🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đồng hành tòa trong và tòa ngoài trong việc đào tạo linh mục tại Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM UỶ BAN GIÁO SĨ CHỦNG SINH HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN VIỆT NAM Chủ đề ĐỒNG HÀNH TÒA TRONG và TÒA NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TẠI VIỆT NAM (Từ ngày 07-09 Tháng 8 năm 2023 tại Hà Nội) 2 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 3 NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ NỘI DUNG................................................................................4 DANH SÁCH THAM DỰ VIÊN.....................................................................................8 Đề tài 1: Đồng hành ơn gọi linh mục: sứ vụ và nghệ thuật Bài viết 1: HƯỚNG TỚI MỘT CHỦNG VIỆN HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ..................................................17 Bài viết 2: ĐÀO TẠO LINH MỤC, MỘT TIẾN TRÌNH NĂNG ĐỘNG ...........29 Bài viết 3: ĐÀO TẠO TOÀN VẸN CHIỀU SÂU ....................................................35 Bài viết 5: NGHỆ THUẬT ĐỒNG HÀNH ƠN GỌI LINH MỤC........................63 Bài viết 6: NGHỆ THUẬT GIÚP ĐỠ THEO ROBERT CARKHUFF...............84 Đề tài 2: Đồng hành tòa trong trong việc đào tạo linh mục Bài viết: CÁCH THỨC ĐỒNG HÀNH TÒA TRONG TRONG VIỆC ĐÀO TẠO TU SĨ, CHỦNG SINH..................................95 Đề tài 3: Đồng hành tòa ngoài trong việc đào tạo linh mục Bài viết: KINH NGHIE ̣M ĐÒNG HÀNH TÒA NGOÀI TRONG VIE ̣C ĐÀO TẠO LINH MỤC.................................................. 101 4 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN CHƯƠNG TRÌNH VÀ NỘI DUNG Thứ Hai 07.08.2023 14g00: Tiếp đón – Nhâ ̣n phòng – Nhâ ̣n tầi liê ̣u 18g00: Ăn tối 19g30: Chầu Khai mạc 20g00: Khai mạc tại hội trường * Chào mừng , giới thiệu các đại biểu * Khai mạc - Giới thiệu về ý nghĩâ Hội Nghị các ĐCV 2023 * Tuyên bố khai mạc hội nghị * Chương trình - Nội dung Hội nghị - Phân công Thứ Ba 08.08.2023 05g00: Thức dậy 05g30: Kinh Sáng – Nguyện gẫm 06g00: Thánh Lễ 07g00: Ăn sáng 08g00:(50 phút) Đềtài 1: “Đồng hành ơn gọi linh mục: sứvụvà nghệthuật” – Cha Phêrô Nguyễn Văn Hương (ĐCV Vinh) 08g50: Giải lao 09g00: Đề tài 1 (50 phút) (thuyết trình 40 phút – trao đổi 10 phút) 09g50: Giải lao 10g10: Chia sẻ nhóm (50 phút) 11g00: Kinh trưâ 11g30: Ăn trưâ - Nghỉ trưâ ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 5 14g00: Thức dậy 14g30: (50 phút) Đềtài 2: “Đồng hành tòa trong trong việc đào tạo linh mục” – Cha Tôma Vũ Quan Trung (SJ) 15g20: Giải lao 15g30: Đề tài 2 (50 phút) (thuyết trình 40 phút – trao đổi 10 phút) 16g20: giải lao 16g40: Chia sẻ nhóm (50 phút) 17g30 : Nghỉ - kinh chiều 18g30: Ăn tối Kinh tối - Lần chuỗi riêng Nghỉ đêm Thứ Tư 09.08.2023 05g00: Thức dậy 05g30 : Kinh Sáng – Nguyện gẫm 06g00: Thánh Lễ (*) Sau Thánh lễ thứ Tư 09/8: chụp hình chung 07g00: Ăn sáng 08g00: (50 phút) Đềtài 3: “Đồng hành tòa ngoài trong việc đào tạo linh mục” – Đức cha Giuse Bùi Công Trác 08g50: Giải lao 09g00: Đề tài 3 (50 phút) 09g50: Giải lao 6 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN 10g10: Chia sẻ nhóm (50 phút) 11g00: Kinh trưâ 11g30: Ăn trưâ - Nghỉ trưâ 14g00: Thức dậy 14g30: Chia sẻ 1 (30 phút) – ĐCV Bùi Chu 15g00: Chia sẻ 2 (30 phút) – ĐCV Nhâ Trâng 15g30: Chia sẻ 3 (30 phút) – ĐCV Xuân Lộc 16g00: giải lao 16g30: Đúc kết chung các thảo luận nhóm Tổng kết - Cám ơn Đức cha Chủ tịch tuyên bố bế mạc Hội Nghị 18g30: Ăn tối Thứ Năm 10.08.2023 05g00: Thức dậy 05g30: Kinh Sáng – Nguyện gẫm 06g00: Thánh Lễ Tạ ơn 07g00: Ăn sáng - Giải tán sâu ăn sáng Nội dung các đề tài + Thuyết trình – thời lượng ( 02 tiết – 50 phút/1 tiết) (1) Cha Phêrô Nguyễn Văn Hương: “Đồng hành ơn gọi linh mục: sứ vụ và nghệ thuật” (2) Châ Tômâ Vũ Quâng Trung: “Đồng hành tòa trong trong việc đào tạo linh mục” ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 7 (3) Đức Cha Giuse Bùi Công Trác “Đồng hành tòa ngoài trong việc đào tạo linh mục” + Chia sẻ - thời lượng (30 phút/chia sẻ) (1) ĐCV Bùi Chu (2) ĐCV Nhâ Trâng (3) ĐCV Xuân Lộc Nội dung: Chia sẻ kinh nghiệm về việc đồng hành tòa trong và tòa ngoài. Cụ thể: 1/ Những khó khăn của việc đồng hành trong đào tạo linh mục củâ ĐCV. 2/ Một số các giải phảp đã thực hiện nhằm giúp việc đồng hành được hiệu quả THẢO LUẬN NHÓM Khi chia sẻ, mỗi người dựa trên câu hỏi để trả lời theo 3 khía cạnh: - Xác tín(conviction): theo câu hỏi gợi ý điểm nào tôi tâm đắc nhất hay xác tín nào tôi rút ra từ các bài thuyết trình. - Để nghị (propostion): từ xác tín trên, tôi ước mong hây đề nghị gì trong khi thi hành sứ vụ đào tạo. - Áp dụng (application): tôi biết được một phương thế áp dụng nào (từ kinh nghiệm của tôi hay của người khác) để thực hiện mong ước trên. 8 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN DANH SÁCH THAM DỰ VIÊN STT Họ Và Tên GIÁO PHẬN (Đại Chủng Viện) 01 ĐC Giusê Đỗ Quang Khang Chủ tịch UBGSCS 02 Giuse Phạm Văn Trọng Tỏng thư kýUBGSCS 03 Bruno Phạm Bá Quế Hà Nội 04 Đâminh Nguyễn Văn Công 05 Phanxico X. Ngô Quang Khải 06 Gioan F. Nguyễn Gia Thịnh 07 Phêrô Trần Mạnh Thiêm 08 Phêrô Trần Quang Diệu 09 Nguyễn Hữu Thu 10 Giuse Vũ Quâng Học 11 Tôma Vũ Quâng Trung 12 Anrê Phùng Văn Thành 13 Gioakim Nguyễn Văn Hinh 14 Gioan B. Phạm Văn Ninh 15 Đâminh Trần Ngọc Đăng Bùi Chu 16 Vinh Sơn Đinh Minh Thỏâ 17 Vinh Sơn Mâi Văn Kính 18 Giusê Đào Văn Toàn 19 Giuse Phạm Văn Hiển 20 Giuse Mâi Văn Diện Thái Bình 21 Gioakim Đặng Văn Hội ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 9 22 Giuse Nguyễn Văn Phương 23 Giuse Đỗ Trọng Huy 24 Phêrô Vũ Khắc Năng 25 Hoàng Cung Vinh 26 Phêrô Nguyễn Văn Hương 27 Phaolô Nguyễn Văn Quâng 28 Nguyễn Văn Quy 29 Phêrô Nguyễn Văn Vinh 30 Nguyễn Văn Điệp Thanh Hoá 31 Vũ Xuân Quâng 32 Lê Tiến Nhất 33 Giuse Trịnh Văn Son 34 Giuse Nguyễn Văn Hưng 35 Giuse Hồ Thứ Huế 36 Phaolô Nguyễn Văn Yên 37 Giusê Vũ Thânh Tuấn 38 Micae Nguyễn Hữu Đức 39 Gioan B. Nguyễn Văn Hào 40 Ngô Đình Tiến Nha Trang 41 Nguyễn Khánh Duy 42 Trần Phan Thái Bình 43 Nguyễn Văn Linh 44 Nguyễn Thái Sơn 45 Đâminh Nguyễn Quốc Việt Đà Lạt 46 Gioan Cao Thái Bình 47 Nguyễn Vũ Minh Đức 10 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN 48 Giusê Đỗ Xuân Vinh Sài Gòn 49 Giuse Ngô VũAnh Tuấn 50 Phaolô Nguyễn Phú Cường 51 Mai Xuân Vinh 52 Giuse Trần Hoàng Quân 53 Nguyễn Anh Tài 54 Phaolô Đinh Chí Hiền Xuân Lộc 55 Phaolô Nguyễn Ngọc Phương 56 Giusê Đỗ Mạnh Thịnh 57 Nguyễn Quốc Việt 58 Giuse Phạm Anh Quốc 59 Phêrô Lê Quang Phú Cần Thơ 60 Giusê Lê Công Luận 61 Gioân B. Nguyễn Tấn Hòâ Phục vụ Hội nghị: Một vài linh mục Tòa Giám mục Hà Nội và Chủng viện Hà Nội cùng quý nữ tu. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 11 PHÂN CHIA CÁC NHÓM DANH SÁCH CÁC TRƯỞNG NHÓM STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Bruno Phạm Bá Quế 1 Hà Nội 2 Đâminh Nguyễn Quốc Việt 2 Đà Lạt 3 Ngô Đình Tiến 3 Nha Trang 4 Phêrô Nguyễn Văn Vinh 4 Vinh 5 Giusê Đỗ Xuân Vinh 5 Sài Gòn 6 Phaolô Nguyễn Ngọc Phương 6 Xuân Lộc DANH SÁCH CÁC THƯ KÝ NHÓM STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Phaolô Nguyễn Phú Cường 1 Sài Gòn 2 Phaolô Nguyễn Văn Quâng 2 Vinh 3 Gioan Cao Thái Bình 3 Đà Lạt 4 Nguyễn Khánh Duy 4 Nha Trang 5 Phâolô Đinh Chí Hiền 5 Xuân Lộc 6 Nguyễn Văn Hinh 6 Hà Nội 12 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN DANH SÁCH NHÓM 1 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Bruno Phạm Bá Quế Trưởng Hà Nội 2 Phaolô Nguyễn Phú Cường Thư ký Sài Gòn 3 Nguyễn Hữu Thu 1 Hà Nội 4 Phạm Văn Ninh 1 Hà Nội 5 Giuse Mâi Văn Diện 1 Thái Bình 6 Phêrô Nguyễn Văn Hương 1 Vinh 7 Lê Tiến Nhất 1 Thanh Hoá 8 Micae Nguyễn Hữu Đức 1 Huế 9 Nguyễn Thái Sơn 1 Nha Trang 10 Giusê Đỗ Mạnh Thịnh 1 Xuân Lộc Danh sách Nhóm 2 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Đâminh Nguyễn Quốc Việt Trưởng Đà Lạt 2 Phaolô Nguyễn Văn Quâng Thư ký Vinh 3 Đâminh Nguyễn Văn Công 2 Hà Nội 4 Vũ Quâng Học 2 Hà Nội 5 Đâminh Trần Ngọc Đăng 2 Bùi Chu 6 Gioakim Đặng Văn Hội 2 Thái Bình 7 Giuse Trịnh Văn Son 2 Thanh Hoá 8 Gioan B. Nguyễn Văn Hào 2 Huế 9 Mai Xuân Vinh 2 Sài Gòn 10 Nguyễn Quốc Việt 2 Xuân Lộc ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 13 DANH SÁCH NHÓM 3 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Ngô Đình Tiến Trưởng Nha Trang 2 Gioan Cao Thái Bình Thư ký Đà Lạt 3 Phanxico X. Ngô Quang Khải 3 Hà Nội 4 Vũ Quâng Trung 3 Hà Nội 5 Vinh Sơn Đinh Minh Thỏâ 3 Bùi Chu 6 Giuse Nguyễn Văn Phương 3 Thái Bình 7 Nguyễn Văn Quy 3 Vinh 8 Giuse Nguyễn Văn Hưng 3 Thanh Hoá 9 Giuse Trần Hoàng Quân 3 Sài Gòn 10 Giuse Phạm Anh Quốc 3 Xuân Lộc DANH SÁCH NHÓM 4 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Phêrô Nguyễn Văn Vinh Trưởng Vinh 2 Nguyễn Khánh Duy Thư ký Nha Trang 3 Nguyễn Gia Thịnh 4 Hà Nội 4 Phùng Văn Thành 4 Hà Nội 5 Vinh Sơn Mâi Văn Kính 4 Bùi Chu 6 Giuse Đỗ Trọng Huy 4 Thái Bình 7 Giuse Hồ Thứ 4 Huế 8 Nguyễn Vũ Minh Đức 4 Đà Lạt 9 Nguyễn Anh Tài 4 Sài Gòn 10 Phêrô Lê Quang Phú 4 Cần Thơ 14 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN DANH SÁCH NHÓM 5 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Giusê Đỗ Xuân Vinh Trưởng Sài Gòn 2 Phâolô Đinh Chí Hiền Thư ký Xuân Lộc 3 Trần Mạnh Thiêm 5 Hà Nội 4 Giusê Đào Văn Toàn 5 Bùi Chu 5 Phêrô Vũ Khắc Năng 5 Thái Bình 6 Nguyễn Văn Điệp 5 Thanh Hoá 7 Phaolô Nguyễn Văn Yên 5 Huế 8 Trần Phan Thái Bình 5 Nha Trang 9 Giusê Lê Công Luận 5 Cần Thơ DANH SÁCH NHÓM 6 STT Họ Và Tên Nhóm ĐCV 1 Phaolô Nguyễn Ngọc Phương Trưởng Xuân Lộc 2 Nguyễn Văn Hinh Thư ký Hà Nội 3 Phêrô Trần Quang Diệu 6 Hà Nội 4 Giuse Phạm Văn Hiển 6 Bùi Chu 5 Hoàng Cung 6 Vinh 6 Vũ Xuân Quâng 6 Thanh Hoá 7 Giusê Vũ Thânh Tuấn 6 Huế 8 Nguyễn Văn Linh 6 Nha Trang 9 Giuse Ngô VũAnh Tuấn 6 Sài Gòn 10 Gioân B. Nguyễn Tấn Hòâ 6 Cần Thơ ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 15 PHÂN CÔNG PHÂN NHIỆM 1 Tổ chức UB Giáo sĩ – Chủng sinh và Tòa Tổng Giám mục Hà Nội 2 Chủ tọa Đức châ Giusê Đỗ Quang Khang Chủ tịch UB Giáo sĩ – Chủng sinh 3 Điều phối Cha Giuse Phạm Văn Trọng Tổng thư ký UB Giáo sĩ – Chủng sinh 4 Phụng vụ Thầy Phó tế Giuse Trần Đình Ngọc 5 Văn phòng; Cơ sở; Tiếp tân; Hậu Cần Cha Gioan Nguyễn Văn Toàn P Quản lý TGP Hà Nội 6 Y tế Cha Gioan B. Nguyễn Văn Quâng Trưởng ban Caritas – TGP Hà Nội 7 Thư ký hội nghị - Trách nhiệm chung: Cha Giuse Phạm Văn Trọng - Đúc Kết Hội Nghị: FX. Ngô Quang Khải (ĐCV Hà Nội) Micae Nguyễn Hữu Đức (ĐCV Huế) Phâolô Đinh Chí Hiền (ĐCV Xuân Lộc) 16 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN PHÂN NHIỆM THÁNH LỄ - CHẦU MÌNH THÁNH CHÚA THỨ HAI 07.8: Chầu Thánh Thể Ý Cầu Nguyện: Khai mạc - Cầu bình an và hoa trái cho Hội nghị các ĐCV 2022 Chủ sự Cha Bruno Phạm Bá Quế (ĐCV Hà Nội) THỨ BA 08.8: Thánh Lễ Ý Cầu Nguyện: Kính Chúa Thánh Thần - Cầu cho công việc đào tạo Linh mục Chủ sự Đức tổng Giusê Vũ Văn Thiên Đồng tế 1 Châ Phêro Vinh (ĐCV Vinh) Đồng tế 2 Cha Giuse Hồ Thứ (ĐCV Huế) THỨ TƯ 06.7: Thánh Lễ Ý Cầu Nguyện: Kính Thánh Giuse – Cầu cho Giáo Hội Việt Nam Chủ sự Đức cha Giuse Bùi Công Trác Đồng tế 1 (giảng lễ) Cha Giuse Diện (ĐCV Thài Bình) Đồng tế 2 Châ Đâminh Đăng (ĐCV Bùi Chu) THỨ NĂM 07/7: Thánh Lễ Ý Cầu Nguyện: Tạ ơn Chúâ - Cầu nguyện cho các linh mục và công cuộc loan báo Tin Mừng Chủ sự Đức châ Giusê Đỗ Quang Khang Đồng tế 1 Cha Gioan B. Tiến (ĐCV Nhâ Trâng) Đồng tế 2 Cha Phaolô Phương (ĐCV Xuân Lộc) ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 17 Đề tài 1: “Đồng hành ơn gọi linh mục: sứ vụ và nghệ thuật“ BÀI VIẾT 1: HƯỚNG TỚI MỘT CHỦNG VIỆN HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương Dẫn nhập Từ năm 2021-2023, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới XVI được tổ chức với chủ đề: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.” Quả thế, con đường hiệp hành là dấu chỉ thời đại như Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả quyết rằng: “Con đường hiệp hành chính là con đường mà Thiên Chúâ mong đợi nơi Hội Thánh trong thiên niên kỷ thứ bâ.”1 Mọi tổ chức và mọi thành viên của Hội Thánh được mời gọi thâm giâ, cânh tân và lên đường thêo con đường hiệp hành ấy để thi hành tốt sứ vụ truyền giáo. Đặc biệt, con đường hiệp hành phải là con đường mà mỗi Chủng viện được mời gọi bước đi và hướng tới. Vì thế, chúng ta tìm hiểu về ý nghĩâ chủ đề này liên quân đến đời sống, cách tổ chức và việc huấn luyện của Chủng viện thêo hướng hiệp hành. I. CHỦNG VIỆN LÀ HỘI THÁNH HIỆP HÀNH 1. Hội Thánh hiệp hành là gì? “Hiệp hành” là một khái niệm còn mới mẻ đối với phần lớn tín hữu Công Giáo Việt Nam. Vì thế, hiểu đúng về khái niệm hiệp hành là điều cần thiết. 1 ĐGH. Phânxicô, Nghi lễ kỷ niệm 50 năm thành lập định chế Thượng Hội đồng Giám mục (17/10/2015), AAS 107 (2015), 1139. 18 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN Trướt hết, xét theo từ nguyên, trong tiếng Hy Lạp, hạn từ σύνοδος (synodus), được cấu tạo bởi giới từ συν (với) và danh từ όδός (con đường), diễn tả ý nghĩâ: cùng đi trên một con đường. Nên từ “hiệp hành” diễn tả ý nghĩâ ấy: hiệp là cùng và hành là con đường. Thêo ý nghĩâ Giáo Hội học, hiệp hành diễn tả mô hình Hội Thánh là Dân Thiên Chúa cùng nhau tiến bước trên một con đường, hiệp thông, đồng trách nhiệm để cùng nhau thi hành sứ vụ, một Hội Thánh hoàn toàn khác biệt với mô hình Hội Thánh kim tự tháp hoặc cơ chế “giáo phẩm luận” như một thời từng quan niệm. Đây là một Hội Thánh do Chúa Ba Ngôi triệu tập, được kêu gọi và được gọi là Dân Thiên Chúâ để lên đường thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thêo ý nghĩâ thần học, σύνοδος – hiệp hành còn diễn tả về Chúâ Giêsu, Đấng tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Gâ 14,6), Đấng dẫn đến Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,13) và thực tế, các Kitô hữu, môn đệ củâ Người, ban đầu được gọi là “những người đi thêo Đường” (x. Cv 9,2; 19,9.23; 22,4; 24,14.22).2 Nên tính hiệp hành là phương thức sống và hành động (modus vivendi et operandi) của Hội Thánh. Như vậy, Hội Thánh hiệp hành có nghĩâ là cùng nhâu tiến bước để truyền giáo, một Hội Thánh lữ hành, luôn ở “trên đường” để truyền giáo. Cộng đoàn Chủng viện cũng là một cộng đoàn Dân Chúâ thu nhỏ, cùng nhau tiến bước trên cùng một con đường, chung một tầm nhìn, hướng tới một ơn gọi, một lý tưởng, một sứ vụ: Linh Mục. 2 X. Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương dịch), Tính Hiệp Hành Trong Đời Sống và Sứ Vụ của Hội Thánh, Nxb. Đồng Nai, 10-11. