-1484), Giuliô II (1503- 1513), Leô X (1513-1521). Phong trào cải cách Tin lành phần nào là phản ứng chống lại phong trào phục hưng mang nặng tính cách thế tục đã xâm nhập nhiều lãnh vực của Giáo hội. Giáo hội Vào cuối thời Trung Cổ, Giáo hội xảy ra một cơn khủng hoàng lớn trong nội bộ, gây chia rẽ trong dân Chúa và làm suy giảm uy tín hàng giáo phẩm. Do áp lực của triều đình Pháp, bảy đời Giáo Hoàng trong gần 70 năm (1309-1376) đã lập Tòa Thánh ở Avignon. Sau đó là thời chia rẽ trầm trọng kéo dài gồm 40 năm (1378-1417): trong cùng một lúc có hai rồi ba Giáo Hoàng, vị này tuyệt thông vị kia, đến cả những vị thánh cũng không biết ai thật ai giả. Cuộc khủng hoảng kéo dài hơn một thế kỉ làm Giáo hội như bị tê liệt, và mất hết uy tín đối với các quốc gia Châu Âu. Wieliff (1328-1384) ở Anh và Gioan Huss (1369- 1415) ở Tiệp Khắc tự do gieo rắc những tư tưởng lạc giáo. Trong khi đó, các Giáo Hoàng thường lo việc thế tục hơn việc mục vụ. Các giám mục phần đông sống 3 xa hoa và làm chính trị. Các linh mục hầu hết nghèo túng, và không được huấn luyện gì cả về văn hóa lẫn đạo đức. Đa số sống vô trật tự. Giáo dân giữ lòng đạo đức khá, nhưng vì thiếu chiều sâu, nên chỉ có một thứ đạo đức sợ sệt, nặng về tình cảm, đầy rẫy mê tín dị đoan. Đây đó nhiều người lên tiếng kêu gọi cải tổ Giáo hội, nhưng thường là thất bại. Một trường hợp điển hình là linh mục Savonarola (1452-1498) dòng Đa minh bị thiêu sống ở Firenze (Ý). Năm 1517, Luther khởi đầu phong trào cải cách Tin lành gây nên một cuộc khủng hoảng chưa từng có trong Giáo hội và kéo dài đến ngày nay. Tây Ban Nha và miền Basque Người Ảrập chiếm Tây Ban Nha từ năm 711. Từ đó trong suốt hơn bảy thế kỉ người Tây Ban Nha phải chiến đấu để giải phóng đất nước. Các chiến khu được thiết lập ở miền bắc và dần dần mở rộng vùng giải phóng xuống phía nam. Đến cuối thế kỉ XIII, người Arập chỉ còn kiểm soát được miền Granada. Năm 1492, Isabel và Fernando kết hợp lực lượng hoàn thành giải phóng Granada: cuộc kháng chiến đã thành công trọn vẹn, người Arập chẳng những bị đuổi ra khỏi Tây Ban Nha mà còn bị quét sạch khỏi Tây Âu. Dân tộc Basque là một sắc tộc đặc biệt sống ở miền nam nước Pháp và miền bắc nước Tây Ban Nha. Họ có ngôn ngữ và phong tục riêng, ở Tây Ban Nha có bốn tỉnh Basque là Guipúzcoa, Vizcaya, Álava và Navarra. Từ năm 1284, tỉnh Navarra là một miền tự trị liên minh với Pháp và thù nghịch với Tây Ban Nha. Năm 1513, Navarra bị sáp nhập vào vương quốc Castilla của Tây Ban Nha. Riêng ba tỉnh kia trước sau 4 vẫn trung thành với triều đình Castilla. Tuy nhiên dân Basque vẫn có quy chế chính trị riêng. Có thể nói họ phần nào được tự trị. Những khám phá mới 1. Máy in do Gutenberg (1394-1468), người Đức, chế tạo năm 1440, nhờ đó các tư tưởng mới được phổ biến nhanh chóng và sâu rộng. 2. Đất mới. - Năm 1492, Colombo (1431-1506) khám phá ra Châu Mỹ mà lúc đó ông tưởng là Ấn Độ. - Năm 1497, Vasco da Gama (1469-1524) khám phá ra đường biển từ Châu Âu đi Ấn Độ qua mũi Hảo Vọng. Những khám phá này đã làm cho biên giới mặt đất như mở rộng, đồng thời kích thích óc phiêu lưu và chinh phục của người Châu Âu. Thực vậy, chẳng bao lâu sau, các thuộc địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được thiết lập khắp nơi, ở Trung và Nam Mỹ, ở duyên hải Châu Phi và Ấn Độ, cũng như ở nhiều cửa biển khác. Gia đình Loyola Gia đình Loyola là một gia đình võ biền, rất trung thành với triều đình Tây Ban Nha, kể cả khi chống lại người đồng chủng ở Navarra. Đây là một trong 24 gia đình cường hào ở tỉnh Guipuzcoa. Dân chúng tỉnh này hầu hết làm nghề nông và thợ rèn, nhưng nổi tiếng là hiếu chiến. Cũng như các gia đình cường hào khác, thỉnh thoảng gia đình Loyola dùng võ lực đi cướp đoạt tài sản những kẻ yếu hơn. Trong trận Beotibar năm 1324, liên quân Tây Ban Nha và Guipuzcoa đại thắng liên quân Pháp và Navarra. Pérez de Loyola cùng với 5 Lâu đài Loyola bảy người con trai đã nổi bật trong cuộc chiến thắng. Ngày nay, mỗi năm vào lễ thánh Gioan Tẩy Giả, dân làng Tolosa vẫn còn hội họp nhau để ca ngợi chiến công ấy của gia đình Loyola. Khi thánh Inhã chào đời, hình như thân sinh còn đang chiến đấu ở Granada. Về mặt tôn giáo, lâu đài Loyola nằm trong họ đạo Azpcilia, thuộc giáo phận Pamplona, thủ phủ của Navarra. Hơn nữa, gia đình Loyola còn được quản lý tài sản của nhà thờ họ đạo. Mỗi năm nhà thờ họ đạo có lợi lức 10 ngàn đucat mà gia đình Loyola được hưởng 10%. Ngoài ra, gia đình còn có 20 nông trại, lợi lức hàng năm tổng cộng chừng 700 đucat. Chính thánh Inhã cho biết để một sinh viên ăn học trong một năm ở Paris cần 50 đucat. Như vậy, gia đình Loyola thật là giàu. Có lẽ vậy mà sau này thánh Inhã dè dặt với giáo bổng. Liên kết chặt chẽ với triều đình Tây Ban Nha trong kháng chiến cũng như trong các cuộc viễn chinh, cha mẹ của thánh Inhã có bốn người con trai chết cho triều đình: Juan và Beltrán năm 1498 ở Napoli, Fernando năm 1510 ở Mêhicô, Ochoa năm 1502 ở Hungari. Sống trong một gia đình như vậy, thánh Inhã dễ nhìn đời sống như một cuộc chiến đấu tự vệ và chinh phục. Khi trở thành tông đồ, ngài nhìn đời sống như một cuộc chiến giữa Đức Kitô và Satan. Một hiệp sĩ trong 6 cuộc chiến đấu ấy sẽ phải hiến thân để bảo vệ và truyền bá đức tin: đó chính là sứ mạng của Dòng. 7 TUỔI TRẺ (1491-1521) Chúng ta có rất ít tài liệu về tuổi trẻ của thánh Inhã cho đến ngày ngài bị thương ở Pamplona. Ít ai ngờ được ngài sẽ là một khuôn mặt lớn trong lịch sử Giáo hội và thế giới. Năm sinh Mở đầu cuốn Hồi ký, thánh Inhã viết: “Từ thời niên thiếu cho đến năm 26 tuổi, chàng chỉ lo chạy theo những chuyện tào lao của người đời...” Năm 26 tuổi thánh nhân muốn nói tới là năm 1521, khi ngài bị thương ở Pamplona và bắt đầu cuộc hoán cải thời danh trong Giáo hội. Như vậy ngài phải sinh năm 1495. Nhưng cũng trong cuốn Hồi ký, số 30, chúng ta đọc thấy: “Nếu tính chung tất cả những điều Chúa đã ban, và những điều chàng đã học suốt cả đời, tức là 62 năm qua...” Thánh nhân kể đoạn này vào năm 1555. Nếu vậy, ngài phải sinh năm 1493. Thực ra, cũng như bao nhiêu người đương thời, thánh Inhã không biết chính xác mình sinh năm nào. Năm 1556, sau khi thánh Inhã qua đời, người ta đã hỏi về năm sinh của ngài, bà vú nuôi cho biết không phải năm 1493 nhưng là 1491. Cha Nadal cho rằng thánh Inhã qua đời năm 64 tuổi, tức là ngài sinh năm 1492. Polanco trước nhận năm 1491, nhưng sau lại nhận năm 1495. Ribađcneira, người đầu tiên viết tiểu sử thánh Inhã, sau khi đắn đo cân nhắc cẩn thận, trong cuốn sách xuất bản năm 1572, đã nhận năm 1491. Niên đại này được coi như chính xác cho mãi tới đầu thế kỉ XX người ta mới đặt lại vấn đề ở Đức và ở Pháp. Cha Đuđon trong cuốn Saint Ignace de Loyola (Paris, 8 1934) trở lại với năm 1493, nhưng lại thêm dấu chấm hỏi do dự. Cha Leturia, trong cuốn El Gentilhombre Inĩgo Lopez de Loyola, cho biết đã phát hiện ra trong một đống các tài liệu chép tay một văn kiện của viên trưởng khố Azpeitia đề ngày 23.10.1505. Đây là văn kiện bán một con ngựa, trong đó có kể tên ba người chứng gồm một linh mục và hai giáo dân. Trong hai giáo dân, một người là Inĩgo de Loyola. Cho đến nay, người ta chưa tìm ra một ai khác đương thời trùng tên với thánh Inhã. Nhưng theo luật Roma, luật Tây Ban Nha, luật Basque cũng như luật Giáo hội, không ai có quyền làm chứng như vậy nếu chưa tròn 14 tuổi. Như vậy có thể kết luận thánh Inhã phải sinh trước ngày 23.10.1491. Điều này trùng hợp với lời chứng của bà vú nuôi. Hiện nay người ta lại đồng ý với niên đại này. Nếu làng Azpeitia hiếu hòa hơn để sổ rửa tội khỏi bị thiêu hủy, hẳn chúng ta đỡ tốn bao nhiêu công sức và giấy mực về ngày sinh của thánh l-nhã. Nhưng biết đâu nếu vậy Inĩgo de Loyola lại chẳng bao giờ trở thành thánh Inhã! Thiếu thời Ông Beltrán Yáncz de Loyola và bà María Sánchez de Licona thành hôn ngày 13.07.1467. Ông bà sinh được tất cả bảy người con trai và bốn người con gái. Thêm vào đó phải kể ba người con ngoại hôn. Thánh Inhã là con út, hay ít nhất cũng là con trai út. Ông Beltrán qua đời ngài 23.10.1507. Bà María qua đời khi nào không rõ, không khi nào thánh Inhã nhắc đến mẹ. Có lẽ bà qua đời từ khi thánh Inhã còn nhỏ, nên ngài không có kỉ niệm nào về mẹ, trái lại rất quý mến bà chị Magdalena de Araoz, vì hình như bà này 9 chăm sóc ngài thay cho mẹ. Năm 1496, anh lớn là Juan Pérez chết trận, quyền thừa kế chuyển qua Martín García. Anh này cưới cô Magdalena ngày 11.9.1498. Theo thói quen, một người con trong gia đình làm linh mục để hưởng giáo bổng nhà thờ San Sebastián họ đạo Azpeilia, đó là Pero López. Cuộc đời vị linh mục này không nêu gương sáng bao nhiêu. Năm 1529, Azpeitia ngài qua đời khi đang giữ chức chánh xứ, để lại bốn người con rơi. Tuy nhiên, vào thời ấy, điều này chẳng làm ai ngạc nhiên! Nói chung, gia đình Loyola kém học thức. Trong số mấy người con gái, chỉ có một người biết ký tên. Về mặt đạo, có thể nói gia đình Loyola có đức tin mạnh mẽ, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin, nhưng đời sông luân lý không phù hợp mấy với Tin Mừng. Ngay từ nhỏ, có lẽ vì mẹ đã qua đời, thánh Inhã được trao cho vợ một người thợ rèn nuôi. Cha Futrell viết: “Chú bé Inĩgo trộn lẫn đức tin của cha mẹ quý phái với lòng đạo đức đơn sơ của giới bình dân”. Nhà bà vú nuôi cách lâu đài Loyola chừng một cây số. Chính bà dạy thánh Inhã nói tiếng Basque cũng như đọc kinh cầu nguyện. Thánh Inhã thích nhạc, điều đó đương nhiên vì người Basque nào cũng vậy. Ngài cũng học những điệu múa dân gian rất phổ biến ở miền ấy. 10 Một món ăn đặc biệt của xứ Basque là hạt lạt rang, thánh Inhã khi đã già vẫn còn thích. Sau này, khi ngài đau yếu, hễ được nghe nhạc là ngài thấy thoải mái. Và ở Roma, anh em trong Dòng thường chiêu đãi ngài bằng cách dọn cho ngài ít hạt lạt rang. Thánh nhân có kể lại cho Ribađeneira chuyện một lần, khi còn nhỏ, ngài đã vào vườn người khác ăn cắp trái cây. Khi kể chuyên này, dù lúc ấy đã già, ngài vẫn đỏ mặt vì xấu hổ. Ông Beltrán cho Inĩgo đi học, hy vọng sau này làm thư ký, một nghề rất có giá thời ấy, vì hầu hết dân chúng không biết đọc biết viết. Nhưng Inĩgo không thích học bao nhiêu. Ông Beltrán đổi ý: cho Inĩgo chịu chức cắt tóc để gia nhập hàng giáo sĩ, hy vọng được hưởng một giáo bổng khá. Tiểu đồng ở Arévalo Ông Beltrán có người bạn là Juan Velázquez làm Tổng Giám đốc công khố hoàng gia, trụ sở tại Arévalo. Inĩgo được gởi đến Arévalo để được huấn luyện trở thành một quan chức của triều đình. Chắc thánh Inhã đến Arévalo trước năm 1507 khi ông Beltrán chết và sau năm 1504 khi hoàng hậu Isabel chết. Thánh Inhã học được những gì ở Arévalo? Không biết rõ. Nhưng chắc cũng như các tiểu đồng thời ấy: học văn chương và võ nghệ. Thời ấy văn võ chưa phân biệt nhiều, nên tuy Inĩgo được huấn luyện trở thành quan chức dân sự, nhưng lại ăn mặc và xử sự như một chiến sĩ. Vì công vụ, chắc Inĩgo thỉnh thoảng cũng đi đây đó, và có thể tham dự vào các trận chiến nữa. Năm 1512, Tây Ban Nha chiếm Navarra, hẳn sự kiện này có ảnh hưởng trên con người Inĩgo. “Nàng không phải chỉ thuộc hàng bá tước hay công tước, nhưng còn cao sang hơn thế nữa” (HK 6). Các 11 tiểu đồng thường đọc tiểu thuyết hiệp sĩ: đầu óc mơ tưởng những cuộc phiêu lưu. Mỗi chàng nhận một tiểu thơ làm người lý tưởng để phục vụ. Inĩgo rất thích loại tiểu thuyết này (HK 5). Cũng trong chiều hướng đó, các tiểu đồng thường làm thơ dâng cho người đẹp lý tưởng. Đầy cao vọng, Inĩgo không chỉ chọn tiểu thơ trong hàng công tước hay bá