🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đô thị cổ Bắc Kinh
Ebooks
Nhóm Zalo
BỘ SÁCH QUY HOẠCH KIỂN 1 RÚC CÁC THỦ ĐÔ PGS. TRẦN HÙNG
ĐÔ THỊ Cổ
BẮC k in h
NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỰNG
HÀ NÒI - 2003
Đõ thị cổ Bắc Kinh
MỤC LỤC
TraiĩíỊ
1. KHÁI ỌLIÁT VỀ LỊCli SỬ 5 2. NI lĩiNlG CẤU I RÚC ĐÀC TRUNlG ĐÔ THỊ c ổ BẮC KINH 14 Tứ Cấm ihành - Tiền Tam điện - Hậu Tam cung - Ngự viên
3. NHŨNG TỔNG TĨIỂ DI SẢN KIẾN TRÚC TIÊU BIẾU 48 Thiên dàn - Di Hòa \'iên - Thập Tam lăng - Vạn lý trường thành
4. KIẾN TRÚC TÔN G I Á O - T Í N NGUỠNG 72 5. VDDNc; 1>! lú VÀ NIlÀ ở TRUYỀN TllỐNG 94 6. BA('KIN11:NMŨNG NỖ LỤC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN iOl PHU LUC : MỔT s ố niÔ N G TIN DU LÍCH VÃN HÓA 118
Đô thị c ổ Bắc Kinh
1.
KHÁI QUÁT VỂ LỊCH sủ
Vina Bắc Kinh dược coi là một trong những cái nôi ra đời loài người. Từ 70 vai năm irước "người vượn Bắc Kinh” đã sinh Sống và phát triển tại Chu Khẩi Điếm (phía lây nam thành phố Bắc Kinh). Vào thời Nghiêu Đ ế ở Bắc Kinh đã hình lliànli đỏ ấp oọi là u Đỏ. Đốn thế ký thứ hai trước Công nguy}n íỉiái bìiih nmiyèn Bác Kiiih trở thành clâì phân phong cho chư hầu của rhà Chu, dỏ l;ì uáe Ịihnng quốc; nước Kc và nước Yến. Đô Ihàiih của Iiưức Kế là thành Kè ỏ' vị trí Quáng An môn phía tây nam thành phố Bắc Kinh ngày nay. Vẽ sau nirớc Yến thốn tính nước Kế, dời đô thành của mình sang thành Kế. Nirớc Yến trớ ihanh nước chư hầu duy nhất của nhà Tây Chu ờ khỉ vực Bắc Kinh lúc bây uiờ. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Yến là một ronu báy nirớc lớn và thành Kế đã là đô thành nổi tiếng. Năm 226 tCn, dại tiứng nhà l a n là Vươim Tiẻn đánh hạ thành Kế, nước Yến bị diệt vong. Sau íhi nhà Tán thốnsi nhất Trung Quốc vào nãm 22! tCn, thành Kế bị sáp nhập vào inộl tronií sáu quận của nước Yến. Nhà Tần cho xây dựng con ctưừn' oiao tliỏn.i’ lừ Hàm Dưona đến thành Kế và từ đó thành Kế là đầu mối - o ^ c? liên lộ ỉĩiữa chính quycn trurm ương của người Hán với các dân tộc thiểu số phia )ắc, Thành Kố thời Tây Hán như miêu tá trons Sử ký của Tư Mã Thiên, là đô thị lớn năm gÌLÌa Bòt Hai \ à Kiệt Thạch, phía nam thông với Tế Triệu, (tông bắc tiếp aiáp veSi iiíỊưùi Hổ. Thành Kế thời Tùy Đường khá nổi tiếng
tiởi V trí quán sự Irọna ycu làm căn cứ lập kết binh mã để đánh sang phía (lông Đườns Thái Tỏno từriiỉ dán quàn đến thành Kế (lúc ấy gọi là u Châu), sau C JỘ C chiến ôna đã cho xàv dưng ngôi chùa Mẫn Trung để tưởng niệm các tiứiie sì dã chếl trán, Niỉòi chùa được irùim lu nhiều lần đến nay vẫn là inội (gôi chùa quaii Iroiiíi cùa ihành phố Bác Kinh.
5
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
Từ sau nhà Đường, Trung Quốc rơi \ ào tình trạns phân liệt, dân tộc Kliiết Đan ở đông bắc Trung Quốc tiên xuốna phía nam chiếm u Châu dặl qiưốc hiệu là Liêu (906 - 1125), lâv u Châu làm kinh đỏ phụ \’ới tên gỌi V é n Kinh. Do nước Liêu rất thịnh hành đạo Phật nên nhiều dền đài Phật tíìáci dã được xây dựng ớ nội ngoại Ihành Yên Kinh, đến nay \'ẫn còn ngôi tihùa Thiên Ninh được xây dựng thời Bắc Ngụv. Sang thế kỷ Xll từ hậu phư(J'ng của nước Liêu bộ tộc Nữ Chân hưnẹ khới đã lập nôn nhà Kim (1 115 - 12/34), tiêu diệt nước Liêu và cá Bắc Tốne đế khỏníì chế toàn bộ khu vưc Hoa Bắo. Người Kim dời đô từ phú Hội Ninh {đỏng bác Trung Quốc) đến \'ị trí Bãc Kinh ngày nay. Trên cơ sớ thành Nam Kinh cúa nhà Liêu, nhà Kim bà 'dáu xây dựng mớ rộng kinh dô lấy tên là Triirìị; Đó, việc xây dựng nàv (lư íc cui là bước nhảv vọt đối với lịch sứ phát Iriến cúa Bác Kinh. Từ đáy, Bãc K inh bắt đầu trớ thành truna lâm thông trị cùa các vươiia Irieu phong kiến.
Vào thế kỷ XIII người Môn» c ố ticìi xuónu phía nam liêu diệl nhà K ini. chiếm Trung Đô vào nãin 1213 và đếii năm 1260 líỏì 'l ất Liệt dã quyẽ diịnh xây dựng kinh đô tại đây, lãy tòn lù Đại Đỏ. Đại Đò là mọt irong nlnìii;: k.inh thành rất phồn thịnh lúc bấy ụiờ. Các sán vậl quý hiêni từ các nơi d':U tập trung về Đại Đô.
Tháng 9 năm 1368 quâii Minh liến dánh Đại Đỏ, nhà Ntiuyên diệl \'c>ng. Chu Nguyên Chương đổi Đại Đò thành Bắc Binh phona cho con irai hiứ lư là Chu Đệ hiệu là Yến Vươnu, lúc này nhà Minh định dò tại Nam Kiinli. Sau khi Chu Nguyên Chưưno mất, Yên Vưoim cirớp imôi từ ta\ Muệ Oố lập Minh Thái Tố (Minh Vĩnh Lạc). Minh Vĩnh Lạc quvết dịnh lấy Bấc B ìn h
làm thủ đô và đổi tên thành Bắc Kinh. Minh Vĩnh Lạc tiến hành xiy càì cung thành Bắc Kinh đại quy mô kéo dài trong 15 nãm \'à hoàn Ihành và) riãin 1420. Tử cấm thành và Hoànư thành là trung tâm của đ ế đỏ lúc bấy aiờ.
Chu Nguyên Chương tức N4inh Thái Tố, vị Hoàng đc đầu tiên CLa nlià Minh (tại vị năm 1386 - 1399) là nuười xuâì ihân ironsi mộl aia đìnl' iKÒiig dân nghèo khổ. bản Ihân là một hòa thưựne nghèo. Thánụ íiiông năm Hiồiig Vũ Nguyên niên (1368). ỏng xưna \'ua ớ phu Úii2 Tliiên (nay là Nam Ciinh). quốc hiệu là Minh. Lúc này ônt’ bát đầu suv nghĩ nẽn xâv dựng kinh cò ciia Triều Minh ở đâu.
Đô thị c ổ Bốc Kinh
Trước hết, Chu Nau vón Chưoìiiỉ di Biện Lương (Khai Phong ngày nay), thấy ớ đó dân sinh nuhèo khô, aiao ihỏníỉ hết sức khó khăn bèn từ bỏ ý định xây dựng kinh đô ỏ' lỉiộn Lưoìii:. Có niỉười lâu với ông, cho rằng ở phủ Bắc Bình (Bắc Kinh ngày na>) cunti tliâi hoàn chính, có thể tiết kiệm được sức (lân. Chu Nguyên Chưoìm CỈIO rãiiii. Bãc Bình là cỏ dô thời nhà Nguyên mà ihõ’ lực cúa người Nauycn ván CÒII lưu lại ứ miền Bắc, nay thừa kế kinh đô cũ, c rằng không thích họp. Từ đỏ \'C sau, ý dổ xày dựng kinh đô tại quê liương luôn thôi thúc Cliu Nuuycn Chưưiig. Cuối cùng ông quyết định xây (lựng cung điện ứ Lâm i lào (l’hưọne Diíơng ngày nay) thuộc lỉnh An Huy, lấy hiệu là Trunư Đò. Từ Iiàni ihú 2 niên liiệu Hồng Vũ (1369) đến năm 1375, c;ông trình mới xây tlựng dirưc lam nam. khi sãp xây xong, ông lại ra lệnh đình chi xây dựng, không xâv dựng kinli (lò ớ Phưựiig Dương nữa nià lấy Nam Kinh làm kinli dỏ, l^hượiii’ 13Lioìie là kiiih dỏ phụ. \'ản gọi là Trung Đỏ.
Và cuối cùiiỉi ỏng lại L|uytM dinh lay Bác Kinh làm đỏ thành chính của iricu đình. Nain thứ 4 Iiicii liicu Vĩnh Lạc, con trai ihứ tư của Chu Nguyên Chưcma (1406) là Chu Đc (lức Minh 'ĩhànli 'lồ) hạ chiếu xáv dựng thành Bãc Kinh, Hoàim CUIIU \ à 'ỉìr Cấm llianli. Nám Cìia Tĩnh thứ 23 (1553) xâv (Jựng Ihẽm bức ihàiih bén Iiiỉoài ó' phía dông nam và tây Iiam của Đại ihànli (nay là khu SÙII” Văn. ruycii Vũ), lừ dó hình thành rõ bộ mặt cùa nội ngoại thành.
Tử Cám thành ihừi nlià Minh dược xáv dựng phỏng theo các cung điện ớ Trung Đò cúa nhà Minh hoàn ihiện thCMii. Việc xây dựng thành Bắc Kinh và .Tứ Cấm thành dược lièii tục liến hành từ thời kỹ đầu cho đến thời kỳ cuối Iihà Minh.
Nội tliành cúa Hãc Kinh Irước đá\ có ba lớp thành quách, phía ngoài là ihành nội hình chữ nhái; pliía trong là 'Tử Cấm thành, CŨIIR hình chữ nhật; ờ bên Iigoài cúa Tử Câni ihành. bẽn tron” cúa thành nội còn có một bức thành. Jó là Hoànụ thành. Tiền môn cúa Hoàntỉ thành, thời nhà Minh eọi là Đại Minh môn, íhời Iihà Tliaiih ”oi là Đai Thanh môn, sau cách mạng Tân Hợi iiọi là Truno Hoa niõii (iháp kv 50 đã húy bỏ), Thiên An mòn là cứa chính cúa Hoàim thành: Đia An inõii là cưa băc của Hoàníỉ thành, phía dỏng tây là Đỏng Aii môn \'à 'I'áy An inỏn. Niíoài Thiéii An inỗn ra, các cứa thành khác đều khòiig có thành lầu. 'ĩliời kỷ dầu nhà Minh. Thiên An mòn cũng giổim
7
Đô thi cô Bắc Kinh
ba cửa thành khác sau được cái lạo lại như ngày nay. Hai bên của Thành iầu Thiên An môn có bức tườnơ màu đỏ, chạy dài theo hướnơ đóng tây dọc phố Tràng An đến phía tây khách sạn Bắc Kinh.
Thời Minh Thanh. Bắc Kinh có tất cả hai mươi cứa thành (khỏntĩ kẽ Tử Cấm thành), trong đó thành nội có chín cửa ỉíồm: Chính Dương môn (Tiền môn), Sùng Văn môn, Tuyên Vũ môn, Đône Trực mòn, Triều Dương món, Phụ Thành môn, An Định môn, Đức Thắng môn. Thành ngoại có báv cửa: Vĩnh Định môn, Tả An môn, Hữu An môn. Quáng Cừ môn. Quảng Ninh môn, Đỏng Tiện môn. Táy Tiện mòn. Bốn cổne trong Hoàng thành: Đai Minh môn (sau cách mạng Tân Hợi đổi thành Trung Hoa môn, sau bị dờ bỏ) Đông An môn, Tây An món, Bắc An môn (thời nhà Thanh gọi là Địa An môn), nay là Hòa Bình môn cúa Thành nội, Phục Hưng môn. Kiến Quốc môn đều mới được hình thành sau cách mạnu l ầ n Hợi.
Cửa của thành nội, lúc đầu được xâv bô cục đối xứng, Đông Trực môn đối xứng với Tây Trực môn, Triều Dưcmg mòn dóì xứng vói \’ới Phụ Thàiih môn, Sùng Văn môn đối XLÌìm với Tuyên Vũ mon, Đức Tliàim môn đôi xứng với An Định môn.
Chính Dương môn nằm trên tuyến trục uiĩm Bãc Kinh là cửa chính. Sùng Văn môn ở bên trái Cliính Dươnu môn đuợc coi là nơi tổn sùng văn giáo. Tuyên Vũ môn ở bên phải, ớ đâv có doanh irại quân dội \'à sân dấu võ. Phía tây là Phú Thành môn maiiiỉ ý nghĩa "Vật phú clân an". Phía bắc là An Định môn mang ý nghĩa Ihái bình an khang. Đức Thắng môii có nghĩa là "Lâm trận biên cương, đức (đắc) thăng trớ về". Quân đội thừi Minh, Tlianh khi xuất trận phải đi qua Đức Thắna môn, khi irở vể thì qua An Định môn để lấy may mắn. Như vậy tén mỗi cổng thành đều có mang nhũìig hàm ý khác nhau.
Năm 1644 Lý Tự Thành dẫn quân khới níỉhĩa nòna dàn liến vào Bắc Kinh chiếm Hoàng thành. Ône vua cuòi cùníĩ của nhà Minh là Sùng Trinh đã tự vẫn trên núi Vạn Thọ và nhà Minh diệt vone. Quàn Thanh đưọ'c sự giúp đỡ của hàng tướng nhà Minli Neỏ Tam Quế đánh cỈLiổi quân khới n»hĩa Lv Tự Thành liến \'ào Bắc Kinh lạp nón triổu Thanh \'à là iricu đai phoiig kiến cuối cùng của Trung Quốc. V'ề CO' bãn nhà Thanh \’ăn sứ dụiiíi kinh ihàiih nhà Minh xâv cất nhiổLi lâm \ icii quan irọĩiH (Sưưnt> Xuân \ ÌL'n. Viên Minh \'icn.
8
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Tĩnh Minh viên, Tinh Tuvển viên, Di Hòa viên, trona; đó Di Hòa viên có quy mô rộng lớn và tráno lệ hơn cả).
Cách mạng Tân Hợi nãm 1911 đã kết thúc triều Thanh, nước Trung Hoa Dàn Quốc ra đời. Thời kv đầu Truii2 Hoa Dân Quốc vẫn lấy Bắc Kinh làm thú đô. Trong thời kỳ Bắc Kinh còn nằm dưới sự ihốna trị của đế quốc và phoiig kiến, nơi đâv đã diền ra những phong trào đấu tranh cách mạng nổi tiếng như Phoiiíỉ trào Duy Tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu nãm 1898, phonụ trào khới nghĩa nông dân Nghĩa Hòa Đoàn 1900, đặc biệt có phong trào Ngũ Tứ nổ ra ớ Bắc Kinh năm 1919 đã mớ ra mội kỷ nguyên mới cho phong trào cách mạim Truníí Quốc. Trải cỊLia các cuộc cách mạng, ngày 31/01/1949, Bãc Kinh được giải phóng. Ngày 01/10/1949 tại quảng trườníì Thiên An môn, chu lịch Mao Trạch Đôní’ irang Irọng tuyên bố: Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dưọ'c Ihành lâp. c ỏ dỏ Bắc Kinh trớ thành thủ đô của nước Truiig Hoa niới.
Ngày nay Bác Kinh là lliú đô nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, là irung tàm chính trị vãn hóíi. khoa học kỹ Ihuật của cả nước và là trung lâm iỉiao lưu giữa Truiiíi Hoa vó'i thế giới. Thành phò Bắc Kinh có diện tích I6.808km' (khu vực nội Ihành 2738kưr). Bắc Kinh đưọ'c lổ chức thành 1 1 phân khu, đó là các khu: Đòng Thành, Tây Thành, Tuyên Vũ, Sùng Vãn, Tnều Dương, Hái Đièn, Thạnh cảnh Sơn, Phong Đài, Môn Đầu Câu, Phòng Sơn, Thôno Cháu; phân ngoại ihành có 7 luiycn, dó là các huyện Đại Hưng, Thuận Nghĩa, Bình Cốc, Mật Ván, Hoài Nhu, Diên Khánh, vSưưng Bình.
Bác Kinh là ihành phò có cơ sứ hạ tầna được xây dựng hiện đại nhất trong các dó Ihị Trung Quỏc, Tổng cộns chiều dài các tuvến đườnẹ giao ihông đạt liêu chuẩn cao lên tới hàng chục nụhìn ki-ló-mét, rất nhiều cầu vượi nội ihành và các đưòìi” \'ành đai bao quanh thành phò đã dược xâv dựng. Nhà íỊíi xc íửa phía láy là ea hành khách hiên dại \à lớn nhát Châu Á. Sân bay ihu đỗ là Irunu tàm \'ặn chuyên \'à đáu mối íziao thỏns hàna khõna toàn Trurm Quốc.
Bắc Kinh còn là ihành phố có nhiổu cây xanh vói 32,4% diện lích dất đai. Câv xanh liêu bicu của Bắc Kinh là cày hòe \'à cày bách, loại hoa tiêu biếu (.úa Bắc Kinh là hoa tườii” \'i \'à hoa CLÌC.
9
Đõ thị c ổ Bắc Kinh ___________ _______________________ _
Bắc Kinh là thành phố có thực lực kinh tế mạnh chi sau Thượng Hai. Nơi đây có Ngân hàng Trung Quốc và tòne bộ các cơ quan tiền tệ lớn, CO' quan bảo hiểm Trung Quốc. Bắc Kinh còn là sớ lại của các cơ quan và tổ chúc tiền tệ nước ngoài. Do đó, Băc Kinh cũna là một ihành phố thí điểm mở cửa giao lưu tiền tệ với thế RÌỚi. Bắc Kinh hiện nay là trung tâm khoa hoc vãn hóa lớn nhất Trung Quốc, nơi tập truno các cơ quan khoa học cấp nihà nước như; Viện Khoa học Trunu Quốc, Viện Khoa học xã hội Trung Qiuòc, cúc trường Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, các trung tâm vãn hóa lớn như Thư viện Bắc Kinh, Đài (ruvổn hình, Trung tâin iriến lãm quốc tố, Nhà hát kịch Trung Quốc.
Bắc Kinh là thành phô \'ãn hóa lich sử nổi tiếng \'ó'i hưn ba nglhìn Iiãm lịch sử x â y dựng thành quách và gân inội Iiíìhìn nám lịch sứ xây dụrng kinh dô. ở đây có rất nhiều cli lích lịch sử vãn hóa Irong điếm của nhà niíó.íc, trong đó có nhiều di tích được coi là di sán văn hóa của tlỉế siứi.
ĐÔ THỊ CỔ BẮC KINH
Ba iHịlùii năni írước lừiiK là kinh dô của nước Yên (TK XI - TK l II /( N), saií dó là kiiìli dỏ CÍKI các triêii dại l.iêii (907 - 1Í25), Kim (ÍJI5 - 123-1), Níịiiỵên (1206 - J3Ố8). Minlì (IMìiS - KU4) vù Tluuili (1616 - J9ílJì. Bấc K i n h t ự h à o v é nhữnv, íli sdìi văìỉ lióci vủ kiến Irúc Iilui':
V ạ n lý trư ờ ng thành: Bức lìiờìi^ ílìàiili pliòiii’ Iiíịự dài nliâi llìẽ Ịịiới (ốOOOkm)
C ô c u n g B ắ c K i n h : Q u á n llìẽ kiến tr ú c citiìi> íliệit lớn n h ấ t ílìé Ị^ìịới ịíliẽiì tích 7 2 ().0 0 0 n r với 9 . 9 9 9 íịiíiiì plìòin>.