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 19 Trở thành linh mục là một hành trình dài thăm thẳm và tiện tiến. Chương trình đào tạo linh mục là một chương trình đào tạo suốt đời, bao gồm bâ giâi đoạn: trước, tại và sau chủng viện. Một cách cụ thể, trước Chủng viện gồm thời gian của những năm dự bị, dự tu và những nămTiền Chủng viện; Tại Chủng viện có 2 (hây 3) năm Triết, 1 năm Thử và 4 năm Thần học; Sau Chủng viện với một năm Mục vụ, 5 năm đầu đời linh mục và những năm mục vụ tiếp theo, về hưu dưỡng… Hành trình này cũng tương tự như hành trình mà Chúâ Giêsu đã thực hiện với hâi môn đệ trên đường về Emmâus. Thêo đó, Chúâ Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sâu đó, cùng với họ, Người “bẻ bánh”, mắt họ liền sáng ra, lòng họ bừng cháy, họ liên quay trở về Giêrusâlêm để loan báo cho mọi người biết Chúâ đã sống lại (x. Lc 24,13-35). Trong hành trình này, nhà đào tạo và người thụ huấn là bạn đường củâ nhâu, để đồng hành và chia sẻ với nhau những “kinh nghiệm đức tin”, kinh nghiệm về cuộc chiến đấu thiêng liêng, về việc tìm kiếm giá trị thiêng liêng, và cả tình yêu dành cho Thiên Chúâ trong quá trình thêo đuổi ơn gọi và sứ vụ linh mục. 2. Chủng viện là Hội Thánh hiệp thông Hiệp thông là một trong những yếu tốt cần thiết quyết định cho sự sống còn của Hội Thánh. Bởi lẽ, hiệp thông là yếu tố làm cho mọi thành phần Dân Chúa hiệp nhất nên một với nhâu trong đời sống và sứ vụ để trở nên Nhiệm Thể duy nhất của Chúa Kitô. Sự hiệp thông Hội Thánh bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩâ là từ sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh 20 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN Thần. Ba Ngôi là nguồn gốc, nền tảng và khuôn mẫu của Hội Thánh hiệp thông. Hội Thánh hiệp hành là Hội Thánh hiệp thông. Để cùng đi với nhau trên một con đường, trước hết, mọi thành phần trong Hội Thánh được mời gọi hiệp nhất nên một với nhau. Thiên Chúa quy tụ chúng ta lại với nhau trong Hội Thánh như một Dân mới với những khác biệt nhưng cùng một đức tin.3 Hiệp thông phải trở thành nền linh đạo để huấn luyện mọi thành phần Dân Chúâ vượt qua những xung khắc và chia rẽ, để nhường chỗ cho nhau và mang lấy gánh nặng của nhau (x. Gl 6,2), nhằm chống lại những cám dỗ ích kỷ thường bâo vây chúng tâ cũng như vượt thắng sự gânh đuâ, thâm vọng, ngờ vực và ghên tương trong Hội Thánh. Chủng viện trước hết là “kinh nghiệm nguyên tuyền về Hội Thánh hiệp thông” (PDV 60) và là “ngôi nhà hiệp thông.” Việc đào tạo linh mục chính yếu là đào tạo trở thành “con người hiệp thông.” Bởi lẽ, thiên chức linh mục từ tình yêu và sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, qua bí tích Truyền Chức, linh mục được hội nhập vào sự hiệp thông với giám mục và với các linh mục khác, để phục vụ Dân Chúa là Hội Thánh và để hướng dẫn mọi người đến với Chúa Kitô. Trên bình diện nhân bản, Chủng viện phải nổ lực trở thành một cộng đoàn trong đó các thành phần liên kết với nhau bằng tình phụ tử, tình huynh đệ và một đức ái sâu xa, tạo thành một giâ đình thực sự với bầu khí vui tươi và huynh đệ. Trên bình diện đức tin, Chủng viện phải tạo thành một “cộng đoàn Hội Thánh”, một cộng đoàn môn đệ Chúâ được quy tụ để cùng cử hành Thánh Thể, cầu nguyện, 3 X. Văn Phòng Thư Ký, Cẩm Nang Cho Thượng Hội Đồng Về Hiệp Hành, 2022, 12. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 21 lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, nhờ đó, được hiệp nhất với nhau; cộng đoàn ấy hiệp nhất với nhau nhờ sống đức ái huynh đệ và tinh thần công bằng.4 Việc huấn luyện linh mục là sự kiện thuộc Hội Thánh mà Chủng viện là nôi để sống và thể hiện mô hình Hội Thánh hiệp thông theo hình tròn: Nghĩâ là làm sâo tạo được tinh thần và phương pháp làm việc nhóm với nhâu nơi Bân Đào tạo và các chủng sinh theo các nguyên tắc: hiệp thông với Thiên Chúâ để với nhau, lắng nghe Chúa để lắng nghe nhau, lắng nghê nhâu để lắng nghe tiếng Chúa, sống tinh thần huynh đệ bí tích là nền tảng cho đời sống cộng đoàn. Sứ vụ đào tạo là công trình chung, nên nếu tạo được bầu khí hiệp thông này ở Chủng viện, thì sẽ tránh được lối đào tạo “mỗi người một kiểu,” thiếu tính thống nhất và phối hợp, thiếu lắng nghe và đối thoại. Chương trình huấn luyê ̣n không phẩi lầ sấng kiến cấ nhân, nhưng phẩi thêo đường hướng của Tin Mừng, giấo huấn của Hội Thánh. Quân điểm đào tạo của mỗi nhà đào tạo dựa trên nền tảng này. Đây lầ nền tẩng bẩo đẩm cho tính hiệp nhất và chính thóng củâ chương trình đầo tậo linh mục. Theo đường hướng ấy, việc đào tạo sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực hơn. Mọi thành viên trong Chủng viện sống “linh đạo hiệp thông” này để xây dựng cộng đoàn hiệp nhất và hướng tới những thiện ích chung. 3. Chủng viện là Hội Thánh tham gia Hội Thánh hiệp hành là Hội Thánh thâm giâ, nghĩâ là tất cả những ai thuộc về Dân Chúa – giáo dân, tu sỹ và giáo sỹ - đều được mời gọi dấn thân vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Nền tảng thực sự của việc tham gia này là: mọi người được rửa tội đều bình 4 X. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, số 60, 131. 22 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN đẳng với nhâu, đều có quyền lợi và bổn phận trong Hội Thánh (x. LG 32). Trong Hội Thánh hiệp hành, với các thành viên hết sức đâ dạng, toàn thể cộng đồng Dân Chúâ được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghê, phân tích, đối thoại, phân định và góp ý cho việc đưâ râ các quyết định mục vụ phù hợp hết sức có thể với ý muốn của Thiên Chúa. Khi nói về sự tham gia ở Chủng viện, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Trong Chủng viện, giám mục hiện diện qua thừa tác thừa tác vụ mà vị giám đốc thi hành cùng với các nhà đào tạo khác trong tinh thần đồng trách nhiệm và hiệp thông dưới sự hướng dẫn và vận dụng của vị giám đốc, nhắm đến sự tăng triển mục vụ và tông đồ của các ứng sinh. Các thành phần khác biệt trong cộng đoàn Chủng viện liên kết với nhau nhờ Chúa Thánh Thần bằng một tinh thần huynh đệ duy nhất, hợp tác với nhau, mỗi người tuỳ theo khả năng củâ mình, để làm cho mọi người được tăng trưởng trong đức tin và đức ái…” (PDV 60). Là môi trường đào tạo linh mục, Chủng viện được mời gọi trở thành một cộng đoàn tích cực tham gia vào sứ vụ đào tạo. Mỗi người biết đối thoại, cộng tác, đồng hành, thấu cảm và tin tưởng lẫn nhau, để cùng phân định và quyết định theo sự khôn ngoan của Thánh Thần. Bởi lẽ, Chúa Thánh Thần chính là nhà đào tạo chính trong tiến trình đào tạo, để biến đổi các ứng sinh nên đồng hình đồng dạng với Chúâ Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, với câo điểm là sự biến đổi trong bí tích Truyền Chức. Đặc biệt, các chủng sinh được mời gọi cộng tác tích cực và chủ động vào chương trình huấn luyện và tự huấn luyện mình. Cụ thể, hằng nằm, Đại Chủng viện Thánh Phanxicô tạo cơ hội và tổ chức cho các chủng sinh tham gia vào việc tổ chức đời sống, sinh hoạt, lâo động, giải trí, dã ngoại, hoạt ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 23 động mục vụ qua hệ thống tổ chức: Bân đại diện, các ban chuyên môn và các tổ chia sẻ Lời Chúâ… Tuỳ theo khả năng riêng, mỗi chủng sinh đều được mời gọi tham gia và xây dựng đời sống chung của Chủng viện. Đó là hình ảnh của một Hội Thánh thu nhỏ đồng tham gia. 4. Chủng viện là Hội Thánh sứ vụ Hội Thánh được Chúa thiết lập không phải cho chính mình, nhưng được sâi đi để loan báo Tin Mừng. Do đó, nhiệt tâm truyền giáo và thực thi sứ vụ truyền giáo là thuộc bản chất của toàn thể Dân Chúa, một Dân phải không ngừng “đi râ”, bởi vì “niềm vui Tin Mừng đâng chiếm đầy đời sống cộng đoàn các môn đệ là niềm vui mang tính truyền giáo.”5 Sứ mạng của Hội Thánh là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa toàn thể giâ đình nhân loại. Vì thế, loan báo Tin Mừng là sự sống còn của Hội Thánh, đồng thời cũng là thước đo cho một đời sống đức tin sống động của mỗi người và mỗi cộng đoàn đến mức nào. Sứ vụ ấy gắn chặt với những người lữ hành trên dương thế, những người đâng tiến bước trong một Hội Thánh hiệp hành. Áp dụng vào việc đào tạo linh mục ở Chủng viện, Ratio của Bộ Giáo Sĩ kêu gọi: “Ý tưởng căn bản là làm sao các chủng viện có thể đào tạo được những người môn đệ truyền giáo “sây mê” đối với Thầy, những mục tử mâng “mùi chiên”, những người sống giữâ đoàn chiên để phục vụ và mâng đến cho đàn chiên lòng thương xót Thiên Chúâ.”6 Người môn đệ truyền giáo là người được Chúa gọi để ở với Người (Mc 3,14), đi thêo Người là trở thành người truyền giảng Tin Mừng. Các linh mục hiện hữu và hoạt động để loan báo Tin Mừng 5 Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Niềm Vui Tin Mừng, số 21, AAS 105 (2013), 1028. 6 Bộ Giáo Sĩ, Đào Tạo Linh Mục – Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, 2017, 10-11. 24 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN cho thế giới và xây dựng Hội Thánh nhân dânh Chúâ Kitô, trong tư cách Chúâ Kitô là Đầu và Mục Tử với ba chức năng: râo giảng, thánh hoá, lãnh đạo cộng đoàn” (x. PDV 15; 2;12; PO 2). Như vậy, cả ba chức năng mục vụ của linh mục đều hướng về mục đích “loân báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.” Và mục đích đào tạo ở Chủng viện là đào tạo “những người loan báo Tin Mừng cách mới mẻ trong tư cách là mục tử” (PDV 2). Truyền giáo cũng là chân trời của toàn bộ công cuộc đào tạo linh mục, để nối kết, linh hoạt và tạo sức sống cho các chiều kích khác. Truyền giáo giúp cho người linh mục đã được đào tạo tốt trên bình diện nhân bản, thiêng liêng, tri thức, mục vụ, sống tốt thừa tác vụ của mình cách viên mãn.7 II. CÙNG MỘT TẦM NHÌN, MỘT MỤC TIÊU HUẤN LUYỆN Như đã nói, Chủng viện hiệp hành là cùng nhâu tiến bước trên một con đường sứ vụ. Bân huấn luyện và cả người thụ huấn đều phải có chung một tầm nhìn và hướng tới một mục tiêu huấn luyện. Hơn nữâ, việc huấn luyện linh mục là một nghệ thuật củâ các nghệ thuật. Để có kết quả tốt đẹp, cần có sự hiểu biết chuyên môn về huấn luyện, biết phương pháp huấn luyện và có chiến lược huấn luyện. Thêo đường hướng huấn luyện hiện nây củâ Hội Thánh, mỗi Chủng viện cố gắng thực hiện chương trình đào tạo linh mục thêo 9 nguyên tắc sâu: 1. Huấn luyện mang tính toàn vẹn Trở thành linh mục là một sự dấn thân toàn bộ con người cho một ơn gọi, một cuộc sống và một sứ vụ câo cả. Đào tạo linh mục là đào tạo cấc ứng sinh biến đổi và trưởng thành toàn vẹn về các phương diện nhân bản, tu đức, tri thức, mục vụ. Mỗi phương diện đều quân trọng trong suót hầnh trình huấn luyê ̣n, kể cẩkhi đã lầlinh mục. Nên 7X. Bộ Giáo Sĩ, Đào Tạo Linh Mục – Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, 2017, 81-82. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 25 không được xêm nhẹ một phương diện nào và tránh nguy cơ quá nhấn mạnh một phương diện, đểkhông rơi vào lối đào tạo “duy tu đức”, “duy tri thức” hay “duy hoạt động”… Đặc biệt ngày nây, cần tránh lối huấn luyện linh mục trở thành “những công chức tôn giáo”, nhưng huấn luyện ứng sinh trở thành “mục tử” củâ Dân Chúâ. 2. Huấn luyện tiệm tiến theo từng giai đoạn Công cuo ̣c đầo tậo linh mục lầ mo ̣t tiến trình dầi với các giai đoạn trước, trong và sau Chủng viện. Mõi giâi đoận có những nết đâ ̣c trưng riêng. Cần tránh sự lẫn lộn, chồng chéo, hây đốt giai đoạn. Ví dụ, việc huấn luyện giâi đoạn ở Tiền Chủng viện sẽ khác với giâi đoạn ở Đại Chủng viện. Ratio của Bộ Giáo sĩ (2016) hướng dẫn việc huấn luyện theo từng giâi đoạn: Giâi đoạn Triết học là giai đoạn đào tạo “người môn đệ Chúa Kitô”, bước thêo Người (sequela Christi); Giâi đoạn Thần học: đào tạo “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” là Tôi Tớ và là Mục Tử; Giâi đoạn Tập vụ (hay tổng hợp ơn gọi) là giâi đoạn học hỏi mục vụ, thực tập sứ vụ phó tế và linh mục. Vì thế, mỗi năm, mỗi giâi đoạn, chương trình đào tạo củâ Đại Chủng viện Thánh Phanxicô có những mục tiêu, những chủ đề riêng cho việc huấn luyện theo tiến trình này. 3. Huấn luyện trở nên “người của Thiên Chúa” Huấn luyện là hướng người thụ huấn tới sự siêu việt và tuyệt đối. Đây là năng động kép: Một đàng, Thiên Chúâ đến với tâ và tự thông ban chính mình cho ta. Đàng khác, mỗi người được phú bẩm khả năng tự siêu việt để hướng về Người. Nói thêo ngôn ngữ củâ Râhnêr, đó là sự hiện sinh siêu nhiên (supêrnâturâl êxistêntiâl). Thêo đó, huấn luyện là hướng các ứng sinh tới Thiên Chúâ. Huấn luyện là giúp ứng sinh trở thành “người củâ Thiên Chúâ.” Râtio củâ HĐGMVN nói đến việc đào tạo ứng sinh trở thành “con người củâ mầu nhiệm.” Việc nghiên cứu Triết – Thần dẫn người thụ huấn tới Thiên Chúâ để sống chiều kích dọc củâ mình một cách ý nghĩâ nhất. Nghĩâ là người 26 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN có kinh nghiệm sống động và hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúâ, biết yêu mến Người trên hết mọi sự và hiến thân cho Người. 4. Huấn luyện trở nên “người của Hội Thánh” Huấn luyện cũng là giúp người thụ huấn biết yêu mến Hội Thánh và phục vụ người khác. Ơn gọi linh mục ở trong Hội Thánh và cho người khác, chứ không phải cho mình. Nên việc huấn luyện đích thực là giúp ứng sinh biết yêu mến Hội Thánh và có khả năng phục vụ thâ nhân, trở thành “người củâ Hội Thánh.” Nghĩâ là trở thành một linh mục tử tế, gần gũi, thân thiện, biết tôn trọng kẻ khác, biết đối thoại, biết cộng tác, biết làm việc nhóm và có tâm hồn Tông Đồ... cũng như nắm vững giáo huấn củâ Hội Thánh để thi hành tốt sứ vụ mình thêo cảm thức và tinh thần Hội Thánh (Sentire cum Ecclesia). 5. Huấn luyện là hướng tới giá trị Huấn luyện là hướng người thụ huấn tới giá trị hơn là cấm đoán. Mục tiêu huấn luyện là giúp ứng sinh biến đổi. Nếu không biến đổi là không có kết quả trong đào tạo. Mà con người chỉ thực sự biến đổi nhờ nội tâm hoá và sống các giá trị. Đó là lý do tại sâo Đức Giáo hoàng Phanxicô khuyên rằng: “Đừng huấn luyện thêo kiểu cảnh sát!” Các chủng sinh chỉ có thể trở nên những mục tử khi sống các giá trị Tin Mừng. Nếu không sống các giá trị sẽ không có giá trị bản thân. 6. Huấn luyện bao gồm mọi phạm vi Huấn luyện bâo gồm mọi phạm vi, không chỉ ở phạm vi chính thức (formâl) mà cả phạm vi không chính thức (informâl). Nghĩâ là không chỉ huấn luyện trong môi trường nghiêm túc, như ở lớp học, nhà thờ, nhưng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, như thể thâo, âm nhạc, hoạt động văn hóâ, lâo động chân tây, nơi sân cỏ, tại bàn ăn, ngoài đường, khi giâo tiếp, đi dã ngoại, khi nghỉ hè… tất cả đều được nhìn như là phương tiện và cơ hội để đào tạo. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 27 7. Huấn luyện theo nguyên tắc bao gồm Huấn luyện phải thêo nguyên tắc bao gồm (inclusive) và loại bỏ não trạng loại trừ (exclusive). Đây là lối tiếp cận huấn luyện một con người bâo gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lâi; bâo gồm những khả năng, tiềm năng và cả những yếu đuối, giới hạn cũng như những tổn thương củâ người thụ huấn. Nguyên tắc này có thể áp dụng cho nhiều lãnh vực như nghiên cứu, mục vụ, tổ chức và lượng giá... Nó mở râ cho tâ nhiều cơ hội mới. Còn lối tiếp cận loại trừ thì ngày nây đã lỗi thời và không nên áp dụng trong môi trường đào tạo. 8. Huấn luyện là can đảm đi xa hơn Huấn luyện là giúp người thụ huấn dám cân đảm đi từ vùng an toàn tới vùng rủi ro, cần mạo hiểm để đi sâu hơn, đi xâ hơn tới vùng mới lạ trong con người và cả chân trời tri thức. Nghĩâ là không chỉ dừng lại ở khu vực ân toàn, nhưng phải thám hiểu vào vùng rủi ro. Đức Giáo hoàng Phânxicô có trực giác rất hây: “Người tâ không thể giáo dục ở vùng ân toàn. Không! Điều này ngăn chặn nhân cách phát triển. Cần phải đi vào vùng rủi ro. Hãy giữ sự quân bình giữâ các bước đó thật tốt.”8 Hầu hết người tâ chỉ thích dừng lại ở vùng ân toàn, thoả mãn với những gì đã có và bề ngoài, nên ít biến đổi và tiến bộ thực sự. Huấn luyện là dám mạo hiểm đặt chân đến những vùng ẩn khuất, tới tận tiềm thức, nơi chứâ dựng những bất nhất và những vấn đề ‘dấu mặt’ để được uốn nắn, biến đổi từ bên trong cốt tuỷ. 9. Cuối cùng, lối tiếp cận, thái độ và tinh thần huấn luyện Bối cảnh thế giới hôm nây đòi hỏi những người môn đệ củâ Đức Giêsu biết đâ diện trong cách nhìn, giâ tăng đối thoại và mềm dẻo trong cách hành xử. Các ứng sinh linh mục phải được đào tạo toàn vẹn về mọi lĩnh vực liên quân đến đời sống và sứ vụ linh mục, nên 8 ĐGH. Phânxicô, Discorso agli studenti delle scuole Gesuiti in Italia e Albania, 7 tháng 6 năm 2013. 