" Đổi Mới Phương Thức Lãnh Đạo Của Đảng Đối Với Công Tác Dân Vận Trong Điều Kiện Phát Triển Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Và Hội Nhập Quốc Tế 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đổi Mới Phương Thức Lãnh Đạo Của Đảng Đối Với Công Tác Dân Vận Trong Điều Kiện Phát Triển Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Và Hội Nhập Quốc Tế Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH TRẦN THỊ THANH PHIỆT ThS. TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Đọc sách mẫu: TRẦN THỊ THANH PHIỆT ThS. TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH NGUYỄN VIỆT HÀ Quét mã để xem video “90 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2020)” 2 CHỦ BIÊN TRƯƠNG THỊ MAI THAM GIA BIÊN SOẠN 1. NGUYỄN XUÂN THẮNG 2. HÀ NGỌC ANH 3. BÙI TUẤN QUANG 4. LÊ VĂN LỢI 5. NGUYỄN VĂN GIANG 6. ĐỖ VĂN DŨNG 7. LÂM VĂN ĐOAN 8. PHẠM TRỌNG CƯỜNG 9. NGUYỄN THỊ TỐ NGA 10. TRẦN VIỆT HƯNG 11. NGUYỄN TUẤN ANH 4 LỜI NHj XUẤT BẢN K ế thừa và vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc”, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước, Đảng và Bác Hồ luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Tư tưởng này là bài học kinh nghiệm, là đường lối chiến lược xuyên suốt góp phần quyết định sự thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thành tựu của 35 năm đổi mới tiếp tục khẳng định sâu sắc tư tưởng đó, nhiều văn bản của Đảng nhấn mạnh vai trò của nhân dân và công tác dân vận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở đó, nội dung về công tác dân vận trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục được bổ sung phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, đó là: “Tiếp tục nâng cao nhận thức về đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền gắn với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, góp phần tạo đồng thuận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng”. Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về những vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp 5 với Ban Dân vận Trung ương xuất bản cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương làm Chủ biên. Cuốn sách đã đánh giá khái quát những vấn đề lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; thực tiễn phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay; đồng thời đưa ra quan điểm và giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các nội dung đề cập trong cuốn sách rất rộng, nhiều nội dung phức tạp và có sự biến động liên tục trong thực tế, vì vậy cuốn sách khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót. Nhà xuất bản và Tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 11 năm 2021 NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Vj HỘI NHẬP QUỐC TẾ I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN VẬN, CÔNG TÁC DÂN VẬN, KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Vj HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1. Khái niệm, nội dung dân vận 1.1. Khái niệm dân vận Dân vận là cách nói tắt của vận động nhân dân, gắn với chủ thể làm dân vận là tổ chức, cá nhân thông qua nhiều hình thức, biện pháp cụ thể như tuyên truyền, giải thích, động viên, hướng dẫn, làm gương... để vận động người dân ủng hộ, đồng thuận, tham gia thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hệ thống chính trị, những công việc cụ thể mà Đảng và Nhà nước đặt ra hay một tổ chức hoặc đoàn thể phát động cho những mục tiêu chung. Tóm lại, làm dân vận là hướng vào đối tượng cụ thể để mỗi 7 người dân, cộng đồng dân cư, các tầng lớp nhân dân thực hiện những nhiệm vụ cụ thể góp phần giải quyết mục tiêu ở phạm vi từng địa bàn, từng lĩnh vực và mục tiêu chung của cả đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Quét mã để xem video Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng2. __________________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr.232, 232-233. 8 Như vậy, dân vận là khái niệm chỉ việc vận động nhân dân tham gia làm cách mạng. Khái niệm dân vận rộng hơn khái niệm vận động quần chúng, vì dân vận được tiến hành với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; với quần chúng ngoài Đảng và cả đảng viên ở trong Đảng. Dân vận bao gồm từ thông tin, tuyên truyền, giải thích, thuyết phục, hướng dẫn đến tổ chức nhân dân thực hiện công việc cách mạng hằng ngày. Mục đích của dân vận là làm cho người dân hiểu, đồng tình, hăng hái tham gia thực hiện đường lối, chủ trương, nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Dân vận phải hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.2. Nội dung dân vận Từ lý luận và thực tiễn cho thấy nội dung chủ yếu của dân vận gồm: Nâng cao giác ngộ cho nhân dân: Dù dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”1 nhưng nhiệm vụ hàng đầu của dân vận vẫn là tuyên truyền, giác ngộ nhân dân, là phải “tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ”3, hay nói cách khác là làm dân vận __________________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232, 233. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288. 9 là để tuyên truyền, giảng giải cho dân hiểu vì sao phải làm cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc hàng đầu của dân vận là phải tuyên truyền, giải thích cho nhân dân nắm được, hiểu được đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để nhân dân biết, nhân dân hiểu, nhân dân đồng tình, nhân dân hăng hái tham gia thực hiện gắn với những lợi ích thiết thân của mình và đất nước. Tổ chức, phát huy sức mạnh của nhân dân: Dân vận không phải chỉ để dân biết, dân tin mà quan trọng hơn là phải động viên, phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Trong thực hành dân vận, không những phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng khối đoàn kết và tạo sự đồng thuận trong nhân dân mà còn phải quan tâm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tập hợp, tổ chức nhân dân vào các hình thức tổ chức phù hợp, các phong trào thi đua cách mạng để phát huy tiềm năng, sức mạnh, sáng tạo của nhân dân cho việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh, để thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị, tạo phong trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, dân vận phải tập hợp được quần chúng nhân dân thành lực lượng xã hội rộng rãi tham gia các phong trào thi đua yêu nước theo tinh thần “Thi đua 10 là yêu nước, yêu nước phải thi đua”. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải kết thành một khối vững chắc, làm nên sức sống các phong trào thi đua. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bám sát nhiệm vụ chính trị, quan tâm lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động thi đua sát với thực tế của địa phương, đơn vị với hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Các phong trào thi đua cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức, sáo rỗng; lấy hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội, sự tham gia của quần chúng làm thước đo đánh giá từng phong trào thi đua. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời. Vận động và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân phát huy cao độ tiềm năng, sức sáng tạo, tích cực lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh, nâng cao cuộc sống, góp phần cho cộng đồng và đất nước phát triển; tham gia đấu tranh, phòng, chống tội phạm, tiêu cực, tệ nạn xã hội. Chăm lo bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân: Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, giữa quyền lợi với nghĩa vụ công dân. Dân vận chỉ có thể thành công khi quan tâm thực sự đến tâm tư, nguyện vọng chính đáng, lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành gắn với việc bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân. Phải chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân 11 phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Đảng đặt ra yêu cầu: “Các tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ đều phải lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích của quần chúng làm một nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình”1. 2. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, nội dung công tác dân vận 2.1. Khái niệm công tác dân vận Công tác dân vận là công việc bao gồm tổng thể các hoạt động từ xác định chủ trương, xây dựng kế hoạch, tổ chức, lực lượng đến triển khai thực hiện tốt việc dân vận theo trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được phân công, hướng tới từng người dân, cộng đồng dân cư, các tầng lớp nhân dân. Công tác dân vận bao gồm các hoạt động liên tục, kết nối chặt chẽ với nhau trong đời sống chính trị của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hoạt động đó hướng tới tập hợp, thu hút, lôi cuốn và thúc đẩy đông đảo toàn dân tham gia. Nói đến công tác dân vận thì phải nói đến nội dung công tác dân vận (hay những việc phải làm trong công tác dân vận). Công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ cơ bản của công tác xây dựng Đảng, nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. __________________ 1. Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW ngày 27/3/1990 Hội nghị Trung ương 8 khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. 12 Công tác dân vận được đặt ở tầm nhiệm vụ chiến lược, phải được mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, địa bàn, hướng tới mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp, củng cố, khơi lên nguồn sức mạnh toàn dân bằng các phong trào cách mạng thiết thực để quần chúng nhân dân có ý thức làm chủ và có điều kiện làm chủ thực sự. Công tác dân vận chính là mạch nối duy trì mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nghiêm khắc cảnh báo trong “Sửa đổi lối làm việc”: “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”. Nguồn: Trương Thị Mai: “Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác dân vận hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 927 (tháng 10/2019). Mục tiêu cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Công tác dân vận là toàn bộ hoạt động tuyên truyền, thuyết phục, tập hợp, tổ chức nhân dân của cả hệ thống chính trị nhằm đoàn kết, phát huy lực lượng toàn dân tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Công tác dân vận không thuần túy chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là một khoa học, một nghệ thuật để cho những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với dân, làm cho dân hiểu, dân nhớ, dân tin, từ đó hăng hái, tự nguyện, tự giác tham gia. Để làm được điều đó, tiêu chuẩn “óc nghĩ” đòi hỏi cán bộ dân vận phải có trí tuệ, được trang bị nền tảng lý luận vững chắc, 13 không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, nâng cao năng lực bản thân để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ vận động quần chúng, tập hợp lực lượng, không làm bừa, làm ẩu, làm đối phó, làm cho xong; “mắt trông” là tiêu chí đề cao năng lực thực tiễn, theo dõi, nắm vững tình hình, đặc điểm, diễn biến trong thực tế để có giải pháp triển khai phù hợp, thiết thực. Để tránh bệnh quan liêu, vô cảm, xa rời quần chúng, cán bộ dân vận phải “tai nghe, chân đi”, thường xuyên, chủ động đến với dân, hướng về cơ sở để lắng nghe, tiếp nhận thông tin đa chiều từ nhân dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phát hiện, xử lý thông tin sai trái làm ảnh hưởng đến niềm tin của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời phải nêu gương giữa nói và làm, giữa tuyên truyền và hành động, sao cho tinh thần dân vận thấm vào từng công việc cụ thể, tránh tình trạng: “Trên giấy tờ thì cái gì cũng có. Nhưng sự thật, thì việc gì cũng uể oải, lúi xùi”. Nguồn: Trương Thị Mai: “Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác dân vận hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 927 (tháng 10/2019). Do vậy, công tác dân vận là hoạt động của cả hệ thống chính trị trong việc vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung công tác dân vận * Chủ thể công tác dân vận: Xác định rõ chủ thể công tác dân vận sẽ giúp các tổ chức, lực lượng nhận thức đầy đủ trách nhiệm cũng như vai trò 14 trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận. Đảng ta đã xác định rõ: “công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang”1. Như vậy, có thể thấy các chủ thể, lực lượng làm công tác dân vận gồm có tổ chức và cá nhân. - Đối với tổ chức: + Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam: Công tác dân vận trước hết là trách nhiệm của Đảng, là nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Đảng vừa là người lãnh đạo cả hệ thống chính trị và cộng đồng xã hội tiến hành công tác dân vận, vừa là lực lượng trực tiếp vận động, tổ chức nhân dân. