" Yersin: Dịch Hạch và Thổ Tả - Patrick Deville full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Yersin: Dịch Hạch và Thổ Tả - Patrick Deville full prc pdf epub azw3 [Danh Nhân] Ebooks Nhóm Zalo Tác phẩm: Yersin: Dịch hạch & Thổ tả Nguyên tác: Peste et Choléra Tác giả: Patrick Deville Thể loại: Tiểu thuyết Dịch giả: Đặng Thế Linh Nhà xuất bản: Trẻ Năm xuất bản: 11/2013 Dự án Ebolic #3 Shooting: Hanki Typing: Thanh Hương, Trung, Thạch, Nhật Minh, Hải Vân Checking: Trương H.Tuấn, Đào Bá Thiên Leading & Packaging: Tornad Ngày hoàn thành: 28/4/2017 Ebolic là dự án chế bản ebook do Bookaholic thực hiện. Chúng tôi hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận và dựa trên tinh thần tự nguyện, với mục đích mang đến cho độc giả những đầu sách hay và lan tỏa văn hóa đọc cho cộng đồng. Chúng tôi khuyến khích độc giả mua sách in, và chỉ nên tìm đến ebook này khi không thể tiếp cận sách. MỤC LỤC Lời tựa Chuyến bay cuối cùng Lũ côn trùng Ở Berlin Ở Paris Kẻ bị tống tiễn Ở Normandie Một tòa tháp cao bằng sắt ở trung tâm thế giới Một bác sĩ trên tàu Ở Marseille Trên biển Những cuộc đời song chiếu Albert & Alexandre Bay Ở Hải Phòng Bác sĩ của người nghèo Trường chinh Ở Phnôm Pênh Một Livingstone mới Ở Đà Lạt Arthur & Alexandre Về nơi người Xê Đăng Ở Hồng Kông Ở Nha Trang Ở Madagascar Vắcxin Ở Quảng Đông Ở Bombay Cuộc đời đích thực Ở Hà Nội Cuộc tranh cãi về gà Một con tàu trong nạn Hồng thủy Một tiền đồn của tiến bộ Ông vua cao su Cho hậu thế Rau & quả Ở Vaugirard Máy móc & dụng cụ Ông vua canhkina Alexandre & Louis Gần như một dwem Ngoài hiên Bóng ma của tương lai Cái nhóm nhỏ Biển Lời cảm ơn Lời bạt Lời tựa Nếu như có một người Pháp (gốc Thụy Sĩ) trong thời kỳ thuộc địa mà tất cả mọi người Việt Nam đồng lòng khi nhắc đến, thì đó chính là Alexandre Yersin, nhân vật mà tên tuổi được biết đến ở miền đất này còn nhiều hơn tại Pháp. Nhà văn Patrick Deville đã đặc biệt quan tâm tới trường hợp của Alexandre Yersin và nhanh chóng phát hiện ra một nhân vật tiểu thuyết hết sức đặc biệt. Một trực cảm chính xác. Bởi vì lần theo dấu chân của Yersin là cả một cuộc phiêu lưu kì lạ. Là học trò đầy hứa hẹn của Louis Pasteur, Yersin lại mong muốn những hướng đi mới, để mãi khám phá điều chưa từng được biết đến. Thay vì theo đuổi sự nghiệp tại Viện Pasteur, ông lại quyết tâm lao vào khám phá trường đời xa lạ và đặt chân tới những con đường núi hiểm trở của một đất nước trồng lúa – đó là Việt Nam. Yersin không phải là nhà văn, nhưng ông đã góp những trang phiêu lưu nhất và kỳ thú nhất trong cuốn sách vĩ đại về thành tựu của những học trò đầu tiên của Pasteur. Là người khám phá ra trực khuẩn dịch hạch – Yersinia pestis khi bệnh dịch này hoành hành ở Hồng Kông năm 1894 và là người đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch, ông không dừng chân lại chỗ mà tiếp tục lao vào khám phá những miền đất xa xôi. Không thỏa mãn, ông thú nhận “sớm chán nản mọi thứ, trừ Nha Trang”. Bởi lẽ nhà thám hiểm không ngừng nghỉ này, người luôn luôn vận động, đã sống một nửa cuộc đời mình tại Nha Trang. Ông chăm sóc những người xung quanh và phát triển việc trồng cây cao su, cây canhkina và trồng rau trên các cao nguyên miền Trung của đất nước. Những sáng kiến của chỉ riêng ông hiện đã làm nên một phần bản sắc Việt Nam. Patrick Deville đưa vào văn chương cuộc đời độc đáo và đầy đam mê của một trong những nhà tiên phong trong nghiên cứu y học. Nhà văn lần theo dấu vết của nhà khoa học trên khắp thế giới và nhất là Việt Nam, nơi ông liên tục quay trở lại. Virút mang tên Việt Nam mạnh kỳ lạ, nhất là khi virút này lây sang một người Pháp. Liệu pháp duy nhất được biết đến để đối phó với loại virút này là quay trở lại và mãi mãi ở lại Việt Nam. Bác sĩ Yersin hẳn đã hiểu rõ điều đó khi quyết định ở lại hẳn Nha Trang, trên vùng đồi núi cao nhìn xuống thành phố này. Việc xuất bản cuốn Yersin: dịch hạch và thổ tả bằng tiếng Việt nhằm tôn vinh Alexandre Yersin và cả Patrick Deville. Cuốn sách được phát hành trong khuôn khổ Năm Pháp-Việt Nam, kỷ niệm 70 năm ngày mất của Yersin và 120 năm thành phố Đà Lạt nhờ công lao của Alexandre Yersin. Chúng tôi xin cảm ơn tác giả Patrick Deville, người đã dành cho chúng tôi sự giúp đỡ quý báu trong việc thực hiện dự án này. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Nhà xuất bản Trẻ, tới dịch giả Đặng Thế Linh, cũng như tới bà Đoàn Cẩm Thi và bà Hồ Thanh Vân, những người đã tham gia hiệu đính bản dịch. Jean – Noël Poirier Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Préface S’il est un Français (d’origine suisse) de la période coloniale qui fait l’unanimité au Vietnam, c’est bien Alexandre Yersin, héros plus connu dans cette partie du monde qu’en France même. Patrick Deville c’est penché sur le cas Alexandre Yersin et a vite décelé un animal de roman. Bonne intuition. Car suivre Yersin à la trace est une sacrée aventure. Disciple prometteur de Louis Pasteur, Yersin privilégie les changements de cap, pour toujours privilégier l’inconnu. Plutôt que de mener carrière à rinstitut Pasteur de Paris, il décide de faire l’école buissonnière et emprunte les sentiers de montagne d’un pays de rizières, le Vietnam. Yersin n’est pas écrivain, mais il fournira au grand livre des exploits des premiers pastoriens les pages les plus aventureuses et les plus insolites. Découvreur du bacille de la peste – Yersinia pestis – lors de l’épidémie qui ravage Hong Kong en 1894 et premier homme à sauver un pestiféré, il ne sait pas rester en place et se lance dans l’exploration de terres lointaines. Insatiable, il avoue « se lasser vite de tout, sauf de Nha Trang ». Car cet explorateur incurable, toujours en mouvement, y passera la moitié de sa vie. Il s’occupe des malades qui l’entourent et développe la culture de l’hévéa, de l’arbre à quinquina et de la culture potagère sur les plateaux du centre du pays. Toutes ces initiatives d’un seul homme font aujourd’hui partie de ridentité du Vietnam. Patrick Deville fait entrer en littérature la vie inclassable et passionnante de l’un des pionniers de la recherche médicale. Il suit sa trace autour du monde et surtout autour du Vietnam, où Alexandre Yersin revenait sans cesse. Le virus du Vietnam est particulièrement puissant, surtout quand il frappe un Français. Le seul remède connu de ce virus consiste à revenir encore et toujours au Vietnam. Le docteur Yersin l’avait bien compris qui décida de s’installer à Nha Trang et sur la montagne qui surplombe la ville. En publiant « Peste et Choléra » en vietnamien, hommage est rendu à Alexandre Yersin et à Patrick Deville. Le livre est édité dans le cadre de l’année France–Vietnam, du 70ème anniversaire de la mort de Yersin, et du 120ème anniversaire de la création de la ville de Da Lat par Alexandre Yersin lui-même. Nous remercions Monsieur Patrick Deville, qui nous a apporté une aide précieuse dans la réalisation de ce projet. Nos remerciements vont également aux Editions Tre, à Monsieur Dang The Linh, traducteur du livre ainsi qu’à Mesdames Doan Cam Thi et Ho Thanh Van qui ont bien voulu apporter leur contribution à la traduction. Jean – Noël Poirier Ambassadeur de France au Vietnam À! Vâng, trở thành huyền thoại Ở ngưỡng những thế kỷ bịp bợm! * * * Laforgue Chuyến bay cuối cùng Bàn tay già nua cụt ngón cái lấm chấm đồi mồi hé tấm riđô. Sau đêm mất ngủ, rạng hồng bình minh, nhạc điệu huy hoàng. Căn phòng khách sạn màu trắng tuyết pha vàng nhạt. Xa xa ánh đèn đan cài thành phên mắt cáo của ngọn tháp sắt lớn đằng sau màn sương mù phảng phất. Phía dưới, đám cây xanh um của công viên Boucicaut. Thành phố tĩnh lặng trong mùa xuân thời chiến. Đông đặc dân di tản. Đám người này vốn nghĩ rằng đời mình sẽ không xê dịch. Bàn tay già nua buông chốt cửa sổ, cầm quai vali. Sáu tầng bên dưới, Yersin bước qua cái cửa quay bằng gỗ đánh vécni nẹp đồng màu vàng. Một người phục vụ vận áo đồng phục đóng cửa taxi lại sau lưng ông. Yersin không chạy trốn. Ông chưa từng chạy trốn. Chuyến bay này, ông đã giữ chỗ từ nhiều tháng trước tại một hãng lữ hành ở Sài Gòn. Đó là một người giờ gần như hói, râu bạc và mắt xanh. Áo vét kiểu quý tộc nông thôn, quần màu be và áo sơ mi trắng mở cổ. Cửa kính sân bay Bourget trông ra đường băng có một chiếc thủy phi cơ đang đậu. Một con cá voi nhỏ màu trắng với cái bụng tròn chứa khoảng chục hành khách. Người ta đẩy xe thang sát lại khoang lái từ phía bên trái, vì các phi công đầu tiên, trong đó có Yersin từng là kỵ sĩ1. Ông lên đường để gặp lại những con ngựa An Nam nhỏ thó của mình. Một nhúm người chạy trốn ngồi trên mấy ghế dài của phòng chờ. Giấu kín bên dưới hành lý của họ, dưới đống váy áo là những xấp tiền và vàng thỏi. Lính Đức đã đến các cửa ngõ của Paris. Những người này đủ giàu để không phải nghĩ đến chuyện hợp tác với quân chiếm đóng, bọn họ hết nhìn đồng hồ treo tường lại nhìn xem đồng hồ đeo tay. Hẳn chỉ cần một chiếc xít-đờ-ca của quân Đức là đủ để ghim chặt tại chỗ con cá voi nhỏ màu trắng. Đã quá giờ. Yersin không buồn nghe những lời lẽ đầy lo lắng, mà viết mấy câu gì đó vào sổ. Cánh quạt đã quay, chúng nằm trên buồng lái, giữa hai cánh máy bay. Ông đi qua đường băng. Những kẻ chạy trốn muốn xô đẩy ông, buộc ông phải chạy. Tất cả đều đã yên vị trên máy bay. Ông được đỡ leo lên thang. Đây là ngày cuối cùng tháng Năm năm 40. Hơi nóng khiến ảo ảnh một vũng nước nhảy nhót trên mặt đường. Chiếc máy bay rung lên và lao đi. Những kẻ trốn chạy lau trán. Đây là chuyến bay cuối cùng của hãng hàng không Pháp trong suốt nhiều năm. Điều này thì chưa ai biết. Với Yersin đây cũng là chuyến bay cuối cùng. Ông sẽ không bao giờ quay về Paris nữa, sẽ không bao giờ thấy lại căn phòng nhỏ của mình trên tầng sáu khách sạn Lutetia. Điều ấy ông có thoáng nghĩ tới, ông ngắm nhìn phía bên dưới, những dòng người chạy loạn trong vùng Beauce. Xe đạp và xe bò chất đống đồ đạc với chăn đệm. Đám xe tải rì rì giữa những người cuốc bộ. Toàn bộ ướt đẫm dưới cơn giông mùa xuân. Hàng đoàn côn trùng hoảng hốt bỏ chạy để không bị đám súc vật xéo nát. Hàng xóm của ông ở khách sạn Lutetia đều đã rời đi cả. Cái ông Ái Nhĩ Lan cao 1 Ở Pháp, các kỵ sĩ có thói quen lên ngựa từ bên trái. lênh khênh đeo kính, nhà văn Joyce mặc comlê đủ bộ, đã đang ở vùng Allier rồi. Matisse thì tới Bordeaux rồi đi Saint-Jean-de-Luz. Chiếc máy bay hướng về phía cảng Marseille. Giữa hai gọng kìm đang siết lại, phát xít và chế độ độc tài Franco.Trong khi đó về phía Bắc, cái đuôi của con bọ cạp đang dựng lên trước khi quất xuống. Dịch hạch nâu2. Ngôn ngữ và văn hóa cả Đức lẫn Pháp, Yersin đều biết rõ, cả những cãi cọ lâu đời giữa hai bên. Dịch hạch, ông cũng biết rõ. Nó mang tên ông. Đã từ bốn mươi sáu năm nay, tính đến ngày cuối cùng tháng Năm năm 40 này khi ông bay phía trên nước Pháp lần cuối, trong bầu trời giông bão. Yersinia pestis.3 2 Ở đây chỉ Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, do mang quân phục màu nâu. 3 Tên khoa học của trực khuẩn dịch hạch do Yersin tìm ra tại Hồng Kông. Lũ côn trùng Ông già giở lướt cuốn sổ rồi thiu thiu ngủ trong tiếng rì rầm ong ong. Từ nhiều ngày nay ông bị mất ngủ. Khách sạn đầy những người tình nguyện trong đội Dân vệ đeo băng tay màu vàng. Ban đêm còi báo động hú suốt. Đống ghế bành được xếp dưới hầm trú ẩn cuối dãy hành lang lỏng chỏng chai dưới đất. Đằng sau hàng mí mắt đã nhắm của ông, mặt trời đùa giỡn trên mặt biển. Khuôn mặt Fanny. Chuyến đi của cặp vợ chồng trẻ xuống vùng Provence rồi tận Marseille để bắt côn trùng. Làm sao có thể viết về anh con trai mà không viết gì về người cha. Chuyện này cũng ngắn thôi. Anh con trai chưa bao giờ gặp cha mình. Tại Morges thuộc bang Vaud, trong gia đình Yersin cũng như bên hàng xóm, cảnh sống không đến nỗi cùng quẫn nhưng vô cùng đạm bạc. Ở đó một xu là một xu. Váy áo sờn cũ của các bà mẹ được chuyển cho đám hầu gái. Nhờ đi làm gia sư mà người cha đã có thể theo học kha khá ở Genève, một thời làm giáo viên cấp hai, rất mê thực vật học và côn trùng học, nhưng để kiếm sống tốt hơn, ông làm quản kho thuốc súng. Ông mặc áo vét đen bó chặt của giới học giả và đội mũ chỏm cao, biết tất tật về côn trùng cánh cứng, trở thành chuyên gia côn trùng cánh thẳng và châu chấu. Ông vẽ châu chấu và dế, giết hết, đặt cánh và râu chúng dưới kính hiển vi, gửi bài viết tới Hội Khoa học tự nhiên bang Vaud, thậm chí cả Hội Côn trùng học Pháp. Thế rồi ông trở thành quản đốc Kho thuốc súng, không xoàng đâu nhé. Ông tiếp tục nghiên cứu hệ thống thần kinh ở dế đồng và hiện đại hóa ngành thuốc súng. Trán đè nát con dế cuối cùng. Trong cơn co giật cuối, cánh tay ông hất đổ đống chai lọ. Alexandre Yersin qua đời ở tuổi ba mươi tám. Một con bọ hung xanh lục bò ngang má ông. Một con châu chấu mắc kẹt trên tóc ông. Một con bọ mật sọc đen chui vào cái miệng há hốc của ông. Cô vợ trẻ Fanny đang mang thai. Bà góa của ông chủ sẽ phải rời kho thuốc súng. Sau bài điếu văn, giữa những bọc quần áo và chồng bát đĩa, một đứa trẻ chào đời. Người ta đặt cho nó tên của người chồng đã chết. Ven bờ Hồ4nước trong và lạnh, bà mẹ mua Nhà Cây Sung tại Morges rồi sửa sang thành nhà trọ cho các cô gái trẻ. Fanny là người lịch thiệp, rành rẽ các cung cách phụ nữ. Bà dạy bọn con gái nữ công gia chánh, một chút vẽ vời và âm nhạc. Suốt đời, người con trai sẽ luôn khinh bỉ những hoạt động ấy, lẫn lộn nghệ thuật đích thực với những thứ nghệ thuật mua vui. Với anh mọi chuyện 4 Ở đây chỉ hồ Lesman, một hồ lớn ở Thụy Sĩ. tầm phào hội họa văn chương đều gợi nhớ đến sự phù phiếm của đám con gái mà trong thư từ anh gọi là lủ khỉ cái. Điều này khiến bạn hình dung ra một đứa trẻ hoang dã, đặt bẫy và phá tổ chim, dùng kính lúp nhóm lửa, về nhà lấm lem bùn đất như thể trở về từ chiến trường hoặc một cuộc thám hiểm trong rừng rậm. Thằng bé chơi một mình, quần nát vùng nông thôn, bơi ở Hồ hay làm diều. Nó bắt côn trùng, đem ra vẽ, dùng kim xiên rồi đính lên giấy bìa. Nghi lễ hiến sinh làm người chết sống dậy. Giống như giáo và khiên ở một tộc người chiến binh, nó thừa hưởng các biểu tượng của cha, lôi từ cái rương để trong kho chứa đồ ra kính hiển vi và con dao mổ. Đây là Alexandre Yersin thứ hai và cũng là một nhà côn trùng học thứ hai. Các bộ sưu tập của người quá cố đã chuyển vào bảo tàng Genève. Mục đích của một cuộc đời có thể là: phung phí năm tháng của mình cho việc nghiên cứu khổ hạnh, chờ đến lượt mình bị vỡ một mạch máu não. Thế hệ này qua thế hệ khác, ngoài việc hành hạ lũ côn trùng thì các trò giải trí vùng Vaud rất hạn chế. Bản thân khái niệm “giải trí” đã đáng ngờ rồi. Ở chốn này sống là để cứu chuộc cái tội là đã sống. Gia đình Yersin chịu tội dưới bóng Nhà thở Tân giáo tự do, xuất phát từ một phong trào ly giáo ở Lausanne trong giới Tin Lành vùng Vaud. Đám này từ chối cho Nhà nước quyền trả lương mục sư và gìn giữ nhà thờ của họ. Trong cảnh nghèo thảm và tằn tiện, những con chiên ngoan đạo đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm tiền nuôi các bậc chăn chiên. Việc này còn nan giải hơn chuyện nuôi một ông linh mục ăn khỏe. Nhằm làm vui Chúa – hãy sinh sôi nảy nở – mục sư là một loài phát triển cực nhanh. Đó là những gia đình con đàn cháu đống như lũ chim non dưới đáy tổ há mỏ lên trời. Váy áo cũ của các bà mẹ sẽ không được chuyển sang cho đám hầu gái nữa. Các giáo dân khoác lên người sự thanh khiết và lòng chính trực như khoác áo choàng vậy. Họ là những kẻ thuần khiết nhất, xa rời cuộc sống vật chất nhất, những quý tộc về đức tin. Từ cái lạnh lùng cao ngạo trong những ngày chủ nhật băng giá xanh lơ ấy, người ta bảo chàng trai bé nhỏ sẽ lưu giữ sự thẳng thừng cộc lốc và nỗi khinh bỉ mọi vật chất trên cõi đời này. Đứa trước đây vì buồn chán mà học hành xuất sắc, nay đã trở thành một thiếu niên cần cù. Những người đàn ông duy nhất được đón tiếp ở Nhà Cây Sung, trong phòng khách nhỏ đầy hoa, là các ông bác sĩ bạn của bà mẹ. Khi ấy, vấn đề là phải lựa chọn Pháp hay Đức và một trong hai mô hình đại học. Ở phía Đông sông Rhin là kiểu học giảng đường và lý thuyết, khoa học được phát ra từ trên cao bởi những nhà bác học vận comlê đen cổ hồ cứng. Ở Paris là giảng dạy lâm sàng ngay đầu giường người bệnh và mặc blu trắng, mô hình được gọi là thực hành, người lập ra là Laennec5. Sẽ là Marburg, theo lời khuyên của mẹ và đám bạn bà. Yersin thích Berlin hơn nhưng đành chọn tỉnh lẻ. Fanny thuê cho con trai một căn phòng ở nhà một ông giáo sư khả kính, một cây cao bóng cả ở trường đại học nhưng lại trợ lễ ở nhà thờ. Yersin phục tùng nhằm rời xa đám đàn bà con gái. Ra đi. Giấc mơ của anh là giấc mơ của một đứa trẻ. Đó là khởi đầu những thư từ trao đổi với 5 Bác sĩ René Laennec (1781-1826): người Pháp, nổi tiếng vì đã sáng chế ra ống nghe bác sĩ. Fanny, cho mãi đến khi bà qua đời. “Khi nào trở thành bác sĩ, con sẽ đưa mẹ đến sống ở miền Nam nước Pháp hay ở Ý, mẹ nhé?” Tiếng Pháp trở thành một thứ ngôn ngữ bí mật, đậm tình mẫu tử, một kho báu, ngôn ngữ của buổi tối, của những bức thư viết cho Fanny. Anh hai mươi tuổi và từ ngày đó cuộc đời anh được nói bằng tiếng Đức. Ở Berlin Nhưng trước hết anh còn phải kiên nhẫn chờ đợi suốt một năm dài. Trong một bức thư hồi tháng Bảy, anh viết rằng “như mọi khi, trời mưa, lạnh, Marburg đúng không phải là xứ sở mặt trời”. Việc giảng dạy y khoa cũng làm anh thất vọng như khí hậu. Suy tư của Yersin có tính thực dụng và thực nghiệm, anh cần nhìn thấy, chạm vào, điều khiển, dựng những con diều. Vị giáo sư cây cao bóng cả đón anh với một bộ mặt khổ hạnh, kiểu để trang trí tiền giấy. Người Mỹ có một từ để chỉ kiểu người này: dwem6. Những nhà thông thái già tóc bạc, tao nhã và uyên bác, để râu cằm và đeo kính cặp mũi7. Ở Marburg có bốn trường đại học, một nhà hát, một vườn bách thảo, một tòa án và một bệnh viện. Tất tật nằm dưới chân tòa lâu đài của các ông hoàng bang Hesse. Một điều tra viên, chuyên nghề viết lách, cầm cuốn sổ tay bìa bọc da chuột chũi, một bóng ma của tương lai trên đường dò lại dấu vết Yersin, đến ở khách sạn Zur Sonne, tản bộ trên những phố dốc theo chân người anh hùng trẻ tuổi, dọc theo sông Lahn, dễ dàng tìm ra ngôi nhà đá cao khung gỗ, ngay chính giữa ốc đảo văn hóa yên bình dưới bầu trời xám thấp tè, trong ngôi nhà ấy chàng trai nhỏ mắt xanh nghiêm nghị với bộ râu lún phún mặc sức buồn chán. Bóng ma đi xuyên qua tường, xuyên qua thời gian, nhìn thấy đằng sau mặt tiền nhiều cột thứ gỗ sẫm màu của đồ đạc, thứ da thuộc sẫm màu của những ghế bành và những bìa sách dựng trong thư viện. Màu đen và nâu như trong một bức họa dòng Flamand. Buổi tối, ánh vàng những ngọn đèn dành cho cầu nguyện thì thào, bữa tối im lìm. Con lắc của đồng hồ treo tường tạo ánh phản chiếu. Trên cao hơn, nó đẩy cỗ máy chạy kêu lích kích. Ở gờ tường mặt tiền tòa Thị chính, mỗi giờ Thần Chết lại tiến đến gần hơn. Người ta không biết đến điều này. Cái hiện tại ấy là vĩnh viễn. Có tiến hóa nữa thì thế gian hẳn cũng không hơn được mấy. Nền văn minh này đã lên đến cực đỉnh. Vài chi tiết cần điều chỉnh nữa thôi. Có lẽ phải hoàn thiện một số thuốc men. Ngự ở đầu bàn, là thần Zeus trang trọng và im ắng, tức giáo sư Julius Wilhelm Wigand tiến sĩ triết học, giám đốc Viện Dược học, giám quản Vườn Bách thảo, hiệu trưởng trường Đại học. Buổi tối, ông đón tiếp chàng trai người Vaud trong phòng làm việc của mình. Sự quan tâm của ông mang tính cha chú kẻ cả. Ồng những muốn dẫn dắt chàng thành niên trong con đường tiến thân học thuật, giúp anh tránh được những lầm lỗi. Bởi vậy mà ông trách anh cứ hay giao du với tay 6 Từ này sẽ được giả thích kỹ ở đoạn cuối sách. 7Loại kính cổ, không có gọng cài tai. Sternberg kia, hạng bét đúng như tên gọi ấy8. Ông khuyên anh gia nhập một hội đoàn. Nhưng thế đấy, Yersin, cậu sinh viên rụt rè đang ngồi trong ghế bành trước mặt ông, chưa bao giờ có cha. Cho đến bây giờ anh hoàn toàn bỏ qua được điều đó. Dù học y, luật, thực vật học hay thần học, thì chín phần mười sinh viên ở Marburg đều có một điểm chung, là thuộc về một hội đoàn nào đó. Sau các nghi lễ tiếp nhận, tuyên thệ xong xuôi, tối tối hoạt động của bọn họ là đến cái quán rượu trên tường treo đầy gia huy ấy để uống đến say mèm và chiến đấu tay đôi. Quấn khăn để bảo vệ cổ, đeo lót ngực để bảo vệ tim, rút gươm ra khỏi bao. Ngừng tay khi giọt máu đầu tiên rơi. Những tình bạn bất khả phai nhạt ra đời. Họ trương trên người những vết xây xước giống như về sau đeo huân chương trên quân phục. Tuy nhiên một phần mười sẽ bị khai trừ khỏi thứ tình bằng hữu này. Đó là numerus clausus9bắt buộc đối với những người Do Thái căn cứ theo luật của trường đại học. Chàng trai nhỏ vận đồ đen chọn sự tĩnh tại của học tập, những chuyến đi bộ dạo chơi ở nông thôn, những cuộc tranh luận với Sternberg. Các giờ giải phẫu học và lâm sàng vẫn còn ở trên giảng đưởng, khi mà đôi bạn đã muốn biết thực tế bệnh viện. Phẫu tích. Lao vào cái sống động. Tại Berlin, nơi rốt cuộc Yersin đến ở, chỉ trong một tuần anh đã được dự hai ca mổ khoét vùng hông, trong khi ở Marburg thì một cuộc phẫu thuật như vậy chỉ xảy ra mỗi năm một lần. Cuối cùng anh cũng được dạo bước trên đường phố một thủ đô lớn. Năm ấy, các khách sạn đông đặc dân ngoại giao và thám hiểm. Berlin trở thành thủ đô của thế giới. Theo sáng kiến của Bismarck10, tất cả các nước thực dân tập hợp về đây trước bản đồ để chia chác châu Phi. Đó là Hội nghị Berlin. Stanley huyền thoại11, người đã tìm lại được Livingstone mười bốn năm trước đó, đại diện cho vua Bỉ, chủ xứ Congo, tại hội nghị này. Yersin đọc báo, phát hiện ra cuộc đời của Livingstone, và Livingstone trở thành mẫu hình của anh: con người xứ Êcốt ấy là nhà thám hiểm, con người của hành động, nhà bác học, mục sư, người khám phá ra sông Zambèze và là thầy thuốc, suốt nhiều năm ròng lang thang ở các vùng đất không người biết đến ở Trung Phi và là người, khi rốt cuộc cũng được Stanley tìm thấy, chọn ở lại đó cho đến khi chết. Một ngày nào đó Yersin sẽ là Livingstone mới. Anh viết điều này trong một thư gửi Fanny. Nước Đức, cũng giống nước Pháp và nước Anh, biến thành một đế chế nhờ gươm súng, thuộc địa hóa Camơrun, Namibia và Tanzania ngày nay cho đến tận Zanzibar. Cùng năm diễn ra Hội 8 Trong từ “Sternberg”, có “stern” (tiếng Đức) nghĩa là “sau cùng”, “đuôi”. 