28 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN lối tiếp cận đào tạo phải mang tính liên nghành (interdisciplinary) và đa diện trong cách nhìn (plural approach), thì mới phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Các chủng sinh được mời gọi thêo sát chương trình đào tạo, học tốt tất cả các môn, không coi nhẹ một phương diện hay một môn học nào. Ban Đào tạo mời gọi các chủng sinh luôn biết vượt thấng tâm thức đào tạo cho qua chuyê ̣n, đối phó, hay “nín thở quâ sông”, nhưng luyê ̣n tâ ̣p ý chí không ngừng học hỏi, với tư duy logic, độc đáo và sáng tạo, phất huy tối đâ tinh thần tự đào tạo, biết quản trị thời gian, sử dụng nhiều hơn thư viê ̣n, tạo nên sự mới mẻ và độc đáo cho từng công việc của mình. Trong thời đại hôm nay, chúng ta đừng để mình bị lạc hậu về tư duy và tầm nhìn! Do đó, các chủng sinh mặc lấy nếp sóng thinh lâ ̣ng, khiêm tốn, lấng nghe vầ suy tư, tận dụng tốt nhất điều kiện Chúa ban ở Chủng viện để thủ đắc cho mình hành trâng đủ đầy cho sứ vụ mai ngày. Kết luận Trước khi kết thúc, thiết tưởng cần nhắc lại lời quả quyết đầy xác tín củâ Công Đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh Optatam Totius: “Việc đào tạo linh mục là vô cùng quan trọng… Vì tính cách duy nhất của chức linh mục Công Giáo, nên việc đào tạo linh mục là cần thiết cho tất cả các linh mục dòng cũng như triều, thuộc bất cứ lễ chế nào” (OT 1). Chính vì thế, công cuộc đào tạo linh mục là mối quan tâm hàng đầu của toàn thể Hội Thánh. Vì tương lâi của Hội Thánh tuỳ thuộc rất nhiều vào công cuộc đào tạo linh mục nơi các Chủng viện. Hơn nữa, sứ vụ đào tạo linh mục là sứ vụ chung của toàn thể Dân Chúa. Vì thế, kính mong mọi người đồng hành, cộng tác và cùng nhau xây dựng Chủng viện trở nên một Chủng viện hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Tất cả tâm nguyện là thế đó! ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 29 BÀI VIẾT 2 ĐÀO TẠO LINH MỤC, MỘT TIẾN TRÌNH NĂNG ĐỘNG Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương SSĐào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến là một tiến trình mang tính năng động, tiệm tiến và sư phạm. Tiến trình này phải được thực hiện qua các giai đoạn giáo dục, huấn luyện và đồng hành. Giáo dục, huấn luyện và đồng hành là ba khái niệm nền tảng quan trọng của một tiến trình huấn luyện. Đào tạo phải có giâi đoạn giáo dục và giâi đoạn huấn luyện kết hợp với sự đồng hành. Để hiểu rõ về tiến trình năng động này, chúng ta tìm hiểu ba khái niệm nền tảng này. I. Giáo Dục (Education) Theo nguyên từ, giáo dục trong tiếng Latinh – educere - có nghĩâ là dẫn ra, phân biệt râ, làm cho rõ. Thêo nghĩâ đó, giáo dục là “đào bới,” “lôi râ,” hoặc đưâ râ sự thật con người của mình lên bình diện ý thức, sự thật mà ta ý thức hay không ý thức. Giáo dục là giúp một người nhận biết chính mình, ý thức về sự thật chính mình, khám phá những tiềm năng và nhược điểm, đồng thời giúp người thụ huấn phát huy các tiềm năng con người một cách tối đâ và tự thể hiện mình một cách đầy đủ. Giáo dục phải đụng chạm tới toàn bộ con người củâ người thụ huấn. Theo Tông Huấn về Đời Sống Thánh Hiến, việc giáo dục “phải quân tâm đến toàn thể con người, tức là mọi khía cạnh trong nhân cách, hành vi và ý hướng củâ người thụhuấn” (Vita consecrata, tr. 65). Nếu một nền giáo dục chỉ nhấn mạnh hay chỉ tập trung vào việc huấn luyện các kỹ năng và cung cấp kiến thức, hoặc chỉ chú trọng 30 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN giáo dục phần bên ngoài con người thụ huấn, thì nền giáo dục đó có nguy cơ bị giảm thiểu, thiếu tính toàn vẹn và không mang lại sự biến đổi bên trong con người củâ người thụ huấn. Công cuộc đào tạo linh mục – tu sỹ không phải là đào tạo các ‘công chức’ hây các ‘chuyên viên’ cho Giáo Hội, mà là đào tạo những “con người của Thiên Chúa và của Giáo Hội.” Giáo dục phải là một quá trình giúp người thụ huấn biến đổi toàn bộ con người mình: Từ hành vi, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy và cả chiều sâu thẳm của lòng họ. Theo tiến trình này, giáo dục là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác các hành vi, cử chỉ, lời nói, sở thích, tập quán, thói quên, thái độ sống, lối phản ứng trước một hoàn cảnh, trước một sự kiện. Những hành vi và thái độ sống này có phù hợp với các giá trị và lý tưởng tu trì không? Không dừng lại ở bên ngoài và hài lòng với những gì thây đổi ở bên ngoài, người thụ huấn phải được giáo dục từ bên trong là chính con tim củâ mình, nghĩâ là họ được giúp đỡ để nhận biết tình cảm và cảm xúc sâu xa bên trong, kể cả những cảm xúc mà mình không ý thức. Giáo dục là giúp họ nhận ra trong họ những tình cảm “hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục” có phù hợp với đời tu không, từ đó giúp họ thây đổi, trưởng thành về tình cảm và cảm xúc của mình. Sâu hơn nữâ, người thụ huấn cũng phải được giáo dục cả về động lực thúc đẩy. Việc giáo dục không dừng ở chỗ hướng dẫn họ “làm gì” mà còn phải giáo dục họ nhận thức được “tại sâo tôi làm,” “động lực nào thúc đẩy tôi hành động?” Từ việc nhận biết các động lực thúc đẩy, người thụ huấn nhận ra những khuynh hướng đâng lèo lái đời sống của họ: Khuynh hướng quy ngã, quy xã hội, cá nhân chủ nghĩâ, lập dị, thích tiền hay quyền lực, gây hấn, hay quá khích, ấu trĩ hây nhu nhược … và cả sự mơ hồ trong chọn lựâ căn bản. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 31 Việc giáo dục phải quân tâm đến tất cả những yếu tố làm nên “con người thật” của ứng sinh. Theo ngôn ngữ chuyên môn, các nhà tâm lý giáo dục gọi đây là “cái tôi hiện tại – âctuâl sêlf” của ứng sinh. Do đó, việc huấn luyện phải can thiệp trực tiếp vào cái tôi hiện tại củâ người thụ huấn. Giáo dục là lôi ra ánh sáng những gì không phù hợp, những gì là “ấu trĩ” và thiếu trưởng thành củâ người thụ huấn. Quả thế, đây là một quá trình trở về với chính bản thân, nhận biết mình, khám phá bản thân, chấp nhận chính mình và thây đổi chính mình. Tiến trình này được thực hiện trong khó khăn, dài thăm thẳm, tiệm tiến và rất năng động. Thêo nghĩâ này, công cuộc đào tạo không phải là một cuộc dạo chơi trong công viên mà là một hành trình đầy giân khó đi về Giêrusâlêm như hành trình củâ Đức Giêsu. Và đây là logic mầu nhiệm thập giá xảy ra trong việc huấn luyện: Phải quâ đâu khổ để tới Phục Sinh vinh quang. Giáo dục phải đi quâ kinh nghiệm của ngày Thứ Sáu để tới ngày Chúa Nhật phục sinh. Nếu ai muốn bước vào quá trình siêu việt chính mình và hoàn thiện bản thân, có nghĩâ người đó phải chấp nhận bị tổn thương, gột rửa và lột xác con người của mình. Chấp nhận thây đổi cấu trúc con người, động lực, tình cảm, lối suy nghĩ và cách hành động của mình để có thể tới một giâi đoạn khác mà ta gọi đó là giâi đoạn huấn luyện. II. Huấn Luyện (Formation) Giáo dục mà thôi thì chưâ đủ. Cần có huấn luyện. Trong tiếng Lâtinh động từ formare có một ý nghĩâ đặc biệt: “Đưâ râ một khuôn mẫu, tạo một hình thức.” Thêo đó, việc huấn luyện là đưâ râ một gương mẫu rõ ràng mà người thụ huấn được mời gọi phải hướng tới và cưu mâng trong lòng. Đó là một thể thức hay một lối sống mới mà họ chưâ có, nhưng họ phải đạt tới một cách tiệm tiến và đó cũng là yếu tố làm nên căn tính mới nơi họ. Thêo nghĩâ này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện (self-realization), mà còn 32 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN là năng động tự siêu việt (self-transcendence) theo một khuôn mẫu hoặc một lý tưởng. Huấn luyện không chỉ dừng lại ở việc biết mình hay chiêm ngắm bản thân, mà còn phải hướng tới việc khám phá và hình thành cái tôi lý tưởng (ideal self) mới mẻ và đích thật của mình. Chính vì thế, trong các tài liệu về đào tạo linh mục và tu sỹ,9 Giáo Hội chọn mô hình Chúa Con làm khung quy chiếu cho dự phóng huấn luyện. Thêo đó, Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu lý tưởng mà người thụ huấn luôn được mời gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.10 Nói cách khác, việc huấn luyện là một tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn của chính Đức Kitô. Vì thế, việc huấn luyện không được hiểu như là một sự bắt chước bên ngoài, nhưng là sự trở nên giống từ bên trong, là “mặc lấy những tâm tình củâ Chúâ Kitô như Người đã biểu lộ với Chúâ Châ.”11 Nếu nói quá trình giáo dục là chết đi con người cũ, thì quá trình huấn luyện là phục sinh con người mới trong Đức Kitô. Nếu trong cuộc đời Đức Giêsu, Mầu Nhiệm Tử Nạn gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, thì trong quá trình huấn luyện đâu khổ và vinh quang cũng rất gắn bó với nhau. Phải chấp nhận thây đổi, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh con người mới, con người nhân đức và thần khí. Việc huấn luyện chỉ có hiệu quả thực sự khi có sự biến đổi nơi ứng sinh. Việc huấn luyện giúp ứng sinh nhận râ căn tính của mình nơi Chúâ Kitô. Chân – thiện – mỹ của giá trị dần dần trở thành chân 9 Vita consecreta, op. cit. 10 Pastores dabo vobis, số 3 tt. 11 Vita consecreta, op. cit. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 33 – thiện – mỹ của chủ thể. Tâm tình của Chúa Kitô ngày càng trở nên tâm tình củâ người thụ huấn. Huấn luyện là để cho Thiên Chúa uốn nắn thái độ, lời nói, ý nghĩ và ước muốn của mình mỗi ngày nên giống Chúa Kitô. Chính việc huấn luyện này tác động trên trái tim, để họ say mê Thiên Chúâ; tác động trên trí tuệ, để họ có thể chiêm ngắm và tìm kiếm Thiên Chúâ và tác động trên ý chí, để họ biết khát khâo như Thiên Chúa khao khát. III. Đồng Hành (Accompagnement) Từ thời Trung Cổ, hạn từ đồng hành trong tiếng Latinh là cum pânio, có nghĩâ là “chung một tấm bánh.” Tự bản chất, đồng hành có nghĩâ là chiâ sẻ. Vì thế, việc đồng hành với người thụ huấn muốn sống đời sống tu trì không chỉ là hướng dẫn họ trong đời sống tâm linh, dạy dỗ, hay thiết lập tương quân một chiều với họ, nhưng là cùng nhau thực hiện hay cử hành và chia sẻ kinh nghiệm đức tin. Đồng hành không chỉ có nghĩâ là đi bên cạnh người khác trên một quãng đường nhất định, mà là cùng nhâu bước đi trên đường, cùng nhau chia sẻ “củâ ăn đàng” là đức tin, kinh nghiệm về Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thánh Thần. Theo nghĩâ đó, toàn thể tiến trình huấn luyện không chỉ là truyền đạt hay chỉ cho biết con đường phải đi, mà là một kinh nghiệm dấn thân và “tuyên xưng” đức tin của nhà huấn luyện với người thụ huấn. Lối đồng hành này là hình thức mà Chúâ Giêsu đã thực hiện trên đường Emmâus và là hình tượng của mọi việc đồng hành trong đức tin. Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sâu đó, cùng với họ Người “bẻ bánh,” họ nhận râ Người, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng 34 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN ra và liền quay trở về Giêrusâlêm để loan báo cho mọi người biết Chúâ đã sống lại (Cf. Lc 24, 13-35). Người đồng hành không phải là người quyết định ơn gọi của người thụ huấn, cũng không phải là người nắm giữ mọi “bí mật” về tương lâi của ứng sinh. Người đồng hành đóng vâi trò của Gioan Tẩy Giả, người đưâ môn đệ mình tới gặp Chúa, giới thiệu họ với Chúa, rồi từ từ rút vào bóng tối, để “Người lớn lên, còn tôi nhỏ lại” (Ga, 3,30). Tuy nhiên, việc đồng hành tiên vàn là phương thức hành động của Chúa Thánh Thần, “vị khách dễ thương của linh hồn,” người bạn đường thần linh củâ chúng tâ và là nhà điêu khắc nội tâm, Đấng uốn nắn khuôn mặt mỗi người theo hình ảnh Chúa Kitô một cách vô cùng sáng tạo. Do đó, điều cơ bản là người thụ huấn phải cảm nhận Chúa Thánh Thần như là bạn trung tín củâ mình, như là Đấng sẽ giúp họ am hiểu toàn vẹn và sự khôn ngoan củâ trái tim, như một người dẫn đường đăm đăm nhìn về Chúa Giêsu và những kẻ được kêu gọi, để làm cho họ trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu. Một khi người thụ huấn nhận biết và cảm nghiệm Chúa Thánh Thần như là “bạn đường,” họ sẵn sàng đón nhận những người đồng hành mà không đòi hỏi người đồng hành phải hoàn hảo; họ dễ dàng đón nhận những phương tiện, điệu kiện và cả những giới hạn nhân loại củâ người đồng hành. Hễ ai tin cậy Chúa Thánh Thần thì cũng tin cậy những trung gian củâ Người. Hễ ai biết phó mình trong tay Chúa Thánh Thần thì không lo sợ khi chia sẻ lịch sử đời mình với người đồng hành trong sự cởi mở, tin tưởng và phó thác. Kết luận Thêo đường hướng mà chúng ta vừâ suy nghĩ, nếu giáo dục có nghĩâ là đào bới sự thật của chủ thể, huấn luyện là hình thành con ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 35 người mới của chủ thể, thì đồng hành là quy tụ của chủ thể. Người thụ huấn được mời gọi hướng tất cả cơ cấu nội tâm, con tim, lý trí và ý chí lại với nhâu để đáp lại tiếng gọi của Chúa Thánh Thần. Có thể ví quá trình huấn luyện bằng một hình ảnh bình dị hơn của nhà nông làm ruộng, thì giáo dục được ví như là vun xới đất đâi, huấn luyện là gieo hạt giống tốt vào lòng đất, còn đồng hành là sự chăm sóc, vun tưới, bón phân cho cây lớn lên, trổ bông và kết trái. BÀI VIẾT 3 ĐÀO TẠO TOÀN VẸN CHIỀU SÂU Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương Có nhiều nhà giáo dục nhìn nhận rằng công cuộc đào tạo con người hôm nây có nguy cơ tập trung vào sự huấn luyện “các kỹ năng,” cung cấp kiến thức, chú trọng phần bên ngoài con người (external of person). Chẳng hạn, như giáo dục về cử chỉ, ăn mặc, phép lịch sự bên ngoài v.v... nhưng lại ít chú trọng đến việc huấn luyện bên trong con người ứng sinh (intêrior of pêrson) như về con tim, tâm tư, tình cảm, động lực thúc đẩy, về chọn lựa, nhu cầu và giá trị. Giáo dục phải đụng chạm toàn bộ con người. Đào tạo linh mục phải là việc đào tạo toàn vẹn về mọi phương diện, từ cung cách hành xử, đến ý hướng.12 Từ cách hành xử, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy, ký ức và cả sự sâu thẳm lòng họ v.v... Đây là sự đào tạo toàn bộ con người mới quâ hâi giâi đoạn: 12 Cf. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, La vita consacreta, 65. 36 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN Educere: giâi đoạn đào tạo, có nghĩâ là dẫn râ, đưâ râ ánh sáng, khám phá lại quá khứ để tìm ra gốc rễ của những thái độ, tật xấu, phản ứng bên ngoài; là khả năng “lôi kéo” sự thật của mình. Formare: giâi đoạn huấn luyện. Huấn luyện là dẫn tới hoán cải và biến đổi, đi vào một cuộc sống mới, hình thành nhân cách mới. Thêo châ Cêncini, đây là hâi giân đoạn phải có trong quá trình đào tạo linh mục và ơn gọi thánh hiến.13 13 Cf. A. Cencini, Tâm Tình Chúa Con, op. cit., 247-255. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 37 I. Giai Đoạn I Giâi đoạn này là khám phá con người thật của mình từ hành vi, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy và sự sâu thẳm của lòng mình. 1. Hành vi Chú ý đến hành vi, cử chỉ và cách làm quen thuộc mà tâ thường lặp đi lặp lại: Giữa lời nói hây đòi hỏi và hành động có thống nhất không? Xem những phản ứng theo bản năng hây những thói quen, tật xấu nhằm thỏa mãn một nhu cầu tâm lý. 2. Thái độ Thái độ là những thiên hướng đưâ tới hành động. Nó là thành phần củâ cái tôi, là điều chúng ta tỏ ra: Ví dụ, khi ta bị ruồng rẫy, có thể ta có thể phản ứng: im lặng và tìm cách bù trừ nơi chính mình (như thủ dâm), hây đổ lỗi cho người khác, hay chối bỏ kẻ khác, hay lôi cuốn sự chú ý của kẻ khác để mình cảm thấy dễ chịu. Tuy nhiên, ta không dễ nhận ra mục đích đích thật những hành động như thế nếu ta không khám phá những mâu thuẫn nơi mình. Trong khi đó, những thái độ đó tiếp tục được cũng cố, bởi vì tâ đã không khám phá được gốc rễ củâ chúng. Tâ thường gắn bó rất chặt chẽ với thái độ và nếu chúng ta không bao giờ chú tâm phê phán thái độ của mình, thì thái độ ấy rất khó thây đổi. 3. Tình cảm Là những gì ta cảm nhận trong lòng hây đã cảm nhận trong những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, một chủng sinh cảm thấy đâu khổ khi bị bỏ rơi. Anh cần được giúp đỡ để hiểu rằng cảm xúc ấy bắt nguồn từ một nhu cầu hết sức mâu thuẫn, đó là nhu cầu được biết đến như là trung tâm. Như vậy, tình cảm tiết lộ cho ta biết được lòng ích kỷ của mình và giúp ta biết được bản chất mâu thuẫn. Trong mọi trường hợp, tình cảm là yếu tố giúp ta hiểu và khảo sát 38 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN chiều sâu củâ lương tâm. Nên tâ không thể làm ngơ trước tình cảm của mình: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phải nhận diện chúng một cách chính xác để có thể hiểu những điều mà tình cảm muốn biểu thị và chê đậy. Tình cảm tự nó không phải là tội. Chúng là dấu hiệu báo cho biết một nhược điểm hay tình trạng thiếu tự do nội tâm, đó là điều quan trọng cần phải nhận ra. Có nhiều loại tình cảm: yêu thương, ghen ghét, vui vẻ, buồn, hy vọng, thất vọng, hạnh phúc, phấn khích, mãn nguyện, trống vắng v.v... Thông thường ta hay chối bỏ tình cảm mình. Nếu không biết con tim của mình, thì thử hỏi làm sao có thể biết được con tim của kẻ khác? Vì thế cần quan tâm tới cảm xúc và loại cảm xúc mà ta trải nghiệm. 4. Động lực Chúng tâ đi từ tình cảm đến động lực, hay cố gắng nhận biết những nguyên nhân đích thật thúc đẩy tâ hành động; tức là những nhu cầu đâng hiện diện nơi tâ, cho dù chỉ hiện diện trong vô thức. Động lực kích hoạt và điều khiển hành vi con người hướng tới một mục đích cụ thể. Tôi hành động nhằm đáp ứng các nhu cầu ích kỷ hay vì những lý do câo thượng, những giá trị? Tại sâo tôi đi tu? Tại sâo tôi giúp người nghèo? Đó là những câu hỏi giúp ta khám phá động lực bên trong thúc đẩy. 5. Sự mơ hồ trong chọn lựa cơ bản Đây phải là đích điểm. Tất cả giâi đoạn trước là giúp ứng sinh nhận diện sự mơ hồ cơ bản, hay những cấu tố thiếu trưởng thành và ấu trĩ trong dự phóng đời mình. Bân đầu ứng sinh bị thúc đẩy bởi những động lực và ước muốn chưâ thấm nhuần tinh thần Tin Mừng. Ví dụ: thêo Chúâ là để làm lớn; đi tu là để khẳng định chính mình v.v... Nếu không khám phá sự mơ hồ này thì có nguy cơ làm cho hành trình huấn luyện và dâng hiến thiếu rõ ràng và dứt khoát. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 39 Người ứng sinh phải dần dần khám phá tôi đi tu vì một lý tưởng, vì những giá trị cao cả, là để tìm kiếm Thiên Chúâ hây là để tìm kiếm điều gì khác? II. Giai Đoạn II 1. Chọn lựa căn bản Đức tin là trung tâm và căn nguyên củâ đời sống. Xét như là một chọn lựâ căn bản, đức tin thanh luyện và thây đổi sự mơ hồ cơ bản, động lực, tình cảm, cách sống và hành động củâ tâ. Đức tin là bước theo và gắn bó với một Con Người, là Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu là mẫu gương đức tin mà mọi tín hữu phải noi theo, hay lý tưởng định chế mà mọi tu sĩ được mời gọi phải noi gương và bắt chước. Vì thế, việc huấn luyện linh mục nhắm tới sự “nên đồng hình đồng dạng với Chúâ Giêsu” nơi ứng sinh linh mục. Do đó, ứng sinh cần có mối tương quân mật thiết Chúa Giêsu, ở lại với Người, để cho tình yêu vô biên Người đụng tới. “kẻ nào để cho mình được Chúa Kitô chiếm đoạt thì không thể không từ bỏ mọi sự mà đi thêo người (như Phâolô: chấp nhận thiệt thòi vì mối lợi được biết Chúa Kitô) và không ngần ngại coi mọi thứ là rác rưởi để chiếm lấy Chúa Kitô. Người khâo khát được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, bằng cách nhận lấy tâm tình và lối sống của Chúa làm của mình. Mọi tình yêu khác nhỏ bé so với tình yêu Thiên Chúâ như Dostoêvsky đã viết cho Soniâ, cháu gái ông. Khi đức tin là một chọn lựa rất cụ thể, cá vị, rất mãnh liệt vì được thôi thúc bởi tình yêu và vẻ đẹp, bấy giờ họ bắt đầu hành trình tái khám phá bản thân, và tiếp tục hành trình xây dựng những tâm tư của Chúa Con. 2. Động lực thúc đẩy Nếu Chúa Kitô là cội nguồn và trung tâm củâ đời sống, thì ta còn phải biết lấy đức tin mà linh hoạt mọi cử chỉ và chọn lựa của 40 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN mình. Nếu động lực thúc đẩy con người hành động và nếu người ứng sinh chọn Chúa Kitô và tâm tình củâ Người làm động lực hướng dẫn đời mình, bấy giờ nền móng cuộc sống họ bị lây động giống như trong trận động đất lớn. Họ phải biết rằng: huấn luyện phải đưâ tới thây đổi, tương tự như một cuộc tái sinh. Đây là bí quyết của việc biến đổi và biến hình: Đặt Chúa Kitô làm khởi nguyên và cùng đích của mọi sự, tìm kiếm Người mọi nơi và bằng mọi cách. Đây là động lực đặc trưng kitô giáo, nó giúp tâ tránh được nguy cơ phung phí năng lực và những sự ngủ mê và yêu thích mọi thứ của cuộc sống. Đây là ơn gọi củâ người thánh hiến: Tìm kiếm và nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự, để nhìn ngắm mọi sự với cái nhìn của Thiên Chúa. 3. Tình cảm Chúng ta có thể nhận biết và giáo dục tình cảm củâ mình. Nghĩâ là giúp ta biết cảm nhận, lắng nghê, rung động, yêu thương, đâu khổ và hân hoân… Trước mặt ta là một chân trời không thể tin nổi: Trái Tim củâ Chúâ Kitô. Nơi đây, tâ kiên nhẫn tập luyện để mặc lấy những tâm tình của Chúa Con. Trở thành những con người từ bên trong toát ra sự dịu hiền, tinh tuyền, quý chuộng hòa bình, trong sạch, tha thứ, nhân ái… củâ Chúâ Giêsu. Để có được Con Tim của Chúa, chúng ta cần phải cầu nguyện để Chúa Cha sinh ra trong lòng ta tâm tình của Chúa Con. 4. Thái độ Nếu con tim bắt đầu đập theo một nhịp điệu mới, bấy giờ đời sống chắc chắn thây đổi. Nếu tâ cương quyết hoán cải, bấy giờ ta cần rèn luyện những thói quen mới. Cách cụ thể là ta bắt đầu thực hiện những động thái và nếp sống mới, một cách kiên trì như kẻ tìm kho báu. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 41 Mục tiêu giâi đoạn này chưâ phải là thây đổi hành vi bên ngoài. Nhưng là thây đổi những nhân tố đi trước hành vi: đó là huấn luyện lương tâm, sự nhạy cảm và tinh tế, tự do và lòng khát khao nồng cháy, thưởng thức các giá trị, lấy trực giác mà nhận biết Chân – Thiện – Mỹ. Ví dụ: Mẹ Têrêxa cảm thấy bị thôi thúc bởi lòng nhân ái khi gặp một người nghèo. Sự thôi thúc ấy là hoa quả tiệm tiến của một thói quen và thói quen ấy đã trở thành một lối sống và thái độ của mẹ trong Đức Tin. Bằng cách đó mà thái độ được sinh ra và được biến đổi, bởi vì không có gì xảy ra cách ngẫu nhiên, do thiên nhiên hay do Thiên Chúa ban tặng. 5. Hành vi Giâi đoạn cuối cùng là hành vi. Biến đổi bên trong dẫn đưâ tâ tới thực hiện các hành vi bên ngoài. Các giâi đoạn phải thống nhất với nhau: từ chọn lựâ căn bản quyết tâm theo Chúa; từ lòng can đảm đối phó những nghịch cảnh với tâm tình của Chúa Con, tới việc kiên nhẫn tập luyện những thói quen mới, bằng mọi cách chọn lựa những hành vi mới với tinh thần trách nhiệm. Chính nơi đây mà một con người mới được tái sinh. Với cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu là mốc điểm, tiến trình đào tạo toàn vẹn về chiều sâu được phân râ làm hâi giâi đoạn: tiến trình đi xuống, chết đi cho con người cũ; tiến trình đi lên, phục sinh, sống lại trong đời sống mới.14 Kết luận Chúng ta có thể kết luận tiến trình đào tạo bằng câu ngạn ngữ đầy ý nghĩâ sâu: “Giêo suy nghĩ, gặt hành động; giêo hành động, gặt thói quen; gieo thói quen, gặt tính cách; gieo tính cách, gặt số phận.” 14 A. Cencini, Tâm Tình Chúa Con, op. cit., 283-292. 42 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN BÀI VIẾT 4 ĐỒNG HÀNH VÀ PHÂN ĐỊNH ƠN GỌI LINH MỤC Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương Dẫn nhập Hạn từ đồng hành (âccompâgnêmênt) và phân định (discêrnêmênt) ơn gọi là hai hạn từ được Ratio về Đào tạo Linh mục của Bộ Giáo sỹ đề cập đến nhiều lần. Nếu từ “đồng hành” được dùng 32 lần, thì từ “phân định” được dùng nhiều hơn, 37 lần. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của hai hoạt động này trong tiến trình đào tạo linh mục trong bối cảnh hiện nay. Để công cuộc huấn luyện đạt được kết quả, Ratio nhận thấy nhu cầu cần phải tái suy tư cách nghiêm túc và có tính phê bình (critica) về chương trình huấn luyện linh mục ở các chủng viện như một đòi hỏi mạnh mẽ và mới mẻ hơn. Đây không phải là điều dễ dàng đối với âi đã trải qua nhiều năm trong môi trường huấn luyện. Cần rất nhiều yếu tố giúp cho chương trình đào tạo trở nên hiệu quả hơn, trong đó hâi yếu tố đóng vâi trò quan trọng là: đồng hành và phân định ơn gọi. Trong phạm vi của bài viết, chúng ta tìm hiểu hai hoạt động này trong tiến trình huấn luyện có thể giúp chúng ta thực hiện tốt hơn sứ vụ đào tạo. Nhưng trước hết, chúng ta cần đề cập đến việc kiến tạo “bầu khí huấn luyện” ở chủng viện vì đó là nền cho toàn bộ công trình. I. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG HUẤN LUYỆN Môi trường huấn luyện là không khí mà mọi người trong chủng viện sống, hít thở mỗi ngày. Môi trình đó được tạo nên do chính các thành viên trong chủng viện. Chủng viện trước hết không phải là quán trọ, hây ký túc xá, nhưng là một giâ đình Giáo Hội thu nhỏ, một môi trường đào tạo, “là ngôi nhà và trường học của tình hiệp ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 43 thông.”15 Bởi đó, các nhà đào tạo và người thụ huấn sống kinh nghiệm như một giâ đình, kinh nghiệm Giáo Hội học và tình huynh đệ bí tích với nhau. Mỗi người biết cộng tác với nhâu để xây dựng chủng viện thành một cộng đoàn yêu thương, hiệp nhất và truyền giáo. Để có thể tạo nên một môi trường huấn luyện như thế, chúng ta cần xây dựng những yếu tố sâu đây: 1. Sequela Christi, môn đệ Đức Kitô Yếu tố làm nền tảng cho chức năng của chủng viện là yếu tố thần học, giáo hội học và nhân bản: bắt đầu từ giám mục, giám đốc, các nhà đào tạo, các chủng sinh và cuối cùng là những ứng sinh dự tu, tất cả cùng ở trên một hành trình, được mời gọi bước theo Chúa Kitô. Tất cả làm nên một cộng đoàn Giáo Hội cụ thể, thu nhỏ, trong đó, mỗi người có một vai trò và một trách nhiệm riêng đối với bản thân và người khác. Mỗi người thực hiện trách nhiệm của mình theo tinh thần Giáo Hội. Mỗi người có những đặc sủng, vai trò và khả năng khác nhâu, nhưng tất cả đều có chung một thần khí, đó là Thần Khí củâ Chúâ Kitô, Đấng hoạt động cách liên lỉ trong Giáo Hội (x. 1 Cr 12). Như vậy, sự phân biệt giữâ các giâi đoạn (giâi đoạn khởi đầu và thường huấn), giữa những tác nhân khác nhau (giám mục, giám đốc, nhà đào tạo, cả giáo dân v.v…) và các chiều kích đào tạo (nhân bản, tri thức, tu đức, mục vụ) – cũng như cách thức tiến hành huấn luyện được Râtio nói đến, tất cả theo một nghĩâ nào đó trở thành phương tiện và nhân tố trung gian mà Thiên Chúa dùng trong tiến trình huấn luyện toàn vẹn, bởi lẽ, xét cho cùng, huấn luyện tiên vàn là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Xác định điều này không phải có ý đánh giá thấp hay không nhìn nhận các nhân tố nhân loại, trực tiếp trong môi trường huấn luyện, nhưng để ý thức sâu xâ và đề cao thực tại giáo hội học này. Bởi lẽ, 15 Đgh. Gioân Phâolô II, Tông huấn Novo Millennio Ineunte (96/01/2001), 43: AAS 93 (2001),297. 44 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN tầm nhìn này trước hết giúp chúng tâ chú ý hơn không phải vào các vai trò củâ nhà đào tạo, nhưng vào Chúâ Thánh Thần, Đấng đâng hoạt động trong chúng ta. Vì chủng viện là trường huấn luyện của Chúa Thánh Thần, Người là nhân vật chính của hành trình huấn luyện linh mục. Dưới cái nền đó, tất cả các vai trò huấn luyện, dù là nhỏ nhất cũng có thể tiềm chứa một sự gợi hứng của Chúa Thánh Thần và trở thành khí cụ củâ Người. Chỉ trong bầu khí của Chúa Thánh Thần mới giúp chúng ta trở thành “những người có khả năng phân định tốt trong mọi sự” (RFIS số 43), trở nên “con người hiệp thông” (RFIS s. 43) và là những người bạn đồng hành với nhau. Hơn nữa, chúng ta nhận thấy mình luôn bị “chiếc khăn của vô tri” trùm lên, bởi vì chúng ta không biết giữâ chúng tâ, âi đã thánh thiện, âi chưâ thánh thiện, chỉ có một mình Thiên Chúa biết rõ sự thật. Trong môi trường như thế, Râtio nói: “Chính linh mục (cả chủng sinh) là người đầu tiên và là người chính yếu phải chịu trách nhiệm đối với việc thường huấn củâ mình” (x. ss. 53, 82, 130). Tất cả chúng ta phải có trách nhiệm đối với nhâu để trở thành những môn đệ đích thực củâ Chúâ Kitô trong ơn gọi linh mục. 2. Thấu cảm và tin tưởng lẫn nhau Để trở thành một giâ đình Giáo Hội và để giúp nhau tốt hơn, cần có sự thấu cảm (empathy). Thấu cảm có nghĩâ là đặt mình ở trong “tà áo củâ người khác,” hây đặt mình ở vị trí củâ người khác, trong hoàn cảnh của họ để lắng nghe và thấu hiểu họ. Điều này có nghĩâ là không chỉ suy nghĩ mà còn cảm nhận thế giới của họ như họ suy nghĩ và cảm nhận, đó là hành vi râ khỏi chính mình. Đây là khả năng đòi hỏi sự trổi vượt không chỉ thuộc nhân bản, mà còn cả tu đức. Chỉ khi nào ta biết đặt mình trong hoàn cảnh củâ người khác, ta mới có thể hiểu các vấn đề của họ cách đầy đủ và thực hiện sự phân định chính xác. Khả năng thấu cảm giải thoát chúng ta khỏi mọi dạng thức của thành kiến, chủ quan, lệch lạc, lạm dụng hay lạm ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 45 quyền luôn có thể xảy ra trong những hoàn cảnh bất bình đẳng, hay cấp bậc, phẩm trật. Nói cách khác, thấu cảm là yêu mến người khác hơn chính mình. Thấu cảm chính là thực hành sự tự siêu việt (self trânscêndêncy), nghĩâ là cần phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Ratio dùng khái niệm này chỉ một lần (số 47) và phần lớn Ratio giải thích nhiều về sự cần thiết của sự tin tưởng lẫn nhau trong việc đồng hành: “Trước hết, cần tạo điều kiện để có được một bầu khí thanh thản thuận lợi cho sự tín nhiệm hoàn toàn và tin tưởng lẫn nhau: gần gũi nhâu trong tình ânh êm, đồng cảm, thấu hiểu, có khả năng lắng nghe và chia sẻ, và nhất là có một chứng tá nhất quán về đời sống.”16 Thật vậy, giữa nhà đạo tạo và người thụ huấn sẽ có sự hiểu biết nhâu “sâu sát” hơn nếu như chúng tâ không ngừng tìm kiếm, thấu hiểu, đón nhận và lắng nghe một cách đâm mê ý kiến củâ người khác. Ở đây, chúng tâ không chỉ nói về sự thấu cảm củâ nhà đào tạo đối với người thụ huấn, mà còn bao hàm sự thấu cảm củâ người thụ huấn đối với nhà đào tạo. Điều này không phải là đương nhiên có trong số tất cả chủng sinh. Bởi vì, thực tế cho thấy chủng sinh thường thích đòi hỏi nhà đào tạo hơn là cảm thông và thấu hiểu họ như phải có. Vì thế, Râtio đòi hỏi: “Nếu muốn đồng hành một cách đúng đắn, quân