tước, nhưng cao sang hơn thế nữa: hẳn là một công chúa. Dinh bà thái hậu đặt ở Arévalo. Bà này giữ khư khư bên mình công chúa Catarina. Phục vụ tại sở công khố hoàng gia, hẳn là đã có dịp Inĩgo được gặp mặt công chúa. Và máu hiệp sĩ của chàng nổi lên: chàng nghĩ đến một ngày kia sẽ giải thoát công chúa khỏi chiếc lồng vàng của bà thái hậu. Thánh Inhã nói thời đó ngài làm một bài thơ kính thánh Phêrô mà ngài sùng mộ cách riêng. Cha James Brodrick bình luận: “Tiếc là bài thơ đã hoàn toàn thất lạc. Có lẽ nền văn chương thế giới cũng chẳng thiệt hại gì. Có điều người ta tò mò muốn biết một người viết văn không xuôi như thánh Inhã thì làm thơ thế nào!” Tại Arévalo, tâm trí của Inhã được nhào nắn với những ý tưởng Tây Ban Nha về danh dự, trung tín và phục vụ đức vua. Trong khoảng 10 năm ở Arévalo, chắc Inĩgo về quê nhiều lần. Đặc biệt mùa hội hoá trang năm 1515. Vì thiếu tài liệu, đến nay vẫn chưa ai rõ việc gì đã xảy ra trong đêm ấy. Chỉ biết hình như Inĩgo là thủ phạm, và linh mục Pero là đồng lõa, đã “phạm những tội tầy trời vào ban đêm, có suy tính trước, bằng một cuộc mai phục và phản bội...” Cả hai bị tố cáo trước tòa án tỉnh Guipúzcoa. Inĩgo nại đến chức cắt tóc để được xử trước tòa án đạo (thời ấy hàng giáo sĩ được xét xử do tòa án của Giáo hội, và ai chịu chức cắt tóc thì được kể vào hàng giáo sĩ). Nhưng tòa án bác bỏ vì từ lâu không thấy 12 Inĩgo bận áo của hàng giáo sĩ, hơn nữa lại để tóc dài, mang kiếm và võ khí, ăn mặc như một hiệp sĩ. Vả lại, trong danh sách các giáo sĩ đăng ký tại giáo phận Pamplona, người ta không thấy có tên Inĩgo. Nhưng cuối cùng, vì gia đình Loyola vận động với triều đình, nên tòa án không thụ lý, và vụ án chẳng đi đến đâu. Năm 1516, vua Fernando chết. Carlos V1 kế vị sửa di chúc, bắt Arévalo trợ cấp cho hoàng hậu. Velázquez phản đối và dùng cả đến võ lực để chống lại triều đình. Không rõ hai bên có giao tranh không. Kết quả Velázquez mất chức và qua đời ngày 12.8.1517. Không biết Inĩgo có dính líu gì vào vụ này không. Cố thủ tại Pamplona Velázquez mất chức, Inĩgo đến giúp việc cho công tước Antonio Manrique de Lara thành Nájera, vừa được bổ nhiệm làm phó vương Navarra, mà thủ phủ là Pamplona. Vua Francois I nước Pháp từ lâu vẫn thù nghịch với Carlos V của Tây Ban Nha. Henri d’Albret, con của vị vua cuối cùng nước Navarra, sống lưu vong tại Pháp. Lợi dụng lúc Tây Ban Nha gặp nhiều khó khăn, tháng năm, 1521, quân Pháp gồm 12 ngàn bộ binh, 600 tay lao, 29 đại pháo, dưới quyền chỉ huy của tướng André de Foix xâm nhập Tây Ban Nha. Quân Pháp tiến nhanh như vào chỗ không người. Cùng đi với đoàn quân Pháp là Henri d’Albret và đám tùy tùng, trong đó có hai người anh ruột của thánh Phanxicô Xavier. Dân Pamplona, phần còn trung thành với triều đình cũ, phần thấy sức mạnh của quân Pháp, đã tự động cử người đến gặp viên tướng Pháp để điều đình, 1 Vua Carlos sinh ra tại Flandre và trở nên vua Tây Ban Nha với tên là Carlos I, và hoàng đế của Đức với tên là Carlos V. 13 và nhận đầu hàng với điều kiện quân Pháp không được cướp của hay giết người. Ngày lễ Hiện xuống (19.5.1521) quân Pháp vào thành. Chỉ còn toán quân trong đồn kháng cự. Không rõ Inĩgo đến Pamplona lúc nào. Chỉ biết trong cuộc điều đình giữa quân Pháp và quân Tây Ban Nha trong ngày lễ Hiện Xuống năm ấy, Inĩgo có mặt trong đoàn thương thuyết. Quân Pháp đặt ra những điều kiện mà Inĩgo coi là nhục nhã, nên thuyết phục cấp chỉ huy quân Tây Ban Nha tử thủ: thà chết chứ không đầu hàng. Hình như viên tướng Pháp cảm phục khí phách của Inĩgo từ lúc đó, nên sau này đối xử với tinh thần mã thượng. Lưu ý điều này là Inĩgo không phải là một quân nhân chuyên nghiệp và cũng không phải là chỉ huy trưởng toán quân đồn trú tại Pamplona. Inĩgo là một hiệp sĩ và có lẽ nhận sứ mạng khích lệ tinh thần chiến đấu của binh sĩ tại đó. Trong đồn, trước sức mạnh của quân Pháp, ai cũng muốn đầu hàng, kể cả viên chỉ huy. Có người trốn ra ngoài để khỏi mang vạ. Có người hạ cờ Tây Ban Nha và treo cờ Pháp lên. Chỉ một mình Inĩgo cương quyết tử thủ và thuyết phục được viên chỉ huy. Biết chắc sẽ chết trong đồn, Inĩgo xưng tội với một chiến hữu, theo thói quen thời Trung Cổ, khi không có linh mục. Ngày 20.5.1521, quân Pháp bắn pháo vào đồn. Quân Tây Ban Nha bắn trả. Sau sáu giờ giao tranh, Inĩgo bị trúng đạn pháo, chân phải bị gãy, chân trái bị thương. Linh hồn của cuộc tử thủ đã ngã xuống, viên chỉ huy đồn cho kéo cờ trắng đầu hàng. Sau chiến thắng Pamplona, quân Pháp kéo đến bao vây Logronõ, nhưng bị quân Tây Ban Nha ở đó kháng cự mãnh liệt, phải rút lui. Trên đường rút quân về 14 Pamplona, quân Pháp bị quân Tây Ban Nha đánh tan. Ngày 30.6.1521, quân Tây Ban Nha tái chiếm Pamplona mà không mất một viên đạn nào. Tướng André de Foix bị bắt, và Pháp phải trả mười ngàn ducat để chuộc mạng. 15 HOÁN CẢI Sau khi quân Tây Ban Nha đầu hàng, Inĩgo được quân Pháp đối xử tử tế theo tinh thần thượng võ. Người ta băng bó và lo thuốc thang, nhưng vì vết thương nặng, nên người ta cho khiêng chàng hiệp sĩ ngã ngựa về lâu đài Loyola để lo chữa trị. Chính tại đây đã xảy ra cuộc hoán cải thời danh trong Giáo hội, tạo nên thánh Inhã, Dòng Tên, và một giai đoạn mới trong lịch sử Giáo hội. Còn mê sự đời Đón Inĩgo tại lâu dài Loyola lúc đó là người chị dâu tốt bụng Magdalena Araoz. Anh Martín là trưởng tộc còn đang tham chiến ở Castilla. Các thầy thuốc tiến hành phẫu thuật đầu gối phải để bó lại các xương bị vỡ. Đã có lúc tưởng chừng như Inĩgo không qua khỏi. Hôm trước ngày lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ, Inĩgo chịu các bí tích sau hết. Các thầy thuốc cho biết nếu đến nửa đêm hôm đó bệnh nhân không cảm thấy khá hơn thì coi như hết hy vọng. Nhưng chính đêm ấy, Inĩgo cảm thấy khá hơn và chỉ ít hôm sau các thầy thuốc cho là đã qua nguy hiểm. Chẳng bao lâu, Inĩgo nhận ra một cái xương lòi ra ở đầu gối. Điều đó chẳng làm cho bệnh nhân đau đớn gì. Nhưng Inĩgo cho như vậy là khó coi, nên nhất định đòi các thầy thuốc mổ lại lần nữa. Anh Martín hết sức can ngăn, nhưng Inĩgo vẫn cương quyết. Thế là lại tiến hành phẫu thuật một lần nữa. Lần nào cũng vậy, dù đau đớn đến đâu, Inĩgo chỉ nắm tay chịu đựng chứ không kêu la tiếng nào. 16 Nguy hiểm đã qua, Inĩgo muốn giết thời giờ trên giường bệnh bằng những cuốn tiểu thuyết hiệp sĩ. Chị Magdalena hẳn đã tìm khắp nơi, nhưng không tìm được. Bản thân chị không biết đọc tiểu thuyết hiệp sĩ, mà chỉ có hai cuốn sách đạo, chị đưa cho Inĩgo đọc đỡ. Đó là cuốn Cuộc Đời Chúa Giêsu của đan sĩ Ludolphô dòng Chatreux, và cuốn Bông Hoa các Thánh của chân phước Giacôbê dê Voraginê, dòng Đa minh, thường được gọi một cách bình dân là cuốn Những Truyện Vàng Ngọc. Nhận định thần loại Cuộc Đời Đức Kitô nguyên tác bằng tiếng Latinh, là cuốn sách đầu tiên về cuộc đời Chúa Cứu Thế, được xuất bản năm 1474. Bản dịch tiếng Tây Ban Nha xuất bản năm 1502 do linh mục Ambrosio đc Monlcsino dòng Phanxicô thực hiện. Vị này là một thi sĩ và là tuyên úy của nữ hoàng Isabel. Đây không phải là một bản tiểu sử, nhưng là những bài gợi ý suy niệm dựa trên những biến cố trong cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu. Cha Brodrick viết: “Người ta tìm được ở đó cùng với một kiến thức rộng về Kinh Thánh là một lòng đạo đức vừa dịu dàng vừa sâu sắc của thời Trung Cổ, tương tự như nơi thánh Bernardo, thánh Phanxicô và thánh Bonaventura.” Cha G. Cusson nhận xét: “Có thể nói tóm tắt là cái nhìn thiêng liêng của Luđolphô sâu sắc cả trong tính Kitô lẫn trong tính Ba Ngôi, vì Đức Kitô không bị tách ra khỏi tâm điểm của Ngài là đời sống thần linh hoặc bị coi là một con người thần linh đơn độc. Cái nhìn này cũng trình bày một cảm thức rất minh bạch về thụ tạo, về sự dữ và về cứu độ, trong tương quan với Đức Kitô như được nói trên.” 17 Cuốn Bông hoa Thánh Thiện nguyên tác là Flos Sanctorum, bản dịch Tây Ban Nha không rõ của ai, ấn hành lần đầu tại Zaragoza, sau đó tái bản tại Toleđô năm 1511. Mở đầu, dịch giả giới thiệu Chúa Giêsu là “Đức Vua muôn đời”, các vị thánh là những người theo “ngọn cờ bách chiến bách thắng” của Ngài, bắt chước đời sống và cái chết “kỳ diệu” của Ngài. Cha J. de Gulberl ghi nhận: “Những câu truyện nhiều tình tiết mạo hiểm lạ thường và đôi khi lãng mạn này đã lôi cuốn Inĩgo hơn các bài suy niệm khô khan của Luđolphô dòng Chartreux nhiều.” Đặc biệt gương thánh Onuphriô đã làm Inĩgo say mê. Theo truyền thuyết, đó là một nhà ẩn tu Ai Cập, suốt 70 năm sống một mình trong sa mạc, tóc dài chấm đất, lấy lá cây kết lại làm quần áo. Một hôm, viện phụ Paphnuxiô có dịp đi ngang qua sa mạc nhìn thấy như vậy thì tưởng là một quái vật nên ba chân bốn cẳng chạy trốn. Nhưng Onuphriô lên tiếng gọi, rồi hai người cầu nguyện với nhau suốt đêm. Sáng hôm sau, Onuphriô qua đời. Ngay lúc đó, cái hang ngài trú bao nhiêu năm nay bỗng nhiên sập xuống, và cây chà là, nguồn thức ăn duy nhất của ngài cũng héo đi. Đọc hai cuốn sách trên đây, Inĩgo không khỏi suy nghĩ. Đức tin của ngài thật ra xưa nay không bao giờ lay chuyển, nhưng đó chỉ là những xác tín trong đầu óc, chưa thể hiện ra cuộc sống. Nay đọc truyện các thánh, Inĩgo nảy ra ý định bắt chước các ngài. Nhưng hình ảnh một tiểu thơ đã ngự trị trong đầu óc từ bao năm nay lại trỗi dậy. Inĩgo bị giằng co đôi đường: lúc thì muốn đi theo Đức Kitô như các thánh, lúc lại muốn được lòng một tiểu thơ. Có khi đã như dứt khoát: thánh Phanxicô đã làm như thế, thì tôi cũng phải làm như thế, thánh Đa minh đã làm như vậy thì tôi cũng 18 phải làm như vậy. Nhưng có khi lại cảm thấy lên tinh thần khi nghĩ đến những chiến công và những bài thơ tặng cho người đẹp. Inĩgo suy nghĩ nhiều về những gì đang diễn ra trong tâm hồn mình. Ngài nhận ra một điều thú vị, nghĩ đến một tiểu thơ làm cho ngài vui lúc đó, nhưng sau lại thấy trống rỗng, chán nản. Trái lại, nghĩ đến việc noi gương các thánh đi theo Đức Kitô ngài cảm thấy chẳng những chỉ lúc đó mà mãi về sau vẫn cảm thấy vui. Inĩgo nhận ra chỉ Chúa mới đem lại niềm vui đích thực. Và dĩ nhiên, ngài muốn có niềm vui sâu xa và bền vững hơn. Ngài phân biệt được “tinh thần ma quỷ” với “tinh thần Thiên Chúa” mà ngài gọi là “thần dữ” với “thần lành”. Ơn hoán cải Những ý nghĩ về việc phục vụ một vị vua trần gian vẫn nối tiếp và đắp đổi với những ý nghĩ về việc phục vụ Đức Ki tô là vị vua muôn đời, Inĩgo chưa nhất quyết sẽ đi đường nào. Một đêm kia, không ngủ, Inĩgo thấy rõ ràng hình Đức Mẹ với Quyết định phục vụ Thiên Chúa Chúa Giêsu Hài Đồng và ngài cảm thấy rất phấn khởi. 19 Ngài cảm thấy chán ngán cuộc đời quá khứ, nhất là những yếu đuối xác thịt. Những thay đổi bên trong tâm hồn cũng ảnh hưởng đến đời sống bên ngoài, anh Martín và cả gia đình đều nhận thấy điều này. Riêng Inĩgo giờ đây cảm thấy thích thú với những điều người ta viết trong hai cuốn sách. Ngài đọc đi đọc lại và suy nghĩ nhiều lần. Rồi ngài nảy ra ý trích dẫn tóm tắt những điều quan trọng trong đời sống Đức Kitô và các thánh, làm thành cả một tập chừng 300 trang. Trong cuốn tập đó, lời của Đức Kitô được chép bằng mực đỏ, lời của Đức Mẹ được chép bằng mực xanh. Hàng ngày, ngài dùng nửa thời giờ để chép, và nửa thời giờ còn lại để cầu nguyện. Đêm đến, ngài thích nhất là ngước mắt lên trời nhìn bầu trời và tinh tú. Ngài làm như vậy thường xuyên và lâu giờ, và ngài cảm thấy nơi mình có một thúc đẩy rất mạnh đến việc phục vụ Chúa Giêsu. Các nhân vật và tình tiết trong truyện hiệp sĩ không bị quên hẳn, nhưng giờ đây chỉ thêm giúp ngài dũng cảm và tha thiết hơn với việc phục vụ Đức Kitô. Từ chỗ là một hiệp sĩ quảng đại và trung tín của vua Tây Ban Nha, Inĩgo đã trở thành một hiệp sĩ quảng đại và trung tín của Đức Kitô. Kết quả của cuộc hoán cải này là Inĩgo quyết định sẽ đi hành hương Giêrusalem như một hối nhân, rồi ngài thay đổi nếp sống, và vạch ra trong đầu một nếp sống khắc khổ. Như vậy, ở Loyola, vào khoảng cuối năm 1521, Inĩgo đã lựa chọn và quyết tâm phục vụ một mình Đức Kitô. Đó là kết quả của việc nhận định thần loại đầu tiên. Nhưng về cách thức (phục vụ thế nào) thì ngài chưa biết rõ phải làm gì. Theo bản tính hào hiệp, ngài dự định thi đua với các thánh trong đời sống anh hùng bên ngoài. 