9 Tiếng Latin, nghĩa là biện pháp hạn chế số lượng sinh viên tham gia. 10 Chính trị gia, hồi ấy là thủ tướng Đức. 11 Tức Henry Morton Stanley (1841-1904), nhà thám hiểm miền Trung châu Phi rất nổi tiếng, người tìm ra David Livingstone (1913-1973), nhà thám hiểm người Scotland. nghị Berlin đó, Arthur Rimbaud, tác giả Giấc mơ của Bisrnarck, dùng lạc đà chở hai nghìn khẩu súng trường và sáu mươi nghìn viên đạn đến cho vua Ménélik ở Abyssinia. Đó là một nhà thơ Pháp đã làm tăng ảnh hưởng của nước Pháp, chống lại những mưu mô xâm chiếm lãnh thổ của người Anh và người Ai Cập do Gordon cầm đầu. “Gordon của họ là một thằng ngu, Wolseley của họ là một con lừa, và tất cả các cơ đồ của họ chỉ là một loạt những điều phi lý điên rồ, những trò phá phách”. Chàng là người đầu tiên khẳng định tầm quan trọng chiến lược của hải cảng mà chàng viết là “Dhjibouti”, giống Baudelaire từng viết “Saharah”, soạn một báo cáo thám hiểm cho Hội Địa lý, gửi những bài báo phân tích địa lý-chính trị cho tờ Bosphore Ai Cập, chúng tạo được tiếng vang ở Đức, ở Áo, ở Ý. Chàng nói đến những tàn phá của chiến tranh. “Trong vòng vài tháng người Abyssinia đã ngốn ngấu hết số lúa dự trữ do người Ai Cập để lại, mà lẽ ra phải đủ dùng cho nhiều năm. Nạn đói và dịch hạch sắp xảy ra đến nơi rồi.” Dịch hạch là do một loài côn trùng gieo rắc. Rận. Điều đó thì người ta còn chưa biết. Từ Berlin, Yersin sang Jena. Tại hãng Carl Zeiss anh mua chiếc kính hiển vi loại tiên tiến nhất, nó sẽ không bao giờ rời anh nữa, nằm trong hành lý của anh để chu du thiên hạ, chính nó mười năm sau đó sẽ xác định được trực khuẩn dịch hạch. Carl Zeiss là một dạng Spinoza, ở cả hai người, việc mài kính12 rất hữu dụng cho suy tư và những ý nghĩ không tưởng. Baruch Spinoza cũng là người Do Thái, Sternberg bảo. Rồi hai chàng sinh viên lại quay về Marburg, lần lượt dán mắt vào nhãn kính mới toanh, điều chỉnh để quan sát một cánh chuồn chuồn. Yersin cũng đã tận mắt trông thấy những cuộc bài Do Thái rất bạo lực, những cửa kính bị đập nát, những cú đấm đá. Có lẽ trong câu chuyện của hai chàng sinh viên từ “dịch hạch” đang len lỏi vào. Chừng nào còn chưa mắc dịch hạch và bệnh hủi, thì người ta vẫn thường lẫn lộn chúng với nhau. Đợt dịch hạch lớn hồi Trung cổ, Dịch hạch Đen, dân số đã giảm mất hai lăm triệu. Phân nửa dân châu Âu bị tiêu diệt. Chưa từng có cuộc chiến tranh nào gây ra nhiều chết chóc đến như vậy. Tầm vóc thảm họa ấy mang tính siêu hình học, nó chính là cơn thịnh nộ của thần linh, Sự Trừng Phạt. Người Thụy Sĩ không phải lúc nào cũng là những kẻ tốt bụng đầy khoan dung và chừng mực. Năm thế kỷ trước, người dân Villeneuve ven Hồ đã thiêu sống những người Do Thái bị buộc tội gieo rắc dịch hạch bằng cách bỏ thuốc độc xuống các giếng nước. Năm thế kỷ sau, sự ngu dốt đã giảm đi nhưng lòng thù hận thì vẫn còn y nguyên. Người ta cũng chẳng biết gì hơn về dịch hạch. Nó đến từ đâu, giết chóc rồi biến mất như thế nào. Có thể một ngày nào đó. Hai chàng sinh viên tin vào khoa học. Vào Tiến Bộ. Chữa được dịch hạch sẽ là làm một được hai, Sternberg nói. Yersin thông báo với bạn là mình sắp sang Pháp. Năm tiếp đó, anh sẽ theo học ở Paris. Vào đúng năm diễn ra Hội nghị Berlin, trong khi Arthur Rimbaud mài gót chân trên các sa mạc gồ ghề đá, theo đuôi lũ lạc đà, Louis Pasteur vừa cứu sống thằng bé Joseph Meister. Chữa bệnh dại bằng vắcxin là tương lai đấy. Sắp tới, vấn đề không phải 12 Nhà triết học Spinoza đã từng làm nghề mài kính để sinh sống. là chọn dịch hạch hay chọn thổ tả nữa, mà là phải chữa được cả hai bệnh ấy13. Yersin có lợi thế vì dùng được hai ngôn ngữ như tiếng mẹ đẻ. Giả sử Sternberg nói được hai thứ tiếng như thế thì có lẽ anh lại do dự. Berlin hay Paris thì cũng như tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Nói đúng ra thì đó là một kẻ bi quan sáng suốt, cái chàng Sternberg ấy, nếu cách nói này không phải là một trùng ngữ. Mười năm sau, khi vụ Dreyfus14 bắt đầu, người ta sẽ không thấy tên của Yersin bên dưới bất cứ bản kiến nghị nào. Quả là toàn bộ chuyện này, những nỗi kinh hoàng của châu Âu, sẽ nhanh chóng khiến người ta thích đi thật xa. Vào thởi điểm diễn ra phiên tòa Dreyfus thì Yersin đang ở Nha Trang hay Hồng Kông gì đó. 13 Người Pháp có một ngạn ngữ “chọn dịch hạch hay thổ tả” để nói một cách bóng gió rằng thật khó khăn khi phải chọn một trong hai cái đều xấu. Ở đây tác giả dùng từ “dịch hạch” và “thổ tả” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. 14 Vụ án rất nổi tiếng ở Pháp, điển hình về sự bài Do Thái ở phương Tây. Trong vụ án này có sự lên tiếng rất mạnh mẽ và can đảm của nhà văn Émile Zola. Ở Paris Khám phá ra thủ đô này, Yersin đặc biệt khám phá ra chủ nghĩa bài Đức. Ở Paris thì nên hát nhạc dân ca Thụy Sĩ và đội cái mũ kỳ cục của dân xứ này hơn là đội mũ cát chóp nhọn và hát nhạc vùng Bayern. Mười lăm năm rồi, kể từ Sedan15, nước Pháp bị bé lại và điều này thật không chấp nhận được. Bị cắt mất Alsace và Lorraine, nó trả thù bằng cách đi chinh phục để trở thành một đế quốc hải ngoại rộng lớn, lớn hơn so với đế quốc hải ngoại của người Đức. Từ các đảo ở Caribê cho đến Đa Đảo, từ Phi châu tới Á châu: cũng chẳng khác mấy so với lá cờ Anh quốc, mặt trời không bao giờ lặn trên lá cờ tam tài Pháp. Năm ấy, Pavie nhà thám hiểm xứ Lào gặp Brazza nhà thám hiểm xứ Congo. Quán Bò Nhỏ trên phố Marazine thì là nơi tụ tập của đám thám hiểm Sahara. Hai năm trước, hải quân Pháp, sau Nam Kỳ, đã chiếm được các tỉnh ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Yersin đọc truyện về những chuyến đi, xem bản đồ. Thế mới là đàn ông chứ, và họ hẳn chẳng bao giờ đến Marburg mà sống mòn đâu. Anh tin mình đã lựa chọn đúng. Chính đây là nơi phải sống. Có lẽ đây là lần cuối cùng trong lịch sử của mình, Paris là một thành phố hiện đại. Các công trình cách tân của Haussmann16 đã xong xuôi. Người ta vẽ bình đồ tàu điện ngầm. “Con vào bảo tàng Louvre. Hôm nay con đi thăm khu Ai Cập cổ đại.” Yersin đọc báo ở phòng khách cửa hàng Bon Marché. Hai mươi lăm năm sau đó, gia đình Boucicaut, chủ cửa hàng, sẽ cho xây khách sạn Lutetia ở đối diện. Và vào quãng cuối đời, Yersin sẽ có thói quen mỗi năm sống ở khách sạn đó hàng tuần liền, sau khi vì nó mà đã đi qua cả hành tinh, lúc nào cũng là căn phòng ở góc tầng sáu, cách chốn đầu tiên ông từng ở khi là sinh viên có vài trăm mét, một căn gác xép tồi tàn trên phố Madame, từ đó anh viết thư cho Fanny, bảo rằng ngoảnh đến sái cổ thì có thể trông thấy một tòa tháp của nhà thờ Saint-Sulpice. Ở phố Ulm, Louis Pasteur vừa lần thứ hai thành công trong việc tiêm vắcxin chống bệnh dại. Sau cậu bé Joseph Meister người Alsace là Jean-Baptiste Jupille, người Jura, được tiêm vắcxin. Từ khắp nơi người ta sẽ đổ xô đến. Cho tới khi ấy, ở mọi vùng nông thôn cũng như tại những khu rừng ngập tuyết đầy chó sói, ở Pháp cũng như ở Nga, phương thuốc thường là trói các con vật mắc bệnh dại, bóp ngạt chúng, trước khi đến lượt mình cũng bị cắn. Có thể phiêu lưu ở ngay góc phố 15 Ý nói trận đánh Sedan (một thành phố nhỏ của Pháp) trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, vào năm 1870; ở trận này, Napoléon III đã bị bắt làm tù binh. 16 Haussmann từng là trưởng vùng sông Seine từ 1853 đến 1870. Trong thời kỳ này ông cho tiến hành các công trình quy hoạch lại Paris. Ulm, không khác gì trên các đụn cát Sahara. Đường biên mới của vi trùng học. Chàng sinh viên nước ngoài hăm hai tuổi, ngồi lì trước đống báo, sống nhờ tiền chu cấp của mẹ. Giống mọi đàn ông thời ấy, anh để râu cằm tỉa ngắn và mặc một chiếc áo vest sẫm màu, ăn xúp trong góc các quán xá xập xệ nơi giới vô sản nhấc cốc lên mà đinh ninh là mỗi cốc cạn là một cốc mà bọn Đức bẩn không được uống, ôi giời ơi ông chủ ạ, dại gì mà để lại cho chúng cả thùng. “Con đã chứng kiến một cuộc chạm trán dữ dội giữa cánh công nhân và một người gốc Đức, con đoán thế, anh ta trót dại nói tiếng mẹ đẻ, anh ta bị đánh gần như bất tỉnh.” Hiện thời, thì chính anh là người phải ăn thịt bò dại17. Anh ghi tên theo lớp vi trùng học đầu tiên do giáo sư Cornil18 giảng. Môn này mới toanh. Cả đời mình, Yersin sẽ chọn những gì mới mẻ và tuyệt đối hiện đại19. Ở chỗ Pasteur, trong vòng vài tháng, người ta tiêm vắcxin không ngừng nghỉ. Tháng Giêng 1886: trên tổng số gần một nghìn người được tiêm, có sáu người chết, trong đó bốn người bị chó sói cắn, hai người bị chó nhà cắn. Tháng Bảy: đã có gần hai nghìn ca thành công và không quá mười thất bại. Những xác chết đó được đưa đến nhà xác Hôtel-Dieu, nơi Cornil giao cho Yersin nhiệm vụ giải phẫu. Chất lượng chiếc kính hiển vi mua của hãng Carl Zeiss được chứng minh dứt khoát: quan sát tủy sống cho thấy huyết thanh chống dại hoàn toàn vô hại. Những nạn nhân này đã được chữa trị quá muộn. Yersin chuyển các kết quả cho Émile Roux, trợ lý của Pasteur. Đó là cuộc gặp mặt của hai đứa trẻ mồ côi mặc áo blu trắng, đứng đó trong nhà xác của Hôtel-Dieu, cạnh xác nạn nhân bệnh dại, và cuộc đời hai người từ đây sẽ đảo lộn. Đứa trẻ mồ côi thành phố Morges và đứa trẻ mồ côi thành phố Confolens. Roux giới thiệu Yersin cho Pasteur. Chàng trai rụt rè khám phá nơi chốn và con người Pasteur, viết trong một bức thư gửi Fanny: “Phòng làm việc của ông Pasteur nhỏ, vuông vắn, có hai cửa sổ lớn. Gần một cửa sổ có bàn nhỏ trên đó để mấy cái ly đựng virus để tiêm thí nghiệm.” Rất nhanh, Yersin đến sống cùng họ ở phố Ulm. Sáng sáng, một hàng dài người mắc bệnh dại sốt ruột đứng trong sân. Pasteur khám, Roux và Grancher tiêm, Yersin chuẩn bị vắcxin. Anh được nhận vào làm, hưởng một món lương còm. Từ giờ anh sẽ không bao giờ còn phải nợ nần một ai nữa. Đứa trẻ mồ côi ở Morges và đứa trẻ mồ côi ở Confolens đã tìm được một người cha ở nhà bác học khắc kỷ vùng Jura. Người đàn ông mặc áo rơđanhgốt20 đen và mang cái họ đầy âm hưởng 17 Ở đây, tác giả chơi chữ, để nhại lại chữ “dại” đã dùng ở trên. Trong tiếng Pháp, “ăn thịt bò dại” có nghĩa là sống tằn tiện. 18 Victor André Cornil (1837-1908), bác sĩ người Pháp, chuyên gia bệnh học. 19 Cụm từ này xuất hiện nhiều lần trong cuốn sách, xuất phát từ câu của nhà thơ Rimbaud, “Il faut être absolument moderne”, nghĩa là “Phải tuyệt đối hiện đại”. 20 Redingote: một loại áo choàng ngoài phổ biến ở châu Âu thế kỷ thứ 18, thường mặc trong dịp có tính trang trọng khi ở ngoài trời. Kinh Thánh, dành cho người dẫn dắt đàn chiên về đồng cỏ và dẫn dắt những linh hồn về nơi cứu rỗi21. Ở Viện Hàn lâm Khoa học, đang ốm và vẫn còn là quản lý của Trường Sư phạm, Louis Pasteur vừa đọc xong bài trình bày của mình. Cần phải xây dựng một trung tâm điều chế vắcxin chống bệnh dại. Thành phố Paris cho ông tạm sử dụng một tòa nhà ba tầng bằng gạch và ván cũ nát, phố Vauquelin, và nhóm nhỏ ấy dọn vào đó sống luôn. Đó là khởi đầu cuộc sống cộng đồng của họ. Dưới sân có các loại chuồng nuôi súc vật và phòng tiêm chủng. Nhóm đồ đệ Pasteur chia nhau những căn phòng trên tầng. Roux, Loir, Grancher, Viala, Wasserzug, Metchnikoff Haffkine, Yersin. Yersin lúc nào cũng ủ dột và cau mày khi nghe người ta phát âm tên mình là “Yersine”, kiểu như “Haffkine” để nhại giọng anh22. Sáng sáng anh đến phố Saints-Pères theo học y khoa. Buổi trưa, anh ăn ở một quán nhỏ trên phố Gay-Lussac. Anh chọn bệnh bạch hầu và lao, vẫn còn được gọi là “lao lực” trong thơ ca, làm đề tài luận án. Anh tiến hành các quan sát lâm sàng ở Bệnh viện Nhi, lấy mẫu bệnh trong những cổ họng sưng tấy, trích màng nhầy, tìm cách cô lập hóa độc tố bạch hầu, và anh đọc ghi chép của các nhà thám hiểm trên những tờ tạp chí. Ở Nhà băng Pháp quốc người ta mở một đợt quyên góp quốc tế để ủng hộ Louis Pasteur. Tiền ào ào đổ về. Sa hoàng nước Nga, hoàng đế Braxin và vua Istanbul gửi tiền đóng góp, nhưng cũng có cả những người bình thường, tên họ được đăng sáng trên tờ Công Báo. Ông già Pasteur đọc lướt qua bản danh sách. Ông khóc khi thấy cậu bé Joseph Meister gửi đến cho mình mấy đồng còm. Họ mua một mảnh đất ở quận 15. Roux và Yersin tuần nào cũng đến kiểm tra việc xây dựng trên phố Dutot, quay về phố Ulm, và gặp lại cả nhóm trong căn hộ của vợ chồng Louis Pasteur, các sơ đồ được trải rộng ra. Ông già vận áo rơđanhgốt đen đã hai lần bị xuất huyết não, nói năng khó nhọc, cánh tay trái bị liệt, chân đi lết. Roux và Yersin cùng kiến trúc sư vẽ một cầu thang bên trong cho cái Viện sắp xây, các bậc nhiều hơn và thấp hơn. Với ông già Pasteur, việc khám phá vậy là xong rồi. Sau ông sẽ là Roux, kẻ được ân sủng, đứa con giỏi nhất trong cả đám, người thừa kế chính thức. Cuộc chiến cuối cùng của ông có tính cách lý thuyết. Đối đầu với ông từ hơn hai mươi năm nay là những người ủng hộ sự sinh sản bộc phát, những người ấy đông vô kể. Ông bảo vệ ý kiến cho rằng không có gì nảy sinh từ hư vô. Nhưng còn Thượng đế thì sao. Ở đâu ra lũ vi trùng ấy, và tại sao lại giấu chúng tôi trong hàng thế kỷ. Tại sao trẻ con lại chết, nhất là trẻ con nhà nghèo. Fanny lo lắng. Pasteur giống như là Darwin vậy. Nguồn gốc các loài và tiến hóa sinh học, từ vi trùng cho đến loài người, đều đi ngược lại các văn bản thần thánh. Còn Yersin, anh cười vào điều đó, cùng với anh là cả nhóm. Sắp tới, mọi sự sẽ hết sức rõ ràng, sẽ chỉ cần giải thích, giảng dạy, lặp lại các thí nghiệm. Làm sao họ lại có thể tưởng tượng nổi là một thế kỷ rưỡi sau, phân nửa dân cư trên hành tinh vẫn bảo vệ thuyết tạo hóa? 21 “Pasteur” trong tiếng Pháp còn có nghĩa là người chăn chiên, mục sư. 22 Người Thụy Sĩ phát âm tiếng Pháp với một giọng khá đặc biệt. Vào những năm hình thành nhóm đồ đệ Pasteur ấy, nhóm Sahara vẫn tiếp tục gặp nhau ở phố Mazarine, còn nhóm Thi Sơn23 thì lụi tàn. Ba nhóm nhỏ này từng có lúc sống chung với nhau. Trong cùng thành phố và trên cùng các phố. Banville, nhà thơ dịu dàng, vẫn ngụ ở phố Buci, ông có lúc đã cho Rimbaud mượn căn phòng phụ của mình, trước khi chàng bỏ đi sống với Verlaine trên phố Racine. Kể từ khi chàng trai thiên nhãn ấy bỏ đi, nhóm Thi Sơn rã rượi dần. Theo thói quen, nhóm này vẫn hay qua lại các phòng thí nghiệm của mình, tức những quán rượu, nơi những thứ thuốc tiên khác được chế biến dưới đáy những bình cổ cao, những nàng tiên sặc sỡ ngụ trong não các chàng Thi Sơn giờ đây não nuột, tưới đẫm những câu thơ alexandrin, lúc này không ngừng được xếp theo cặp24, nhưng ngày càng xanh xao thiếu máu. Vào thời của kính hiển vi và bơm kim tiêm tuyệt đối hiện đại, thơ alexandrin lụi dần, bị giết chết bằng một đòn bậc thầy của thi sĩ trẻ tuổi đã lên đường đi bán súng trường cho vua Choa Ménélik II, sau này sẽ trở thành hoàng đế Ethiopia. Về phần mình, Yersin đọc tuốt tuột mọi thứ, nhưng chỉ liên quan đến khoa học hoặc thám hiểm. Anh làm việc trong sự yên lặng và cô độc, làm ra vẻ như bông lơn và lười nhác và bởi vậy mà tao nhã. Ban đêm, anh đun sôi đống vi khuẩn và chuẩn bị các phản ứng thể. Thật tuyệt, tất cả những dụng cụ mà anh được sử dụng này. Cuối cùng là những việc thực hành, giống như làm những con diều. Anh mở cửa chuồng gà và chuồng chuột, chích máu, tiêm phòng rồi, trong một chớp lóe thiên tài, nhận ra ở con thỏ một loại bệnh lao thực nghiệm mới: chứng lao thể thương hàn. Chàng trai nhỏ vận đồ đen mang thứ đó tới phòng thí nghiệm và chìa cho Roux cái ống nghiệm. Như thể trong màn ảo thuật anh lôi từ trong mũ ra một con thỏ trắng, túm lấy hai tai nó và đặt nó lên bàn thí nghiệm. Tôi vừa tìm ra một thứ. Roux dùng ngón cái và ngón trỏ điều chỉnh kính hiển vi, ngước mắt, quay đầu, nhìn lên chàng sinh viên rụt rè, mày nhíu lại. “Bệnh lao dạng Yersin” bước vào các công trình giáo khoa y học, và cái tên ấy sẽ được lưu truyền cho hậu thế gồm các bác sĩ đa khoa và sử gia y học. Nhưng với quảng đại quần chúng thì tên ông sẽ mau chóng bị lãng quên, không ai biết đến nó nhiều lắm, dẫu cho có bệnh dịch hạch. Con thỏ tội nghiệp mắc chứng lao ho và khạc nhổ dữ dội, ngắc ngoải trên bàn thí nghiệm. Những giọt máu đỏ lốm đốm trên bộ lông trắng của nó. Nhở kẻ tử vì đạo này, chàng trai được đăng bài báo đầu tiên trên Biên niên Viện Pasteur, ký tên Roux & Yersin. Thế mà, Yersin còn chưa là bác sĩ, thậm chí còn chưa là dân Pháp. Ba năm sau khi đến Paris, ở tuổi hăm lăm, Yersin viết xong luận án rồi bảo vệ, nhận một tấm huy chương bằng đồng, anh nhét vào túi áo để mang về tặng Fanny. Buổi sáng, anh được trao học vị tiến sĩ y khoa thì tối đến, anh lên tàu sang Đức. Pasteur đã yêu cầu anh ghi tên theo học lớp về 23 Thi Sơn (Les Parnassiens) là tên một phong trào thơ Pháp xuất hiện ở nửa cuối thế kỷ 19, có tham vọng cách tân thơ ca. Nhóm này gồm một số nhà thơ lớn lúc đó như Leconte de Lisle, Banville, Heresia, Rimbaud, Verlaine, Mallarmé, Baudelaire tham gia vào nhóm này khá muộn và bỏ đi cũng khá nhanh. 24 Alexandrin là một thể đặc trưng của thơ cổ điển Pháp, mỗi câu gồm 12 âm tiết. Một số nhà thơ nhóm Thi Sơn đã nỗ lực cách tân thể loại này, bằng cách viết các câu thơ theo cặp đôi. vi trùng học kỹ thuật do Robert Koch, người khám phá ra khuẩn lao, vừa mở ở Viện Vệ sinh Berlin. Yersin là người Thụy Sĩ và thông thạo hai thứ tiếng. Không cách xa nghề gián điệp bao lăm. Người được anh gọi trong những cuốn sổ của mình là “ông Koch lạc đà” tấn công Pasteur dữ dội trong các bài viết của mình. Yersin theo hai mươi bốn bài giảng, ghi đầy sổ, dịch những gì Koch viết để Pasteur đọc, vẽ sơ đồ phòng thí nghiệm, viết một báo cáo, và kết luận rằng ở Paris chẳng khó khăn lắm cũng có thể làm tốt hơn thế. Ngay khi anh quay trở lại, xuất hiện bài báo thứ hai ký tên Roux & Yersin. Các tòa nhà của Viện Pasteur tương lai được Tổng thống Sadi Carnot và các vị khách quốc tế khánh thành rùm beng. Yersin vẫn là người Thụy Sĩ. Luật chỉ cho phép công dân nước Cộng hòa được hành nghề y. Anh tiến hành thủ tục hành chính, gửi thư cho Fanny. Các cụ cố bên ngoại của anh là người Pháp và hồ sơ của anh nhanh chóng xong xuôi. Những người ngả theo Tân giáo từng chạy trốn các xung đột tôn giáo. Nước Pháp đón nhận đứa con đi hoang của mình. Phố Vauquelin, một buổi chiều, hai người đàn ông, tuy còn nhiều việc khác phải làm, treo chiếc blu trắng lên mắc áo trong phòng gửi đồ, rồi khoác áo vét vào. Roux đi cùng điều chế viên của mình đến tòa thị chính quận 5 trên quảng trường Panthéon. Cách đó vài bước chân. Hai người ký tên vào sổ đăng ký. Nhân viên lấy giấy thấm để thấm mực và chìa giấy chứng nhận cho họ. Còn chẳng có thời gian để ăn mừng ngoài quán giống các thành viên của phái Thi Sơn. Họ mặc lại áo blu trắng, châm đèn Bunsen, quay lại với đám trực khuẩn. Yersin trở thành một nhà bác học Pháp. Kẻ bị tống tiễn Nhưng giả sử ông vẫn là người Thụy Sĩ hay nhập quốc tịch Đức thì sao nhỉ? Ông già đang thiu thiu ngủ trên máy bay kia, chòm râu bạc và cặp mắt xanh, tâm trí hiền hòa, giả sử ông lại chọn đứng về phía Koch để chống Pasteur? Thì hôm nay người đàn ông bảy mươi bảy tuổi mang hộ chiếu Đế chế III đó sẽ ở đâu? Ta biết rằng thường thì các thiên tài hay bị lạm dụng. Ta biết sự ngây thơ của họ. Những con người ấy chẳng bao giờ làm đau đến một con ruồi, họ sáng chế ra những loại vũ khí tiêu diệt hàng loạt, chỉ bởi cái thú là tìm ra một bí ẩn. Và giả sử như vào đầu cuộc chiến tranh này ông là một bác sĩ già về hưu sống ở Berlin? Giả sử như ông từng cưới một bà vợ Đức ở Marburg, thì hôm nay con cháu ông sẽ ở đâu, mang quân phục của phe nào? Lúc này chắc là đang ở phía trên sông Rhône, bay qua những cánh đồng nho và những trái nho còn xanh dưới ánh mặt trời tháng Năm 1940. Những người bị động viên liệu có kịp về thu hoạch nho? Quả là nguy hiểm, thái độ của Yersin, luôn không muốn vướng bận đến chính trị. Tảng lờ Lịch sử và những trò nhơ nhớp của nó. Một kẻ cá nhân chủ nghĩa, như phần lớn những kẻ vị tha khác. Phải đến sau này, vì quá vị tha, mà chúng ta trở thành kẻ ghét người. Ở Yersin, điều này mạnh hơn cả ông: ông cứ luôn luôn phải biết mọi thứ. Ông mở quyển sổ ra, hỏi han phi hành đoàn của con cá voi nhỏ màu trắng bằng kim loại. Chiếc thủy phi cơ của hãng Air France, con thuyền bay đang hướng tới Marseille đó, là một chiếc LeO, mang tên hai người tạo ra nó, Lioré và Olivier, một chiếc LeO H-242. Thân máy bay được làm bằng đuyra. Ông chép vào sổ tay. Đó là một chất liệu mới, đuyra. Ông tự hỏi bên châu Á ông có thể làm được gì mới mẻ bằng đuyra. Xung quanh ông, mười một hành khách khác ngồi trong những ghế bành tựa cao rất êm ái. Rượu dùng thoải mái. Giữa những kẻ chạy trốn giàu tiền, đặc quyền và hèn nhát hẳn sẽ chọn một trong những điểm đỗ một chốn yên bình để lờ đi mọi sự, ẩn trốn cùng đống tiền lớn mang theo kia, Yersin tránh giao tiếp nhờ có quyển sổ ghi chép, vờ tỏ ra đang tập trung cao độ. Tên ông và khuôn mặt ông rất nổi tiếng. Ông là người cuối cùng còn sống trong nhóm Pasteur. Người ta biết rằng ông sẽ đến tận Sài Gòn, điểm cuối của đường bay, rằng tám ngày nữa ông sẽ tới được đó. Đi tàu thủy thì phải mất một tháng. Nhưng mỗi chuyến đi lại cho ông mang về những hòm lớn đựng đầy dụng cụ, đồ thủy tinh dùng cho các thí nghiệm và các loại hạt cho những khu vườn của ông. Với chiến tranh, liên lạc lại bị cắt đứt. Cũng lộn xộn như hồi sau năm 14. Từ năm mươi năm nay, Yersin đã chọn rời khỏi châu Âu. Hồi Chiến tranh thế giới thứ nhất ông ở châu Á, bây giờ ông cũng định ở đó cho qua cuộc chiến tranh lần thứ hai này. Một mình. Đúng như ông đã luôn sống. Hay đúng hơn là ở giữa nhóm nhỏ của ông, ở Nha Trang, một làng chài, nhóm của Yersin. Vì theo năm tháng con người cô độc đã trở thành một kẻ cầm đầu. Nơi ấy, ông đã tạo ra một cái gì đó giống như một cộng đồng, một trường dòng phi tôn giáo tách lìa khỏi thế giới, nơi ông đang trên đưởng trở về. Như thể ông đã lập thệ cho một đời sống thanh đạm và độc thân, cùng tình bằng hữu nữa, cộng đồng khoa học và nông nghiệp tại Nha Trang của ông có thể gợi nhớ một mô hình Cecilia vô chính phủ25, hay một tập đoàn lao động kiểu Fourier với ông là trưởng lão mang chòm râu bạc. Yersin hẳn sẽ nhún vai nếu có ai nói với ông ý tưởng trên đây. Bởi do đôi chút tình cờ, không thực sự mong muốn, và luôn bận tâm tới những điều khác hẳn, mà lúc này ông đang có trong tay một tài sản khá lớn. Chỉ có một lần, trong một nỗ lực hòa nhập, để theo đúng quy tắc và chuẩn theo truyền thống của Trường, lúc còn là một bác sĩ trẻ, một người Pháp trẻ, nhà nghiên cứu trẻ, ông từng tự nhủ mình cũng phải trở thành một người chồng trẻ. Dù gì thì Louis Pasteur cũng đã làm thế, và điều này đã không hề ngăn cản ông ấy làm việc. Yersin thích ăn tối ở phố Ulm trong căn hộ nhỏ bé của vợ chồng Pasteur. Hai người coi trọng lẫn nhau, họ đều là những người đàn ông cứng rắn và trung thực, kiệm lời, mắt xanh băng giá. Cả anh hẳn rồi cũng sẽ trở thành một nhà thông thái già được bao bọc bởi sự trìu mến dịu dàng của một bà vợ già. Anh đã tiến hành các bước cần thiết theo hướng ấy, áp dụng phương pháp duy lý như khi thực chứng gia phả. Như thường lệ viết thư cho mẹ. Một lá thư cho Fanny. Bà, người vừa tìm cho anh nguồn gốc tổ tiên, nhanh chóng tìm được một vị hôn thê. Mina Schwarzenbach. Cháu gái một bà bạn. Mina nghe thật dễ thương. Ta hình dung ra nàng còn trinh và cài khuy đến tận cổ áo viền đăng ten trắng, nhưng bên dưới cái váy đen rộng rất có thể tối tối là ngọn lửa nồng khơi ra từ đầu ngón tay giữa. Yersin bắt đầu viết thư cho cô. Còn khó hơn bài mô tả bệnh bạch hầu. Nhiều bản nháp bị ném vào giỏ rác. Mina yêu quý. Anh có nên tán tụng về cặp vợ chồng già Pasteur yên bình. Những cuộc tranh luận học thuật ở nhà họ với Perrot, giám đốc Trường Sư phạm, và những mẩu chuyện về các chuyến đi khảo cổ của ông ta tại Tiểu Á. Thế thì vụng về quá. Mina Schwarzenbach mong được đọc những vần thơ alexandrin rực lửa để tặng nàng. Hẳn tối tối nàng sẽ lấy tay kia mà giữ bức thư để nhẩm lại các vần thơ. Trong chuyện này Yersin thật vụng. Anh bị tống cổ luôn. Không ai nhắc đến chuyện này nữa. Anh cảm giác là một cô vợ cứ dính lấy anh chắc sẽ nhanh chóng trở thành phiền toái. Cũng có thế sau này sẽ tính, khi mình đã đi vòng quanh thế giới và vòng quanh vấn đề đó rồi. Còn giờ đây mình muốn đi xem biển. 25 Một hình thức cộng đồng không tưởng do các nhà vô chính phủ Ý lập ra ở Braxin cuối thế kỷ 19. Ở Normandie Với Roux, ý tưởng này có vẻ thật dớ dẩn. Xem biển. Ông tắt cái đèn Bunsen, chùi tay vào vạt áo blu trắng, giơ hai tay lên trời. Cứ như là đang mơ ấy. Xem biển. Thế sao lại không tìm một làng chài mà sống đến trọn đời luôn đi. Thì đúng thế, Yersin nói… Nhưng mà thôi. Này, anh có một ý thế này. Kết hợp cái hữu dụng với cái dễ chịu. Lợi dụng chút tiếng tăm chuyên gia ho lao của mình, chàng bác sĩ Yersin trẻ tuổi xin được Cơ quan thanh tra hàn lâm cử đi công cán ở Grandcamp vùng Calvados. Anh dự định xem xét vi khuẩn trong miệng những đứa trẻ sống ở nơi trong lành và thoáng khí. Anh sẽ so sánh chúng với các vi khuẩn mà người ta tìm thấy trong miệng lũ trẻ học tại các trường ở Paris. Xem liệu bầu trời nhiễm bẩn vì khói nhà máy có phải là yếu tố làm bệnh nặng thêm. Anh vừa mua một chiếc xe đạp đời mới có xích líp do Armand Peugeot sản xuất. Yersin đóng vali, bọc kính hiển vi lại, lên tàu đi Dieppe, đạp xe đến Le Havre, đi phà sang Honfleur và đạp xe tới tận Grandcamp. Sáng ra, anh đi một vòng các lớp học, lũ trẻ há to miệng trước mặt anh, tối đến anh đi dạo trên bờ biển và gặp các ngư dân nhận lời cho anh lên thuyền. Đêm, ở nhà trọ anh đọc Ngư dân Băng Đảo của Pierre Loti26. Anh và Loti có chung đặc điểm là đều cô độc từ nhỏ. Những gia đình khiêm tốn và trung thực ở tỉnh lẻ, đạo Tin Lành hà khắc, những người cha vắng mặt. Hai chàng trai ấy lớn lên giữa đám phụ nữ. Từ đó họ hình thành thói căm ghét phụ nữ tiềm ẩn và chiều hướng tình dục không xác định, giấc mơ được ngao du năm châu bốn bể. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đến với bạn chóng hơn trong một gia đình thủy thủ ở Rocheforg sur-Mer so với ở Morges, bang Vaud. Yersin hai sáu tuổi và lần đầu tiên thấy biển. Không phải là đứng trên vách đá, tóc bay trong gió như một nhà thơ phái Thi Sơn, mà là trên chiếc tàu đánh cá Raouil trồi lên tụt xuống vì sóng đánh lên boong, đi bốt và mặc áo mưa, bên cạnh những thao tác buồm rất cầu kỳ và công việc chỉn chu. Trong cơn phấn khích, để gửi cho Fanny là độc giả duy nhất, anh viết một đoạn bắt chước giọng văn Loti hoặc các nhà thám hiểm, các nhà hàng hải đi khám phá những tộc người lạ. Anh miêu tả một thế giới toàn đàn ông, đầy tình bằng hữu, một cái gì đó giữa Loti và tiểu thuyết Lao động biển cả của Victor Hugo, dẫu Yersin còn chưa biết đến thuật ngữ “phần nổi của tàu”, cũng như tục lệ không nhắc đến dây thừng khi ở trên tàu, hay trong nhà có người treo cổ: “Con tàu đột 26 Pierre Loti (1850-1923), bút danh của Julien Viaud, là nhà văn Pháp rất nổi tiếng chuyên viết về những miền đất xa xôi, gắn chặt với chủ nghĩa thực dân Pháp. ngột khựng lại, sợi dây thừng buộc tấm lưới thiếu điều đứt phựt. Nhanh tay lên nào, hạ buồm xuống, đang có một tảng đá lớn mắc vào làm lưới rách toạc đến mấy mét vuông, cũng nhanh lên nào, kim đan lưới và dây cước để vá các lỗ thủng. Mãi gần bảy giờ mới sửa xong lưới nhưng cá chim thì chỉ đánh được vào ban ngày thôi. Đêm thì người ta đánh cá bơn, cũng rất được chuộng nhưng như thế thì phải lại gần bờ: cá bơn sống trong một đáy trũng toàn cát, không có đá tảng.” Tối đến, trên boong họ nướng cá hồng. Rồi mọi người, trừ hai người đến phiên trực và người hành khách, “đi ngủ ở khoang của mình”. Đọc những bức thư như vậy, Fanny, ngồi trong phòng khách đầy hoa của mình tại Nhà Cây Sung, thấy hơi thất vọng. Có điều gì đó không ổn. Là đứa con mồ côi ngoan, Yersin đã thỏa mãn bà trong mọi ao ước mẫu tử. Anh đã trở thành thầy thuốc. Con trai tôi là bác sĩ đấy, các bà mẹ nói vậy. Và Yersin thì còn hơn thế. Một nhà bác học. Làm việc cùng Pasteur. Bà bảo, cánh tay phải của ông ấy đấy. Giờ thì đủ rồi. Anh phải về Morges sống với bà, trong ánh hào quang, mở một phòng khám ven Hồ và lập nghiệp. Bà thấy lo, Fanny. Các bà mẹ lúc nào chẳng thế. Có lẽ một mạch máu nào đó trong đầu không ổn lắm. Giống bố nó. Kết quả là thế đấy. Đứa con trai này không bao giờ thỏa mãn. Nó sẽ còn nghĩ ra thứ gì nữa đây. Nó muốn đi tới xứ những người man dã. Cứ như lũ Pháp vẫn chưa đủ hay sao ấy. Bà đọc lại bức thư vừa nhận được. “Con sẽ không buồn nếu phải rời Paris vì con thấy chán ngấy kịch nghệ, đám thượng lưu làm con kinh tởm, và đời mà không đi thì còn gì là đời nữa.” Sau Normandie, tất tật những thứ này được chốt lại như một nút buộc thủy thủ. Yersin sẽ không sống hết phần đời còn lại của mình trước ống nghiệm. Mắt dán vào kính hiển vi thay vì chân trời. Anh cần không khí. Im lặng và cô độc. Thế nhưng đúng lúc ấy thì Roux, rõ ràng thông hiểu trực khuẩn hơn con người, cứ tưởng đâu mình đem lại vinh hạnh cho anh, ngay khi anh trở về đã giao cho anh dạy môn vi khuẩn học. Với Yersin, môn đệ của một phương thức “dạy dỗ như đỡ đẻ”27, chẳng gì trong những thứ có thể giảng dạy xứng đáng được học, dẫu rằng mọi sự ngu dốt đều là phạm tội. Cả đời mình anh sẽ vẫn cứ là một người tự học xuất chúng và sẽ chỉ dành sự khinh bỉ cho lũ người cần mẫn. Chỉ cần biết quan sát là đủ. Nếu đã không biết thì người ta sẽ chẳng bao giờ biết hết. Giữa hai người, sự không hiểu nhau tăng lên. “Chuyện này đã gây ra một trận cãi vã kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ.” Đứa trẻ mồ côi Confolens giáo huấn đứa trẻ mồ côi Morges, kêu gọi anh quay trở lại với bổn phận một cộng sự của Pasteur. Nhưng mà Chúa ơi, hàng nghìn người sãn sàng bán cả em gái mình để được ở vào vị trí của anh, thế mà anh, Yersin… Ông không biết nói gì trước chàng thanh niên rụt rè với tương lai đầy hứa hẹn ấy, trước cái nhìn kiên quyết màu xanh lơ ấy. Với ông, nghiên cứu khoa học giống như chơi đàn vĩ cầm. Một anh chàng có khiếu nhưng tài tử được ban hồng ân của Chúa. Đã có thiên tư, nhưng phải có cả vận may nữa vì nếu không thì tài năng có là gì đâu. Chính Mozart cũng từng sẵn sàng chọn nghề tiều phu đốn củi. Rimbaud thì đi buôn cà phê Moca và súng trường Liège. Còn chàng trai này làm ông điên tiết với câu chuyện đạp xe đường dài và những 27 Phương pháp tư duy triết học của Socrates (k.470-399 tr.CN). chuyến dong thuyền câu cá. Roux tự nhủ có thể ông đã đặt niềm tin của mình ở nhầm chỗ. Rằng Yersin là một ngôi sao chổi. Và ở tuổi hăm sáu, giống các nhà toán học và thi sĩ, đôi khi, ánh sáng của anh ta đã lụi tắt rồi. Một tòa tháp cao bằng sắt ở trung tâm thế giới Thế nhưng các bài giảng lại thu được thành công lớn. Yersin chỉ nói vài từ nhất thiết phải có. Phần còn lại nằm ở khả năng quan sát. Trước mỗi sinh viên, một trợ giảng mang dáng dấp của một nhà ảo thuật hay quản lý quán ăn, đặt một khay nhôm rồi nhấc nắp tròn bằng thủy tinh lên. Họ đeo găng tay và thao tác trên một con vật thuộc loài gặm nhấm nào đó chết vì một trong số bệnh nhiễm trùng có trong chương trình học. Bơm kim tiêm xuyên qua lớp lông. Họ cho những giọt máu bị nhiễm độc chảy trên các tấm kính rồi đặt xuống dưới kính hiển vi. Roux nhận giảng hai bài đầu tiên về vi trùng học còn Yersin đảm nhiệm hai bài sau đó, về vi khuẩn. Tin này đã được thông báo trong suốt nhiều tháng trên các tạp chí y học và các báo toàn thế giới. Đó là thời đại mới của dây cáp ngầm dưới biển. Các bác sĩ nhảy lên những con tàu biển rồi đổ bộ xuống các bến cảng Bordeaux, Saint-Nazaire và Cherbourg, chuyên đón tàu xuyên Đại Tây Dương. Tại các nhà ga ven biển họ lên tàu hỏa đi vể Paris. Những khóa học hè này trùng với kỳ Triển lãm toàn cầu và dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Pháp, đỉnh cao của thời kỳ Ánh Sáng. Paris trở thành thủ đô thế giới về y học, và ở trung tâm của nó Viện Pasteur mới toanh xây bằng gạch đỏ chính là ngọn hải đăng của Tiến Bộ. Mọi thứ đều mới, sàn nhà đánh xi bóng và các bàn thí nghiệm tráng men sáng loáng. Đá rửa và mặt tiền theo lối Louis XIII. Hình thành ý tưởng là sẽ xây dựng các Viện Pasteur ở nước ngoài và tiến hành các chiến dịch tiêm vắcxin phòng ngừa và chữa bệnh. Trước mặt Yersin, trong căn phòng lớn chiếu sáng nhờ những cửa sổ cao gồm nhiều ô vuông nhỏ, là nhiều bác sĩ người Pháp làm tại bệnh viện, nhưng cũng có cả một người Bỉ, một người Thụy Điển, một người Cuba, ba người Nga, ba người Mêhicô, một người Hà Lan, ba người Ý, một người Anh, một người Rumani, một người Ai Cập và một người Mỹ. Đếm kỹ nhé: mười hai quốc tịch nhưng không có lấy một người Đức. Điềm báo chẳng lành chút nào. Đôi khi người ta nhìn thấy, trên cái sân rải sỏi trồng cây dẻ non, ông già mắc chứng bán thân bất toại vận rơđanhgốt màu đen và đeo nơ bướm, đã là một huyền thoại sống, ngồi sưởi nắng trên một ghế dài. Người ta tìm cách được chụp ảnh cùng ông. Người ta sẽ trưng ảnh trong phòng chờ, cạnh tấm bằng chứng nhận mình là người theo phương pháp Pasteur. Với Yersin chuyện này thật nản. “Thật buồn chán, mất thời gian kinh lên được. Ở bài giảng đầu tiên của con có ông Pasteur, ông Chamberland và nhiều người oai vệ nữa. Hình như ông Pasteur rất vui lòng.” Sau bài giảng, chàng thanh niên ra kè sông Seine đi dạo một mình. Chòm râu đen và cặp mắt xanh. Vào mùa xuân, bài báo thứ ba của anh đã được đăng, về bệnh bạch hầu. Thiên tài của Yersin không suy giảm và ánh sáng còn chưa lụi tắt. Là cư dân đầu tiên của Viện, anh chọn căn phòng đẹp nhất ở trong góc, tràn ngập ánh sáng, anh thích sự tiện nghi khi nào có thể. Anh đã lắp đặt các nồi đun và nồi chưng, nhận về các lô hàng toàn đồ thủy tinh. Mùa hè năm ấy người ta dựng tượng Danton ở ngã sáu Odéon nhân dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Pháp. Ở Champ-de-Mars và suốt dọc bờ kè Orsay, người ta trưng bày những thành quả của tiến bộ khoa học kỹ thuật, của cả nền văn minh, mà nói thẳng là của Pháp luôn cũng được, xòe lên thế giới đôi cánh trắng vĩ đại thiên tài của nó. Trên lối đi dạo trước điện Invalides, Bộ Chiến tranh và Bộ Thuộc địa đã chi tiền để dựng các ngôi làng Senegal hay Tahiti, Tunisia hay Campuchia, mang cả các cư dân về đây, để trưng bày tại thủ đô những vùng đất biên giới xa lắc của Đế chế. Tất tật những việc ấy muốn mang tính chất toàn cầu song lại là bằng chứng cho một thứ chủ nghĩa dân tộc to lớn. Đối với một người Thụy Sĩ, đó vẫn cứ là nghịch lý của tính toàn cầu Pháp, nằm ngay trong Tuyên ngôn của họ: ý thức hệ Pháp này với người nước ngoài luôn luôn có vẻ kỳ cục đến mức nó chứng tỏ, chính tại điểm đó, là không tuyệt đối toàn cầu. Trong Gian bày máy móc, Yersin mở quyển sổ ghi chép của mình ra, tất cả những thứ này hấp dẫn anh ngang với y học: những hầm mỏ và ngành luyện kim, các thứ máy công cụ, việc đóng chai nước khoáng, xây dựng dân dụng và công trình công cộng. Anh hình dung việc nghiên cứu như thế này: chỉ cần quan sát là đủ, và Yersin quan sát rất nhiều. Sau này anh sẽ quan tâm đến các thứ máy móc giống như từng quan tâm đến những con diều, tháo chúng ra, lắp chúng lại, cải tiến chúng, làm vậy luôn luôn chắc chắn hơn là đọc bản hướng dẫn sử dụng. Thời đại này thuộc về chủ nghĩa lạc quan kiên quyết. Gustave Eiffel và Jules Verne. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Jules Verne, Paris thế kỷ 20, là một sự tố cáo Tiến Bộ, một cuốn tiểu thuyết viễn tưởng đầy chất bi quan tận thế, nghệ thuật và văn chương bị phá hủy và làm nhục bởi khoa học kỹ thuật. Thất bại hoàn toàn. Phải tích cực hơn, Hetzel28 tinh ranh khuyên nhủ nhà văn, hết thời chủ nghĩa lãng mạn đen rồi. Hãy ca ngợi khoa học và máy móc. Jules Ferry29 . Giáo dục dân chúng. Ngụ ngôn về thuyết Descartes. Và đã tới ngày Mười Bốn tháng Bảy, dịp kỷ niệm trăm năm. Một thế kỷ sau khi chiếm ngục Bastille, và đốt các kho thuốc súng để chiếu sáng bầu trời Paris, người Pháp trở nên hiền hòa, đi thang máy, leo lên tòa tháp lớn bằng sắt đang được khánh thành để ngắm Paris từ trên cao, và hoan hô chuỗi pháo hoa hòa bình. Các bác sĩ trên thế giới lại lên đường quay về đồng cỏ Nam Mỹ hay cánh rừng taiga của mình, mang theo một tháp Eiffel nhỏ bằng đồng và bức ảnh có lời ghi tặng của Pasteur, có lẽ thêm cả một nịt tất nữa, kỷ niệm cảm động từ các vũ trường Moulin-Rouge và Folies-Bergères. Yersin khép quyển sổ lại: “Hôm qua con đã thở phào nhẹ nhõm kết thúc bài giảng của mình. Học viên còn có thể đến để sắp xếp lại đống dụng cụ, rồi phòng thí nghiệm sẽ được yên tĩnh hoàn toàn.” Nhờ Pasteur, anh được nhận cành cọ hàn lâm. Vốn thờ ơ với mấy thứ hoa lá cành, anh nhét nó vào túi áo để mang về tặng cho Fanny. 28 Pierre-Jules Hetzel (1814-1886), chủ nhà xuất bản, người in rất nhiều tác phẩm của nhà văn Jules Verne. 29 Jules Ferry (1832-1893): Thủ tướng Pháp. Trên toàn thế giới sẽ không có các Viện Koch, ở Berlin không có tháp lớn bằng sắt cũng như Triển lãm toàn cầu. Bismarck đang sa lầy trong những thất vọng ở châu Phi. Áp suất lại tăng dưới những mũ cát chóp nhọn không lắp bộ phận van xả. Ở đó người ta tự hỏi liệu việc đã chiến thắng, và bắt được hoàng đế của đám dân quái đản kia ở trận Sedan, những thứ ấy có ý nghĩa gì không. Bởi giữa Paris và Berlin, đâu đó giữa Pasteur và Koch nữa, có Sedan. Về tới Morges, cuối mùa hè, Yersin đã trở thành một vị anh hùng địa phương, không hẳn vì các công trình về ho lao và bạch hầu của anh – những chủ đề mà người ta không đề cập trên bàn ăn, Fanny nói rõ như thế cho các cô gái trẻ – mà vì tại Paris anh đã dự hai buổi lễ khánh thành được bình luận nhiều nhất ở xứ Thụy Sĩ nổi tiếng Pháp, khánh thành Viện Pasteur và khai mạc Triển lãm toàn cầu. Fanny mời cánh nhà báo chuyên viết tin tới Nhà Cây Sung bên bờ Hồ. Họ dùng trà trong phòng khách nhỏ đầy hoa. Trên tường treo tấm huy chương đồng và cành cọ. Bà lợi dụng dịp này để tổ chức một bài giảng vể cung cách cư xử và chuyện gẫu cho đám khỉ cái. Yersin nói về những ngôi làng khắp nơi trên thế giới, các thứ máy móc, bốn quán ăn treo trên trời, mỗi cái ở một chân tháp hình phên mắt cáo chốt bằng bù loong, và anh đã trả năm quan để lên được đến tầng thứ ba của tòa tháp lớn bằng sắt. Còn thời trang thì sao? Anh có mang về những quyển sách mẫu không? Yersin đặt tách trà của mình xuống tấm khăn trải bàn thêu, bằng giọng dịu dàng và bí ẩn, nói thêm: –Và nhất là, con đã thấy biển. Fanny nhún vai. Biển. Một bác sĩ trên tàu Pasteur và Roux buộc phải chấp nhận sự thật hiển nhiên. Họ sẽ không thể trói Yersin vào bàn thí nghiệm. Tốt hơn hết là tìm ra một giải pháp thân ái, để anh ra đi mà vẫn giữ được nhà nghiên cứu sục sôi trong lòng ngôi nhà này. Rồi tuổi trẻ sẽ qua. Rồi đến một ngày sẽ giống như Ulysse. Đầy miễn cưỡng, Pasteur đọc cho nhân viên chép một bức thư giới thiệu: “Tôi, ký tên dưới đây, giám đốc Viện Pasteur, Viện sĩ, Huy chương Bắc đẩu bội tinh, chứng nhận rằng bác sĩ Yersin (Alexandre) đã giữ trách nhiệm điều chế viên phòng thí nghiệm hóa sinh ở trường Cao học, rồi ở Viện Pasteur, từ tháng Bảy năm 1886 cho đến bây giờ. Tôi sung sướng nhận thấy ông Yersin luôn luôn thực thi các công việc của mình với nhiệt tâm cao nhất và ông đã cho ấn hành, trong thời gian ở phòng thí nghiệm của tôi, nhiều công trình được đón nhận tốt từ các nhà bác học có thẩm quyền.” Bức thư được gửi tới trụ sở Hãng Đường biển ở Bordeaux, đi kèm với hồ sơ của Yersin xin được cử làm bác sĩ trên tàu. Câu trả lời của hãng rất nồng nhiệt, mau chóng, và họ cho anh chọn bất cứ vùng nào trên thế giới mà anh thấy thích hợp, kể cả có phải xáo trộn nhân lực y tế đi chăng nữa. Yersin chọn châu Á. Hãng dự định biến việc tuyển anh thành một luận điểm thương mại: –Anh biết không, bạn yêu quý, trong chuyến đi ấy tôi đã được một học trò của Pasteur khám cho, và chúng tôi đã trò chuyện về ông già Pasteur quý mến đó… Trong vòng vài tuần, Yersin lại đến các bệnh viện Paris để chuẩn bị và dự trù tất cả, thu nạp những kiến thức cho tới giờ anh vẫn lơ là, các bệnh về da, tiểu phẫu, nhãn khoa. Anh mua một túi dụng cụ bác sĩ đa khoa và một rương đi tàu bằng liễu giỏ, rỗi nhét đầy sách và cái kính hiển vi Carl Zeiss, một cặp ống nhòm thủy thủ và cả một bộ đồ nhiếp ảnh, khay, máy phóng, lọ đựng thuốc hiện ảnh và tráng ảnh. Anh lên tàu hỏa đi Marseille, ở đó dọc các bờ ke là những đoạn tường thành cũ kỹ. Bài giảng về vi khuẩn được giao lại cho Haffkine, cho tới khi ấy vẫn là thủ thư ở Viện, một người Do Thái gốc Ukraine, một đứa trẻ mồ côi nữa được nhóm Pasteur thu nạp. Chúng ta sẽ gặp lại anh ở Bombay, Haffkine ấy, ở trung tâm một trong những cuộc tranh cãi lớn mà giới khoa học rất khoái. Yersin thì ngồi trên chuyến tàu đi Marseille. Anh vừa sống 5 năm ở Paris. Thỉnh thoảng anh sẽ quay lại đó. Sẽ không bao giờ sống ở thành phố ấy nữa. Ở Marseille Trên cao, không gian chẳng mấy an toàn vào ngày cuối tháng Năm năm 40 đó. Buổi chiều, những chiếc Stuka nhanh hơn, bay cao hơn con cá voi nhỏ màu trắng, đã chao lượn xung quanh, kêu réo ầm ĩ, trước khi quay đầu bay về phía trên Địa Trung Hải, trở lại căn cứ của chúng. Tại đây, bốn năm nữa, vào cuối cuộc chiến tranh, trên bầu trời xanh tháng Bảy, Saint-Exupéry sẽ biến mất cùng chiếc Lightning, đây cũng lại là một khách quen của khách sạn Lutetia, người cuối cùng còn sống sót của nhóm vây quanh Mermoz30. Con cá voi nhỏ màu trắng vạch một đường vòng cung trước khi đậu xuống ao Berre. Hai chiếc phao rạch trên mặt ao làm bắn lên một màn bụi nước lóng lánh. Buồng lái chao đảo rồi ổn định lại. Mọi người lên cầu. Tin tức không mấy tốt lành. Ở Paris, sân bay đã bị đóng. Không quân Đức tra soát tất cả đường và cầu. Phi hành đoàn lo lắng. Họ nói tới các trại tù. Một số rồi sẽ đào ngũ ở cuối chặng bay, những người can đảm nhất thì trở thành phi công chiến đấu, gia nhập các phi đội ở Algcr hay Brazzaville. Sau khi tiếp đầy nhiên liệu, họ lại bay về phía Corfou, điểm dừng sắp tới trên con đường sang châu Á. Con cá voi nhỏ màu trắng bay phía trên cảng Marseille vào lúc mặt trời lặn. Bên dưới cánh máy bay, Yersin thấy những con thuyền đậu ở bờ kè nom giống những con cá dài thuỗn. 50 năm trước, gần như đúng vào ngày này, ông đã đi bộ dọc theo những cái đập tít phía dưới kia. Ông sắp xuống tàu Oxus. Vào năm 1890 ấy, người ta còn chưa thể tưởng tượng được sự bùng nổ, hai tư năm sau, của một cuộc xung đột sẽ được mang tên Đại chiến, rồi Thế chiến, và cách đây vài ngày, Thế chiến thứ nhất. Người ta cũng chưa thể tưởng tượng được sức bật mạnh mẽ cùa ngành hàng không. Sáng chế tuyệt diệu cho phép rút ngắn các khoảng cách và ném bom xuống cư dân. Trước Thế chiến thứ nhất, Yersin từng do dự có nên mua một chiếc máy bay hay không. Ông từng đích thân đến trường bay Chartres để bay chuyến đầu tiên cùa mình và bàn về giá cả, ông đã nghĩ tới việc xây dựng một đường băng ở Nha Trang, rồi rốt cuộc bỏ rơi ý tưởng, chuyển sang việc khác. Ông vẫn thường như thế, Yersin ấy. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Ông sẽ không làm thủy thủ lâu. Trong khi Clément Ader cho chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới cất cánh và tạo ra từ “máy bay”, Yersin rời chuyến tàu khởi hành từ Paris để xuống ga Saint-Charles. Hai mươi bảy tuổi. Anh đi bộ trên phố Canebière tới Cảng Cũ và nhìn thấy biển lần thứ hai. Nước ở đây xanh hơn ở Dieppe, sóng nhẹ hơn. Anh tản bộ trong cảng Marseille và chẳng xoàng đâu, cánh cửa mở ra thế giới rộng 30 Antoine Saint-Exupéry là một nhà văn rất nổi tiếng, tác giả cuốn Hoàng tử bé, nhưng ở đây tác giả muốn nói đến nghề phi công của ông, còn Mermoz là một phi công huyền thoại khác của nước Pháp. lớn. Mười lăm năm trước, chính nơi đây Conrad31 đã bắt đầu sự nghiệp thủy thủ của mình. Mười năm trước đó, Rimbaud từng lên tàu sang Biển Đỏ và xứ Ả Rập. Brazza cũng lại lên đường sang Congo mấy tháng trước đó. Bên cạnh anh một người phu khuân vác đây xe chở cái rương bằng liễu giỏ lèn chặt túi đồ nghề bác sĩ, kính hiến vi, ống nhòm thủy thù và đồ nhiếp ảnh. Yersin xuống tàu Oxus sang Viễn Đông. Người ta đưa cho anh Nội quy trên tàu. Trên bất cứ con tàu nào của Hãng Đường biển, việc khám bệnh hằng ngày cũng được thông báo bằng một tiếng chuông. Bác sĩ chỉ nhận lệnh từ thuyền trưởng và được ăn cùng bàn với ông. Bác sĩ phụ trách tủ thuốc trên tàu và bổ sung ở mỗi lần tàu dừng. Ông ta cũng có trách nhiệm kiểm tra vệ sinh nhà bếp cũng như độ tươi cùa đồ ăn. Một y tá giúp việc cho ông ta, mở cửa cabin hạng nhất, bằng đồng và gỗ vécni, đưa cho ông ta bộ đồng phục màu trắng gắn lon năm vạch mạ vàng, vuốt phẳng li trước gương cho ông ta. Yersin thích trật tự và xa hoa, bởi xa hoa đồng nghĩa với tĩnh lặng. Điều tệ hại nhất của cảnh nghèo đói bần cùng, là lúc nào cũng bị quấy rầy. Không bao giờ được ở một mình. Trên tàu có hàng trăm hành khách, lần này dưới hầm có một đội lính đi đồn trú ở Bắc Kỳ, xứ bảo hộ cùa Pháp từ bảy năm nay. Ở hạng hai có các thầy tu dòng Benedict và các bà xơ làm phước được Chúa gọi sang Trung Quốc. Đám hành khách quen thuộc nhất, chỉ mua vé đi một chiều, vẫn là những kẻ cứng đầu, những tên lừa đảo, các nhà đầu tư phá sản, lũ ma cô và đám con nhà danh giá, ra đi thử xem cuộc sống bên thuộc địa liệu có dễ chịu hơn không. Khi lại ở trên bờ kè, Yersin khum tay lên trán ước lượng kích thước con tàu to thù lù đang đậu ngược chiều ánh sáng. Khác xa một chiếc tàu đánh cá vùng Normandie. Mạn tàu sắt cao nghễu nghện được trì lại bờ kè bởi các dây cáp, một trăm hai lăm mét chiều dài. Các thợ đốt lò châm nồi hơi làm tăng áp suất. Các sĩ quan xuống đất liền để chơi tối lần cuối, ngồi trên những hàng hiên đầy nắng. Dọc các vũng tàu, tách biệt hẳn với đám đông, một chàng thanh niên xuất chúng vận đồng phục màu trắng gắn lon năm vạch mạ vàng say sưa hít đẩy lồng ngực bầu không khí của biển khơi và phiêu lưu, một dạng quý nhân mà hẳn một ý chí quỷ quái nào đó mời gợi lên tàu đi khám phá những chân trời mới. Anh tự hỏi không biết liệu Mina Schwarzenbach có từng hình dung ra tất cả những điều này. 31 Joseph Conrad (1857-1924), nhà văn Anh gốc Ba Lan, cũng là một nhà văn đặc biệt nổi tiếng gắn liền với chế độ thực dân, giống như Pierre Loti. Trên biển Những chiếc khăn mùi xoa trắng vẫy vẫy, có lẽ của vài người vợ bị bỏ lại, tất bật với lũ con. Dàn nhạc kèn đồng và tốp ca tiễn biệt những nhà truyền giáo. Con tàu lớn với mạn tàu sặc sỡ từ đuôi tới mũi, rời khỏi bờ kè, quay mũi trong vũng tàu. Và lần đầu tiên, Yersin hiểu được hàm nghĩa hàng hải của hai động từ ấy32. Đến cuối buổi chiều thì họ ra đến ngoài khơi. Notre-Dame-de-la-Garde đã nhỏ tí đằng sau vệt sóng. Ráng chiều làm hồng thân tàu và nhuộm vàng lông những con mòng biển bay theo. Gió mạnh lên, biển cuồn cuộn sóng. Hành khách vào ngồi ở các phòng khách. Mạt chược ở khoang hạng nhất và bài bơlốt khoang giữa tàu. Khi ấy từ Marseille sang Sài Gòn phải đi mất ba mươi ngày. Điểm dừng đầu tiên là Messine, rồi tới đảo Crète. Cho đến lúc đó mới chỉ là đi thuyền men theo bờ, rồi rốt cuộc cùng bắt đầu cuộc hải hành về hẳn phía Nam Địa Trung Hải, về phía Alexandrie, nơi, bảy năm về trước, Thuillier, môn đệ trẻ tuổi của Pasteur, đã chết trong khi nghiên cứu dịch thổ tả. Yersin có trong cabin riêng tủ sách nhỏ với các ngăn bằng gỗ đánh vécni, các công trình y học và cuốn từ điển tiếng Anh, mở những quyển sổ của mình ra, viết thư cho Fanny. Một buổi sáng, từ đài chỉ huy, anh ngắm nhìn những bãi cát vàng và rặng cọ khẳng khiu dần sát lại, nhanh chóng nhìn ra cột tháp giáo đường đầu tiên và con lạc đà đầu tiên: giống hệt như Flaubert, từ Ai Cập trở đi anh đã “ních màu sắc đầy bụng như một con lừa ních lúa mạch”33. Tàu Oxus tiến vào hệ thống các cửa nước. Khi Yersin vào kênh đào Suez hồi mùa xuân năm 90 ấy, nhà thám hiểm Anh quốc Henry Stanley, người hùng của Hội nghị Berlin 5 năm về trước, kẻ đã tìm thấy Livingstone, từng đi qua cả châu Phi, đã nhốt mình vào một biệt thự ờ Cairo từ ba tháng nay. Ở đây ông viết lại chuyến đi của mình tới Équatoria để tìm Emin Pacha, chuyến trở về qua Zanzibar, đặt tên cho quyến sách là Trong bóng tối Phi châu. Cách đó hàng nghìn cây số về phía Nam, Brazza và Conrad, mỗi người ở trên boong một con tàu hơi nước, đi ngược sông Congo. Và vị thuyền trưởng người Anh, từng là người Ba Lan trước 32 Ở đây, ý tác giả là: động từ “déborder” có nghĩa thường dùng là “tràn”, động từ “éviter” có nghĩa thường dùng là “tránh”, nhưng trong hàng hải, hai động từ này được dùng như tiếng lóng, “déborder” là rời khỏi bờ và “éviter” là quay mũi. 33 Nguyên văn “une ventrée de couleurs comme un âne s’emplit d’avoine”, là một câu Flaubert viết gửi bạn trong chuyến du hành Ai Cập. khi thành người Marseille, sẽ cho bối cảnh Tâm bóng tối34 ở tận phía Bắc dòng sông, thác Stanley. Từ thành phố Cairo này, ba năm trước đó, Arthur Rimbaud, kẻ đào thoát khỏi nhóm Thi Sơn, nhốt mình cùng anh người hầu Djami Wadai trong một căn phòng khách sạn Châu Âu, nhưng viết thư cho chị gái nói rằng Ai Cập sẽ chỉ là một chặng dừng chân. “Có thể em sẽ đi Zanzibar, từ đó có thể làm những chuyến đi dài trong châu Phi, và có thể sang cả Trung Quốc, Nhật Bản, ai biết được?” Thoát khỏi đôi bờ buồn tẻ của con kênh, tàu lao cái mũi phùng rộng của nó vào làn nước êm lặng và trong suốt của Biển Đỏ. Sau đó là cái nóng kinh người, kim loại bị mặt trời trắng lóa nung nấu, những dãy núi tím của Yemen và tối đến chỉ còn thấy vài cọc tiêu lúc sắp tới Aden. Đêm, người ta ra ngoài boong để tìm sự mát mẻ trong làn không khí bất động bên dưới những vì sao lấp láy hơn. Quyển sổ của Yersin đầy những câu như thể của Lowry35 trong Ultramarine: “Thấy tách khỏi bờ những cái bóng to lớn, được rọi sáng mơ hồ bằng rất nhiều ngọn đuốc có ánh lửa đỏ, và từ những mảng bè được một con thuyền hơi nước nhỏ kéo theo ấy vang lên tiếng hát đầy nhịp điệu, chỉ gốm vài nốt. Đó là những người thợ than đến để chất than lên khoang hầm của con tàu Oxus” Anh kết thúc bức thư gửi Fanny của mình: “Đã cảm thấy xa châu Âu lắm rồi!” Đám lính thì mặc quần soóc kiểu thuộc địa và đội mũ vài rộng vành. Sáng sáng họ lên boong tập thể dục và tập nâng súng. Sau ba ngày là tới lúc khởi đầu chặng dài nhất. Neo được nhổ lên để tàu chầm chậm xuôi dòng Ấn Độ Dương, hướng về phía Đông Nam, Colombo. Các khoang hầm đầy nước uống và than, hầm chất đầy mọi thứ người ta còn chưa làm ra được ở Sài Gòn, máy móc dụng cụ, súng ống, váy dạ hội, hàng thùng rượu vang tồi, rượu pastis và máy làm nước đá. Trĩu nặng vì cái đám đó bên dưới làn khói đen cuồn cuộn, con tàu đồ sộ nặng ba nghìn tám trăm tấn đè xuống làn nước xanh lục và đôi khi mưa chớp nhoáng, rồi mặt trời lại làm vỏ tàu gỗ ướt sáng ánh lên. Tàu đã đi qua đường chí tuyến và xa xa lại hiện ra một hòn đảo hoang nằm giữa chơ vơ cùng đám dừa, đó chính là Baudelaire của thời thơ alexandrin còn sáng lấp lánh. Một hòn đảo lười nhác nơi thiên nhiên dâng tặng những thứ cây độc đáo và những thứ quả ngon lành. Yersin ước đo kích thước và nội dung công việc cùa mình, tức là hàng trăm mét đi trên boong và tổng cộng một cây số các hành lang và cầu thang trên tàu, chuông đồng báo hiệu giờ khám bệnh vào đầu buổi chiều. Một Barnabooth36 thanh lịch trong đống phục trắng tham dự mỗi sáng vào báo cáo của các sĩ quan trực tại khoang riêng của thuyền trưởng. 