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ phải lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của quần chúng làm nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình, đồng thời, phát huy quyền làm chủ, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. + Đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Với tính chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân là bản chất của Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân không chỉ thông qua tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên, mà còn thông qua Nhà nước, trực tiếp là bộ máy các cơ quan nhà nước. Hệ thống các cơ quan nhà nước gồm các cơ quan dân cử, chính quyền __________________ 1. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. 15 và các cơ quan tư pháp các cấp có vai trò quan trọng trong công tác dân vận. Để Nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và Ủy ban nhân dân, cơ quan tư pháp các cấp phải thể chế hóa kịp thời quan điểm, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; tổ chức thực thi và bảo đảm cho chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống; nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân và ý thức trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. + Lực lượng vũ trang (quân đội, công an, dân quân tự vệ) có trách nhiệm làm công tác dân vận trong hoạt động xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi có tình huống xảy ra. Công tác dân vận góp phần xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. + Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ có vai trò quan trọng trong công tác dân vận, trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, tập hợp tổ chức lực lượng quần chúng đáp ứng tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng, nâng cao trách nhiệm công dân. Làm nòng cốt chính trị trong phong trào quần chúng, cầu nối giữa Đảng với nhân dân. + Các tổ chức khác như doanh nghiệp, tổ chức xã hội hợp pháp... có trách nhiệm vận động người lao động, hội viên thực hiện tốt nhiệm vụ của tổ chức mình, đồng thời bảo đảm 16 quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, quan tâm nguyện vọng của hội viên. - Đối với cá nhân: là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, Đảng yêu cầu: “Mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”1. Cá nhân tham gia làm công tác dân vận với trách nhiệm là thành viên của tổ chức, do tổ chức phân công, giao nhiệm vụ. Họ vừa tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ công tác dân vận, vừa trực tiếp làm dân vận gắn với vị trí công tác, chức trách, nhiệm vụ. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác dân vận, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và vận động quần chúng thực hiện theo chức trách của mình; khắc phục hiện tượng không muốn làm hoặc không biết làm công tác dân vận. “Mỗi đảng viên đều làm công tác vận động quần chúng, gương mẫu thực hiện chức trách trong đơn vị và nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú, hoạt động tích cực trong đoàn thể mà mình tham gia”2. Mọi cán bộ, công chức nhà nước đều phải trực tiếp làm công tác dân vận theo chức trách của mình. “Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân. Xây dựng và thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân __________________ 1, 2. Nghị quyết số 8B-NQ/TW ngày 27/3/1990, Tlđd. 17 nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; thường xuyên đi công tác cơ sở”1. * Đối tượng của công tác dân vận: Đối tượng của công tác dân vận là tất cả đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đoàn viên, hội viên, lực lượng vũ trang và nhân dân. Đối tượng của công tác dân vận rất rộng lớn gồm: Tất cả đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam; tất cả cán bộ, công chức, viên chức trong các tổ chức của hệ thống chính trị; công nhân, người lao động trong các doanh nghiệp; đoàn viên, hội viên của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng; cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; tất cả các tầng lớp nhân dân trong nước, ngoài nước. Một số đối tượng của công tác dân vận đồng thời cũng là chủ thể có trách nhiệm làm công tác dân vận, như: đảng viên, cán bộ, công chức, đoàn viên, hội viên, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang... * Nội dung công tác dân vận: Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn công tác dân vận có thể xác định những nội dung chủ yếu của công tác dân vận là: - Đề ra đường lối, chủ trương, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác dân vận. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải xác định mục tiêu công tác dân vận cho từng công việc, từng giai đoạn và yêu cầu đạt được. Trên cơ sở đó quyết định cách thức triển khai phù hợp. __________________ 1. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013, Tlđd. 18 - Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân như giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật,... - Tập hợp nhân dân vào các loại hình tổ chức phù hợp. Hiện nay, các loại hình tập hợp, tổ chức nhân dân rất khác nhau, như: các phong trào thi đua yêu nước, tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức xã hội; tổ chức xã hội - nghề nghiệp, nhân đạo từ thiện, hữu nghị... Bên cạnh đó, còn có các hình thức tổ chức và hoạt động đa dạng khác như câu lạc bộ, các hoạt động tự quản ở cơ sở. - Tăng cường phối hợp và phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức, lực lượng tạo sức mạnh tổng hợp trong công tác dân vận. Từ Trung ương đến cơ sở, các cấp ủy, tổ chức đảng phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo; tập trung lãnh đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Không ngừng nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng; cán bộ, đảng viên phải hiểu dân, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng, noi theo. Tổ chức cho nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị làm công tác dân vận theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đặc biệt, các cơ quan nhà nước, nơi có quan hệ trực tiếp với nhân dân phải gắn chặt việc thực thi 19 nhiệm vụ chính trị với công tác dân vận để nâng cao hiệu quả công việc của mình; quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư tố cáo của nhân dân; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; chủ động nắm tình hình và giải quyết những công việc liên quan đến đời sống của nhân dân. - Kiện toàn các tổ chức, lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận. Bố trí cán bộ chủ chốt của các cơ quan tham mưu, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở các cấp là cấp ủy viên có phẩm chất tốt, có năng lực, có uy tín và trưởng thành từ phong trào quần chúng. Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên chăm lo kiện toàn, đổi mới các cơ quan, tổ chức, lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận; đồng thời cần có kế hoạch tổng thể về tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân vận; có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ làm công tác dân vận. Giao trách nhiệm, động viên, khuyến khích để có đông đảo cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng làm tốt công tác vận động quần chúng gần dân, sát cơ sở, biết phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng bản, trưởng tộc...) làm công tác dân vận. - Chăm lo lợi ích, hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân, 20 nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, quyền lợi của nhân dân. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe... Việc chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân phải hướng đến mục tiêu thiết thực là cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, phát huy dân chủ. Cải thiện dân sinh, tức là chăm lo nâng cao đời sống vật chất của mọi người dân, của cộng đồng dân cư, bao gồm ăn, ở, mặc, điều kiện học hành, đi lại, bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, môi trường sống... Nâng cao dân trí là làm sao cho nhân dân ai cũng được học hành, được nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, được hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật, thông tin, được chăm lo lợi ích xã hội; y tế, thể thao, du lịch: thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Quan tâm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng miền, các lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân thông qua Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và cơ chế dân chủ trực tiếp. 21 - Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về công tác dân vận: giúp cho cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thấy được ưu điểm, xây dựng nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, đúng đắn để phát huy, nhân rộng; đồng thời chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế, bất cập để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, làm cho chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng ngày càng phù hợp với sự vận động của thực tiễn, có sức sống trong thực tiễn. Kết quả kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về công tác dân vận tạo cơ sở cho việc đánh giá trung thực, khách quan phong trào cách mạng của quần chúng ở các địa phương; đồng thời, qua kiểm tra, các cấp ủy cùng thu được những ý kiến đóng góp đúng đắn, sát thực cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. - Sơ kết, tổng kết và nghiên cứu lý luận công tác dân vận. Đây là công việc quan trọng để đánh giá việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trong giai đoạn 5 năm, 10 năm, góp phần tổng kết kinh nghiệm, bổ sung, phát triển lý luận, đường lối công tác dân vận của Đảng. Trên cơ sở những nội dung chủ yếu của công tác dân vận, mỗi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để xác định nội dung, nhiệm vụ công tác dân vận cho phù hợp, nội dung công tác dân vận của các tổ chức ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương sẽ không giống như nhau được. 22 2.3. Vị trí, vai trò của công tác dân vận Công tác dân vận có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là một bộ phận, một nội dung không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Vị trí, vai trò của công tác dân vận thể hiện ở những mặt chủ yếu sau: - Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo thành công của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. V.I. Lênin lưu ý những người cộng sản: “Quần chúng lao động ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn gốc khiến cho chủ nghĩa cộng sản thế giới trở thành vô địch cũng là ở đó”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”3. Với Đảng, “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”4. Bởi vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam coi công tác dân vận là “nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước”5. Từ ngày thành lập Đảng đến nay có thể khẳng định, dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng để thực hiện __________________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.257-258. 