20 Kết luận Nhờ các bài suy niệm về cuộc đời Đức Kitô, Inĩgo được soi sáng để có được một sự hiểu biết thiêng liêng về Đức Kitô, khám phá ra những đòi hỏi của lời Ngài mời gọi, và thẩm định được giá trị đời sống bản thân. Mặt khác, những mẫu gương sống động, anh hùng và hấp dẫn, ảnh hưởng trên ý chí của Inĩgo, cho ngài thấy lý tưởng kia có thể thực hiện được, và kích thích bầu máu nóng của ngài quyết tâm dấn thân. Cha G. Cusson viết: Loyola là giai đoạn của một cuộc hoán cải tận căn, ở đó Inĩgo có được một “trái tim quảng đại và bừng cháy Thiên Chúa”, một “đà rất mạnh để phục vụ Chúa”, một “tâm hồn khát khao phục vụ theo những ánh sáng có được”. Những con đường Inĩgo chọn liền sau đó, vì bị thu hút bởi gương các thánh, cho thấy trong nỗ lực nhân loại và hoạt động ý chí việc tìm một câu trả lời còn quá ngoại diện đối với một ước ao nội tâm sâu xa muốn gắn bó với Chúa. Dầu sao, các bài suy niệm ở Loyola cũng đã đặt nền cho một đời sống thiêng liêng được kết cấu vững chắc chung quanh ba thực tại chính yếu: Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Kitô và thân phận thụ tạo của chúng ta. Như vậy, Loyola chuẩn bị cho những kinh nghiêm ở Manresa, khi ân sủng bắt được những dữ kiện của tự nhiên. 21 Đức Mẹ Aránzazu 22 ƠN GỌI TÔNG ĐỒ Lên đường Cuối tháng hai hoặc đầu tháng ba năm 1522, Iñigo rời bỏ gia đình đi về hướng tây. Mục đích hình như để dàn xếp công chuyện cũ, trước khi rảnh rang đi hành hương Đất Thánh. Ngài đi với hai người tùy tùng, giống như đi nhận việc lại. Một người anh, hình như là linh mục Pero, cũng đi theo, có lẽ vì việc riêng. Trước hết, ngài đi viếng một tượng Đức Mẹ Aránzazu (nghĩa là Đức Mẹ trong bụi gai, vì người ta tìm được trong một bụi gai). Hình như ngài khấn với Đức Mẹ sẽ sống khiết tịnh suốt đời. (Lưu ý: lời khấn như vậy không có giá trị thần học, vì chính ra phải khấn với Chúa). Đưa anh Pero đến với Đức Mẹ Aránzazu, hình như ngài muốn kêu gọi vị linh mục này hoán cải. Sau đó, ngài đến Navarrêtê đòi nợ. Được đề nghị làm quan, nhưng ngài từ chối. Sau khi thanh toán hết nợ nần, ngài cúng hết số tiền còn lại vào nhà thờ để sửa chữa tượng Đức Mẹ ở đó. Tại đây, ngài cho những người đi theo được quay về Loyola, còn ngài quay ngược về hướng đông. Từ đây, ngài luôn luôn cố giấu tông tích mình. Gặp người Hồi Sau bảy thế kỉ đô hộ Tây Ban Nha, người A-rập khi rút đi vẫn để lại một số những người đã gần như bị đồng hoá. Họ bị chính quyền Tây Ban Nha cưỡng ép theo đạo, nhưng hầu hết chỉ phục tùng ngoài mặt. Người Tây Ban Nha gọi họ là người Môrô (nghĩa là người gốc Marốc). 23 Chắc Iñigo đang trên đường từ Aránzazu đi Montserrat, cả hai đều là những địa điểm hành hương về Đức Mẹ nổi tiếng. Có lẽ đến Lériđa thì Iñigo gặp người Môrô. Có lẽ Iñigo cho biết mình đi hành hương viếng Đức Mẹ. Dầu sao, câu chuyện cuối cùng đề cập đến Đức Mẹ. Người Môrô tin Đức Mẹ đồng trinh khi thụ thai Chúa Giêsu, nhưng không tin Đức Mẹ đồng trinh trọn đời. Iñigo xưa nay chỉ biết vậy chứ chẳng hiểu gì, nên không làm sao “bênh vực” được Đức Mẹ. Có lẽ người Môrô thấy Iñigo nổi máu nóng nên sợ và chạy. Ngài phân vân không biết có nên đuổi theo giết người Môrô vì đã “xúc phạm” đến Đức Mẹ không. Cuối cùng, ngài thả dây cương lừa, tùy con vật định đoạt. Đó là một cách “tìm ý Chúa” kỳ cục, nhưng trong thời Trung cổ, nhiều người tin rằng loài vật được Chúa hướng dẫn, may là con lừa đi hướng khác. Sau này Iñigo nhìn nhận lúc ấy ngài thật là mê muội. Hình như đến Igualađa, Iñigo mua vải thô may áo dài chấm đất, mua một chiếc gậy, một bầu đựng nước và một đôi dép đan: đó chính là những đồ trang bị của một người hành hương. Iñigo chỉ mang một chiếc giày, không phải vì lập dị, nhưng vì chân mặt còn đau. Nhận xét về giai đoạn này: 1) Iñigo rất ao ước phục vụ Chúa; 2) rất khao khát làm những việc phi thường để tỏ lòng mến Chúa; 3) nhưng tâm hồn vẫn thô thiển, 24 chưa biết nhận định chín chắn. Có đức mến, nhưng thiếu nhận định. Việc nhận định, ngài sẽ phải tập lần lần. Montserrat Montserrat là chữ ghép của monte serrato, nghĩa là núi cưa. Từ xa nhìn các ngọn núi này lởm chởm như những răng cưa. Dân gian truyền tụng rằng Chúa Giêsu Hài Đồng ngày xưa khi chơi đùa đã cưa dãy núi ra như vậy! Dãy núi này nằm về phía đông bắc Tây Ban Nha, dài chừng 10 km, rộng chừng 5 km, đỉnh cao nhất chừng 1.200 m. Đây là nơi tụ tập nhiều ẩn tu cũng như nhiều đan viện. Vào thời thánh Inhã, ở đó có tất cả 12 đan viện. Tại sao Iñigo tới Montserrat? Có lẽ vì trước khi đi Barcelona để xuống tàu, ngài muốn dọn mình bằng việc xưng tội rước lễ. Các đan sĩ Biển Đức ở đó có thói quen nhận giúp các khách hành hương trong ba ngày, và chỉ ba ngày thôi. Cha Gioan Chanon, người Pháp, là một vị linh hướng nổi tiếng ở đó. Năm ấy cha 43 tuổi, sau này cha mất năm 1568. Trong ba ngày này, Iñigo bày tỏ cho cha Chanon biết hết về đời sống quá khứ cũng như dự tính tương lai của mình. Rồi ngài xưng tội chung. Ở Montserrat, Iñigo bắt đầu thực hiện dự tính sống nghèo. Ngài tặng đan viện con lừa, dâng cho Đức Mẹ thanh kiếm và dao găm là những thứ từng theo sát ngài trong suốt đời hiệp sĩ. Thay vì một tiểu thơ, ngài nhận Đức Mẹ làm người đẹp lý tưởng, cũng như đã nhận Đức Kitô để phục vụ thay vì vua Tây Ban Nha. Ngài đổi bộ đồ hiệp sĩ đẹp và oai của mình lấy bộ đồ rách rưới của một người ăn xin. Đêm 24 tháng ba, ngài canh thức, theo nghi lễ tấn phong hiệp sĩ trước tượng Đức 25 Mẹ đen.2 Sáng sớm hôm sau, lễ Truyền Tin, ngài dự lễ và rước lễ, rồi xuống núi đi Manresa. Manresa Khi ấy Manresa là một làng nhỏ cách Montserrat chừng 30 km về phía bắc. Tại sao thánh Inhã không đi thẳng Giêrusalêm mà lại ghé Manresa? Có nhiều giả thuyết. Trước hết, có người cho rằng vì ở Barcelona có dịch. Nhưng lúc đó, chắc Iñigo coi thường mọi thứ bệnh dịch, như sẽ thấy sau này ở Ý. Vả lại bệnh dịch mãi đến ngày năm tháng năm mới phát hiện. Có người cho rằng vì Barcelona sắp đón những nhân vật tai mắt theo Đức Giáo Hoàng Adrianô mới đắc cử sắp đến đó để xuống tàu sang Roma. Iñigo có thể sợ ở đó vào lúc ấy sẽ bị lộ tung tích. Nhưng thực ra, đến cuối tháng ba, Đức Giáo Hoàng và đoàn tùy tùng vẫn còn ở Calahorra, và như vậy Iñigo có dư giờ để đến Barcelona và xuống tàu đi Ý trước. Lại có người cho rằng Iñigo không đi Roma ngay, vì muốn đi hành hương Đất Thánh phải xin Đức Giáo Hoàng chúc lành trước đã, mà lúc đó Đức Giáo Hoàng chưa đến Roma. Nhưng khi Đức Giáo Hoàng vắng, người ta có thể xin phép lành ở tòa Xá giải. Hơn nữa, Đức Giáo Hoàng rời Barcelona ngày sáu tháng tám, tại sao Iñigo còn chờ thêm nửa năm nữa? Hình như có hai lý do chính khiến thánh Inhã không muốn đi Barcelona ngay: 1) ngài có thể cần phải nghỉ ngơi đôi chút sau những ngày đi lại mệt nhọc, và có thể đau đớn vì mới lành bệnh. Vả lại, ngài phải dự trù sức lực cho một cuộc hành trình vất vả lâu dài; 2) 2 Tượng Đức Mẹ Montserrat có màu da đen. 26 ngài có thể được cha linh hướng khuyên nên dành ít ngày tĩnh tâm và học hỏi thêm để chuẩn bị cuộc hành hương cho sốt sắng. Nhưng tại sao lại chọn Manresa chứ không phải một nơi nào khác? Có giả thuyết cho rằng Iñigo đang không biết phải đi đâu thì có một nhóm phụ nữ, trong đó có bà Inés Pascual, họ chỉ cho ngài biết tại Manresa có một bệnh viện ở trọ được. Ngoài ra, họ còn hứa giúp đỡ ngài nữa. Vì thế Iñigo Bệnh xá thánh Luxia đã đến Manresa. Thực ra, ngài có gặp bà Pascual cùng với mấy phụ nữ khác nữa, nhưng là khi đã gần đến Manresa rồi. Như vậy, khó tin vào giả thuyết này: chắc chắn Iñigo đã có ý định đến Manresa chứ không phải ngẫu nhiên. Manresa lúc ấy là một làng có chừng 4.000 dân, có ba bệnh xá nhỏ, một đan viện Đa minh, một đan viện Xitô, một nhà thờ chánh tòa cũ (chỉ trước đó ít lâu Manresa còn là một giáo phận riêng), và mấy nhà nguyện nhỏ khác. Dòng sông Llobregat bắt nguồn từ núi Pirêncô chảy ra biển phía nam thành phố Barcelona. Sông này có một phụ lưu là Cardoner chảy qua thung lũng dưới chân làng Manresa. Thung lũng này thật đẹp, nên được mệnh danh là “thung lũng địa đàng”. Bên bờ Cardoner, có nhiều hang động nhỏ rất yên tĩnh và vắng vẻ. Như vậy, Manresa là một địa điểm 27 thuận lợi cho những ai muốn sống hồi tâm cầu nguyện. Hơn nữa, Manresa lại gần Montserrat, nên cha Chanon có thể đã biết rõ hơn và chỉ cho Iñigo, và từ đó ngài cũng tiện đi lại gặp cha linh hướng hơn. Tại Manresa, Iñigo trú khi thì tại bệnh xá thánh Luxia, khi thì tại tu viện Đa minh, hay ở một vài gia đình đạo đức khác. Ngài cũng thường đến các hang động bên bờ sông để cầu nguyện và làm việc đền tội. Manresa được gọi là “Giáo hội sơ khai” của thánh Inhã, chúng ta ghi nhận ba nét chính: 1) sống nghèo và khổ hạnh; 2) cám dỗ và bối rối; 3) ơn đại ngộ. Đời khổ hạnh Hàng ngày: ∙ Dự lễ và kinh thần vụ. ∙ Quỳ gối cầu nguyện bảy giờ. ∙ Đánh tội từ ba đến năm lần bằng dây sắt. ∙ Đêm ngủ dưới đất, gối đầu bằng cục đá hoặc khúc gỗ. ∙ Chỉ ăn mỗi ngày một bữa với bánh mì và nước lạnh, trừ Chúa nhật uống một chút rượu và ăn một chút thịt. ∙ Mình mặc áo nhặm. ∙ Lưng đeo dây xích. ∙ Hòa mình với những người hèn kém nhất trong xã hội như người bệnh nghèo, người ăn xin... ∙ Chăm sóc và giúp đỡ những người đau yếu trong bệnh xá. Trong thực tế, Iñigo sống như một người rốt cùng trong xã hội. Ở tu viện, ngài sống như một kẻ du thủ 28 du thực, ở bệnh xá ngài được coi như một người vô sản. Bệnh xá thực tế là những căn nhà các gia đình giàu có và tốt bụng dành cho những người nghèo khó bệnh tật không có phương tiện chạy chữa hoặc không nơi nương tựa. Mỗi bệnh xá như vậy thường chỉ có chỗ cho năm bảy người. Thấy ở bệnh xá khó cầu nguyện và đánh tội, Iñigo tìm đến chỗ yên tĩnh hơn: một hang đá bên bờ sông Cardoner. Hang này (do những người hiếu kỳ biết và chỉ) nay được gọi là Santa Cueva nghĩa là Hang Thánh. Đây là một hang khá lớn, sâu nhất là 10,5 m, rộng nhất 3,5 m và cao nhất là 2,5 m. Tại Hang Thánh, Iñigo gia tăng cầu nguyện và hãm mình:• ∙ bớt giờ ngủ, thêm giờ cầu nguyện, ∙ có khi mấy ngày liền không ăn không uống gì, ∙ bắt chước thánh Giêrônimô lấy đá đánh ngực, ∙ chịu gió và lạnh mùa đông. Ai làm linh hướng cho Iñigo trong thời gian này? ∙ cha bề trên tu viện Đa minh? ∙ cha giảng thuyết nhà thờ chánh tòa cũ? ∙ cha Gioan Chanon ở đan viện Biển Đức? Hiện nay, chúng ta có được chứng từ về sự giúp đỡ của cả ba vị trên đây. Hình như lúc bối rối, Iñigo đi hỏi tứ tung, nghe đâu có ai giúp đỡ thì tìm đến: có bệnh thì vái tứ phương. Nhưng thường xuyên có lẽ Iñigo giữ liên lạc chặt chẽ hơn với cha Chanon. Đời sống khổ hạnh trên đây hẳn là Iñigo học được trong cuốn Bông Hoa Thánh Thiện, với quan niệm về đời sống thánh thiện của thời Trung cổ. Hơn nữa, sẵn máu hiệp sĩ, Iñigo còn muốn trổi vượt trong đời sống thánh thiện kiểu ấy, nên có vẻ như muốn thi đua với cả các thánh nữa. Iñigo thú nhận rằng lúc đó ngài khờ 29 khạo, cứ tưởng bắt