34 Tên tác phẩm nổi tiếng nhất của Joseph Conrad. 35 Malcolm Lowry (1909-1957), nhà văn người Anh rất nổi tiếng, Ultramarine là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, in năm 1933. 36 Barnabooth là một trong nhiều bút danh của nhà văn Pháp Valery Larbaud (1881-1957). Xuất thân trong một gia đình giàu có, Valery Larbaud đi du lịch khắp châu Âu trên những chuyến tàu sang trọng, làm thơ, viết tiểu thuyết, dịch thuật và ghi chép lại hành trình trong nhật ký. Tối đến anh lại lao vào đọc tài liệu y khoa và học tiếng Anh. Vài người Anh mà anh gặp ở phòng khách khoang hạng nhất sẽ xuống tàu ở Ấn Độ hay Singapore để quay về đồn điền của mình ở Malaysia hoặc Xiêm La. Anh học được thói quen của người Anh dùng các chữ cái viết tắt ghép vào nhau để tạo ra những tính từ. Năm ấy, trên các tuyến đường biển, người ta sáng tạo ra từ “posh”, ít nhiều ngang nghĩa với “dandy” hay rất thời thượng, từ cụm “port out, starboard home”, “đi mạn trái, về mạn phải”, vì sẽ là rất oách nếu đặt chỗ theo kiểu đổi bên mạn tàu tùy thuộc vào hướng đi, như thế thì cả khi đi lẫn khi về, lúc nào từ cửa sổ tròn cabin của mình, cũng được ngắm nhìn cảnh tượng biến đổi không ngừng trên bờ, trong khi những người khác, những người không posh, cũng như đã không dự đoán trước, chỉ nhìn thấy mỗi nước là nước. Trong khi anh đi đi về về giữa phòng khách và cabin của mình, tàu đã vào vùng biển phía Nam. Đã thấy rừng rậm Sri Lanka, mưa ấm rơi xuống những bản lá rộng màu xanh ngọc lục bảo. Trên đường tiến về Singapore, một buổi tối ở phòng khách, trước chai rượu ápxanh, mấy ông già sống lâu ở thuộc địa kể cho anh nghe câu chuyện về Mayrena tức vua Marie Đệ Nhất. Một cựu lính kỵ binh của quân viễn chinh sau trở thành dân phiêu lưu, ẩn trốn trong rừng, đã chiếm lấy một vương quốc ở đâu đó, hình như Trung Kỳ, rồi tự xưng là vua của người Xê Đăng trước khi bị người Pháp trục xuất. Người ta bảo nay ông ta đã rút về đây, sống trên đảo Tioman, giữa triều đình thất thế của ông gồm toàn những tay đâm thuê chém mướn được ông ta phong tước, quán rượu cabarê toàn vũ nữ tàn úa mặc đăngten hỏng từ Bruxelles sang đây từ lúc ông ta còn huy hoàng. Sau Singapore, tàu hướng về phía Đông Bắc, đi dọc theo Vinh Xiêm La phía bên ngoài Bangkok, vòng quanh vùng châu thổ sông Mê Kông để đi lên cao hơn về hướng bắc, đến Vũng Tàu. Cái thành lừng lững của con tàu tiến vào sông Sài Gòn giữa lúc triều lên và đi ngược sông dưới bầu trời nặng nề sà xuống thấp, chừng hai hay ba hải lý, như nhịp đi bộ của con người, để không làm lật ghe hay xuồng tam bản cũng như không phá hỏng mấy chòi câu và vũng câu hai bên bờ giữa đám cây đước. Một thuyền nhỏ có trang bị súng đi trước dẫn đường. Những người nhập cư tò mò và lo lắng, dựa khuỷu tay lên lan can tàu trong những bộ quần áo nhàu nhĩ, nhìn lũ chim cốc lao xuống đám nước nâu sền sệt mọc đầy cây cói. Họ tự hỏi không biết ở nơi đây rốt cuộc mình có thể kiếm bộn tiền, hay sẽ để cho đời mình thối rữa dưới đáy ruộng sũng nước kia. Có lẽ một trong số họ, có chữ hơn và rành Voltaire, lên đường sang xứ thuộc địa như thể gia nhập đội quân lê dương, vì nỗi thất tình hoặc thi trượt thạc sĩ, tự hỏi tại sao lại Oxus, tại sao đặt cho con tàu tên của dòng sông bên mãi xứ Transoxiane từng bị Thành Cát Tư Hãn nhuộm đỏ máu và lấp đầy bằng đầu người Ba Tư. “Dần dà bắt đầu nhìn thấy đám cọ lớn dần, rồi thấy rõ khoảnh rừng dừa nho nhỏ đầy khỉ. Cuối cùng cũng thấy vài đồng nội khá rộng, rời tàu đi tới trước những ngôi nhà kiểu Âu. Tàu Oxus bắn một phát đại bác và thả neo: đã đến nơi.” Xa xa, dãy nhà xưởng, kho lợp vải dầu chứa than và bông, những hàng thùng tônô. Bờ kè đông đặc đám xe kéo và xe thắng vào những con ngựa An Nam nhỏ bé. Đám lính tráng xếp thành các hàng đôi tiến về phía một doanh trại tạm thời trước khi đến được xứ Bắc Kỳ nằm mãi tận biên giới với Trung Quốc. Phía bên kia, những ông thầy tu và bà xơ đi trên đường Catinat dẫn thẳng từ Sông về khu Plateau37 và quảng trường Francis-Garnier38, nơi có hai tháp chuông mới của Nhà thờ Đức Bà và Bưu điện mới do Gustave Eiffel thiết kế. Xa xa, ngồi trên đống bao bố, trong túi toàn bộ bài và dao găm, tụi ma cô rình những ai dáng vẻ ngập ngừng, những kẻ không được ai đón tiếp, những bọn mới đến từ Marseille, như là rình lũ gà ngố để vặt lông trong các nhà thổ và tiệm thuốc phiện Chợ Lớn. Đi cùng các sĩ quan trên tàu, Yersin tới tham quan xưởng cơ khí Thủy quân39, ngồi ở hiên khách sạn Rex hay Majestic. Tối tối, các thương nhân vận comlê trắng nhấm nháp rượu vermouth và cassis. Thành phố Sài Gòn chưa đầy ba mươi tuổi. Nó có màu trắng và các tuyến phố đều rộng rãi, được bố trí theo lối Haussmann, tỏa bóng những hàng cây minh quyết. Tại trụ sở Hãng Đường biển, viên bác sĩ trẻ tuổi được cấp giấy tờ đóng đầy dấu nhà đoan hàng hải và cơ quan dịch tễ: bốn hôm nữa bác sĩ Yersin phải lên tàu Volga nhậm chức. Anh được cắt cử vào tuyến Sài Gòn-Manila. 37 Chỉ vùng đất có địa hình cao hơn xung quanh ở khu vực từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến dinh Thống Nhất hiện nay, ứng với trung tâm hành chính thời Pháp thuộc, nay ở Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. 38 Công trường Lam Sơn hiện nay, trước cửa Nhà hát Thành Phố 39 Nguyên văn: Arsenal, sau là xưởng đóng tàu Ba Son. Những cuộc đời song chiếu Volga là một con tàu cũ kỹ, trộn lẫn giữa kiểu thuyền buồm và tàu hơi nước, cấu tạo gồm ba cột buồm, chỉ có một nồi hơi trung tâm, một con tàu khiêm tốn chở được 67 hành khách và vài tấn hàng. Hằng tháng, từ Sài Gòn, trên chuyến đi, các thương gia quen thuộc với tuyến đường thủy này chuyển hàng hóa từ châu Âu sang cho những người Philippin giàu có, quần áo từ Paris và đồ sứ từ Limoges, bình lọ pha lê và rượu vang ngon. Đổi lại, khi về họ chở dưới đáy hầm để hàng những thứ sản phẩm làm ra từ mồ hôi của người Philippin nghèo khổ, đường miếng, xì gà Manila và quả ca cao. Từ cảng này đến cảng kia, đó là ba ngày ba đêm trên mặt biển vàng như Conrad đã từng tả, sóng dồi cuồn cuộn và mềm mại, mũi tàu đầy những lớp sóng ấy giống như cái miệng bĩu ra. Con tàu hơi nước hiền lành chạy đều đặn như một cái phà. Trên đài chỉ huy, thuyền trưởng François Nègre là một người lão luyện trong dòng thuyền nhỏ ở châu Á. Ngay từ đó, cuộc đời Yersin, trong vòng suốt một năm, mang sự đều đặn của một con lắc. Một phần ba thời gian anh ở trên boong, một phần ba nữa anh lang thang trong thành phố Sài Gòn mới, và phần ba còn lại ở Manila cổ. Đó là một trong những thành phố của người Tây Ban Nha chất chứa nhiều thế kỷ và đạo Cơ Đốc rực rỡ vàng ròng cùng những bức tượng thánh rỏ máu, những thứ đồ thánh, những tượng Đức Mẹ đồng trinh nhiều màu sắc phủ đầy hoa, quả và bánh ngọt dâng tặng. Tất cả những thứ đó trong mắt một người Thanh giáo bang Vaud cũng kỳ khôi hệt những vật thờ của đạo Vaudou40. Nằm ngay trên bờ biển là một thành lũy pháo đài giống như các thành phố bên Puerto Rico hay La Havana với những phố dốc lát đá, một nhà thờ lớn màu trắng có hai tháp chuông có trán tường41 đã bị mốc đen và rêu xanh ăn mòn nham nhở, vào lúc mà người Pháp vừa mới xây xong Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn bằng gạch đỏ mới toanh của Toulouse. Nhưng anh đã nhanh chóng dạo khắp cả hai thành phố này và mỗi chuyến đi lại rời xa chúng thêm. Yersin, đó là một chàng thanh niên rất có tổ chức, ai cũng biết. Tháng nào anh cũng quay lại Philippin để nghiên cứu thiên văn học ở chỗ các cha dòng Tên của Đài Thiên văn, học cách sử dụng phong vũ biểu để đo độ cao, leo lên núi lửa Taal và lao vào các công việc thực tiễn giống như người ta làm những con diều. Anh dùng bút mực vẽ miệng núi lửa. “Dưới đáy là hai mảng đầm màu xanh lục pha vàng nhạt và từ đó bốc lên những đám hơi dày màu trắng. Đây đó, những 40 Tín ngưỡng vật linh có nguồn gốc từ Benin, phổ biến ở các tộc người da đen Antille và Haiti 41 Bộ phận tường chắn được xây cao lên hình tam giác hoặc đường cung lượn bên trên mặt tiền, đặc trưng kiến trúc cổ điển châu Âu, thừa kế kiến trúc Hy Lạp cổ đại, trên có các điêu khắc trang trí. cột khói nhỏ bé len lỏi chui ra từ các kẽ nứt.” Anh mua một con thuyền được dân địa phương gọi là banca, thuê người chèo thuyền, đi ngược các dòng sông, xem những cuộc chọi gà ở các ngôi làng người Tagalog. Và mỗi tháng Lord Jim42, hay Yersin, lại dấn sâu hơn vào “một dòng kênh hẹp và ngoằn ngoèo chảy giữa một khu rừng rậm nhiệt đới”. Anh viết những ghi chép thám hiểm đầu tiên gửi về cho Fanny, độc giả duy nhất của anh. “Bọn con đến bên dưới một vòm lá xanh, thêm vào đó là ánh trăng, rồi sự im lặng của màn đêm, những con thuyền độc mộc nhỏ của đám ngư dân đỗ nép vào những góc tối tăm của dòng sông, khiến cho cảnh tượng này trông có dáng vẻ duyên dáng kỳ cục. Bọn con cho tay chỉ huy lên thuyền, hai đứa con của anh ta và một trung sĩ người Tây Ban Nha. Một giờ sáng, bọn con đã đến được Jala-Jala.” Tới bình minh thì họ quay trở về. Hôm sau banca được cẩu lên tàu Volga và buộc chặt trên boong. Tàu tháo dây chằng và phả khói ra đi. Yersin mặc lên người bộ đồng phục trắng gắn lon 5 vạch mạ vàng và rung chuông, tối đến trong khoang phòng lại tiếp tục câu chuyện về những ngày anh đã trải qua, kể cho thuyển trưởng Nègre và các thương gia ngồi bên bàn trước chai rượu ápxanh. Lại là chuyển động lắc lư chậm chạp của con tàu hơi nước trên mặt biển sóng sánh. Thỉnh thoảng họ giương buồm để tiết kiệm than hoặc để tưởng nhớ những con người xưa cũ. Chỉ chiếc thuyền mảnh khảnh là thứ duy nhất có mặt ở cả hai phần đời của anh. Ba hôm sau, khi quay lại Sài Gòn, nó được dỡ xuống và được neo đậu trong cảng. Ở Nam Kỳ, chiếc banca Philippin biến thành tam bản Việt Nam. Yersin dành thời gian để chạy ven sông như thế. Hai người dẫn đường của anh, Choun và Tiou43, chất lên thuyền chăn và đèn, màn và máy lọc nước Chamberland, gạo và đám vịt bị buộc chân. “Những ngọn núi lúc đầu còn ở xa gần lại dần, dòng sông mỗi lúc một thu hẹp. Trời nóng như nung ở đáy cái khe này.” Tối đến, họ dựng trại để nghỉ trên bờ sông, đốt lửa, cắt tiết và nhổ lông lũ vịt. Sắp tới, bọn họ sẽ đi ngược mãi lên đến Biên Hòa rồi quá cả đó. Nơi đây, Yersin gặp một chủ đồn điền cô độc người Đan Mạch, Jorgensen, rồi quen với sự tiếp đón kiểu gấu già cô độc của ông ta. Lúc Yersin đi, Jorgensen đưa cho anh danh sách những thứ đó cần mua mà phải đợi một tháng nữa thì mới có. Từ hàng hiên ngôi nhà sàn bằng gỗ tếch có thể nhìn xuống làn sóng xanh của đồn điền hồ tiêu, và thấy “ngay dưới chân nước đập ầm ầm vào các tảng đá”. Buổi sáng núi thật xanh ở chân trời. Dòng sông là nơi lũ voi đến uống nước, nơi chim kêu vượn hú. Đây chính là nơi để sống, rời xa khỏi thế giới. Cùng Jorgensen, họ đi bộ hai ngày liền tới tận những ngôi làng đầu tiên của người Mọi. Trong những bức thư, mà Fanny lòng đầy lo lắng bắt đầu giấu không cho những cô gái trẻ ở Nhà Cây Sung đọc, Yersin viết những ghi nhận đầu tiên của mình về dân tộc học, rằng người Mọi “là những người vóc dáng cao lớn, chỉ quấn khố. Khuôn mặt họ khác rất nhiều so với mặt người An Nam. Họ thường đề râu và có ria, có dáng vẻ kiêu hãnh và man dã hơn. Các làng thì chỉ gồm duy nhất một ngôi nhà, nhưng nhà rất lớn, dựng trên những cây cột. Mỗi gia đình sống trong một 42 Nhân vật của Joseph Conrad. 43 Tên riêng giữ nguyên như trong bản gốc. khoảnh có vách ngăn không kín hẳn. Đây thực sự là cuộc sống cộng đồng. Ở chỗ người Mọi tiền không còn giá trị gì cả. Họ thích vài viên ngọc thủy tinh hay một cái nhẫn bằng đồng hơn.” Như mọi kẻ cô đơn thâm căn cố đế, Yersin cảm thấy phấn khích trước cuộc sống theo kiểu cộng đồng, hình thức bình quân của thứ chủ nghĩa cộng sản sơ khai và phi tiền tệ. Chính từ đây mà phải tiến xa hơn nữa, rời dòng nước, vật lộn trong những khu rừng, leo lên rặng Trường Sơn, vượt qua chúng. Tiến thật xa, vể phía bộ tộc Xê Đăng hay Gia Rai, nơi còn chưa ai từng đến, thậm chí cả Jorgensen cũng chưa. Cái lão Mayrena, tức Marie Đệ Nhất, thì có thể, nhưng lão ta thì lại tìm vàng hoặc vinh quang. Thường, Yersin chỉ xuống Sài Gòn ngay trước ngày tàu Volga lên đường, cho kéo chiếc tam bản lên đó, để ba ngày sau nó sẽ lại trở thành một chiếc banca. Anh gặp lại thuyền trưởng Nègre và các thương gia. Còn đội thùy thủ, “họ khá đa dạng về chủng tộc, ở đây có người Hoa, người Mã Lai, người Nam Kỳ”. Không giống những người ấy, anh không nghĩ cả đời mình sẽ ở trên tuyến đường biển này, nhưng cũng không biết rõ mình có thể làm gì khác. Anh nhanh chóng chạm đến giới hạn địa lý của những chuyến đi này. Điều đó có thể trở nên chán nản ngang với bài giảng vể vi trùng học. Yersin còn chưa phải là nhà thám hiểm, cho tới lúc đó, chưa bao giờ anh lên đường tiến về phía trước mà chẳng buồn quay lại, đối mặt với các hiểm nguy, hay đặt cuộc sống của mình trước hiểm họa lớn. Sắp tới, trong cuộc chiến với Thục, anh sẽ bị một cây giáo xuyên qua người. Những hiểu biết về y học sẽ cứu sống anh. Năm ấy, Yersin đi di lại lại giữa Manila và Sài Gòn trên mặt biển vàng, cũng mùa xuân năm ấy Rimbaud quay về cảng Marseille lần cuối. Lưỡi cưa của bác sĩ phẫu thuật cắt đi cẳng chân sau hàng tuần chàng được khiêng cáng chạy trên gập ghềnh sa mạc, không được chạy chữa thuốc men theo phương pháp Pasteur. Trên tàu, viên bác sĩ của Hãng Đường biển vận đồng phục màu trắng bất lực trên đầu giường chàng. Những câu cuối cùng trong cơn mê sảng, nhịp đập của những cái răng voi44 giống như tiếng trống thổ dân. Trước khi bị cắt chân, chàng viết thư cho chị gái Isabelle: “Tại sao ở trường người ta lại không dạy chút ít về y học để không bao giờ phạm phải những điều ngu xuẩn như vậy?” 44 Rimbaud thích dùng chữ “răng voi” hơn là “ngà voi”. Albert & Alexandre Calmette tới Sài Gòn đúng lúc Yersin không ngờ. Đây là lần đầu tiên hai người gặp nhau. Chính Roux, từ Paris và theo lời khuyên của Pasteur, đã tổ chức cuộc gặp của họ. Hai người sinh cùng năm nhưng đường đời trái ngược nhau. Sau khi học y ở Trường Y tế Hàng hải Brest, Albert Calmette theo chiến dịch Trung Quốc của đô đốc Courbet, cùng tham gia còn có Pierre Loti. Là bác sĩ hải quân, anh đã ở Hồng Kông, rồi ở Gabon sáu tháng, tại đó anh gặp Brazza, hai năm ở Terre-Neuve rồi đến Saint-Pierre-et-Miquelon. Anh vừa theo học một lớp vể vi khuẩn học ở Viện Pasteur, và được Viện cử sang Nam Kỳ. Đây là một nhân vật mới tinh của nhóm Pasteur. Yersin nhận lời mời vì lịch sự và tò mò. Tất tật những thứ đó giờ thuộc về quãng đời xưa cũ của anh rồi. Giống như một chặng tiếp sức giữa nghiệp đi thuyền và công việc nghiên cứu. Hồi Calmette hai mươi tuổi, bước vào phục vụ trong hải quân với tư cách bác sĩ, Yersin còn ở Marburg và còn chưa bao giờ thấy biển. Giờ thì chính anh là thủy thủ. Một năm trời anh lang thang khắp chốn trên con tàu Volga. Hai người ngồi với nhau trong một phòng khách của khách sạn Majestic, tòa nhà trắng cuối đường Catinat. Giờ là đường Đồng Khởi. Ghế bành kiểu đế chế nạm vàng và bồi bàn vận đồng phục kiêu kỳ. Từ cửa sổ nhìn được xuống sông Sài Gòn và ghe thuyền, một trăm hai mươi năm sau, năm 2012, vẫn vậy. Ta hãy chọn lấy một chiếc ghế cho bóng ma vô hình của tương lai. Cái tay ký lục với quyển sổ bọc da chuột chũi, đã từng lần theo dấu vết của Yersin tại Zur Sonne bên Marburg. Gã dỏng tai, rình mò và chép lại cuộc trò chuyện của hai người đàn ông ở tuổi hai tám có râu quai nón đen xén tỉa gọn gàng. Với vẻ thận trọng của những kẻ âm mưu nhưng rụt rè, họ nói về sở thích chung là địa lý, Loti và câu cá vược. Ở Sài Gòn, họ gợi ra cái lạnh và băng giá vùng Miquelon. Một là quân nhân vận thường phục và một là thường dân vận đồng phục trắng gắn lon năm vạch mạ vàng. Bóng dáng khôi vĩ của Chỉ huy trưởng lơ lửng trên đầu hai viên bác sĩ trẻ, mô hình luân lý cao cả mặc rơđanhgốt đen và nơ bướm, lông mày nhíu lại, ngự trị trong từng lời nói của các môn đệ Pasteur. Cả hai nhớ tới ngày mình gặp Ông Già và mỗi người kể một giai thoại. Cả hai đều biết sự nghiệp và cuộc đời của kẻ chưa bao giờ là bác sĩ thế nhưng lại vừa làm đảo lộn lịch sử y học. Nhà hóa học và chuyên gia pha lê. Họ nhắc tới các giai đoạn trong thành công của ông, từ bệnh bướm ở tằm, ủ men bia, khử trùng cho rượu vang và sữa, phát hiện trực khuẩn bệnh đóng dấu ở lợn và bệnh than ở cừu cho tới huyết thanh chống bệnh dại. Người khám phá ra một hiện thực lạ lẫm trong mọi thứ ngôn ngữ trên đời đến nỗi đã phải cầu viện tới Littré45, làm phiền ông trong lúc ông dang bận bịu với công trình từ điển vĩ đại của mình, và ông đã rất cả quyết, cho rằng “microbe và microbie là những từ rất chuẩn. Để chỉ các vi sinh vật, hẳn tôi sẽ chọn « microbe » (vi khuẩn), trước hết bởi vì, như chính ông đã nói, nó ngắn hơn, sau đó là bởi trong từ này vẫn còn lại dáng dấp của « microbie », danh từ giống cái, chỉ trạng thái của vi khuẩn”. Nhìn cách họ chụm đầu vào nhau như thế, hẳn người ta sẽ nghĩ đây là hai chiến sĩ hoạt động bí mật của nhóm cách mạng nào đó, đang thì thầm bằng thứ ngôn ngữ mã hóa của mình những giấc mơ về tương lai tươi đẹp. Hẳn đó là tình huynh đệ. Người cảm thấy bị choáng váng hơn chắc hẳn là Calmette. Người đang ở ngay trước mặt anh là Yersin, thuộc hàng nhất phẩm của giới bác học vì đã phát hiện ra độc tố bạch hầu. Ở Paris, Roux đã cảnh báo anh. Yersin là một con người độc đáo, một kẻ cô độc đã lên đường ra đi làm thủy thủ hoặc nhà phiêu lưu. Calmette cho anh biết mình được cử đến đây để thành lập một Viện Pasteur và đề nghị anh hợp tác. Yersin đã không nghĩ đến điều này, anh cứng người lại. Nhóm Pasteur đã túm được anh. Calmette còn chưa có cơ sở ở Sài Gòn. Anh dự định mở phòng thí nghiệm trong một góc bệnh viện để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Để làm được điều đó, anh vừa gia nhập Sở Y tế Thuộc địa vốn dĩ nằm dưới quyền quản lý của quân đội. Đó cũng là một kiểu đe dọa nho nhỏ mà Roux và Pasteur đã nghĩ ra bên Paris. Yersin do dự, vì anh sợ đến ngày nào dó sẽ gặp chuyện phiền phức với nhà chức trách Pháp. Anh đã xin nhập quốc tịch nhưng kể từ đó còn chưa bao giờ đi quân dịch. Nhưng với anh toàn bộ câu chuyện này đã kết thúc. Đó là cuộc đời cũ của anh. Yersin đứng dậy và hai người bắt tay nhau. Có thể họ sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau. Tuy nhiên điều gì đó giữa họ hẳn sẽ nhanh chóng biến thành tình bạn, rõ ràng thế. “Anh ta đã cố hết sức thuyết phục con nhập Sở Y tế, nhưng những lý lẽ ngày hôm qua đến hôm nay vẫn không thay đổi, vậy nên con chưa quyết định ngay được.” Yersin rời phòng khách của Majestic, đi bộ về phía trụ sở Hãng Đường biển, hai tay đút túi. Chỉ cách có vài bước chân, ngay trên bờ sông Sài Gòn. Phải đi qua Cột cờ Thủ Ngữ chăng đầy dây néo, vượt qua một cây cẩu nhỏ bắc qua con lạch. Yersin lên tàu Volga và rung chuông, tiếp tục công việc. Calmette về căn phòng trên gác của mình. Hai kẻ này còn chưa biết đời mình sẽ gắn chặt vào nhau tới mức nào, và họ sẽ thư từ với nhau trong hơn bốn mươi năm. Thuyền trưởng Nègre đã cho kéo chiếc banca lên boong. Yersin tiếp tục sống cuộc đời phiêu lưu của mình cùng niềm hy vọng xông pha. Tối đến ở trên biển, chắc hẳn anh vẫn còn do dự. Anh nhớ đến các dự án mà Calmette đã trình bày. Nghiên cứu quá trình lên men của gạo, tác động giảm đau của thuốc phiện, và các loại nọc độc nhằm cứu chữa những vết rắn cắn chết người. Calmette sẽ có được thành công mà ta đều biết. 45 Émilie Littré (1801-1881), nhà từ điển học rất nổi tiếng người Pháp, tác giả một trong những bộ từ điển tiếng Pháp quan trọng nhất trong lịch sử. Sau này, trong loại vắcxin BCG46, chữ c ở giữa chính là viết tắt tên ông. Ngày nay ta biết đến bệnh viện Calmette ở Phnôm Pênh, không xa Vat Phnom và Viện Pasteur bao lăm. Ông đã tìm cách xây dựng ở khắp nơi trên hành tinh các viện ấy, chẳng khác gì sinh sản phân đôi hoặc di căn. Trước khi mở một viện ở Lille, ông đã mở hai Viện đầu tiên ngoài nước Pháp. Nói cho đúng là bên ngoài chính quốc. Bởi khi đó Sài Gòn, hay Lille hay Alger đều còn là nước Pháp. 46 BCG là viết tắt của Bacille Calmette-Guérin, vắcxin phòng bệnh lao. Bay Tình hình vẫn như vậy vào năm 40. Dẫu ta cảm thấy rõ rằng thất bại trong vòng tám ngày trước đội quân phát xít là điểm xấu về khả năng sống còn của Đế quốc