Q u ả n g tr ư ờ n g T h iên A n m òn: QiuiiìỊị ỉni'('ỉiĩ}ị rộiìi’ lớn nliấi thứ íị.ỉới ịíliừn tích 4 4 0 .OOOnr}
T h i ê n đ à n : Đ à n l ế Ì I ' Ờ I V ( í ì í Ị ì i â ì ì ĩ ì ì è k i ê ì i ỉ r ú c i o IÓ'I I \ ‘à h e l l i ê ị . \ : â y lừiiăm 1420}
D i H ò a v i ê n : Ciiiiii chén ỉtiỉlii m ú t ciiíi lì(>àiìi> ỉ^ia vớ i k iế n ĩ n ì c vù cưiili quan phoiìí’ phú {diện ticli 2.9()().0()()nr)
10
Đô thị cô Bốc Kính
C ó n g vỉên Bắc Hấi: VưỜỊì ịIìượỉìị’ liỊvên xây dỉúìíỊ sớm vù q u y m ỏ lớn ị(Jiệfi ĩích 70.()0()nr, íroii^ dó lỉỉộỊ nửa lủ ìVìậl nước)
M inh Thập Tam láng: Ruì ỉìlìiê ỉí lãn^ íấm các vị hoànịị d ế xây dựng quy n ỉó và diữ /c b à o íốiỉ lìoàiì clìiiỉli.
Chu K hẩu Điếm: Nlỉữỉỉ^ dấn Ịiclỉ rấĩ plỉìOỉiỊ^ phú vê con nụíủi ílìòi Ỉiêỉỉ sử. C hùa Ván Cừ: Tu việỉỉ cdìỉ lưii i^ỉữ Ssỏ htỢỉìiị rđí lớn các kinh Pliậĩ cổ cIiCợc k h ắ c trêỉỉ d á .
C h u ô n g V ĩ n h L ạ c : Q u ả cliiỉỏìii^ (ỉồiìíị c ự c lớỉĩ d íic v à o đ ầ ỉ i t h ể k ỷ w ( c a o 6 ,7 5 fĩi đỉíởỉì^ kínlì 3,3 nì fỉậniị 46.5 ĩciỉì, klhác 2 2 7 . 0 0 0 c h ữ ĩ r o n g kinh P lìậ ĩ).
N íịo à i ra, B ắ c K in lỉ còn có lỉùiii^ irủnỉ ỊlỉắỉỉiỊ ccinh, di iíclì văn hóa lịch sử vù kièn ĩrùc ỉiô i ỉiếỉìiị.
11
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
QUÁ TRÌNH DIỄN BIÊN ĐÒ THI cổ BẢC KINH
Ị , H- - - "
I ^ Ì h í “ ỉ
Tlìàiỉli Ké thởi ( ỉm 7 2 3 - 2 2 j ĩC u
Tlìùiìỉi ư C/ỉchi íliời Yẻti 7 0 - 9 3 6
Tliùiìlì Yêỉì K i n h ỉ l ir i ỈAỪii 9 3 6 - Ỉ J 5 J
'íỉtành Triifi\ị Đ ô íliời Kiỉìì 115.^ - 1 2 1 5
Tlìàỉih Bác Kiỉili
íhờỉ Miiili Tlicỉỉìlỉ
ỈM)H - 1 9 4 3
12
Tlìùỉỉlì Đ ạ i Đ o ĨÌIC'Ỉ N;^íiyéii I 2 Ố 7 - Ỉ3c>s
Đô thị cổ Bốc Kinh
'iU
:. Ì,''
^ ■ . ị I ị - ĩ f í r j Ị Ì _ ] t ^
BẢN ĐỒ BẮC KINH THỜI MINH, TIĨANH
1 Tử Củ'm Iliìiiih 2 H oàng íhành 3. Thái miếu
4 X à Huộ đàn 5. Thiên đàn
6. TiCn nôíig đàn 7. T áy uyển
8. Canh SCÍIÌ
9. Q uoc tử giám
!0. Di Hòa CUI.O 11. C ár vưcnig phủ 12. Đôn và chùa 13. Còng ihự
14. Đài thiên vãn 15. N hà kho
16. Tỉiáp chuông, tluip trống
! 7. Nhà luiỏi voi
18. D oanh trại
19. N hà ihờ
20. Chính Dương môn 21. Tuyổn Vũ môn 22. T âv Tiện môn 2?. Phn T hanh môĩi 24. T5y Trực mon 25. Dức Tháng mòti 26. Aii Đ inh iTiỏn
27. Đ ỏng Trực môn 28. Trấn D ương uiổn 29. Đ ổng Tiẻn môn 30 Sùng V ãn m on
3 1. Quàr.,» Cừ môn
32. Tà H òa nôn
33. V7nh Đ ịnh môn 34. Hữu H òa môn
3f). Q uanẹ An mỏn
13
Đô thị cổ Bắc Kinh
2.
NHỦNG CẤU TRÚC ĐẶC TRLINC m
ĐÔ THI CỔ BẮC KINH
Tử Cấm thành lức Cố cung là quần thế kiến Irúc với quy mò râì lớn, có eiá trị nghệ thuật cao và được báo tồn hoàn chỉnh nhâì ờ Bắc Kinh, viẽc xây tlựng dược bắt đáu từ thời Minh vinh Lạc thứ tư (1406) và hoàn thành vào nãin 1424, trái qua nhiều lấn tu sứa do bị cháv hoặc hư hóng nliưiig vản tỉiữ clưực bố cục ban đáu. Tên gọi Tứ Cấm thành là dựa ihco thần Ihoại: Tử Vi Vicn ó' licii Irời là nơi ớ cúa lliiẽn dê và gọi nơi ứ cùa Hoàng dế là Tử Cám Ihàiili. Đây là cung điện của 24 dời \'ua thuộc hai triều dại Minh - Thanh từ Minh VTnh Lạc (1421) kéo dài 2% nãm đến hốt thời Tliaiih (1911) dài 267 năm.
Tử Cấm thành nằm ớ doạn giữa đường trục irung tâm cúa dô thành lừ dôim sang tâv dài 760 m, từ nam lén bắc dài 960 in. Phía băc cúa Tứ Câm Ihành có đắp một ngọn lUÍi cao khoáng 30 m >zọi là Trân Soìi (hay Cánh Sơn), ngụ ý trân giữ phía băc Tử Câm thành. Giữa núi có xày một cúi dinh lớn. dó là dicm cao không chế và là iruna lâm hình học cíia toàn thàiili. Tứ Cấm thành đưực xâv dựng trên klui dãì rộng liình chữ nhậl, diẽiì tích
729600m', xung quanh có iường thành cao lOm bao bọc, \'en nm)ài tưòìi” có hào ròna 52m, bốn uóc thàiili có bốn tháp canh, bôn mĩil thành có bòn cửa ra vào dôi diện nhau: Ngọ môn, Thần Vũ môn. Đông Hoa môn, 'rà\ I loa inỏii.
CYic kiến trúc quan Irọiiii cùa Cô CUI1ÍZ dổu nãm trcn một đườnu trục Nam - Bác ứ chính iỉiữa. Hai bC'ii là các kiên Irúc phụ dối xứnt; nhau.
Đẽ tăng cường phòng \'ệ cho Bác Kinh, IricLi Minli còn \ás' ihôni IIIÒI \'òní> thành bao bên ngoài phần phía num nưi dãn cư khá dỏnu. Tuùìii! thành inới xâv thêm phía nam tạo nên khu Ihàiih naoại. ihành cũ dưực coi là thành nội. Phía nam cúa ihành n«oại có Thiên dàii, phía bãc thành nội có Địa dàn.
14
Đô thị cổ Bắc Kinh
phía đông có Nhậl đàn và phía tây có Nguyệt đàn, hình thành bốn trọng điểm ớ vòng ngoài. Thái miếu và Xã Tắc đàn nằm ở bén trái và bên phải Ngọ môn - cổng chính của cung thành, ngav sát hoàng cung.
Do phía nam inở thêm thành ngoại, nên đường trục giữa của toàn thành dài thêm rất nhiều. Căn cứ theo tống chiểu dài cúa đường Irục thì từ nam lên bắc toàn thành được bố cục thành ba phần lớn: Phần thứ nhất từ Vĩnh Định môn nằm chính giữa tường phía nam cúa thành ngoại đến Chính Dương Môn; phần thứ hai từ Chính Dương môn đến núi Cảnh Sơn, xuyên suốt quảng trường trước cung điện và toàn bộ cung ihành; pliần thứ ba từ núi Cảnh Son đến gác irớne và gác chuông.
Ngọ mỏn là cửa chính đế vào Cố cung nằm ớ phía Nam trên Irục chính. Ngọ mởn được xây dựrm theo inật bằng hình chữ u phía dưới là khối tường thành dày cao hưn lOm, có Irố 5 cứa vòm. Bên trên có tòa điện lớn chín gian ớ chính giữa, bốn aóc có bốn điện vuông. Nãm lòa điện này clều có hai tầng, inái được nôi vứi nhau bằng hành lang có cửa sổ và có mái chc. Ngọ rnôn còn có lên là lẩu Ncũ Phượng. Qua Ngọ niôn là một khoáng rộng có sống Kim Thúy cháv ngang qua hìiih cánh cung cùng với năm chiếc cầu bằng đá trắng hai bên có lan can cũng bằng đá trắng. Tiếp đến là Thái Hòa môn là cốn^ vào khu Tiổn Tam diện. Phía irước Nsọ Môn còn có Thiên An môn (xưa kia là Thừa Tliiên Môn) tức cửa nam của hoàng thành đời Minh. Thừa Thiên Môn xây dựng vào năm 1420, về sau bị cháy. Đến năm 1651 xây lại và đổi tên như nuày nay. Sau đó còn xây thêm chiếc cầu Hán bạch ngọc Irên sông Kim Thúy ớ đoạn trước chảy qua trước Thiên An mòn.
Trong thời kv phong kiến, khi có lỗ nahi long trọng, vua thường ban chiếu thư từ trên thành Thiên An môn. Theo lệ, chiếu thư của vua ban đế trong mó con phượng 2Ỗ sơn vàng, thá từ trẽn bờ thành xuống, các quan quỳ ứ dưới thành đê liếp nhận chiếu thư rồi truycn đi khắp nước.
Trong cấu trúc cùa Tử Cấm thành có hai khu vực quan trọng nhất là ngoại triều và nội đình*. Ngoại triều là nơi nhà vua giải quyết công việc triều chính, có ba điện lớn là Tliái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa. Các điện lớn
Ngoại Triều hoặc Ticn iriểu còn ỈÌI ”7'iền 1'aiiì diện"
Nội đình hoãc I lâu tấm còn dược gọi là "Mậu Tam cung".
15
Đô thị c ổ Bắc Kinh
■ ■" I ' r a s a a a e B a a a B S g g g g B ' ' ' ' II I - ^gg;— S. MĨ M = g 3 s ^ iJ^ a : ^ = ^ g s
xây dựng trên những nền cao lát đá bạch ngọc tinh xảo. Sàn nền này đưac xây dựng rất tinh vi và theo quy cách nhất định, gọi là "tu di tọa". Phía trước là một auảng trường diện tích hơn 3 vạn mét vuông, có thể chứa được hàng vạn người tụ họp hoặc duyệt binh. Hai phía đông tây của quảng trường có vãn lâu và võ lâu. Cửa trước quảng trưòng có Thái Hòa môn, trước cửa ITiái Hòa môn có sông Kim Thủy, cầu Ngũ Long bắc qua con sông này.
Từ Thiên An môn, cửa lớn cua Hoàng thành, đi vào qua một không gian dài đến cửa Đoan môn; qua cửa Đoan môn và một quảng trường rộng bao la nhìn thấy cửa Thái Hoà nằm ở phía Bắc quảng trường, một cửa đê đi vài) ha điện lớn. Qua cửa Thái Hoà lại tới cửa rất rộng, Điện Thái hoà sừng sững trên một nền cao ở phía B'ắc quảng trường đó.
Người Trung Quốc xưa kia thường thích xây dựng những công trình trọng yếu trẽn nền cao để làm nổi lên cái vẻ uv nghiêm của nó. Ba ngôi điện lớn ở Tử Cấm thành là: điện Thái Hoà, điện Trung Hoà và điện Báo Hoà xây dựng trên nền cao 8,17m. Những phối điện cùng nhiều nhà cửa xung quanh có (]uy mô nhỏ hơn và dựnR 'aèn những nền thấp hơn.
T hái H òa m ôn là cửa đi vào khu vực ba điện lớn của Tử Câm thành, cửa có cấu trúc bảy gian được dựng trẽn một nền đá cao. ớ hai bên phía trước có tượng sư tử bằng đồng đặt trên bệ đá. Sư tử là loài vật có sức mạnh, được bô' trí phía trước cửa nhằm làm tôn thêm vẻ uy nghiêm của kiến trúc, và cũng tiêu biểu cho sức mạnh của thiên triều (trước Thiên An môn và trước cửa cúc kiến trúc quan trọng khác của Tứ Cấm thành đều có đặt tượng sư tử được bài trí theo một kiểu cách nhất định: bên trái cửa có con sư tử đực đạp chân lèn quả cầu, phía phải là sư tử mẹ có sư tử con quấn quít bên mình).
Đ iện T hái Hòa là ngôi điện quan trọng nhất của Tử Cấm thành, không chỉ vì vị trí của nó ở trung tâm Tử Cấm thành mà về hình thể kiến trúc cũng như trang trí và các mặt khác đều dứng hàng đầu trong cả quần thể kiến trúc Tử Cấm thành. Các kiến trúc của Trung Quốc thời trước quy mỏ lớn hay nhỏ thường lấy số gian làm chuẩn mực. Điện Thái Hòa có 11 gian, cao 26,9 mét tính từ mặt đất lên nóc điện. Đây là công trình kiến trúc số một thời xưa còn lại. Cấu trúc mái của các kiến trúc Trung Quốc xưa cũng có nhiéu loại và nhiều kiểu xây dựng khác nhau, một tầng hay hai. ba tầng. Tùy theo quy niô
16
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
công trình \’à tầm quan irọn” nià có cách xử lý mái khác nhau. Điện Thái Hòa là công liinh quan irọim bãc nhai Iicn loàn bộ inái lợp bằng ngói lưu ly aiàu vàng. Dưới ánh inãl tròi Iiiái dicn phán chiếu ánh hào quang sáng chói, tuừng và cửa sổ màu do I'U'C lữ licn nền dá tráng. Trên nóc điện, ở hai đầu niái có dãp dau lổiiii cao lới ba IIILÌ và dọc ihco nóc mái cũng có một loại nhữnu tưoìiii Ihú nho có dáim \c smh dôiiii. Các cửa đi và cửa sổ đều có nhĩrní’ máns cham trố 1k)u \ãn linh xao. Trong bộ khung gỗ điện Thái Hòa có sáu câv cột chính dirọc son son ihiôp \'àng với hình traníỉ trí những con rổnỵ vàntỉ lượn kliLlc. ớ trần nhà. Ircn dáu sáu cày cột được thiết kế tạo dáng nhu hình niộl cái íiièim hình \uỏne mi dần ihu nhó lại, từ hình vuông chuvcn thành hình bál giác \'à tròn ciina có hìnli một con rồng lượn khúc niặl nhìn xuống dưới, pliía trước là mõl khối thủy tinh hình tròn. Nằm giữa điện là bệ rổne cùa Nhà \'iia iiỏiii niõl niiai vànii và phía sau là bìnli phong báv cánh. Nẽu dièn 'ĩhái Hòa là ULiiig làm cúa Tử Càm thành, ihì chính bệ rổnỉỊ; lại là li'Linsz tâm cua truim làm.
Trang tn' ứ diên 'Thái Hòa CC1 I'ãt nliicu hình rồim, người Hán coi rổne là luợiig irimg cho ciàii lộc '[ì'uim ỉ loa. Tir klii Hán Vũ Đố lự Iiliận mình là con rổnu ihì các lioàníi dố rninii Hoa sau c!ó (IcLi (ự coi minh là rồng. là con trời, được ihưưng đè phái XUÓ!1ÌZ trần izian dế Irôim coi trâm họ, do đó, cung điện vua ớ gọi là long cunii. quán áo vua mác iiọi là long bào, ghế vua ngồi gọi là lona kỷ, các đồ ciùng cúa Mia dcu traiTi irố hoa vãn hình lồng và các hoa văn
trang trí lroiiíz cun» điện nhà \ ua dâu dâu cĩing mang hình rồng. Con dường chính Nhà \'ua di có kU cát lấm đá lớn, trên mặt chạm trố chín con rồng, biểu tượĩiii cúu Cửu Trùns’ đài. ở diôn Thái Hòa từ trong ra ngoài, từ irên xuống dưới, imười ta đếm dược tất cá có 12.654 hình con rồng Liốn lượn Iiong mọi lư thê'.
Điện 'rriiiiịí Hòa \'à điện Báo Hòa cLHia nằm Irôn thém bệ dá trắng và ớ phía sau diC'11 Thái ỉiòa. Điéii Trung Hòa ỉà nơi vua nshi trước khi tới điện Thái Hòa imư tiicu, diôn tích hoi Iiliỏ. bài trí cũng đơn eián. Điện Báo Hòa có chín gian, còn điện Trune ! lòa hình x uỏne rộng nãm gian. Cá ba ngôi điện: điện Thái Hòa. cliệii 'rruiiíỊ Hòa \'à íỉicn Bảo Hòa đéu lợp mái bằng Iiiìói lưu Iv màii \'àna, cứa sổ màu liổiitỉ cùng ớ trên nền màu trắng nhưng về khôi hình Ihì hai lớn một nhó. niái cua ba ngòi điện khác nhau họp thành
một quần ihê kiốn liLlc hài hòa, phona phú, đa dạno. Điộn Bảo Hòa là nơi cứ 17
Đô thị cổ Bắc Kinh
hành ngự thi tức là các khóa sinh thi đậu Tiến sĩ ở các nơi được gọi vào để lự Vua khảo tra lại lần cuối cùng.
Cung Càn Thanh là cung điện lớn nằm ở phía trước trong tổng thể nội đình, cũng được gọi là "Hậu Tam cung"
Đây là nơi ở của vua và hoàng hậu, sang thời Thanh vua Ung Chính chuyển nơi ở tới điện Dưỡng Tâm thì cung Càn Thanh dụng làm là nơi vua tiếp kiến các đại thần và giải quyết công việc hàng ngày. Trong cung ớ phía trên nơi vua ngồi có treo bức đại tự với bốn chữ "Chính Đại Quang Minh". Các hoàng đế Trưng Quốc lên cầm quyền theo chế độ truyền ngôi, nên iúc vua còn sống thường công bô' rõ ai sẽ là người kế vị. Việc này thường gây sự tranh chấp nên từ thời vua Ung Chính lên ngôi, ông đã quyết định lúc vua còn sống không công bố tên tuổi người kế vị, mà chỉ viết tên tuổi người đó vào hai mảnh, một mảnh vua giữ bên mình còn mảnh kia được để ở phía sau bức đại tự Chính Đại Quang Minh, chờ khi vua bãng hà mới đem hai mảnh đó ghép lại và công bố tên ngưòi kế vị.
Điện G iao Thái và cung Khôn Ninh nằm ở phía sau cung Càn Thanh. Cung Khôn Ninh đời Minh và đầu đời Thanh là nơi ở của hoàng hậu. về sau cũng được chia làm hai phần, phía đông hoàng đế dùng làm nơi động phòng sau buổi kết hôn, phía tây làm nơi cúng lễ. Giữa hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh là điện Giao Thái hình vuông, quy mô không lớn là nơi để hoàng hậu tiếp đón Hoàng thân quốc thích đến chào mừng nhân ngày lễ Tết. Công trình được trang trí hình rồng tượng trưng cho vua và phượng, tượng trưng cho hoàng hậu.
Hai bên của quần thể Hậu Tam cung là hai quần thể kiến trúc dùng cho các phi tần ở. Mỗi bên sáu cung mỗi cung là một khuôn viên độc lập có cửa chính lợp bằng ngói lưu ly. Tiếp theo là nơi ở cửa các hoàng tử, mỗi bên năm điện, mỗi điệp đều có vườn.