chước các thánh trong những việc bên ngoài như vậy là theo gương các thánh. Hơn nữa, ngài đồng hóa những hình thức kỳ dị bên ngoài như để râu tóc hay móng tay móng chân mọc tùm lum là cách diễn tả đời sống một người dứt bỏ thế gian để theo Đức Kitô. Chúa sẽ giáo dục ngài từng bước để nhận ra Chúa muốn ngài theo phục vụ Đức Kitô như thế nào. Cám dỗ và bối rối Sau một thời gian sống khổ hạnh và cầu nguyện, Iñigo trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn trong đời sống thiêng liêng. Trước hết là cám dỗ bỏ cuộc. Sức con người có hạn, liệu Iñigo có thể chịu đựng nổi một đời sống khổ hạnh như vậy suốt đời, “70 năm nữa” không? Kế đến là một tình trạng chán nản và sầu khổ: không còn cảm thấy những dịu ngọt của đời sống thân thiết với Chúa. Tiếp theo, Iñigo rơi vào tình trạng bối rối: cái gì cũng thấy là tội lỗi. Đi tìm sự giúp đỡ khắp nơi mà không hết, Iñigo gần như tuyệt vọng. Ngài bị cám dỗ muốn chấm dứt cuộc đời bằng cái chết. Nhưng tự vận là chống lại Chúa, nên ngài lại không dám. Cuối cùng, ngài tha thiết cầu xin Chúa để được biết ý Chúa, “dù phải đi theo một con chó nhỏ.” Đến đây, cơn thử thách qua khỏi, và ngài tìm lại được sự bình an nội tâm sâu xa. Đây là quãng đời thanh luyện thường xảy đến cho bất cứ ai muốn hoán cải. Qua những kinh nghiệm này, Iñigo đã rút ra những quy luật về nhận định thần loại, cũng như những qui tắc phải theo khi lâm cơn sầu khổ hay bối rối mà ngài sẽ chép trong tập Linh Thao. Với kinh nghiệm này Iñigo xác tín hơn vào lòng nhân từ của Chúa. 30 Ơn soi sáng Sau giai đoạn thanh tẩy, Iñigo được soi sáng: Chúa đối xử với ngài như thầy giáo với một chú bé. Có thể tóm những điều được soi sáng vào năm điểm: — Chúa Ba Ngôi: như ba phím đàn hòa hợp. Iñigo được an ủi nhiều với “bài học” này. — Công cuộc sáng tạo: mọi sự xuất phát từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa. — Chúa Giêsu Thánh Thể: mầu nhiệm vượt qua. — Nhân tính Chúa Giêsu: mầu nhiệm nhập thể. — Đức Mẹ: mầu nhiệm Giáo hội. Ngài cảm nghiệm sâu xa về những chân lý mặc khải này đến nỗi dù không có Kinh Thánh ngài cũng sẵn lòng chết để bênh vực. Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là ơn đại ngộ bên bờ sông Cardoner. Với những kinh nghiệm thiêng liêng trên đây, Iñigo đã cảm nghiệm sâu xa những chân lý nền tảng, nhưng hình như vẫn còn thiếu một cái nhìn tổng hợp. Đại ngộ Cardoner sẽ đem lại cái nhìn tổng hợp này. Một hôm Iñigo đi trên bờ sông Cardoner, đến gần nhà thờ thánh Phaolô ẩn tu, bên cạnh đan viện Xitô cùng tên, bỗng con mắt nội tâm của ngài như được mở ra để thấy minh bạch mặc khải. Đó không phải là một thị kiến. Iñigo được soi sáng trí khôn để thấy mọi sự một cách mới. Chúng ta không biết rõ chi tiết, chỉ biết phản ứng của ngài lúc đó là rất phấn khởi và tạ ơn. Ngài viết: “Trí tuệ được một luồng sáng rực rỡ đến độ có cảm tưởng đã biến thành người mới, và có trí tuệ khác trước.” Sau này, có bao nhiêu điều ngài thấy phải làm mà hễ được hỏi lý do thì ngài cho biết đã thấy ở 31 Manresa. Vào những năm cuối đời, ngài vẫn quả quyết là tất cả những gì học được trong suốt cả đời cũng không bằng những gì đã được soi sáng ở Manresa. Theo Cha Cusson, có thể phân biệt trong ơn đại ngộ Cardoner hai bình diện: 1) Bình diện khách thể: một nền thần học về ơn cứu độ đặt cơ sở trên mối tương quan sống động mà Đức Kitô thiết lập giữa thụ tạo và Tạo Hóa. 2) Bình diện chủ thể: ∙ nghèo khó thiêng liêng, ∙ đức tin mãnh liệt, ∙ phó thác trọn vẹn, ∙ linh đạo thần hữu (théologale), ∙ Đức Kitô trung gian và cứu độ (phản ánh trong các bài Tiếng Gọi Vua Hằng Sống và Hai Cờ Hiệu trong Linh thao), ∙ ước muốn giúp đỡ tha nhân, ∙ nhận định thiêng liêng. Với ơn soi sáng và đặc biệt ơn đại ngộ Cardoner, tập Linh thao thành hình trong những điểm then chốt: tóm lược cả đời sống và linh đạo của thánh Inhã cũng như đường hướng tông đồ của Dòng Tên. Kết luận Manresa đã đưa Iñigo đến một cuộc hoán cải triệt để. Dân chúng Manresa lúc đầu gọi ngài là ông bao bố (home del sach), về sau gọi ngài là ông thánh (home sant). Manresa tạo nên điều thường được gọi là khúc quanh cuối năm 1522: Phải phục vụ Đức Kitô bằng việc giúp đỡ các linh hồn. Ngài hiểu được khổ chế chỉ là một phương tiện tạm thời chứ không phải là mục 32 tiêu của ơn gọi. Vì phải giúp đỡ người khác, nên không được lập dị mà phải sống giống họ để có thể gần họ. Từ đây, Iñigo cắt tóc, cạo râu, thay áo, ăn uống ngủ nghỉ bình thường... Tóm lại là cởi bỏ cách sống “rừng rú” và trở lại với nếp sống “văn minh.” Hơn thế nữa, ngài bớt giờ cầu nguyện và dành nhiều giờ đi nói chuyện về những đề tài đạo đức với người khác. Iñigo đã “bỏ Chúa vì Chúa” (quitter Dieu pour Dieu): ngài không còn phải là một nhà khổ tu nữa, nhưng đã trở thành một người tông đồ. Manresa: “Hang Thánh” 33 HÀNH HƯƠNG GIÊRUSALEM Vì sao thánh Inhã nghĩ đến việc đi hành hương Giêrusalem? Từ lâu đời, người công giáo Châu Âu nói chung, người Tây Ban Nha nói riêng, và đặc biệt người Guipúzcoa vẫn kính trọng Đất Thánh và ước ao đến viếng. Trước khi bị thương, có lẽ Iñigo đã từng biết đến những đoàn hành hương khá thường xuyên lúc đó. Trong lời nói đầu cuốn Cuộc Đời Đức Kitô, tác giả dành một trang để ca ngợi Đất Thánh, “nơi Chúa Giêsu nhân lành của chúng ta đã sinh ra, đã chiếu sáng bằng lời giảng và lời dạy của Ngài, đã hiến thánh bằng máu rất châu báu của Ngài. Được thấy tận mắt và hình dung trong tâm trí tại mỗi nơi Chúa đã thực hiện ơn cứu độ cho chúng ta như thế nào thì vui sướng biết bao.” Hơn nữa, gương thánh Phanxicô trong Bông Hoa Thánh Thiện hẳn cũng thôi thúc ngài. “Thánh Phanxicô đã làm như vậy, tôi cũng phải làm như vậy.” Thánh Phanxicô đã đi hành hương Đất Thánh năm 1219. Ngay từ Loyola, Iñigo đã quyết định đi hành hương Đất Thánh. “Nghĩ đến việc đi chân không đến Đất Thánh, không ăn uống gì trừ rau cỏ, và sống khắc khổ như các thánh đã sống, Iñigo cảm thấy phấn khởi...” Đó là những ý nghĩ có khi đọc gương các thánh. Khi đã quyết tâm hoán cải phục vụ Đức Kitô, “Iñigo hay nghĩ đến dự tính đi Giêrusalem và mong sao chóng khỏi để lên đường.” Như vậy là Iñigo quan niệm việc hành hương Đất Thánh như một việc đền tội, và sống khổ hạnh theo gương các thánh tu rừng. Nhưng sau này, ngài cho thấy hình như mục tiêu của chuyến hành hương đã thay đổi: “Iñigo có ý định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi thánh và đồng thời giúp đỡ các linh 34 hồn.” Chúng ta thấy rõ ràng điều thánh Marcô nói về các tông đồ (Mc 3: 14): ở với Chúa và được Chúa cử đi. Đã ý thức ơn gọi tông đồ ở Manresa, ngài vẫn thực hiện cuộc hành hương đã dự định từ trước, nhưng không phải như một hối nhân, mà như một người bạn đường. Cha de Guibert ghi nhận: “phần thứ hai của chặng đầu tiên trong hành trình thiêng liêng của thánh Inhã là cuộc hành hương Giêrusalem. Chuyến đi này có hiệu quả là làm phát triển thêm lòng mộ mến tha thiết đối với nhân tính Đức Kitô và các mầu nhiệm trong đời sống trần thế của Ngài, và hình như cũng tăng cường ước nguyện giúp đỡ tha nhân, như ngài dự lính làm ở Đất Thánh, dù không bày tỏ cho người chung quanh biết.” Cha Guillermou cũng nhận xét: “Dầu sao chăng nữa, từ đây đã qua một trang mới, nhà tập đã chấm dứt. Giêrusalem không chỉ là nơi phải đến để đền tội, nhưng chính là nới có thể làm việc tông đồ.” Nên giống Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế Đi hành hương như người bạn đường, Iñigo trải qua những kinh nghiệm xưa nay một hiệp sĩ hào hoa như ngài chưa hề biết tới, nhưng đó chính là cách thực tập trong trường của Chúa Giêsu. Trước hết là cái nghèo. Chúa Giêsu nói: “Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu.” Iñigo đi hành hương hoàn toàn không có tiền bạc gì. Đi đến đâu xin đến đó, xin ăn, xin uống, xin ngủ nhờ, xin đi tàu... Một chiếc áo cũ rách, một chiếc bị đựng vài cuốn tập đã ghi chép những điều đọc được trong các sách và những kinh nghiệm thiêng liêng ở Manresa với vài vật dụng lặt vặt, một cái gậy như thói quen của các khách hành hương. Trên đường gặp đâu 35 ngủ đó: lề đường, công trường, chuồng ngựa, nhà một người tốt bụng... Về khả năng trí thức, Iñigo chỉ biết đọc biết viết, không biết tiếng nào khác ngoài tiếng mẹ đẻ (Basque) và Tây Ban Nha. Thứ đến là cái khổ. Đó là hậu quả tất yếu của cái nghèo. Ăn uống chắc chắn là hết sức thất thường. Quần áo thường là không đủ ấm lúc trời vào mùa đông. Dưới tàu, chắc là có được chỗ chót hết. Bao nhiêu quãng đường phải đi bộ, lội suối, mưa tuyết, té sông... Sau nữa là cái nhục. Một hiệp sĩ thà chết chứ không chịu nhục. Iñigo đã có một quá khứ ngang tàng. Nhưng trong cuộc hành hương, Iñigo đã trải qua nhiều kinh nghiệm bị sỉ nhục khiến không ai có thể nghĩ ngài từng là một hiệp sĩ. Ngài phải sống nhờ của bố thí: xin ăn, xin ở trọ, xin quá giang tàu biển... Đôi khi ngài bị những người bạn đường bỏ rơi. Ở Giêrusalem ngài bị bắt và dẫn đi như một kẻ gian phi. Trên đường về, ngang qua biên giới Pháp-Ý, ngài bị khám xét, lột quần áo, bị đối xử như một tên điệp viên. Sau đó, ngài lại bị người ta coi là khùng. Tất cả những điều đó, Iñigo đã vui vẻ chịu, vì ngài muốn bắt chước đời sống của Chúa Giêsu. Tâm điểm sự chú ý của ngài là Chúa Giêsu trong đời sống trần thế, với tất cả những nỗi cay đắng của kiếp người và kiếp nghèo. Thực tập lòng tin cậy mến Thánh Inhã cho biết ngài muốn đi hành hương để thực tập lòng tin cậy mến. Do đó, ngài không đem theo gì, “ngoài trừ lòng trông cậy vào Chúa.” Không đem theo tiền bạc hay bạn đồng hành, vì sợ rằng như vậy sẽ mất lòng trông cậy vào Chúa. Dù không một ai đồng 36 ý về cách thức đi hành hương của ngài như vậy, vì nghĩ rằng sẽ không thể nào thực hiện được, nhưng ngài vẫn nhất định làm và ngài đã làm được. Đến Giêrusalem, Iñigo ước mong được ở lại đây. Trước hết vì như vậy ngài được sống gần gũi với những gì đã gần gũi với Chúa Giêsu xưa kia. Sau nữa là ngài muốn làm việc tông đồ cho người Hồi giáo. Vào thời đó, Đất Thánh do người Hồi giáo cai trị, mà giữa người Hồi giáo và người Công giáo vẫn có một mối hiềm khích rất lớn; nên ở lại có thể là mối nguy thường xuyên. Nhưng chính vì sẵn máu hiệp sĩ, Iñigo muôn tỏ ra hào hiệp với Chúa, nên ngài sẵn sàng đương đâu với mọi Đền Hồi giáo nơi Chúa lên Trời nguy hiểm. Khi được cha giám tỉnh dòng Phanxicô, đại diện Tòa thánh ở Giêrusalem, cho biết những nguy hiểm cho ai muốn ở lại, ngài trả lời rất xác tín: “Bị tù hay phải chết con đều thích cả.” Khi được biết không thể ở lại để làm việc tông đồ như lòng mong ước, Iñigo đã lén bỏ đoàn đi xem núi cây Dầu một mình. Truyền thuyết nói Chúa Giêsu đã lên trời ở đó, và Chúa còn để lại vết chân trên phiến đá. Lòng yêu mến Chúa Giêsu thúc đẩy ngài, nên dù không có người dẫn đường, có nguy cơ bị bắt hoặc bị giết, ngài vẫn cứ đi, dù trước đó đã được xem rồi. Ngài 37 phải đút lót cho người bảo vệ một con dao mới được vào. Đến nơi, ngài “cầu nguyện rất sốt sắng.” Trên đường về, ngài lại trách mình quên không để ý bàn chân Chúa hướng về phía nào. Một lần nữa, ngài quay lại và đút lót cho người bảo vệ cái kéo để được vào. Vì mọi sự liên hệ đến Chúa Giêsu đối với Iñigo đều là cái gì quý báu. Sau đó, trên đường về; ngài bị một người giúp việc các cha dòng Phanxicô đem gậy đến dọa đánh và lôi ngài về. Ngài để mặc người ấy kéo mình đi, trong lòng được đầy tràn niềm an ủi suốt quãng đường về tới tu viện. Kết luận Chỉ ở Giêrusalem 20 ngày (4 – 23/9), nhưng Iñigo đã dành ra gần cả một năm để thực hiện chuyến hành hương. Thực là ngài được “biết Chúa Giêsu thâm sâu hơn,” để “yêu Chúa hơn và theo Chúa hơn.” Lòng gắn bó với Chúa Giêsu của ngài đã được thử luyện kỹ càng, khiến sau này không một khó khăn hay gian khổ nào làm ngài nản lòng. Cha Brodrick nhận xét về Iñigo sau cuộc hành trình vất vả: “Người nghèo nhất và đói nhất trong số các hành khách vẫn đứng vững trên đôi chân mang thương tật hoặc vẫn quỳ gối cầu nguyện trên con tàu nhấp nhô theo sóng, đến cuối cùng vẫn không lay chuyển, mặc dầu đã qua bao ngày tháng ê chề và bão tố.” 38 BƯỚC ĐẦU TIÊN HỌC TẬP Khi được biết không thể ở lại Giêrusalem để sống và làm việc tông đồ, Iñigo thường tự hỏi: “Phải làm gì?” Câu hỏi này của ngài sẽ được Chúa trả lời từ từ theo các biến cố xảy ra mà ngài dấn thân vào. Barcelona Iñigo về đến Barcelona vào mùa chay năm 1524. Chắc là cách sống đặc biệt của ngài đã làm cho một số người lưu ý, trong đó có một phụ nữ đạo đức là Isabel Roser. Bà này đề nghị với Iñigo dành ra một thời gian học hành để có thể làm việc tông đồ hiệu quả hơn. Chính bà tự nguyện lo về đời sống cho ngài, và một nhà giáo tên là Giêrônimô Arđevol nhận giúp ngài việc học. Iñigo nhớ khi còn ở Manresa có biết một đan sĩ Xitô rất đạo đức và muốn về đó để phần nào tiếp tục đời sống đã bắt đầu nhưng bị cắt quãng do cuộc hành hương. Nhưng khi trở lại Manresa, ngài mới biết vị đan sĩ đó đã qua đời rồi, nên ngài quay lại Barcelona để bắt đầu việc học. Dù được bảo đảm đời sống vật chất, ngài vẫn hàng ngày đi xin ăn như một phần trong đời sống của người hành hương. Lúc ấy đã 33 tuổi, ngài chăm chỉ ngồi dưới đất chung với đám trẻ con để nghe giảng và viết bài. Trong hai năm ở đây, ngài học những gì? Chắc chủ yếu là tiếng Latinh. Cha linh hướng cũng như các bạn đều khuyên ngài nên học cuốn Thủ Bản Chiến Sĩ Kitô (En-chiridion militis christiani) của Erasmus, để tiến tới cả về tiếng Latinh lẫn lòng đạo đức. Tác giả nổi tiếng này là một nhà học giả gốc Hà Lan, thích sống thoải mái và phóng khoáng, ưa chỉ trích giáo quyền và rất ghét các dòng tu. Dù vị này được coi là ông vua 39 Iñigo đi học với con nít lòng sốt sắng. không ngai của cả học giới Châu Âu, nhưng Iñigo không ưa lắm, vì thấy rằng nơi con người thông thái này có nhiều điều nặc mùi thế tục hơn là hương vị đạo đức và ngài cho biết, khi đọc Erasmus, ngài bị mất Vừa đi học, Iñigo vừa làm việc tông đồ. Ngài gặp gỡ khi thì một người, khi thì vài ba người, trao đổi với họ về đời sống thiêng liêng, giúp người này bước vào, giúp người khác tiến lên trên con đường đạo đức. Hầu hết những người này thuộc giới bình dân trong xã hội. Cũng có những người trẻ muốn theo ngài và bắt chước cách sống của ngài. Khi rời Barcelona vào tháng ba năm 1526, ngài cùng đi với ba “đệ tử” là Calixtô de Sa (người Bồ Đào Nha), Juan de Arteaga và Lope de Cáceres (cả hai là người Tây Ban Nha). Dù nhóm này sẽ không bền, nhưng dầu sao cũng cho thấy sức hấp dẫn của ngài. Alcalá Sau hai năm cố gắng học hành ở Barcelona, Iñigo được khuyên đến Alcalá để có thể đẩy mạnh hơn việc tiếp xúc với môi trường trí thức. Cách Barcelona hơn 40 600 km và cách Madrid chừng 35 km, Alcalá tuy nhỏ nhưng là một thành phố văn vật của Tây Ban Nha lúc đó. Đại học Alcalá mới thành lập nhưng đầy sức sống với 3.000 sinh viên. Vào thời thánh Inhã đặt chân đến Alcalá, Giáo hội tại Tây Ban Nha đang bận tâm với hai mối nguy là phong trào Tin lành và phong trào giác ngộ. Phong trào Tin lành đang gây chia rẽ trầm trọng trong Giáo hội khắp nơi, trong khi phong trào giác ngộ tạo ra một thứ chủ nghĩa vô chính phủ trong cách sống đức tin và luân lý. Người Tin lành chỉ tin vào Kinh Thánh thôi, còn người giác ngộ cho rằng họ được Chúa Thánh Thần soi sáng trực tiếp phải sống thế nào, chẳng cần gì đến những chỉ đạo khách quan. Cả hai cùng coi thường quyền bính của Giáo hội. Do đó, giáo quyền Tây Ban Nha rất nghi ngờ những nhà truyền giáo lưu động, những con người trình bày các vấn đề về đức tin và luân lý mà không được Giáo hội chính thức ủy quyền. Thêm vào đó, còn có những người gọi là “đạo mới”, tức những người gốc Do Thái bị cưỡng bức theo công giáo, tuy bề ngoài họ tuân giữ đời sống công giáo, nhưng họ vẫn lén lút thực hành và truyền bá giáo lý Do Thái giáo. Đến Alcalá, Iñigo cho các bạn ở nhà trọ, còn chính mình đến sống trong một bệnh xá. Hằng ngày cả bốn vừa xin ăn vừa học hành. Iñigo cho biết ngài học sách luân lý của Soto, sách vật lý của thánh Alberto, và Các Luận Đề Thần Học của Phêrô Lombarđô, tức là những tác giả danh tiếng nhất thời đó. Đồng thời ngài cũng nói chuyện đạo đức với người khác. Tùy khả năng và nhu cầu mỗi người, ngài giúp họ cầu nguyện, xét mình hằng ngày, xưng tội và rước lễ hằng tuần... Nhờ ngài, 41 nhiều người có được những hiểu biết và cảm nếm sâu xa những điều thiêng liêng. Cách sống và làm việc tông đồ đặc biệt của ngài và các bạn chẳng bao lâu gây nghi ngại cho nhiều người. Ban thanh tra giáo lý ở Toledo cho người đến điều tra. Linh mục Tổng Đại Diện tại Alcalá gặp Iñigo và cho biết người ta không thấy nơi ngài và các bạn điều gì sai trái, nhưng cấm bốn người mặc đồng phục và đi chân đất, vì không phải là tu sĩ. Iñigo tuân phục. Ít lâu sau, ngài lại được linh mục Tổng Đại Diện điều tra lại: vẫn không thấy gì sai trái. Mấy tháng sau, ngài bị bắt mà không biết lý do tại sao. Mười bảy ngày sau người ta mới cho biết ngài bị nghi ngờ đã xúi giục hai mẹ con một gia đình kia đi hành hương. Sự thực hoàn toàn trái ngược, ngài đã can ngăn họ đi hành hương nhưng không được. Dầu sao, ngài cũng bị giam hết sáu tuần, tới khi hai mẹ con kia về ngài mới được tha. Dù thấy Iñigo và các bạn không có gì đáng trách, nhưng vị Tổng Đại Diện vẫn cấm nói về đạo với bất kỳ ai, dù công khai hay riêng tư, trước khi học xong ba năm thần học, lại phải có phép của giáo quyền địa phương nữa. Nếu không tuân lệnh, ngài và các bạn sẽ bị tuyệt thông và trục xuất vĩnh viễn khỏi Tây Ban Nha. Án lệnh làm cho Iñigo suy nghĩ nhiều. Ngài bị 42 cấm làm việc tông đồ chỉ vì không có học. Ngài do dự một thời gian rồi quyết định đưa các bạn đi Salamanca. Một năm rưỡi ở Alcalá không phải là vô ích. Iñigo đã đụng chạm đến bao nhiêu vấn đề thực tế đang chờ đợi một đời sống tông đồ. Mặt khác, cách sống của Iñigo và các bạn cũng cảm hóa được nhiều người. Đặc biệt nhất là ở đây ngài có thêm một “đệ tử” nữa là một thanh niên người Pháp tên Jean de Raynalde mà ngài thường gọi thân mật là Juanico (Gioan nhỏ), có lẽ để phân biệt với Juan de Arteaga lớn hơn. Chẳng những vậy, Diego (Giacobê), Laynez và Anphon Salmerón nhờ biết ngài ở Alcalá nên sẽ trở thành “đệ tử” ở Paris, và Martín Olavê cũng biết ngài ở Alcalá và sau này sẽ vào Dòng ở Roma khi đã có học vị tiến sĩ. Salamanca Vào đầu thế kỉ XVI, đại học Salamanca là một trong năm vì sao sáng trong bầu trời học thức Châu Âu (bốn đại học kia là Paris, Oxford, Cambridge và Bologna). Lúc đó đại học này có chừng 4.000 sinh viên, với những nhà thần học thời danh trong ban giảng huấn. Iñigo cùng với bốn đệ tử đến Salamanca vào giữa tháng bảy, mà năm học mãi đến giữa tháng mười mới bắt đầu. Cách sống “không giống ai” của nhóm khiến người ta chú ý. Không phải là chủng sinh hay linh mục, cũng chẳng phải là tu sĩ của Dòng nào, vậy mà họ cứ tụm năm tụm ba, khi chỗ này lúc chỗ kia, để nói với nhau về những chuyện đạo, dạy điều này chỉ điều khác cho những ai muốn nghe. Như thói quen, Iñigo xin một cha dòng Đa minh làm linh hướng. Một hôm cha này mời ngài tới tu viện để gặp cha Bề trên, và ngài bị giữ ba ngày ở đó, sau khi đã bị thẩm vấn đủ điều. Qua ba ngày, ngài bị đưa đến 43 nhà giam của giáo phận. Thời đó, Giáo hội có tòa án và nhà giam riêng để xét xử những trường hợp phạm đến đức tin và luân lý. Người ta xích chân ngài với Calixto chung, và cho ở trong một phòng rất dơ bẩn. Hai đệ tử khác bị nhốt chung với những người khác. Riêng Gioan nhỏ đã vào dòng rồi. Trong lúc bị giam giữ, ngài được nhiều người đến thăm và ngài nói chuyện thiêng liêng với họ. Có người tìm cách vận động để ngài được trả tự do, ngài trả lời: “Bộ ở tù là một tai họa lớn lắm sao? Phần tôi, tôi cho rằng không có đủ xiềng xích ở Salamanca như tôi mong ước được chịu vì lòng mến Chúa đâu.” Một ngày kia, tù nhân phá ngục trốn hết, riêng Iñigo và các đệ tử vẫn ở lại, dù cửa đã mở tung, làm ai nấy đều ngạc nhiên. Cuối cùng linh mục Tổng Đại Diện cho biết không tìm thấy gì sai trái nơi đời sống hay giáo lý của Iñigo. Vậy ngài có thể tiếp tục làm tông đồ như cũ, nhưng không được xác định đâu là tội trọng, đâu là tội nhẹ, nếu chưa học xong bốn năm nữa. Iñigo không bằng lòng với phán quyết này, ngài cho biết sẽ tuân giữ như vậy bao lâu còn ở Salamanca. Ra khỏi nhà giam, Iñigo lại tự hỏi phải làm gì. Cuối cùng, ngài quyết định đi Paris để học và để kết nạp thêm những người cùng chí hướng. Nhiều người thế giá can ngăn, nhưng Iñigo đã quyết. Giữa tháng chín, ngài một mình rời Salamanca, nói ba đệ tử ở lại đó đợi ngài đến Paris sẽ sắp xếp để họ qua sau. Chúng ta biết rằng đó là cuộc chia tay vĩnh viễn, vì sau đó mỗi người đi một ngả. 44 Thánh Đường LOYOLA 45 ĐẠI HỌC PARIS Rời Salamanca, Iñigo trước hết đi Barcelona, có lẽ để chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi Paris. Bà Isabel Roser tặng cho ngài một ngàn phiếu để lãnh ở Paris, nhờ đó có thể yên tâm học hành. Đầu tháng một, năm 1528, Iñigo một mình một lừa đi Paris. Chúng ta không biết rõ đường ngài đã đi, nhưng đường ngắn nhất giữa Salamanca và Barcelona là gần 900 km, còn đường ngắn nhất giữa Barcelona và Paris là 1.100 km. Ngày 2.2.1528 Iñigo đặt chân đến Paris. Tại sao Iñigo lại chọn đại học Paris? Có lẽ vì ba lý do. — Ở Tây Ban Nha, ban thanh tra giáo lý làm việc tích cực, ngài thường bị khó khăn. — Ở Tây Ban Nha, ngài bị lôi cuốn nhiều vào việc tông đồ, nên khó khăn về việc học. Trên đất Pháp, vì không biết tiếng Pháp, cơ hội làm việc tông đồ sẽ hạn chế hơn, nhờ đó ngài có điều kiện để học hành đến nơi đến chốn hơn. — Có lẽ ngài đã nghĩ đến một cái gì lớn: đến Paris một phần để kiếm cách đưa các bạn đã theo ngài từ Alcalá đi học, một phần để chiêu mộ thêm những bạn mới, theo một dự tính tông đồ chắc chưa rõ nét, nhưng cũng đã mạnh mẽ. Học viện Montaigu Iñigo đặt chân tới Paris ngày 2.2.1528, và ghi tên theo học tiếng Latinh tại học viện Montaigu. Nhờ số tiền bà Roser giúp, ngài ở trong một nhà trọ. Nhưng vì muốn hết sức nghèo khó, ngài trao tất cả số tiền 25 êcus (đủ để ăn học trong một năm) cho một sinh viên 46 Tây Ban Nha cùng ở nhà trọ giữ giùm. Tháng bốn 1528, hắn đi đâu mất, mang theo cả số tiền của ngài, nên ngài bị đuổi ra khỏi nhà trọ. Ngài đến ở nhờ bệnh xá thánh Giacobê và hằng ngày đi hành khất ngoài đường. Nhưng có điều bất tiện là buổi sáng bệnh xá mở cửa trễ hơn học viện và buổi chiều lại đóng cửa trước giờ tan học ở học viện. Do đó, theo lời khuyên của một số người, mỗi năm vào kỳ hè, ngài bỏ ra vài tuần qua miền Flanđre (Bỉ-Hà Lan) để xin các thương gia giàu có người Tây Ban Nha tại đó, nhờ vậy có thể yên tâm ăn học cả năm. Cũng có lần ngài qua tới Anh để hành khất nữa. Làm như vậy được mấy năm thì người ta nói ngài khỏi phải đến, họ sẽ gởi tiền về Paris cho ngài. Sau chuyến đi Flanđre lần đầu (1528) trở về, Iñigo lại bắt đâu gặp gỡ trò chuyện thiêng liêng với người khác. Nhiều khi ngài cũng hướng dẫn Linh thao nữa. Trong số những người tập Linh thao có ba người Tây Ban Nha đã tiến khá xa trên đường học vấn: —Castro đã học đến mười năm thần học (giáo trình đầy đủ kéo dài 13-14 năm). —Peralta đã có cử nhân triết. —Amador (người Basque). Hai người trên ở học viện Sorbonne, còn người thứ ba ở học viện Sainte Barbe. (Lúc đó đại học Paris gồm nhiều học viện). Sau khi tập Linh thao, họ thay đổi cách sống hoàn toàn. Họ phân phát hết những gì họ có, kể cả sách vở, cho người nghèo, rồi bỏ học viện đến sống với nhau ở bệnh xá thánh Giacobê và đi hành khất như Iñigo. Sự việc đó gây xôn xao trong giới Tây Ban Nha tại khu đại học Paris, đặc biệt tại học viện Sainte Barbe. 