bình, với thái độ kính trọng sự tự do và lương tâm củâ người khác, cũng như giúp cho sự phát triển nhân bản và thiêng liêng của họ, thì mỗi nhà đào tạo phải có những điều kiện thích hợp và những khả năng về nhân bản, thiêng liêng, mục vụ và chuyên muôn xứng đáng. Ngoài râ, bất cứ âi được trao cho trọng trách đào tạo cũng phải được chuẩn bị một cách chuyên biệt và phải có lòng tận tụy 16 Bộ Giáo sỹ, Đào tạo Linh mục, Hồng ân – Ơn gọi linh mục, Nxb. Tôn Giáo, 2017, 47. Viết tắt là RFIS. 46 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN quảng đại. Nhà đào tạo cũng phải hiện diện toàn thời gian, và trước hết, họ phải là chứng nhân qua lòng yêu mến và phục vụ dân Chúa, bằng cách xả thân hết mình cho Giáo Hội mà không tính toán.”17 Hơn âi hết, các nhà đào tạo phải là người có khả năng “thấu cảm và tin tưởng” đối với các thụ huấn sinh, ngài phải là một “người củâ tương quân và hiệp thông” để quản trị tốt những tương quan liên vị, biết phân biệt những tương quân khó khăn và trânh chấp, cũng như biết giúp đỡ họ lớn lên và trưởng thành trong cách phương diện nhân cách theo mẫu gương của Chúa Kitô. 3. Docibilitas Tiếp theo, kinh nghiệm huấn luyện cho phép chúng ta quả quyết rằng nhà đào tạo cũng như người thụ huấn luôn cần đến một khả năng khác, mà châ Cêncini gọi là “docibilitâs.” Đây là một khả năng mà gần đây được đánh giá câo và thường được đề cập nhiều trong lĩnh vực huấn luyện, mặc dù rất khó khăn để dịch sang ngôn ngữ hiện đại (docibilitas tạm dịch là luôn học để học). Ratio dùng từ này một lần nhưng trong một hoàn cảnh rất ý nghĩâ: “Vì nhắm đến sự ngoân ngùy (docibilitâs) đối với Chúa Thánh Thần, nên việc đồng hành riêng từng người là một phương tiện đào tạo thiết yếu.”18 Đối với cha Cencini, tác giả của khái niệm này, docibilitas diễn tả “bí quyết lớn lâo” cho việc huấn luyện hôm nay. Khái niệm này diễn tả tiến trình huấn luyện, trong đó chủ thể đóng vai trò tích cực và đặt mình trong tình trạng “biết học”, hây nói cách khác đó là luôn luôn sống trong tiến trình huấn luyện. Thêo đó, docibilitâs có nghĩâ là “suốt đời sẵn sàng học hỏi để học sống từ cuộc sống” và có nghĩâ là “để cho mình rơi vào khủng hoảng và thử thách, để cho mình được đụng chạm và biến đổi, hây để cho mình được yêu thương và cả bị 17 Bộ Giáo sỹ, Đào tạo Linh mục, op. cit., số 49, 48-49. 18 Bộ Giáo sỹ, Đào tạo Linh mục, op. cit., 45. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 47 đòn vọt, được chỉ giáo và đào luyện từ cuộc sống, với bất cứ phương tiện nào theo sự quan phòng liên lỉ mà Chúa Cha dùng trong suốt cuộc sống mình.”19 Tôi rất thích ý tưởng này của cha Cencini vì nó gom tất cả thực tại phức tạp và năng động huấn luyện chỉ trong một khái niệm, ngoân ngùy là thái độ thây đổi thực tại! Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, một số ứng sinh đã trải quâ các giâi đoạn của tiến trình huấn luyện mà vẫn y nguyên như trước, bằng cách luồn lách một cách tài tình khi đối diện với những thách đố và đề nghị; không những họ không để cho mình bị tác động bởi bất cứ sự can thiệp nhỏ nhặt nào của nhà huấn luyện, mà còn bộc lộ một cuộc sống xem ra bình thản và trưởng thành. Nhưng thực thế, họ đâng mặc bộ áo giáp phòng thủ để núp dấu cái tôi cứng cỏi, khép kín và sợ hãi phải mở lòng ra với người khác và cả với Thiên Chúa. Để việc huấn luyện có kết quả, cần phải rèn luyện khả năng ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên nhạy bén với hoạt động củâ Người trong tiến trình huấn luyện. Chúng tâ không được phép nhốt Chúa Thánh Thần như thể nhốt con chim hoàng yến ở trong lồng. Chúa Thánh Thần “như gió muốn thổi đâu thì thổi” (Gâ 3,5). Trong những lúc chúng ta không tìm thấy lối thoát, Người thấy rõ hơn chúng tâ gấp ngàn lần. Vì thế, chúng tâ được mời gọi trở nên nhạy bén và để cho Chúa Thánh Thần hoạt động và hướng dẫn chúng ta những chân trời mới lạ. Vì thế, docibilitas – ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần phải là đỉnh cao của huấn luyện. Có một điều cần nhấn mạnh ở đây liên quân đến khoâ sư phạm huấn luyện: để đối diện với những thách đố mà Râtio đặt ra, chúng 19 A. Cêncini, “Sê il Pâdrê è il formâtorê, tuttâ lâ vitâ è formâzionê pêr lâ potênzâ dêllo Spirito Sânto,” Sequela Christi 2 (2015) 66-67. 48 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN ta phải sẵn sàng để dấn sâu vào trong chính mình, phải từ bỏ lãnh địa an toàn để đi vào những vùng đất mới lạ. Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rất hây: “Trong giáo dục, có một sự cân bằng cần được giữ, cân bằng các bước tốt: một bước vững chắc trên khu vực ân toàn, nhưng bước còn lại sẽ đi vào khu vực rủi ro. Và khi rủi ro đó trở thành ân toàn, bước tiếp theo là tìm kiếm một khu vực rủi ro khác. Người ta không thể giáo dục chỉ ở vùng an toàn: không! Điều này là để ngăn chặn nhân cách phát triển. Nhưng cũng không ai có thể giáo dục chỉ ở khu vực rủi ro: điều này quá nguy hiểm. Chúng ta hãy nhớ giữ sự quân bình giữâ các bước đó thật tốt.”20 Hầu hết chúng ta chỉ thích dừng lại ở vùng an toàn, thỏa mãn với những gì ở bề mặt, hài lòng với những gì đã có. Ít âi dám đi xâ hơn, sâu hơn và nhất là dám đặt chân thám hiểu vùng sâu ẩn chứa sự bất nhất và có vấn đề. Việc huấn luyện chỉ được thực hiện “một cách chung chung”, ít cụ thể và chi tiết, nên việc huấn luyện ít có kết quả. Vì thế, điều mà chúng tâ đâng đề cập là cần có sự mạo hiểm từ phíâ nhà đào tạo và cả thụ huấn sinh. Đây không phải là sự đòi buộc từ những người hữu trách củâ cơ chế, nhưng là từ chính Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần hiện diện qua chúng ta và gợi hứng cho chúng tâ cân đảm râ khơi để thả lưới ở chỗ sâu hơn mà bắt được nhiều cá (x. Lc 5,4). Với niềm vui và sáng tạo, cả sự đâu khổ và hy sinh, cùng với niềm đâm mê củâ người ngư phủ, chúng ta hãy mạnh dạn và đừng sợ vì đó là con đường mà Chúa mời gọi để được biến đổi nên giống Chúa. II. ĐỒNG HÀNH ƠN GỌI Giờ đây chúng tâ có thể chuyển sâng đề cập những yếu tố nền tảng cho việc đồng hành ơn gọi và phác họâ chân dung nhà đạo tạo. 20 Đgh. Phânxicô, Discorso agli studenti delle scuole gesuiti in Italia e Albania, 7 tháng 6 năm 2013. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 49 1. Khái niệm, mục đích và biện chứng nền tảng Có nhiều cách định nghĩâ về việc đồng hành, chúng ta chỉ chọn một định nghĩâ dễ dàng chấp nhận hơn trong số đó: “Đồng hành là một sự giúp đỡ tạm thời (têmporânêo) và như phương tiện (strumentale) mà một người làm cho người khác để họ có thể nhận râ hành động củâ Thiên Chúâ nơi bản thân và đáp trả lại hành động này bằng việc dần dần sống kết hợp với Thiên Chúa qua việc bắt chước Chúâ Kitô.”21 Ở đây, chúng tâ không đi vào chi tiết, nhưng chỉ nhấn mạnh đến một số khía cạnh của khái niệm đồng hành. Trước hết, từ này đặt người đồng hành và người được đồng hành ở cùng một phạm vi củâ chính ơn gọi; đồng hành nói lên sự khác biệt được tìm thấy trong kinh nghiệm (về Thiên Chúa, về tiến trình, về thời giân v.v…), đó là sự khác biệt không chỉ về số lượng, nhưng cả chất lượng. Hạn từ “đồng hành” có lẽ phát xuất từ cum-panio trong tiếng La Tinh mà thời Trung Cổ dùng. Nó có nghĩâ là “người có chiếc bánh để chia sẻ.” Như thế, đồng hành là muốn nói đến sự chia sẻ, chia sẻ điều gì đó từ cuộc sống như “củâ ăn đàng,” đó là đức tin, là ký ức về Thiên Chúa, kinh nghiệm về cuộc chiến đấu thiêng liêng, về việc tìm kiếm và cả tình yêu dành cho Người.22 Vì thế, nhà đạo tạo trước hết phải là người có kinh nghiệm về điều mà họ đã “học để học” từ chính cuộc sống mình. Họ phải đạt tới mức độ trưởng thành cần thiết, là người có những phẩm chất cần có mà Ratio nhiều nơi nói đến, để đồng hành với người thụ huấn. 21 A. Manenti, Comprendere e accompagnare la persona umana, EDB, 2016, 205. 22 x. A. Cencini, I sentimenti del Figlio. Il cammino formativo della vita consacrata, Bologna 1998, 48-49. 50 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN Trong số những đòi hỏi này, nhà đào tạo phải là con người thủ đắc sự toàn vẹn về hâi phương diện nhân cách mà chúng đân xên và hòa nhập vào nhâu: “Khíâ cạnh thứ nhất được ân sủng nhào nặn và phú bẩm cho những tài năng và những nét phong phú; khía cạnh thứ hai lại mang dấu ấn của những giới hạn và những nét mỏng giòn.”23 Liên quân đến mầu nhiệm con người mà nhà đào tạo cưu mang, trong Hiến chế Gaudium et Spes, Công Đồng Vaticanô II diễn tả theo một hình thức khác rộng hơn thêo cái nhìn nhân học: “Ngây trong chính con người có nhiều yếu tố mâu thuẫn nhau. Vì một đàng, là thụ tạo, con người nhận thấy mình bị những giới hạn trong nhiều phương diện; nhưng đàng khác, lại cảm thấy mình có những khát vọng vô biên và còn cảm thấy được mời gọi tới một cuộc sống cao cả hơn. Bị lôi kéo bởi nhiều quyến rũ, con người luôn được bó buộc phải chọn lựa một số hoặc loại bỏ một số khác.”24 Đạt tới sự toàn vẹn về các phương diện xung khắc này chỉ có thể có nhờ một sự chấp nhận bình thản và sáng tạo biện chứng nền tảng và liên tục của con tim: biện chứng giữâ lý tưởng ơn gọi (tự siêu việt) và thực tại của bản tính nhân loại (thường là những giới hạn và những đổ vỡ do tội lỗi), giữâ điều phải đạt tới (cái tôi lý tưởng – io idêâlê) và điều đã đạt tới (cái tôi hiện tại – io attuale). Đây là thực tại nghịch lý, bởi vì nó đòi hỏi tình trạng căng thẳng liên tục giữa hai thế giới này. Nói cách vắn gọn, nó đòi hỏi sự ngoan ngùy (docibilitâs) như đã nói trên đây. Chúng ta có thể dùng thái độ củâ Chúâ Giêsu đối với người thanh niên giàu có (Mt 19,16-22) như là kiểu mẫu của việc đồng hành như thế. Chúa Giêsu thấu hiểu sự bất an trong lòng anh, nhưng Người không giải quyết mọi sự như ânh muốn. Trái lại, 23 Bộ Giáo Sỹ, Đào tạo Linh mục, op. cit., số 28. 24 Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 10. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 51 Người đặt ra một câu hỏi mang tính thách thức đến nỗi làm cho ânh rơi vào khủng hoảng: một đàng, Người giúp cho anh khám phá ra rằng lý tưởng cao cả mà ânh ước âo chính là bước theo Chúa Kitô (sêquêlâ Christi), nhưng đàng khác, Người cũng giúp ânh trở về trong sâu thẳm lòng mình để đối diện với những giới hạn, những cản trở chống lại lý tưởng ấy, chính là sự dính bén thái quá với của cải vật chất. Chúa Giêsu mời gọi ânh: “Hãy đi bán tài sản của anh và đêm cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi. Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì ânh ta có nhiều của cải” (Mt 19,21-22). Anh đã làm tất cả, anh có lòng khát khâo chân thành, nhưng ânh chỉ thiếu một điều, là sự dứt khoát từ bỏ điều mình muốn để chọn điều Chúa muốn. Đó là cản trở lớn nhất của việc nên thánh. Người ta chỉ đạt tới sự thánh thiện chỉ khi gắn bó và bước theo Chúa Kitô. Cha Imoda giải thích câu chuyện này thêo hướng huấn luyện: “Sự tương giâo này được xây dựng dựa trên việc giải thích những câu hỏi cũng như cả sự đáp trả hiện tại và trực tiếp của chủ thể, vừa dựa trên những giải thích sâu xâ hơn bâo nhiêu có thể.”25 Hành trình huấn luyện là một hành trình tự siêu việt không bao giờ kết thúc, nhưng kéo dài suốt đời. Càng huấn luyện càng phải đi sâu hơn, đi xâ hơn nhằm tìm kiếm và loại bỏ những cản trở ẩn núp nơi sâu thẳm nhất lòng người. Thật vậy, câu trả lời cho vấn nạn hiện tại luôn làm nảy sinh vấn nạn mới, thường còn quan trọng hơn và thỉnh thoảng làm đảo lộn tất cả chân trời hiện tại, như chúng tâ thấy trong trường hợp củâ người giàu có. Chúng ta hiểu hoán cải là sự đảo lộn chân trời, nên nó là một thực tại nền tảng đối với hành trình huấn luyện. Theo cách thế đó, đồng hành luôn gắn liền với việc phân định và phân định luôn được diễn ra ở phạm vi rộng hơn, trong những hoàn cảnh mới và môi trường mới. Nhà đào tạo ngoan ngùy là 25 F. Imoda, Sviluppo Umano. Psicologia e Mistero, Bologna 2005, 158. 52 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN người không chỉ biết phải nói điều gì, nhưng còn biết tại sao và nói lúc nào nữâ. Điều này có lẽ là không thể nếu không có yếu tố khó khăn mà chúng tâ sẽ nói ở đây. 2. Tương quan Một yếu tố khác rất quan yếu giúp cho việc đồng hành đạt được kết quả đó là vấn đề tương quân giữâ nhà đào tạo và người thụ huấn. Tương quân là một khái niệm rất phong phú xét theo quan điểm triết học, thần học và cả khoa học nhân văn. Râtio nhấn mạnh nhiều lần rằng: Tương quân cá vị với Chúa Giêsu Kitô là cần thiết như nền tảng củâ ơn gọi linh mục. Không thể được biến đổi trong Chúa Kitô nếu không có tương quân mật thiết với Người. Và không thể ở trong tương quân với Chúa Kitô nếu không có tương quân với Nhiệm Thể Người, tức là Giáo Hội và nhân loại, như thánh Gioân nói: “Ai không yêu người anh em mà mình thấy, thì không thể yêu Thiên Chúâ, Đấng không nhìn thấy” (1 Gâ 4,20). Vì thế, chúng ta có thể nói khi nhắc lại lời của Martin Buber rằng: “Ngây từ bân đầu đã có tương quân.” Trước hết là tương quân giữa nhà đào tạo và người thụ huấn, nhưng trên bình diện sâu hơn, có tương quan giữâ người thụ huấn với Thiên Chúa, giữâ người thụ huấn với người khác và thụ tạo. Tương quân liên vị là vấn đề trung tâm của nhiều công trình nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học nhân văn, tâm lý và tâm lý trị liệu. Nhờ những kết quả nghiên cứu này mà chúng ta thấy rõ ràng hơn tầm quan trọng của nó trong việc phát triển nhân cách, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo linh mục. Thêo đó, linh mục trước hết là con người củâ các tương quân, của cộng đoàn. Tương quân không chỉ là khả năng vô thức, nhưng còn là hoa trái của hoạt động ý thức, học hỏi và huấn luyện. Khả năng liên vị bắt đầu từ trong dạ mẹ, sâu đó dần dần lớn lên và trưởng thành, người ta trở nên khác biệt và hoàn hảo. Khi một ứng sinh sống trong chủng viện, anh ta ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 53 đã mâng trong mình một lịch sử dài và những hình thức củâ tương quân, được hình thành từ rất lâu. Vì vậy, nhà đào tạo trước hết phải ý thức về tầm quan trọng của thế giới nội tâm này và phải biết phân định chúng cách tốt đẹp. Đối với người thụ huấn, họ rất cần phải xem lại bản thân để nhận thức khả năng xây dựng tương quân. Họ được mời gọi xây dựng các mối tương quân một cách đúng đắn, ổn định, lành mạnh, nhưng đồng thời, phải có tính linh động, tự do và cởi mở trong môi trường huấn luyện. Họ cần được huấn luyện để biết tạo lập tương quan tốt, tránh hình thức “chuyển cảm” (trânsfêrt), hây tái hiện những tương quân của quá khứ dưới một hình thức mới trong hoàn cảnh mới. Tông huấn Pastores Dabo Vobis nhấn mạnh nhiều đến sự trưởng thành nhân bản của linh mục với những điểm nhấn đặc biệt về khả năng liên vị: “Noi gương Đức Giêsu Kitô là Đấng “biết được những điều chất chứâ trong lòng người” (Gâ 2,25; x. 8,3-11), linh mục cần phải có khả năng hiểu biết sâu xâ lòng trí con người, trực giác được những khó khăn và những vấn đề, tạo điều kiện dễ dàng cho sự gặp gỡ và đối thoại, đạt được lòng tin cậy và sự cộng tác, phát biểu được những phán đoán lành mạnh và khách quân.”26 Hơn 25 năm kể từ khi được phát hành, Tông huấn này vẫn tiếp tục đòi hỏi các ứng sinh, linh mục và cả nhà đào tạo cần phát triển phẩm chất này nơi bản thân. Họ phải được chuẩn bị kỉ càng về các phương diện từ hiểu biết tâm lý, kinh nghiệm mục vụ và đời sống linh mục, để có thể trở thành những bậc thầy có khả năng “hiểu biết sâu xâ lòng trí con người,” họ cần được chuẩn bị lâu dài và chắc chắn để trở thành “con người của những tương quân tốt” khi phục 26 PDV, số 43. 