Phía ỉ)ông cửa Càn Thanh là Thái miếu, phía Tây của Càn Thanh là Từ Ninh cung, nơi ở của Hoàng thái hậu.
Điện Dưỡng Tâm
Điện Dưỡng Tâm không nằm ở trục giữa của Tử Cấm thành mà là ờ phía Tây phần Hậu Tẩm. Vốn là nơi ở của Hoàng thái hậu, đến đời vua Ung
18
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Chính nhà Thanh thì dùng làm nơi tiếp kiến các đại thần, giải quyết công việc thường nhật, nên ớ giữa điện không có ngai vàng Đông Noãn Các trong điện cũng là nơi nhà vua và đại thần nghị sự. Thời Vua Đồng Trị nhà Thanh do bà mạe là Từ Hy thái hậu chuyên quyền, nên mỗi lần nhà vua nghị bàn giải quyết công việc của quốc gia thì Hoàng đế ngồi trên ngự kỷ ở Đông Noãn Các, phía sau ghế vua ngồi có tấm màn rủ là hai bà Đông, Tây thái hậu ngồi nhiếp chính (huấn dụ). Trên thực tế, Đồng Trị chỉ là ông vua bù nhìn còn gọi việc triều chính điều hành đều do Từ Hy thái hậu định đoạt.
Việc xây dựng các cung điện cần rất nhiều gỗ có chất lượng cao nên phải lựa chọn gỗ tốt để xây dựng, ổ Trung Quốc, các loại gỗ tốt, quý hiếm đều nằm ở các dái rừng thuộc các tỉnh Triếi Giang, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc. Gỗ khai thác ra được vận chuyển bằng dưèyng thuỷ, qua sông Dương Tử rồi chuyển vể Bắc Kinh. Đường vận chuyển xa và chậm nên mỗi đợt vận chuyển có khi kéo tới ba bốn nãm mới đưa được gỗ từ nơi khai thác về tới Bắc Kinh.
Ngoài gỗ ra còn cần đến gạch đế xây tường thành vòng quanh cung thành, gạch xây tường các cung diện, gạch lát nền; có nơi nền lát ba lớp gạch. Toàn bộ số gạch đê xày dựng cung thành nhà vua lên tới hơn 80 triệu viên. Có những công trình đòi hỏi gạch phải có chất lượng thật cao, như lát nền các cung điện phải dùng loại gạch gọi là qạch vàng. Loại gạch này được làm bằng thứ đất tốt, đất đó sau khi đào lên lại phải rửa sạch tạp chất chỉ còn lại chất mịn, dẻo. Cách đóng và nuriR gạch cũng được làm rất cồng phu theo một quy trình công nghệ riêng, mặt gạch phải được mài phẳng, đánh bóng nên những viên gạch vừa rắn chắc, vừa nhẵn bóng, gõ vào phát ra tiếng kêu như tiếng vàng nên được gọi là Ịịạcli vàng. Đây là sản phấm đặc biệt được sản xuất ớ vùng Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô. Loại gạch đó cũng được vận chuyển bằng đường thuỷ tới Bắc Kinh.
Số lượng đá đê xây cất cung điện cũng rất lớn, nền và lan can bốn bên, cầu đá và các con đường chính trong Hoàng thành đều xây bằng đá. Để giảm bớt khó khăn trong việc vận chuyển đá người ta đã cố tìm để khai thác đá ở những nơi gần nhất. Nhưng vận chuyển đá còn khó khăn gấp nhiều lần so với vận chuyển gỗ và gạch nhất là những khối đá lớn để làm ra những con sư tứ đá và những cột đá ở trước Thiên An môn. Trong số những tảng đá lớn chuyển về có một tảng đá lớn nhất dùng đê lát đường vua đi ở phía Bắc Điện
19
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Bảo Hoà, Tảng đá đó dài 16 mét, rộng 3,17 mét, nạng hơn 200 tấn. Đó là trọng lượng sau khi đã gia công hoàn thành, nếu tính cả trọng lượng khòi đá khi mới mana về thì còn nặng hơn ihế nhiều. Một khối đá nặng như Ihố [àiĩi sao chuyến được từ nơi khai thác đến cône trườníì xây dựng Tử Cấm lhàiili'1 Lúc đó chưa thể có những chiếc xe tài chớ được trọng lượng lớn như \'ậy, cũng không thể dựa \'ào sức khiêníí vác của con người. Nhũng người Ihông minh, tài oiỏi đã imliĩ ra cách đào một con mương cạn dọc theo đường đi chờ mùa đôna aiá rét, nước ớ con mương đào đó kết băntí trớ thành một ccni đường bãnư và cứ thế đấy khối đá xuống dường bãng mà trưọl \'ể Bắc Kinh cho tới tận công trưòng.
Xâv dựng cung điện còn cần mộl khối lượng lớn là ngói lưu ly. Đê vật liệu chuyên chứ được sần Bắc Kinh, nhiều xướng làm gạch Iiííói lưu Iv được inở ra. Xướng gạch nííói lưu ly ớ Mòn Đầu Câu và ở nội thành Bac Kinh ngày nav là nơi sản xuất gạch ngói lưu ly trước kia. 0 khu phía Táy thành phố Bắc Kinh hiện có một phò nhỏ gọi là phố Kho Gỗ và mội phố khác gọi là phò Gạcl) Vuông, là noi Iruức kia có kho cliứa gỗ, chứa ngói. Klu) chứa iiổ lúc đó có lới 3000 nhà kho, đủ cho ta thấy số gỗ líic đó dùng nhiều như thế nào.
Thời gian chuán bị vật liệu kéo dài trong mười nãm, đến năm 14!' việc chuẩn bị xong xuôi. Triều đình nhà Minh trưng tập mười \an ơ mười \'ạn dân công đổ bắl lay vào thi công.
Chế độ phong kiến Trung Quốc coi Hoàng đế là Thiên tử (con litT ■ iv’n nơi ớ ngoài sự uy nghi và hào hoa còn Ihc hiện mối giao hoà \'ới trò': >i
' ' C á c C I I I Ì Ì Ị c ỉ i ệ n t r o ì i ^ n ộ i c i i i ì í ỉ c l ê i i l i í ự H i Ị l ì ' i i ’n í > c h a s ự p l ì a i ì ì Ợ p i ^ i ữ ư í r ' ' ú
(lcíl. l ì l i ậ í Ii< ^uyệ!, l i n l ì r ồ i i í Ị n l i i t CIIIIIỊ C à n r i i a i i h v à K l i ó i i N i i i l ì Iiíự ii}. Ìì iỉ i i y cho n òi và ilấ! ó' ^iữa có cỉiệii Giao Thái tiừ/niị Indìg íì ời clấl Giao Tlìái".
Sân rồnạ của cuna Càn Thanh có hai cửa Đôiiíỉ Tâv mang tên Nhậ! '1'iíiịi và Níỉuvệl Hoa. iượno trưas cho Nhậl, Níỉuvệt.
Phía Đône và Tây cúa Hàu Tam cưne có 12 cung tượng Irưniỉ cho '? Vu rổng (mộl iỉiáp).
Bô Irí kiến (rúc tronsì Cò cuim iheo imuyên tác nhàn mạnh li uc íii' ■, iiai bC'11 dối xứnạ nhau. Đổniỉ ihừi xàv dựiiíỉ to nhỏ kliác nhaii iiUci ì cóng năiií; sử dụno và ihco thứ tự câp bậc. n«ôi ihứ troim Hoànti ” ia.
20
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
Tiển Tam điện là quần thể kiến trúc lớn nhất, chiếm 20% diện tích của cung thành, còn Hậu Tam cung chỉ bằng 1/4 diện tích của Tiền Tam điện. Các cung điện khác, kế cả cung điện của Thái Thượng hoàng, Hoàng Thái hậu còn nhỏ hơn Hậu Tam cưng.
Trên hình thức kiến trúc, cân cứ vào số gian nhà nhiều ít và kiểu mái nhà đế phân biệt chủ thứ. Những kiến trúc quan trọng đều từ 11 gian đến 9 gian. Những kiến trúc trang trọng đểu lợp hai tầng mái như: Ngọ môn, Thái Hoà mòn, Thần Vũ môn, điện Thái Hoà, điện Bảo Hoà, cung Càn Thanh, cung Khôn Ninh nổi bật lên trên trong toàn bộ kiến trúc của Cố cung. Ngoài ra, trong từng nhóm kiến trúc riêng rẽ cũng xây dựng theo thứ tự to nhỏ khác nhau thể hiện chứ thứ phán minh, nói lên mối quan hệ luân thường phong kiến vua tôi, cha con, vợ chổii2 , vợ cá vợ lẽ, cung tần mỹ nữ...
Bố cục kiến Irúc trẽn đây tạo thành hình thức không gian đa dạng, có biến hoá trong một tống thế thống nhâì của Âm - Dưoíng Ngũ hành và Bát môn.
Ngự viên là khu vườn riêng cúa vua nằm ở phía sau Hậu Tam cung (tức phía sau cung Khôn Ninh, giáp cửa Thần Vũ môn). Đây là khu vườn có quy inò không lớn (130m X 90m) nhưng được tạo dựng rất tinh tế. Mặc dù là nơi nghỉ ngơi thướng ngoạn \'ưò'n hoa cây cảnh nhưng đôi khi cũng là nơi làm việc của vua với cận thần nẽn ngoài việc tạo dựng nhiều hoa thơm cỏ lạ thì ở đây cũng còn bô trí nhiều kiến trúc xinh xắn gồm các điện nhỏ, các đài, tháp... có sự gắn kết khéo léo với khung cảnh thiên nhiên.
Ngự viên còn thường íỊọi là vườn Thượng uyển. Đó là vưòn hoa trong cung đình, nơi vua dạo chơi lúc nhàn rỗi hoặc tổ chức hội vui trong cung đình. Ngự hoa viên có diện tích hơn 1 ] ngàn mét vuông, ở đó có đình, đài, lầu, các. Về thực vật, ngoài các cây vốn sinh trưởng ở miền Bắc Trung Quốc, ớ đây còn tuỳ theo thời tiết từng mùa trồng xen vào những bồn hoa, cây cảnh phưcmg Nam và từ khắp nơi trong nước gửi về tiến vua những mẫu hình đá quý, những hòn non bộ được trưng bày trong vườn làm cho Ngự hoa viên có một cánh sắc riêng biêt hoà đồng với thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với cảnh nguy nga tráng lệ cúa quần thé các cung điện ở phía trước.
Thảo mộc ớ đây được lựa chọn kỹ lưỡng và được bố trí hài hòa với các lối đi dạo trải đá cuội nhiều màu sắc xen kẽ các núi đá nhân tạo, tạo nên nhiều hình ảnh đặc sắc của nghệ thuật tạo cảnh truyền thống của Trung Quốc. Đến
21
Đô thị c ổ Bắc Kinh _________ __________________________________________
nay vẫn còn lưu lại nhiều cổ thụ rất quý giá như những cây tùng có tuổi thọ trên 400 nãm, thân cây già cỗi nhưng cành lá vẫn xanh tươi, nhiều thân cây uốn lượn tạo nên những hình ảnh kỳ lạ và thú vị. Có cả những đôi cây quấn quýt vào nhau tạo nên một dáng đẹp của những vũ nữ uốn lượn, v ề cảnh trí thực vật cũng như kiến trúc cảnh quan, ngự viên khá tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc vườn cảnh lâu đời của Trung Quốc.
Tư liệu: Nhân tài trong sự nghiệp kiến trúc đời Minh - Thanh
Sử sách Trung Quốc rất quan tâm đến những nhân tải trong sự ìiỵhiệp kiến trúc các triều đại. Sách "Trung Quốc Kiến trúc c ổ đại giản síf" của Bộ Kiến trúc công trình xuấl bản năm 1961 đ ã nói về những người nối tiểìiịị trong kiến trúc các triều dại. Riêng về thời Minh, Thanh, sách đ ã giới thiệu:
1. Bằng TườtìíỊ là thợ mộc â Hương Sơn - Tô Châu, sau làm T hị LcniỊị Công Bộ nhà Minh. Năm Vĩnh Lạc ihứ 15, xây dựng Cung điện ở Bắc Kinh, cuối năm Thiên Tlìiiận xảy Dụ Lăng. Theo 'Wẹô hiiyệìi cỉii", Bằriíị TiàỉììỊị
plìàm là xây dựng cuiĩịỊ điện, lâu, ịịíìc, trên tuy có ílìể vẽ được. Troiì^ Iu sứa, kích thước đúnq như iu, không sai ỷ, bấy giờ d ã ẹọi lù "Bẳníị Lỗ-Ban".
2. Dương Thanh nụ(ời Kim Sơn Vệ, đầu năm Vĩnli-Lạc xây dựtìg ciuiịị diện ở Bắc Kinh, sau đó làm Thị Lang Cônẹ Bộ.
3. Lục Tường, nmtòi Vô-Tích, là thợ đá cổ truyền nổi tiếng, đđii thời Mình, CÙIĨÍỊ với nqười anh là Lục Hiền xây clựnẹ cung diện ở N am Kinh.
4. K ếThànli, người Tô Châu là nẹười làm vườn có íiếnq cuối thời Minlỉ. Cuốn sách "Viên trị" của ôtìíị là một cốnq hiến cho n^lĩệ tlìiiậí làm vườn ở Trung Quốc.
5. Lôi Phát Đạt sinh năm Vạn Lịch thử tư, thời Minh {năm lổ 19), mất năm Khaiìíị Hy thứ 32 nhả Thanh (năm 1693) dã chủ trì xây dựiig Điện Tam-Đại tron^ CU/ỈÍỊ điện Minh, Thanh. Họ Lôi k ế tiếp nhau hơn 200 năm tronq việc vẽ các đổ án kiến trúc nhà cửa, bảy đời đêu làm những ìiẹiíời chủ trì thiếì k ế các ciinẹ điện nhà Thanh. Vườn Viên-Minlì, vườn Thanh Ký, núi Ngọc-Hiíyền quy mó đồ sộ và những công trìnlì Ly Cung Hương Sơn, biệt dã ở Nhiệt Hù, Xicơng-Láng, Huệ-Lủng, Tam Hài dền do họ Lôi chù trì x-ây clựiìíỊ.
22
Đõ thị cổ Bắc Kinh
ố. Trong sách "Nguyễn An, nhá kiến trúc Việt N am với cổ thành Bắc K inh", nhà sử học Trần Vchì Giáp, sciii khi tham khảo sử sách à C ố cung Trung Quốc đã trích clíĩii HoàiiiỊ Minh Thưciìa Đặng Nguyên Tích viết cuối dời Minh, th ế k \ ílìứX\ 'ỉ:
"Níịuyễn An là lìi^ười Giao Clìi. lủni Thái giâm troHiị thời chính thống, tính người thanh hạch, khắc khô. Ịịian dị. ĩro/Tí> sạch, khéo bầy mưu vẽ kế, iỊÌỎị nlìấí vê côniị írìnlì kiến lìiìc. CôiiiỊ việc sửa saníỊ thành trì Bắc Kinh, làm 9 cửa thành, sửa lại 3 diện, 5 phú, 6 bộ và trự sà cúc ty ở Bắc Kinh, đắp lợi đẽ trên khúc sôiiiị à Ihôri Tắc-Diíơnịị, dêii do Nguyễn An đứng trông coi, cho kiểu mẫu, các c/tia/ì ở Bộ Cônỹ, chỉ việc theo kiểu, vạch sẵn đem làm. Khi sắp mấí, cho biên Icíl cả của củi dược ban clìo suốt dời vả các của riêng, dưa nộp làm của cỏtìíị".
Các sách: "Minh s ử của TnMìiíị Đinh Nị^ọc, đời Thanh, xuất bán năm Kiền Lohíị thứ IV, 1739: Minh s ử thiết của Doãn Thủ Hành; M inh T hư của Phó Duy Tán, dều có í>lìi lìlìiền sư tích vé Ní'ji\’ểii An.
Tiến Bộ nhật báo xiiâì hàn à Thiên Tân, tháng 2 nám 1950 có bài của Trươm’ Tú Dân: "Nỵuyển An - nhà kiến trúc thiên tùi nịịKỜi Việt Nam đã tlìam íịiơ cỏni> li ìnli kiểìi llúêì Đại Bắc Kinh dưới đời Minh".
Những công íìình có công sức của Niịuyễiì An ở kinh thành Bắc Kinh, được xcìc nhận lù:
I) Kỉiõn Minh ciiiìíị, 2) Kiền Thanh cung, 3) Bảo Hỏa điện, 4) Trung Hòa điện, 5) Thúi Hòa diện, 6) NíỊỌ môn, 7) Thiên An môn, 8) Phô Đông Tràng Aìi, 9) P h ố T á y Tràng An, 10) Chinh Dương môn, 11) Sùng Văn môn, Ỉ2) 'íiiỴên V ĩ môn, ì 3) Triẻu Diíơnịị môn, 14) Phu Thành môn, 15) Đông Trúc môn, 16) TáyTrúc môn, 17) An Định môn, Ỉ8) Đức Thắng môn.
(Ti ícli sách ''Kiến trúc cố (lại Châu Á" của GS-KTS Ngô Huy Quỳnh, Nxb VIIỈT 1999)
Tư liệu: Tư tirưng thiết kế Tir Cấm thành
Troní> x ã hội plion;^ kiến Triiiìịi Hoa, nén kiến trúc tất nhiên cũng chịu ảnh lìiíâni’ của chê íìộ chính !rị và V thức hệ phong kiến. Sự tôn thờ trời đất,
23
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
Thánh Thán tổ tông cũng như lòní> tin vào thuyết ám, dương, ngiĩ hành d ã ảnh hưởng đến nội dung và hình thức kiến trúc, càng được th ể hiện rõ trong việc xây dựng cung điện, nhấl lù ở Tứ Cấm thành, vù trong Tử Cấm íhành thì đặc biệt là diện Thái Hoù phải dược đặt ở vị íví trung tám của tiên Triêit nơi í h ể hiện tập trung quyền lực của nhà Vua.
N gọ M ôn lả cửa lớn của T ừ Cẩm thành có ba cùa ở chính diện vù hai cửa ở hai bên. Cửa lớn ở giữa là nưi nhà vua ra vào T ử c ấ m thảnlĩ. Ngoài Itlìà vua, lĩoáníị hậu lúc thành hôn cũng được vào cung quơ cửa đó. Những klioá sinh thi đậu Trạng nguyên, Báng nhỡn, Thám hoa cũng được đi ra cửa dó nhưng chỉ được đi một lần. Cửa phía Đông chính diện, dành đ ể văn, võ bú quan ra vào. Cửa phía T â y là nơi ra vào ciìa nhữníỊ người troní’ hơàiĩịỊ lộc. Còn hai cửa nhánh hai bên là nưi đ ể các quan vân võ ra vào mỏi khi nhà vua tiếp kiến chư hầu, quần thần, theo quy dịnh; qitan văn đi cửa phía Đònỵ còn quan vỗ đi vào cửa phía Tây. Khi nào nhà viia cho m ở klìoá thì vù d íc Ì Ị thân khảo tra thì tiến sĩ các nơi về dự thi cử theo thứ tự háo danh, n^ười sô' lẻ đi cứa phía ĐôniỊ còn s ố chằn đì cửa phía Táy.
Vê bậc thềm, ở những cun^ điện trọníỊ yếu đều chia làm ha phần; pluhi à giữa là ngự đạo dành riêng cho nhà vua đi, m ặt thềm lrani> ỉn' lìoa văn hình rồng. Thực ra vua có bao ÍỊÌỜ đi bộ qua đường đó đáit, íhườnỊ’ là lĩiịỏi trên kiệu đ ể người la rước qua cỉườníị đố mà thôi.