Pháp. Nước Pháp bị xâm chiếm lần thứ ba trong vòng non một thế kỷ. Ông già bảy mươi bảy tuổi, chòm râu bạc và cặp mắt xanh, ngủ thiu thiu trong chiếc máy bay đang lượn phía trên Địa Trung Hải. Hai hôm sau Marseille, chiếc LeO H-242 cất cánh khỏi sân bay Athens. Con cá voi nhỏ màu trắng rung lên giữa bầu trời xanh ngắt vô tận, để lại đảo Síp dưới cánh trái, trong tiếng rì rì của bốn động cơ môđen mới mang tên Gnôme & Rhône, được lắp bên trên một ống phụt hơi đặt phía sau buồng lái. Yersin ghi lại thông tin. Gnôme & Rhône. Ở Paris, ông vừa dự hội nghị của các Viện Pasteur, hội nghị cuối cùng trong một khoảng thời gian rất dài. Ông đã nhận lời tiễn biệt của các nhà nghiên cứu tại cái sân rải sỏi nơi có mộ Roux. Calmette và Roux đã chết được bảy năm nay. Ông đã vinh danh những người đã khuất, bắt tay chào ông già gác cổng, Joseph Meister, người đầu tiên được cứu thoát khỏi bệnh dại, giờ đã sáu tư tuổi. Hẳn Yersin tự hỏi tại sao ông vẫn sống. Ông còn phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh nữa. Ông nhớ đến hai anh em nhà Calmette, người anh cả Gaston, nhà báo, người được Proust đề tặng đoạn đầu Đi tìm thời gian đã mất, và cậu em Albert, mà ông đã gặp lần đầu tại khách sạn Majestic ở Sài Gòn. Mười năm sau đó, Roux viết cho ông: “Calmette sẽ thu xếp để chúng ta gặp Sarraut ở nhà anh trai cậu ấy.” Hồi đó người ta đã nghĩ bộ trưởng Sarraut sẽ là toàn quyền tương lai của Đông Dương. Cùng trong bức thư ấy, Roux viết: “Ở Viện không có gì mới. Nơi đây chúng tôi đang quan tâm đến các thương thuyết giữa Pháp và Đức về vấn đề Maroc.” Người anh cả, Gaston Calmette, bị bắn chết khi đang ngồi trong phòng giám đốc tờ Le Figaro của mình, dưới tay vợ một ông bộ trưởng khác, Caillaux. Đó là mùa xuân năm 14, ngay trước vụ ám sát Jaurès và chiến tranh. Thêm một lần nữa, Yersin cố chạy trốn khỏi các trò chính trị nhơ bẩn ấy để sống một mình. Dẫu rằng suốt đời ông sẽ không bao giờ thực sự rời xa được Viện và nhóm môn đệ của Pasteur. Ông dõi theo một đường nét màu trắng pha nâu vàng ở phía chân trời đều một màu xanh lơ. Bóng các ngọn núi của Libăng. Vào thời của Mouhot47, người phát hiện các đền đài Angkor, vào năm sáu mươi của thế kỷ trước – năm Pasteur bước vào trận chiến lớn của mình chống lại quan niệm sinh sản bộc phát, và 47 Henri Mouhot (1826-1861), nhà tự nhiên học người Pháp. từ Chamonix đi tới Biển Băng để lấy mẫu không khí trong lành – để sang được châu Á, vẫn phải đi vòng rất xa qua mũi Hảo Vọng. Ba tháng đi thuyền buồm trên biển. Ba mươi năm sau đó, chuyến hải hành đầu tiên của Yersin trên chiếc Oxus được thực hiện bằng tàu hơi nước và qua kênh đào Suez, chỉ mất có ba mươi ngày. Vào mùa xuân năm 40 này, bằng máy bay thì mất tám ngày. Chỉ trong vòng một đời người, trái bí ngô đã thành trái dưa rồi thành trái quít. Kể từ sáu năm là khách quen của hãng Air France, ông đã thuộc lòng bài thơ hàng không ấy: sau Athens sẽ là Beyrouth, Damas, Bagdad, Bouchir, Djask, Karachi, Jodhpur, Allahabad, Calcutta, Rangoon, Bangkok, Angkor rồi Sài Gòn. Chừng chục lần cất cánh và hạ cánh kể từ điểm khởi hành, Paris. Những chặng bay giống như những cú nhảy của con bọ chét. Mở hết công suất, con cá voi nhỏ màu trắng thân bọc đuyra bay được với vận tốc hai trăm cây số một giờ. Chậm hơn tàu hỏa ngày nay. Nhưng khi ấy đó là vận tốc không thể tin nổi, làm cho bên dưới khoang người ngồi, ở độ cao vừa phải, cả trái đất đang quay. Lúc nào ông cũng phải biết mọi thứ, Yersin ấy. Trí nhớ của ông về địa danh, tên riêng cũng như các con số, thật vô biên. Ông ghi chép lại giờ giấc, tên của phi công (Couret) và sĩ quan cơ khí (Pouliquen), tình trạng bầu trời và khí tượng, đọc lại những quyển sổ cũ hoặc vì buồn chán lại ghi chép thêm. Mang thói tật của nhà thám hiểm và nhà nghiên cứu, trong đời mình ông đã viết đầy hàng trăm quyển sổ. Ta hãy ngồi xuống cạnh ông, bóng ma của tương lai tay cầm cây bút, hãy đọc trộm qua vai ông, chép lại vào quyển sổ tay bọc bìa da chuột chũi. Ví dụ như trang này, cứ như là hành trình của một máy bay do thám không người lái chuẩn bị xâm chiếm Iran: Djask – k.h. lúc 0h55. Độ cao 1000 m lh50 – Mũi Cướp Biển?, vào Vịnh Ba Tư. 2h – Những ngôi làng nhỏ trên vách đá ven bờ biển. Nước biển xanh ngọc bích đập vào bờ. Các rừng cọ. Thuyền bè. Đá màu ghi. 3h – Bán đảo hoang vu, làng mạc và cọ. Nhiều tàu trên biển. 3h40 – Bình nguyên ở phía Đ., đỡ hoang vu hơn. Nhiều ngôi làng (Chira), gần nửa đường từ Djask đến Bouchir. 5h – Độ cao 1000 m trên các bình nguyên và đồi núi san sát. Nhiều làng mạc. Sông gần như cạn khô chảy từ hướng T.B. sang hướng Đ.N. Đường giao thông. 5h30 – Tiến về thung lũng lớn hướng Đ.N., có dòng sông lớn. Những thửa ruộng bàn cờ. 6h30 – Đến Bouchir, nđ = 27°. Trong những ngày đầu tiên của tháng Sáu năm 40 ấy, ở mỗi chỗ dừng người ta lại chạy bổ đi kiếm tin tức và lo lắng vì tình hình quân sự. Họ được biết rằng quân Đồng Minh đã rút các đội quân thua trận về Dunkerque. Các cảng biển của Pháp bị máy bay oanh tạc. ở Saint-Nazaire, hàng nghìn người sơ tán đã chết trong trận cháy con tàu Lancastria của hãng Cunard. Chỉ còn lại duy nhất nước Anh đối mặt với Đức. Ý tham chiến. Mỗi ngày Yersin lại rời xa lò lửa châu Âu thêm một chút. Ở Calcutta, ráng chiều đỏ sậm trên sông Hằng, ông ngắm nhìn tấm lưới xen kẽ đỏ tía và vàng của vùng châu thổ lúc mặt trời lặn. ông nóng ruột được về tới Nha Trang, ông hoàn toàn có thể chết trong chuyến bay, được chôn cất bừa ở đâu đó tại một chặng dừng. Thay vì một nhà thờ mộ, xin họ dựng ở đó một Viện. Ông đếm từng ngày và từng lần cất cánh như một cậu học trò đợi hè về. Đã gần năm mươi năm nay, lần nào ông cũng quay về Nha Trang và ông muốn chết ở đó. Người ta phát âm là Nia Trang, ông nói rõ như vậy trong thư từ. Ông giải thích với những người nhận thư của mình rằng Alexandre de Rhodes, tác giả bộ từ điển Việt-Bồ-La vào thế kỷ 17, là một thầy tu dòng Tên xuất thân từ Avignon, dùng ngôn ngữ miệt Oc và phát âm “h” mểm. Nia Trang. Lúc nào ông cũng phải biết mọi thứ, Yersin ấy. Chính là nhờ tình bạn của một vị chỉ huy khác của Hãng Đường biển, thuyền trưởng Flotte, người Saint-Nazaire, mà Yersin đã phát hiện ra Nha Trang. Và đã đặt chân đến thiên đường. Ở Hải Phòng Trong ngành hàng hải, người ta không được phép chọn cho mình nơi thuyên chuyển. Tuyến đường sang Philippin không còn mang lại lãi cho hãng. Sau một năm trên con tàu Volga chạy tuyến Manila, Yersin được chuyển di, trở thành bác sĩ đặc phái của tuyến đường Hải Phòng mới mở, trên con tàu Saigon chỉ nhỏ bằng nửa tàu Volga. Đó là một con tàu nhỏ chở hàng và khách, được 36 người, nó di chuyển chậm chạp ven Biền Đông. Không bao giờ quá một ngày hay một đêm ngoài biển. Ăn không ngồi rồi. Cũng như trên một tàu lớn chuyên đi khơi, luật hàng hải quy định trên tàu này phải có một bác sĩ đồng phục trắng gắn lon 5 vạch mạ vàng. Đôi khi ai đó sưng tay hay đau đầu. Chỉ thuyền trưởng Flotte, da như bôi sáp sau làn khói tẩu, có thể gây lo lắng cho Yersin. Viên thuyên trưởng nhún vai. Kể từ khi trôi nổi ở vùng này, ông chưa bao giờ hề hấn gì, bằng chứng đấy. Yersin rỗi việc. “Bọn con đi dọc bờ, vận tốc trung bình khoảng hai đến ba dặm, thế nên phong cảnh liên tục thay đổi. Con giải khuây bằng cách vẽ ký họa dáng mấy ngọn núi mà bọn con đi ngang qua để lần sau có thể nhận ra. Ông thuyển trưởng bảo con lên đài chỉ huy mà vẽ và xin con một bản sao, vì bản đồ hàng hải vẽ vùng bờ biển này đều rất tệ.” Từ mười năm nay, theo lệnh Jules Ferry, hạm đội của đô đốc Courbet, với Loti trong số các sĩ quan, đã chiếm Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thế nhưng người Pháp mới chỉ biết tới dải đất chạy dọc theo bờ biển. Một ngày nào đó sẽ phải vẽ bản đồ hai vùng ấy, nếu muốn đi đường bộ từ đó đến Nam Kỳ. Tuyến đường thương mại vừa mở ra này vẫn còn là cách thức duy nhất nối hai thủ đô thuộc địa, Sài Gòn và Hà Nội. Sáng sáng, viên bác sĩ quàng lên cổ cái dây da của chiếc ống nhòm đi biển, lôi bút chì và giấy vẽ ra. Các hành khách cũng rỗi việc chẳng kém, học đòi theo người Anh, và những người giàu có nhất đã trở thành posh, thuê một cabin bên mạn trái tàu khi khởi hành từ Sài Gòn, rồi chuyền sang mạn phải khi khởi hành từ Hải Phòng. Chỉ thuyền trưởng Flotte và Yersin, ngồi từ đài chỉ huy, mới nhìn được toàn cảnh. Cả lúc đi cùng như lúc về, con tàu thả neo xuống đáy một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng. Họ thả cây neo, cho mấy thuyền nhỏ xuống nước, lắp chốt mái chèo, rồi chuyển mấy cái rương vào một làng chài. “Điểm đầu tiên mà bọn con dừng lại sau Sài Gòn là Nha Trang, đi mất hai mươi tám tiếng mới đến được đó.” Yersin vẽ những cây dừa rất xanh đung đưa và mặt cát óng ánh. “Bọn con là tàu duy nhất đậu lại trong cái vịnh tuyệt đẹp ấy.” Từ Nha Trang, họ đi ngược lên phía Bắc và càng ngày bầu trời càng xám, cho tới cửa sông Hồng và cảng Hải Phòng. ở đó, ghe thuyền đón hành khách và đưa họ về Hà Nội. Yersin mua một con thuyền rồi, cũng như ở Manila và Sài Gòn, đi đi về về bằng thuyền trên các sông nhánh vùng châu thổ. Một tuần sau, họ lại đi về phía mặt trời, phương Nam. Yersin rung chuông báo hiệu giờ khám bệnh. “Đôi lúc hành khách cũng hơi nhiễu, nhưng đó cũng chỉ là một trong những phiền muộn của cuộc sống.” Trên boong, thinh thoảng mấy bà da trắng to lớn, vợ các ông thực dân, giống như những con ngựa cái mồ hôi nhễu nhại ngất xỉu vì say nắng. Nhưng chính thuyền trưởng Flotte mới không được khỏe lắm, nhiều khi phải đứng dựa vào lan can. Không phải dạng người thích than vãn, ông thuyền trưởng, mà chỉ nhún vai rồi lại châm tẩu. Nếu Yersin tuyên bố ông bị bệnh, hẳn người ta sẽ cho ông lên bờ. Nếu phải ngoẻo, thì thà trên biển còn hơn. Hai người trở thành bạn, rồi thành cánh hẩu của nhau. Yersin trang bị cho tàu Saigon một máy lọc nước Chamberland. Lần nào cũng đi qua Nha Trang và lần nào cũng mê hoặc sửng sốt, nên Yersin đã xin được xuống đất liền cùng các thủy thủ lo việc chuyển hàng. Trong đất liền thực vật đẹp rực rỡ, bên trên sừng sững những đỉnh núi mây mù cách đó năm mươi cây số đường chim bay. Tối đến, hai người đàn ông lại trò chuyện với nhau ở khoang riêng. Chưa từng có ai vượt qua dãy núi, bản đồ cũng chưa được vẽ. Thuyền trưởng cảm thấy anh chàng này tương lai không phải trên mặt biển. Ông bèn vi phạm quy tắc, thỉnh thoảng cho phép anh ở lại Nha Trang, chấp nhận cảnh trên tàu không có bác sĩ. Yersin đi khắp vùng đồng quê, tập đi chân đất. vẫn chưa phải là thám hiểm đâu. Trên đài quan sát anh cũng tập luyện, nhờ ông thuyền trưởng già mà học được cách sử dụng kính lục phân để xác định vị trí. Trong cabin của mình, đêm đêm anh nghiên cứu môn trắc địa và thu thập hiểu biết toán học cẩn thiết cho các quan sát thiên văn học. Trên tuyến đường đơn điệu Sài Gòn-Hải Phòng, đi lại chán ngắt, nhờ có thuyền trưởng Flotte mà Yersin đã chuẩn bị cơ sở cho nghiệp vẽ bản đồ và thám hiểm của mình. Ta hãy vinh danh Flotte, người thủy thủ can đảm giữa hàng nghìn thủy thủ can đảm bị lãng quên, vinh danh thuyền trưởng Flotte người Saint-Nazaire. Cả một cuộc đời trên mặt nước, miệt mài trên biển và đại dương, để rồi cuối cùng từ cảng Saint-Nazaire chôn rau cắt rốn, ông đến cảng Bordeaux để chết, trong bệnh viện nhiệt đới. Bác sĩ của người nghèo Sau Calmette là đến Loir. Yersin cảm thấy người ta sẽ không nhả anh ra nữa. Adrien Loir, cháu ruột của Pasteur. Một trong những người đầu tiên của nhóm môn đệ Pasteur. Họ cùng tuổi, từng cùng làm điều chế viên ở phố Vauquelin trước khi tòa nhà trên phố Dutot được xây. Theo lời khuyên của ông bác, Loir liên tục gửi điện cho anh đến trụ sở hãng ở Sài Gòn, nơi anh tới sau mỗi chuyến đi. Loir được cử sang Úc để lập một viện Pasteur, tìm cách tiêu diệt lũ thỏ sinh nở quá nhanh bằng khuẩn tả ở gà. Anh cũng tiêm vắcxin cho chó nhà và chó rừng chống bệnh dại, tiêm vắcxin cho cừu chống bệnh than, bao nhiêu là việc. Anh kêu gọi sự giúp đỡ của bạn đồng môn cũ. Người từng có ham muốn đi xa. Anh đề xuất một cuộc đời sôi nổi hơn những chuyến đi loanh quanh trên Biển Đông, lương lại cao hơn lương bác sĩ trên tàu, với một phòng thí nghiệm tha hồ mà nghiên cứu. Úc là một châu lục đang trên đà phát triển mạnh. Ở đó mọi thứ đều hiện đại, lại có thể xem chuột túi. Anh đưa ra đủ mọi lý lẽ. Yersin đi ngang khách sạn Majestic, ngược đường Catinat, bước vào tòa bưu điện của Gustave Eiffel và tới bàn giao dịch xin một tờ giấy xanh lơ. Anh viết thật nhã nhặn, giãi bày tình bạn, ca ngợi sứ mệnh của Loir, nhưng từ chối sang Sydney. Cũng như anh từng từ chối để xuất của Calmette ở chính Sài Gòn này. Calmette vẫn không thôi chào mời. “Calmette nheo nhẽo hứa hẹn đủ mọi thứ trên trời dưới biển để thúc con gia nhập hải quân thuộc địa.” Yersin tin chắc rằng những năm huy hoàng của nghiên cứu vi trùng đã ở lại sau lưng họ. Thôi rồi thời các nhà phiêu lưu. Thôi rồi công việc đơn độc của những thiên tài thích mò mẫm. “Con biết là ở đỉnh cao của ngành vi trùng học như hiện nay, thì mọi bước tiến lớn về phía trước sẽ thật nặng nhọc, và hẳn ta sẽ vấp phải rất nhiều sai lầm và thất vọng.” Anh không mong muốn trở thành một trong những kẻ cần mẫn ấy. Anh còn trẻ, và nôn nóng, Yersin ấy, anh rất mau chán. Giờ đây khi đã biết đi đất tiến vào rừng rậm, anh sẽ không xỏ vào chân đôi giày của đám nghiên cứu quẩn quanh xó nhà nữa. Anh rời Paris không phải là để lại nhốt mình đâu đó. Anh đã chọn trở thành nhà thám hiểm. Anh đã chọn điều đó trước cả khi thành bác sĩ. Anh đã viết điều này cho Fanny từ Berlin, và giờ đây anh nhắc lại. “Con thấy rằng kiểu gì chăng nữa thì con cuối cùng sẽ dấn thân trên con đường thám hiểm khoa học. Con quá yêu thích điều đó, và hẳn mẹ còn nhớ giấc mơ thầm kín của con là được dõi nhìn từ xa dấu chân Livingstone.” Về Livingstone, chết chừng hai mươi năm về trước, anh biết mọi thứ. Chuyến đi từ Nam Phi tới Angola, hành trình khắp lục địa, đến tận Mozambique. Chữa bệnh cho dân tại các ngôi làng ghé chân. Phát hiện sông Zambèze và không ngừng tìm kiếm nguồn sông Nil. Cuộc gặp bên bờ hồ Tanganvika với nhà báo Stanley, người được cử đi tìm ông. Doctor Livingstone, I presume? Lời từ chối trở về của ông. Cái chết của ông một năm sau đó. Xác ông được moi hết nội tạng nhờ Chuma và Susi trung thành và đống nội tạng được chôn dưới một gốc cây. Hài cốt khô được hai người đó chuyển đi bằng đòn gánh tới Bagamoyo và Ấn Độ Dương để giao cho đám người Anh ở Zanzibar. Đám tang trong tu viện Westminster và Stanley túc trực bên linh cữu. Here rests David Livingstone. Missionary. Traveller. Philanthropist48. Trong khi chờ đợi khám phá những miền đất lạ, như người hùng của mình, Yersin trở thành bác sĩ cho người nghèo mỗi lần anh đến sống ở Nha Trang. “Mẹ hỏi con có thích hành nghề y không. Có và không. Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng con không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là sẽ không bao giờ con có thể đòi một người bệnh trả tiền cho con vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học giống như một điều thiêng liêng, cũng như nghề mục sư ấy. Nếu phải được trả tiền thì mới chữa cho bệnh nhân, thì cũng gần như bảo anh ta muốn sống thì đưa tiền ra đây.” Yersin tiếp tục đi lại trên tàu Saigon và Hãng Đường biển trả lương cho anh, số tiền ấy giúp anh lúc này không phải đòi tiền khám bệnh. Cả đời mình anh sẽ tìm mọi cách để giữ được vị thế xa lạ với kinh tế và chính trị. Một tín đồ chân chính của Nhà thờ Tân giáo Tự do vùng Morges và của tấm gương Livingstone, cũng là bác sĩ, nhà thám hiểm và mục sư. Khi rốt cuộc cũng xuống ga Nha Trang vào mùa xuân năm 40 ấy, quay về Xóm Cồn, bởi sau tám ngày đi đường, chục lần cất cánh hạ cánh, từ biệt con cá voi nhỏ màu trắng thần bọc đuyra đậu xuống sân bay Sài Gòn, ông già mang chòm râu trắng này đi tàu hỏa để tới vịnh nước huy hoàng và yên bình, ông chậm rãi bước di bên bờ kè chắn sóng, dân chài chào ông. Họ là cháu nội ngoại của những dân chài từng tiếp đón ông xưa kia. Đây là lần quay về cuối cùng của bác sĩ Năm tốt bụng, đó là cái tên ở đấy người ta dùng để gọi ông, Bác Năm, vì ông có cái lon 5 vạch mạ vàng trên bộ đồng phục trắng, dù từ thế kỷ trước ông đã không còn vận bộ đồng phục đó nữa rồi, thời ông còn là chàng thủy thủ lịch duyệt râu đen và mắt xanh chữa bệnh cho ông bà của họ. Ông bước vào ngôi nhà vuông dựng ngay trên bờ nước của mình. Chính ông đã vẽ nó, cách đây lâu lắm rồi. Một khối lập phương, hợp lý. Trên mái là vòm của trạm thiên văn của riêng ông. Cả ba tầng đều có một hành lang chạy vòng quanh dưới mái và có cột chống. Lần này người ta lo sẽ không bao giờ còn được gặp lại ông nữa. Ông bỏ hết đồ trong vali ra, sắp xếp đống dược phẩm mà ông sẽ phải sử dụng hết sức dè sẻn. Ông ngồi ở hàng hiên trên cái ghế bập bênh, nhìn ra biển. Nắng đùa giỡn trong đám dừa và vịnh nước tráng lệ. Gần ông, những chuồng chim ồn ĩ và sặc sỡ, cùng con vẹt của ông. Sáng sáng, ông nghe đài để biết tin tức buổi tối ở Paris. Giọng của Thống chế tuyên bố dâng hiến thân mình cho nước Pháp và đang sắp sửa ký hiệp ước đình chiến nhục nhã ấy. Nước Pháp đã thua trận. Thụy Sĩ trung lập. Nước Đức chiến thắng. Chiến dịch nước Pháp vừa làm hai trăm nghìn người chết trong vòng vài ngày, ngang với nạn nhân của một bệnh dịch, dịch hạch nâu. ông biết rõ rằng cuộc chiến tranh, bởi đó là thế chiến, rồi đây cũng sẽ lan tới Nha 48 Tiếng Anh: Nơi đây yên nghỉ David Livingstone. Nhà truyền giáo. Người du hành. Nhà từ thiện. Trang. Người Nhật, đồng minh của người Đức, một ngày nào đó sẽ đổ bộ vào Xóm Cồn. Là chuyên gia lão thành về bệnh dịch, Yersin không quên rằng cái tồi tệ nhất luôn là cái chắc chắn nhất. Già đi là chuyện vô cùng nguy hiểm. Thật cũng chẳng tệ, với một số người, được chết khi còn trẻ đẹp. Nếu không mắc chứng hoại thư, giờ này Arthur Rimbaud chỉ hơn Philippe Pétain có hai tuổi. Yersin thì đã bảy mươi bảy. Ở Nha Trang, ông lại tiếp tục cuộc đời thanh đạm của mình. Ông sẽ không rời ngôi nhà vuông cho tới khi qua đời, bao nhiêu thời gian nữa cũng được. Lần đầu tiên, ông thấy có chút do dự. Phiêu lưu như thế nào ở tuổi già này. Ông biết rằng mình chỉ còn rất ít thời gian. Đã từ lâu, người ta hối thúc ông viết hồi ký. Nhóm Pasteur. Không thực sự định làm vậy, nhưng ông cũng sắp xếp lại đôi chút đống giấy tờ lưu trữ của mình, mở những cái rương cũ. Chỉ đọc lại những quyển sổ thám hiểm của mình, khi mà thêm một lần nữa người ta muốn ông kể lại câu chuyện vĩ đại về dịch hạch. Yersinia pestis. Trường chinh Ở tuổi hai mươi chín, Yersin muốn quên khoa học, hết rồi, vi khuẩn học, nghiên cứu, anh đã thay đổi cuộc đời, đã chọn biển, anh đã biết đến niềm hạnh phúc của bờ kè và cần cẩu, những lần lên tàu lúc bình minh, những chuyển động của tàu thuyền, tiếng hát tối tối trên những con sóng vàng mềm mại của xứ Á châu. Nhưng mới đi thuyền được hai năm, anh đã thấy chán. Dù thích sự chính xác trong ngôn ngữ hàng hải và cảnh tất bật của những cảng biển to lớn mà Cendrars49, một người Thụy Sĩ khác, sẽ miêu tả, nhưng anh không hình dung được là mình làm đến già trên đài chỉ huy như ông thuyền trưởng Flotte chất phác. Anh gửi đơn xin tạm nghỉ việc tới Hãng Đường biển. Đơn được chuẩn y. Thế là anh vừa thoát khỏi Viện, vừa thoát khỏi Hãng. Ở bất kỳ một công việc nào người ta có lẽ cũng chê anh là bất ổn. Anh để lại sau lưng các công trình về bệnh ho lao và bạch hầu. Anh là một nhà bác học được chính Pasteur đào tạo, một bác sĩ trên tàu tuyệt hảo. Người ta bớt quấy rầy anh, vậy là Yersin thắng rồi. Giờ đây hoàn toàn làm chủ thời gian, anh rời Sài Gòn đến sống hẳn ở Nha Trang, trước hết cho dựng một ngôi nhà bằng gỗ trên Xóm Cồn, mở ra ở đó một dạng phòng khám. Bác sĩ Năm là bác sĩ Tây đầu tiên của cả vùng. Giờ đấy không còn nguồn thu nhập nào nữa, anh tìm cách, tuy chẳng mấy tin tưởng, thiết lập chế độ khám bệnh trả tiền đối với những người có máu mặt đủ phương tiện chi trả, tiếp tục chữa bệnh không lấy tiền cho người nghèo, nhưng lại không phân biệt được hai hạng người, và vẫn tiếp tục luyện tập điền dã. Anh đi hàng trăm cây số trong các vùng đồi núi, vào ở trong các ngôi làng người Mọi, học chút ít ngôn ngữ của họ, thực hành săn bắn và y khoa ở chỗ họ. Anh tính rỗi một ngày sẽ tổ chức các chiến dịch tiêm phòng vắcxin, học cách sử dụng giáo và nỏ, đổi lại thì dạy họ sử dụng như trong ảo thuật con dao Thụy Sĩ nhiều lưỡi của mình, và thỉnh thoảng qua Nha Trang. “Bệnh nhân An Nam từ khắp nơi đổ về đây, những lúc con không đi chơi đâu đó. Nói cho đúng, họ lợi dụng hiểu biết khoa học của con, nhất là những lúc, để trả tiền con, họ lại thân ái đánh cắp ví của con. Nhưng biết làm sao bây giờ, trong óc họ, ăn cắp tiền của một người Pháp là một hành động tốt. Vả lại, người Pháp đến xứ Đông Dương này để làm gì đây, nếu không phải là ăn cắp của người An Nam?” Trước khi món tiền tiết kiệm còm cõi bay hơi hết, anh mua trang thiết bị, lên kế hoạch cho chuyến đi thực thụ đầu tiên. Sau biển, rồi rừng quang, anh muốn đi xuyên rừng rậm, trèo lên những 49 Blaise Cendrars (1887-1961), nhà văn người Thụy Sĩ nhập tịch Pháp rất nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết kể về cuộc đời lông bông khắp thế giới của mình. ngọn núi mỗi lúc một cao hơn. Không có tờ giấy công lệnh nào, nhưng anh lại có được sự trợ giúp của người Mọi, họ nhận lời dẫn đường cho anh ở các chặng đầu. Anh muốn từ Nha Trang và Biển Đông, đi qua dãy núi Trường Sơn để tới được sông Mê Kông ở phía bên kia. Người ta sẽ không sớm gặp lại anh, cũng có thể chẳng bao giờ nữa. Anh mang theo một phiên dịch và năm người để mở đường. Anh đeo trên người những túi da đựng thời kế dùng đi biển và máy kinh vỹ. Trên lưng anh là một khẩu Winchester, để săn bắn, anh hy vọng thế. Anh đã mua mấy con ngựa và hai con voi, lên đường đi về hướng Tây Bắc. Mỗi chặng sẽ tương đương với ba tiếng cuốc bộ. Lần này, anh tiến thẳng về phía trước, cấm mình quay trở lại. Cưỡi ngựa là cách tốt nhất để tránh lũ đỉa, cho ngựa đi trên các lối nhỏ, rồi cầm cương dắt vì đâu còn lối nữa. Đi theo sau là mấy con voi nặng nề, và với chúng thì cán phát quang những rặng tre và bụi rậm. Các chiến binh Mọi đã quay về từ lâu. Bám trên quần áo anh là những loài côn trùng mà ngay cha anh cùng chưa từng biết đến. Tối tối, họ dùng một chút rượu gạo cho lên tinh thẩn, đốt lửa, mắc màn, thổi sáo. Hôm sau, khi lại gần một ngôi làng, khác hẳn với Mayrena tức Marie Đệ Nhất thường chia đạn chì cho dân, họ tặng thuốc mỡ và ký ninh. Kiểm kê xong, các dụng cụ và thiết bị chụp ảnh được gói ghém lại thật cẩn thận, bọc trong vải bạt để khỏi bị mưa. Họ dập than và chất đồ lên lưng voi. Cứ thế họ thẳng tiến. Tới các vùng đất còn chưa có tên thuộc những tộc người hung tợn, không có đàn violon cũng không có thư alexandrin. Họ tiến lên theo hướng kim la bàn hàng hải. Cuối cùng cũng giống cuộc đời thực sự tự do và vô tư. Mở đường, vạch lối đi về phía chưa biết, nêu không phải là về phía Thượng đế hoặc bản thân mình. Bí hiểm nho nhỏ nực cười về chính mình. Cái mà người ta đã không thể giải được trong một nhà thờ Tin Lành mờ tối ở bang Vaud. Ở Phnôm Pênh Sau khi vượt những con đèo cao hơn hai nghìn mét, họ lại xuôi xuống, về phía những cánh rừng lá kim lạnh lẽo rồi rừng rậm ẩm ướt, về phía những cánh đồng lúa loáng nước như kính vỡ nhìn thấy từ xa, trong đồng bằng phía dưới. Nhúm người cuốc bộ kiệt sức đến được sông