54 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN vụ giữa một môi trường “bá nhân bá tính.” Trong lĩnh vực này, ân sủng nâng đỡ tự nhiên thêo đòi hỏi của nó. 3. Những tác nhân và phương tiện Râtio trong chương VI liệt kê tất cả các tác nhân đào tạo (bắt đầu từ Chúâ Bâ Ngôi, đến Giám Mục và cuối cùng là giáo dân), nhưng vì mục đích của chủ đề này, chúng ta chỉ nói về những nhân vật quan trọng, đó là giám đốc, châ linh hướng và các nhà đào tạo trong chủng viện. Ratio phân biệt một cách rõ ràng các vâi trò này cũng như xác định những bổn phận dành riêng cho họ (RFIS, số 43). Tuy nhiên trong từng vai trò, Ratio nhấn mạnh đến việc cá vị hóâ trong đồng hành. Vì thế, đồng hành được cá vị hóa khi biết xây dựng tương quân thân tình và gần gũi với mỗi người, hiểu biết tường tận lịch sử của từng người, vì tương quân được thiết lập khi có tính hỗ tương. Không thể chờ đợi sự cởi mở và tin tưởng từ phía người thụ huấn, nếu nhà đào tạo thiếu sự trong sáng, tin tưởng đối với thụ huấn sinh. Trong cơ cấu bân đào tạo, dĩ nhiên mỗi vai trò có sự khác biệt riêng, nhưng một cách chính yếu, họ đều cố gắng chăm sóc ơn gọi của các thụ huấn sinh, tất cả đều có một mục đích: “Giúp nhận ra hành động củâ Thiên Chúâ nơi bản thân và đáp trả lại hành động này bằng việc dần dần sống kết hợp với Thiên Chúa qua việc bắt chước Chúâ Kitô.” Để đồng hành hiệu quả, cần đưâ việc đối thoại cá nhân (colloquio pêrsonâlê) vào trong chương trình đào tạo như là phương tiện chính yếu của huấn luyện (x. Vita consecrata, số 66), đây là đối thoại liên vị giữâ nhà đào tạo với người thụ huấn, quâ đó nhà đào tạo thấu hiểu người thụ huấn hơn nhờ sự trâo đổi và chia sẻ lịch sử ơn gọi của họ, đồng thời nhà đạo tạo có thể chia sẻ kinh nghiệm mình, hướng dẫn xây dựng nhân cách và căn tính linh mục ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 55 của thụ huấn sinh. Nhà đào tạo hiện diện như một người biết lắng nghê cách chăm chú, thông minh, có khả năng phán đoán đúng đắn, ngài làm mọi sự với lòng yêu mến chân thành – đó là những phẩm chất thiết yếu củâ nhà đồng hành. Bản chất kinh nghiệm có thể khác nhâu, nhưng sự khác biệt được thiết lập bởi người biết lắng nghe và đặt những câu hỏi đúng lúc. Điều đó sẽ giúp làm phát sinh một chân trời mới trong đó người thụ huấn được mời gọi tiến bước. Kinh nghiệm có thể thuộc mục vụ, tri thức, luân lý và tu đức… để chia sẻ. Nhờ cuộc gặp gỡ đồng hành, người thụ huấn được lớn lên trong khả năng “học để học” như từ docibilitas diễn tả. Ratio nhấn mạnh rằng nhà đào tạo phải làm việc trong phạm vi khả năng mình, nhưng con người là một thực tại toàn thể: Mỗi người có một phạm vi bổ túc và phối hợp chặt chẽ với nhau trong toàn bộ chương trình huấn luyện. Đội ngũ các nhà đào tạo trước hết phải là một cộng đoàn huynh đệ và giúp đỡ lẫn nhau. Nếu các nhà đào tạo hiệp nhất với nhau trên bình diện huấn luyện, thì công việc huấn luyện đã đạt được 50% thành công rồi. Bởi thế, giữa họ cần tránh sự chia rẽ và mâu thuẫn nhau về chương trình huấn luyện. Nhưng tất cả cùng ở trên “một trang giấy” hây cùng ở trên một con đường huấn luyện. Đới với thụ huấn sinh, nhà đào tạo phải biết trong sâu thẳm người thụ huấn cũng như cả lịch sử cá nhân của họ (x. RFIS 94), cả những cảm xúc bên trong họ. Trong việc đồng hành, mỗi người cố gắng hiểu biết chính mình, chấp nhận chính mình để được biến đổi thêo ý định củâ Chúâ Châ trong Chúâ Con. Điều này không thể thực hiện nếu những cuộc gặp gỡ cá nhân không phải một yếu tố thường xuyên, liên tục, phải có mục đích và phương pháp rõ ràng (x. VC, 66). Để được như thế, chúng ta phải dành nhiều thời gian, kiên nhẫn và điều độ. Cần có lịch cụ thể và chủ đề huấn luyện cho cuộc gặp gỡ cá vị như thế. Đặc biệt, cần học hỏi sư phạm đồng hành. Điều quan trọng mà mỗi người cần ý thức rằng gặp gỡ đồng hành là việc làm hữu ích, sống động và quan trọng cho tiến trình 56 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN huấn luyện, chứ không phải việc phải làm cho có. Nên chúng ta cần chấm dứt kiểu hình thức huấn luyện củâ ngày xưâ, đó là giám đốc chỉ gặp chủng sinh một lần vào những dịp lễ rất long trọng, hay cha linh hướng chỉ giới hạn việc gặp gỡ vài lần mỗi năm. Nên họ biết rất ít về người thụ huấn. Là nhà đồng hành có nghĩâ là người hiện diện rất thân tình và huynh đệ với nhâu thường xuyên ở chính bàn ăn, trên lớp học, trong nhà nguyện và cả trên sân chơi…, họ sống cởi mở với nhau một cách thân thiện và trong sáng. Các chủng sinh cũng cần tránh thái độ sợ hãi, trốn tránh và khép nép khi gặp nhà đào tạo. Đó là thái độ thiếu trưởng thành. Tương quân lành mạnh, thân thiện và trong sáng thật cần thiết đối với nhà đào tạo cũng như người thụ huấn. Mỗi người được mời gọi tạo cho mình có “khả năng gần gũi với người khác và cả khả năng để cho người khác gần gũi mình.” III. PHÂN ĐỊNH Tôi buốn bắt đầu phần cuối cùng của bài viết này với sự quy chiếu của Ratio từ cuốn Linh Thao của thánh Ignatio (RFIS, số 43). Ratio trích dẫn số I của Linh Thao thiết lập một chỉ dẫn đơn sơ nhưng ý nghĩâ cả cho hành trình tu đức và phân định. Chúng tâ được mời gọi tham dự những cuộc linh thao với nhiều hình thức khác nhâu để “chuẩn bị tâm hồn cho việc giải phóng mình khỏi mọi tình trạng dính bén lệch lạc và sâu khi đã tránh được chúng, sẽ tìm kiếm và thấy được ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc đời nhằm mưu ích cho linh hồn mình.”27 Thêo cái nhìn này liên quân đến đời sống tu đức, chúng ta có thể lưu ý hâi thời điểm phù hợp với cái nhìn rất kinh điển: trước hết là giâi đoạn tiêu cực và khổ chế (con đường thanh tẩy hay tôi 27 Ignatio Loyola, Linh thao, 1. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 57 luyện) và thứ đến là giâi đoạn tích cực và huyền bí (con đường ánh sáng và nhiệm hiệp). Tất cả hành trình ơn gọi có thể tóm tắt trong hâi giâi đoạn này, nhưng trước khi bàn về một vài điểm đặc biệt, chúng ta cần trình bày chân dung mới mẻ củâ nhà đào tạo trước hết phải là “bậc thầy củâ phân định.” 1. Thầy của phân định Phương tiện đầu tiên và dĩ nhiên “tiêu chuẩn” phân định chính là con người củâ nhà đào tạo. Nhân cách của họ càng mạnh khỏe và thánh thiện, càng tự do thoát khỏi sự thiếu trưởng thành của bản thân, càng phù hợp với mục tiêu phân định. Ở đây, chúng tâ có thể nhắc lại câu nói nổi tiếng củâ Lonêrgân: “Tính khách quân là kết quả của tính chủ quan đích thực,”28 nghĩâ là tính chủ quan liên tục được biến đổi thêo lý tính, luân lý và đạo đức; hay chủ thể quan sát, hiểu, đánh giá và hành động một cách mới mẻ theo mức độ luôn mới, học hỏi từ những sai lầm của mình nhằm có những quan sát mới, hiểu biết mới, phán đoán mới, hành vi có trách nhiệm hơn, học hỏi từ những điều logic và phi logic, cũng như điều thuộc lý tính và thực tế. Như thế, tâm điểm củâ phân định chính là con người, chứ không phải là quy tắc, lề luật hay tiêu chuẩn. Phụng vụ lễ truyền chức làm sáng tỏ điều này, khi giám mục hỏi giám đốc về tiến chức liên quân đến tính phù hợp của ứng viên cho chức linh mục. Ở đây, Giáo Hội đòi hỏi sự phù hợp hay sự xứng đáng của tiến chức, nghĩâ là nơi con người tiến chức, chứ không hỏi về bằng cấp hay những thành quả khác. Làm sâo chúng tâ đạt tới tính chủ quân đích thực? Không có con đường nào khác ngoài việc thám hiểm một cách chú ý, lý tính, phê bình và say mê về kinh nghiệm bản thân. Ratio trong nhiều nơi 28 Cf. B. Lonergen, Metodo in Teologia, Roma, Città Nuova 2001, 296-297: “L’oggêttività è il risultâto dêllâ soggêttività âutênticâ.” 58 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự hiểu biết lịch sử cá nhân của người thụ huấn. Nếu điều này là quan trọng đối với người thụ huấn thì còn quan trọng hơn đối với nhà đào tạo. Nhà đào tạo trước hết phải là một người biết rõ về đời sống của mình và chỉ có thể trở thành như thế nếu ngài đón nhận từ chính lịch sử cá nhân và sống lịch sử đó thêo ánh sáng của Chúa Thánh Thần để được biến đổi. Để làm sáng tỏ mục tiêu của tiến trình này, tôi mạn phép dùng một dẫn chứng hơi sốc. Trong một cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Stêllâ đã đi đến kết luận rất thú vị về cuộc nghiên cứu nội bộ do Bộ Giáo Sỹ thực hiện về những áp dụng liên quân đến việc tháo gỡ những đòi buộc khỏi bí tích truyền chức. Một trong những kết quả mà nghiên cứu này mang lại là: “Có khá nhiều trường hợp trong đó hành trình huấn luyện không được thực hiện một cách nghiêm túc, hoặc có những dấu chỉ tiềm ẩn cho những khủng hoảng tương lâi; không dễ dàng một người bổng nhiên trở nên “mát mát,” hoặc trở thành thối nát một cách bất ngờ mà chưâ bâo giờ tồn tại trước đó.”29 Những lời này là sự thật. Nó cũng đúng khi hiểu một cách ngược lại đối với những ai sống tốt ơn gọi của mình, họ sẽ mang lại những hoa quả tốt. Vì người ta không bỗng nhiên trở thành quỷ dữ, cũng không bỗng nhiên trở thành thánh nhân, tất cả là kết quả của một quá trình. Có nhiều trường hợp mà trong suốt hành trình huấn luyện không xuất hiện những khó khăn và khủng hoảng. Tuy nhiên, đến lúc nào đó, chúng lại xuất hiện trong đời. Khủng hoảng là một phần của mỗi lịch sử ơn gọi và trong mỗi lịch sử ơn gọi có những lúc phải 29 Interview with the Prefect of the Congregation for the Clergy His Eminence, Beniamino Cardinal Stella, http://www.clerus.va/content/clerus/en/notizie/new3.html, Osservatore Romano, 7 December, 2016. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 59 đối diện với nguy hiểm và cả cơ hội. Điều quyết định sự khác biệt là khả năng biến đổi những giây phút đó thành cơ hội để lớn lên. Đó là khả năng mà chúng tâ gọi là phân định, hay khả năng nhận ra hành động củâ Thiên Chúâ và đáp trả lại hành động ấy. Điều này thường cần đến sự giúp đỡ củâ người khác. Không ít khi chúng ta nhận ra nghịch lý kép này: nhờ những khủng hoảng mà lịch sử ơn gọi trở thành lịch sử cứu độ và trở thành một trang mới của Tin Mừng. Nhiều chứng tá như thế mà chúng ta có thể gặp trong các phong trào đặc sủng. Nhưng với tư cách là nhà đào tạo, chắc chắn chúng tâ đã gặp và giúp đỡ nhiều người thụ huấn có vấn đề, nhưng nhờ ơn Chúâ và cố gắng, họ đã trở thành linh mục tốt và hữu ích cho Giáo Hội. Cuộc đời mỗi người được đánh dấu bởi chính sự năng động mà họ kinh nghiệm không chỉ từ những lúc bình yên vô sự mà cả những lúc gặp sóng gió thử thách. Tất cả có thể là cơ hội giúp chúng ta lớn lên. Cả những nhân vật trong Tin Mừng cũng cho thấy khiếm khuyết nơi họ, chẳng hạn như thánh Phêrô. Nhưng họ đã được ơn Chúa biến đổi và nhờ thiện chí của bản thân. Con đường đầu tiên mà Giáo Hội phải đi đó là chính con người. Con người “là con đường đầu tiên và nền tảng của Giáo Hội, con đường ấy được đánh dấu bởi Chúâ Kitô, con đường ấy phải qua mà không thể thây đổi nhờ mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.”30 Việc lớn lên luôn qua hai giâi đoạn này củâ đời sống tu đức: giâi đoạn khổ chế, là giải thoát mình khỏi tội lỗi hay những dính bén lệch lạc, đón nhận những giới hạn v.v… và giâi đoạn thần bí là khám phá ý Chúa trong một hoàn cảnh mới và bước thêo Người. 30 ĐGH. Gioân Phâolô II, Redemptor Hominis, 14. 60 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN 2. Tự do khỏi những dính bén lệch lạc Đối với những ai hiểu biết về Linh Thao của thánh Ignatio rõ ràng người được mời gọi tới thiên chức linh mục là người “của tuần thứ hâi,” nghĩâ là một người đâng tìm kiếm điều thiện hảo, người đã cảm nhận lời mời gọi của Vua hằng hữu và người đã khám phá ơn gọi linh mục của mình rồi. Điều này giả thiết rằng họ đã vượt qua khỏi những tội nặng, nghĩâ là có một đời sống trật tự, tự do, không vướng mắc tội trọng. Nếu điều này có giá trị với người thụ huấn, thì đồng thời cũng có giá trị đối với nhà đào tạo. Để không xảy râ nơi họ một đời sống vô trật tự và bất ổn một cách sâu xa. Sự thanh tẩy củâ giâi đoạn này hệ tại ở việc giải thoát mình khỏi những dính bén lệch lạc. Đây là một đề tài rất tế nhị, bởi vì những dính bén lệch lạc này thường không được nhận biết từ chính đương sự. Chúng tâ đã thấy trong trường hợp người giàu có: dính bén lệch lạc của anh xuất hiện không chỉ ở trên bình diện anh ta gắn bó với của cải thế giân, đây chỉ là bên ngoài của vấn đề. Nhờ những can thiệp của Chúa Giêsu, anh ta khám phá ra mình đâng có một sự gắn bó rất tinh vi: đó là gắn bó với chính tiến trình và cái nhìn về sự trọn lành. Anh ta tỏ ra buồn bã bởi lẽ, ânh đã khám phá ra sự quy ngã của mình – anh chỉ muốn mình là tác giả của sự nên trọn lành cho mình (“Tôi phải làm gì?” x. Mt 19,26). Nên ânh đã không thể bước thêo Chúâ. Đó là cám dỗ của tất cả chúng tâ và đó cũng là kẻ thù nguy hiểm của sự nên trọn lành. Tất cả những dính bén lệch lạc có cùng một đặc điểm này: chúng ta muốn mình là ông chủ đời mình và khi chúng ta khám phá sự đòi hỏi quyết liệt bước theo Chúa Kitô, chúng ta cảm thấy sửng sốt và buồn phiền. Những dính bén lệch lạc này mà các nhà tâm lý gọi đó là sự bất nhất vô thức nền tảng (inconsistenze inconsce centrali) – đó là những hình thức dối trá của những âi bước theo Chúâ Kitô. Đó là người loan báo những giá trị của Chúa Giêsu một cách ý thức, nhưng một cách ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 61 vô thức họ tìm kiếm và thỏa mãn những nhu cầu quyền lực, danh vọng và sở hữu. Chủ nghĩâ duy hình thức này thường là không phải tội lỗi, bởi vì thuộc vô thức, nhưng nó không ngừng ảnh hưởng trên ý nghĩâ phục vụ củâ chúng tâ cho Nước Trời. Hơn thế nữa, nó tạo nên một vùng mà việc huấn luyện thường quên lãng, nơi đó, những lối huấn luyện cổ điển không mang lại kết quả cho đương sự ở phạm vi này. Đó là “con quỷ” nấp mình dưới những hình thức và động lực thánh thiện. Vì thế, cần phải làm sáng tỏ và được biến đổi trên hành trình theo Chúa. 3. Thần bí trong hành động Ai dám cho rằng mình được tự do khỏi những dính bén lệch lạc như thế để được tự do khám phá và thực thi ý Chúa. Chúng ta có thể nói về sự thần bí của ý muốn, nghĩâ là muốn điều Thiên Chúa muốn. Đó là ý nghĩâ của khái niệm “thần bí trong hành động.” “Nếu chúng ta thực sự kết hợp với Thiên Chúa chỉ bằng ý muốn. Ý muốn chung quy lại là sự tự do và sự tự do là nền tảng của hiện hữu. Điều này không có nghĩâ là chúng tâ thỉnh thoảng suy nghĩ về Thiên Chúa, khi chúng ta chuẩn bị nấu ăn. Nhưng mỗi hành động củâ chúng tâ là ý Chúâ. Và khi đó tất cả là ý Chúa, Thiên Chúa ở trong đó, chúng tâ làm điều Thiên Chúa muốn.”31 Ai là người tự do với chính mình để có thể gắn bó hoàn toàn với Chúâ Giêsu: hành động của họ sẽ là tình yêu đích thực, họ sẽ quên mình, không có ghen tỵ với người khác, việc hiến dâng của họ không để được ca ngợi, họ không còn yêu cầu sự nhận biết và ưu tiên, hay khích lệ từ người khác. Trái tim họ - như Râtio nói – sẽ được biến đổi theo hình ảnh của trái tim Chúa Kitô (số Ratio, số 89). Được biến đổi bởi Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần theo hình ảnh Chúâ Kitô (con đường ánh sáng và nhiệm hiệp) có nghĩâ là 31 E. Varillon, Traversate di un credente, Milano 2008, 270. 