47 Sau khi khuyên nhủ không được, bạn bè của ba người này đã đem theo cả võ khí đến bệnh xá để ép buộc trở về học viện. Cuối cùng hai bên đi đến thỏa thuận là ba người trở về học viện để hoàn tất việc học đã, rồi sau đó tùy ý muốn sống thế nào cũng được. Ai gây ra thái độ cực đoan của ba người đó? Trước mắt mọi người thì đó là Linh thao của Iñigo. Giám đốc học viện Sainte Barbe tố cáo Iñigo đã làm cho Amađor mất trí, và tuyên bố nếu ngài vào học viện của ông, ông sẽ cho hình phạt “đòn công khai.” Người bị hình phạt này phải ở trần và bị dẫn đi qua giữa các giáo viên xếp thành hai hàng, trước sự chứng kiến của tất cả sinh viên, mỗi giáo viên cầm roi đánh người có lỗi một roi. Iñigo cảm thấy sẵn sàng chịu hình phạt này, nhưng vì sợ có ảnh hưởng đến hoạt động tông đồ, nên ngài đã dàn xếp. Ribadeneira giải thích: Iñigo đến găp vị giám đốc để trình bày, và thay vì phạt, ông đã công khai xin lỗi ngài. Người ta không tin lắm là sự kiện đã xảy ra như vậy. Có điều chắc chắn là trước khi vào học viện Sainte Barbe, ngài đã làm hòa với vị giám đốc rồi. Một điều khác quan trọng hơn là Iñigo bị tố cáo trước ban thanh tra giáo lý ở Paris. Alcalá và Salamanca tái diễn chăng? May mắn là ban thanh tra ở Paris không đa nghi như ở Tây Ban Nha. Mặt khác, phân 48 khoa thần học cũng lưu ý ban thanh tra là không được dẫm chân lên quyền riêng của họ về việc xét định phải trái trong đức tin nơi các sinh viên của trường. Do đó, vụ tố cáo chẳng có biên bản gì và cũng chẳng có bản án nào. Khi Iñigo vào học viện Sainte Barbe, hình như mọi sự việc trên đây đã ổn định cả. Có lẽ chính ngài dè dặt hơn trong tương quan với các sinh viên nội trú khác. Ngài có giữ liên lạc với nhóm thánh Giacobê không? Chúng ta không biết rõ. Điều chắc chắn là không một ai trong ba người ấy có mặt trong nhóm Montmartre sắp thành hình. Bốn người bạn Alcalá và Salamanca làm Iñigo thất vọng. — Jean Reynald đã vào Dòng tu gần Salamanca ngay khi ngài còn ở đó. — Cáceres trở về quê ở Segovia và “sống như thể chưa hề nghĩ đến đời sống nghèo khó và tông đồ bao giờ.” — Arteaga qua Mêhicô làm giám mục và chết vì uống lầm thuốc độc. — Calixtô đe Sa được ngài gởi tiền và lừa để đến Paris học, nhưng lại dùng để đi Bồ Đào Nha, rồi đi Ấn Độ và trở về Salamanca sống, nhà đầy vàng. Như vậy, hai lần thí nghiệm chiêu mộ bạn bè sống theo “lối sống” của ngài xem ra thất bại. Tuy nhiên cần ghi nhận: — Họ chỉ giống nhau một điểm: tất cả đều là sinh viên. Còn lại, họ khác nhau cả về tính tình lẫn ơn riêng. Iñigo không tuyển lựa chi hết: thấy ai “ước ao phục vụ Chúa” thì nhận, không “cứng rắn” trong việc chiêu mộ. 49 — Iñigo không nóng lòng sốt ruột: cứ bày tỏ “lối sống” của mình, ai bị lôi cuốn thì theo. Rồi ngài giúp họ trong con đường của họ, nếu họ không gắn bó với nhóm thì cũng vẫn là bạn. Sau này về lại Tây Ban Nha, ngài vẫn đến thăm Rayhald. — Dù thất bại, ngài không nản chí. Theo các nhà tâm lý thì ngài là con người tính khí hoạt động, gặp khó khăn lại càng hoạt động hơn. Vì vậy mà nhóm thứ ba lại thành hình, và không tan rã nữa, nhưng qua bao thăng trầm đã biến thành Dòng Tên. Học viện Sainte Barbe Tháng mười 1529, Iñigo vào nội trú học viện Sainte Barbe để học triết lý. Ngài được chỉ định ở chung phòng với Phêrô Favre và Phanxicô Xavier. Ở đây, ngài học hành đến nơi đến chốn. Năm 1533 sau kỳ thi tốt nghiệp, ngài được chấm đậu với hạng giỏi (honorable), được xếp hạng 30/100 thí sinh. (Trước đó Xavier được xếp thứ 22 và Favre thứ 24). Ngài không nhận học vị cử nhân văn khoa (maitre ès arts) ngay, vì tốn tiền và vì không muốn làm nghề dạy học. Mãi năm 1535 ngài mới làm thủ tục nhận học vị. Từ học viện Sainte Barbe này đã manh nha nhóm bạn sau này sẽ biến thành Dòng Tên. 50 NHÓM BẠN MONTMARTRE Ngày 15.8.1534, Iñigo cùng với sáu người bạn đưa nhau đến nhà thờ Montmartre tuyên khấn. Tình bạn trong Chúa của họ đã bền vững và hình thành một dòng tu. Phêrô Favre — quê ở Savoie (đông nam Pháp), — sinh tại làng Villaret trong thung lũng Grand Bornand vào khoảng Phục sinh năm 1506. — gia đình nông dân: lúc nhỏ đi chăn cừu, lớn lên dự tính sẽ đi làm ruộng như cha, — nhưng trong lòng nuôi ước Phêrô Favre mộng khác: “Vào năm chừng mười tuổi, tôi cảm thấy có ước muốn đi học, nhưng vì là mục đồng và cha tôi định cho tôi ở thế gian, tôi buồn lắm và tôi khóc, vì tôi rất thèm đi học, đến nỗi ba má tôi bất đắc dĩ buộc lòng phải cho tôi đi học. Thấy tôi tiến tới, ông bà cụ không ngăn cản tôi tiếp tục. Thiên Chúa đã để cho người ta thấy nơi tôi chẳng có chút gì thích hợp với đời sống thế gian.” — học Latinh với một linh mục ở làng bên cạnh suốt hai năm, — 1516 vào học trường La Roche thời danh, cách nhà chừng 9 km. Tiến bộ nhanh về học vấn và đạo đức. — Tháng chín 1525, theo lời khuyên và sự trợ giúp của người chú làm bề trên tu viện Chartreux ở Reposoir, đến Paris học, 51 — tính tình hiền lành và nhạy cảm, hướng nội, hay lo âu, bối rối. — Sắp lãnh học vị cử nhân văn khoa thì gặp được Iñigo đến sống cùng phòng. Mười ba năm sau, ngài viết: “Chúc tụng Chúa quan phòng đã sắp xếp như vậy vì ích lợi và phần rỗi linh hồn tôi. Peña đã ra lệnh cho tôi dạy con người thánh thiện ấy học. Ban đầu, tôi lợi dụng những buổi nói chuyện bên ngoài, sau đó là những buổi tâm sự thân mật. Chúng tôi sống cùng phòng, ăn cùng bàn, tiêu cùng quỹ. Ngài là thầy của tôi trong những việc thiêng liêng, và chỉ đường cho tôi lớn lên trong sự nhận biết ý Chúa. Vậy là cuối cùng chúng tôi đã nên một trong các ước nguyện và dự tính lựa chọn cuộc sống trong Dòng, dù tôi bất xứng.” — Mặc dầu Phêrô Favre rất nhiệt tình, Iñigo không hối thúc tập Linh thao. Trước hết phải giúp Phêrô Favre tháo gỡ các bối rối. Iñigo giúp phân biệt rõ điều mình muốn với điều mình phải chịu và khuyên xưng tội chung để dứt khoát với quá khứ. Sau đó, Iñigo khuyến khích xưng tội rước lễ hằng tuần và xét mình mỗi ngày. — Trên cơ sở đơn giản đó, Phêrô Favre xây dựng được một đời sống thiêng liêng cao độ. — Trong vòng hai năm, không có vấn đề theo Iñigo. Chính Phêrô Favre không biết có nên lập gia đình không, nên làm bác sĩ hay luật sư, nên lấy bằng tiến sĩ thần học hay chẳng cần bằng cấp, làm linh mục hoặc vào đan viện. Phêrô Favre do dự và Iñigo chờ đợi. — Chừng cuối năm 1531, Phêrô Favre tự ý quyết định theo cách sống của Iñigo. Ngài không hối thúc, cũng 52 không thay đổi gì nhịp sống thiêng liêng của Phêrô Favre. — Tháng bảy 1533 trở về quê sống bảy tháng. Đầu năm 1534 trở lại Paris làm tháng Linh thao. Có lẽ Phêrô Favre là người đầu tiên làm Linh thao một tháng. — Iñigo rút kinh nghiệm trong những lần trước, lần này ngài kiên nhẫn và cẩn thận hơn. Phêrô Favre chỉ làm Linh thao khi đã biết ngài bốn năm, đã quyết tâm theo ngài hai năm và đã nhiều lần xin. Trước kia có lẽ chỉ hướng dẫn qua loa, giờ đây ngài cho Phêrô Favre tập Linh thao nguyên một tháng. — Phêrô Favre làm Linh thao thật hết lòng: sáu ngày không ăn uống gì, hằng ngày dự lễ và rước lễ, mùa đông năm ấy nước sông Seine đóng băng, nhưng Phêrô Favre không sưởi ấm mà đôi khi còn ra ngoài trời suy niệm. Trong tháng Linh thao này, Phêrô Favre tái khẳng định quyết tâm theo Iñigo và cũng quyết định làm linh mục. — Chịu chức linh mục ngày 30.5.1534, Phêrô Favre dành ra hai tháng để chuẩn bị dâng lễ mở tay. Ngày lễ thánh Mađalêna (22.7) dâng lễ mở tay. Phanxicô Xavier Tính tình Phanxicô Xavier khác hẳn với Phêrô Favre. Sinh năm 1506 như Phêrô Favre, nhưng Phanxicô Xavier thuộc gia đình thế giá. Cha có học vị tiến sĩ và làm giám đốc ngân khố, thẩm phán tòa án, chủ tịch hội đồng hoàng gia của vương quốc Navarra. Tuổi thơ được hưởng mọi tiện nghi và chiều chuộng. Năm 1512, Navarra bị xóa tên và sát nhập vào Tây Ban Nha. Ba năm sau, cha qua đời. Đến năm 1517, lâu đài của gia đình bị triệt hạ vì trung thành với vua cũ. Gia đình tan nát: hai anh bị tù rồi bị kết án tử hình vì 53 chống đối triều đình Tây Ban Nha, tài sản bị tịch thu. Sau này, hai anh được hoàng đế Carlos V ân xá. Lúc nhỏ, ngài được giáo dục tại gia đình. Có lẽ đi học một thời gian tại Sanguesa. Khoảng đầu tháng mười năm 1525, ngài qua Paris học và ở đó suốt 11 năm. Tại học viện Sainte Barbe, ngài sống cùng phòng với Phêrô Favre cùng tuổi. Ngài theo học các giáo trình thường lệ cho đến hết cử nhân. Sau đó, dược cử làm phụ khảo tại học viện De Beauvais thuộc đại học Paris. Phanxicô Xavier là con người thông minh và nhiều tham vọng. Ngài ước mong tiến thân bằng con đường trí thức. Ước mong của ngài là có học vị để kiếm được một giáo bổng khá, chẳng hạn làm giám mục. Đó Iñigo chinh phục Xavier cũng là một con người hiếu động. Ngài có nhiều thành tích về điền kinh trong đại học. Như nhiều sinh viên khác, ngài cũng thường trèo tường trốn đi chơi đêm ngoài phố. Chính ngài thú nhận là nếu không sa ngã trụy lạc chỉ vì ngài sợ bị bệnh. Đầu năm học 1529, có thêm Iñigo đến ở chung. Ban đầu, Phaxicô Xavier coi Iñigo là đầu đề chế diễu và cười nhạo. Hơn nữa Phanxicô Xavier cũng không quên mối thù Pamplona: khi Iñigo cố thủ thì hai anh 54 của Phanxicô Xavier là sĩ quan trong đoàn quân “phục quốc,” để rồi sau này bị kết án tử. Riêng Iñigo thấy nơi Phanxicô Xavier một con người cần chinh phục cho Chúa. Diễn tiến thế nào? Cho đến nay, chúng ta chưa biết rõ Phanxicô Xavier đã hoán cải và theo Iñigo thế nào. Chắc chắn không phải vì Iñigo lặp lại câu “Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?” Theo lời chứng của Edmond Auger (vào Dòng 1550), thì Phanxicô Xavier là nắm bột thô nhất mà Iñigo phải nhào nắn. Hẳn là cuộc hoán cải không xảy ra trong một sớm một chiều. Có thể tách được hai bước hoán cải và theo Iñigo không? Chúng ta không rõ. Theo cha Schurhammer thì việc đó xảy ra trong khoảng từ tháng 12.1532 đến tháng sáu năm 1533. Simon Rođrigues Trong số các bạn tuyên khấn ơ Montmartre, ai cũng đồng ý Favre và Xavier là hai người đầu tiên. Nhưng kế đó là ai? Hiện chúng ta không có câu trả lời chắc chắn. Trong cuốn Dòng Tên Khai Sinh và Phát Triển, Simon Rođrigues kể tên các bạn theo thứ tự vào nhóm, và đặt tên mình ngay sau Xavier. Trong cuốn Hạnh Thánh Inhã, Polanco lại đặt Simon Rođrigues ở vị trí cuối cùng. Có lẽ vì sau này Simon gây Simon Rođrigues nhiều rắc rối trong Dòng nên bị Polanco coi như chót hết. Do đó, có lẽ thứ tự của Simon Rođrigues nêu ra là đúng hơn. Simon Rođrigues sinh năm 1509 lại Vouzela, miền bắc Bồ Đào Nha, trong một gia đình quý phái và giàu 55 có. Ngài lớn lên tại Lisboa dưới sự coi sóc của vị niên trưởng tuyên úy hoàng gia. Có lẽ ngài được hưởng một trong 50 học bổng vua Gioan III của Bồ Đào Nha cấp cho các sinh viên qua học tại học viện Sainte Barbe. Đến Paris khoảng tháng sáu năm 1527 và vào nhóm khoảng năm 1533. “Tôi được từ trên cao thúc giục chuyển cách sống trước đây của tôi thành một của lễ hoàn toàn dâng lên Thiên Chúa. Chưa bao giờ tôi trao đổi với cha Inhã trước, nhưng cha rất nổi tiếng là thánh thiện, nên tôi được biết và tâm sự với cha các tâm tư thầm kín. Tôi không hề biết