Mê Kông ở quãng Stung Streng, ba tháng sau khi rời Nha Trang. Yersin bán lại mấy con voi và lũ ngựa, cho bầu đoàn gọn nhẹ của mình lên một con thuyền độc mộc dài. Suốt chặng đường vừa rồi, anh đã đi bộ, lúc nào cũng ở phía trước cả đoàn, để thời kế không bị ảnh hưởng và rồi rốt cuộc anh cũng ngồi xuống, để mặc cho dòng sông mênh mông màu ngọc đưa mình đi. Nơi khi ấy là bờ kè mang tên Piquier, dọc theo bến cảng đậu thuyền đã bị lấp từ lâu, bây giờ là phố 108, không xa Vat Phnom và khu phố của người Pháp, khách sạn Royal, và ngày nay là Viện Pasteur và bệnh viện Calmette. Nhưng, khi Yersin tới đây, Phnôm Pênh còn là một thị trấn hoang vắng. Sau ba tháng cuốc bộ, anh đến trình diện các nhà chức trách Pháp. Người ta tổ chức một bữa tiệc tiếp đón ở nhà khâm sứ Cao Miên, Louis Huyn de Verneville, chắc hẳn là một bữa tối nơi thực khách ăn vận sang trọng và ngồi dưới quạt trần. Anh chàng người Vaud không khoái gì cái gu đầy nghịch lý này của người Pháp, họ giết vua nhưng lại thích đám tàn dư quý tộc ẩn náu trong giới nhà băng hay ngoại giao. Họ ngồi thật sâu trong những chiếc ghế bành bọc da trâu. Yersin là nhà du hành đầu tiên đi đường bộ nối bờ biển Trung Kỳ với Campuchia. Lối vào vương quốc người Khmer duy nhất mà người ta biết là đường sông. Các gia nhân vận trang phục truyền thống rót rượu sâm banh. Người ta hỏi anh về chặng đường chưa ai biết, đám đàn ông đàn bà man dã. Nhưng Yersin có cách trò chuyện, những lúc anh chịu nói, mang đầy tính chất khoa học, như thư từ của anh. “Ở bất kỳ đâu có thể, con đều cố gắng tổng kết: gần như tất cả các vĩ tuyến của con đều được xác định bằng một loạt điểm mốc địa cực, cách làm này tuyệt hảo, vì sự quan sát lặp đi lặp lại khiến cho các kết quả chính xác hơn hẳn. Con đàm bảo chúng chỉ chênh lệch với thực tế khoảng 20”. Đương nhiên, kinh độ thì phụ thuộc vào việc thời kế của con có chạy ổn định hay không: con kiểm tra nó mỗi lúc buộc phải ở lại đâu đó nhiều ngày, và con thấy nó khá là ổn định, có thể đảm bảo các kinh độ của con chỉ chênh lệch với thực tế khoảng 4”“. Đây là một thứ thơ ca hữu dụng. Chẳng mấy mà chán ngắt. Đám khách mời mù tịt trước thứ văn chương nằm ngoài chủ nghĩa lãng mạn này. Họ ngó cánh quạt trần hay mõm đôi giày đánh xi bóng của mình, uống thêm chút rượu sâm banh, châm một điếu thuốc. Từ những cửa sổ cao, họ nhìn xuống mặt nước dát vàng của dòng Tonle-Sap ở đoạn hợp lưu với sông Mê Kông, đoàn sư sãi áo vàng đang đi lên chùa Vát Phnom. Yersin cũng thấy chán và bữa tiệc kết thúc. Họ chuyển sang rượu ápxanh. Họ bỏ ý định tổ chức một buổi khiêu vũ chào mừng anh. Với anh chuyện ấy chẳng hề hấn gì, và anh đang sốt ruột. Anh không hiểu tại sao người ta lại vỗ tay hoan hô, khen ngợi anh. Đơn giản như chuyện bạch hầu vậy thôi. Chỉ cần quan sát và cuốc bộ, nhấc đít khỏi cái ghế phô tơi bọc da trâu. Ta đã biết sự kinh ngạc của các nhà toán học khi thấy mọi người xung quanh họ không phải ai cũng biết giải dù chỉ là một phương trình bậc ba, niềm kinh ngạc thành thực mà người ta cứ tưởng là kiêu ngạo trong khi nó chỉ là ngây thơ, niềm kinh ngạc của những kẻ thấy rằng không phải mọi người đều bình đẳng với họ, rằng điều này vi phạm những nguyên tắc nền tảng của nền Cộng hòa, trong khi đó người ta lại dễ chấp nhận rằng không phải ai cũng chạy được một trăm mét trong vòng mười giây, cả nỗi bực bội của những kẻ có trí nhớ siêu phàm nữa, khi họ phải ghi nhận là nói chung người ta rất mau quên. Yersin và đồng bọn quay vể Sài Gòn trên một tàu khách qua ngả châu thổ sông Mê Kông. Anh viết báo cáo, ghi chép các quan sát dân tộc học và địa lý, minh họa chúng bằng gần một trăm năm mươi bức ảnh mà anh tự rửa tại nhà ở Nha Trang. Anh vẽ những tấm bản đồ chính xác về chặng đường mình đã đi qua, chúng được gửi sang Luang Prabang bên Lào, tại đó chúng được đối chiếu với những ghi nhận của Phái đoàn Pavie. Văn bàn được gửi về Paris. Đừng chờ đợi cái gì thật đẹp đẽ mỹ miều nhé. Mà chính xác như một sơ đồ của môn đệ Pasteur, một sự ngợi ca vinh quang của chiếc thời kế mua ở tiệm Vacheron, của chiếc phong vũ biểu “được chỉnh theo phong vũ biểu của Đài thiên văn Manila”. Những ghi chép này quá khoa học, ngay cả đối với một tờ tạp chí truyền bá khoa học như Vòng quanh thế giới. Không có vật nhau với hổ, cũng không có nàng công chúa bản địa uể oải vú nhọn. Tuy nhiên, các tờ báo chính quốc đã thông báo về chiến công ấy, nhưng không đi sâu vào chi tiết. Yersin được mời về Paris. Pasteur nhất quyết đòi lại cho anh căn phòng ở Viện, cái nôi. Khách sạn Lutetia còn chưa có. Báo cáo của anh về chuyến đi được đăng trên tạp chí của Hội Địa lý, tờ này năm nám trước đó đã đăng câu chuyện của Arthur Rimbauđ về cuộc thám hiểm châu Phi của chàng, Báo cáo về Ogadine, nay là Ogaden. Đại lộ Saint-Germain, Yersin bước vào cổng Hội Địa lý, nơi có hai bức tượng nữ, một đỡ lấy trái đất một đỡ biển cả. Ở buổi nói chuyện của anh, ngồi sát bên nhau là nhóm nhỏ phố Dutot và nhóm nhỏ phố Mazarine, các nhà bác học đồ đệ của Pasteur – và trong số họ có cả Émile Roux, vừa tắt chiếc đèn Bunsen và treo cái blu trắng lên mắc áo của tiền sảnh phòng thí nghiệm – và các nhà địa lý chuyên thám hiểm – trong số họ có cả Auguste Pavie, phó lãnh sự Luang Prabang, vừa từ Lào về. Ta phải kinh ngạc trước tài năng của chàng thanh niên này trong việc tụ họp các nhóm nhỏ, giống như Paul Gégauff thế kỷ tiếp sau sẽ hợp được nhóm Làn Sóng Mới và nhóm Tiểu Thuyết Mới. Các nhà báo, vì cần đem tính hiệu quả cho những bài báo của mình, hơi mang chất hí họa và thích xem tướng, rất tò mò xem anh chàng này trông ra sao. Họ đã thất vọng. Không phải mặt một nhà bác học điên điên, cũng không phải mặt của kẻ phiêu lưu. Một chàng thanh niên bình thản và kiên quyết có cái nhìn trong vắt, mắt xanh, chòm râu đen xén tỉa gọn gàng. “Buổi tối, con ăn ở nhà Pasteur, ông ấy rất thích các câu chuyện du hành.” Chính anh gác cổng trẻ, Joseph Meister, khi ấy mười sáu tuổi, mở cửa cho anh và đỡ lấy áo choàng. Yersin ở lại Paris ba tháng, ghi tên theo học ở Đài Thiên văn Montsouris. Giờ đây không còn nguồn thu nhập nào nữa, anh lao vào tìm kiếm ủng hộ và tài trợ để chuẩn bị cho những chuyến du hành mới, từ chối gia nhập Phái đoàn Pavie. Anh hiểu quá rõ César. Thà là người số một ở Nha Trang còn hơn là người thứ hai ở Luang Prabang. Anh lại nhờ Pasteur hỗ trợ. Bức thư thứ hai này nhiệt tình hơn nhiều so với bức thứ nhất gửi Hãng Đường biển. “Bác sĩ Yersin nhờ tôi tác động để được ngài Bộ trưởng Ngoại giao giúp đỡ. Tôi làm việc này với lòng tin tưởng hoàn toàn và vô cùng sốt sắng. Bác sĩ Yersin đã làm việc ở Viện Pasteur trong hai năm với thành công rất lớn. Ông đã cùng bác sĩ Roux hoàn thành một công trình bậc nhất về bệnh bạch hầu: những hiểu biết rất lớn của ông về y học đã khiến ông xứng đáng có được danh vị bác sĩ. Tương lai bác học của ông hẳn sẽ rất xuất chúng. Nhưng đột nhiên, sau khi đọc rất nhiều sách, ông bỗng có ham muốn du hành cháy bỏng và không gì giữ nổi ông lại với chúng tôi. Tôi có thể chứng nhận rằng bác sĩ Yersin là một người hết sức nghiêm túc, vô cùng trung thực về mọi mặt, can đảm đặc biệt, sở hữu những phẩm chất vừa đa dạng vừa cụ thể, nói tóm lại là có khả năng mang lại vinh hạnh lớn cho đất nước chúng ta. Thêm nữa, chỉ cần đọc bàn báo cáo gửi kèm theo đây về chuyến du hành của ông đến sông Mê Kông để ngay lập tức có được đánh giá đúng nhất về những phẩm chất trong du hành và thám hiểm của bác sĩ Yersin.” Anh hy vọng bức thư này mang lại một khoản tiền khá. Cuối cùng té ra cũng chả bõ bèn gì. Trong chuyến lưu lại châu Âu đầu tiên kể từ khi bắt đầu đi biển này, Yersin về Morges, ôm hôn Fanny, rồi với số tiền chẳng bõ bèn gì, đến hiệu Vacheron mua một thời kế mới và một điện lượng kế, nhiều nhiệt kế, ở hiệu Mayor thì mua hai khẩu súng săn và đạn. Ngồi trong phòng khách nhỏ đầy hoa của Nhà Cây Sung, giữa đám báo chí, trước mặt Fanny và các cô gái con nhà lành, anh mở đống sổ ghi chép của mình ra đọc, việc này như ta đã thấy, nhanh chóng trở nên nhạt nhẽo. Họ muốn xem cái gì có hình ảnh. Yersin bèn cho họ xem ảnh chụp những người đàn bà Mọi, bị Fanny lấy ngay khăn phủ lên, còn các cô gái đỏ lựng mặt vì đã được dạy như thế. À ra là, Alexandre của bà, thằng bé hát lễ ở Nhà thờ Tân giáo Tự do, giờ đi chụp ảnh những phụ nữ đen sì cởi truồng. Một Livingstone mới Kể từ bấy, sẽ là như thế, cuộc đời Yersin. Anh bây giờ là nhà thám hiểm và chuyên gia đo đạc, do toàn quyền bổ nhiệm, ông đang cúi xuống bên cạnh anh, bút chì trên tay, trong một phòng làm việc ở Sài Gòn, phía trên các bản đồ hải cảng kỳ quặc và bí hiểm của Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Lào. Họ đang ở tại một đất nước đã bị chinh phục nhưng vẫn xa lạ. Các viên tướng La Mã sau trận Alésia trước một bức phác họa xứ Gaule và xứ Germanie. Họ tự hỏi ở đâu có thể tìm thấy các khoáng chất và có lẽ cả vàng, ở đâu có thể dựng thành phố, cắt đặt quân đồn trú. Họ cũng giống chúng ta, giống mọi nhà chinh phục, những đứa trẻ mơ mộng trước những tấm bản đồ sặc sỡ, trước những quyển atlas, trước cái màn sân khấu như bị quẳng lên Trái đất để diễn tả nó. Từ Phnôm Pênh rồi từ Paris Yersin đã quay về, anh đã tra cứu các bản thảo trong thư viện của Hội Địa lý, những ghi chép đầy hoang tưởng của các nhà truyền giáo, hình dung ra chặng đường của các chuyến du hành sắp tới. Tất nhiên môn vi trùng học, anh cũng hơi tiếc một chút, cũng như nghề đi tàu biển. Trí tò mò của anh có tính bách khoa toàn thư. Anh hoàn thành nhiệm vụ của mình trong hai năm. Người ta cấp cho anh vật dụng và nhân lực, tiền cùng vũ khí. Để đổi lại, người ta yêu cầu anh trên đường đi nghiên cứu tìm những con đường mới cho việc thương mại, chỉ ra những nơi thích hợp để nuôi gia súc, kiểm kê tài nguyên rừng và khoáng sản. Đây vẫn là tư tưởng của Saint-Simon về đề cao của cải của Trái Đất. Rồi một ngày sẽ phải sáng chế ra lốp, và xe tải kéo rơmoóc, để đẩy nhanh quá trình khai thác gỗ. Ta vẫn đang ở vào thời con người hoàn thành nốt công trình làm chủ và sở hữu thiên nhiên. Thời thiên nhiên vẫn còn chưa là một bà già ốm yếu cần bảo vệ, mà là một kẻ thù đáng gờm cần chiến thắng. Tối đến ở chỗ dựng trại, anh đặt những bản phác họa lên đầu gối, đánh dấu những dòng suối sẽ biến thành thác bùn vào dịp gió mùa, cần có những cây cầu để vượt qua. Anh đã đến những ngôi làng người Chăm, thâm nhập nền văn minh Chămpa cổ xưa, hậu duệ xa xôi của người Mã Lai, trước cả người Khơme và người An Nam, bởi lúc nào cũng thế, những kẻ xâm lăng, nếu đông con nhiều cháu, cuối cùng lại trở thành những kẻ bị xâm lăng. Trong vòng hai năm, anh biết đến những bình minh lạnh giá co ro trên dỉnh Trường Sơn. Trong rừng rậm, buổi đêm cắm trại ở giữa vòng lửa để xua đuổi thú dữ. Những cuộc đi săn trên đồng cỏ và những đợt sốt rét, những cơn sốt lạnh giá dưới những cơn mùa ấm. Những cuộc thương thuyết và rượu gạo chuyền tay nhau, những tấm bùa và cắt máu tay kết mối giao hảo, một cách thức rất ít chất Pasteur, nhưng Yersin mang theo trên người các sản phẩm thần diệu và sát trùng của trường phái Pasteur do Calmette chế ra ở Sài Gòn. Công trình thám hiểm phát triển dần: quanh lũ voi và bầy ngựa nhỏ bé thắng yên cương, những thú vật mà họ sẽ nướng trên đường đi, các lồng gia cầm, những người khuân vác và những người mở đường. Đôi khi đó là cả một dây tám mươi người đi quanh co dưới tán lá rừng. Ta nhìn thấy Yersin trên một bức ảnh chân dung tự chụp, đội một mũ vải rộng vành và vận một áo Tàu cài khuy cao đến tận cổ. Trước mặt anh đám lá cọ rẽ ra và trong thoáng chốc anh ngừng bước, đặt lên cái giá ba chân chiếc hộp lập phương lớn bằng gỗ đánh vécni. Stop. Nhìn ảnh nhé. Ta hãy miêu tả chi tiết những vật dụng anh mang trên người: sợi thực vật để dệt quần áo, kim loại và thủy tinh để làm công cụ, da thuộc, da thú thuộc để làm thắt lưng và túi đeo, tất tật những thứ đã được biết đến từ thời Cổ đại, cũng như ngựa và voi, chưa có nhựa và sợi tổng hợp. Play. Yersin lại lên đường và màn lá cọ sau lưng anh khép lại. Trong hành trình lần thứ hai này, sau khi họ trèo lên một ngọn núi tua tủa lá kim, một bình nguyên đầy cỏ xanh mở ra trước mặt họ, trải rộng đến tận chân trời, ở độ cao trên một nghìn mét, trong cái lạnh. Ớ chính giữa là một dòng sông. Khung cảnh thật giống xứ Thụy Sĩ. Khi trở về, Yersin nhớ rằng “cảnh tượng gợi đến mặt biển đang cồn lên dưới một đợt sóng lừng uốn lượn màu xanh lục”. Anh phát hiện ra cao nguyên Lang Bian. Và bốn năm sau đó, Paul Doumer, toàn quyền mới nhậm chức, sau khi đọc bàn báo cáo của Yersin, muốn đích thân đến đây để nhìn tận mắt. Doumer đang tìm cách xây tại Đông Dương một nơi nghỉ trên núi để đón tiếp các nhà thực dân mệt mỏi và mắc chứng sốt rét, một nhà an dưỡng và một khu liệu dưỡng viện. Hai người tiến hành việc lên đó, có một đội quân nhỏ đi theo. Paul Doumer tượng trưng cho các ông giáo vận áo rơđanhgốt đen của Đệ Tam Cộng hòa và của chủ nghĩa bình quân dân chủ. Được người mẹ góa làm nghề giúp việc nuôi dưỡng, đứa con trai nguồn gốc hèn kém trở thành công nhân rồi thầy giáo rồi dân biểu. Ông gia nhập hàng ngũ cánh tả cấp tiến. Ông khuyến khích phát triển khoa học và vệ sinh. Ông quyết định xây một làng trên núi trong cái mát dịu của Lang Bian. Hai người đó, đứa trẻ mồ côi ở Morges và đứa trẻ mồ côi ở Aurillac, sẽ là bạn của nhau cho tới khi Doumer qua đời. Bạn lâu năm. Bởi sẽ rất dài và xuất chúng, sự nghiệp của Doumer. Khi đang là Tổng thống, năm ba mươi hai, ông bị bắn gục dưới nhiều phát đạn của một người Nga nhập cư, Pavel Gorguloff. Xảy ra rất lâu sau vụ ám sát bằng súng nhằm vào anh trai của Calmette trong phòng làm việc tại trụ sở tờ Le Figaro và vụ ám sát Jaurès trong quán rượu của ông. Những trò chính trị bẩn thỉu ấy. Ở Đà Lạt Rồi bốn mươi năm sau, giữa thập kỷ ba mươi, ba năm sau khi Doumer bị ám sát, Yersin vẫn còn sống, và nơi ấy đã trở thành Đà Lạt. Ven hồ, những biệt thự kiểu Normandie và Biarritz. Trên đồi, những nhà gỗ kiểu Savoie. Những khóm hoa tú cầu, kim liên và tử dương như ở Dinard. Một đường tàu có ray răng cưa leo lên vùng cao nguyên trước kia không người, đến một nhà ga, giống như nhà ga Pointe-Noire bên Congo, là bản sao của nhà ga Deauville. Viện Pasteur quản lý bệnh viện. Một tu viện được khánh thành, nơi các bà xơ sẽ hát kinh sáng và kinh ngợi ca, Tu viện Chim non, cùng một trường trung học cho hàng trăm học sinh, ngôi trường được ông già Yersin, người khám phá ra cao nguyên, chấp thuận cho mang tên mình. Một bữa tiệc được ông toàn quyền mới tổ chức, dưới vòm trần trang trí đá hoa cương của Lang Bian Palace ngay giữa trang viên trồng bách, thông và sam, thoai thoải chạy xuống bờ hồ. Hoàng đế Bảo Đại, có dinh thự mùa hè ngay bên cạnh, nơi thi thoảng ngài ngự mỗi khi không bận tới sòng bạc Monaco, nhân bữa tiệc trao cho ông già Yersin Long bội tinh của Nam triều. Ngồi sau cái quầy gỗ tròn đánh vécni, đối diện với tủ sách của khách sạn, phía bên kia hàng cột đá hoa cương, bóng ma của tương lai nghe lắng diễn văn của ông hoàng bù nhìn vận comlê trắng và giày hai màu của dân ma cô. Lửa bập bùng trong lò sưởi. Thảm, đồ thếp vàng, trướng phủ tường và bình sứ Tàu cùng phái đoàn chính thức và cánh nhà báo: tất tật được chở từ biển lên bằng con tàu chạy trên đường ray răng cưa, bóng ma của tương lai đã trà trộn vào đó. Khi trường trung học Yersin ở Đà Lạt được khánh thành, cái năm ba mươi lăm đó, Yersin đã bảy mươi hai tuổi. Họ đi tìm rồi mời đến những người Mọi già từng gặp ông trong lần thám hiểm đó, khi ở đây mới chỉ có cỏ xanh và lũ thú săn. Yersin trông thật ngượng nghịu trong bộ comlê đen đeo dải Long bội tinh đỏ và vàng, phần nào cũng hơi rối trí vì không thể nói điều mình cảm thấy trong thâm tâm, trước mặt hoàng đế Bảo Đại và giới chức Pháp cùng An Nam đang tán tụng mình. Trước đây ông yêu quý vùng cao nguyên hơn. Làn cỏ xanh uốn lượn. Ông hơi tiếc vì đã khám phá nó, vì đã chỉ chỗ nó cho ông bạn Doumer của mình. Cao nguyên này, lẽ ra phải để nó lại cho các tộc người miền núi. Ông đọc bài diễn văn cảm tạ ngài toàn quyền và ông hoàng đế bù nhìn, nhưng trong lòng không nghĩ thế. Ông là như vậy, Yersin, ông ca ngợi sự tiến bộ khi nào ông là người thúc đẩy nó. Với tuổi tác, nỗi tiếc nhớ đã thắng thế trong ông. Dưới những chùm đèn pha lê, gần cây đàn piano, ông già deo dải băng đỏ và vàng dõi cặp mắt xanh nhìn ra mặt nước hồ xanh. Một ảo ảnh thoáng qua về Morges và Nhà Cây Sung. Ông nhìn thấy lại Doumer đã chết vì mấy trò chính trị. Vào giữa những năm ba mươi này, châu Âu lại lần nữa tiến gần tới chiến tranh. Ở đây, người ta làm ra vẻ không biết gì. Họ vỗ tay, nâng sâm banh trong tòa nhà điền viên kiến trúc Art-Déco vô tư lự dưới hàng thông. Trước đó, ông viết cho Calmette: “Tôi thấy Đà Lạt thay đổi quá và đang trở thành một thành phố thời thượng. Anh biết tôi khá đủ để hiểu rằng những cải tiến ấy, dù cần thiết, chẳng làm tôi thích thú.” Ông thích Dankia hơn, ngôi làng người Mọi cách đó chừng chục cây số, “những ngọn đồi lớn trơ trọi giờ đá phủ cỏ xanh, rừng cuối chân trời, khi đứng trên đỉnh ngọn đồi cao nhất, phong cảnh đặc biệt làm tôi nhớ đến những vùng cỏ chăn nuôi ở núi Alpes và núi Jura”. Yersin nhớ lại, như một giấc mơ, lần đầu tiên ông băng qua cao nguyên Lang Bian hoang vắng, nhớ làn cỏ xanh cao hoang dại. Hồi ấy ông chưa đầy ba mươi. Quả thực, giả thử lúc ấy mà ông chết, Yersin, người không hề viết tập Khải thị50 giả thử ông chết vào thời ấy dưới những nhát chém của tên cướp Thục, hẳn cuộc đời ông sẽ chỉ được gói gọn như thế này trong lịch sử y học và lịch sử địa lý: đã khám phá độc tố bạch hầu, cấy bệnh lao thực nghiệm lên thỏ, vạch ra con đường đi từ Trung Kỳ sang Campuchia, và tìm được một chốn nhỏ bé xinh đẹp để dựng lên một thành phố nghỉ dưỡng kiểu Thụy Sĩ bên châu Á. Bóng ma của tương lai, cái tay ký lục cầm quyển sổ bìa bọc da chuột chũi theo chân Yersin từ Morges, từng đến Zur Sonne bên Marburg, Lutetia bên Paris, Royal bên Phnôm Pênh, Majestic bên Sài Gòn, giờ đây là Lang Bian Palace ở Đà Lạt, tự nhủ xét cho cùng thì theo chân con người này cũng là một việc dễ chịu. Những cơ sở thật hoành tráng. Buổi chiều hôm ấy, hắn ta dạo ven bờ hồ. Vậy là những năm ba mươi, từ chốn hư vô một thành phố đã mọc lên trên cao nguyên xanh rì. Kể từ đó Đà Lạt đã đổi chủ đổi dân nhưng không đổi cảnh. Một dạng Bagnoles-de-l’Orme ở Normandie hay Cambo-les-Bains ở xứ Basque. Ở đây, cách xa các trận đánh, ba mươi năm chiến tranh Việt Nam đã trượt đi như nước rơi đầu vịt. Tay ký lục viết điều đó vào quyến sổ để mở trên mặt quầy gỗ đánh vécni, giữa các nhà báo từ Hà Nội và Sài Gòn đi tàu lên đây dự lễ khánh thành trường trung học. Người ta không nhận ra hắn là ai. Hắn tự nhận là đặc phái viên của tờ Paris Soir. Họ hỏi hắn tin tức của mẫu quốc. Về Jean Gabin và Arletty51. Và liệu sang năm Mặt trận Bình dân có thắng không. Hắn trả lời lấp lửng. Bóng ma của tương lai không phạm phải sai lầm nào. Cách ăn mặc của hắn mang tính phi thời gian. Quần vải thô và áo sơ mi trắng, cà vạt xanh lơ, giày da Anh loại tốt. Hắn biết rõ thời sự cứ như vừa đọc báo ở viện lưu trữ. Hắn biết về sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật, dùng tiếng Pháp không trộn một từ mới nào. Một đặc vụ lão luyện thâm nhập vào thời của những năm ba mươi. Tuy vậy, hắn sẵn sàng rút từ túi áo ra một bao Marlboro Light, nhưng hắn biết thời ấy nhãn hiệu 50 Tên một tập thơ của Rimbaud (Illuminations). 51 Tên các diễn viên rất nổi tiếng thời ấy. này chưa tồn tại. Hoặc, vì quá tự tin hay vì uống quá chén, hắn đã quên tắt điện thoại di động và bỏ máy ra nghe. Lập tức, người ta bu lại quanh chiếc ghế của hắn bên quầy bar, náo động cả lên, gọi cảnh sát. Họ buộc tội hắn là gián điệp làm việc cho Đảng Cộng sản Đông Dương được Hồ Chí Minh thành lập 5 năm trước đó. Đám cận vệ chạy lại chỗ ông hoàng đế, tên hầu của chủ nghĩa đế quốc. Người ta quên mất nhà thám hiểm già cùng dải băng Long bội tinh. Ở sở cảnh sát chuyện còn tệ hại hơn, bóng ma của tương lai thú nhận, giải thích, vòng vo, tiên tri, bảo rằng bốn năm nữa sẽ nổ ra cuộc thế chiến mới, người Nhật sẽ tới và người Pháp sẽ phải vào trại tập trung. Tướng Giáp, thủ lĩnh của quân nổi loạn, trong một phòng hạng sang của Lang Bian Palace. Điện Biên Phủ và thắng lợi của Hồ Chí Minh. Cuộc chiến tranh Việt Nam và thất bại của người Mỹ. Người Liên Xô đến. Họ buộc hắn lại, tiêm cho một mũi, mặc áo người điên vào nhé, anh bạn ơi, hết đường về quê mẹ rồi nhé! Arthur & Alexandre Điện thoại đã không đổ chuông. Bóng ma lên phòng khách sạn của mình. Hắn cho nước chảy đầy cái bồn tắm bằng gang có chân uốn cong, nới cà vạt, bật cái quạt đồng màu vàng. Trên bàn làm việc, một cuốn sách của Leonardo Sciascia52 trong đó có gạch chân một câu: “Ai cũng biết khoa học, cũng như thơ ca, chỉ ở cách bệnh điên một bước chân.” Trên giường vứt rải rác giấy tờ ghi chép. Những bức thư gửi hai bà mẹ, Vitalie và Fanny. Gửi hai chị gái, Isabelle và Émilie. Những bức thư viết vội luôn nói chuyện lên đường, ra đi, mua ngựa hoặc đặt mua, kính lục phân, máy kinh vĩ, khí áp kế hộp, sách khảo luận về máy móc và giáo trình hướng dẫn làm đất, khoáng vật học, lượng giác, thủy lợi, thiên văn học, hóa học. Một người tập hợp được tủ sách khoa học lớn nhất An Nam còn người kia tập hợp được tủ sách khoa học lớn nhất Abyssinia. Bóng ma có thể viết song chiếu hai cuộc đời này. Cuộc đời dài của một người và cuộc đời ngắn của người kia. Khách sạn Lang Bian Palace là một ốc đảo thời gian đứng yên, ngày nay là Dalat Palace – nhưng trong sự thay đổi này người ta không hẳn thấy sự dịch chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản, và có lẽ người ta đã không dám, sau độc lập, đổi tên nó thành Hồ Chí Minh Palace, lấy tên người đã sống phần lớn đời mình tại những lán trại tạm bợ, cũng như tên vị tướng của ông, Giáp, người tuy đã từng ở đây, trong giai đoạn thương thảo với Pháp. Hệ thống vòi nước bằng đồng đã ngả sang màu lục, sắp được trăm tuổi, vẫn chạy tốt. Những tấm thảm Ba Tư dễ gợi di chuyển trong thời gian và trong không gian. Gợi mơ mộng về địa lý và nhân khẩu học. Nằm duỗi dài trong làn nước nóng, bóng ma của tương lai châm một điếu thuốc và nghe gió thổi lồng trong đám cây ngoài khuôn viên. Giờ đây trên hành tinh có bảy tỉ người. Đầu thế kỷ 20 mới chỉ chưa tới hai tỉ. Có thể ước tính tổng cộng tám mươi tỉ người đã từng sống và chết đi kể từ lúc người homo sapiens xuất hiện. Quá ít. Phép tính thật đơn giản: trong đời mình mỗi người trong chúng ta chỉ cần viết về mười cuộc đời thôi, thì sẽ chẳng cuộc đời nào bị lãng quên. Sẽ chẳng cuộc đời nào bị xóa bỏ. Mọi cuộc đời sẽ được truyền đến mai hậu, và như thế là công bằng. Một nấm mồ không là gì nhưng vẫn là một nấm mồ. Viết về một cuộc đời cũng giống như vừa kéo violon vừa nhìn bản nhạc. Một người từng sống từ Đế chế thứ Hai đến Thế chiến thứ Hai, người kia ba bảy tuổi bị ngã ngựa. Ở cả hai đều cuồng nhiệt hiểu biết và ra đi, rời bỏ những nhóm 52 Leonardo Sciascia (1921-1989), nhà văn người Ý. nhỏ, Pasteur hoặc Thi Sơn. Yêu những bình minh ngập nắng và nghề đi biển, thực vật học và nhiếp ảnh. “Con vừa đặt mua từ Lyon một máy chụp ảnh sẽ cho phép con đưa vào cuốn sách này những bức ảnh chụp các vùng đất lạ đó.” Nhưng tập ảnh về vùng đất Gallas53 ấy chẳng có, cuối cùng thì chính Yersin lại viết về vùng đất của người