62 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN bước thêo Người trong đời sống ẩn dật và công khai (tuần thứ hai của Linh Thao), tử nạn và chết (tuần ba) và cuối cùng là phục sinh (tuần bốn). Không có con đường nào khác ngoài con đường được Tin Mừng diễn tả: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất, mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt” (Gâ 12,14). Sự biến đổi hay biến hình (Ratio thích dùng từ: đồng hình đồng dạng) có nghĩâ là chết và phục sinh, vì chết là một dạng và sự phục sinh là dạng khác. Hành trình này là cuộc vượt qua của chúng ta. Kết luận Chúng tâ đâng đối diện với một sứ vụ rất quan trọng và khó khăn. Như các môn đệ của của Chúa Giêsu (Mt 13,52), chúng ta được mời gọi lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng nói với chúng ta qua những dấu chỉ mới mẻ của thời đại, vừa qua Kinh Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền. Một nhà đạo tạo đích thực là người luôn quan tâm và canh tân kinh nghiệm sống của mình: Kinh nghiệm về Thiên Chúa, về con người và về thế giới. Kinh nghiệm đó mâng lại cho ta sự hiểu biết mới mẻ và lòng mến nồng nàng hơn để dấn thân phục vụ. Ratio mời gọi chúng ta sống kinh nghiệm huấn luyện và để cho mình được biến đổi nhờ kinh nghiệm này. Đã đến lúc chúng ta phải loại bỏ những “bầu dâ cũ,” tức là lối huấn luyện cũ, để tiếp nhận những “bầu da mới,” là những phương pháp huấn luyện mới, ngõ hầu mỗi người chúng ta trở thành những khí cụ vừa tay hay thợ gốm lành nghề trong sứ vụ đào tạo, để có thể giúp đỡ và hướng dẫn người khác đến với Chúa, dẫu biết rằng chúng ta chỉ là những tôi tớ vô dụng bất tài. Khi đã cố gắng hết mình, cuối cùng chúng ta có thể bình thản nói rằng: “Chúng tâ đã làm những gì phải làm” (Lc 17,10). ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 63 BÀI VIẾT 5 NGHỆ THUẬT ĐỒNG HÀNH ƠN GỌI LINH MỤC Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương Dẫn nhập Cha Anthony de Melo kể lại một câu chuyện rất ý vị: Một ngày nọ, có một chú chuột đi kiếm ăn. Chuột ta thấy một miếng thịt bò ở trong một tủ đựng thức ăn. Chuột tìm cách đề vào nhưng không có cách gì vào trong được. Tìm hết cách, bổng nhiên, chú chuộc phát hiện ra ở phíâ dưới của tủ, có một lỗ thông khí, nên nghĩ là sẽ chui vào trong được. Nhưng khổ nổi, lỗ thì nhỏ mà mình chuột thì to quá; sau bao nhiêu cố gắng cũng bất thành. Chuột mới phát sinh một sáng kiến, để vào trong đó, cần phải nhịn ăn để mình nhỏ lại. Thế là chuột đã nhịn ăn mấy ngày, và cuối cùng chuột thành công. Chú vào trong và ăn hết miếng thịt bò cách ngon lành. Sâu khi ăn xong, chuột lại mập ù lên và không thể nào thoát râ được. Thế là chuột lại phải tìm diệu kế ăn kiêng, cuối cùng đâu vào đấy, chú chuột gầy ra và thoát chết sâu khi được miếng thịt bò. Câu chuyện ngụ ngôn có thể giúp chúng ta xem lại quan niệm về thiên chức linh mục. Chức linh mục không phải như “miếng thịt bò trong mắt chuột”, cũng không phải là phần thưởng, “đặc ân” hây địa vị, bằng mọi cách, với mọi giá, “chấp nhận nín thở qua sông” để tìm kiếm và chiếm giữ cho bằng được, khi đạt được rồi thì muốn sống thế nào thì sống. Nhưng trở thành linh mục là sự đáp trả tình yêu cho một lời gọi cao quý của Thiên Chúa qua một quá trình rèn luyện, biến đổi mình nên giống Chúa Kitô, khuôn mẫu lý tưởng của linh mục. Không ai có thể tự nhiên là thánh, cũng không âi có thể tự nhiên là quỷ, thánh hay quỷ là một quá trình trở nên. Ơn gọi linh 64 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN mục cũng thế. Trở nên linh mục, cần phải trải qua một quá trình huấn luyện bởi, trong và cho Giáo Hội. I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA Trong tiến trình huấn luận, có ba hạn từ quan trọng mà chúng ta cần đặc biệt lưu tâm, đó là: giáo dục (education), huấn luyện (formâtion) và đồng hành (âccompâgnâmênt). Educêrê có nghĩâ là dẫn ra, phân biệt, làm cho rõ. Áp dụng trong đào tạo, nó có nghĩâ là đào bới, kéo râ, là đưâ râ ánh sánh sự thật về mình, giáo dục là giúp biết mình, giúp khám phá cái tôi hiện tại (actual self) củâ người thụ huấn. Hạn từ huấn luyện trong tiếng Lâtinh dùng động từ formare, có nghĩâ là “đưâ râ một khuôn mẫu, tạo một hình thức mới để trở nên.” Huấn luyện là tạo nên căn tính mới, đời sống mới nơi ứng sinh, là tạo nên cái tôi lý tưởng (idêâl sêlf). Thêo nghĩâ này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện mình (self-realization), mà còn là năng động tự siêu việt bản thân (self-transcendence) theo một khuôn mẫu lý tưởng là Đức Kitô. Còn hạn từ đồng hành (accompagnament) từ thời Trung Cổ, trong tiếng Latinh dùng là từ “cum-panio”, có nghĩâ là chung một tấm bánh. Tự bản chất, đồng hành có nghĩâ chiâ sẻ. Thêo ý nghĩâ này, đồng hành là muốn nói đến sự chia sẻ, chia sẻ điều gì đó từ cuộc sống như “củâ ăn đàng,” đó là đức tin, là ký ức về Thiên Chúa, kinh nghiệm về cuộc chiến đấu thiêng liêng, về việc tìm kiếm và cả tình yêu dành cho Người.32 Thêo ý nghĩâ thần học, huấn luyện linh mục là công trình của Ba Ngôi: Chúa Cha giáo dục, Chúa Con huấn luyện và Chúa Thánh Thần đồng hành. 32 x. A. Cencini, I sentimenti del Figlio. Il cammino formativo della vita consacrata, Bologna 1998, 48-49. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 65 Thêo ý nghĩâ Giáo Hội học, huấn luyện là sứ vụ được giáo phó cho các nhà đào tạo và là trách vụ của các ứng sinh. Sứ vụ này được cụ thể hóa trong việc đồng hành ơn gọi. Có nhiều cách định nghĩâ về việc đồng hành thiêng liêng, trong số đó, chúng tâ chỉ chọn một định nghĩâ được nhiều người đón nhận. Đó là định nghĩâ củâ châ Mânênti SJ.: “Đồng hành là một sự giúp đỡ tạm thời (têmporânêo) và như phương tiện (strumentale) mà một người làm cho người khác để họ có thể nhận râ hành động của Thiên Chúâ nơi bản thân và đáp trả lại hành động này bằng việc dần dần sống kết hợp với Thiên Chúa qua việc bắt chước Chúâ Kitô.”33 Liên quan đế vấn đề này, Bộ Giáo Sỹ nói rất chí lý như sâu: “Trong các giâi đoạn khác nhau của tiến trình đào tạo, chủng sinh cần những người có trách nhiệm về đào tạo đồng hành cách riêng, mỗi vị theo vai trò và thẩm quyền riêng của mình. Mục đích của việc đồng hành cá nhân là giúp phân định ơn gọi và đào tạo người môn đệ truyền giáo.”34 Khi nói đến những phương tiện đào tạo, Bộ Giáo Sỹ nói đến hai hình thức của việc đồng hành cá nhân và cộng đoàn: Về việc đồng hành cá nhân, Râtio hướng dẫn: “Vì nhắm đến sự ngoan ngùy (docibilitâs) đối với Chúa Thánh Thần, nên việc đồng hành riêng với từng người là một phương tiện đào tạo thiết yếu. Những cuộc trâo đổi riê ng (colloquio pêrsonâlê) với cấc nhầ đầo tậo phẩi được diễn râ đều đâ ̣n vầ thường xuyê n. Như vâ ̣y, trong thấi đo ̣ ngoân ngùy với Chú â Thấnh Thần, chủng sinh sễdần dần nê n gióng Chú â Kito . Viê ̣c đòng hầnh nầy phẩi đưâ vầo mọi khíâ cậnh củâ nhâ n cấch vầ phẩi giấo dục đểchủng sinh biết lấng nghê, biết đói thoậi, biết ý nghĩâ đích thự c củâ đức vâ ng lời vầ đật được sự tự do no ̣i tâ m. Mõi 33 A. Manenti, Comprendere e accompagnare la persona umana, EDB, 2016, 205. 34 Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục. Hồng Ân và Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, 2016, số 44. 66 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN nhầ đầo tậo, thêo lẫnh vự c vầ thẩm quyền riê ng, có nhiê ̣m vụ giú p chủng sinh ngầy cầng sâ n sầng đói với tấc đo ̣ng củâ â n sủng, đòng thời sấng suót vềchính con người mình, vềnhững tầi nâ ng đẫ lẫnh nhâ ̣n vầ cẩ vềnhững mỏng giò n nơi chính mình.”35 Vềthời giân đòng hầnh, Bo ̣ Giấo Sỹkhuyê n: “Viê ̣c đòng hầnh phẩi được thự c hiê ̣n từ lú c khởi đầu củâ tiến trình đầo tậo vầ suót cẩđời, mâ ̣c dù sễđược lầm thêo mo ̣t cấch khấc sâu khi chịu chức.”36 Bo ̣ Giấo Sỹcò n nó i đến viê ̣c đòng hầnh co ̣ng đoần: “Đời sóng co ̣ng đoần phẩi ẩnh hưởng trê n mõi chủng sinh, thânh lọc ý hướng củâ họ, biến đỏi cấch sóng củâ họ, đểtừng bước họ nê n đòng hình đòng dậng với Chú â Kito .” Chủng viê ̣n lầ “ngo i nhầ vầ trường củâ tình hiê ̣p tho ng vầ có được mói hiê ̣p tho ng từ sự hiê ̣p tho ng củâ Chú â Châ, Chú â Con vầ Chú â Thấnh Thần, linh mục được mời gọi trở nê n ‘con người củâ hiê ̣p tho ng.’ Vì vâ ̣y, ở chủng viê ̣n, những mói dâ y liê n kết được dê ̣t nê n giữâ nhầ đầo tậo vầ chủng sinh cũ ng như giữâ chính chủng sinh với nhâu phẩi mâng đâ ̣m dấu ấn tình phụ tử vầ tình huynh đê ̣.”37 II. MÔ HÌNH ĐỒNG HÀNH Có nhiều mô hình đồng hành như mô hình đồng hành của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông (x. Ga 1,29; 3,30), mô hình Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (x. Ga 4,5-15) v.v…, nhưng sâu khi suy nghĩ và bàn luận, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về giới trẻ (2019) đã chọn mô hình đồng hành Emmâus để áp dụng cho việc huấn luyện người trẻ.38 35 Ibidem, số 45-46. 36 Ibidem, số 48. 37 Ibidem, số 50.52. 38 Trong ĐGH. Phânxicô, Tông Huấn Chúa Kitô đang sống, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM 2019, số 291-297. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 67 Thêo đó, Chúâ Giêsu đã thực hiện một cuộc hành trình với hai môn đệ trên đường về Emmaus. Sự đồng hành này là hình tượng của mọi hình thức đồng hành trong đức tin. Thêo đó, Chúâ Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với hâi môn đệ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy râ, đi vào trong đêm tối của họ và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sâu đó, cùng với họ Người “bẻ bánh,” họ nhận râ Người, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng ra và liền quay trở về Giêrusâlêm để loan báo cho mọi người biết Chúâ đã sống lại (Cf. Lc 24, 13-35).39 Thêo mô hình này, đồng hành là một tiến trình, trong đó có thể phân biệt bâ giâi đoạn, hây có 3 năng động: Nhìn (Vedere), hiểu (Comprêndêrê) và hành động (Agire), hay nói cách khác có ba bước đồng hành: khởi đầu, cùng hợp tác và kết thúc. 1. Nhìn (Vedere), “Người cùng đi với họ” (Lc 24,17-24) Như Chúâ Giêsu đã làm trên hành trình Emmâus, đồng hành là nghệ thuật tiếp cận, tiến lại gần, đi bên cạnh với một người được đồng hành, để nhận diện và tình trạng đời sống, cũng như thấy vấn đề của họ nhờ sự quan sát. Trong giân đoạn khởi đầu này, trước hết, nhà đồng hành và người được đồng hành cần tạo những mối tương quân gần gũi, thân thiện, tin tưởng và cởi mở với nhâu. Đặc biệt hai bên tạo nên “môi trường tin tưởng và chân thành” với nhau. Sâu đó, cần xác định phạm vi đồng hành: về thời gian, lúc nào, bao nhiêu lần? Đâu là mục đích của việc đồng hành thiêng liêng (ơn gọi); vai trò củâ nhà đồng hành (khác với vai trò củâ giám đốc, giáo sư, giám học, quản lý…). 39 Cf. Sinodo dei Vescovi XV, Documento finale, Giovanni, Fede e Discernemento vocazionale, Vaticano 2018, n.4. 68 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN Để việc đồng hành hiệu quả, cần tìm hiểu về lịch sử ơn gọi, lịch sử đời sống của ứng sinh, đọc lại hồ sơ của họ để hiểu biết họ đầy đủ hơn. 2. Thấu hiểu (Comprendere), “mắt họ liền mở ra” (Lc 24,25-27) Nhờ sự gần gũi lắng nghe và chia sẻ dưới ánh sáng Lời Chúa, Chúâ Giêsu làm cho hâi môn đệ trên đường về Emmaus thấu hiểu những gì đâng xảy ra và ý nghĩâ của các biến cố trong cuộc sống của họ. Chúa thấu hiểu nỗi buồn, sự thất vọng và dự định của họ sau biến cố thập giá. Đồng hành là nghệ thuật tiếp cận để thấu hiểu một hoàn cảnh, một vấn đề củâ người được đồng hành trong toàn bộ đời sống của họ. Trong đồng hành, Lời Chúâ đóng vâi trò rất quan trọng trong việc soi sáng để nhận biết thực tại và đương sự. Sự hiểu biết này không thể là sơ sài, hời hợt, bên ngoài, nhưng là sự hiểu biết đúng, đầy đủ và sâu xa; hiểu rõ hoàn cảnh, tình trạng và vấn đề của người thụ huấn, cùng nhâu đào bới, đưâ râ ánh sáng sự thật về mình, tìm hiểu lý do, nguyên nhân và hậu quả củâ chúng để tìm giải pháp và quyết định thây đổi dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đây là giâi đoạn hợp tác giữa hai bên. Chỉ khi tương quân đồng hành được thiết lập cách ổn định và lành mạnh, chúng ta mới có thể thực hiện việc khám phá bản thân để hiểu biết mình. Trong giâi đoạn này, đồng hành là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác nếp sống, các hành vi, thái độ sống, thói quên, tâm tư, tình cảm, cảm xúc, động lực bên trong, chọn lựa nền tảng; giúp nhận diện những sở thích, sở trường, các phản ứng, phán đoán trước một hoàn cảnh v.v… Tất cả những điều này có phù hợp với các giá trị Tin Mừng và lý tưởng linh mục không? ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 69 Quá trình đồng hành là cố gắng giúp ứng sinh khám phá những bất nhất nền tảng thuộc vô thức, nghĩâ là làm cho người thụ huấn ý thức về điều mà họ đâng sống trong cách thế vô thức và giải quyết những bất nhất nền tảng vô thức đó. 3. Hành động (Agire), “họtrởlại Giêrusalem” (Lc 24,28-35) Sâu khi đã gần gũi, chiâ sẻ với họ, Chúâ Giêsu cùng cử hàng lễ Bẻ Bánh, nhờ Lời Chúâ và Thánh Thể, mặt họ sáng râ, lòng họ bừng cháy lên lửâ yêu mến và lòng nhiệt thành tông đồ, họ nhận râ Chúâ đã phục sinh và quây trở lại Giêrusâlêm để loân báo cho mọi người. Mục đích củâ đồng hành là giúp người thụ huấn nhận râ chính Chúâ đâng hiện diện trong cuộc sống mình, nhờ sự chiâ sẻ kinh nghiệm đức tin, nhờ Lời Chúâ và cử hành Thánh Thể, họ càng ngày càng giâ tăng lòng yêu mến Chúâ và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho tha nhân. Trong giâi đoạn cuối này, đồng hành là cùng nhâu đưâ râ chương trình hành động, là tìm râ giải pháp cho vấn đề đâng xảy râ trong họ. Trong giâi đoạn này, huấn luyện là tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ sống mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn củâ chính Chúâ Kitô. Ở đây, mầu nhiệp thập giá và mầu nhiệm phục sinh gắn liền nhâu. Phải quâ hy sinh, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh phục sinh con người mới trong Đức Kitô nhờ Thánh Thần. Nghĩâ là trở nên đồng hành đồng dạng với Chúâ Kitô, là Đầu và Mục Tử. Nhà đồng hành cần khôn ngoân biết dành khoảng trống cho người được đồng hành tự đảm nhận trách nhiệm củâ mình, tự quyết định và hành động để thây đổi cuộc sống mình tốt hơn. Nhà đồng hành cuối cùng cũng phải như Gioân Tẩy Giả, nghĩâ là ý thức 70 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN mình là người dọn đường, người dọn chỗ, mà không chiếm giữ họ, nhưng vui vẻ với sứ vụ củâ mình là “bạn củâ chàng rể”: “Giờ đây, niềm vui củâ tôi được trọn vẹn. Người phải lớn lên, con tôi phải nhỏ lại” (Gv 3,30). Ngày nây trong sư phạm giáo dục, người tâ thích nói đến vâi trò chủ động củâ người thụ huấn, nhờ sự đồng hành, cuối cùng họ được mời gọi trở nên tự trưởng thành, người có khả năng tự đứng vững trên đôi chân củâ mình, dù phải đối diện với những khó khăn thử thách. III. NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ THÁI ĐỘ ĐỒNG HÀNH Ai trong chúng ta muốn hay chấp nhận đồng hành với một người nào đó trên hành trình tiến tới sự trưởng thành thiêng liêng và tự do nội tâm, người ấy cần phải được cảm hứng bởi một quan niệm tích cực về con người và mở ra giá trị hướng tới sự siêu việt. Thêo quân điểm triết học, con người không được nhìn như là một vấn đề (problèmê), nhưng là một huyền nhiệm (mystère) (x. Grabriel Marcel). Thêo quân điểm Kinh Thánh, con người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Bởi thế, người tâ không được phép giảm thiểu con người chỉ là vấn đề. Con người cưu mâng trong mình nguồn lực phong phú vô tận mà Thiên Chúa phú bẩm và những khát vọng vô biên, hướng tới sự tự siêu việt bản thân, tới giá trị cao cả. Nhưng nơi con người cũng mâng dấu ấn của những giới hạn và những nét mỏng giòn: bất toàn, yếu đuối, sợ hãi, tội lỗi v.v… Đây là thực tại nghịch lý hiện hữu trong chính con người. Mỗi ứng sinh là một “mầu nhiệm” đối với chính mình (Ratio 28). Để thực hiện tốt việc đồng hành, nhà đào tạo và cả người thụ huấn cần có những phẩm chất và thái độ thiết yếu cho công việc này. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 71 1. Đòi hỏi từ phía nhà đồng hành Về phẩm chất, Bộ Giáo Sỹ đòi hỏi: “Các nhà đào tạo được mời gọi giữ kín về những gì liên quan đến cuộc đời chủng sinh. Nếu muốn đồng hành một cách đúng đắn, quân bình, với thái độ kính trọng sự tự do và lương tâm củâ người khác, cũng như giúp cho sự phát triển nhân bản và thiêng liêng của họ, thì mỗi nhà đào tạo phải có những điều kiện thích hợp và những khả năng về nhân bản, thiêng liêng, mục vụ và chuyên môn xứng đáng… Ngoài râ, bất cứ âi được trao cho trọng trách đào tạo cũng phải được chuẩn bị một cách chuyên biệt và phải có lòng tận tụy quảng đại. Nhà đào tạo phải hiện diện toàn thời gian, và trước hết, họ phải là chứng nhân qua lòng yêu mến và phục vụ dân Chúa, bằng cách xả thân hết mình cho Giáo Hội mà không tính toán” (số 49).40 2. Đòi hỏi từ phía người được đồng hành Sâu đây là những thái độ cần thiết mà người thụ huấn cần có: * Chân thành: trấnh mưu mệo, lươn lệo, khếo mòm, nhưng thầnh thâ ̣t, châ n tình. Có nó i có , kho ng nó i kho ng, cò n giân dói lầ mâ quỷ(x. Mt 5,37). Râtio đò i hỏi: “Tiến trình đầo tậo đò i hỏi chủng sinh phẩi hiểu biết chính mình vầ đểcho mình được hiểu biết nhờ vầo mo ̣t mói tương quân thầnh thâ ̣t vầ trong sấng với cấc nhầ đầo tậo” (só45). Vì sự thâ ̣t sễgiẩi thoất chú ng tâ vầ lầm cho chú ng tâ được tư do (x. Gâ 8,20.32). * Tin tưởng: Bộ Giáo Sỹ nói rằng: “Sự tin tưởng lẫn nhau là một nhân tố thiết yếu trong tiến trình đồng hành. Trên bình diện giáo dục, cần xác định rõ những phương thức cụ thể nhằm nuôi dưỡng và nâng đỡ một sự tin tưởng như thế. Trước hết, cần phải tạo điều kiện để có được một bầu khi thanh thản thuận lợi cho sự tín nhiệm 40 72 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN hoàn toàn và tin tưởng nhâu.”41 Hễâi tin câ ̣y Chú â Thấnh Thần thì cũ ng tin câ ̣y những trung giân củâ Người. Hễâi biết phó mình trong tây Chú â Thấnh Thần thì kho ng lo sợ khi chiâ sểlịch sử đời mình với người đòng hầnh trong sự cởi mở, tin tưởng vầ phó thấc. * Cởi mở: Điều kiện để đồng hành và biến đổi là thái độ cởi mở. Ứng sinh sẵn sàng bộc lộ thế giới nội tâm của mình, những trở ngại và tổn thương, hy vọng và lo âu, thói quen và tật xấu, sở trường và sở đoản, cả sự bất nhất nền tảng vô thức và có ý thức v.v… với các nhà đào tạo, nhất là châ Linh hướng. Không có cởi mở không có đào tạo. Vì thế, việc đồng hành chỉ làm cho qua chuyện, là tán gẫu! * Thái độ ngoan ngùy (Docibilitâs): Đây là thái độ sẵn sàng của một người luôn “biết học để lớn lên.” Học từ mọi người, mọi hoàn cảnh, kể cả từ những sai lầm của mình và củâ người khác để trưởng thành. Người luôn ở trong tình trạng huấn luyện. Ngoân ngùy cũng có nghĩâ là trở nên dễ bảo, dễ uốn nắn, thay vì cứng cỏi, cứng đầu, cứng lòng. Về điều này, Bộ Giáo Sy quả quyết: “Vì nhắm đến sự ngoan ngùy đối với Chúa Thánh Thần, nên việc đồng hành riêng với từng người là một phương thế đào tạo thiết yếu.”42 Như thế, để việc đồng hành này có kết quả, cần hội đủ nhiều yếu tố: 1) Yếu tố ân sủng củâ Thiên Chúâ và tác động của Chúa Thánh Thần. 2) Yếu tố đáp trả của ứng sinh là thiết yếu và cần thiết. 3) Yếu tố giáo hội học là vai trò củâ các nhà đào tạo và cộng đoàn Giáo Hội. Nhờ đó, công cuộc huấn luyện linh mục mới hứa hẹn những kết quả tốt đẹp như Chúâ và Giáo Hội mong muốn. 41 Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục, số 45. 42 Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục, số 45. ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 73 IV. PHƯƠNG PHÁP ĐỒNG HÀNH Đồng hành với một người là một nghệ thuật của các nghệ thuật. Người thi hành sứ vụ này cần phải có sự hiểu biết, phương pháp và chiến lực đồng hành phù hợp thì mới hy vọng việc đồng hành đó có kết quả tốt. Carl Rogers cung cấp cho chúng ta một phương pháp mới để thực hiện sứ mạng này trong hành trình hướng tới sự trưởng thành nội tâm củâ người thụ huấn. 1. Carl Rogers và liệu pháp “trọng tâm nhân vị” (client centered psychotherapy) Carl Rogers (1902-1987) sinh ở Illinois, tại Oak Park, là một khu phố ở Chicago, từ một giâ đình rất hiệp nhất, ông là một trong những châ đẻ sáng lập nên khoa tâm lý duy nhân bản. Ông đưâ râ một lối tiếp cận và phương pháp giúp làm sáng tỏ tầm quan trọng của những nguồn năng lực và những khả thể tiềm ẩn trong mỗi cá thể. Carl Rogers phát triển lối tiếp cận tư vấn tâm lý “tập trung trên bệnh nhân hay trên nhân vị,” dựa trên một quan niệm tích cực (positive) về con người, khởi đi từ giả thiết rằng mỗi người có những giá trị nội lực vô tận, khả năng tự xác định, khả năng tự giải quyết và tự siêu việt chính mình. Theo lối nhìn này, Rogers cho rằng chính những “bệnh nhân” hây người được đồng hành là nhân vật chính trong việc khám phá khả năng tái lập sự quân bình cho mình cách tốt hơn; chính họ là người tự thân tìm ra giải đáp cho chính mình dựâ trên “sức mạnh nền tảng” (forzâ di bâsê); chính họ có khả năng để hiểu và tái cấu trúc, tái tổ chức bản thân từ những nguồn lực và sức mạnh nội tại nơi mình. Thêo phương pháp này, người tư vấn hây nhà đồng hành chỉ đóng vâi trò là người “hộ sinh,” nói thêo ngôn ngữ của triết gia Socrâtês. Nghĩâ là chỉ đóng vâi trò đi bên cạnh, trợ giúp và khơi 74 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN thông những nguồn lực đó nơi bệnh nhân hây người được đồng hành để họ phát huy tối đâ tố chất và năng lực của mình cho một sự phát triển toàn diện, cũng như để chính họ tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong hành trình của mình. Nhiệm vụ củâ người hướng dẫn đơn giản chỉ là như thế, nghĩâ là đi bên cạnh và giúp đỡ chứ không áp đặt cách một chiều mọi giải pháp cho người được đồng hành. Đây là một phương pháp được gọi là “giúp những người khác biết tự giúp mình”. Hình thức giúp đỡ này đặt vai trò củâ người được đồng hành như là nhân vật chính trong hành trình của mình hướng tới sự trưởng thành. Chính vì lý do này mà ngày nây, người tâ thường thích dùng hạn từ “đồng hành” (âccompâgnâmênto) để diễn tả công việc này hơn là hạn từ “hướng dẫn” (dirêzionê). Chúng ta có thể mượn câu chuyện trong tiểu thuyết “Ngàn lẻ một đêm” với câu chuyện “Ông già xứ Bâ Tư” để diễn tả thực tại này. Ở Bâ Tư, có người nông dân đâng sở hữu một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và thú vật quý hiếm. Ông ta nghe lời một vị đạo sĩ nên bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sâng nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả. Cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại củâ ông đã tìm râ một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Ông già Bâ Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kiâ mà không hề hay biết gì. Câu chuyện này diễn tả thực tế là chúng tâ thường lo tìm kiếm những nguồn lực hay sự trợ giúp từ bên ngoài nhưng nhiều lúc lại quên rằng chúng đâng ở trong ta mà không hề hay biết. 2. Phát triển lối đồng hành “trọng tâm nhân vị” ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 75 Theo Carl Rogers, lý thuyết này sẽ rất hữu ích đối với việc tư vấn cho bệnh nhân, nhưng nó không luôn có một giá trị tuyệt đối và bao quát hết mọi khía cạnh trong mọi trường hợp… Tương quân củâ đồng hành là nguyên nhân cho sự trưởng thành của mỗi người và của từng nhóm. Tương quân quân trọng hơn cả lý thuyết và vấn đề. Theo cái nhìn này, bổn phận nền tảng củâ nhà đồng hành không hệ tại ở việc giải quyết những vấn đề và những khó khăn củâ người khác, nhưng hệ tại ở việc thiết lập một bầu khí tin tưởng và tín nhiệm đối với người được đồng hành để họ dễ dàng thông tri về trình trạng của chính mình. Đó là điều kiện để cá nhân biết dùng lương tâm trong sáng mà giải bày và thổ lộ thế giới nội tâm của mình với nhà đồng hành, quâ đó họ cảm thấy khả năng được lắng nghê và đón nhận; với sự trợ giúp củâ người đồng hành, họ tự đảm nhận trách nhiệm của mình về những quyết định trong việc thây đổi bản thân cũng như trung thành với những nhiệm vụ đã được giao phó. Phát triển việc đồng hành “tập trung trên người thụ huấn” dựa trên bốn nguyên tắc nền tảng sâu đây: tính phù hợp; đón nhận vô điều kiện, thấu cảm và không chỉ thị. Những khía cạnh nền tảng này giúp thiết lập một tương quân lành mạnh giữâ người đồng hành và người được đồng hành. Chúng kiến tạo một bầu khí dễ dàng cho việc đối thoại, phù hợp với sự tiến bộ củâ con người, không chỉ trong tâm lý trị liệu, mà cả trong tương quân liên vị, trong linh hướng và huấn luyện. Giờ đây chúng tâ cần tìm hiểu từng phương diện: 2.1. Tính phù hợp (Congruence) Tính phù hợp nhiều lúc được gọi là sự “chân thực” hây “tính chân thực” củâ người đồng hành. Theo Rogers, sự phù hợp tâm lý không gì khác ngoài việc trở nên người lành mạnh, trong sáng. Tính 76 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN phù hợp trong tương quân liên vị có nghĩâ là người đồng hành phải là một người chân thật và trong sáng, không có gì giả tạo cũng như không che giấu cảm xúc và suy nghĩ củâ mình đằng sau chiếc mặt nạ chuyên môn. Một người đồng hành phù hợp là người không lấy kinh nghiệm củâ mình làm thước đo cho mọi sự một cách chủ quan. Nhưng với đồng cảm, họ truyền đạt chính xác những gì mà người được đồng hành đâng cảm nghiệm. Bởi vì, có sự phân biệt giữâ điều nhà đồng hành và điều người được đồng hành cảm nhận và suy nghĩ. Trở nên trong sáng là sự diễn tả một điều kiện được kinh nghiệm từ nhà đồng hành khi đặt mình cách tự do và từ sâu thẳm trong tương quân với người được đồng hành trong suốt hành trình đối thoại và đồng hành. Cần phải xác định chính xác rằng người ta phải luôn là chân thực, cả trong sự liên hệ với những cảm xúc tiêu cực, để không đưâ râ những thông điệp mang tính mập mờ và mâu thuẫn nhau. Vì thế, tính phù hợp phải là: - Tính xác thực (Authencity): trước hết đó là thái độ mà nhà đồng hành phải sống đối với người được đồng hành. Điều này đòi hỏi nơi ngài khả năng đi vào trong tương quân với chính thế giới nội tâm của mình, khi chấp nhận chính mình với những giới hạn và bất toàn mà không rơi vào trong những cám dỗ dễ dàng ẩn dấu mình bên trong những mặt nạ giả tạo, giả hình. Nhà huấn luyện phải là người chân thực. - Tính trong sáng (Trascendency): Nếu nhà đồng hành là người chân thực, ngài sẽ có khả năng để thiết lập một tương quân trong sáng với chính mình, với người khác và cả với Thiên Chúa. Họ phải là người trong sáng trong tư duy, lời nói và cung cách nết ở của mình trước người thụ huấn. Để việc đồng hành có hiệu quả, họ phải biết xây dựng tương quân trong sáng với người thụ huấn. - Tính chân thành (Sincerity): Nghĩâ là phải có sự đón tiếp cách hồn nhiên và cởi mở, được gợi hứng từ sự kính trọng chân thành đối với người thụ huấn và tin tưởng, xác tín về những nguồn lực ĐỒNG HÀNH TOÀ TRONG VÀ TOÀ NGOÀI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO| 77 hiện diện trong mỗi con người. Sự chân thành phát xuất sự an nhiên tự tại sẽ trở thành nền tảng để xây dựng tương quân tốt trong tương lâi. - Kinh nghiệm (Experience): Là người có kinh nghiệm và biết gửi những nghĩâ cử không lời phù hợp với từng hoàn cảnh để bày tỏ tình thân ái và sẵn sàng giúp đỡ. - Khả năng truyền đạt hay truyền thông tốt (Communication) giúp người khác thấu hiểu thông điệp mình muốn diễn tả. 2.2. Đón nhận vô điều kiện (Unconditional positive regard) Khái niệm này liên hệ đến điều kiện là chúng tâ không được đặt ra những điều kiện để đón nhận người khác, mỗi người được đánh giá và nhìn nhận mà không rơi vào việc đánh giá có tính chọn lọc, thiên kiến hay thành kiến, nhưng xét như một nhân vị và huyền nhiệm, mỗi người được nhìn theo mức độ là một chủ thể phân biệt, đặc biệt và duy nhất, với những năng lực, tình cảm, tính cách, hoàn cảnh và kinh nghiệm riêng của họ. Đón nhận người khác vô điều kiện là đón nhận họ như họ là, với một thứ tình cảm tự nhiên, một lối tiếp cận tích cực, mà không được ưu tiên hây phân biệt, không có sự đánh giá chủ quan. Nó loại bỏ mọi hình thức của việc xét đoán hây suy đoán chủ quan về người khác theo hệ quy chiếu của mình. Thêo phương pháp này, trong cuộc đối thoại và đồng hành, nó đòi hỏi nhà đồng hành phải từ bỏ những quy chiếu chủ quan mà chúng gợi hứng cho chính cách sống củâ mình, để có thể dìm mình vào trong thế giới khách quan củâ người khác để hiểu họ. Sự đón tiếp vô điều kiện như thế làm phát sinh những lợi thế rất ý nghĩâ cho từng cá thể, đó là: sự khích lệ đi vào trong thế giới nội tâm để nhận biết và để chấp nhận chúng; khởi đầu đi vào một tiến trình của hoàn thiện hình ảnh bản thân; vượt qua những tình trạng thất vọng có thể xảy ra, sự thất vọng hoặc buồn phiền; thủ đắc dần dần một sự tự lập lành mạnh cá nhân; giâ tăng sức mạnh 78 | HỘI NGHỊ CÁC ĐẠI CHỦNG VIỆN để vượt qua những giây phút khủng hoảng trong hành trình hướng tới hoàn thiện. Bởi thế, sự đón nhận vô điều kiện hệ tại trong các yếu tố sau: - Về sự kiện, tình trạng và giá trị của từng người phải được đón nhận như họ là (così comê è). Đây là thái độ của Chúa Giêsu trong dụ ngôn “lúâ và cỏ lùng” (Mt 13,24-30). Đó là thực tại tốt và xấu, nhân đức và tội lỗi đồng hiện hữu trong cuộc sống, nơi từng người mà chúng ta phải chấp nhận. - Không xét đoán và vội vàng đánh giá như Chúâ Giêsu đã dạy và đã sống: “Đừng xét đoán, để không bị xét đoán” (Mt 7,1). Chẳng hạn đối với các tội nhân. Chúa Giêsu không kết án và lên án họ. Nếu ta kết án ai vì một lỗi lầm, điều đó có nghĩâ là hiển nhiên ta việc hạ giá người đó với lỗi lầm của họ; sự la mắng vì sự yếu đuối được cảm nhận như sự từ chối con người yếu đuối và bất nhất. Vì thế, cần phải biết phân biệt giữa tội nhân và tội lỗi. Tội lỗi cần phải từ chối nhưng tội nhân thì cần đón nhận. - Không tán thành hay từ chối theo tiêu chuẩn chủ quan của người đồng hành nhưng phải dựa trên hệ giá trị khách quan. - Tương quân “đích thực” củâ nhà đồng hành với người được đồng hành phải được xây dựng dựa trên nhu cầu căn bản là muốn được nhìn nhận như một nhân vị (persona). - Người đồng hành có thái độ tích cực cho những khởi hành mới: nhà đồng hành có thể bình thản gợi hứng cho tinh thần này và loại bỏ sang một bên những khía cạnh tiêu cực, ngài có thể chỉ ra một cách chính xác những lý do mà chúng thúc đẩy người thụ huấn hướng tới sự tốt lành và trưởng thành. 2.3. Sự thấu cảm (Accurate empathy) Rogers mô tả sự thấu cảm như là một cách hiện diện với người khác: “Đó là đi vào trong thế giới cảm thụ riêng củâ người khác và trở thành hoàn toàn tự nhiên với thế giới ấy. Nó gắn liền với sự