Những cửa lớn của các cung điện đều lắp cánh cửa dùy hâiìg í>ổ lố! có đóng các hàng đinh cho cửa thêm vững chắc và dấn dần việc đóng dinlì ti ên cửa trở thành m ột kiểu trang trí, tronẹ đó có sự phân biệt rất rõ rùng. Thời nhà M inh quy định cánh cửa lìoàníỊ cung sơn đỏ, đóriíị dinh vÙHiị vù cứ theo thứ bậc hoùng tộc, quan chức to nhỏ mà dùng màu sắc khác nhait. Từ cửa sơn máu đỏ đến màu .xanh, màu đen; vê đinh thì lừ đinh vànỉỊ đến đinh dồng, dinh sắĩ. Ngoài ra. cả s ố đinh: cửa lớn của hoàng cưng dóniị nhiêu đinh nhất gồm ciìín lìàiĩíị dinh dọc và chín hàng dinh nganẹ tất cả là 81 dinh; rồi đến cửa b ủ \ lìàiiíị dinh dọc và bảy háng cíinlì ngang, cả tháy 49 chiếc; citối cùrii’ lù loại cửa có năm lìáiiiỊ dinh dọc và năm hànq đinìì ngciìiíị cộiig là 25 chiếc. Vì vậy nên ta thấy trên cánh cửa lớn NíịỌ môn, Thủi Hoà môìi, Thần
24
Đô thị cổB ác Kinh
Vũ môn à T ử Cấm thành đểu là cửa đỏ, đinh vàng chín hàng ngang, dọc gồm 81 đình, dó là nliữiìíỉ cửa thuộc đẳng cấp cao nhất.
Trên nóc các CỈIIIỊ’ diện còn íraiìíỊ trí nlìữn^ con vật nhỏ bằrtíỊ lưu ly; những con vật thư('fin> dược irang trí ở nơi được coi lá cao cấp nhất gồm chín loài: rồng, phượng, SIÍ tử, thiên mã. hài mã, nhiếp trĩ, bò tót, nghê, giáp ngư, được hài trí theo thứ tự ÍI ước saii. Tity vậy, việc trơnẹ trí các con vật ở cung đìâì ctliìiị có sự khúc nhau. Điện Thủi Hoà, điện Bào Hoà, cung Càn Thanh và ciiníỊ Khôn Ninh trên nóc được tì ang Íìí chín loài vật nối trên; còn điện rriưig Hoà, điện Giao Tlìái chỉ tvang trí bảy loài. Vê cửơ, cửa Thái Hoà inuìiị trí bảy loài còn cửa Càiì Thanh chỉ dìin^ có năm loài. M ột sô' đình, các ớ N g ự hoa viên chí traiĩí> írí có ha loài.
Rìênịị điện Thcii Hoù, tiịịoùi việc trang trí chín loài vật ra, người ía còn tíặl à phía sau mỗi con vậĩ một tượng người d ể phán biệt vị tri quan trọng cùa diện Thái Hoà so với các cung diện khác.
Âm - Dươn^, lìi^ũ hành là mô! học ihuyết của Trimíị Quốc thời c ổ dại. Dó là mộl quan niệm về triêì học vù cũniị là một th ế giới quan. Kinh Dịch có viết: Thiên hạ vạn vật, đổn là Âm - Dương, họ cho rằníỊ phàm là írời đất, Nliậl, Níịiiyệt; tĩíỊỜy déni, nam, nữdềit phán thành Am Dươni>, ngay đến chữ .u> ( ŨHÌỊ CÓ sô' chínlì và sô'plìií, s ố chẵn, sô lẻ, có cơ và ngẫu; có phiừrng vị írén dưới, tnrớc sau... iát cả đều phản thành Âm, Dưưng. Âm và Dương đối lập nhan nhưng lại dựa vào nhau mã tồn tại. Trong Dương có Ảm, trong Âm í ó Dii'ffng. Âm - Dươnẹ íịiao hoà, giao trưởng, thăng giáng.
Niịũ hành lù chí năm nụiyên lố cấu thành vật clìấí là Thiiỷ, Hod, Mộc, Kim. Thổ; về sau chia thành phươnị’ vi Đông, Nam, Tây, Bắc, Trưng; vê mùn sắc chia ra Xanh, Vàiiíị, Đó, Trâng, Đen; lliưnh âm chia ra 5 ám giai CiiiiíỊ, Thươnẹ, Vũ, Clìiiỷ, Giốc.
Ní^irời U i còn lìm ra quỵ luật c ủ a mỏi cỊiicin hệ tổng hoù giữa 5 n g u y ê n tô, 5 phưưní> vị, 5 màu sắc và 5 ảm iịiui.
Tií' tưởng thiết k ế xây ciựiiíị quẩn íhể kiến trúc ở T ử Cấm thành cũng chịu anh liif(rni> của học tlìuyếi Am - Dưcniịị ngũ ìiùnh.
Vé nuỊl h ố cục lliì ilằiiíị tntòc là Dii’ơnq, dằiií> sau lù Âm liên tiền Triều ở óấniị ÌI ÌCÓX' là Diửíníị, ìuỊii íổm õ'dâiiíị sau là Âm.
25
Đô thị c ổ Bắc Kinh
V ề chữ sô'cũng hàm ý trong thuyếí Âm Dươníị, ngũ hành. Thời cổ dại cho s ố lể là Dương, s ố chẵn lù Âm, mù số dươníị thì con số 9 là lớn Iilìất dược nhà vua cho là con sô' đẹp nhất nên đường viia di chạm 9 con rồng bay: trên những hức tưởng chính vẽ hoa văn 9 con rồng gọi ìà cửu Long Bích; cánh cứa hoàníị ciíiìg cỉátìíị 9 lìànẹ đinh Uíịcinẹ dọc, trén nóc cung điệìì vúa ìỉlìà vua, cũng dắp 9 nóc con vật quý hiếm... Đó là hiển tượng của những nưi vua ở, lui tới liàníỊ ngày. Nên còn íịọi là chốn cứii ti ùìĩiỊ. Và ìiơi thờ tự còn dúc 9 đỉnh í^ọi là cửu đỉnh. Có lẽ con s ố 9 này lả ảnh hưởng của tư lirứng dạo Phật. Vì theo quan niệm của đươnq í hời con sô' 9 là con s ố của ỉi/ìá Phật.
(Trích sách "Almanaclì Iihrnìg nên
văiì minh thê giới" mục "Nên kién trú
cổ đại Trung Hoa" của Hoàiìg \ 'ăn Tú}
26
! Cảnh Sơn
Thấn Vò Môn
Từ
Cấm
Thành
Đõ thị cô Bốc Kinh
Cung Khôn Ninh
i '*]í 1
môn 1 :'j5 T jỊỊ
Đông
X Hoa Môn
ì ĩ ú ..iP ^ M Ì^ ÌiL n L ''.... .1' - ’Ja’Ị Ị
Thiên An mòn
Trục truỉìq lâm Bác Kinh ĩừThìén An mòn tới Cảnh Sơn
Trục ĩmng tâm Bắc Kinh ĩừThái Hoà môn tới cung Khôn Ninh
27
Đõ thị c ổ Bac Kinh
Tììáp Cliuâng
Tlìáp Trống
Cành Sơn
Tử Cấm thàiìh
0Ọ Chíììh Dương môn
Hoàng Tlìành Bắc Kinh với Tử Cấm Tlànili,
công viên Bắc Hải và khu Trung Nam Hải
Tiên Nông
ĐànThiên Đàn
vũilì Định môn
Trung tâm Bắc Kinh ĩừVĩnlĩ Định
môn tới ĩliúp Chuông tháp Trông
28
Đô thị cổ Bắc Kinh
Nịiui vủn'^ iroiiỊ’ Cii/Ig ('àn Tìhinh
11 lúp Chuông và tháp Trong
29
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Cây cảnh trong Ngự viên Nhà diễn nhục trong Di Hoà viêii
30
Đõ thị cô Bắc Kinh
Toàn Cíinli lìồ Côn Minh \ à lìúi Vạn Thọ ở Di Hoà viúii
Cảu Ngọc Đới trong Di Hoà viên
31
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Tliủp chùa Tlìiéỉỉ Ninlỉ
N hà tưởềi^ niệm Chù tịclì M ao Trạch Đỏìi^ và tượìiịĩ đài Aỉỉlỉ lìùỉìg Nlìáỉỉ dân tại quàng trưỜỊig Tìiiêỉi An niỏìi
32
Đô thị cổ Bắc Kinh
1—1]—c=3—£=!'' BẢN ĐỒ T Ử C M l THÀNH - BẮC KINH
1. Vưừti N gự uyến 2. C ung K hôn Ninh 3. C ung C àn Thanh
4. Đ iện Bảo H òa 5. D iộn Trung H òa 6. Đ iện Thái H òa
7. Thái H òa môn 8. N gọ môn
9. Đ iện V ãn Hoa ỈO. Đ iên Phụng 'ĩiê n 11. Đ iện H oàng Cấp 12. Cung T ừ Ninh
13. Đ iện V ũ Anh
14. Thẩn V õ m ôn
15. Đ ồng H oa môn
16. Tây H oa môn
33
Đõ thị cổ Bắc Kinh
1 % :
Ỉ M f : ‘l i
Hào nước và tháp góc X I I I iỊ
quanh Từ Câin thành
34
Đõ thị c ổ Bốc Kinh
Tliiêiì An môn (hcuĩ dêììì)
Cộỉ biểu tượng
írước Tlỉiẽfì An ỈÌIÔỈÌ
35
Đõ thị cô Bắc Kinh
Ngọ môn (cửa phía nam) xáy dựng năm 1420 cao 38m là cổng chính vào Tử Cấm thành. Hình ảnh phía mặt trong cổng, có sông Kim Thủy, cầu và ì an can đá.
Thần Vũ môn (cửa phía bắc) vào Tử Cám ilỉàỉỉlì.
Hình ảnh mặỉ ngoài cổng nhìn từ núi cảnh Sơỉì.
36
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Kli(»ìg íỊÌan n ước Thái Hòa mon có nủni cáu đá bắc qua sông Kim Thủy.
Tượng sư tử (bằng đồng hoặc bằng đá)
trang trí hai hên lối vào cung điện
37
Đô thị cổ Bắc Kinh
Tổng thể ba cung điện pìỉía trước (íiền tam điện): điệìi Thái ỉỉòa (ĩrái), đìệỉì Ti uỉiị^ Hòa (giữa) và diện Bảo Hòa (phải) trên tỉỉéni bệ dủ tráng.
Hơ thống bậc cấp xủy dựng bằng đú được chạm khắc
tuyệt mỹ ở phía trước điện Thái Hòa
38
Đô thị cổ Bắc Kinh
ỉ*. • t A • Điện Thái Hòa (I) ỉà nơi diễn ra các nghi ìế quan trọng nhất của triều đình
Diện Trung Hòa (2) là nơi clìỉtấn bị các nghi
lễ ở điện Thúi Hòa
ĩr\f::r*ửĩí !*'’• 'ÁiÀ V*
Điện Búo ỉỉòa (ỉ) ĩ'à nơi yến tiệc, cũng là trường thi cho các kỳ thi quốc gia
39
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Ctiỉig Cản Tliatìh là nơi ở của \ 'ita
Bàn đồ Hậii Tam cung
1. Ciiììg Càn Thatìh
2. Diện Giao Thái
3. Ciiiig Khôiì Niĩìlì
Điện Giao Thái (xây dựng sau)
là nơi liên kết cung Càỉỉ Thanh
Ví) ciiỉìỉ^ Khòỉi Ninh.
40
Đõ thị c ổ Bấc Kinh
Tổỉig ĩlic kicỉì Ịì úc Tày Lục Citng
Đưí/Ịig dần sang Tây Lục Cung
41
Đõ thị cổ Bốc Kinh
Điẽii kìiắc
đá ílìểm
hệ dìệỉĩ
Trung Hoà
Clỉi ỉiêì trang trí Ỉlĩêỉỉì hệ
và lan can dá
42
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Ngói lưu ly và cúc tượng thú trang trí mái điện Thái Hoà
Mái ngói lưu ly các cung diện Tử Cấm thành
43
Đõ thị cô Bắc Kinh
Núi Cảnh Sơn và đình Vạn Xiiân nằm ở phía bắc Tử Cấm thành
Cửu L oỉiíị híclì ở côìig v iê n Bắc Hài dài l ỉ m , cao 5ỉìì làììì vào Ịìă tìi 1756 với sự liên kết của 424 tấm lưu lỵ chạm ỉỉổi
44
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Các kiến trúc dành cho vua nghỉ ngơi trong vườn Ngự uyển
45
Vtàyìì ĩììKỢng uyển
/1A
Đô thị cổ Bắc Kinh
KIÊN TRÚC TRONC] VUỜN CẢNH
47
Đõ thị cổ Bắc Kinh
3.
NHỮNG TỔNG THỂ DI SẢ^
KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU
3.1. THIÊN ĐÀN
ớ Bắc Kinh kiến trúc đàn miếu rất phát triển phục vụ việc thờ cúrụ núi sông, trời đất, đế vương, tổ tiên. Đàn miếu cũng để ghi nhớ những danhthần, danh tướng, những văn nhân có côn g với dân với nước. Đàn m iếu CÒI bao gồm những gia miếu, từ đường cúng lễ tổ tiên.
Nghi thức tế giao đã có nguồn gốc từ xã hội nguyên thủy, khi con Igười quan niệm các yếu tố tự nhiên như trời, đất, mưa, gió, sấm, chớp (ều là những bậc thánh thần và cần phải thờ cúng. Đến thời quân chủ, các vuachúa đã tiếp thụ tín ngưỡng này, cải biến và lợi dụng nó như một cổng cụ đ;c lực để cai trị nhân dân. ở Trung Quốc, từ thời nhà Chu (thế kỷ XI - 256trước Công nguyên), việc cúng tế trời, đất và các vị thần thánh dã trở thànl điềii lễ. Bắt đầu từ thời Đông Hán (năm 25 - 220) trớ đi, khi Nho giáo đã háng thế, Dịch học đã phổ biến trong toàn xã hội thì cũng thành lệ, đàn u Trời luôn luôn được đặt ở phía Nam kinh đô và được gọi là Tliiên đàn. Bêrcạnli Thiên đàn người ta còn đắp các loại đàn tế khác để tế Thần Đất, Tliầi Mặt Trời, Mặt Trăng, Sao... Tuy nhiên, việc tế giao của các triều đại khônghoàn toàn giống nhau, có triều đại hợp tế chung cá trời đất và các vị thẩn vhác; cũng có triều đại tế riêng rẽ. Đầu thời Minh, Thái Tổ Chu Nguyên Cỉưcmg vẫn tổ chức tế trời, đất riêng rẽ, nhưng từ năm Hồng Vũ 1 1 (1378) rớ đi, triều đại này lại tổ chức hợp tế trời - đất. Bán thân Thiên đàn được xâ\dựng từ thời Vĩnh Lạc ở Bắc Kinh nãm 1420 nguyên thúy cũng là Thiên - Đị. đàn. Nhưng đến năm Minh Gia Tĩnh 9 (1520) nó mới irớ thành Thiên đàr cùng với việc triều Minh quay trở lại nghi thức phân tế (tế giao riêng rẽ).
48
Đô thị c ổ Bắc Kinh
Người Trung Quốc xưa kia gọi Xã là Thần thổ địa, Tắc là thần ngũ cốc. Cúng xã tắc thể hiện là nước lấy nông nghiệp làm gốc. Đầu tiên xã tắc chia làm hai đàn hoặc một đàn, mộl miếu để tế lễ. Đến đời Minh - Thanh đã hợp xã và tắc làm một để cứng tế chung. Đàn Xã tắc ở Bắc Kinh nằm ở bên phải, phía trước Tử Cấm thành là gò đất hình vuông, mỗi chiều 15 mét, cao gần 1 mét, trên mặt phủ một lớp đất 5 màu: xanh, đỏ, vàng, đen, trắng. Bên ngoài gò có đắp một tường vòng quanh bốn phía. Mặt tường ốp lưu ly các màu xanh, đỏ, đen, trắng. Nghi thức thờ cúng xã tắc thì đứng ở phía Bắc hướng về phía Nam mà cúng tế. Từ xưa các bậc đế vương thường tự nhận mình là con trời, nên việc lế trời, đất trớ thành hoạt động tâm linh mang màu sắc chính trị quan trọng cúa các bâc Đê' vương. Nơi tế trời thường chiếm một vị trí quan trọng ở đô thành.
Thiên đ à n là nơi tế irời đế cầu được mùa của các hoàng đế Trung Hoa thời Minh - Thanh. Đây là một quần thể kiến trúc tế tự có trình độ nghệ ihuậl cao nhất, được bảo tồn hoàn chỉnh ở nội thành Bắc Kinh. Thiên đàn được xây dựng năm Minh Vĩnh Lạc thứ 18 (1420, tức đồng thời với xây dựng Tử Cấm thành) đáu tiên có tên là Thiên - Địa đàn, đến năm 1530 có xây Địa đàn riêng nên đàn này chỉ mang tên Thiên đàn. Thiên đàn xây dựng irên một khu đất rộng 2.730.000m^ phía ngoài được bao bọc bởi hai lớp iưcTTig có hình vòng cung ở mặt phía bắc, hai góc phía nam hình vuông, thể hiện thuyết "Trời tròn, đất vuông".
Tổng thể kiến trúc Thiên đàn có ba công trình chủ yếu là: H oàn K hưu (làn, H oàng K hung Vũ và Kỳ Niên điện. Nằm trên trục của tổng thể kiến trúc có một bệ đá dài 360 in, rộng 29,4 m cao 2,5 m gọi là Đan bộ kiều hay còn gọi là Thần Đạo.
Hoàn K hư u đàn (còn gọi là Viên Khâu đàn) là nơi hoàng đế tế trời, được xây dựng lộ thiên hình tròn bằng đá cao 5 mét, phân chia thành 3 tầng bậc, tầng trên cùng có đưòTiỄĩ kính 23 m tầng dưới cùng có đường kính 54,7m. Mỗi tầng bậc đều có lan can bằng đá trắng (có 360 thanh lan can tương ứng vòng tròn 360"). Trun^ tâm của Hoàn Khưu đàn là một phiến đá tròn gọi là "Thiên Tâm thạch" xunẹ quanh có những phiến đá nhỏ xếp lại thành từng vòng tròn.
49
Đô thị c ổ Bắc Kính
Người Trung Quốc xưa cho rằng trời thuộc dương tính nên số phiến đá lát của các vòng tròn đều dùng dưoíng số, đặc biệt là con số 9 và bội số cùa nó. Vòng gần tâm thất gồm 9 phiến, vòng thứ hai: 18 phiến, vòng thứ ba: 27 phiến, đến vòng thứ chín; 81 phiến. Bậc giữa và bậc cuối cùng cũng xếp 9 vòng đá như vậy. Đặc biệt số đá của mỗi vòng đều là bội số của 9.
Bốn bề của Hoàn Khưu đàn đều có bậc tam cấp lên xuống và đưọc bao bọc bởi hai lớp tường thấp: lớp trong tròn, lớp ngoài vuông. Nghi lễ tế trời ớ Hoàn Khuii đàn được thực hiện vào ngày đông chí hàng năm.
H oàng K hung Vũ: Nằm ở phía bắc Hoàn Khưu đàn là nơi cất giữ những bài vị tế trời. Hoàng Khung Vũ kiến trúc đơn giản (hình tròn đường kính 15,6m cao 19,5m) nhưng kiến trúc bên trong rất tinh xảo, có hệ thống đấu củng để đỡ mái và ba lớp vòm trên cao.
Hoàng Khung Vũ được bao bọc bởi một bức tường tròn cao 6 m đưctng kính 64 m, gọi là "tưòfng hồi âm" (người đứng sát tường nói, người phía xa ghé tai nghe được). Tâm của bức tường tròn này là phiến đá trắng lát ngay trước bậc tam cấp của Hoàng Khung Vũ. Đứng trên phiến đá ấy gọi to sẽ nghe thấy ba lần âm thanh vọng lại, vì thế có tên là "Tam Âm thạch".
K ỳ N iên điện; N ằm ở phía bắc Thiên đàn, là nơi hoàng đế cử hành ễ cầu được mùa vào ngày đầu xuân hàng năm. Kỳ Niên điện cao 38 rn, đít trên nền cao 6 m, hình tròn có ba bậc cấp; bậc cuối cùng có đường kính 90m. Xung quanh mỗi bậc có lan can bằng đá trắng, 4 phía có bậc lên xuốrg. Kỳ Niên điện hình tròn, thân điện có đường kính 24,5 m. Điện có 3 tầnf ngói lưu ly xanh, đỉnh mái là một chóp nhọn. Giữa điện có bốn cột lớn, ca) 19,2 m đỡ vòm trần và tầng mái trên cùng. Bốn cột này có tên "Cột long tính" tượng trưng cho bốn mùa. Xung quanh có 24 cột phân thành 2 vòng tnng và ngoài để đỡ các lớp mái dưới, mỗi vòng 12 cột cũng là tượng trưng 12tháng trong năm và thời khắc trong ngày.