Mọi. Ở cả hai người, ở những chỗ xa lắc, cứ năm phút lại có một ý tưởng mới. Nhập khẩu la từ Syria sang Ethiopia hoặc bò Normandie sang Đông Dương. Cuộc phiêu lưu của khoa học, “quý tộc mới! Tiến bộ. Thế giới lên đường!” Sở thích toán học. Tổng các góc của một tam giác luôn bằng tổng hai góc vuông cộng lại. Thơ cũng cần phải như vậy. Câu thơ alexandrin đó xuất hiện ở cuối một bức thư ông gửi cho Fanny. Câu thơ mà ở cuối ta có thể mỗi lần điền một động từ khác nhau ở dạng nguyên thể. Bởi vì sống sẽ chẳng phải là sống nếu không… Trong lúc Yersin chuẩn bị những chuyến đi cho mình, thì xảy ra vụ ngã ngựa ở Diré Daoua. Người bạn Hy Lạp Righas viết rằng Rimbaud “khuỵu gối xuống và bị một cái gai mimosa đâm phải”. Họ có chung một điều này, cô đơn, ra đi, đi đầu để khai đường cho cả nhóm, làm tốt hơn và lớn hơn những người cha vắng mặt. Đi xa hơn trong khoa học và địa lý so với những người cha không biết mặt. Với một người là cái kính hiển vi và lưỡi dao mổ tìm thấy trong kho chứa dó ở Morges. Với người kia là quyển kinh Coran và quyến sách ngữ pháp Ả Rập tìm thấy trong kho chứa đồ ở Roche. Mở một con đường từ Entotto tới Harar là đi xa hơn đại úy Rimbaud thuộc nhóm Sahara. Mở một con đường từ Nha Trang sang Phnôm Pênh là đi xa hơn ông quản kho thuốc súng. Còn cái nóng hầm hập và cơn khát, họ sẽ kể với những người phụ nữ, với mẹ và các bà chị quanh quẩn ở nhà, những người chưa từng rời khỏi Thụy Sĩ hay Ardennes, bỏ tên riêng, ký thật gọn, như những ông bố, Rimbaud, Yersin. Nếu không tìm ra trực khuẩn dịch hạch, hẳn ông rồi sẽ chết như một nhà thám hiểm vô danh giữa hàng nghìn nhà thám hiểm vô danh. Chỉ cần một mũi chích vào đầu ngón tay, giống như trong chuyện cổ tích. Nhưng vẫn luôn như thế, cuộc sống như tiểu thuyết, vốn rất lố bịch của con người. Dù có chữa được bệnh dịch hạch, hoặc chết vì hoại thư. 53 Vùng đất của người Oromo ở các nước Ethiopia, bắc Kenya và một phần Somalia, nơi Arthur Rimbaud phiêu lưu. Về nơi người Xê Đăng Nếu bị kim hay gai mimosa đâm là cánh cửa dẫn đến cái chết, thì vết thương há miệng đỏ lòm do một mũi giáo đâm vào người sẽ khoét ở đó một đường hầm rộng lúc nhúc hàng triệu con vi khuẩn. Yersin hiểu biết y học và phẫu thuật nên giữ được mạng sau trận chiến với Thục. Hiếm khi nào những cuộc đời như vậy lại không trải qua một cực điểm bạo lực. Trong suốt những năm thám hiểm ấy, chăm sóc người bệnh tại các bản làng và tiêm vắcxin cho trẻ con khiến Yersin gần với người anh hùng hiền hòa của mình, bác sĩ Livingstone tốt bụng, nhưng tính không khoan nhượng và tinh thần u ám lại khiến anh đôi khi cư xử như anh chàng Stanley thích gây gổ. Đến cả chỗ nã đạn vào những toán cướp mà khi ấy người ta gọi là trộm cướp, lũ cướp đường sẽ ít nhiều trở thành hình mẫu cho quân du kích, những chiến sĩ chống thực dân đầu tiên, theo cách thức của Mandrin54 hay Lampião55. Ở đây là Thục, tay thủ lĩnh cao lớn, chuyên cướp bóc, cầm đầu một toán ở vùng quê chừng năm mươi tên, toàn dân vượt ngục sau khi lĩnh án giết người, chẳng có gì để mất, toàn những cái đầu sôi sục bị nhà chức trách đặt giá. Chúng có một ít súng trường lấy được từ quân lính, giáo mác và mã tấu. Khi đến vùng những người Mọi thân quen, một tối Yersin bước vào một ngôi làng vừa bị cướp phá, những túp lều tranh vẫn còn bốc khói. Những người sống sót chỉ tay về một hướng dưới đám cây và những người can đảm nhất đi theo anh. Đó là cuộc truy đuổi im lìm trong đêm. Quân của Thục đi chậm vì phải mang chở gạo cướp được và dẫn theo lũ gia súc, lại tin chắc rằng chẳng bao giờ một nhúm nông dân tay không tấc sắt lại cả gan đến quấy nhiễu chúng ngay giữa rừng rậm âm u hiểm ác. Chúng dừng chân và đốt lửa, kiểm kê món đồ ăn cướp. Yersin giơ khẩu súng ngắn lên. Những ngọn lửa lớn làm chờn vờn những cái bóng giữa đám cây lá. Thục nhảy vọt tới đẩy chệch nòng súng canông. Yersin lĩnh một nhát chùy dữ dội vào chân gãy cả xương. Anh chống cự, nhưng đã khuỵu xuống rồi. Một con dao rựa chặt đứt nửa ngón cái của bàn tay trái. Thục đâm một lưỡi giáo vào ngực anh và đám cướp bỏ chạy, vứt anh lại vì nghĩ anh đã chết. Hẳn đó sẽ là số phận của bất kỷ kẻ nào trong số lũ cướp kia, vì không có các sản phẩm màu nhiệm của cánh Pasteur. Người của Yersin tìm thấy anh vào lúc tờ mờ sáng, người đẫm máu nhưng vẫn tỉnh, gần đống than đang tàn dần. Bị mũi giáo xiên qua người giống một con côn trùng bị ghim vào tấm bìa. Lần 54 Louis Mandrin (1725-1755) là một tướng cướp Pháp nổi tiếng dũng cảm, chuyên tấn công vào các kho công quỹ. 55 Lampião: biệt hiệu của Virgulino Ferreira da Silva (1897-1938), thủ lĩnh băng cướp ở vùng đông bắc Braxin những năm 1920 và 1930. này thì chuyến đi thật ngắn, có thể cuộc đời cũng vậy. Kiến và bọ bu lại hút trên mặt đất thẫm đỏ. Nhiều sự nghiệp các nhà thám hiểm bỏ người viết tiểu sử họ bơ vơ như vậy sau vài trang. Nằm đó, một lỗ đỏ trên ngực. Những sự nghiệp kết thúc ngay trên dòng tít ở trang đầu một tờ báo lá cải thuộc địa nào đó, được người ta giở ra đọc trước mấy ly vermouth và cassis trên hiên các quán bar đường Catinat: “Người khám phá độc tố bạch hầu chết vì một mũi giáo trên đất Mọi.” Yersin đã mất quá nhiều máu, biết rằng mình không còn nhiều thời gian, vội hướng dẫn phẫu thuật. Theo lời anh, người ta khoét rộng xung quanh rồi mới rút cái giáo ra. Họ chầm chậm rút mũi giáo mà không chạm đến các xương sườn, khử trùng vết thương, xử lý những chỗ xây xước, quấn băng thật chặt quanh nửa người trên và quanh bàn tay, đặt nẹp dọc theo cái chân gãy. Họ đặt anh nằm trên một cái cáng kết bằng tre và dây leo rồi những con người kia khiêng cáng trên vai đi suốt nhiều ngày, đến tận Phan Rang. Ở đó có một chuyên gia điện tín mà người ta hy vọng là mắc chứng sợ chỗ đông người, vì sống đơn độc trong một căn chòi bên dưới cây cột phát nhận tín hiệu và đống dây nhợ rối bù. Họ báo cho Calmette ở Sài Gòn để anh gửi thuốc đến. Yersin hồi lại dần. Người viết tiểu sử anh thở phào. Người bị thương nằm bất động, và sau vài ngày lại tiếp tục ghi chép vào sổ. “Như vậy, kết quả của vụ này là con mất một khẩu súng trường và một khẩu súng ngắn. Con không nghĩ người ta trách cứ con: ông toàn quyền sẽ rất bực bội vì sự loạn lạc ở miền Nam, trong khi ông ta ra rả tuyên bố An Nam đã được bình định xong xuôi. Vậy nên ông ta sẽ tìm cách ỉm vụ việc đi, thậm chí nếu cần sẽ chối bay. Thế nhưng con không hề hối tiếc việc mình đã làm: rõ ràng đó là bổn phận của con.” Trong khi các vết thương lên sẹo, Yersin, vì không cưỡng nổi, bắt đầu tìm hiểu cách vận hành của máy phát điện tín. Với cái chân bó bột, anh được đưa về Sài Gòn, tại đó anh viết báo cáo, vẽ các bản đồ, chỉ ra những tuyến đường có thế mở được, chép lại sạch sẽ những bản kê ghi vội trong sổ tay. Người bệnh đang hồi phục đọc các tạp chí kỹ thuật và gửi sang Pháp đơn đặt hàng những thiết bị mới. Trên bến cảng, ngay khi anh đã đủ sức du hành, người ta đỡ anh xuống từ một cỗ xe có thắng mấy con ngựa nhỏ xíu. Anh đặt cặp nạng của mình vào một cabin của tàu Saigon khởi hành đi Hải Phòng, và trò chuyện với người kế nhiệm mình, vận bộ đồng phục trắng gắn lon 5 vạch mạ vàng. Anh xuống ở điểm dừng đầu tiên, về lại thiên đường Nha Trang, rời chiếc tàu tồi tàn của Hãng Đường biển để về căn nhà gỗ ở Xóm Cồn. Anh khập khiễng tíu tít trong phòng tối, tráng phim, chuẩn bị chuyến di sắp tới, chuyến di dài nhất trên bản đồ, giữa phía Bắc rồi rẽ sang phía Tây. Cũng là chuyến đi tham vọng nhất. Anh muốn mở một con đường mới từ Bắc Kỳ sang Lào, khác con đường của Pavie qua Điện Biên Phủ. Anh gửi thư cho Fanny. “Kèm theo đây là mấy lời cho Mayor để ông ấy gửi cho con mấy thứ vũ khí mới, con sẽ chuyển tiền thanh toán sau khi nhận được hàng.” Ngay trước khi lên đường, anh nghe tin Thục đã bị bắt, và trấn an Fanny, nhưng thật ra lại làm bà lo lắng nhiều hơn: “Ngày mai con sẽ lên đường tiến sâu vào đất liền, con không muốn làm chuyện này mà chưa nói với mẹ rằng tay con đã lên sẹo và chân thì đã khỏi. Thế nên con đang có sức khỏe tốt để tiếp tục chuyến đi. Hôm nay người ta đã chặt đầu Thục. Con đã dự buổi chặt đầu để chụp vài bức ảnh nhanh, thật đáng ghê sợ. Cái đầu rơi xuống ở nhát chém thứ tư. Mà Thục không hề run sợ. Dân An Nam bỏ mạng với một thái độ lạnh lùng rất ấn tượng.” Năm ấy, bên Pháp là một trăm năm thời kỳ Khủng bố cũng đã từng làm rơi rất nhiều cái đầu xuống đáy giỏ, nên người ta không muốn tưởng niệm bằng một ngọn tháp sắt thứ hai. Năm ấy, chiến hạm Pháp rời Sài Gòn sang Bangkok để dựng cứ điểm, theo lời yêu cầu của Pavie lúc này đã được phong làm cao ủy biên giới. Yersin thì không có nguy cơ trở thành nhà ngoại giao. Toàn bộ cái trò chính trị nhơ bẩn ấy. Anh buộc lòng tiến về nơi người Xê Đăng. Lại một lần nữa họ băng qua những cánh rừng thưa, những rặng thông mờ sương. Họ bắt gặp đường đi của những đàn kiến hàng triệu con không bao giờ chấp nhặn đi vòng dù chỉ một mét, và khi gặp phải chúng, người nông dân buộc phải nhường và dời làng sang nơi khác. Nhóm dẫn đường và lũ súc vật chở đồ leo lên núi trên những con đường men theo dốc, vượt qua ghềnh thác. Trên lưng ngựa, sát cạnh nhau, Yersin và cha Guerlach, người vừa thực hiện những bản kê đầu tiên về địa vật và nhân loại học của vùng, ghi lại các tín ngưỡng và thổ ngôn của dân săn bắn-hái lượm, trong niềm hy vọng mơ hồ là cứu rỗi tâm hồn họ thay vì bắt họ làm nô lệ như Mayrena, từng là Marie Đệ Nhất nơi dây, đã cố làm nhưng vả lại cũng công toi. Nơi trú ngụ của người Xê Đăng là những cái chòi dựng cheo leo trên các chỏm núi, được những hàng dậu cao bảo vệ. Khi đã nhận ra cha Guerlach, họ kéo cánh cổng có gắn ròng rọc, kết thân, trao đổi vật dụng, nhảy múa, ăn uống. Yersin gỡ đống dụng cụ khoa học của mình ra ngay giữa đám người. Hai chân choãi rộng, cái nhìn hướng lên bầu trời, anh đo kinh tuyến, vĩ tuyến, tối đến thì tìm hướng địa cực, dùng phong vũ biểu để đo độ cao. Ông cha cố thì lấy ra thánh giá và lư hương, làm lễ mixa, lẩm nhẩm và giơ tay về phía Chúa của ông, có vẻ như đang ngự ở nơi không xa địa cực là bao. Đây là lần đầu tiên người Xê Đăng gặp những kẻ còn man dã hơn mình và dự vào những nghi lễ quái gở của bọn họ. Họ cười ré lên, vỗ đùi phành phạch. Ngồi riêng một chỗ, đám thầy mo tức tối, thế nhưng sau này nhất định sẽ học lỏm vài chiêu của show để bổ sung cho các buổi lễ của mình. Phía trên các tường thành, đám chiến binh giương những cái khiên bọc da tê giác, hú hét và vung vẩy giáo gươm, chúc những người Da trắng đường về may mắn. Đoàn người lại xuống núi và đến được tỉnh Attapeu bên Lào, bên kia dãy Trường Sơn. Lần này, thứ mua vui cho dân làng, chính là những con ngựa đã dược thuần hóa và đóng yên cương. Đoàn thám hiểm từ rừng rậm theo con dốc thoải về phía bờ sông Mê Kông. Họ đã đi bộ nhiều tháng nay. Đường đi của họ tĩnh lặng và nặng nhọc. Dưới kia là màu vàng và xanh lục, xanh ngọc và đỏ sẫm. Qua kẽ lá mặt trời vàng khé và những tán cọ rộng xòe ra dưới cơn mưa rào. Rắn, cóc và đủ thứ địa thần nhỏ xíu tháo thân khỏi ồ. Lũ ác mỏ màu đỏ kêu quang quác và bay vụt lên. Họ đi ngược lên hướng Bắc và lần thứ hai leo qua đèo, tiến về Đông, về phía biển để tới Đà Nẵng rồi Hà Nội, nơi hai nhà nhân loại học, một theo Thiên Chúa giáo và một thì bất khả tri, nộp báo cáo, người này cho toàn quyền, người kia cho giám mục. Người ta đánh số, dùng bút lông viết thẳng vào xương, những cái đầu kẻ thù do người Xê Đăng tặng và răng voi thu thập được trong chuyến đi. Người ta chất đầy đống rương hòm để gửi về Bảo tàng Con người ở Paris. Toàn bộ việc này cũng giống như ký vào sổ trực tàu trong khoang thuyền trưởng trước khi lên bờ. Với Yersin đây đã trở thành một hoạt động không quá khác biệt, nhưng phấn khích hơn, so với đi tàu. Dường như anh không hề thấy mệt mỏi chút nào. Anh đã sẵn sàng về lại Nha Trang theo tuyến đường cùa Hãng Đường biển. Nhưng cả với anh nữa, cuộc trường chinh đã kết thúc rồi. Những giờ ngồi trên yên dưới mưa, theo nhịp bước chân ngựa. Những hình vẽ phác họa khung cảnh núi rừng. Mùi phân ngựa và mùi đồ da ướt. Thịt nướng trên lửa ở nơi cắm trại và tiếng chó sủa khi sắp đến các bản làng. Anh còn chưa biết điều đó. Sẽ chẳng bao giờ anh còn tiến hành những chuyến thám hiểm nữa. Một bức điện của Calmette đang chờ anh ở chỗ toàn quyền, cho anh biết rằng những bức điện khác đang chờ anh ở Sài Gòn. Roux và Pasteur yêu cầu anh sang Hồng Kồng ngay. Có chuyện dịch hạch rất quan trọng. Yersin khép quyển sổ thám hiểm cuối cùng lại, mực trong đó vẫn còn ướt, tươi rói. Bàn tay già nua cụt ngón cái lấm chấm đồi mồi khép quyến sổ thám hiểm cuối cùng lại, mực đã khô và nhạt dần. Văn phong cũng đã cũ. Hơi có chút Vidal de La Blache56. Yersin đeo cặp kính lên cặp mắt xanh lơ đã lợt. Đây là chuyến trở về với hiện tại của Nha Trang, hiện tại của tháng Năm năm 40. Ông nhốt mình trong ngôi nhà vuông lớn nhiều vòm đã thay thế căn nhà gỗ xưa kia. Khối lập phương lớn, hợp lý. Ba tầng, mỗi tầng một trăm mét vuông, chồng lên nhau với cầu thang dẫn lên sân thượng và trạm thiên văn. Bác sĩ Năm đã bảy mươi bảy tuổi. Từ hai tháng nay, sau khi trở về từ châu Âu trên con cá voi nhỏ màu trắng, ông đọc lại những cuốn sổ theo trình tự. Như thể vẫn đang ở đó, trong những khu rừng rậm hoặc ởsd chỗ của người Xê Đăng. Hiện giờ hai chân không còn đỡ nổi ông nữa. Đêm đã xuống. Ông ngồi trên cái ghế bập bênh ngoài hiên, trước mặt biển mênh mông, mặt biển an ủi cho những khó nhọc của chúng ta. Từ hai tháng nay, đọc những cuốn sổ cũ làm ông tách ra khỏi hiện tại của Lịch sử. Những câu miêu tả cuộc đối đầu với Thục làm sống dậy trong ông ký ức về cơn đau ghê gớm, rồi lúc nằm chờ chết dưới đám cây và những ánh lửa nhảy nhót trên cành, ông cởi áo sơmi để xem vết sẹo, chấp nhận rằng tất cả những cái đó đều là có thật. Ông không còn cả lòng can đảm lẫn niềm thích thú để viết hồi ký. Mãi mãi chỉ mình ông biết tất cả những chuyện ấy, còn nhớ đến chúng. Có quan trọng gì đâu. Chính vô vàn thư gửi Fanny và Émilie, chứ không phải vài tác phẩm ông đã xuất bản, sẽ kể cho chúng ta về cuộc đời ông. Họ đã không để thất lạc bức nào. Người ta tìm thấy chúng sau khi người chị gái qua đời, xếp đầy trong ngăn kéo một cái bàn một chân. Những bức thư được viết một mạch không hề có vết tẩy xóa và luôn ký Yersin, không kèm tên riêng của người cha và đôi khi châm biếm thì ký Bác sĩ Năm. Nhưng giờ đây, vào mùa hè cái năm 40 này, Yersin còn chưa biết điều đó, ông tưởng đời mình sẽ bị xóa sạch. Hằng đêm, ông nghe các loại đài trên thế giới qua sóng ngắn. Đó là mùa hè năm 40 và thế giới đang sụp đổ. Phe Vichy cử đô đốc Decoux chỉ huy hạm đội Pháp ở Viễn Đông lên nắm chức toàn quyền Đông Dương. Ở đây cũng như ở chính quốc, người ta cấm nghe đài của người Anh. Ông hẳn sẽ bị phiền. Ông biết nhiều thanh niên đã đáp lại lời kêu gọi hồi tháng Sáu của ông tướng kỳ cục cao hai mét57 trước chiến tranh từng ở khách sạn Lutetia. Ông nghe đài Đức, nghe họ tuyên truyền và la hét chiến thắng. Lại một lần nữa có chiến tranh với nước Đức và lại một lần nữa nước Đức sẽ 56 Paul Vidal de La Blache (1845-1918), nhà địa lý người Pháp, được coi là cha đẻ của ngành địa lý hiện đại Pháp. Ông đi rất nhiều nơi và để lại nhiều công trình khảo cứu quan trọng. 57 Ý nói tướng Charles de Gaulle. bị đánh bại sau khi hàng triệu người chết, y như Rimbaud vô cùng sáng suốt ở tuổi mười lăm đã tiên tri sau trận Sedan và sự sụp đổ của Đế chế thứ Hai. Cánh phát xít lẽ ra nên đọc nhà tiên tri trẻ tuổi, người từng viết: “sự cai trị bằng súng đạn và sự điên rồ sẽ biến xã hội Đức và tư tưởng Đức trở thành trại lính, và tất tật những thứ đó rốt cuộc sẽ bị một liên minh nghiền nát!” Năm ngày sau khi ông tướng tung ra lời kêu gọi từ London, tay độc tài vận đồ đen xám – bắt chước Charlie Chaplin khá giống – hạ cánh xuống sân bay Bourget. Đó là một ngày Chủ nhật, năm giờ sáng. Chuyến đi của Führer đã được dự trù trước khi có cuộc tấn công và bởi thế những chiếc Stuka của Göring đã chừa không phá đường băng Bourget, để con cá voi nhỏ màu trắng bay chuyến cuối cùng của hãng Air Prance. Trên đài, xướng ngôn viên người Đức phấn khởi miêu tả ba chiếc Mercedes mui trần tiến vào Paris trong ánh sáng êm dịu của bình minh tháng Sáu, theo sau là một đoàn hộ tống gốm các nhiếp ảnh gia và điện ảnh gia. Nhà độc tài vận đồ đen xám đi cùng kiến trúc sư riêng là Albert Speer. Hắn muốn Berlin vượt Paris. Bọn họ hối hả thăm Nhà hát Opera, nhà thờ Madeleine, quảng trường Concorde, đại lộ Champs-Élysées, tháp Eiffel, quảng trường Trocadéro. Hắn nhìn Paris lần đầu tiên, kẻ từng tuyên bố trong cuốn Mein Kampf là có tài hội họa thiên bẩm, “ở tôi, hội họa chỉ kém tài vẽ chi tiết thôi, đặc biệt trong lĩnh vực kiến trúc”. Niềm say mê ấy lại càng khiến Yersin dị ứng hơn với các môn nghệ thuật, tất tật những ngớ ngẩn hội họa và văn chương. Cứ như thể hai kẻ kia, Hitler và Göring, tiến hành cuộc thế chiến với một mục đích duy nhất là bổ sung các bộ sưu tập hội họa của mình, rồi thì giành nhau mấy bức tranh. Yersin tự hỏi Louis Pasteur trẻ tuổi sẽ ra sao, nếu thay vì thành nhà hóa học, ông lại thành họa sĩ vẽ chân dung như ông từng nuôi mộng hồi còn ở xứ Jura xa xôi. Pasteur nghệ sĩ, giữa những nghiên cứu khoa học, vẫn tiếp tục giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Paris. Khi những tên lính Đức đầu tiên xuất hiện ở Viện vào cái mùa hè năm 40 ấy, không lâu sau chuyến ra di cuối cùng của Yersin, chúng đòi xuống xem hầm mộ có di hài Pasteur. Joseph Meister, ông lão gác cổng, người đầu tiên được chữa khỏi bệnh dại, đã không cho bọn chúng xuống. Đám lính xô ông, đẩy ông lùi ra. Bọn sĩ quan bước vào hầm mộ. Ông già người Alsace đã dùng khẩu súng lục mang về từ cuộc chiến tranh năm 14 để tự sát trong phòng của mình. Nhờ nghe đài Đức, Yersin biết rằng lá cờ thập ngoặc đã bay phấp phới trên sân thượng khách sạn Lutetia ngay bên trên căn phòng trong góc của ông ở tầng sáu. Khách sạn đã trở thành trụ sở của Abwehr, cơ quan phản gián của quân đội. Ngồi vây lấy cây đàn piano, đám sĩ quan vận đồ đen xám nốc nốt kho rượu cognac trong hầm. Sau trận chiến với nước Pháp là tới trận chiến với nước Anh, bị giày xéo bởi máy bay của Göring, cũng là một tay mê hội họa, kẻ đã giấu Hitler lấy người từ các phi đoàn rồi cử vào các thành phố bị chiếm đóng giành lấy các tác phẩm đã được các nhóm sử gia hội họa của hắn định vị từ trước. Hai tháng sau khi Hitler thăm viếng Paris, Trotsky bị ám sát, ngày 20 tháng Tám, tại nơi trú ẩn của mình bên Mêhicô, dưới tay người của Stalin đồng minh của Hitler, bản thân Hitler thì lại là đồng minh của người Nhật. Tất cả các mảnh của trò ghép hình ở phạm vi toàn cầu đã được đặt về đúng vị trí. Và mười ngày sau đó, 30 tháng Tám, đội quân Nhật đã đổ bộ vào Bắc Kỳ. Chiếm Hải Phòng và Hà Nội. Đám sĩ quan đặt kiếm lên những cái bàn thấp ở khách sạn Métropole và nốc nốt kho rượu cognac. Đông Dương bị xâm chiếm. Ngồi trên cái ghế bập bênh nhìn ra biển, Yersin đợi các sĩ quan của Sở hiến binh Nhật đến chiếm nhà ông, biến ngôi nhà vuông lớn này thành Kommandantur58 của chúng ở Nha Trang. Chúng sẽ hoài công tìm kiếm một chai cognac. Những cãi cọ giữa Yersin và người Nhật đã cũ kỹ lắm rồi. 58 Là từ dùng để chỉ một cơ sở chỉ huy của quân đội Đức. Ở Hồng Kông Ông già khép quyển sổ cũ lại, thấy mình ở Hà Nội, vừa từ vùng đất của người Xê Đăng về, vẫn còn vận trang phục thám hiểm, chiếc áo vest vải thô xanh lục có dây đai để gài dụng cụ. Yersin từ biệt cha Guerlach. Anh ba mốt tuổi. Anh xuống tàu ở Sài Gòn, đọc bức điện của Roux mà anh chưa gặp lại kể từ buổi nói chuyện ờ Hội Địa lý. Những bức điện. Bởi vì Roux và Pasteur đang sôi lên sùng sục. Và nã xuống nhà chức trách cả đống điện tín. Cánh Pasteur vẫn coi Yersin là người của họ, để dành cho khoa học. Họ đã cử người đưa tin đến Nha Trang, biết được anh đang ở trên núi. Núi với non, Roux tức mình, nhún vai. Cứ như thể biển còn chưa đủ. Hồi đó là hai mươi năm trước Thế chiến thứ nhất, nhưng trận chiến khoa học đã mang đậm tính chính trị và các mối liên minh thì vẫn thế. Một đợt dịch hạch bên Trung Quốc ào xuống Bắc Kỳ, tháng Năm thì tới Hồng Kông. Nỗi kinh hoàng vĩ đại cầm lưỡi hái xuất hiện ở chân trời và mau chóng xác chết xếp thành đống, hoảng hốt trong tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Quốc, người Anh tại Cửu Long và người Pháp ở Hải Phòng. Vào cái thời người ta còn đi bộ, cưỡi ngựa, dùng xe bò kéo có bánh rít lên kèn kẹt và đi tàu buồm, dịch hạch tiến chậm và gặt hái ngay trước nó. Hai lăm triệu người chết ở châu Âu thế kỷ 14. Các bác sĩ vận áo chùng mang mặt nạ trắng có cái mỏ chim dài, tọng đầy các thứ hương liệu hòng lọc đi các chướng khí. Nỗi kinh hoàng tỉ lệ thuận với tốc độ các loại phương tiện di chuyển. Dịch hạch đợi hơi nước, điện, đường sắt và tàu thủy vỏ sắt khổng lồ. Trước nỗi kinh hoàng màu đen vĩ đại, không còn là lưỡi hái và tiếng rít của nó khi chặt cành nữa, mà đã là tiếng phành phạch của máy liên hợp gặt đập chạy hết tốc lực trên những cánh đồng lúa mì. Không phương cứu chữa. Dịch hạch không dự báo được và gây chết người, lây nhanh và phi lý. Nó gieo rắc sự xấu xí và cái chết, rải trên trái đất thứ dịch đen hay vàng tiết ra từ những cái hạch mọc trên cơ thể. Miêu tả của y học lúc ấy, ta có thể tìm được trong khảo luận về các chứng bệnh truyền nhiễm của giáo sư Griesinger59 thuộc trường đại học Berlin đã được Mollaret60 trích dẫn, xuất bản chừng mười lăm năm trước, chỉ ra rằng dịch hạch xảy đến tại “những khối dân cư bần cùng, thất học, bẩn thỉu, man dã ở mức độ khó tin nhất.” 59 Wilhelm Griesinger (1817-1868), nhà não bộ học và tâm thần học người Đức. 60 Henri H. Mollaret (1902-2008), chuyên gia về dịch hạch, tác giả một cuốn tiểu sử về Yersin. Ở Sài Gòn, Yersin mượn được một ít thiết bị y tế, chúng được đặt thật cẩn thận vào một cái rương đi biển, các ống nghiệm, những mặt kính và một nồi chưng dành cho công tác tiệt trùng. Anh quay ra Hà Nội và gặp bác sĩ Lefèvre, của Phái đoàn Pavie, người sẽ đi theo nhà thám hiểm đất Lào đến Muang Sing để vạch đường biên giới với Trung Quốc. Lefèvre là một nhà chính trị và không giấu anh, đổng nghiệp thân mến ạ, rằng với người Anh thì công việc sẽ chẳng dễ dàng đâu. Từ Bombay sang đến Hồng Kông, Raj61 Anh quốc hẳn sẽ là một lãnh thổ rất lớn bất tận nếu không có cái gai khó chịu là Đông Dương thuộc Pháp. Vì lý do ấy, người Anh đã nhờ đến các bác sĩ Nhật, thế thì quá bằng cầu cứu người Đức, dùng Viện Koch chống lại Viện Pasteur. Tuy nhiên có một người Ý thần Pháp, Lefèvre nói thêm, cha Vigano, một thông tín viên đáng kính, cựu sĩ quan pháo binh từng được gắn huân chương ở trận Solferino trước khi nhập dòng, một con chuột chũi Thiên Chúa giáo chui vào hàng ngũ Tin Lành, Lefèvre mỉm cười, sẵn sàng cứu thua cho Đệ tam Cộng hòa nhằm thể hiện lòng biết ơn việc Đệ nhị Đế chế đã nhất thống nước Ý. Trong đầu óc Yersin, điều này còn ngông hơn cả cuộc sống của người Mọi. Người Thụy Sĩ và người Ý được vời ra phụng sự nước Pháp. Yersin xuống tàu ở Hồng Kông vào giữa tháng Sáu và tới bệnh viện của Kennedy Town nằm dưới quyển điều hành của bác sĩ Lawson. Từ khi tới bến cảng, dưới một trận mưa như trút, anh đã trông thấy xác những người chết vì dịch hạch trên các phố và giữa những vũng nước, trong các khu vườn, trên những cái ghe đang cắm neo. Đám lính Anh dùng quyền uy của mình mang những người bị bệnh đi, dọn sạch nhà họ, chất đống hết lại rồi châm lửa đốt, rải vôi bột và axít sunfuric, xây những bức tường gạch đỏ để ngăn người ta ra vào những khu phố nhiễm bệnh. Yersin chụp ảnh, tối đến viết lại những khung cảnh địa ngục đầu tiên dưới bầu trời xám và những cơn mưa rào xối xả. Người ta đổ xô đến những bệnh viện ngập nước, nhưng chẳng được tích sự gì. Gần như khắp nơi, Lawson mở các trạm cách ly, thực chất là những chỗ chờ chết, trong một nhà máy thủy tinh cũ và trong lò mổ mới đang xây, trong những túp nhà tranh bị tịch biên. Người ta vứt xuống nền nhà những cái chiếu rồi sau này sẻ đốt luôn cùng người nằm. Thần Chết đến liền sau vài ngày. Xuyên qua màn mưa ấm nóng và các đợt gió lồng lộn, những xe chất đầy xác chết chầm chậm lăn bánh. “Tôi nhận thấy có rất nhiều chuột chết trên mặt đất.” Mấy chữ mà Yersin ghi nhanh về buổi tối hôm ấy liên quan đến những cái cống đang tuôn ra và lũ chuột đang phân hủy. Kể từ Camus điều này có vẻ hiển nhiên nhưng thời ấy thì chưa như vậy. Đây chính là thứ Camus phải nợ Yersin khi viết cuốn tiếu thuyết của mình, đúng bốn năm sau khi Yersin qua đời62. Qua điện tín, và vì lý do ngoại giao, toàn quyền Anh, Sir Robinson, đã cho phép Yersin đến Hồng Kông nghiên cứu bệnh dịch hạch. Nhưng có thể thấy rất rõ sự thiếu thiện ý của người Anh, người Nhật thì còn tệ hơn nữa, êkip của Shibasaburo Kitasato muốn giành riêng cho họ việc phẫu thuật tử thi. Kitasato và trợ lý Aoyama đã từng theo các bài giảng của Koch. Kitasato và Yersin tới Đức cùng một năm, Yersin tới Marburg còn Kitasato tới Berlin, ông ta đã ở đó bảy năm bên 61 Raj: từ tiếng Phạn, muốn nói “vương quốc”. 