dự định của ba bạn kia sẽ đi Giêrusalem và dâng hiến đời mình cho phần rỗi các linh hồn.” Như vậy là hình như chính Simon Rođrigues đã có sáng kiến chứ không phải thánh Inhã. Điego Laynez Thứ tư và thứ năm là hai người bạn thân: Laynez (Laínez) và Salmerón. Cả hai cùng học ở Alcalá khi Iñigo cũng học ở đó. Có người cho rằng hai người đã đi Paris để gặp lại Iñigo, vì ở Alcalá ngài đã nổi tiếng là thánh thiện. Ngược lại, có người cho rằng hai người đi Paris để đào sâu triết lý và thần học, rồi bất ngờ Diego Laynez may mắn gặp Iñigo ngay từ ngày đầu tiên. Chúng ta cũng không biết quyết định theo Inhã là quyết định riêng rẽ mỗi người hoặc hai người bàn định với nhau và cùng đi đến quyết định chung. Điego Laynez sinh năm 1512 tại Almazán, cách Madrid chừng 200 km về phía đông bắc, cha mẹ ngài thuộc hàng danh giá và khá giả. Gia đình gốc Do thái, 56 ít là bên nội: đó là điều tại Tây Ban Nha lúc ấy còn ô nhục hơn cả con hoang nữa. Tuy nhiên tổ tiên từ mấy đời vẫn sống đạo đức. Lúc nhỏ, ngài được gởi học tại Soria rồi Siguenza, sau đó vào đại học Alcalá. Ngài được các thầy và bạn quý mến vì trí khôn rất nhạy bén, tận tâm, cần cù, lịch thiệp và dễ mến. Anphong (Alfonso) Salmerón Sinh năm 1515 tại Toleđo trong một gia đình nghèo nhưng hiếu học. Đến Alcalá học La tinh, Hy lạp và triết lý, gặp Laynez và trở thành “cặp bài trùng.” Cả hai cùng đi Paris năm Alfonso Salmerón 1533, cùng vào nhóm của Iñigo. Nicolás Bobađilla Không rõ tên thật là gì, Bobađilla là tên làng quê. Sinh năm 1509 tại miền bắc Tây Ban Nha. Trong số các bạn của Iñigo, chỉ có Rođrigues mới theo kịp Bobađilla trong việc gây ra những bận tâm cho nhóm. Nhưng thánh Inhã biết đó là một con người có giá trị, cách nói “thẳng thừng” luôn luôn chứa đựng phần Nicolás Bobađilla lớn sự thật, con người tông đồ không biết mệt mỏi. Gia đình nghèo, ngài học tiểu học tại quê nhà, trung học lại Valladolid, triết học tại đại học Alcalá và có học vị cử nhân tại đây. Rồi ngài vừa đi dạy trung học vừa học thần học trong bốn năm. Vì muốn học thêm tiếng La tinh, Hi lạp và Do thái, nên qua Paris, trễ nhất là mùa thu năm 1533. Gặp Iñigo và vào nhóm đầu năm 1534. Iñigo băn khoăn thấy Nicolás Bobađilla thuộc nhóm 57 sinh viên “ba ngôn ngữ” vì đó là môi trường xuất phát nhiều kẻ rối đạo nhất. Dần dần Iñigo giúp Nicolás Bobađilla bỏ ý định ban đầu để đào sâu Kinh Thánh và thần học. Khấn hứa tại Montmartre Iñigo cùng với sáu người bạn dù khác nhau về tuổi tác, trình độ văn hóa, quốc tịch, tánh tình, gia thế, kinh nghiệm, nhưng tất cả có chung một “tinh thần.” Tinh thần này được bộc lộ nhất trong dự tính chung, đó là đi hành hương Giêrusalem và cống hiến đời mình cho “phần rỗi các linh hồn.” Dự tính ấy được xác định trong một “lối sống” là chính lối sống của Iñigo: nghèo khó theo Tin Mừng và làm tông đồ. Dự tính ấy, họ không có thực hiện trong một dòng tu có sẵn hoặc trong một dòng tu mà chính họ sẽ lập ra, họ hoàn toàn xa lạ với ý tưởng lập một dòng tu, chỉ có liên kết với nhau theo kiểu một “hội tông đồ.” Tinh thần chung được nuôi dưỡng bằng những lần gặp nhau để chia sẻ và cầu nguyện. Ngoài những dịp nói chuyện riêng, hằng tuần Iñigo cùng với các bạn rủ nhau đến đan viện Chartreux để chia sẻ và cầu nguyện. Những buổi sinh hoạt như vậy ai muốn đến dự cũng được, khi nào chán thì bỏ, thấy thích hợp thì tiếp tục. Bằng cách đó, Iñigo liên kết với sáu người bạn cùng chí hướng để việc tông đồ được rộng lớn và hiệu quả hơn. Trong những buổi gặp gỡ như vậy, họ trao đổi với nhau về tương lai. Dần dần họ đi đến hai quyết định: 1) dành ra ba năm để tiếp tục học thần học, không thay đổi gì trong cách sống bên ngoài; 2) tăng cường hơn nữa đời sống nội tâm để có thể tiến tới, lướt thắng mọi trở ngại, và tránh được mọi hiểm nguy thường gặp phải khi thực hiện những dự tính như vậy. 58 Tiếp đến là một cuộc bàn bạc lâu dài. “Sau khi đã thảo luận lâu dài để xác định mình muốn gì, họ quyết định mọi người sẽ buộc mình với lời khấn nghèo khó, khiết tịnh, hành hương Giêrusalem, và khi trở về, nhờ Chúa giúp, sẽ hết lòng làm việc cho tha nhân được cứu độ, cả dân ngoại cũng như tín hữu, giảng Lời Chúa cho mọi người, ban miễn phí các bí tích giải tội và Thánh Thể.” Rồi họ giải thích cho rõ hơn về các lời khấn. Lời khấn nghèo khó chỉ có hiệu lực đầy đủ khi đã học xong. Mặt khác lộ phí đi Giêrusalem không kể vào lời khấn. Về hành hương, nếu một năm sau khi học xong mà chưa đi được, hoặc nếu sau khi đi hành hương họ quyết định trở về Châu Âu, họ sẽ để cho Đức Giáo Hoàng ấn định cách sống đời tông đồ, các hoạt động mục vụ hay từ thiện, địa phương hoạt động... Nếu ai được Đức Giáo Hoàng ủy thác “sứ mạng” thì đã thấy rõ đó lá ý Chúa rồi, chẳng cần đắn đo gì nữa. Về tất cả những điểm trên đây, cả nhóm nhất trí. Tuy nhiên, trong khi thảo luận có một điểm chưa rõ, làm cho nhóm không nhất trí được, đó là có người đòi phải quyết định ngay là sẽ “đem ánh sáng chân lý đến cho dân ngoại.” Và cả nhóm đã bàn bạc về điểm này. Mọi người đã mau chóng đồng ý là nếu cần, họ sẽ cống hiến trọn đời cho bất cứ việc gì phục vụ và tôn vinh Chúa hơn. Vì vậy, họ nhất trí về lời khấn truyền bá đức tin như sau: Tất cả sẽ theo đường biển đi Giêrusalem. Ở đó sẽ xin ơn Chúa để làm lại việc lựa chọn. Nếu lúc ấy đa số đồng ý làm việc giữa dân ngoại, họ sẽ nắm lấy cơ hội Chúa ban cho, tức là tất cả sẽ ở lại Đất Thánh để truyền giáo cho người Hồi giáo. Nhưng nếu đa số không đồng ý, thì tất cả, không trừ ai, sẽ trở về Venezia. Như vậy là họ đã quyết định gắn 59 bó với nhau, không để cho những ý kiến khác biệt chia lìa nhau. Montmartre thời các bạn đã tuyên khấn Đọc đi đọc lại bản tường trình về cuộc bàn bạc, chúng ta thấy quyết định của thánh Inhã và các bạn vừa quảng đại vừa khôn ngoan, vừa trọn vẹn vừa quân bình. Cần lưu ý là bản tường trình không cho biết đâu là ý kiến hoặc vai trò của ai, ngay cả của thánh Inhã. Đó là một cuộc nhận định cộng đoàn. Là sinh viên, đa số đã làm tháng Linh thao, họ đều đầy nhựa sống, nặng tình đồng chí, nhiều hứng khởi và sáng kiến, tạo nên những dự tính mạo hiểm đầy thi vị thiêng liêng. Vì vây, có thể nói các lời khấn ở Montmartre là lời khẳng định, là sự kết tinh của một đỉnh cao thiêng liêng họ đã cùng nhau đạt tới. Ngày 15.8.1534, cả nhóm bảy người rủ nhau lên đền thờ các thánh tử đạo Montmartre từ sáng sớm. Lúc ấy, Phêrô Favre là linh mục duy nhất trong nhóm. Ngài dâng lễ và cả nhóm dự lễ sốt sắng. Trước khi hiệp lễ. mỗi người lần lượt tuyên khấn. Kết thúc thánh lễ, mọi người ra về lòng tràn ngập niềm vui thiêng liêng. Vui vì đã cho cuộc sống mình một ý nghĩa vĩnh viễn. Vui vì được thuộc về Đức Kitô trọn vẹn. Vui vì được tham 60 dự vào sự nghiệp cứu độ vĩ đại, một sự nghiệp không giới hạn, không biên cương. Vui vì được sống trong một cộng đoàn tin cậy mến. Suốt ngày hôm ấy, họ sống ngoài trời với nhau, cầu nguyện và chia sẻ thiêng liêng cho đến tối. Nếu thánh Inhã được gọi là Cha của Dòng Tên, thì Paris được gọi là Mẹ. 61 THÁNH INHÃ MỘT MÌNH VỀ TÂY BAN NHA RỒI ĐI VENEZIA Cuối tháng ba năm 1535, Iñigo tạm biệt các bạn để về Tây Ban Nha. Vì sao? Trước hết, có lẽ vì ngài bị bệnh. Ngài bị mệt mỏi và bị đau trong bụng mà ngài bảo là đau bao tử. Thực ra, ngài bị sạn trong mật như — sau này các y sĩ khám nghiệm mô tả và ngày nay người ta mới kết luận được. Thời đó, người ta chưa biết đến thứ bệnh này và không có thuốc gì để chữa trị. Chỉ còn cách nhờ đến khí hậu của quê hương. Thứ đến, ngài phải đi gặp gia đình các bạn, đa số ở Tây Ban Nha, để giải thích về tình trạng mới của mỗi người, đồng thời dàn xếp giùm các bạn những công chuyện liên quan đến lời khấn nghèo khó. Cũng có thể là ngài muốn tránh cho các bạn khỏi bị ban thanh tra làm khó dễ. Trước đó không lâu, ngài lại bị tố cáo lần nữa, cả cách sống của ngài cũng như tập Linh thao của ngài. Để khỏi rắc rối lâu dài và sinh lớn chuyện, ngài đã đích thân đi dàn xếp, và xin được một giấy chứng nhận bảo đàm đời sống và giáo thuyết của ngài tốt. Nhưng ai biết được còn những gì sẽ xảy đến? Phải để cho các bạn được yên ổn học hành, lấy bằng và chuẩn bị chịu chức linh mục. Sau hết, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng ngài muốn thử xem nhóm có bền vững không. Nếu chỉ vì ngài thì đây là dịp tốt nhất để nhóm tan rã. Nhưng nếu vì Chúa, thì chỉ một mình Đức Kitô là người quy tụ các bạn, không ai được làm tấm màn ngăn cách họ với Chúa. Chính Thánh Linh hướng dẫn nhóm chứ không phải ngài. 62 Phêrô Favre vừa là linh mục, vừa là nhóm viên đầu tiên, lại nhiều tuổi nhất, sẽ thay chỗ của Iñigo để hiệp nhất và linh hoạt các bạn. Lữ khách tại quê nhà Một mình trên lưng lừa. Iñigo bỏ Paris về Tây Ban Nha. Khi đến ranh giới tỉnh Guipúzcoa, ngài gặp hai gia nhân của anh Martín đến đón. Họ nài nỉ ngài về ở trong lâu đài, nhưng ngài đến tá túc tại bệnh xá thánh Mađalêna ờ Azpeitia. Trước lời phản đối của anh, ngài cho biết ngài không về Tây Ban Nha để sống trong các lâu đài, nhưng để truyền bá lời Chúa, và giúp người ta hiểu tội trọng nguy hiểm thế nào. Trong ba tháng trời, ngài ăn uống chung với các bệnh nhân nghèo, ngủ dưới nền nhà chứ không ngủ trên chiếc giường vừa êm vừa ấm do anh Martin gởi vào. Hằng ngày ngài đi hành khất. Mỗi thứ hai, thứ tư và thứ sáu, ngài giảng giáo lý cho trẻ con. Có nhiều người đến nghe, kể cả anh Martin. Mỗi Chúa nhật, ngài đến nhà thờ họ đạo giảng, mỗi lần giảng lâu đến 3 giờ. Ngoài ra, ngài can thiệp vào nhiều chi tiết trong đời sống xã hội, bộc lộ hướng cải tạo một thế giới theo tinh thần Tin Mừng. Cũng tại đây, ngài thuyết phục được các nhà thờ và tu viện mỗi ngày rung chuông 3 lần: sáng, trưa và tối, để nhắc nhở mọi người cầu nguyện cho những người mắc tội trọng. Điều này sau đó đã phổ biến khắp Giáo hội với việc đọc kinh truyền tin. Khi sức khỏe đã khả quan, Iñigo lên đường lo việc cho các bạn. Trước hết, ngài đến Obanos gần Pamplona để tiếp xúc với gia đình của Xavier, ở đây, ngài được tiếp đón lạnh nhạt. Rồi ngài đến với gia đình của Laynez ở Almasan, và được tiếp đãi nồng hậu. Gia đình này muốn cho ngài một con ngựa và số tiền để 63 chi phí cho chuyến đi, nhưng ngài không nhận chút gì. Sau đó, ngài đi Siguenza thăm người bạn cũ gặp ở Alcala. Đến Madrid, ngài được một mệnh phụ quý mến và giới thiệu với các hoàng tử mà bà có nhiệm vụ chăm sóc. Rồi đi Toledo gặp gia đình Salmeron. Nhiệm vụ đối với các bạn đã xong, ngài đi hơn 350km đến Valencia để thăm Gioan Castro, người bạn ở Paris, nay vào dòng Chartreux. Cuối cùng, ngài đến Barcelona xuống tàu đi Ý để hoàn tất giáo trình thần học, trong khi chờ đợi các bạn sẽ cùng đến Venezia. Lữ hành trên đất Ý Iñigo đến Genova vào giữa tháng 11 năm 1535. Quãng đường từ Genova đến Bologna ngài không thể quên được: “Chưa bao giờ tôi phải trải qua những giờ phút mệt nhọc và nguy hiểm như vậy. Nhưng cuối cùng tôi cũng qua được”, ở Bologna, ngài bị đau sạn mật nữa, nhưng ngài nghĩ là do sương mù ở vùng ấy. Sau lễ Giáng sinh, ngài đi Venezia, hy vọng ở đó có thể lo liệu để khi các bạn ở Paris qua sẽ sẵn tàu đi Giêrusalem. Suốt năm 1536, ngài ở Venezia một mình, trọ nhà một người quen, chuyên chăm cầu nguyện và hãm mình, tự học thần học một mình, và hướng dẫn Linh thao, ngài liên lạc với nhiều nhân vật quan trọng của thành phố. Trong số này, Giacôbê Hoces, quê tại Malaga (miền nam Tây Ban Nha) đã quyết tâm theo ngài. Hoces tham dự vào đời sống của nhóm tới khi qua đời vào tháng ba năm 1538. Ngoài ra, cũng phải kể đến hai anh em