Kỳ Niên điện có kiến trúc đẹp và kết cấu tinh xảo. Đó là một thànl công lớn của nghệ thuật, kiến trúc thời M inh - Thanh. Năm 1889, Kỳ Niên dện bị sét đánh hỏng nhưng sau lại được khôi phục như cũ.
Thiên đàn ngoài ba kiến trúc chính trên còn có một số kiến trúc phi như: Lò đồng Bát Quái, Đỉnh đồng, Hoàng Cân điện... Bao qiianh Thiên (àn có 5000 cây bách cổ. Rừng bách tạo thành một phong cảnh tĩnh lặng hiim có.
50
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
Nằm gần cổng phía tây của Thiên đàn còn có Trai cung để hoàng đế thực hiện trai giới trước ngày cúng tế. Trai cũng có đầy đủ các công trình kiến trúc quan trọng như: chính điện, tẩm cung, lầu chuông, các công trình phụ cận, cổng lớn... với tổng số hơn 60 gian kiến trúc. Đáng chú ý nhất là gian chính điện - một tòa kiến trúc bề thế đặt trên một nền đài cao bằng cẩm thạch. Bên trong điện, ớ gian giữa hiện còn đặt bức tượng vua Càn Long được làm rất sinh động, ở gian bên trái có đầy đủ các loại biên khánh, nhạc chung và các đồ tế khí khác, là nhữne thứ hoàng đế sử dụng trong tế giao...
Ngoài Thiên đàn là nơi tế trời, ở Bắc Kinh hiện vẫn còn các đàn tế khác là Địa đàn, Nhật đàn và Nguyệt đàn.
- Địa đàn: nằm ớ phía bắc, gần cửa An Định, được xây dựng năm 1530, bao gồm đàn tế, trai cung, nhà hoàng đế. Thẩn khố, Thần trù... Địa đàn còn có tên gọi là Phương Thạch đàn vì xung quanh đàn có hào nước. Lễ tế ở Địa đàn được tổ chức vào ngày hạ chí hàng năm.
- Nhật đàn là đàn tế thần Mặt Trời nằm ở phía đông thành Bắc Kinh, bên ngoài cửa Chiêu Dương. Lê tế ờ Nhật đàn đưực cử hành vào tiết Xuân phân. - Nguyệt đàn là nơi tế Ihần Mặt Trăng nằm ớ phía tây thành Bắc Kinh, bèn ngoài cửa Phụ Thành. Lễ tế ở Nguyệt đàn được tổ chức vào tiết Thu phân.
3.2. DI HÒA VIÊN
Nghệ thuật vườn cảnh là một mặt của di sản vãn hóa truyền thống ở Trung Quốc để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho những ai yêu thiên nhiên, yêu nghệ thuật. Khác với nghệ thuật vườn cảnh các nước Âu Tây được diễn đạt trên những không gian rộng, nghệ thuật vườn cảnh Trung Quốc khéo léo tận dụng mọi không gian to nhỏ, bài trí tinh tế, thâu tóm những cảnh trí đặc sắc của tạo vật để dựng nên những cảnh quan vừa thiên nhiên vừa nhân tạo hết sức đặc sắc. Nghệ thuật truyền thống này đã để lại rất nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc những tác phẩm độc đáo với quy mô khác nhau, từ vườn cảnh hoàng gia đến các tư gia quvền quý hoặc bình dân. Trong số những tác phẩm độc đáo ấy, Di Hòa viên ớ Bắc Kinh là một kiệt tác không gì sánh nổi.
Bắc Kinh vốn là kinh đô của nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc nên các đền, đài, cung diện ớ đây không thời nào là không có những xây dựng
51
Đô thị c ổ Bắc Kinh
mới. Công viên Di Hòa cũng có một lịch sử dài lâu như vậy. Nằm ở phía tâ> bắc thủ đô cách trung tâm gần 20 km, nơi đây vốn là một hành cung của nhiều triều vua, một địa điểm gắn liền với vùng rừng núi Tây Sơn. Từ thế kỷ XII đã có một hành cung mang tên Kim Sơn do nhà Kim tạo dựng. Về sau vào các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, địa điểm này luòn được khai thác và được bố sung những công trình mới.
Vào giữa thế kỷ XVIII dưới triều vua Càn Long nhà Thanh, khu vườn mang tên Thanh Y viên trong đó có xây dựng chùa Báo Ân và tháp Thiên Thọ, được nhà vua xây dựng để bày tỏ lòng hiếu của vua đối với mẹ vào tlịp mừng thọ mẹ. Vào nãm 1860 khu công trình đã bị quân xâm lược (Anh. Pháp) đốt phá. Đến năm 1886 Từ Hy Thái hậu đã dùng một khoản tiền ràì iớn (định đầu tư cho ngành hải quân, hơn 5 triệu lạng bạc) để chuyên xây dựng những công trình vui chơi giải trí và làm đẹp cho khu vườn lức này mang tên Di Hòa viên, công việc kéo dài gần 10 năm. Rất tiếc những công trình mỹ lệ này lại bị liên quân xâm lược của 8 nước tàn phá vào năm 1900 và phải đến năm 1908 mới được khôi phục và lu bổ. Vào thời Irước cấch mạng khu vườn đã được mở cửa cho đông đảo người vào xcm (từ nãin 1924) và đến sau ngày giải phóng Di Hòa viên được Nhà nước tu bổ và xếp hạng bảo tồn, được mở cửa cho quần chúng vào thăm và trở thành một tài sản quý giá của quốc gia.
Địa bàn được quy hoạch khu vườn vốn đã là nơi có cảnh đẹp với hồ Côn Minh và núi Vạn Thọ, toàn khu rộng 290 hecta, ba phần là hồ ở phía nam, một phần là núi ở phía bắc. Ven chân núi phía bắc cũng có một dải nước đẹp gọi là Hậu hồ. Kiến trúc chủ đạo của toàn cảnh quan là Phật Hưcmg các nằm ở điểm cao gần đỉnh núi hơi chếch về phía nam, có trục chính trông thẳng ra hồ Côn Minh. Cùng trên trục này ở phía dưới thấp là Bài Vân điện, cung điện dành cho những buổi làm việc của Từ Hy Thái hậu với các cận thần.
Chạy dài theo các bờ hồ phía nam của núi Vạn Thọ là một hành lang dạo mát gồm 273 gian, chiều dài hành lang tới 728 m và mang tên Trường lang. Suốt chiều dài Trường lang đều có trang trí vàng son lộng lẫy với hofn 8000 bức tranh trình bày những sự tích liên quan đến lịch sử và dã sử, cùng với những trang trí khác về phong cảnh và hoa lá, chim muông. Hành lang chạy thẳng ở hai đầu và cong hình cánh cung ở khúc giữa chỗ đối diện vói Pliậl
52
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Hương các, giúp cho khách đi thăm có nhiều cảm nhận khác nhau suốt dọc hành lang về những cảnh trí đặc sắc bên hồ bên núi.
Đấu phía đông cúa Trường lang là một quần thể kiến trúc rất phong phú bao gồm các tòa Đông cung môn (cửa vào chính phía đông), Nhân Thọ điện đều nằm trên trục chính lối vào công viên, phía bắc của trục có Tri Mộ đình, Vãn Xương các... Kết thúc đầu phía tây của Trường lang là một cụm kiến trúc không kém phần đặc sắc gồm Xuyên Đường điện, Họa Trung du, Cân Lệ quán và đặc biệt là cồng trình đá trắng hình thuyền mang tên Thanh Án. Công trình được xây dựng \'ào nãin 1755 có hình thuyền ghé bờ nước, thân thuyền dài 36m tạo bởi một khối đá lớn như một sàn vươn ra bờ nước, bên trên có ngôi nhà hai tầng làm nơi vui chơi ngắm cảnh. Người Trung Quốc có câu "thuyển nổi trên nước, nước đưa thuyền trôi", ở đây nhà Thanh muốn thể hiện một triều đại vĩnh cứu khỏng thế "Irôi đi" bằng hình tượng con thuyền đá cố định bên bờ nước.
Ngoài những công trình đặc sắc Iiêu trên, rải rác ven hồ và trên mặt hồ Côn Minh cũng như phía Hậu hồ còn vò vàn các công trình độc đáo như cây cầu đá vòm cung 17 nhịp, các nhà hál biểu diễn ca kịch, lầu ngắm cảnh xuân trên mặt hồ cùng với rất nhicu kiến trúc truyền thống gắn với các bờ nước, ở phía bác núi Vạn Thọ có tên Hải Thu viên, gợi hình ảnh một loại "vườn trong vườn", tạo nên nơi đây một khung cảnh đặc sắc được mệnh danh là "miền Giang Nam thu nhỏ".
3.3. THẬP TAM LẢNG
T h ập T am lăng là tên gọi khu lăng mộ của mười ba triều vua nhà Minh được xây dựng rải rác ó' các sườn phía nam của dãy núi Thiên Thọ (cách thủ đô Bắc Kinh 50 km về phía tây bắc). Đó là các lãng mộ: (1) Trường lăng của Minh thành tổ Chu Đè, (2) Hiếu lăng của Nhân tông, (3) Cảnh lãng của Tuyên tông, (4) Dụ lãiiíỉ cúa Anh tông, (5) Mậu lăng của Hiến tông, (6) Thái lãng của Hiếu tông, (7) Khang lãng của Vũ tông, (8) Vĩnh lăng của Hiếu tông, (9) Chiêu lãng cúa Mục tông, (10) Định lãng của Thần tông, (11) Khánh lăng của Quan» tỏne, (12) Đức lăng của Hy tông, (13) Tư lăng của Tư tông. Triều Minh keo dài gần 3 thế kỶ (1368 - 1644) có 16 vị hoàng đế thì 13 vị có lăng mộ ớ núi Thiên Thọ.
53
Đô thị c ổ Bắc Kình
Đây là một vùng cảnh quan đẹp đẽ với dải đất theo sườn núi hình vòng cung, mở thoáng về phía nam như hình tay ngai với hai hòn núi nhỏ (Mãng sơn và Hổ Dụ sơn) có vai trò như hai vị tướng trấn giữ lối vào chính từ phía nam. Trước lối vào chính của toàn khu lăng có những kiến trúc cổng đồ sộ dẫn tới một trục thần đạo dài 7 km từ đó có những đường dẫn tới các lăng. Hệ thống cổng và trục Thần đạo được cấu trúc uy nghi với rất nhiều tượng đá đứng chấn hai bên có tác dụng tăng thêm vẻ uy nghi và hùng vĩ. Trên đường Thần đạo cách Đại Hồng môn khoảng 500m là đình bia trong đó có tấm bia lớn ghi "Đại Minh Trường Lảng Thần công thánh Đức". Bia con khắc 3500 chữ ghi chép quá trình dựng lãng, xung quanh đình bia có 4 cột Hoa biểu. Hai bên đường Thần đạo có 12 cặp thú đá (gồm Sư tử, Trĩ, Lạc dà, Voi, Kỳ lân, Ngựa) và 12 tượng người đá gồm 4 quan văn, 4 quan võ, 4 công thần, tất cả đều đứng thành từng cặp đối diện nhau. Người đá và thú đá đều là những công trình điêu khắc vĩ đại làm bằng những phiến đá nặng hàng chục tấn với những đưòfng nét điêu khắc khoẻ khoắn, uyển chuyển. Toàn bộ khu lăng chiếm một địa bàn có chu vi tới 40 km.
Cổng đá ngoài cùng như một dạng tam quan có chiều cao 14 m và rộng 30 m, có 6 trụ đá tạo thành 5 cửa, phía trên có cấu trúc mái nằm trên các xà rất lớn. Tiếp sau cổng đá là Đại Hồng môn được tạo với 3 vòm cuốn lớn tường màu hồng trên có mái ngói lưu ly mang dáng dấp một tòa nhà cổ truyền nhưng được cấu trúc bề thế và vững chãi.
Lófn nhất trong quần thể Thập Tam lăng là Trường lăng, nơi để mộ Minh thành tổ Chu Đệ cùng với Hoàng hậu Từ Thị, công trình được khởi công vào năm 1409 và sau 10 năm hoàn thành. Mỗi lăng đều có điện thờ bên trong đặt bia gọi là Minh Lâu. Một công trình rất quan trọng ở Trường lăng là cung điện Lăng An có quy mô đồ sộ và dáng dấp gần giống như điện Thái Hòa ở Cố cung Bắc Kinh. Công trình có mặt bằng rất lóín: 66,75m X 29,3Im, bộ khung nhà được cấu tạo gồm 9 gian và được làm bằng loại gỗ rất quý (gỗ Nam Mộc), có tất cả 32 cột, các cột chính có chiều cao 14,3 m và đườiig kính 1,17 m.
Khách du lịch đến đây thường được vào thăm khu Định lãng, nơi đặt niộ của vua Thần tông cùng với hai bà hoàng hậu, ông là vị vua thứ 13 của tricu
54
Đô thị c ổ Bốc Kinh
Minh. Công trình được xây dựng trong thời gian 1584-1590 và chi phí hết 8 triệu lạng bạc. Nhiều công trình trong quần thể Định lăng đã bị hủy hoại chỉ còn lại Minh Lâu và Bảo Định cùng với các cổng phía sân sau. Điểu đặc biệt ở đây là khách có thể xuống thãm địa cung nằm sâu trong lòng đất (ở độ sâu 27 m) và thấy được tường tận cách bố trí và trần thiết vô cùng tinh vi phức tạp của nơi chôn cất một vị hoàng đế. Địa cung mới chỉ được các nhà khảo cổ phát hiện vào năm 1956 và sau đó được tổ chức cho khách tham quan.
Lăng nằm ở phía Tây của Trường Định lăng, dưới chân núi Đại Cốc, nhìn bề ngoài cũng giống như các lăng khác, nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra vào năm 1956. Đó là từ mặt tường phía Đông Nam, người ta phát hiện thấy hình chiếc cửa vòm lộ ra sau lớp gạch tường lâu ngày bị vỡ. Các nhà khảo cổ học mở một con đường hầm vào chính giữa cửa vòm ấy, thì phát hiện thấy một đường ngầm xây gạch. Nhân đó người ta đào một tường hầm thứ 2 từ sau điện thờ vào sâu trong núi. Đào sâu xuống 7,5m thì phát hiện thấy một tấm bia đá nhỏ ghi: 'T ừ bia đến lớp tường kim cương 16 trượng sâu 3 trượng 5 thước". Thời bấy giờ người la xây lãng khi hoàng đế còn sống, để giữ bí mật nơi để quan tài, lãng tỉiường bị bịt kín. Để sau này khi dùng lãng khỏi bị nhầm lẫn, thì "người phụ trách xây lăng phải lun lại ký hiệu. Bia đá làm ký hiệu này không ngờ là hoa tiêu chỉ đường cho những người khai quật mộ 300 nãm sau".
Địa cung thực sự là một cung điện ngầm nằm sâu trong lòng đất cách mặt đất 27m bao gồm 5 mộ thất với diện tích tổng cộng là 1195m“ có các đường thông nhau, toàn bộ đcu là cấu trúc vòm cuốn bằng đá. Mộ thất lớn nhất có mặt bằng 9 ,lm x 3 6 ,lm , cao 9,5 m là nơi đặt linh cữu hoàng đế, các hoàng hậu cùng với nhiều hòm rương chứa đựng các đồ vàng bạc châu báu chôn theo. Lối vào các mộ thất đều có cửa lớn bằng đá và cánh cửa cũng bằng đá nguyên khối, cánh cứa chính rộng 1,7 m, cao 3,3 m nặng tới 4 tấn.
Cung điện ngầm có kiến trúc hình chũ' T gồm có điện trước, điện giữa, điện sau, điện bén irái. điện bèn phái. Tườnsỉ điện xây bằng đá trắng, trên đỉnh cuốn bằng dá, kiến tĩLic cuốn vòm. Điện trước và điện giữa cao 7,2m, rộng 6m. dài 58m. Niín lál bằng loại gạch đạc biệt do một xưởng gạch ở
55
Đô thị cổ Bắc Kinh i
Giang Nam chuyên sản xuất để cung cấp cho nhà vua. Một mẻ gạch loại này được đốt bằng mấy thứ gỗ trong 138 ngày, khi gạch ra lò lại dùng dầu trấu rưới lên mặt, do đó mật gạch nhẵn bóng, càng lau càng bóng.
Điện giữa có 3 bàn thờ tạc bằng đá trắng, trước mỗi bàn thờ có đặt một thống lớn bằng sứ, trong thống dựng dầu để đốt đèn gọi là đèn Trường Minh, Ngoài ra, còn có lư hương, lọ hoa... Thống sứ lớn được tráng men trắng, vẽ rồng mây màu xanh tuyệt đẹp.
Hai gian điện hai bên cũng xây theo kiểu tường đá mái cuốn hẹp hơn điện giữa một chút. Điện trong cùng lớn nhất là bộ phận chủ yếu của cung điện dưới đất, nền lát đá hoa ban. Trên bộ đặt ba quan tài. Quan tài chính giữa Icíín nhất là quan tài hoàng đế Vạn Lịch. Hai bèn là hai quan tài của hai hoàng hậu. Xung quanh có 26 hòm đổ đạc chôn theo.
Các điện thờ bên trong đều thông với nhau. Lối cửa chính điện chính và hai điện bên đầu có hai cánh cửa bằng đá. Bên trong cửa có chốt bằng đá. Sau khi đưa quan lài vào và đóng cửa thì chốt đá tự động chốt lại, bên ngoài không mớ được. Hơn 2000 đồ vật quý giá chôn theo, như các đồ dùng hàng ngày của nhà vua : mâm thau, bình đựng rượu, chén bát bằng vàng bạc được chạm trổ tinh xảo.
Các đồ trang sức đều bằng ngọc quý, trân châu mã não. Nhiều đồ vật bằng vàng có khắc trọng lượng, tên người và ngày tháng cống vua. Quý nhất là chiếc mũ của hoàng đế được dệt bằng sợi vàng có hình hai con rồng châu đầu vào nhau và chiếc mũ của một trong hai hoàng hậu có 6 con rồng và 3 con phượng đều bằng vàng có hơn 100 viên ngọc bích và 5000 vién ngọc trai.
Toàn cảnh Thập Tam lăng vừa thâm nghiêm vừa hừng vĩ, được nghiên cứu quy hoạch phù hợp với những lý luận phong phú cúa thuyết phong thủy Trung Quốc, tạo nên một khung cảnh "rồng bay phượng múa, khí thế hùng vĩ", có đỉnh núi Thiên Thọ làm đối cảnh cùng các núi Mãng sơn và Hổ Dụ sơn làm tay ngai... Đây là một kho chứa đựng nhiều tư liệu quý về lịch sử cũng như về khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật.
56
Đô thị cổ Bắc Kinh
Tư liệu: Xảy dựng Định lăng
Vật liệu xáỵ dựng Định láng, chủ yếu là gạch, phiến đá lớn, gổ, chế phẩm lưu li. TroỉìiỊ dó íỉợch cíùniị nỉìiéii nhâu nơi sản xuất gạch chã yếu là Lâm Thanh Sơn Đônịị. Nó ở cu()i lưu vực sông Hoàng Hù, có con kênh lớn là giao thông đườỉỉ^ ĩluiý lìiivếí mạch từ Kinh dỏ đến Hàng Châu đi qua, chấĩ đất ở d â y m ịn màní^ khôn^ lần cáĩ, í^iao íh ỏ n ẹ ĩhiỉận íiện, là m ộ ĩ nơi sả n x iiấ í và vận chuvển ụich khá lý ĩitàỉiiỊ. Côn^ đoạn làm gạch cũng lấm công phu : đ à o bùn đ ấ ĩ lén, p lỉơ i q u a m ù a đôỉỉíị íỊÌá rét, m ù a xu ân x ớ i ĩa n p h ơ i khô, sa u đ ó sàníỊ lọc và n ụ im ĩron^ nước klỉú láỉi, rồi đem nhào nặn, d ậ p khuôn, nung đ ố ĩ thành ^ạch. M ỗ i viên iỊợclỉ d à i 0 ,4 9 mét, vộng 0 ,2 4 m éĩ, d ầ y 0 ,1 2 m ét, nậng 24kíị, chấi lượng cực lỏi. Đ ê d ẻ b ề kiểm tra chất lượng, írén m ỗi viên Ịiạclĩ đểu ^Ììi rõ íên lò, ỉỈK/i í^ian sán xuất vù lén thợ cả. Khi nghiệm thu không đụí chcíỉ ỉưựnịỊ, chỉ cần nhìn vào đ ấ y là biết sản p h ẩ m của ai. G ạch có màu ghi pha trắn^, nên ịịọi lù ^ạch “Bạch thành". Vào íháng 4-1574 ịnăm ỉlìứ2 đ()ì Vạn Lịch), tuy chưa cỏ những cống ĩrình xáy dựng lớn, nhưng triều dinh dã lợnlì cho các lò ỵụch ở Lám Thanh lảm cho hoàng ^ỉa mỗi năm ỉ ,2 triện vỉên íỊợclỉ Bạch ĩhành.