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.335, 278. 5. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013, Sđd. 23 mục tiêu giải phóng và phát triển, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là nhiệm vụ cách mạng do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, ở thời kỳ nào của cách mạng cũng có tầm quan trọng chiến lược, là phương thức, điều kiện căn bản bảo đảm cho cách mạng thành công. - Công tác dân vận làm cho nhân dân hiểu, đồng tình, hăng hái tham gia thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo nên tiền đề, điều kiện đầu tiên để thực hiện thắng lợi. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước muốn thành hiện thực phải được nhân dân đồng tình và tích cực tham gia thực hiện và muốn vậy phải làm công tác vận động, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc”1, do đó: “... cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ”2. Trong cách làm công tác dân vận, Người nhấn mạnh: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”3. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của công tác dân vận. - Công tác dân vận góp phần quan trọng huy động tập hợp nhân dân thành lực lượng to lớn để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và __________________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304, 288. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233. 24 bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là rất to lớn, là việc của “dân chúng”. Để lãnh đạo cách mạng thắng lợi, Đảng phải làm tốt công tác dân vận để huy động tập hợp nhân dân thành lực lượng to lớn để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh trong định nghĩa về dân vận là để “góp thành lực lượng toàn dân” thực hiện những việc nên làm, cần làm. - Công tác dân vận góp phần xây dựng Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Công tác dân vận là công tác của Đảng, do Đảng lãnh đạo, trực tiếp làm cho nhân dân hiểu và tham gia thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bởi vậy, làm tốt công tác dân vận vừa giúp Đảng hiểu dân, vừa giúp dân hiểu Đảng, tin Đảng, theo Đảng và ủng hộ đường lối, quan điểm của Đảng; củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đảng dựa vào dân để xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, vì vậy công tác dân vận là một bộ phận, một nội dung không thể thiếu của công tác xây dựng Đảng. - Công tác dân vận góp phần làm thất bại các âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân vận có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân tham gia đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Thực tế cho thấy, để thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, công tác dân vận phải đi trước, đi cùng, đi đến kết thúc. Trong tình hình hiện nay, để góp phần làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn 25 chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế lực thù địch thì hơn bao giờ hết chúng ta phải coi trọng và làm tốt công tác dân vận. 3. Khái niệm và vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 3.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) lần đầu tiên xác định “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1 và “Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”2. Đại hội xác định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”3, “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của __________________ 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, P.II, tr.68, 70, 69-70. 26 nhân dân thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh”1; và chủ trương “sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường”2. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục phát triển nhận thức: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân __________________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, P.II, tr.70-71, 69. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.204-205. 27 để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đánh dấu bước phát triển nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với khẳng định: “Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.102. 28 vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp theo đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững” và Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khẳng định kinh tế tư nhân là động lực phát triển nền kinh tế. Đổi mới tư duy về kinh tế của Đảng đã diễn ra liên tục trong 35 năm đổi mới vừa qua và đang được tiếp tục tiến hành mạnh mẽ trong giai đoạn tới. Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của 29 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”1. 3.2. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nếu nói kinh tế __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.128. 30 thị trường nói chung là “cái phổ biến”, thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Từ quan điểm của Đảng có thể hiểu, tính đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện ở những đặc điểm sau: Thứ nhất, là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà đó vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hóa thương mại,... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”1. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường đó không phải là kinh tế thị trường tự do mà có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước trên nguyên tắc tuân thủ và tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. __________________ 1. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 31 Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, tương thích với thông lệ của quốc tế; “sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”1. Thông qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết, Nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền kinh tế thị trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân. Thứ hai, là mô hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, “cùng bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển”, trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế __________________ 1. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 32 tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”1. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”2. Các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng theo định hướng chung và khuôn khổ pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai thác tối đa thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng. Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển tự do, bình đẳng, “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”3. Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh - quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư. Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các __________________ 1, 3. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.129. 33 nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển các kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn đảm nhận;... Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và sẽ được tạo điều kiện phát triển, nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phần kinh tế này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Nhà nước cũng thực hiện quản lý, định hướng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của đất nước, bảo đảm hài hòa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp”1. Phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc và của nhân dân, “bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế”2. Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”3. __________________ 1, 2, 3. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 34 Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng thành phần kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh... do đó cần đa dạng các hình thức phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Vì vậy, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất, phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta. Bên cạnh đó, hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn nhằm huy động tốt các nguồn lực cho mở rộng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng là rất cần thiết và công bằng đối với các chủ thể kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu không chỉ dừng ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các vấn đề an sinh xã hội,... Vì vậy, phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội cũng là rất đúng đắn và hợp lý nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong khi đó, phát triển kinh tế thị trường chúng ta cũng phải chấp nhận sự phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, chấp nhận thực tế là sẽ có những nhóm người yếu thế, không đủ sức cạnh tranh trong vòng xoáy của cơ chế thị trường, gặp rủi ro... Do vậy, vai trò của Chính phủ là phải quan tâm đến vấn đề đó, hạn chế phân hóa xã hội sâu sắc... bằng cách thực hiện tái phân phối lại thu nhập xã hội. Đây chính là nét ưu việt của chế độ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 35 Thứ tư, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được định hướng cao về mặt xã hội, có mục đích bảo đảm tối đa lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước; tôn trọng và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển đồng thời thực hiện các biện pháp hữu hiệu để hạn chế những khuyết tật của tính tự phát thị trường. Nền kinh tế đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa mà nội dung căn bản là bảo đảm phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi thành viên trong xã hội, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, “bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển”1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam luôn được định hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà __________________ 1. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 36 phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Nói cách khác, nền kinh tế thị trường đó không vì mục tiêu phát triển kinh tế mà hy sinh lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, hủy hoại tài nguyên, môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; công bằng phải gắn với bình đẳng xã hội, công bằng không chỉ dừng ở phân phối lợi ích công bằng mà phải là công bằng về cơ hội phát triển - bảo đảm cho mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội như nhau để phát triển, đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình, đồng thời có trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của dân tộc;... Đây chính là tính nhân văn, ưu việt riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ năm, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”. Đặc trưng này thể hiện nền kinh tế thị trường mà nước ta xây dựng không phải là cái khác lạ so với kinh tế thị trường ở các nước, mà cũng là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”, tuân thủ 37 các nguyên tắc, quy ước, hiệp định, điều lệ, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trên phạm vi quốc tế trong các lĩnh vực hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động, việc làm, tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học - công nghệ hiện đại với các quốc gia... Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập. 3.3. Tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Mặt tích cực Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo cơ chế kích thích huy động nguồn lực kinh tế - xã hội, trong sản xuất kinh doanh; cơ chế thị trường điều tiết phân bổ, sử dụng nguồn lực do đó thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả. Nhưng cơ chế thị trường cũng dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế - xã hội, trong việc tiếp cận nguồn lực, những tổ chức, cá nhân yếu thế, 38 hạn chế về điều kiện khó tiếp cận nguồn lực để phát triển. Do vậy phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, Nhà nước và xã hội. Kinh tế thị trường tác động đến nhân cách, đạo đức, lối sống, phong cách của cán bộ, đảng viên: tính quyết đoán, năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, là điều kiện để mọi người tự giác rèn luyện, hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách, phong cách làm việc. - Mặt tiêu cực Cơ chế thị trường dẫn đến cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể trên thị trường. Để chiếm được ưu thế trong cạnh tranh phải sử dụng các thủ đoạn kinh tế, chính trị, tâm lý, truyền thông, tìm lợi thế bằng chạy chọt, lợi dụng quyền lực, ô dù, chống lưng, bảo kê để trục lợi, tạo nên cạnh tranh bất bình đẳng, bất công, lạm dụng và làm thất thoát tài sản nhà nước và nhân dân. Chạy theo lợi nhuận nên gian lận, trốn thuế, lách luật, lừa đảo, bất chấp đạo lý, pháp luật... là nguyên nhân làm băng hoại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa tốt đẹp; phá hoại kỷ cương, phép nước. Kinh tế thị trường dẫn đến phân hóa giàu nghèo ngày càng cao, làm gia tăng mâu thuẫn xã hội, bạo lực, tội phạm, tâm lý chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền, kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, làm nảy sinh tệ tham nhũng. Kinh tế thị trường có thể phát sinh những mâu thuẫn về giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của chế độ, của dân tộc. Xu hướng cạnh tranh, tự do sản xuất kinh doanh tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhưng mặt trái dẫn đến phá vỡ cân bằng sản xuất xã hội, nạn thất nghiệp, phân hóa xã hội, 39 phân hóa giàu nghèo gia tăng. Cán bộ, công chức là người được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ủy quyền, giao quyền lực, nếu không có cơ chế kiểm soát tốt sẽ dẫn đến lạm quyền, lợi dụng, sử dụng quyền lực để vun vén lợi ích cá nhân, đứng trên lợi ích xã hội, lợi ích của nhân dân, lợi dụng quyền lực để tham ô của cải của Nhà nước, nhũng nhiễu nhân dân. Để khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường cần hoàn thiện thể chế, pháp luật; kỷ cương, kỷ luật phải được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm khách quan, minh bạch trong chủ trương, chính sách; tăng cường dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ cương; kiểm soát quyền lực đối với tổ chức và cá nhân; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đấu tranh tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tự giác tu dưỡng, rèn luyện... Những vấn đề tích cực và tiêu cực nêu trên của kinh tế thị trường đang tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân và liên quan đến công tác dân vận, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận. 4. Khái niệm và vai trò của hội nhập quốc tế 4.1. Khái niệm hội nhập quốc tế Đối với Việt Nam, thuật ngữ “Hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Đến Đại hội IX, Đảng ta chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Sau Đại hội IX, Bộ Chính trị đã ban hành 40 Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã nhấn mạnh mục tiêu cần phải “Chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO”. Đại hội X xác định phải “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội XI có bước phát triển mới về nhận thức và chủ trương với việc mở rộng khái niệm từ hội nhập kinh tế quốc tế thành hội nhập quốc tế: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế với nội hàm chủ động hội nhập quốc tế toàn diện trên ba trụ cột: chính trị - quốc phòng - an ninh; kinh tế - khoa học; giáo dục - văn hóa - xã hội. Đại hội XII xác định: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”1. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.34-35. 41 sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”1. Từ lý luận và thực tiễn, chúng ta đã xác định cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “Hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là: “Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế”. 4.2. Vai trò hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế, tham gia vào quá trình phân công, hợp tác quốc tế góp phần làm cho nền kinh tế đất nước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, xác định được vị trí, khả năng của mình, trên cơ sở đó, tìm kiếm các giải pháp “phát triển nhanh, bền vững”, “đi tắt, đón đầu” cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước khác. Hội nhập quốc tế thúc đẩy việc thu hút vốn, kỹ thuật từ bên ngoài nhằm làm tăng nguồn lực quốc gia, góp phần tăng trưởng GDP, phát triển đất nước. __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.161-162. 42 Việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào các cơ chế song phương, đa phương của thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện để chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, chiến lược đầu tư phát triển, giảm thiểu các rủi ro, góp phần tháo gỡ những khó khăn do các tác động tiêu cực từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế, xu hướng bảo hộ. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để nâng cao năng lực cạnh tranh, trình độ quản lý, chuyển giao khoa học và công nghệ nhanh hơn. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Việt Nam có điều kiện mở rộng phạm vi làm việc, tiếp cận, nâng cao tay nghề, tiếp thu tác phong làm việc công nghiệp, tổ chức sản xuất. Điều này không chỉ góp phần giải quyết việc làm, mà còn tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng thu nhập, nâng cao cuộc sống cho người lao động và tăng thu cho ngân sách nhà nước. Hội nhập quốc tế về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ giúp cho việc quảng bá văn hóa đất nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần làm tốt công tác giáo dục, y tế, quản lý xã hội; phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường... Tất cả những điều này trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội đất nước. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, 43 hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”1. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắcxin Covid-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhất là trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững”2. __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.77. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.200-201. 44 4.3. Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thế giới, đồng thời cũng chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi những lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại, những lợi ích chủ yếu của hội nhập quốc tế mà các nước có thể tận dụng được, đó là: - Quá trình hội nhập quốc tế giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. - Hội nhập quốc tế cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế. - Hội nhập quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học với các nước, tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. - Hội nhập quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế. - Hội nhập quốc tế tạo cơ hội để người dân có thể được sử dụng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước. 45 - Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước. - Hội nhập quốc tế giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc, thúc đẩy tiến bộ xã hội. - Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để tham gia vào các cơ chế hợp tác, tăng cường sự hiểu biết, ủng hộ, đồng thuận của các nước, qua đó góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc gia, duy trì an ninh, hòa bình, ổn định để phát triển; mở ra khả năng phối hợp để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới, nhất là những vấn đề an ninh phi truyền thống. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều bất lợi và thách thức như: - Hội nhập quốc tế làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí phá sản, gây nhiều hệ lụy về mặt kinh tế - xã hội. - Hội nhập quốc tế làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, do vậy khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế. - Hội nhập quốc tế không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, vì vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo. - Trong quá trình hội nhập quốc tế, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng 46 nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, các nước có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường. - Hội nhập quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà nước (theo quan niệm truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển. - Hội nhập quốc tế có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài. - Hội nhập quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp... Như vậy, hội nhập quốc tế đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy nhiên, không phải nước nào hội nhập đều có được tất cả các lợi ích và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi nước mỗi khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển... Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi nước, là chiến lược, chính sách, biện pháp và việc tổ chức thực hiện. Thực tế, nhiều nước và vùng lãnh thổ đã khai thác rất tốt cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục, nhanh chóng vươn lên nhóm các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị thế quốc tế, đồng thời xử lý khá thành công 47 các bất lợi và thách thức của quá trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, Trung Quốc, Malaixia, Mêhicô, Braxin... Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ hội nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn như: Thái Lan, Philíppin, Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Mặc dù vậy, lợi ích mà hầu hết các nước đã thu được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn là cơ bản, điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. II. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO Vj ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Vj HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận “Phương thức” là phương pháp, cách thức, hình thức tiến hành để công việc đạt hiệu quả cao. Nếu phương thức tiến hành công việc được xác định không đúng đắn, phù hợp thì hiệu quả đạt được sẽ thấp, thậm chí không đạt hiệu quả. Ngược lại, nếu phương thức tiến hành công việc được xác định đúng đắn, phù hợp sẽ đem lại hiệu quả cao. Bởi vậy, phải xuất phát từ yêu cầu công việc để lựa chọn phương thức thực hiện. Xem nhẹ, hoặc bỏ qua điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả công việc. 48 Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới kinh tế - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên;... Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”1. Trên cơ sở đó, với vị trí quan trọng của công tác dân vận, có thể hiểu: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là tổng thể các cách thức, hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng tác động đến các chủ thể làm công tác dân vận để thực hiện chủ trương, đường lối công tác dân vận của Đảng. Mỗi thời kỳ, với yêu cầu về nội dung công tác dân vận khác nhau, Đảng đều có phương thức lãnh đạo thích hợp, hình thức, phương pháp lãnh đạo đặc thù. Hiện nay, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận chủ yếu gồm: 1.1. Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, chiến lược, các định hướng lớn về chính sách đối với công tác dân vận Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, chiến lược, các định __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.88-89. 49 hướng lớn về chính sách đối với công tác dân vận, trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phải có trách nhiệm quán triệt, tổ chức thực hiện. Để triển khai các văn bản của Đảng liên quan đến công tác dân vận, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nghiên cứu, cụ thể hóa thông qua các chương trình, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phù hợp với điều kiện, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. 1.2. Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động của Đảng đối với tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị và xã hội về quan điểm, chủ trương, nội dung công tác dân vận của Đảng Đây là phương thức lãnh đạo phổ biến của Đảng đối với công tác dân vận qua mọi thời kỳ. Để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện đường lối công tác dân vận của Đảng thì trước hết Đảng lãnh đạo thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động một cách hệ thống, thường xuyên làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân biết, hiểu, thấm nhuần đường lối, chủ trương đó. Việc tổ chức cho hệ thống chính trị quán triệt các nghị quyết, văn bản của Đảng về công tác dân vận; giảng dạy về công tác dân vận trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước; tổ chức hệ thống làm công tác tuyên giáo, công tác truyền thông đường lối, chủ trương, chính sách về công tác dân vận của Đảng, Nhà nước... tạo nên hệ thống công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, đây chính là phương thức lãnh đạo 50 phổ biến, thường xuyên, quan trọng của Đảng đối với công tác dân vận. 1.3. Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác tổ chức, cán bộ của Đảng đối với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan, tổ chức chuyên trách làm công tác dân vận Với nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, công tác cán bộ và quản lý biên chế, quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo sắp xếp tổ chức bộ máy, phân công cán bộ đảm nhiệm các vị trí, công việc trong hệ thống chính trị, bảo đảm đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng được tổ chức có hiệu quả thông qua tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt. Cụ thể: - Phương thức Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác tổ chức rất rộng, cách thức chính gồm: Đảng lãnh đạo xây dựng, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu lãnh đạo trong từng giai đoạn, nhằm bảo đảm sự vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Dù chức năng, nhiệm vụ khác nhau, phương thức hoạt động khác nhau, nhưng tất cả các cơ quan, tổ chức đều phải hướng đến tổ chức, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm thể chế và triển khai thực hiện kịp thời, chính xác và hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, gắn với cuộc sống của nhân dân, thể hiện được quan điểm công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Một bộ máy và đội ngũ cán bộ gần dân, phục vụ nhân dân tốt chính là góp phần cho hiệu quả công tác dân vận của Đảng. 51 Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác tổ chức thông qua vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng cũng như yêu cầu phải xây dựng Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng lãnh đạo công tác dân vận thông qua lãnh đạo các tổ chức làm công tác dân vận phù hợp với yêu cầu của tình hình mỗi thời kỳ. Đây là một nghệ thuật tổ chức làm công tác dân vận và lãnh đạo công tác dân vận linh hoạt, mềm dẻo của Đảng. Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930 tại Hồng Kông) đã thông qua các Án nghị quyết về công nhân vận động, nông dân vận động, cộng sản thanh niên vận động, phụ nữ vận động, quân đội vận động, vấn đề cứu tế và đồng minh phản đế. Nghị quyết Hội nghị xác định rõ: “Trong các đảng bộ thượng cấp (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức cả các ban chuyên môn về các giới vận động”1, đặt nền tảng cho sự ra đời nhanh chóng hệ thống Ban chuyên môn và đội ngũ cán bộ về các giới vận động của Đảng, bao gồm Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh, dân chủ ở nhiều nơi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Đảng phải rút vào hoạt động bí mật bằng tuyên bố “tự giải tán”, để phù hợp với tình hình mới, Chỉ thị tháng 9/1948 của Trung ương Đảng đã chỉ đạo bỏ tổ chức Ban dân vận, lập các Ban vận động giới đến cấp khu, __________________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.113. 52 tỉnh (Ban Nông vận, Ban Công vận, Ban Miền núi vận, Ban Công giáo vận...), đặt trực tiếp dưới sự lãnh đạo của cấp ủy. Trong thời kỳ đổi mới, với tư duy mới, Đảng đã lãnh đạo, định hướng phát triển thêm các tổ chức quần chúng góp phần mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, các đối tượng khác nhau trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tiếp tục được bổ sung, phù hợp với thực tiễn tình hình mới. - Phương thức Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác cán bộ được thực hiện thường xuyên, trong mọi thời kỳ, ở mọi cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đối với công tác dân vận, Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong mối quan hệ với nhân dân theo chức trách, nhiệm vụ được phân công, lấy tinh thần phục vụ, sự hài lòng, niềm tin của nhân dân làm thước đo hiệu quả công việc, đồng thời, Đảng phân công một bộ phận cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận, bao gồm các cơ quan tham mưu cho Đảng về công tác dân vận và các tổ chức trực tiếp tập hợp, vận động quần chúng như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ... Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị và cán bộ được phân công trực tiếp làm công tác dân vận góp phần quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận. 53 1.4. Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên Đảng lãnh đạo công tác dân vận còn thông qua vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý. Mỗi đảng viên phải thay mặt cho Đảng thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng nhân dân tại nơi mình làm việc, nơi mình cư trú, đồng thời phải gương mẫu trong công việc và cuộc sống để thuyết phục, tạo được sự tin tưởng trong nhân dân đối với công việc, vị trí của mình. Sự gương mẫu, nói đi đôi với làm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo sẽ tăng cường niềm tin, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 1.5. Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng công tác kiểm tra, giám sát Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, là một công việc nằm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối giúp đánh giá đúng đắn kết quả việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, các văn bản của Đảng; những ưu điểm, khuyết điểm, khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, từ đó có điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Chính vì vậy, kiểm tra, giám sát có vị trí rất quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận nói riêng. Bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với 54 tổ chức đảng, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận, đặc biệt thông qua công tác kiểm tra, giám sát đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội sẽ bảo đảm việc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận. Trên đây là những phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với công tác dân vận. Trong thực tế, tùy từng chủ thể, đối tượng, nội dung lãnh đạo, điều kiện, bối cảnh cụ thể mà có cách thức, phương pháp cụ thể phù hợp, không áp dụng máy móc cho mọi trường hợp. 2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã luôn quan tâm, nghiên cứu đổi mới về tổ chức bộ máy, về nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn. Trên cơ sở đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận được thay đổi qua các thời kỳ cách mạng, trong đấu tranh giành chính quyền trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn cho thấy: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là thay đổi hình thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận để thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ công tác dân vận. Chủ thể đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là Đảng, trong đó trực tiếp, thường xuyên là trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. 55 Mục đích đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là để đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ công tác dân vận, làm cho công tác dân vận phát huy tối đa vai trò, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Thực chất đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là thay đổi cách thức cho phù hợp với điều kiện thực tiễn theo hướng tích cực, tiến bộ, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đem lại kết quả cao hơn, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác dân vận. 3. Nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận (1) Đổi mới cách ban hành nghị quyết, chiến lược, các định hướng lớn về chính sách và chủ trương lớn đối với công tác dân vận. Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết, các văn bản liên quan đến công tác dân vận trên cơ sở nâng cao chất lượng công tác tham mưu. Các cơ quan, tổ chức tham mưu cho Đảng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Đảng về công tác dân vận; định kỳ tham mưu cho Đảng sơ kết, tổng kết các văn bản hiện hành, trên cơ sở đó kiến nghị Đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo hoặc tổ chức khảo sát, đánh giá những vấn đề mới, kiến nghị Đảng ban hành văn bản mới để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm văn bản được ban hành có tính khả thi, cần thiết cho sự lãnh đạo của Đảng. 56 Đồng thời, đổi mới việc quán triệt nghị quyết, các văn bản về công tác dân vận trong đảng bộ các cấp, trong hệ thống chính trị và nhân dân; việc tổ chức thực hiện nghị quyết, các văn bản của Đảng về công tác dân vận. (2) Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân; tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị về quan điểm, chủ trương của Đảng, về chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, về công tác dân vận nói riêng. Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”1, từ đó mà đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động nhân dân về đường lối, chủ trương chung của Đảng, đường lối, quan điểm về công tác dân vận, chính sách, pháp luật của Nhà nước sao cho sinh động, hiệu quả. Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động chính là làm tốt việc thông tin, nâng cao hiểu biết, tạo đồng thuận để ủng hộ, tham gia và phải kết hợp, đi đôi với làm tốt công tác tổ chức, cán bộ; với sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng đổi mới, kịp thời tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác dân vận trên các phương tiện truyền thông. (3) Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của Đảng đối với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị; các tổ chức, cơ quan chuyên trách làm công tác dân vận. __________________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232. 57 Đối với công tác tổ chức, tiếp tục sắp xếp tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đổi mới tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan, tổ chức chuyên trách làm công tác dân vận phù hợp với điều kiện mới. Đổi mới tổ chức bộ máy của cơ quan tham mưu chiến lược về công tác dân vận của Đảng ở Trung ương, các cơ quan tham mưu công tác dân vận của các cấp ủy, tổ chức đảng và tổ chức bộ máy của các tổ chức được giao nhiệm vụ làm công tác vận động quần chúng của Đảng đó là Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác dân vận. Đổi mới phong cách công tác dân vận theo hướng mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ đi đôi với nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm. Rèn luyện phong cách lãnh đạo công tác dân vận theo phương châm “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”, bám sát thực tiễn, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh, nói đi đôi với làm, coi trọng chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết thực tiễn. Đổi mới mạnh mẽ các khâu của công tác cán bộ từ đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đến đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm trong từng cấp lãnh đạo; thực hiện chính sách cán bộ, bảo đảm chọn và sử dụng đúng cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp chiến lược; quan tâm lựa chọn cán bộ tham mưu trong Ban Dân vận, cán bộ vận động quần chúng trong Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội hiểu biết, có kinh nghiệm vận động, có uy tín trong quần chúng nhân dân. 58 (4) Đổi mới việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; cán bộ, đảng viên phải tiên phong, gương mẫu thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, đoàn thể. Coi trọng việc kiểm tra, đánh giá đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Đồng thời, từng cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công, xây dựng mối quan hệ tốt với nhân dân. (5) Đổi mới cách tiến hành công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên về công tác dân vận. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, văn bản của Đảng về công tác dân vận đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị, các cơ quan, tổ chức, cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận. Định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm để chỉ đạo thực hiện công tác dân vận tốt hơn. III. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Vj ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác vận động quần chúng Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, để bảo đảm cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lật đổ sự 59 thống trị của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác xây dựng xã hội mới, cần có hai yếu tố cơ bản: một là, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra được một chính đảng độc lập, các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Hai là, quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, phải tự mình hiểu rõ đó là vai trò và vì sao mình phải tham gia. Trong lời nói đầu tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850, C. Mác viết: “Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy sinh tính mạng”1. “Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ là phải làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn”2, tức là phải tiến hành công tác vận động quần chúng. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta cần những đảng có liên hệ thực tế thường xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo những quần chúng đó”3. Và cho rằng người cộng sản nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ nêu lên tính cần thiết phải thực hiện vận động quần chúng, mà còn chỉ dẫn phương thức vận động quần chúng. Đây là những căn cứ lý luận vững chắc cho việc hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác __________________ 1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.22, tr.775, 776. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.285-286. 60 dân vận giai đoạn hiện nay, trong đó phải quan tâm một số nội dung chủ yếu sau: 1.1. Đảng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bằng mục tiêu, lý tưởng, chiến lược, sách lược Từ nhận thức sâu sắc về vai trò của quần chúng đối với lịch sử và cách mạng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt ra yêu cầu cần phải tập hợp, vận động quần chúng tin và đi theo mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu, lý tưởng xây dựng xã hội rõ ràng, đúng đắn và nhân văn là điều kiện tiên quyết cuốn hút sự quan tâm của quần chúng lao động. Nhiệm vụ của những người cách mạng trước hết là vạch ra mục tiêu, con đường đúng đắn nhất, phù hợp nhất với quy luật phát triển của lịch sử và ý chí, nguyện vọng của quần chúng. V.I. Lênin cho rằng: “Chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ. Những người cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại dương nhân dân. Họ chỉ có thể lãnh đạo nhân dân đi theo con đường của mình với điều kiện là họ vạch ra được con đường đó cho đúng, không những chỉ đúng theo hướng đi của lịch sử thế giới mà thôi. Về mặt này, chúng ta đã vạch ra con đường của chúng ta một cách tuyệt đối đúng, và mỗi nước đều đang chứng thực điều đó. Và ở Tổ quốc chúng ta, ở chính nước ta, chúng ta cũng phải vạch ra con đường đó một cách đúng đắn”1. Cương lĩnh của Đảng chính là ngọn cờ tập hợp quần chúng, nó phải bảo đảm tính cách mạng, khoa học và điều quan trọng là đảng phải chỉ rõ __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.117. 61 cho quần chúng nhân dân thấy được tính cách mạng, khoa học, đúng đắn đó. Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết”, V.I. Lênin chỉ ra: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”1. V.I. Lênin đã rất nghiêm túc trong xây dựng cương lĩnh của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai trái, cơ hội để bảo vệ cương lĩnh - kim chỉ nam cho hoạt động của cách mạng, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng đi đến thành công. V.I. Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải biết lắng nghe và tiếp thu những tâm nguyện của quần chúng, yêu cầu Đảng của giai cấp công nhân phải tập hợp, tổng kết những ý kiến của quần chúng làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách. Người cũng đề nghị tìm mọi cách để duy trì, phát triển và mở rộng những hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng, vì thông qua những hội nghị như thế, Đảng có thể: “... nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất trong số họ đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước v.v..”2. Trong điều kiện trở thành đảng cầm quyền, mục tiêu, lý tưởng của đảng trở thành chính sách, pháp luật của nhà nước, __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.208. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.39. 62 V.I. Lênin yêu cầu các chính sách ấy phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân: “... chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân, thì chúng ta mới quản lý nhà nước được. Nếu không, Đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình và tất cả bộ máy sẽ tan rã”1. 1.2. Đảng lãnh đạo công tác vận động quần chúng thông qua việc chăm lo lợi ích chính đáng cho quảng đại quần chúng lao động Xuất phát từ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, C. Mác cho rằng tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều gắn liền với lợi ích của họ. Cùng quan điểm với C. Mác, Ph. Ăngghen khẳng định không phải là ở những lý tưởng, những chân lý mà chính là lợi ích kinh tế, động lực thúc đẩy con người hành động: “Rõ ràng và cụ thể rằng nguồn gốc và sự phát triển của hai giai cấp lớn đó là những nguyên nhân thuần túy kinh tế. Và cũng rõ ràng là trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư sản, cũng như trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì trước hết, vấn đề là ở những lợi ích kinh tế - để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”2. V.I. Lênin cũng chỉ rõ: “những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng giá một xu nhỏ, chừng nào mà người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của chính __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.134. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.439. 63 ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế”1. Vì vậy, vận động quần chúng muốn thành công phải xuất phát từ lợi ích thiết thân của chính quần chúng nhân dân. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga còn lạc hậu, V.I. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề lợi ích kinh tế, nhất là lợi ích cá nhân, nếu không sẽ không tiến lên chủ nghĩa cộng sản được, sẽ không dẫn dắt được hàng chục triệu người đến với chủ nghĩa cộng sản. Phải lấy lợi ích kinh tế thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng nền kinh tế. Người viết: “Chúng ta nói rằng phải xây dựng mọi ngành kinh tế quốc dân quan trọng trên cơ sở sự quan tâm thiết thân của cá nhân”2. V.I. Lênin cũng chỉ rõ vai trò của lợi ích đối với hiệu suất của người lao động: “Sự quan tâm thiết thân của cá nhân có tác dụng nâng cao sản xuất”3. Theo V.I. Lênin: “Mọi công tác tuyên truyền của chúng ta đều phải lấy kinh nghiệm chính trị trong công cuộc xây dựng kinh tế làm cơ sở. Đó là nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất của chúng ta, và nếu ai muốn hiểu điều đó theo nghĩa cũ, thì người đó sẽ lạc hậu và sẽ không thể tiến hành được công tác tuyên truyền trong quần chúng công nông. Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế, để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng được những lúa mì và than đó được hợp lý hơn sao cho không còn có người đói nữa. Chính trị của chúng ta là phải như vậy. Và toàn bộ công tác cổ động và tuyên truyền của chúng ta đều phải dựa trên cơ sở đó. __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.510-511. 2, 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.207, 190. 64 Nên bớt những diễn văn hoa mỹ đi, vì không thể đem những diễn văn hoa mỹ ra mà làm cho người lao động hài lòng được”1. 1.3. Đảng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bằng tuyên truyền, vận động, thuyết phục C. Mác, Ph. Ăngghen cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng bản thân quần chúng cũng có những hạn chế về nhận thức: “Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao mình phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy sinh tính mạng. Đó là điều mà lịch sử trong 50 năm gần đây đã dạy cho chúng ta. Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ là phải làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn”2. Do đó, công tác giáo dục, vận động quần chúng cần phải được tiến hành thường xuyên. Theo Ph. Ăngghen, thường xuyên tiến hành công tác vận động quần chúng vì lợi ích thực sự của chính quần chúng. Quần chúng đông đảo là những người hăng hái nhiệt tình, cách mạng, nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài, gian khổ, khó khăn và có những lúc tạm thời thất bại, khiến cho quần chúng nhiều khi mệt mỏi, thậm chí thất vọng. Trong lời mở đầu cho tác phẩm của C. Mác Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850, Ph. Ăngghen khẳng định: “Thật thế, tinh thần cách mạng ấy của quần chúng hầu như luôn luôn và thường nhanh chóng nhường chỗ cho sự mệt mỏi hay __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.483. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.22, tr.775. 65 thậm chí cho sự chuyển sang một hướng trái ngược lại, khi mà ảo tưởng đã bị tiêu tan và niềm thất vọng đã nảy sinh ra. Nhưng vấn đề ở đây không phải là những bề ngoài giả dối mà trái lại là sự thực hiện những lợi ích đặc biệt nhất của chính đại đa số quần chúng, những lợi ích tuy lúc bấy giờ chưa được đại đa số quần chúng đó nhận rõ, nhưng do mặt thuyết phục của tính hiển nhiên của chúng, nên chẳng bao lâu sẽ được quần chúng thấy khá rõ, trong quá trình thực hiện thực tế”1. C. Mác - Ph. Ăngghen xác định đối tượng và mục đích công tác tuyên truyền vận động quần chúng là quảng đại quần chúng chứ không phải là lôi kéo đây đó những cá nhân hay nhóm hội viên riêng biệt khỏi phe đối lập mà là phải hoạt động trong quần chúng đông đảo chưa tham gia phong trào. V.I. Lênin cho rằng, đảng cần tuyên truyền để thu hút quần chúng, những tầng lớp rộng rãi nhất một cách toàn diện dù trình độ và thái độ chính trị của họ có thể rất khác nhau, để họ tham gia vào tất cả các công việc hoạt động xã hội, tự giác và cách mạng: “nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng. Phải biết tự nguyện chịu mọi hy sinh, vượt những trở ngại lớn nhất, để tiến hành một công tác tuyên truyền và cổ động có hệ thống, bền bỉ, dẻo dai và nhẫn nại chính ngay trong các cơ quan, các hội, các tổ chức - thậm chí phản động nhất - nghĩa là bất cứ ở chỗ nào có quần chúng vô sản hay nửa vô sản”2. V.I. Lênin luôn đặt niềm tin nơi quần chúng, trong biên bản “Những diễn văn tại phiên họp của Ban Chấp hành __________________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.22, tr.760-761. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.45-46. 66 Đảng bộ Mátxcơva về việc tổ chức những nhóm cảm tình với Đảng” ngày 16 tháng 8 năm 1918, Người khẳng định: “Cần phải tỏ ra tin tưởng quần chúng công nhân hơn nữa và biết thu hút lực lượng trong quần chúng. Đây là những biện pháp cần thiết để làm điều đó: thu hút vào đảng những thanh niên và đoàn viên công đoàn có cảm tình với đảng”1. V.I. Lênin yêu cầu tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng lao động để cùng nhau đấu tranh thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa: “phải đem học thuyết cộng sản chân chính dành cho những người cộng sản ở các nước tiên tiến hơn, dịch ra tiếng nói của mỗi dân tộc; phải hoàn thành những nhiệm vụ thực tế cần hoàn thành tức khắc, và phải liên hiệp với vô sản ở các nước khác để cùng nhau đấu tranh... nên mở đường đi vào quần chúng lao động và bị bóc lột của mỗi nước, và nói làm sao cho họ hiểu được rằng mối hy vọng duy nhất của họ muốn được giải phóng, là thắng lợi của cách mạng thế giới, rằng giai cấp vô sản quốc tế là người bạn đồng minh duy nhất của hàng trăm triệu người lao động và bị bóc lột thuộc các dân tộc phương Đông”2. Theo V.I. Lênin: “Chủ nghĩa cộng sản phải là cái dễ hiểu đối với quần chúng công nhân, như công việc riêng của họ... đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không còn là một cương lĩnh, không còn là một học thuyết, không còn là một nhiệm vụ nữa, ngày nay đối với chúng ta đó là công cuộc xây dựng cụ thể”3. V.I. Lênin cho rằng, cách thức tuyên truyền, vận động quần chúng là phải biết chỉ dẫn và giải thích cụ thể cho __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.37, tr.55. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.373-374. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.483-484. 67 quần chúng biết rõ những khó khăn, phải dồn hết tinh thần nghị lực vượt qua để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể. Đó cũng chính là nguyên nhân thắng lợi của Đảng và chính quyền Xôviết: “Nguyên nhân những thắng lợi của chúng ta là ở chỗ đảng ta và Chính quyền Xôviết đã trực tiếp chỉ ra cho quần chúng lao động thấy hết mọi khó khăn trước mắt và nhiệm vụ trước mắt; đã biết giải thích cho quần chúng hiểu vì sao lúc này phải dồn hết sức cố gắng vào mặt này, lúc khác lại phải dồn hết sức cố gắng vào mặt kia của công tác Xôviết; đã biết phát huy nghị lực, tinh thần anh dũng và nhiệt tình của quần chúng, tập trung sức cố gắng cách mạng cao độ vào nhiệm vụ trước mắt, quan trọng nhất”1. Đảng phải có phương pháp tuyên truyền, giáo dục quần chúng để đưa quần chúng lên địa vị của những người tự giác trong đấu tranh cho tự do: “Phải sử dụng vào việc tuyên truyền và cổ động chính trị, tất cả những hiện tượng và biến cố trong đời sống xã hội và chính trị có quan hệ đến giai cấp vô sản, hoặc một cách trực tiếp như đối với một giai cấp riêng biệt, hoặc như đối với đội tiền phong của tất cả các lực lượng cách mạng đang đấu tranh cho tự do”2. Công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng vừa đòi hỏi tính nghệ thuật, vừa đòi hỏi sự kiên trì và thận trọng, nhằm nâng cao năng lực nhận thức và sự giác ngộ lý tưởng của Đảng Cộng sản, những người cộng sản phải liên minh với người nông dân lao động bình thường một cách thận trọng, chắc chắn, không được nôn nóng “phải tiến cực kỳ chậm, vô cùng chậm” hơn mức mà ta mơ tưởng, phải có __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.346. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.106. 68 chính sách để “làm sao tất cả quần chúng nông dân đều thật sự tiến lên cùng với chúng ta”1. “Cần phải giáo dục lại quần chúng; chỉ có tuyên truyền và cổ động mới có thể làm được việc đó; trước hết, cần phải làm cho quần chúng tham gia xây dựng đời sống kinh tế chung. Đó phải là nội dung chủ yếu và căn bản của công tác của mỗi người cán bộ cổ động và tuyên truyền, và khi người đó hiểu thấu điều đó, thì thắng lợi trong công tác của họ sẽ được đảm bảo”2. Con người là chủ thể của hành động, nên họ chỉ thực sự hành động có kết quả cao khi họ hiểu thực chất nội dung, ý nghĩa công việc họ sẽ tham gia. V.I. Lênin khẳng định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đầu tiên là phải hiểu thế nào là chủ nghĩa xã hội, phải thấu hiểu sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. V.I. Lênin chỉ rõ chủ nghĩa xã hội chỉ thắng lợi nếu bản thân quần chúng tự giác và tiến hành các hoạt động sáng tạo. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I. Lênin chỉ ra vai trò của văn hóa, thông tin, tuyên truyền. Người cho rằng văn hóa, thông tin là công cụ đắc lực của công tác tư tưởng, là phương tiện tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh sắc bén của Đảng. Đảng phải xác lập được quyền lãnh đạo tuyệt đối của mình trên lĩnh vực này, lãnh đạo lĩnh vực này đạt hiệu quả cao. 1.4. Đảng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bằng công tác tổ chức, cán bộ Cán bộ và công tác tổ chức, cán bộ là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mạng, V.I. Lênin cho rằng: “Trong lịch sử, __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.94. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.484. 69 chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”1. Người còn viết: “Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản”2. V.I. Lênin còn nhấn mạnh: “Cục, vụ là những thứ bỏ đi; sắc lệnh cũng là thứ bỏ đi. Tìm người kiểm tra công việc - tất cả là ở đó”3; và do đó: “Nhiệm vụ tổ chức của chúng ta chính là ở chỗ tìm ra những nhà lãnh đạo và những nhà tổ chức trong quần chúng nhân dân. Công tác to lớn, vĩ đại ấy, ngày nay trở nên cấp thiết. Nếu không có Chính quyền Xôviết, một bộ máy chọn lọc có khả năng đề bạt nhân tài, thì thậm chí người ta cũng không thể nghĩ đến chuyện hoàn thành công tác đó được”4. V.I. Lênin còn chỉ dẫn những phương thức đào tạo, tuyển chọn cán bộ cho phong trào cách mạng: “Những công nhân tiên tiến, được mọi phong trào công nhân đưa lên hàng đầu, thì chủ yếu đều từ trong các tầng lớp ấy mà ra; họ biết tranh thủ được lòng tin cậy hoàn toàn của quần chúng công nhân, họ toàn tâm, toàn ý chăm lo giáo dục và tổ chức giai cấp vô sản, __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.473. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.80-81. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.451. 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.35, tr.333. 70 họ tự giác đi theo chủ nghĩa xã hội;... Mọi phong trào công nhân có sức sống đều đào tạo ra được những lãnh tụ công nhân”1. “... nếu bây giờ chúng ta hiểu rõ sự cần thiết phải thu hút rộng rãi các tài năng tổ chức mới tham gia vào sự nghiệp quản lý nhà nước, nếu chúng ta - xuất phát từ chính những nguyên tắc của Chính quyền Xôviết, - có thể đề bạt một cách có hệ thống những nhà hoạt động đã được thử thách qua thực tiễn trong lĩnh vực ấy, thì chúng ta sẽ có thể trong một thời gian ngắn đạt tới chỗ là trên cơ sở những nguyên tắc được Chính quyền Xôviết phát triển, được đưa vào quần chúng và sau đó được quần chúng thực hiện dưới sự kiểm soát của các ủy viên của các cơ quan Xôviết, đại diện cho quần chúng - cả một lớp mới những cán bộ tổ chức sản xuất thực tiễn sẽ được đề bạt, sẽ giành được vị trí của mình, sẽ có một địa vị lãnh đạo xứng đáng”2. V.I. Lênin đề ra những yêu cầu riêng đối với cán bộ hoạt động trong công tác quần chúng: “muốn “phục vụ” một phong trào quần chúng thì cần phải có những người đặc biệt chuyên và hoàn toàn chuyên về hoạt động dân chủ - xã hội, và phải bền bỉ, kiên quyết tự rèn luyện mình thành những người cách mạng chuyên nghiệp”3. Đồng thời, Người chỉ ra những vấn đề cần thiết trong xây dựng đội ngũ cán bộ: “đấu tranh không khoan nhượng chống hiện tượng không dứt khoát, không rành mạch về nhiệm vụ được giao cho mỗi người, và chống tình trạng hoàn toàn vô trách nhiệm do hiện tượng đó gây ra”4. __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.339. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.177-178. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.161. 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.181. 71 Khi viết về vai trò của tổ chức, V.I. Lênin đã đưa ra luận điểm rất ngắn gọn và nổi tiếng: “hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!”1. V.I. Lênin luôn quan tâm đến việc tổ chức công đoàn trong giai cấp công nhân: “giai cấp vô sản ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa công đoàn và đảng của giai cấp công nhân, chứ không thể bằng con đường nào khác... Vì thế, đảng phải giáo dục, lãnh đạo công đoàn”2. “Tóm lại, chúng ta có một bộ máy vô sản, về hình thức thì không phải là cộng sản, một bộ máy mềm dẻo và tương đối rộng rãi, rất mạnh, một bộ máy mà thông qua đó đảng liên hệ chặt chẽ với giai cấp và với quần chúng và thông qua đó, chuyên chính của giai cấp được thực hiện dưới sự lãnh đạo của đảng. Nếu không có sự liên hệ hết sức chặt chẽ với công đoàn, không được công đoàn nhiệt liệt ủng hộ, không có công tác đầy hy sinh tận tụy của công đoàn không những trong công cuộc kiến thiết kinh tế mà cả trong việc tổ chức quân sự thì dĩ nhiên là chúng ta không thể quản lý được nhà nước và thực hiện được chuyên chính, tôi không nói trong hai năm rưỡi, mà ngay cả trong hai tháng rưỡi cũng không được”3. Bên cạnh đó V.I. Lênin cho rằng, cần phải có nhiều hình thức tổ chức để bảo đảm những người cách mạng được rèn luyện trong các cuộc đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.162. 2, 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.42, 38-39. 72 phong phú khác nhau, kể cả đấu tranh nghị trường. Khi nghiên cứu việc tổ chức đấu tranh của các Đảng Cộng sản tại các nước tư bản, V.I. Lênin chỉ rõ nhiều người lao động vẫn còn tin vào chế độ đại nghị tư sản, do đó: “đảng của giai cấp vô sản cách mạng vẫn buộc phải tham gia tuyển cử vào nghị viện và đấu tranh nghị trường, như thế chính là để giáo dục những tầng lớp lạc hậu trong giai cấp mình, chính là để thức tỉnh và giác ngộ quần chúng vô học, bị áp bức và dốt nát ở nông thôn”1. Trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản, V.I. Lênin khẳng định: “Không có một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, không có một đảng được sự tín nhiệm của tất cả những phần tử trung thực..., không có một đảng biết nhận xét tâm trạng quần chúng và biết tác động vào tâm trạng đó thì không thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh ấy được”2. V.I. Lênin đã nêu hình ảnh của một đảng kiểu mới, đó là đảng có ý chí sắt đá, được tôi luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng, xây dựng được niềm tin nơi quần chúng, giác ngộ quần chúng đi theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng. 1.5. Đảng lãnh đạo công tác vận động quần chúng bằng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên V.I. Lênin phê phán những đảng viên, cán bộ, tổ chức đảng không gương mẫu, không dũng cảm hoặc “ít dùng những điển hình, những tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong mọi lĩnh vực __________________ 1, 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.53, 34. 73 của đời sống, để giáo dục quần chúng”1. Người yêu cầu thực hành phương pháp lấy kinh nghiệm lâu dài, lấy ví dụ thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc; mở rộng dân chủ, công khai làm cho mọi người dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước. “... Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán được về mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức”2. V.I. Lênin cho rằng, xây dựng một phong trào quần chúng tự giác tham gia vào sự kiến thiết chủ nghĩa cộng sản không phải chỉ bằng bàn tay pháp luật mà phải bằng cả sự vận động quần chúng, bằng phương pháp nêu gương tham gia tự giác vào công việc cụ thể chứ không phải chỉ bằng lời nói. Khi giành được chính quyền, V.I. Lênin dành sự quan tâm đặc biệt đến xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền mà một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất là xây dựng người cán bộ thực sự gương mẫu: “sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”3. Người còn viết: “Với một sự nhạy cảm rất tài tình, quần chúng cần lao nắm được sự khác nhau giữa những đảng viên cộng sản trung thực, tận tụy và những kẻ đang làm cho những người sinh sống bằng mồ hôi nước mắt của mình, những người không có chút đặc quyền đặc lợi, không có “đường thăng quan tiến chức”, phải chán ghét”4. __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.37, tr.109. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.35, tr.23. 3, 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.608, 152. 74 Trách nhiệm của đảng viên là phải thể hiện được tính tiên phong trước quần chúng, nêu gương trước quần chúng trong công việc được đảm nhiệm, phải nhận và hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình: “Không có gì có thể làm tăng thêm uy tín của đảng cộng sản ở thành thị, nâng cao lòng kính phục của những công nhân ngoài đảng đối với những người cộng sản,... một khi những công nhân ngoài đảng trên thực tế đã thấy rằng các đảng viên của đảng cộng sản đang cầm quyền đã gánh lấy những nghĩa vụ của mình, rằng việc những người cộng sản kết nạp đảng viên mới vào đảng, không phải là để cho những đảng viên này lợi dụng địa vị của một đảng đang chấp chính để được hưởng những lợi lộc nào đó, mà là để họ nêu lên những tấm gương lao động thật sự cộng sản chủ nghĩa, tức là lao động không công”1. V.I. Lênin yêu cầu cao trong xử lý cán bộ vi phạm: “Tòa án phải trừng phạt các đảng viên cộng sản một cách nghiêm khắc hơn là đối với những người không phải đảng viên cộng sản. Nếu không chấp hành chỉ thị này, các thẩm phán nhân dân và các ủy viên ban lãnh đạo Bộ dân ủy tư pháp sẽ bị đuổi ra khỏi cơ quan làm việc”2. Và “phải gạt bỏ ra khỏi đảng những phần tử xa rời quần chúng (cố nhiên không cần nói đến những phần tử làm ô danh đảng trước quần chúng)”3. Từ kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo chính quyền Xôviết, V.I. Lênin đưa ra những chỉ huấn rất sâu sắc: Mỗi người cộng sản nếu không tự bôi nhọ đạo đức, thanh danh của mình, __________________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.428-429. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.45, tr.64. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.152. 75 thì không kẻ nào có thể hạ thấp được vai trò và uy tín của họ; tuyệt nhiên không một thế lực nào có thể phá vỡ được quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng nhân dân. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. Đó chính là phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Trên con đường cứu nước, sau khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Người đã hình thành tư tưởng đầu tiên về phương pháp cách mạng: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”1. Muốn vậy, cần phải truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Việt Nam, từ đó thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Con đường cách mạng chung nhất đã sớm định hình trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là tập hợp và huy động lực lượng của toàn dân vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra cách tổ chức tập hợp công nhân, nông dân vào công hội, nông hội, người buôn bán vào hợp tác xã. Thông qua báo Thanh niên, Người đã hướng dẫn việc tổ chức, __________________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209. 76 tập hợp thanh niên, phụ nữ, học sinh, binh lính, phụ lão. Khi phong trào cách mạng đã lan tỏa rộng khắp các tầng lớp nhân dân, đã hình thành tư tưởng về việc lập Mặt trận dân tộc thống nhất, dẫn tới việc thành lập hình thức tổ chức Mặt trận Tổ quốc đầu tiên là Hội phản đế đồng minh (năm 1930) và tiếp sau đó là các hình thức tổ chức khác của Mặt trận Tổ quốc với nhiều tên gọi thích ứng với từng thời kỳ cách mạng. Lập Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là một nét đặc sắc trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Đường Kách mệnh chỉ rõ người lãnh đạo phải học cách lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo quần chúng đứng lên làm cách mạng. Người viết: “Mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng”1. Từ đó đến nay đã chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc, chứng minh tính đúng đắn của phương pháp cách mạng dựa vào lực lượng quần chúng được giác ngộ, từ quần chúng mà ra rồi lại trở về với quần chúng. Như vậy là thực hiện phương pháp cách mạng “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, trao vũ khí vào tay quần chúng để họ tự giải phóng, thực hiện tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin là làm cho sự nghiệp cách mạng trở thành sự nghiệp của hàng chục triệu quần chúng chứ không phải của một số ít người. Trong Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng. Đảng phải __________________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.282. 77 thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, hết sức liên lạc với tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và các đảng phái phi vô sản để lôi kéo họ đi về phía giai cấp công nhân đồng thời phải đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế. Đó là phương pháp lãnh đạo đúng đắn, nhờ đó mà mục tiêu vạch ra trong đường lối cách mạng đã được thực hiện một cách thắng lợi ngay từ khi Đảng được thành lập. Nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng, không thể quên câu nói bất hủ mà Người đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng năm 1946 khi lên đường sang Pháp: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tinh thần cơ bản của câu nói này nói lên sự kết hợp biện chứng giữa chiến lược và sách lược. Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin là nguyên tắc, là cái bất biến. Cái vạn biến là mang tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích, soi sáng thực tế, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ bản chất của sự thật, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu giải quyết đúng đắn và thành công những vấn đề do thực tế cuộc sống đặt ra. Không có một khuôn mẫu, một mô hình định sẵn cho một cuộc cách mạng, một công cuộc xây dựng đất nước. Tính phong phú, đa dạng của cái vạn biến cho phép những người cộng sản tránh được sai lầm giáo điều, rập khuôn. Song tính phong phú, đa dạng ấy không cho phép phủ nhận, thoát ly những cái bất biến. Sự nhân nhượng hay đổi chác những vấn đề nguyên tắc để chạy theo những lợi ích trước mắt, là hành động cơ hội chính trị tồi tệ và xấu xa nhất. Mục tiêu cơ bản của sự nghiệp cách mạng không thể thay đổi, đó là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc 78 """