62 Ý nói cuốn tiểu thuyết La Peste (Dịch hạch) của Albert Camus, in năm 1947. cạnh người phát hiện ra vi khuẩn ho lao. Khi bác sĩ Lawson giới thiệu Yersin với họ, anh nói chuyện với họ bằng tiếng Đức, họ phá lên cười chẳng thèm đáp lời anh. “Có vẻ như từ lâu rồi tôi không sang Đức, nên hơi quên ngôn ngữ, vì thay vì trả lời tôi, họ lại cười với nhau.” Kitasato không thể không biết tên tuổi Yersin và việc anh cùng Roux phát hiện độc tố bạch hẩu. Ông ta chia sẻ cùng con lạc đà Koch một sự thù địch hoàn toàn đối với Pasteur và các Viện của ông. Cũng phải hiểu, trong cuộc chạy đua ấy, ai cũng biết lần này là quyết định. Sẽ phải phát hiện ra vi trùng dịch hạch nếu quả đó là một con vi trùng. Nó không thể thoát được nữa. Và trong lịch sử loài người cơ hội trở thành người chiến thắng bệnh dịch hạch sẽ không bao giờ có nữa. Chỉ vài tuần dịch bệnh hoành hành nữa là sẽ có thêm hàng nghìn xác chết để nghiên cứu. Cơ may duy nhất của con vi trùng có lẽ sẽ là trận dịch đột ngột dừng một cách bí hiểm. Yersin và Kitasato đều biết việc họ ở đây là nhờ Koch và Pasteur, hai thiên tài tuyệt đối, sánh ngang với Galilée. Họ biết mình là những chú lùn đứng trên vai hai người khổng lồ. Kitasato có ưu thế về thực địa. Yersin sẽ không được sờ đến xác chết nào. Yersin hoàn toàn có thể tuyên bố thua cuộc và trở về theo đường biển. Cha Vigano ưa các biện pháp hơi xảo quyệt của Vatican mà thường thì một người Tin Lành khắc kỷ xứ Vaud hẳn sẽ phản đối. Để giúp Yersin, trong vòng hai ngày ông cho dựng một cái lán bằng tre phù rơm gần bệnh viện Alice Memorial. Đây vừa là nơi ở vừa là phòng thí nghiệm, ở đó họ đặt một cái giường gấp và mở cái rương đi biển ra, lắp đặt kính hiển vi và ống nghiệm. Vigano đút tiền đám lính thủy Anh phụ trách coi nhà xác nơi chồng chất xác chết đợi đốt hoặc chôn và mua lại vài cái xác. Yersin dùng dao mổ rất khéo. “Họ đã nằm trong quan tài và phủ đầy vôi bột. Tôi phải gạt đi một ít vôi để thấy được vùng đùi.” Yersin tìm lại niềm hứng khởi của ống nghiệm, những cái diều, như hồi ở Paris. “Hạch nhìn rõ lắm. Chi cần chưa đến một phút tôi đã cắt được nó, rồi lên phòng thí nghiệm. Tôi chuẩn bị thật nhanh, đặt nó dưới kính hiển vi. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi đã nhận ra cả một đống vi khuẩn lúc nhúc, tất cả đều giống nhau. Đó là những cái que béo tròn nhỏ xíu, hai đầu tròn tròn.” Thế là đủ. Khỏi cần viết hồi ký. Yersin là người đầu tiên quan sát được trực khuẩn dịch hạch, giống như Pasteur từng là người đầu tiên quan sát được các trực khuẩn gai ở tằm, bệnh than ở cừu, bệnh tả ở gà và của bệnh dại ở chó. Trong vòng một tuần, Yersin viết một bài báo sẽ được đăng ngay tháng Chín trên Biên niên Viện Pasteur. Kitasato có trích bệnh phẩm trên cơ thể và máu nhưng lại lơ là hạch, miêu tả được phế viêm khuẩn của một bệnh truyền nhiễm phụ mà lại tưởng là vi trùng. Nếu không có tình cờ và may mắn, thiên tài không thôi cũng chẳng làm được gì. Yersin, kẻ bất khả tri, lại được các vị thần ban phước. Như các nghiên cứu sau này sẽ chỉ ra, Kitasato được sở hữu một phòng thí nghiệm đích thực trong bệnh viện, cùng một lò hấp được chỉnh theo nhiệt độ cơ thể con người, nhiệt độ này giúp phế viêm khuẩn sinh sôi nảy nở, nhưng trực khuẩn dịch hạch lại phát triển mạnh nhất ở nhiệt độ khoảng hai mươi tám độ, tức nhiệt độ trung bình của mùa này tại Hồng Kông, và cũng là nhiệt độ mà Yersin, vì không có lò giữ nhiệt, tiến hành các quan sát của mình. Cùng lúc Yersin gửi các kết quả về Paris, anh cũng nộp chúng cho Lawson, ông ta mau mắn thông báo cho cánh Nhật Bản. Yersin phàn nàn về điều đó nhưng cũng không làm um lên. “Lẽ ra ông ấy nên kín đáo hơn. Chính ông ấy, sau khi xem cách thức tôi chuẩn bị làm thí nghiệm, đã khuyên đám người Nhật tìm vi trùng trong hạch. Thậm chí ông ấy còn cam đoan với tôi và nhiều người khác rằng con vi trùng mà đám người Nhật đã định vị được không hề giống con vi trùng của tôi.” Kitasato tự nhận thành công về mình và gây ra một trận tranh cãi, cả khoa học lẫn chính trị. Nhưng bằng chứng đã rõ ràng và Yersin, người chưa từng gặp cha mình, và sẽ không bao giờ trở thành cha, ít nhất cũng thấy mình được biến thành cha đẻ của khám phá vừa được công nhận: Yersinia pestis. Anh còn nhốt mình trong cái lều rơm thêm hai tháng nữa, cúi xem lũ chuột chết, xác lập vai trò của chúng trong việc lan truyền bệnh dịch. Theo gương Pasteur ở vùng Beauce khi nghiên cứu bệnh than ở cừu, anh lấy các mẫu đất ở khu phố Thái Bình Sơn nơi đang lan tràn bệnh dịch và miêu tả chúng cho Calmette. “Anh thừa biết rằng tìm một loại vi khuẩn ở trong đất không phải chuyện dễ, và rằng, dầu cho không tìm thấy thì ta cũng không thể từ đó suy ra là nó không tồn tại. Vậy nên tôi đã thực hiện thí nghiệm này trong niềm tin thầm kín là mình sẽ chẳng tìm được gì cả.” Anh chuẩn bị đất đen đã pha loãng và cấy vào mấy cái tuýp thạch, thả thêm một sợi platin. “Và anh có tưởng tượng được không, trong hai tuýp, tôi đã thu được nhiều ổ khuẩn dịch hạch và không bị lẫn con vi khuẩn lạ nào vào.” Giờ đây, người Anh lại muốn giữ anh lại làm nhân viên vệ sinh y tế. Đám Nhật đã ra đi. Người ta thấy rõ rằng những bức tường gạch đỏ xây ở đầu các phố chỉ chặn được người Hoa, chứ vẫn để các vi sinh vật đi qua. Nhưng Yersin quyết định rời Hồng Kông. Anh viết thư cho toàn quyền ở Hà Nội. “Tôi cho rằng mục đích chuyến đi của tôi sang Hồng Kông đã đạt được, vì tôi đã tách được vi khuẩn dịch hạch, thực hiện những nghiên cứu đầu tiên về các đặc tính sinh lý của nó, và gửi về Paris đầy đủ mẫu vật để nghiên cứu tiếp.” Giữa tháng Tám, trên boong tàu anh chào tạm biệt vị thầy tu kiêm người lính Vigano tốt bụng, về Sài Gòn viết báo cáo về chuyến đi của mình như thể đó là một chuyến thám hiểm, trả lại các thứ thiết bị đã mượn. Anh viết những kết luận của mình vào một cuốn sổ: “Như vậy, dịch hạch là một thứ bệnh lây nhiễm và có thể tiêm phòng. Có khả năng chuột là vật truyền bệnh chính, nhưng tôi cũng đã nhận thấy rằng cả ruồi cũng mắc bệnh.” Trong vòng hai tháng ở Hồng Kông, thế là xong, lịch sử vĩ đại của bệnh dịch hạch. Anh nảy ra một ý tưởng mới. Lúc nào anh cũng gấp, Yersin ấy. Cứ như thể anh đã đi tìm vi khuẩn để làm vui lòng cái nhóm Pasteur nhỏ bé, như thế đấy, trong nháy mắt, giờ đây tôi có việc hay hơn, các anh sẽ làm tốt thôi, anh chia sẻ mà không giữ lại chút gì nhằm thúc đẩy việc tìm vắcxin và gửi đi gần như mọi nơi các mẫu trực khuẩn của mình đựng trong lọ thủy tinh nhỏ đóng dấu niêm phong, viết thư cho Calmette: “Tôi chẳng hề lo lắng cho việc anh cùng ông Roux phối hợp sẽ nhanh chóng đạt được kết quả.” Rốt cuộc những chuyến thám hiểm và nghề đi biển đã kết thúc với anh. Anh muốn lập căn cứ riêng ở Nha Trang, nuôi cừu hoặc mở ngành nông nghiệp, cuộc sống thực, hiện thực xù xì cần phải ôm lấy. Anh sẽ không quay lại cuộc đời đơn điệu của thủy thủ, và cũng đã quá tuổi để sống cuộc đời thám hiểm và các trận đánh với Thục. Anh cũng đã tìm lại sở thích nghiên cứu, ống nghiệm và kính hiển vi, những chiếc diều. Để làm được, anh cần một ít tiền, xin xỏ dăm ba đồng, danh tiếng của anh phải đưa ra làm tiền chút đỉnh với chính quyền. Có lẽ để dọa họ, anh dẫn Molière và lời đáp của La Flèche. Cầu cho tính keo kiệt và bọn keo kiệt mắc dịch hạch hết63. 63 Câu này (La peste soit de l’avarice et des avaricieux) xuất hiện ở màn 3, hồi 1 trong vở kịch Lão hà tiện của Molière. Ở Nha Trang Ngay khi trở về, anh bắt tay vào việc dựng một trung tâm khiêm tốn chuyên nghiên cứu các bệnh dịch ở động vật, anh hình dung ra việc xây dựng và chăn nuôi. Một tổ chức chính phủ trợ cấp cho anh năm nghìn đồng. Với số tiền ấy, anh dựng một phòng thí nghiệm thú y nhỏ. Anh định tiến hành nghiên cứu một mình, theo nhịp riêng. Mọi thứ bắt đầu ở gần căn nhà gỗ nơi Xóm Cồn, không xa bãi cát và tiếng rì rào của rặng dừa bên bờ nước, ở đó các ngư dân sáng sáng dùng dao mổ cá, moi bộ ruột đỏ lòm của những con cá lớn màu xanh lơ bên bờ nước. Anh muốn không phải đi đâu nữa, Yersin ấy, mà muốn nuôi trong lồng tre những con vật thí nghiệm, lũ chuột thường, chuột lang, khỉ và thỏ. Thiếu chỗ cho trâu bò. Anh ở quá gần biển. Vào mùa mưa bão, khi đám cọ rối bù lên, nơi này đôi khi bị ngập nước. Anh tìm một chỗ chắc chắn hơn để dựng chuồng trại. Chưa có con đường nào dẫn sâu vào đất liền. Anh bèn đi thuyền độc mộc ngược sông Cái đổ ra biển ở đoạn này, mua tòa thành Khánh Hòa cũ cách đây chừng chục cây số, sắp chỗ đủ cho khoảng hai mươi con ngựa, cùng chừng ấy trâu bò. Anh cần có một bác sĩ thú y. Ở Nha Trang, Yersin thuê đám con trai ngư dân rồi dạy chúng làm trợ tá phòng thí nghiệm trong cơ ngơi nhỏ bé của mình. Ở chỗ Calmette, anh kiếm được thiết bị và đồ thủy tinh, được cẩn thận chuyển từ tàu Saigon xuống xuồng rồi mang vào bờ, cũng như các tạp chí khoa học và chiếc xe đạp Peugeot mới tinh đặt mua bên Pháp ở chỗ nhà thủ công nghiệp khéo léo. Sáng ra, trên hàng hiên, anh vẽ các sơ đồ, chiều thì trông coi việc xây dựng phòng thí nghiệm, tối đến lại viết cuốn sách Ở chỗ người Mọi trong căn nhà, cuốn sách này anh bỏ tiền cho in mười lăm bản. Yersin chưa bao giờ tìm kiếm vinh quang, cũng chưa bao giờ vứt bỏ nó. Theo lời khuyên của Calmette, anh thuê một bác sĩ thú y quân đội từ Sài Gòn đến, Pesas, kẻ sẽ nhanh chóng ngã xuống chiến trường của ngành vi trùng học. Anh muốn sống ở đây, Yersin ấy, ở Xóm Cồn, trước con nước lóng lánh của mặt vịnh và những cây cau có dây trầu không leo, đám dừa, lũ trẻ, những mảnh lưới đánh cá được cánh phụ nữ ngồi vá ờ bờ biển, và tối đến lũ dơi chập chờn bay, cách xa sự sôi sục của những thành phố động kinh, ở giữa đời sống thực. Thỉnh thoảng vào ban đêm, anh nhớ tới thuyền trưởng Flotte, nói cho cùng, là người đã cho anh những thứ này, Nha Trang, các chuyến thám hiểm và danh tiếng. “Mặc dù nhìn chung thờ ơ với những dải ruy băng, tôi rất vui sướng vì được nhận Bắc đẩu bội tinh, nó sẽ giúp tôi đơn giản hóa nhiều điều.” Cả ở đây nữa, cũng như với nhân khẩu và tuổi thọ, tốt hơn hết là nên tránh mọi ghi nhận nhầm thời. Thời đó, người ta không trao huân chương cho các cầu thủ bóng đá. Năm ấy, một sĩ quan kỵ binh trẻ tuổi, Hubert Lyautey64, vừa sống hai năm ở bên Algérie, tại đó anh đã phê phán chút ít chế độ thuộc địa, vốn là một hậu duệ của cái nhóm nhỏ Sahara và của đại úy Rimbaud, tới thăm Yersin tại nơi ở ẩn của anh. Cuộc gặp giữa họ trong căn nhà gỗ đã được thuật lại bởi Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin. Hai con người này có khí chất thật giống nhau. Lyautey, vừa từ một công vụ bôn Madagascar trở về, ngưỡng mộ tinh thần doanh nghiệp của vị môn đệ Pasteur, người khám phá trực khuẩn dịch hạch và lẽ ra có thể nổi đình nổi đám tại các phòng khách Paris. Anh thăm các chuồng trại cùng phòng thí nhiệm nhỏ bên bờ nước. “Lẽ dĩ nhiên anh ta đã khởi động từ chỗ không có gì, thế mà đã mua được hai mươi con ngựa với giá 15 đồng một con để dùng làm vật thí nghiệm vắcxin, rồi liên danh với một bác sĩ thú y tên là Pesas, được anh ta chỉ giáo và truyền cho ngọn lửa nhiệt tình: và thế là tiến lên. Thật là những giờ khắc đầy khích lệ khi được ở trong ngôi nhà ấy, dù vẫn sơ sài, bên cạnh nhà bác học trẻ tuổi chẳng có nhu cầu riêng nào, chỉ duy nhất bị ám ảnh bởi công trình của mình.” Ở Paris đã nổ ra vụ Dreyfus từ mấy tháng nay. Cũng như xưa kia người ta từng buộc tội người Do Thái lan truyền dịch hạch, giờ dây người ta lại ngờ họ ủ men thất bại và phản bội nước Pháp. Yersin thấy tiếc vì bị thiếu thông tin. “Mẹ hỏi ý kiến của con về vụ Dreyfus, nhưng con không có ý kiến vì chẳng ai biết rõ các chi tiết vụ xử án. Có khả năng là các ông tướng đã không muốn phổ biến rộng rãi những chi tiết này, vì nếu làm vậy có thể sẽ có những bất tiện lớn.” Lyautey thuộc vào những người ngay lập tức tin viên đại úy vô tội. Anh đã cả gan viết công khai những nghi ngờ của mình đối với phán quyết của tòa án quân sự. “Sự hoài nghi của chúng tôi lại càng tăng, bởi vì chúng tôi thấy ở đây dường như có một áp lực từ cái gọi là dư luận hay nói đúng hơn là từ đường phố, từ đám tiện dân.” Ở hai con người này cũng tồn tại lòng căm ghét dư luận và sự thô thiển, đám đông. “Chúng hú hét đòi giết người Do Thái ấy bởi anh ta là người Do Thái và hiện giờ phong trào bài Do Thái đang thắng thế.” Nhưng đó là một chàng đồng tính luyến ái lên tiếng bảo vệ một tên Do Thái. Kẻ mù và tên què. Chuyện này khiến anh phải công khai giới tính mặc dù không hề mong muốn, và Clemenceau65, tuy ủng hộ Dreyfus, lại vờ vịt tỏ ra ngưỡng mộ lòng can đảm của Lyautey để nói: “Đó là một người đáng ngưỡng mộ, can đảm, luôn luôn có dái ở đít66 cho dù cái đít dó không phải của anh ta.” Cuộc sống chính trị nước Pháp vẫn còn đầy đực tính, và đôi khi những bài diễn văn ở Hạ viện dẫn đến kết cục là đánh đấm nhau ngoài đồng. Yersin biết rằng, dù cho có làm gì, thì cũng sẽ không dễ mà tránh xa toàn bộ sự bẩn thỉu chính trị này. 64 Hubert Lyautey (1854-1934): một vị tướng của quân đội Pháp, từng làm toàn quyền ở Maroc, sau thành thống chế. 65 Georges Clemenceau (1841-1929), chính trị gia Pháp, người dẫn dắt nước Pháp chiến thắng trong thế chiến thứ nhất. 66 “Có dái ở đít” (avoir des coquilles au cul) một cách nói tục chỉ một người đàn ông dũng cảm. Ở Madagascar Sống sẽ chẳng phải là sống nếu không di. Năm hai sáu tuổi, từ Paris anh viết cái câu kiểu Rimbaud này, như một câu thơ alexandrin, ở cuối một bức thư gửi Fanny. Anh đã đi không ít. Năm nay anh ba mươi hai tuổi. Một lần nữa, có một bức điện gửi cho anh được người ta chuyển khi tàu Saigon tạm đỗ để lấy hành khách, và Yersin, lúc giở tờ giấy xanh trong căn nhà gỗ, có lẽ đã bắt đầu nguyền rủa khám phá của mình. Người ta đề nghị anh “lên đường càng sớm càng tốt sang Diego-Suarez để nghiên cứu vi khuẩn bệnh viêm túi mật”. Anh được nhà nước Cộng hòa cử đi công cán, và rời Nha Trang lên Sài Gòn bằng tàu hơi nước. Tình trạng tài chính của anh được cải thiện. Anh vận một bộ comlê màu trắng ngà cắt rất khéo, dẫn theo một thanh niên, nhưng thật khó xác định, không phải phận sự của anh ta, mà là cái tên có thể dùng để gọi những phận sự ấy, phụ tá phòng thí nghiệm, thư ký hoặc trợ lý. Từ bấy trở đi, trong mọi chuyến đi của mình, Yersin cứ lần lượt dẫn theo một vài người mà anh gọi là những người phục vụ An Nam của tôi, cái nhóm nhỏ Yersin, đám con trai ngư dân mà anh đã dạy dỗ để làm điều chế viên, nhưng cũng để làm thợ cơ khí lo việc máy móc rồi không lâu sau đó lại lo cho cả xe hơi nữa. Ở trước xưởng Thủy quân, hai người lên khoang hạng nhất sang Aden trên tuyến đường của Hãng Đường biển. Lần này, Yersin lên bờ ở Yemen. Viên lãnh sự Pháp ở đây chuyển cho anh các chỉ dẫn của bộ. Anh khám phá cái nóng kinh người ở ngay rìa hoang mạc cát, quầng mặt trời đốt trắng mọi thứ ở Rub al-Khali và xứ Ả Rập lổn nhổn đá: “Xung quanh đây là một sa mạc cát tuyệt đối khô cằn. Nhưng ở đây, vách núi lửa ngăn gió thổi vào, và bọn con như bị quay dưới cái lỗ này, như trong một lò vôi.” Anh vận vest trắng, được tiếp rước ở nhà những người da trắng như một siêu sao, một sứ giả của thời hiện đại. Người ta mời anh đến sân hiên khách sạn Grand Hôtel Hoàn Cầu, đến Steamer Point, gần nhà tay thương thuyết Bardey, nơi thi sĩ qua đời bốn năm trước dó từng làm giàu, và theo truyền thuyết vẫn được nhiều người biết ở đây, thì tám kí lô vàng đeo ở thắt lưng làm cho thi sĩ có bước chân rất chệch choạc. Hẳn Yersin sẽ không bao giờ giàu bằng Rimbaud. Sau Ả Rập là châu Phi, và hai người cứ việc thong thả. Anh người hầu, ta có thể hình dung, không thất vọng về chuyến đi. Đó là Vạn Năng và Phileas Fogg67. Cực posh. Yersin sang Ai Cập 67 Hai nhân vật chính trong tiểu thuyết Vòng quanh thế giới trong 80 ngày (1837) của Jules Verne. Phileas Fogg là một người độc thân giàu có sống ở London, thực hiện nhiệm vụ đi vòng quanh thế giới trong 80 ngày để đoạt giải và đi xem kim tự tháp, đền đài, du thuyền buồm ngược dòng nước xanh lục của sông Nil, biết rằng Livingstone đã chết ở Tanganyika trong lúc tới đó tìm nguồn sông. Anh lên tàu đi Zanzibar, rồi La Réunion, ở lại đó một thời gian để tìm hiểu về nghề nông, các loại hoa và quế, và tại đó trước anh đã có sẵn những câu thơ của Baudelaire với một thiên thần chở che, bí mật. Đứa trẻ đọa đày, say sưa, mê mải ánh trời68. Đó là chuyến đi chậm xuôi theo Ấn Độ Dương, đường xích đạo, con tàu trượt trên vàng ròng và làn nắng óng69, eo Mozambique và Comores, Madagascar. Sau ba tháng lang thang, hai người ngụ lại Nossi-Bé. Họ ở trên đảo, “thay vì đi tới Majunga, vì bệnh sốt viêm túi mật thì ở Nossi-Bé cũng có chứ không riêng gì Majunga, mà ở Nossi-Bé thì lại dễ chịu hơn nhiều”. Yersin vốn ưa thích các bờ biển. Ngồi trên cái ghế bập bênh ngoài hàng hiên, anh giải khát bằng một cốc nước mát đã được lọc qua máy Chamberland, hoặc một cốc nước chanh, ở cái vùng đất không đông không hè này, mùa xuân và màu xanh lục bất tuyệt cùng cuộc sống tự do và vô tư lự. Anh nghĩ mình đã đi xa mà chẳng để làm gì, nhưng anh vẫn tiếp tục, thăm thú chỗ này chỗ kia, lấy các mẫu bệnh, chuẩn bị kính hiển vi và bơm tiêm, nghiên cứu thực vật và nghề trồng cây, khám phá những loài cây đặc thù và hoa quả ngon. Lần đầu tiên trong đời, anh đứng trước một cây cao su. Yersin dùng hai lòng bàn tay xoa tròn một cục mủ dinh dính, lấy ngón tay chọc qua, kéo nó, nặn hình một cái vương miện: một cái lốp cho chiếc xe đạp Peugeot của anh. Anh ngưỡng mộ trực giác và thiên tài của người phát minh ra bánh xe. Anh đoán rằng cái tên Dunlop sẽ ở lại ký ức con người sâu đậm hơn nhiều so với tên người phát hiện trực khuẩn dịch hạch. Bởi dịch hạch thì sẽ biến mất còn bánh xe thì phát triển rộng khắp. Tuy nhiên, có lẽ anh đã không hình dung được rằng trong vòng một thế kỷ các phương tiện dùng lốp, xe đạp, ôtô, xe máy, xe tải rồi máy bay, sẽ sánh ngang với nỗi kinh hoàng vĩ đại màu đen về lượng chết chóc tàn khốc mà chúng gây ra. Chuyến công du của anh ở Madagascar mang tính chính trị hơn khoa học, và Yersin không hề bị bịp. Đây là lịch sử vĩ đại của quá trình thuộc địa hóa. Người ta cử anh đi là để phổ biến hình ảnh nước Pháp, giống như sau này Lyautey sẽ được cử sang Maroc. Trong các cuộc lấy cung ở sở thưởng 2 vạn bảng Anh, còn Vạn Năng là vị thám tử nghi ngờ Fogg đã ăn trộm tiền ở ngân hàng Anh Quốc, bám theo để tìm mọi cách đưa anh về nước. 68 Đây là hai câu thơ của Charles Baudelaire trong bài Phúc trời (Bénédiction) trong tập thơ Hoa Ác: “Pourtant, sous la tutelle invisible d’un Ange, L’enfant déshérité s’enivre de soleil” Vũ Đình Liên dịch: “Nhưng có một thiên thần chở che, bí mật, Đứa trẻ đọa đày, say sưa mải ánh trời”. 69 Đây cũng là một câu thơ của Charles Baudelaire trong bài Mái tóc (La Chevelure) trong tập thơ Hoa Ác: “Où les vaisseaux, glissant dans l’or et dans la moire” Tạm dịch: “Nơi những con tàu, trượt trên vàng ròng và làn nắng óng”. cảnh sát, kẻ ác và kẻ hiền nối đuôi nhau. Nếu sự hiện diện của Yersin không đủ để thuyết phục người Madagascar thì người ta sẽ cử Gallieni70. Và bởi người Madagascar cứng đầu, Gallieni được cử tới. 70 Joseph Simon Gallieni (1849-1916) là một sĩ quan người Pháp, từng có nhiều hoạt động ở Bắc Kỳ. Sau khi qua đời được phong làm Thống chế. Vắcxin Còn Yersin được gọi về vào mùa hè. Đã năm năm anh xa Paris. Một năm sau chuyến sang Hồng Kông và phát hiện lừng danh. Chính phủ Cộng hòa đề nghị anh về Viện Pasteur lo việc con vi khuẩn trời đánh của anh. Ban đêm, nhà chức trách bắt đầu gặp ác mộng, vì cái đám dịch hạch đang thiu ngủ trong mấy cái lọ thủy tinh ngay giữa lòng Paris. Vì từ một năm nay, người ta nuôi nấng và chăm bẵm nó, con vi khuẩn trời đánh đó, mà chẳng tiến thêm mấy tí. Nói cho đúng thì họ dậm chân tại chỗ. Tại sao lại tiếp tục nuôi trong những bình mỏng mảnh con đàn cháu đống cái thứ bom vi trùng có khả năng lan tràn thảm họa, gây cho cả quận 15 nỗi kinh hoàng màu đen vĩ đại, tiêu diệt dân cư thủ đô, chỉ do sự vụng về của một nhân viên phòng thí nghiệm, do hành động của một kẻ bất bình thường, một tay nghiên cứu viên bẳn tính hoặc bị mọc sừng, của một nhóm khủng bố Nhật hay Đức chẳng hạn. Yersin ngụ tại Viện vì Lutetia lúc đó vẫn chưa xây. Nhà Boucicaut còn đợi gì nữa nhỉ. “Con lại đến ở Viện Pasteur. Con thấy rất vui vì như vậy còn sẽ có thể làm việc dễ dàng hơn, và con cũng đã quen với đám này rồi!” Cùng Roux và Calmette, anh bắt tay vào việc, hứa với Fanny là sẽ về Nhà Cây Sung thăm bà. Người ta đòi một tay dạy thú, thế mà anh tìm thấy ở phố Dutot con thú hoang xanh xao, sắp trầm cảm đến nơi, trong bộ pyjama ngồi ủ rũ suốt ngày, râu không cạo và hút thuốc liên tục. “Con phải kích động trở lại cái con vi khuẩn đó thôi, người ta đã có chút lơ là nó trong thời gian con vắng mặt. Rồi con sẽ cho cấy một lượng lớn bong bóng chứa dịch để chuẩn bị độc tố. Hi vọng rằng trong lúc nó thành hình trong ống nghiệm con sẽ có thể ghé qua Morges.” Cái phòng khách nhỏ đầy hoa sẽ không đủ chỗ tiếp đón hết cánh nhà báo. Danh tiếng của Yersin giờ đã ở mức toàn cầu. Ai cũng biết là trong nội tạng gà thì rất nóng. Bốn mươi hai độ. Nóng hơn nhiều so với trong nội tạng một con cừu. Vì cừu thì có len phủ bên ngoài. Pasteur là người đầu tiên, bằng cách nhét khắp nơi nhiệt kế vào lỗ huyệt và lỗ đít chim, nhận ra rằng nhiệt độ thân thể cao của một số loài chim ngăn các loại virus phát triển. Người ta tiêm mầm bệnh than cừu vào một con gà: nó chẳng hề quái gì, còn cười nữa. Nó thấy buồn buồn. Người ta nhúng nó vào một bồn nước lạnh: con gà liền bớt ngạo nghễ và lăn ra chết vì bệnh than. Nếu con gà nhúng nước được lôi ra kịp thời, nó vẫn mắc bệnh nhưng sẽ tự chữa khỏi, đập cánh để tự làm mình ấm lên, vừa đập vừa chửi rủa nhân viên phòng thí nghiệm. Yersin bèn tấn công vào bồ câu. """