N^oài Lùm Tlianlỉ ra, ỉìuvện Võ Thanh Hà Bắc cùng sàn xiiấĩ gạch Bạch tlĩànlỉ. Xiiấĩ xứ íù như th ế này, quan địa phương dáng s ớ lên nhà vua táu rằng: 'V õ Thanh cỏ đáí kếí dínlì như Lâm Thanh, mà cách Kinh đô chỉ có 130 củy sổ, dườỉiịỊ dđỉ íỊần Ịìơìì Lủm Thanh hơn Ị 000 cáy sõ\ nếu tổ chức sàn xiicíí iịụch Bạch thành ở đáy, klìông những ĩiếí kiệm được rất nhiều
ĩh ả o , íh u yên b è, m à d â n h ớ í khổ, níịân k h ố n h à n ư ớ c k h ô n g p h ả i c h ì ììhiéii, ĩháỉì ĩhiếí n^hĩ dỏ ìù m ộí k ế sinh ĩài n ẩy lộc hữu hiệu vậy''. N há vua xuống ch í lệnh cho bộ CỏỉĩíỊ xem xét, bộ C ông bèn cho phép V ỗ T hanh mồi núm sdỉì xuất 300 ỉỉíịàn viên. Đó là vào tliáníỊ 9-1574. Từ ngày khởi cỏníỊ AYĨV dựn^ Định LâỉíiỊ, sàn lượng gạch của hai huyện này ĩănq lén đán^ kể.
N íỊoài iịợch Bạcìì ĩhùnh va, còn cliìỉìíỊ r ấ t n h iều g ạ c h vu ôn g lá t nén cu n g diện. Lo ại ^ạcii này chỉ có vùng Tô Chcĩii scín xuất. Cống nghệ phức tạp hơn nhìéii so với làm ^ạch Bạch ĩlỉânlỉ. Bùn đấĩ ph ải ngâm khá lâu, rồi sàn^ sảy, như dũi vảng trên sõng vậy, nén gụciì nàv còn được gọi lá ”gạch vàng".
57
Đô thị cổ Bắc Kinh
Chấí gạch mịn màng, mặt gạch bóng láng, rất hiếm thấy trong dân gian. Đáng tiếc là công nghệ thcít truyền, bây giờ không tài nào làm ra loại gạch này.
Việc vận chuyên gạch, do tù nhân chuyên trách, ngoài ra các thuyên chở lương thực của hoàng giơ hay thuyền buôn của tư nhân đi lại trên kênh đêii phải gánh vác nghĩa vụ vận chuyển gạch cho công trường. Gạch dược chuyển tới Thông Châu nằm ở phía đông Kinh thành, rồi dùng xe vận chuyển không công, lời oán thán đầy mặt sông. Nhiữig mãi đến năm 1587, Định lăng thi công dược ba năm, bộ Công mới tãii lên nhà vua nỗi khổ CIÍCỈ dân, xin vua miễn giảm lượng vận chuyển gạch Bạch thành. Nhà vua không đồng ỷ, xuống chiếu bộ Công: "Thọ cung đang cần dùng gạch, nên không cho miễn giảm. Khi nào Thọ cưng xây xong, mỗi thuyền cho giảm 40 viên". Nhưng trên thực tế, Định lăng hoàn công rồi, nhà nước vẫn dỉiy trì chế (tộ phán bổ ấy, gánh nặng của dân khcmg hề được giảm bớt chút náo.
Những phiến dá lớn dùng để xây Định lăng chủ yếu ỉấy từ Đụi Thạch Oo huyện Phòng Sơn, gồm nhiều chủng loại đá như đá trắng, trắng đen, cẩm thạch, trong hàng trăm ngân phiến đá đố, phiến nặng nhất trên một tấn. Việc vận chuyển hết sức khó khăn và nặng nhọc. Phương pháp vận chuyển bằng "thuyền hăng trên cạn" rất độc đáo, cứ cách nửa cáy số đào một cái giếng, đến mùa đông xách nước trong giếng đổ xuống đất đ ể nước dóng thành băng, phiến đá trượt trên mặt băng tới núi Vạn Thọ. Hồi đó vận chuyển một phiến đá to dài 3 trượng (] trượng bằng 10 thước, ỉ mét hằníị 3 thước), rộng I trượng, dầy 5 thước từ Đại Thạch Oa tới Kinh dõ cân huy động 200 ngàn dân công, đi hết 28 ngày, tốn kém 110 ngàn lạng hạc. Nếu vận chuyển tới núi Vạn Thọ thì sô' lao động, thời gian tiền hạc phủi tchiịị gcíp đôi. Vào nủm thứ 16 Gia Khánh (1537), Thượng thư bộ Công Mao Bá ỏn thấy phương thức vận chuyển đá bằng ''tìmyền băng trên cạn" như thế này hao người rốn của Cịuá, đồng thời bị hạn chế bởi mùa và thời liếí, bền cho thợ làm xe ngựa 8 bánh dể vận chuyển, tiết kiệm được rất nhiều thòi iịian vù cônq sức. Đến đời Vạn Lịch, laníỊ ỉriinq bộ Công Hạ Tlìịnlĩ Tlìiiỵ cải tiếiì xe ngựa 8 bánh thành 16 bánh, nâng hiệu xiíất vận tải lên gấp đói. Tuy vậy, sự khó nhọc của công khai thác và vận chuyển đá có lẽ là nhất thế ÍỊÌỚÌ.
58
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Cung điện Định lủiĩịị chủ yến dùng gồ Nam Mộc. Nơi sản xuất Nam Mộc tập trưng ở các tỉnh Qiidiig Tây, Ván Nam, Quỷ Châu và Tứ Xuyên. Nam M ộc là một loại gồ quý, klìôní’ n/iữriẹ vì vân gỗ rắn chắc, chịu mối mọt và cô m ùi thơm, mả còn vì nó hiếm hoi, thời gian trưởng thành khá dài. Nhà Minh cilìỉ dùng Nam Mộc xúy clựni> CIIHÍỊ diện, thời kỳ đầu vào rừng già có thể khai thìác rơi rúc ở đây dó, nlìiúiiị càiìiị vê sau càng khó kiếm, phủi vùo sáu lận vùíng hoang sơ kháng hể có dấit chân nụ(ời đặí lới hoặc leo lên trên những vách núi hiểm ỉrở mới tìm lliấỵdưực. Đường sá gian truân đã dành, còn phâi điicơng đầu với tliã rừng, rán rêì, muỗi và khí độc.
Sử sách nhá Minh cùn ỵlii lại cảnh dán công vào TứXiiyên khai thác gỗ N am Mộc như sau "Mộc phu (pltií dốìì củi) liêu mạng lội nước, dụng vùo clhướng khí chết, plìưi xác Ii^oùi rừng ìilìiểu vô kể". "Mộc phu lên đường, vợ con khóc thủm thiếí như íiưii vào chỗ nước sôi lửa bỏng vậy" "Núi non mờ m.ịi chướng khí, m ộc phu clộinị vào, chết ịịiic dưới suối, ỵá c trôi nước tắc, xMơng cốt chổng clìấ! thành níti. NliữììíỊ Hịịười may mắn sống sót ỉ!ở về, xanh XUIO phù riiũng" "Một huyện có tói íịần ngàn mộc plni bỏ mạng, cà tỉnh khìôní> dưới 100 ngàn".
Định lăng dùng íới 10 /ìi^àìi cây Nam Mộc, cây to nhất đường kính tới tnêỉi i ,4 mét. Có thể íưởuịi iượiiiỊ cái giá plidi trả cho việc đốn một câỵ gỗ vê' tớú công trường Định lủniị lớn Iiliư thếIiào.
Sau khi mộc phu chặl dổ cây Nam Mộc, họ phải mà rộng con đường mòn niíà họ đi vào tới nơi đốn ịịỗ, rồi dùng sức nịịười kéo ra bờ sông, đợi dến mùa niước lũ đẩy cây xuốìHị sõiìg cho xuôi theo dòng chảy. Trên đường di, lại khiông biết bao nhiều nịịưòi bủ mạng khi vượt qua thác ghềnh. Tháng 5 năm tlìiứ 2 0 G ia K h á n h (1546), ílìượiìỊị thư bộ L ễ N g h iê m T ùng tâu với nhà vua vê cảinìì ngộ của mộc phu: "Nay khó khăn nhất là gổ, vì phải vào rừng sâu núi lúiểm, hoang sơ không thấy bóiỉiị Hiịười đốn phạt; rồi kéo đến bờ sông đợi niước lũ dăng lên dấy xuốiìịị CỈÒIÌÍ>, vượt ìi<ịàn dặm mới tới Kinh dô. Vận chiiiyển đường dất đườní^ SÒIÌỊ^ mất klìõnẹ biết hao nhiêu năm tháng".
So với gạch đá í>ổ, việc Sííii xuất và vận ciiiiỵển chế phẩm lưu ly đỡ tốn k é m vù k h ó khăn hơn Iiliicii. Lượng c h ế p h ẩ m lưu lỵ m à Đ ịnh L ã n g sử dụng, nhtiểu hơn bất cứ ngôi lủiiỵ nào. Do yêii cầu của nghệ thuật kiến íriìc, ngoài
59
Đõ thị cổ Bắc Kinh
hờ thành, cung diện, lưng con thú sử dụng ngói lưi( ly như thường lệ ra, các kiến trúc quan trọng như cửa láng đều được trang lìoàníỊ bẳn^ iịợch lưu ly vẽ hình non nước, hoa lá, rồng phượng, kỳ lân, hải mã, rắn rùa, trỏng nguy nga huy hoàng lộng lẫy hoa lệ hơn các lăng khác.
Nơi sản xuất chế phẩm lưii ly chủ yếu tập triinq ở kinh thàtìh. Trước íiân nghiên nát hộĩ qốm ra, sau qua sàníỊ sảy, hoà với đất, làm phôi, honíị khô, lén men, rồi cho vào lò nhiệt độ cao miníị ra sân phẩm.
Kiến trúc trên mặt đất của Định ỉăníỊ nẳm trên trục chính nối liền íáni hai đỉnh Đại Dụ .sơn và Mãng sơn, plioníỊ cách vả nghệ thuật kiến (rức của nó dược người đời đánh giá rất cao, nó là mộỉ trong những kiệt tác hiếm có troníỊ lịch sử kiến trúc Trung Qiicíc.
Thần dạo của Định lărìíỊ bắt đẩu từ chỗ cách cầu bảy vòm 100 mét vé phía bắc, rồi uốn lượn theo hướng tâv bắc, vượt qua cáu ba vòm, xuyên qua cầu Kim Thiiý, đến tận bia Vô tự trước khu lăní> của Định láiĩí’, dài ha cây số, rộní> bảy mét, mặt đườtĩịị lál đủ xanh, hai hên viển những lấm dú hình
thon. Đáng tiếc là bảy íịiờ thần dạo và cầit ha vòm bị phú hiiý, chỉ còn lại di chỉ Cíiy cáu.
3.4. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
Bức tường vạn dặm này dài tới 6700 km nằm vắt ngang địa phận 6 tỉnh miền tây và bắc Trung Quốc, băng qua những vùng địa thế cực kỳ hiếm trở, núi cao, khe sâu, rừng rậm, bắt đầu được xây dựng từ thời Chiến quốc (420-221 tCn). Thời đó, các nước Yên, Triệu, Tần đã chọn những nơi hiếm yếu nhất để xây thành nhằm ngãn chận sự xâm lấn của các lân bang, đậc biệt là của tộc Hung Nô. Tường thành của nước Yên ở phía tây, bắt đầu xây dựng ở Tạo Dương (nay là Độc Thạch Khấu, Hà Bắc), đến Liêu Đông ở phía đông. Tưòìig thành của nước Triệu ở phía tây từ Cao Khuyết (nay là Lâm Hà - khu tự trị Nội Mông) kéo dài đến phía đông (Huyện Uỷ, Hà Bắc). Tường thành của Tần từ Lâm Triệu (nay là Cam Túc) qua Cố Nguyên đến tận Hoàng Hà.
Nãm 221 tCn, Tần Thủy Hoàng tiêu diệt cả sáu nước Hàn, Triệu, Ngụy Yên, Tề, Sở, thống nhất cả Trung Nguyên. Vào năm 215 tCn, Tần Thủy hoàng
60
Đõ thị cổ Bắc Kinh
sai Đại tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân phản kích Hung Nô, thu lại phần đất phía nam Hoàng Hà và sau đó xây nối tiếp những đoạn thành mà các nước khác đã xây từ trước thành một dải, đồng thời gia cố thêm cho vững chắc hơn, công trình tiến hành trong mười năm mới hoàn thành. Dưới mưa tuyết và cái lạnh làm nước đóng băng ở miền bắc, dưới khí hậu khắc nghiệt của miền tây, qua những tháng ngày lao động cực khổ trong hoàn cành thiếu thốn đủ mọi thứ, hàng vạn dân phu đã bị vùi xác nơi chân tường thành. Truyển thuyết còn ghi lại truyện nàng Mạnh Khưcmg vợ nho sinh Phạm Kỷ Lương vượt qua hàng ngàn dặm đường mang áo rét cho chồng là dàn phu xây đắp tường thành, Tới nơi, Phạm Kỷ Lương vì không chịu nổi cực khổ nhọc nhằn nên đã qua đời. Mạnh Khương nằm phục xuống chân tường thành khóc lóc thảm thiết, một đoạn tường thành nơi đó đã sụp đổ. Tới các triều Tây Hán, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu, Đại Hán cho tới các triều Tùy, Đường, Tống, Nguyên, triều đại nào cũng tu bổ tôn tạo choVạn ỉý trường thành thêm vững chắc.
Trường thành nhà Minh chỉ là mở rộng trên cơ sở của Trường thành cũ; phía Tây lừ cửa Gia Cốc (Cam Túc) phía Đông tới cửa Sơn Hải (Hà Bắc), chiều dài khoảng 3000 km. Với tuyến phòng ngự dài như vậy, phải áp dụng cách làm từng đoạn. Trường thành lúc đó chia ra khoảng 9 đoạn, và 9 cửa ải. Gồm có: Cửa ải Liêu Đông, Ngự Tuyên Phủ, Đại Đồng, Sơn Tây, Diên Thủa, Ninh Hạ, Cố Nguyên và Cam Túc. Chín cửa ải còn gọi là chín biên. Trong một số đoạn của Trường thành còn xây thêm thành ở trong và ngoài nữa. Như đoạn cửa ải Cư Dung, lúc bấy giờ rất gần Bắc Kinh, cần phải tãng cường phòng ngự đối với đoạn này; do đó đã xây làm 3 đường, gọi là "Tam biên".
Chọn đất để làm Trưòíng thành rất quan trọng. Ngoài đoạn phía tây ra, còn tuyệt đại bộ phận Trường thành phải làm giữa các mỏm núi trùng điệp, có khí thế hiểm yếu. Chòi gác làm trên tường thành, cự ly xa gần không đều nhau, dưới tường thành leo qua bậc rồi mới vào chòi gác để tuần tra. Cửa thành là nơi đồn trú qưân lính phòng ngự, phần nhiều là nơi tường thành dày, cửa thành làm cũng nhiều. Cửa ải Cư Dung có hai cửa thành, và làm theo địa hình, ơ Gia Cốc làm trên mỏm đồi cao, bình diện vuông vắn.
61
Đô thị cổ Bắc Kinh
Vật liệu để xây tường thành có mấy loại: có đoạn xây bằng gạch, có chỗ xây đá hộc, có chỗ lại đắp đất, dùng nguyên liệu nào là tùy theo tính châì phòng ngự mà quyết định. Như đoạn cửa ải Cư Dung, về mặt phòng ngự rất quan trọng, cho nên chỗ này xây tường thành rất kiên cố vừa to vừa cao. cao 8,5 mét, chân tường 6,5 mét. v ỏ ngoài tường thành xây gạch thoi dài, ở giữa nhồi đá hộc hay đất thó. Xây tường thành có 2 cách: chỗ nào độ dốc ÍI, thì gạch hay đá xây đều làm theo địa thế; còn chỗ nào độ dốc lớn, thì lại xây bằng. Thành có độ rộng lớn, lát đưòìig đi bằng phẳng, để tiện cho hành quán, và việc phòng thủ.
Vạn lý trường thành là công trình kiến trúc tập trung nhiều lao động cúa nhân dân. Dù xây gạch, đá hay đắp đất, thành là một công trình hết súc đồ sộ. Trong điều kiện sản xuất thủ công lúc bấy giờ, kỹ thuật xăy dựng còn non trẻ các vấn đề cấp gỗ, nhiên liệu, vận chuyển, tổ chức lao động đông đảo đòi hỏi phải có một nỗ lực rất lớn mới hoàn thành được. Điều đó nói lén sự hùng hậu của lực lượng kinh tế nhà Minh lúc bấy giờ; điều quan trọng hơn nữa là công trình đã thể hiện sức mạnh sáng tạo to lớii của nhân dân lao động Trung Quốc thời cổ đại.
Tư liệu: Một sô cảnh quan đô thị đặc sác khác
Viên M inh viên được bắt đầu xây dựng vào năm ỉ 709 thời vua KhaiTỊ Hy (1662 - 1723} đến đời vua Càn Long (1736 - 1796} thì hoàn thành, mưng thực ra phải mất 150 năm mới hoàn chỉnh. Ngay sau đố năm 1860, Hên quân Anh - Pháp chiếm đóng Bắc Kinh, đã lấy đi những vật háu trong Viên Minh viên và phóng hỏa íhiêu hủy. Vào năm 1900 lực lượng Bát cịuốc liên quân cướp hốc những gì còn sót lại trong vườn. Ngày nay Viên Minh viên trở thành nơi đ ể người ta viếng thăm và hồi niệm những gì trong quá khứ; Viên Minh viên chi' còn là đống đổ nát. Thực sự Viên Minh viên bao gỉm 3 vườn lớn: Viên Minh viên, Vạn Xiiân viên, Trường Xiiân viên và chính giữa có hổ Phúc Hải chiều rộng mỗi bề 60 m. Các vua Thanh dã tlui nhập riỉững vật liệu xáỵ diừig tốt nhất và sử dụng những người thợ tài hoa, khéo léo nhất đ ể tạo nên 40 điểm cảnh quan và ỉ 45 công trình kiến trúc; trong sô'nũmg công irình này là nơi tảng trữ những tác phẩm nghệ thuật và sách VC' quỷ báu nhất. Đối lại nhữn^ đặc điểm lự nhiên kỳ mỹ, thì nhiũig công trình kiến
62
Đõ thị cổ Bắc Kinh
trúc được nối kết bởi những lối đi, hành lang, cầu độc đáo; hầu hết những công trình đều mang nét dặc trưng của Trung Quốc, nhưng cũng có nhiều kiến trúc bằng đá theo kiểu phương tày do các giáo sĩ và họa sĩ người Ý thiết kế. Viên Minh viên được mệnh danh "Vườn hoa của vạn vườn hoa".
Công viên Hương Sơn nằm cách thành p h ố Bắc Kinh khoảng 40 km về hướng tây bắc. Núi Hương Sơn có độ cao 557 m so với mực nước biển, trên đỉnh núi có hai ídng đủ lớn có ỈÌÌÌIỈÌ dạng giống như clíiếc đỉnh 3 chân dùng đ ể đốt trầm hương, vì thê'có tên là Hương Sơn. Bên trong công viên có 3 khu cảnh quan chính: Chấn Kiên Trai, Song Thanh và Liũi Ly tháp, cạnh đó có chùa Bích Vân và chùa Phật nằm.