nhà Eguía là Esteban và Điego. Esteban góa vợ và Điego là linh mục. Hai anh em giàu có này đã đi hành hương Giêrusalem và về sống tại Venezia. Iñigo hướng dẫn cả hai làm Linh thao, và họ 64 quyết định vào nhóm. Tuy nhiên, họ phải dành một thời gian để dàn xếp công việc. Sau này cả hai cũng giữ lời hứa vào Dòng. Qua Hoces, Iñigo được biết Gioan Phêrô Carafa, lúc đó là giám mục Chieti, sau này là Giáo hoàng Phaolô IV. Ban đầu, hai người có thiện cảm với nhau, và thường chuyện trò thân mật. Nhưng sau đó hai bên đoạn tuyệt. Sự bất hòa này sao đó có nhiều hậu quả trên đời sống của thánh Inhã. Nhưng đây là một dịp để chúng ta thấy rõ hơn quan niệm của ngài về một dự án tông đồ. Đó là một lá thư ngài đã viết và gởi cho Carafa có lẽ năm 1536 (không ghi rõ ngày). Giám mục Carafo cùng với thánh Gaetano sáng lập một tu hội mà Iñigo gọi là Đoàn Theatino. Iñigo nhận thấy tu hội này không phát triển được trong khi nếu phát triển được thì có thể phục vụ và ca ngợi Chúa hơn. Tại sao không phát triển được? Ngài cho là có hai lý do: 1) Catafa sống sang trọng như một giám mục chứ không như một tu sĩ, nghĩa là “theo tinh thần của thánh Phanxicô, thánh Đa minh và nhiều vị thánh sáng lập khác”; 2) cách sống nghèo của tu hội không thích ứng với những đòi hỏi của đời tu. Các tu sĩ không đi khất thực, nên thiếu ăn; không đi giảng, lại cũng không lo cả đến các việc từ thiện như chôn người chết và dâng lễ cho họ. Vì vậy, các tín hữu ít biết đến tu hội, và các tu sĩ không giúp ích cho Giáo hội, trong khi sống vất vưởng. Iñigo giải thích thêm: Nếu họ làm những điều ngài nói, Thiên Chúa sẽ được phục vụ hơn, các tín hữu sẽ được thúc đẩy lo cho họ sống với lòng bác ái lớn hơn, các giáo sĩ khác quá ham tiền sẽ được thúc giục hối cải hơn, cuối cùng những ai sống công chính sẽ được khích lệ để bền vững và tiến bộ hơn. Nhìn vào gương 65 các vị thánh lập dòng, các ngài chờ mong mọi sự với lòng tin tưởng vô biên nơi Chúa, nhưng vẫn không bỏ qua những phương tiện hữu hiệu nhất để duy trì và phát triển tu hội nhằm phục vụ và ca ngợi Chúa hơn. Làm khác đi là các ngài thử thách Chúa hơn là đi theo con đường phải theo để phục vụ Chúa. Lời trách móc thật nghiêm khắc. Nhưng bản văn này đặt ra một số câu hỏi cho các nhà sử học: 1- Lá thư có được gởi không? Hình như tài liệu hiện còn giữ được không phải là một lá thư vì không để nơi viết và ngày tháng. Có lẽ đây chỉ là một bản nháp của một lá thư không gởi. Không có bằng chứng nào cho thấy lá thư đã đến tay Carafa. Tuy nhiên, chắc chắn Carafa biết quan điểm của Iñigo, vì hai người đoạn tuyệt với nhau, và sau này còn nhiều hậu quả nữa. 2- Tại sao lại Iñigo can thiệp thô bạo như vậy vào việc của người khác? Hình như có lúc ai đã có ý định hợp nhất hai nhóm. Sinh thời, thánh Inhã đã hai lần nói đến đề nghị ấy. Chắc không phải bỗng dưng ngài có sáng kiến chỉ trích việc của người khác như vậy, nhất là đứng đầu lại là một giám mục. Dầu sao, đây là một bản văn quan trọng, vì cho chúng ta biết được tâm điểm quan niệm của ngài về một tu hội tông đồ. Từ Iñigo đến Ignatius hay Ignacio Khi thánh Inhã rửa tội, cha mẹ đặt tên là Iñigo, một tên khá phổ biến ỏ Tây Ban Nha, dù trong gia đình ngài không có ai mang tên ấy. Iñigo là tên một vị thánh người Tây Ban Nha (có lẽ sinh tại Calatayud, gần Zaragoza) ở thế kỉ XI. Ngài đang sống ẩn tu trong rừng thì được nhà vua Castilla mời về làm viện phụ của 66 Oña, một đan viện cải cách theo phong trào Cluny. Dưới sự hướng dẫn của ngài, đan viện phát triển nhanh chóng và tốt đẹp. Ngài nổi tiếng là vị thánh làm cho trời mưa. Trong các thư từ, thánh Inhã vẫn ký tên là Iñigo cho đến năm 1537. Trong lá thư viết tại Vicenza tháng tám năm 1537, lần đầu tiên thấy ngài ký là Ignatius. Đây không phải là kiểu viết La tinh của Iñigo. Iñigo được la tinh hóa là Ennecus. Từ 1537 đến 1542, cuối các thư bằng tiếng Tây Ban Nha, ngài ký tên là Iñigo, các thư bằng tiếng La tinh ký tên là Ignatius và các thư bằng tiếng Ý ký tên là Ignacio. Nhưng từ 1542, ngài chỉ dùng Ignatius hay Ignacio, trừ lần duy nhất vào năm 1546 ngài dùng Iñigo. Năm ấy một linh mục tên là Barbarán ngỏ lời vời công chúng là mong ước tất cả các Giêsu hữu “từ Perpignan đến Sevilla” đều bị thiêu trên giàn hỏa hết. Ở Roma, thánh Inhã biết tin ấy nên viết thư cho một người bạn ở Tây Ban Nha: “Xin nhắn giùm cha Barbarán là tôi chúc ngài và tất cả bạn hữu cũng như thân nhân của ngài, chẳng những từ Perpignan đến Sevilla, mà cả trên toàn thế giới, được cháy lửa Thánh Thần, để hết thảy có thể đạt tới sự hoàn thiện lớn lao và trổi vượt trong việc tôn vinh Chúa chí tôn.” Trong thư này, lần cuối cùng ngài ký tên là Iñigo. Tại sao thánh Inhã lại thay đổi như vậy? Có thể vì Iñigo chỉ thông dùng ở Tây Ban Nha, bên ngoài ít ai biết, nhưng chắc còn lý do gì sâu xa hơn nữa. Khi dưỡng bệnh ở Loyola, hẳn là ngài có đọc hạnh thánh Inhã thành Antiokia, với những chi tiết đạo đức hơn là lịch sử. Chẳng hạn khi còn nhỏ vị tử đạo này đã từng được Chúa Giêsu ôm vào lòng khi nói: “Hãy để các em bé đến với ta.” Sau khi bị thú dữ ăn thịt, người 67 ta thấy nơi trái tim của vị tử đạo hình chữ IHS khắc bằng vàng. Dầu sao, chắc thánh Inhã thành Loyola đã cảm phục lòng yêu mến Chúa Giêsu nồng nàn của thánh Inhã thành Antiokia, yêu mến đến khao khát được tử đạo. Trong lá thư gởi thánh Phanxicô Borja năm 1547, ngài cũng viết: “Tôi hết sức đặc biệt kính trọng và mộ mến ngài (thánh Inhã thành Antiokia).” Ribađeneira xác nhận: “Trái tim cha (thánh Inhã thành Loyola) cũng cháy lửa yêu mến thánh danh Giêsu như thánh giám mục và tử đạo Inhã, và cho nỗ lực noi gương ngài chẳng những bằng việc nhận tên của ngài, mà hơn nữa bằng cả hành dộng.” Chính lòng trung thành và quảng đại yêu mến Chúa Giêsu của Iñigo đã làm ngài cảm phục đặc biệt thánh Inhã thành Antiokia, một con người tha thiết trung thành và quảng đại với Chúa Giêsu. Chữ IHS (viết tắt tên Chúa Giêsu bằng tiếng Hy lạp) cũng được ngài dùng khắp nơi, đặc biệt là được khắc vào con dấu Tổng Quản của ngài sau này. 68 ĐOÀN TỤ Trước khi chia tay, thánh Inhã đã đồng ý với các bạn là cả nhóm sẽ rời Paris ngày 25.1.1537 và gặp lại nhau lại Venezia để đón tàu đi hành hương Giêrusalem. Trong khi chờ đợi ngày đoàn tụ, các bạn ở Paris tiếp tục học hành và sinh hoạt thường lệ, dưới sự hướng dẫn của Favre. Ba bạn mới Bằng Linh thao, Favre đã đưa thêm được ba người nữa tham dự vào lý tưởng và sinh hoạt của nhóm. Trước hết là Claudiô Jay. Sinh khoảng 1500-1504 tại Mieussy miền Savoie như Favre, trong một gia đình nghèo mà cha mẹ là nông dân chất phác và tốt lành. Cũng học tại La Roche như Favre, nhưng học lớp trên, rồi học tại Genève và chịu chức linh mục năm 1528 tại đó. Năm 1533, Favre về quê có dịp gặp Jay và khuyên nên đi Paris học thêm thần Claudiô Jay học. Tại Paris, làm Linh thao với Favre. Ngày 15.8.1535, khi Favre và các bạn đến Montmartre lặp lại lời khấn thì Jay cũng đến và khấn với các bạn. Tại Montmartre ngày 15.8.1536, nhóm có thêm hai bạn mới cũng khấn: Paschase Broet và Gioan Codure. 69 Paschase Broet sinh tại làng Bertrancourt miền bắc nước Pháp khoảng năm 1500, trong một gia đình nông dân khá giả. Lúc nhỏ học tại trường làng, lớn lên đến thành phố Amiens học, rồi chịu chức linh mục. Năm 1534 đến Paris học thêm, cùng lãnh học vị cử nhân văn hóa với Paschase Broet Rodrigues và Codure. Sau đó biết Favre và nhận làm linh hướng rồi tập Linh thao. Không biết rõ quyết định vào nhóm khi nào. Gioan Cođure sinh năm 1508 hoặc 1509 tại Seyne, miền nam nước Pháp. Không biết gì về tuổi nhỏ. Đang học dở thần học thì lên Paris học tiếp rồi cùng lãnh học vị với Rodrigues và Broet. Làm tháng Linh thao với Favre và quyết định gia Gioan Cođure nhập nhóm. Tiến về điểm hẹn Kỳ hạn ba năm dành cho việc đã gần kết thúc. Theo đúng hẹn, nhóm Paris phải lên đường ngày 25.1.1537. Nhưng tháng sáu 1536, Carlos V của Tây Ban Nha tuyên chiến với Francois I của Pháp vì vụ kế vị tại Milano. Tháng bảy năm 1536, quân Tây Ban Nha tiến vào miền bắc và tháng tám năm 1536 tiến vào miền nam Pháp. Ở Paris tinh thần bài Tây Ban Nha bắt đầu nổi lên. Favre và các bạn đồng ý ngưng học để lên đường sớm hơn dự định. Nhiều người bên ngoài phản đối quyết định ấy, vì cho rằng ở Paris các bạn có thể làm việc tông đồ bằng hai bất cứ nơi nào khác, và 70 lên đường trong lúc chiến tranh là phạm tội trọng vì liệu mạng. Nhưng các bạn đã quyết định dứt khoát. Để tránh những chiến tuyến, không theo lối miền nam vừa gần vừa dễ hơn, nhưng qua lối miền đông. Tất cả đều đi bộ, mặc áo sinh viên đã cũ, mỗi người mang trên vai một cái bị đựng quần áo để thay và cuốn Kinh Thánh, riêng các linh mục có thêm cuốn sách nguyện, cổ đeo tràng hạt mân côi, để tỏ ra mình là người công giáo chứ không phải là Tin lành. Họ chia thành từng nhóm hai hoặc ba người, nhóm nào cũng có người biết tiếng Pháp và có người biết tiếng Tây Ban Nha, để tránh những rắc rối có thể xảy ra khi quân đội Pháp hoặc Tây Ban Nha nghi ngờ. Mùa đông năm ấy rất lạnh, họ phải chịu cảnh băng tuyết và bão tuyết trên đường trong tám tuần lễ, vượt qua gần 1000 km. Dầu vậy, Rodrigues ghi nhận là họ hạnh phúc đến nỗi hầu như chân họ lướt trên mặt đất. Đối với đa số các bạn, đây là kinh nghiệm đầu tiên về “con đường nghèo khó và cầu nguyện” cũng như về nghị lực tinh thần. Sau nhiều vui buồn, họ đến Venezia bình an ngày 8.1.1537. Nhóm giờ đây có tất cả mười một người, trong đó có bốn linh mục (Favre, Jay, Broet và Hozes). Trong khi chờ đợi Bình thường phải đến mùa hè mới có tàu đi Đất Thánh, như vậy họ phải đợi thêm sáu tháng nữa. Từ 10.1 đến 10.3, họ chia nhau đi phục vụ trong các bệnh viện trong vùng, năm người tại bệnh viện nan y, năm người tại bệnh viện thánh Gioan và thánh Phaolô. Riêng Inhã ở nhà trọ vì không khỏe mạnh lắm và cũng vì phải hoàn tất giáo trình thần học. Như vậy thời gian chờ đợi đã được biến thành một kinh nghiệm 71 rất thực tiễn về cảnh cùng khốn của con người. Xavier, để thắng cái ghê tởm, đã làm lại hành vi của các vị thánh: hôn vết thương người phong. Việc phục vụ người nghèo, người quê kệch, người bị dịch... sẽ luôn luôn là một thừa tác vụ đặc biệt của người bạn đường Chúa Giêsu. Muốn hành hương Đất Thánh, phải được Đức Giáo Hoàng chúc lành. Sau thời gian phục vụ bệnh nhân, cả nhóm, trừ Inhã, lên đường đi Roma để xin Đức Giáo Hoàng chúc lành. Inhã không dám đi vì lúc đó ở Roma có hai người mà ngài sợ nếu gặp sẽ gây khó khăn cho nhóm. Trước hết là giám mục Carafa, mới được làm hồng y. Sau nữa tiến sĩ Phêrô Ortiz, người đã tố cáo Inhã trước ban thanh tra ở Paris. Sau chín ngày vất vả, đói khát, lạnh giá, họ tới Roma gần như kiệt sức. Điều bất ngờ là họ được chính tiến sĩ Ortiz bảo lãnh và giới thiệu với Đức Giáo Hoàng. Ngày ba tháng bốn, ngài tổ chức một buổi tranh luận thần học theo thói quen thường có thời ấy. Các bạn đã tỏ ra xuất sắc đến nỗi ngài cho biết là họ xin gì mà ngài cho được thì ngài cũng cho. Nhưng họ chỉ xin ngài chúc lành và cho phép đi Giêrusalem. Chẳng những họ được chúc lành mà còn được ngài và các hồng y và giám mục cho tiền để đi. Hơn nữa, ngài cũng cho phép sáu người trong nhóm chịu chức linh mục, kể cả Inhã, nhưng trừ Salmerón chưa đủ tuổi (mới 22). Các bạn về lại Venezia đầu tháng năm. Để chuẩn bị nhận chức thánh linh mục, họ lại chia nhau đi phục vụ trong các bệnh viện như trước. Ngày lễ thánh Gioan Tẩy giả 24.6.1537, thánh Inhã và các bạn lãnh sứ vụ linh mục. Để chuẩn bị dâng lễ mở tay, các bạn quyết 72