Công viên Hương Sơn như một kiểu công viên rừng, vào cuối mùa thu, người ra thường đến đây d ể thưởng ngoạn màu sắc đỏ ối của lá cây tràn ngập khắp Hương Sơn. Síỉii dó ngirời ta đến Bích Vân tự, từ cổng tam quan đến chùa chính phải lên dẩn 6 cấp độ cao, có nhiều hoa viên nối kết nhau niột cách liên hoàn; trong sảnh dẫn vào chính điện có 508 pho tượng diêu khắc bằng gổ cứng được trang trí hẵng những lá vàng dát mỏn^ vù tòa sen Phật ngự được làm hằng kim cương, là những bảo vật nổi tiếng của chùa. Từ công viên Hương Sơn đi khoảng 2 km thì đến chùa Phật nằm, chùa này được biết đến nhiêu hơn vì có pho tượng Phật nằm với kiểu dáng dộc nhất dược đúc bâng đồng vào năm Ỉ321, cân nặnẹ 54 tấn, dài hơn 5 m, đến nay vẫn tồn tại.
Công viên Bắc Hải nằm ở góc í ây - bắc Tử Cấm thánh Bắc Kinh. Ngay lừ dầu thể kỷ X nơi đây là hoàng cung thứ hai của vua nước Liêu. Ngược dòng thời gian, vào đời nhờ Tấn (năm 265-420) đã cho đào Đại Hồ, đất đá được đắp lên tạo tỉiùnh đảo nhân tạo là Quỳnh Hoa đảo; nhiều điện, đền được xáỵ dựng trở thành cung điện thử hai của nhả Tấn. Đến đời Nguyên (1279-1386), Quỳnh Hoa đào dược tái thiết ba lần và (rở thânh Irung lâm của Đại Đó. Đến Minh Triều, trài qua nhiều lán xây dựng và lái thiết Ngũ Long đình trên bờ hắc hồ Bắc Hải cũng nơi này. Suốt thời vua Càn Long írị vì phải mcíl 30 năm, một viên lâm hoàng gia rộng lớn, hoàn mỹ được hình thành hoàn chỉnh.
63
Đô thị cổ Bắc Kinh
Công viên Bắc Hải được bao quanh bởi tường thành, trên đó ở độ cao Om là những pháo đài, công írình phòng ngự, dọc theo có nhữiig hoa viên tihỏ rất dẹp với nhiều công trình kiến trúc đặc trưng, những cây đại thụ cổ kính cùng những lối đi nhỏ hẹp quanh co. Ngũ Long đình là nơi nhả vua dến cảu củ ngắm trăng hoặc xem pháo hoa. Quỳnh Hoa đảo là trung íâm công viên, được nối kết với những hoa viên khác hằng những chiếc cầu đá, khi đến những quần thể kiến trúc khác bên bờ Đông, bờ Tây có thể di chuyển bâng thuyền. Với cảnh quan kỳ lạ, kiến írúc độc đáo, công viên Bắc Hủi lù một công viên rất nổi tiếng ỏ Bắc Kinh và đặc hiệt tại dãy còn bảo tổn một tòci "Cửu Long bích" cao 5 m, dài 27 m, rộnẹ 1,2 m là một trong 3 tòa Cửu Long bích ở Trung Quốc.
{Trích bài viết của TS. Lề Minh Trung in trên tạp chí ỉcr và ĐS, 48 - 200U)
64
\ ' * . * « à i i * * • V *- •
Đõ thị cổ Bấc Kinh
. Mặt bằng tổng ĩhểThiên đàn
' 1. Cổng ngoài
2. Cổng trong
3. Trai cung
4. Hoàn Khưu đàn
5. Hoàng Khung vũ
6. Kỳ Niên môn
7. Kỳ Niên điện
S r!.......
'■ ■ y M ẵ Ệ Ẽ ã '
■ -•* 3 '■ - ’ »x- ' ữ ’ ĩ ■ J ; r “ V ài ^ ỉ-H ilr ÌT l M ■ . ^ . .. H .
Hoàn Khưu đàn với ba tầỉìg cấp là công trình lộ íìỉiên,
nơi thực lĩiệỉỉ nghi lề tế trời
Hoàng Khung vũ là nơi cất gi ừ các bài vị tế trời
(nhà tròn đường kính I5,6m cao 19,5m)
65
Đô thị cổ Bắc Kinh
Toàn ccíiili K ỳ Niên điện
66
Đõ thị cổ Bắc Kinh
K ỳ Niên cỉiệỉi lù
còng trình clìíỉìli
(cao 38ni, bệ ốm)
ĩrong tổỉìg ĩh ể kìếĩi
trúc Thiên dừìì
Cột và ĩrẩỉi mái
Kỳ Niên điện.
Bốỉi cột clìíỉilì
caoỉ9,2m tượỉìg
tnơỉg bốn mùa
ỉrong năm và 12
cột COÌÌ tượỉìg
ỊrK ììg 12 tìiáỉig.
67
Đô thị cổ Bắc Kinh
'ÍÍH,?; . f i’ ■r ■■ -1 , * ,-• 4 ,’, " ' . , 'v , . - ■.■f '^'. ■'. .■•■■•. V ■" ■ ‘V-- • ' •'-■• -J /• '
T òa Phậĩ lỉiếơỉig
các trên núi
Van Tlìo
Kiến trúc
Trường lang
'ri ' ^ . ' đ Ê
Nhà ngắm
cảnh hình
ĩìmyêỉì đú hêiì
hổ Côn Minh
68
Đõ thị cổ Boc Kinh
Ni^lìi môn tức cổng chính Thập Tam lăng xãy dựng năm 1540 (vua Thần Tông nám thự 19, rộỉig 29m cao I4m)
Đại Hồng môn là điểm khởi đầu đi vào Tlỉập Tam lăỉig
(rộỉig 26m cao 22ììi)
Trục thần đạo ĩừ cổỉìg chính dẫn vào các lăng
69
Đõ thị c ổ Bắc Kinh
Kiến trúc lăng mộ
70
Đô thị-Cổ Bốc Kinh
Uinh ảnh Vạn lý trường thành với các vọng gác
71
Đõ thị cổ Bắc Kinh
4.
KIẾN TRÚC
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
Kiến trúc tốn giáo là bộ phận rất quan trọng của nền kiến tiLÌc Cố dại Trưng Quốc.
Tôn giáo ở Trung Quốc từ xưa có Phật giáo, Đạo giáo và Đạo Islam, trong đó Phật giáo được truyền bá rộng nhâì và có tín đồ đông nhất. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang, người sáng lập là Đức Thích Ca Mâu Ni.
Theo giáo lý Phật giáo thì thế giới thực tại là bể khổ vô bờ Irong đó có cá nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử, cái khổ phải xa lìa người thân, cuộc sống khôiig được bảo đám, dục vọng không được thoả mãn... Nguyên nhân sinh ra đau khổ là do con người có nhiều dục vọng mà những dục vọng đó là do thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác của con người gợi ra. Cho nên muốn giải thoát nỗi khổ của người đời thì phải lừ bỏ những dục vọng, phái gian khổ tu hành cho đến khi kết thúc cuộc đời mới có thế đi đến thế giới không còn khổ, đau mà Phật giáo gọi đó là cõi "Niếi hàn".
Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời nhà Hán, ngay lâp tức được giai cấp phong kiến lán đổn^, úng hộ. Họ lố chức nhiều người tập trung dịch sách Kinh chữ Phạn ra tiếng Trung Quốc và tiến hành truvền bá giáo lý, cho lập đền, chùa và đào hang động khắp nơi trong nước làm nơi tu hành cho các Tảng, Ni, Phật tử. Theo tài liệu lịch sử thì thời Nam - Bắc Triều, nhà Lương ớ miền Nam có 2846 ngôi chùa Ihờ Phật, có trên 52.700 người xuất gia tu hành. Riêng ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh) đã có 70 ngôi chùa lớn. Bắc Nguy ở miền Bắc có hơn 3 vạn ngôi chùa và \'iện với hơn 200 vạn Tãng, Ni.
Số lượng các đền chùa, miếu mạo ớ Bắc Kinh có thế kể đến con số nghìn. Số lượng đông đảo các đền miếu này có cái do hoàng đế sắc chỉ xây dựng,
72
Đõ thị cổ Bắc Kinh
có cái do dân cư và bao gồm rất nhiều loại khác nhau: chùa miếu Phật giáo, Lạt ma giáo, cung quán Đạo giáo, thần từ nguyên thủy, có nhà thờ của đạo Hồi và cũng có nhà thờ của đạo Thiên Chúa.
Trong số những chùa chiền Phật giáo nổi tiếng nhất ở phạm vi trong ngoài kinh thành, người ta phân biệt "nội bát sa" gồm các chùa; Bách Lâm, Gia Hưng, Quả Tế, Pháp Nguyên, Long Tuyền, Hiền Lương, Quả Hóa, Chiêm Hoa và "ngoại bát sa" có các chùa: Giác Sinh, Quảng Thông, Vạn Thọ, Thiện Quả, Nam Quan Âm, Hải Tuệ, Thiên Ninh, Viên Quảng. Còn chùa Đàm Giá, chùa Tây Vực, chùa Giới Đài được gọi là "tam sơn". Bắc Kinh xưa còn có câu nói "cửu môn thập cá miếu" ý nói trong ủng thành của chín cổng thành trong thành nội mỗi nơi đều có một miếu Quan đế, và trong úng thành của Chính Dương môn còn có thêm ngôi miếu Quan Âm đại sỹ. Bắc Kinh xưa còn có câu nói "cửu đàn bát miếu", "cửu đàn" là Thiên đàn, Nhật đàn, Nguyệt đàn, Tiên Nông đàn, Xã tắc đàn... mà ta đã biết, "bát miếu" bao gồm: Thái miếu, Phụng Tiên điện, Truyền Tâm điện, Thọ Hoàng điện. Ung Hòa cung, Đường Tử, miếu đố vươiig các đời và Vãn miếu thờ Khổng tử. Thời Minh, Thanh, đạo quán nổi tiếng ở Bắc Kinh có điện Huyền Đạo Cao, điện Minh Đại Quan, Bạch Vân quán, miếu Đông Nhạc, miếu Đô Thành Hoàng, miếu Đô Thổ Địa, cung Triều Thiên, cung Bàn Đào, miếu Bích Hà Nguyên Quân, miếu Chấn Vũ, Ngọc Hoàng các, miếu Lã Tổ, miếu Táo Quân, miếu Hóa Thần, miếu Long Vương, miếu Được Vương...; miếu chùa Lạt ma nổi tiếng thì có cung Ung Hòa, chùa Tây Hoàng, chùa Diệu ứng, chùa Vạn Thọ, miếu Tông Kính Đại Chiêu... Chỉ tính thời kỳ đầu thời Thanh, chùa miếu Lạt ma ở Bắc Kinh thuộc phạm vi quán lý của triều đình đã có hơn ba mươi nơi. Thời kỳ Minh, Thanh, nhà thờ đạo Hồi và giáo đường Thiên Chúa nổi tiếng ở Bắc Kinh mỗi thứ có bốn ngôi, tức nhà thờ Ngưu Nhai Lễ Bái, nhà thờ đạo Hồi đông tây, nhà thờ đạo Hồi An Định môn, nhà thờ đạo Hồi cẩm Thậm phường và giáo đường đông, tây, nam, bắc.
Thái miếu (nay được dùng làm Cung Vãn hóa Nhân dân lao động) ở phía đông TTiiên An môn và đàn Xã Tắc (nay là công viên Trung Sơn) ở phía tây Thiên An món vốn là một cấu trúc phải trái đối xứng theo quy chế "Trái tổ phải xã" cúacung điện đế vương xưa.
73
Đô thị cổ Bắc Kinh_________________________________________ _
Người Trung Quốc xưa kia gọi xã là Thần thổ địa, tắc là Thần nạũ cốc. Cúng tế xã - tắc thế hiện là nước lấy nông nghiệp làm gốc. Đầu tiên, xã tác chia làm hai đàn hoặc một đàn, một miếu đế tế lề. Đến đời nhà Minh, nhà Thanh thì hợp xã - tắc làm một gọi là xã tắc để đúng tế chung. Xã tắc đàn ớ Bắc Kinh nằm bên phải, phía trước Tử Cấm thành, đối xứng với Thái miếu thành thế: tả tổ hữu xá, tức là tổ tiên bên trái, xã tắc bên phải. Hình dáng cứa nó là một gò đất hình vuông mỗi chiều 15 mét, cao gần một mét, trên mặt phủ một lớp đất có 5 màu: xanh, đỏ, vàng, đen, trắng theo sự phân bố mang tính truyển thống: phía Đông màu xanh, phía Nam màu đỏ. phía Tây máu trắng, phía Bắc màu đen, ớ giữa màu vàng; coi đất bốn phương iượnsỊ Irưiig cho cương vực của quốc £;ia. Bên ngoài gò đất có đắp một tường Ihấp váy quanh bốn phía. Mặt tường bốn phía cũng theo phương vị mà ốp lirii ly các màu xanh, đỏ, đen, Irắng. Nghi thức thờ cúng xã tắc thì đứno ứ phía Bắc hướng về phương Nam mà cúng tế, cho nên vị Irí đàn ớ phía Nam, phía Bác đàn là bái điện, hưởng điện và cửa chính.
Thái miếu Bắc Kinh bắl đầu xây dụìiíỉ vào năm Vĩnh Lạc thứ mười táin Ihời Minh (năm 1420), là nơi hoàng đế hai triều Minh, Thanh cúng tế tổ ticn. Nííười Trung Quốc xưa quan niệm "Vạn vậl bản hô thiên, nhân bán hô lổ", ý nói "vạn vật do tự nhiên còn bản tính con neười do tổ liên".
Vào ihời cổ đại, thần lố liên và thiên thần có địa vị quan Irọng như nhau, tê tổ cũng như lế trời, đều thuộc các quy ch ế tín Iiíỉưỡng hànu đầu.
Đế vương cổ đại lế lổ chú yếu có hai hình Ihức hợp lố \'à thời hướníỉ. Hợp tế là tập hợp thần chú "bài vị" các lổ liên \a gần của hoànạ đế lại hợp tế chung ó' Thái miếu. Thời thượng cổ, họp tế thôntỉ thưòìia là ba nám lổ chức một lần, liai iricLi Minh, Thanh thường lổ chức vào dịp cuối nãin. cũim có khi tê' hai lần \'ào mùa xuân và mùa thu. Thời hưởng tức là hướiiíi vào biMi inùa. cũng chính là lễ nalii lố tổ vào bốn mùa xuân, hạ, thu. dôiiẹ hànti nãin. Đầu thời Minh quy dịnh, ihừi hườnu lán lưựl tổ chức vào tiốỉ Thanh minii của mùa xuàn, tếl Đoan I12Ọ cúa mùa hạ, lẽì Truníí ngiivên (rãni lliáng b:i> âm lịch) của mùa thu, tiết Đòng chí cúa mùa đôna. Ngoài ra mỗi khi có các lễ hội Irọng đại như hoàng đế lên ngôi, kếl hôn, thân chinh, khải hoàn, hiên tù binh... hoàng đế dều phải đến Thái miếu tế cáo với tổ tông.
74
Đõ thị cổ Bắc Kinh
4.
KIẾN TRÚC
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
Kiến trúc tốn giáo là bộ phận rất quan trọng của nền kiến tiLÌc Cố dại Trưng Quốc.
Tôn giáo ở Trung Quốc từ xưa có Phật giáo, Đạo giáo và Đạo Islam, trong đó Phật giáo được truyền bá rộng nhâì và có tín đồ đông nhất. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang, người sáng lập là Đức Thích Ca Mâu Ni.
Theo giáo lý Phật giáo thì thế giới thực tại là bể khổ vô bờ Irong đó có cá nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử, cái khổ phải xa lìa người thân, cuộc sống khôiig được bảo đám, dục vọng không được thoả mãn... Nguyên nhân sinh ra đau khổ là do con người có nhiều dục vọng mà những dục vọng đó là do thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác của con người gợi ra. Cho nên muốn giải thoát nỗi khổ của người đời thì phải lừ bỏ những dục vọng, phái gian khổ tu hành cho đến khi kết thúc cuộc đời mới có thế đi đến thế giới không còn khổ, đau mà Phật giáo gọi đó là cõi "Niếi hàn".
Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời nhà Hán, ngay lâp tức được giai cấp phong kiến lán đổn^, úng hộ. Họ lố chức nhiều người tập trung dịch sách Kinh chữ Phạn ra tiếng Trung Quốc và tiến hành truvền bá giáo lý, cho lập đền, chùa và đào hang động khắp nơi trong nước làm nơi tu hành cho các Tảng, Ni, Phật tử. Theo tài liệu lịch sử thì thời Nam - Bắc Triều, nhà Lương ớ miền Nam có 2846 ngôi chùa Ihờ Phật, có trên 52.700 người xuất gia tu hành. Riêng ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh) đã có 70 ngôi chùa lớn. Bắc Nguy ở miền Bắc có hơn 3 vạn ngôi chùa và \'iện với hơn 200 vạn Tãng, Ni.
Số lượng các đền chùa, miếu mạo ớ Bắc Kinh có thế kể đến con số nghìn. Số lượng đông đảo các đền miếu này có cái do hoàng đế sắc chỉ xây dựng,
72
Đõ thị cổ Bắc Kinh
có cái do dân cư và bao gồm rất nhiều loại khác nhau: chùa miếu Phật giáo, Lạt ma giáo, cung quán Đạo giáo, thần từ nguyên thủy, có nhà thờ của đạo Hồi và cũng có nhà thờ của đạo Thiên Chúa.
Trong số những chùa chiền Phật giáo nổi tiếng nhất ở phạm vi trong ngoài kinh thành, người ta phân biệt "nội bát sa" gồm các chùa; Bách Lâm, Gia Hưng, Quả Tế, Pháp Nguyên, Long Tuyền, Hiền Lương, Quả Hóa, Chiêm Hoa và "ngoại bát sa" có các chùa: Giác Sinh, Quảng Thông, Vạn Thọ, Thiện Quả, Nam Quan Âm, Hải Tuệ, Thiên Ninh, Viên Quảng. Còn chùa Đàm Giá, chùa Tây Vực, chùa Giới Đài được gọi là "tam sơn". Bắc Kinh xưa còn có câu nói "cửu môn thập cá miếu" ý nói trong ủng thành của chín cổng thành trong thành nội mỗi nơi đều có một miếu Quan đế, và trong úng thành của Chính Dương môn còn có thêm ngôi miếu Quan Âm đại sỹ. Bắc Kinh xưa còn có câu nói "cửu đàn bát miếu", "cửu đàn" là Thiên đàn, Nhật đàn, Nguyệt đàn, Tiên Nông đàn, Xã tắc đàn... mà ta đã biết, "bát miếu" bao gồm: Thái miếu, Phụng Tiên điện, Truyền Tâm điện, Thọ Hoàng điện. Ung Hòa cung, Đường Tử, miếu đố vươiig các đời và Vãn miếu thờ Khổng tử. Thời Minh, Thanh, đạo quán nổi tiếng ở Bắc Kinh có điện Huyền Đạo Cao, điện Minh Đại Quan, Bạch Vân quán, miếu Đông Nhạc, miếu Đô Thành Hoàng, miếu Đô Thổ Địa, cung Triều Thiên, cung Bàn Đào, miếu Bích Hà Nguyên Quân, miếu Chấn Vũ, Ngọc Hoàng các, miếu Lã Tổ, miếu Táo Quân, miếu Hóa Thần, miếu Long Vương, miếu Được Vương...; miếu chùa Lạt ma nổi tiếng thì có cung Ung Hòa, chùa Tây Hoàng, chùa Diệu ứng, chùa Vạn Thọ, miếu Tông Kính Đại Chiêu... Chỉ tính thời kỳ đầu thời Thanh, chùa miếu Lạt ma ở Bắc Kinh thuộc phạm vi quán lý của triều đình đã có hơn ba mươi nơi. Thời kỳ Minh, Thanh, nhà thờ đạo Hồi và giáo đường Thiên Chúa nổi tiếng ở Bắc Kinh mỗi thứ có bốn ngôi, tức nhà thờ Ngưu Nhai Lễ Bái, nhà thờ đạo Hồi đông tây, nhà thờ đạo Hồi An Định môn, nhà thờ đạo Hồi cẩm Thậm phường và giáo đường đông, tây, nam, bắc.
Thái miếu (nay được dùng làm Cung Vãn hóa Nhân dân lao động) ở phía đông TTiiên An môn và đàn Xã Tắc (nay là công viên Trung Sơn) ở phía tây Thiên An món vốn là một cấu trúc phải trái đối xứng theo quy chế "Trái tổ phải xã" cúacung điện đế vương xưa.
73
Đô thị cổ Bắc Kinh_________________________________________ _
Người Trung Quốc xưa kia gọi xã là Thần thổ địa, tắc là Thần nạũ cốc. Cúng tế xã - tắc thế hiện là nước lấy nông nghiệp làm gốc. Đầu tiên, xã tác chia làm hai đàn hoặc một đàn, một miếu đế tế lề. Đến đời nhà Minh, nhà Thanh thì hợp xã - tắc làm một gọi là xã tắc để đúng tế chung. Xã tắc đàn ớ Bắc Kinh nằm bên phải, phía trước Tử Cấm thành, đối xứng với Thái miếu thành thế: tả tổ hữu xá, tức là tổ tiên bên trái, xã tắc bên phải. Hình dáng cứa nó là một gò đất hình vuông mỗi chiều 15 mét, cao gần một mét, trên mặt phủ một lớp đất có 5 màu: xanh, đỏ, vàng, đen, trắng theo sự phân bố mang tính truyển thống: phía Đông màu xanh, phía Nam màu đỏ. phía Tây máu trắng, phía Bắc màu đen, ớ giữa màu vàng; coi đất bốn phương iượnsỊ Irưiig cho cương vực của quốc £;ia. Bên ngoài gò đất có đắp một tường Ihấp váy quanh bốn phía. Mặt tường bốn phía cũng theo phương vị mà ốp lirii ly các màu xanh, đỏ, đen, Irắng. Nghi thức thờ cúng xã tắc thì đứno ứ phía Bắc hướng về phương Nam mà cúng tế, cho nên vị Irí đàn ớ phía Nam, phía Bác đàn là bái điện, hưởng điện và cửa chính.
Thái miếu Bắc Kinh bắl đầu xây dụìiíỉ vào năm Vĩnh Lạc thứ mười táin Ihời Minh (năm 1420), là nơi hoàng đế hai triều Minh, Thanh cúng tế tổ ticn. Nííười Trung Quốc xưa quan niệm "Vạn vậl bản hô thiên, nhân bán hô lổ", ý nói "vạn vật do tự nhiên còn bản tính con neười do tổ liên".
Vào ihời cổ đại, thần lố liên và thiên thần có địa vị quan Irọng như nhau, tê tổ cũng như lế trời, đều thuộc các quy ch ế tín Iiíỉưỡng hànu đầu.
Đế vương cổ đại lế lổ chú yếu có hai hình Ihức hợp lố \'à thời hướníỉ. Hợp tế là tập hợp thần chú "bài vị" các lổ liên \a gần của hoànạ đế lại hợp tế chung ó' Thái miếu. Thời thượng cổ, họp tế thôntỉ thưòìia là ba nám lổ chức một lần, liai iricLi Minh, Thanh thường lổ chức vào dịp cuối nãin. cũim có khi tê' hai lần \'ào mùa xuân và mùa thu. Thời hưởng tức là hướiiíi vào biMi inùa. cũng chính là lễ nalii lố tổ vào bốn mùa xuân, hạ, thu. dôiiẹ hànti nãin. Đầu thời Minh quy dịnh, ihừi hườnu lán lưựl tổ chức vào tiốỉ Thanh minii của mùa xuàn, tếl Đoan I12Ọ cúa mùa hạ, lẽì Truníí ngiivên (rãni lliáng b:i> âm lịch) của mùa thu, tiết Đòng chí cúa mùa đôna. Ngoài ra mỗi khi có các lễ hội Irọng đại như hoàng đế lên ngôi, kếl hôn, thân chinh, khải hoàn, hiên tù binh... hoàng đế dều phải đến Thái miếu tế cáo với tổ tông.
74
Đô thị cổ Bắc Kinh
Thái miếu Bắc Kinh bề mãt có hình chữ nhật, theo hướng nam bắc, diện tích gần 140.000 ni2, có ba tầng tường bao, kiến trúc chủ thể là ba đại điện trước, giữa, sau. Tiền điện tức Thái miếu, còn gọi là đại điện, rộng mười một gian, sâu vào bôn gian, lợp ngói lưu ly vàng, nằm trên nền điện kiểu bạch ngọc đời Hán quv niò rất lớn \à thường gọi là "tam đài". Xà Irụ của nó ngoài bọc gỗ Irầm hưoììg, các cấu kiện còn lại đều làm bằng gỗ nam, sợi vàng cực kỳ quý giá. Trunii diện, hậu điên dều rộng chín gian, ngói lưu ly vàng lợp nóc điện. Hai bên đông lâv mỗi điện đều có phối điện, gọi là đông, tây vũ. Thời Minh, Thanh, tiền điện là nưi "hợp tế" cúa Thái miếu, hoạt động tế tổ cúa Hoàng đế lổ chức tại đáv. Trung điện còn gọi là tẩm cung, là nơi thờ phụng, bài vị. khám ihần cúa dế hậu các đời. Hậu điện còn gọi là "khiêu miếLi", là noi thờ cúiig khám thừ, bài vị của đế hậu bốn đời trước khi nhà Thanh dựng nước về sau dược Iruy phong; đông vũ của tiền điện có mười lăm gian, là nơi đô bài vị \'ươntỉ cỏntỉ phối hướng; tây vũ mười lăm gian, là nơi đế bài vị côns thần phối hướng. Đỏng, tây vũ của trung, hậu điện đểu có nàm gian, là nơi dê’ (lồ lê. Núoài ra Thái miếu còn có mội số kiến trúc phụ irợ như kho ihần, bốp Ihần, dinh lếsinh, đình giếng.
Kiến triic Thái miếu có hon 570 nám lịch sử này, đã qua nhiều lần tu sửa, cái tạo, Irùng lu. Cliắim hạn \'ào năm Gia Tĩnh Ihứ mười bốn nhà Minh (1535), Minh Thê 'lồim Chu Hậu Thônu đem chia tiền điện của Thái miếu là nưi hợp tế tổ tiẽn các đời. làm chín phẩn, đổi chế độ hợp tế thành phân tế, quy định chín ntiôi miếu Ihờ cTÌnti tố liên các đời. Nhưng về sau trong số chín miếu có lám bị sél đánh ihicLi hủv, Chu Hậu Thông và các đại thần cho rằng đó là do tổ liên khốiiii muôn phân tế, nên vào năm Gia Tĩnh thứ hai mươi ur (1545) cho xây dựn:: lại Thái miếu, khôi phục lại chế độ hợp tế. Năm Sùns Trinh thứ mười báv (1644) quán khởi nghĩa nòng dân Lý Tự Thành đánh \'ào Bác Kinh, lừii” phóna hỏa đốt Thái miếu nhưntỉ tổn hại không ló'n. Sau klii quàn Thaiih chiếm được kinh thành, Thái miếu cũng có sự thay đổi, Hoàiiiỉ dế Thuận Trị clã chuvcn bài vị tổ liên các đời của vương tricu Minh đèn đạt irong miếu đế \'ươníi các đời ớ phía tây thành, sau đó bày bài vị than chủ cúa tổ ticn mình ièii điện đưừno của Thái miếu.
Khổng miếu Bác Kinh nằm ứ phố Quốc Tử Giám (nguyên là phố Thánh Hiền) trong An Định môn thuộc khu phía đông thành phố, là nơi đế vương
75
Đô thị cổ Bắc Kinh
phong kiến ba đời Nguyên, Minh, Thanh thờ cúng Khổng Tử. ông sống vào thời Xuân Thu (571 - 479 tCn), là nhà giáo dục, nhà tư tưởng, nhà chính trị lớn của Trung Quốc cổ đại. Học thuyết Nho gia do ông sáng lập là cột trụ tinh thần của giai cấp thống trị và tư tưởng chính thống của xã hội ph)ng kiến Trung Quốc, đã được đế vương các đời sùng bái và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội Trung Quốc. Đặc biệt là từ khi Hán Vũ đế 'băi truất bách gia, độc tôn Nho thuật", Khổng Tử càng được đề cao với những iẻ nghi long trọng. Đời Hán, Tần, Tùy đã tôn Khổng Tử là Tiên Sư. Tiên Thánh, Tuyên Ni, Tuyên Phụ, đời Đường lại tăng thêm "Văn Tuyên Vương", đời Tống tãng thêm "Chí Thánh", dời Nguyên lại thêm hai chữ "Đại Thành" và gọi Khổng Tử là "Đại Thành Chí Thánh Vãn Tuyên Vương". Đầu hời Minh vẫn dùng tên gọi này. Sau thời Gia Tĩnh, hai đời Minh - Thanh đều tôn Khổng Tử là "Chí thánh tiên sư". Danh hiệu của Khổng Tử nhiều và tên miếu cũng rất nhiều. Đế vương các đời đều coi trọng việc lê lễ Khổng Tứ. Hai đời Minh, Thanh, ngoài việc xây dựng Khổng miếu ở phía dỏng "'hái Học Kinh Thành (tức Quốc Tử Giám, trụ sớ của Thư viện Thú đô ngày lay, ở phía tây cổng miếu) theo chế độ "Tả miếu hữu học", các phủ, châu, hLyện học trong cả nước cũng đều lập miếu Khổng và do quan đứng đầu địa phương các vùng phụ trách việc tế tự. Ngoài ra mỗi khi có đại sự, Hoàiiị đế còn phải thân chinh hoặc cử các quan đến quê nhà Khổng Tử (Khổng miếu ớ Khúc Phụ, Sơn Đông) để tế lễ. Trong Khổng miếu ngoài thờ Khổng Ti ru, những người được thờ cúng theo còn có hiền triết các đời và tổ tiên của Khổng Tử.
Khổng Miếu Bắc Kinh còn gọi là miếu Tiên Sư, bắt đầu xây dựng vào năm Đại Đức thứ sáu triều Nguyên (1302) và hoàn thành vào nãm Đại Oức thứ mười. Năm Chí Thuận thứ hai triều Nguyên (1331), Hoàng đế hạ ciiéu ân chuẩn Khổng miếu có thể được theo quy chế hoàng cung xây giác hu ớ tư ngung. Thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức triều Minh đã tu tạo với quy mô lớn. Năm Gia Tĩnh thứ chín (1530) xây thêm dẻn Sùng Khánh đé' thờ cúng tổtién năm đời của Khổng Tử. Nãm Càn Long thứ hai triều Thanh (1737) Hoàn; đế đích thân chỉ dụ cho Khổng miếu được sử dụng ngói lưu ly vàng, loại Igói có đẳng cấp cao nhất. Khổng miếu Ihời đó đã lợp ngói vàng tường son nén rất huy hoàng, rực rỡ. Năm Quang Tự thứ ba mươi liai (1960) lại thăng k tiết
76
Đõ thị cổ Bắc Kinh
tế Khổng Tử lèn thành lẻ lớn và cũng tiến hành tu sửa toàn diện với quy mô lớn. Tổng thể kiến trúc Khổng miếu có quy mô khá lớn, diện tích khoảng 22.00(0m^, có ba dãy viện lạc, kiến trúc chủ thể có Tiên Sư môn, Sùng Thánh từ, sắp xếp trên đường trục giữa từ nam đến bắc.
Tiên Sư mõn là cổng chính của Khổng miếu, tạo hình cổ kính đcín giản, là kiến tirúc gỗ, mang phong cách thời Nguyên. Trước Tiên Sư môn có một dãy lường hoa khảm lưu ly, phía ngoài hai bên đông tây có bia "Hạ mã" làm vào thời Thanh. Trong Tiên Sư môn, phía đông có bếp Thần, đinh Tải sinh, đình Giếng, phía tây có kho Thần, và Trí trai sở. Sân bên trong có ba đình bia và 198 tấ.m bia ghi danh 51.524 vị liến sĩ ba đời Nguyên, Minh, Thanh.
Phía Bắc Tiên Sư mòn là Đại Thành môn, trong cổng có một chuông một trống, hai bên có mười trống đá (thời Càn Long) và ở giữa có hành lang thông thắng đến điện Đại Thành là kiến trúc trung tâm của Khổng miếu. Điện Đại Tỉiành là chính điện thờ Khổng Tử, trong điện có bày các nhạc khí cổ dùnig khi tế tự như đàn, chuông, khánh...
Cuing ưng Hòa nằin ớ phía bắc đại lộ cung Ung Hòa thuộc khu phía đông thành phố, là miếu Lạt ma lớn nhất của Bắc Kinh, cũng là một trong những miếu Lạt ma nổi liống của Trung Quốc. Cung được xây dựng vào năm Khang, Hy thứ ba mươi ba (1694), nguyên là Quan phòng của thái giám thời Minh, năm Khang Hy thứ ba mươi đã chọn địa điểm này để xây dựng phủ cho Hoàng tử thứ tư Dận Chân (Hoàn^ đế Ung Chính sau này). Sau khi Dận Cliân k ế vị, thì một nửa phủ được đổi thành Hoàng giáo thượng viện và một nửa là Hoàng cung. Vào năin ưng Chính thứ ba (1725) lại đổi là cung Ung Hòa. Khi Ung Chính mất, cung Ung Hòa trở thành sảnh đường để các Hoàag đế nhà Tlianh Ihờ phuiiíỉ di ảnh tổ tiên và phần lớn các điện đường trở íhành nơi tụng kinh cúa Lạl ma hoàng giáo. Năm Càn Long thứ chín (1744) iriều đ ình lại đổi cLiim Un« Hòa thành lu viện thờ phụng rộng rãi Lạt ma !ZÌáo cúa cá khu \'ực Mónu. Tạna. Từ đó cung Ung Hòa trớ thành trung tâm sư vụ Lạt ma giáo cua incu dinh nhà Thanh.
Cun;2 Uns Hòa có tlicn tích hưn 60.000 m“ với hơn 1200 tòa điện đuờng, lãng xui,... là một qiiáii !liC' kiốn liLÌc cổ riỉỉLiy nga tráns lệ. Kiến trúc chủ thể láy phona cách cúa dàii lóc Hán.làm ciiủ. có hấp thụ và kêì hợp một cách khéo lé;o nhũTig dăc diém Iranạ In' của kiến trúc các dân tộc Mông, Tạng...
77
Đô thị cổ Bốc Kinh
Toàn thể chùa miếu nằm ở phía bắc nhìn về phía nam, chia làm ba lộ đông, trung, tây. Kiến trúc chủ thể tập trung ở đường trục giữa từ nam đến bắc của trung lộ có bảy dãy điện lạc, năm tầng điện đường tạo thành, hai bên trái, phải còn có các phối điện và phối lầu. Đầu phía nam của trung lộ là bia lầu viện, trong điện phía nam có tường bình phong màu đỏ thắm, ba mặt đông, tày, bắc đều có bia lầu môn nguy nga. ở đây địa thế bằng phắng, thoáng rộng, tùng bách rậm rạp khiến không gian thanh nhã u tịch.
Điện Thiên Vương nằm ở phía bắc Chiêu Thái môn, là dãy đại diện thứ nhất của cung Ung Hòa, điện nay nguyên là cửa cung của Una Thân vương phủ (ở mái hiên điện vẫn còn ba chữ "Ung Hòa môn"). Chính giữa điện có tượng Di Lặc, tượng Tứ Đại Thiên Vương ở hai bên, tượng hộ pháp Vĩ Đà...
Cung điện Ung Hòa là dãy đại điện thứ hai, tương tự đại điện Đại Hùng của các chùa miếu. Cách trang trí, tô vẽ của đại diện này rất phong phú, đa dạng.
Phật giáo băt nguồn từ Ân Độ cổ được du nhập vào 'rrưng Quốc lới nay đã trên 2000 năm. Phật giáo chiếm vị trí quan Irọng trong xã hội Trung Quốc và kiến trúc Phật giáo cũng trở thành loại hình kiến trúc quan trọng (chỉ đứng sau loại hình kiến trúc cung điện).
Từ thời Đông Hán đến Ngụy, Tấn, chùa thờ Phật thời kỳ đầu được cliia làm hai loại: Một loại lấy tháp làm trung tâm, loại thứ hai không có tháp ở trung tâm mà xây dựng giống loại nhà ở có sân trong.
Bố cục cúa chùa theo kiểu có tháp ở trung tâm bắt nguồn từ quan nicin Phật giáo của An Độ. Vào khoảng thời gian trước và sau Công nguyên, ỏ' .An Độ, khi nghệ thuật Kiên Đà La (Ganhara) còn chưa trở nên hưng thịnh thì vãn chưa có tượng Phật mà đối tượng được các tín đồ tôn sùng chỉ là những di vật của Phật, di tích của Phật hay những vật kỷ niệm tiêu biểu cho những gì đức Phật đã trải qua khi còn sống. Tháp được coi là tượne trưng cho cõi Niết Bàn của Phật được xây dựng ớ những nơi khi Đức Phật sinh thời đã có những hoạt động lớn, và rất được tôn sùng. Phong tục cúa Ấn Độ đi vòng quanh nhũng vậl được tôn sùng (theo chiều kim đồng hồ) đế bày tỏ sự ciỉng kính lớn nhất, khái niệm này cũng được truyền vào Trung Quốc và chùa thờ
78
Đõ thị cổ Bắc Kinh
Phật với lòa tháp ớ trung tâm được xây dựng ồ ạt. Chùa Vĩnh Ninh là ngôi chùa thờ Phặl lớn nhất ở Lạc Dương thời Bắc Ngụy, trong sân chùa có một tòa tháp gỗ cao chín lầng, phía bắc của tháp có Phật Điện, ở bốn mặt mỗi mặt đều trổ một cửa.
Sân cúa chùa thờ Phật có tháp ở trung tâm thường tạo đủ khoảng trống để cho các tăng đồ đi vòng quanh theo nghi lễ. Tháp cao sừng sững, hình dáng nổi bật, trở thành chú thể trong quần thể chùa, bốn góc của sân nếu có vọng lâu thì cũng kết hợp chặt chẽ với tháp lớn, làm nền cho tháp, tạo thành cảnh quan rất đa dạng. Khu sân là nơi quan trọng nhất nằm trên đường trục trung tâm của chùa, bố cục thường do hành lang gấp khúc uốn lượn vòng quanh tạo thành, chính giữa của hành lang trước có cổng lớn, bốn góc của hành lang gấp khúc có xây bốn vọng lâu cao lên, bên trong vọng lâu để kinh sách hoặc treo chuông lớn. Trên đường irục dọc của sân có từ một đến ba tòa điện đường, một tầng hoặc có lầu các, cũng có tháp hai tầng. Nếu có ba tòa điện đường thì tòa đầu và lòa cuối là một tầng, tòa ở giữa là lầu các để làm tăng ihêm mức nhấp nhô của dường chân irời. Trục ngang nằm trước tiền điện, bẽn trái và phải trục ngana có xâv điện thờ phụ, đa số là lầu các, quy mô nhỏ hơn tiền diện. Trong sân cũng thường có hồ nước, trên mặt nước có nhiéu đài thấp hình vuôno.
T háp chùa Thiên Ninh nàrn ở gần đường bờ sông (ngoài Quảng An môn thuộc khu Tuyèn Vũ) là phần còn sót lại của chùa Thiên Ninh, là một ngôi chùa cổ nổi tiếng của kinh đò. Tháp này là một trong số nhũng tháp gạch kiểu Mật thiền hiện còn ở Trung Quốc, được coi là một báu vật trong kho làng nghệ thuật kiến uúc cố đại Trung Quốc.
Tháp chùa được xây dựnỵ ban đầu vào năin Nhâm Ngọ thứ hai thời Tùy Vãn đế (602) sau bị đố. Tháp đươc xây lại vào thời Liêu cách nay đã gần một nghìn nãm và nám trona số nhữnơ kiến trúc cổ kính nhất hiện còn của Bắc Kinh.
Chùa Thiên Ninh dược xáy dựnti vào thời Bắc Ngụy Hiếu Văn đế (471 - 499), đương thời gọi là chùa Quang Lâm. thời Tùy Vãn đế (581 - 604) gọi là chùa Hùn? Nehiệp. Nãm Nhâm Noọ thứ hai Tùv Vãn đế muốn cất giũ' xá ụ l^hậl đã hạ lệnh xâ\ tháp trong chùa, tức tiền thân của tháp thời Liêu ngày
79