"Ý Và Tình - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ý Và Tình - Hồ Biểu Chánh full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Hồ Biểu Chánh Ý Và Tình vietmessenger.com Triều, Xuân và Quan là 3 bạn thân cùng đang chuẩn bị thi bằng tú tài. Họ thân thiết với nhau đến độ ví mình là mai, lan, cúc, trước, ngặt vì chưa tìm được người thứ tư. Tuy là thâm giao nhưng mỗi người có một chí hướng: Triều quyết học cho mau xong để về quê lập gia đình và sống cuộc đời nông dân; Xuân mơ ước làm chuyện lớn nên quyết chi học cho tới nơi tới chốn, nhứt định không để vướng vít chuyện vợ con; Quan chỉ mong thi đậu rồi kiếm việc làm rồi lập gia đình. Xuân quen cô thợ may Quế, một cô gái tân học. Cô nhập vào nhóm bạn "mai, lan, cúc, trước" và thường gặp nhau để tranh luận. Ðến kỳ thi tú tài, Quan thi đậu và được bổ nhiệm làm quan, đúng như ý muốn. Trước và Xuân thi rớt. Trước về quê cưới vợ và lo canh tác ruộng của gia đình. Xuân quyết chi đi Tây học tiếp với hy vọng thành tài sẽ trở về giúp nước. Trong thời gian Xuân học ở Pháp thì Quế và Quan yêu nhau và lấy nhau, sống trong hạnh phúc. Sau khi học xong và lấy được bằng bác vật nông học Xuân về nước và tìm cách kêu gọi nông dân và chủ điền đoàn kết, học hỏi thêm kỹ thuật mới để tiến bộ, nhưng thất bại. Trong khi đó Xuân nhìn thấy hạnh phúc và thành công của bạn. Các bạn cố giúp để lôi Xuân về thực tế. Họ có thành công hay không, mời các bạn đọc tiếp....... Một kết thúc khá cảm động và lý thú mà Hồ Biểu Chánh đã xây dựng thành công trong chuyện „Ý và tình". Phần Tthứ Nhứt I Năm 1929, giữa tháng sáu, sau một cơn hạn kéo dài hơn 10 ngày, rồi liên tiếp mấy bữa giọt mưa chan tưới đều hết làm cho đồng ruộng chỗ nào cũng có nước đầy đủ. Nông gia hớn hở, ai cũng lo làm cho kịp thời. Cái quang cảnh ngoài đồng, ở miền Hậu Giang, có vẻ náo nhiệt khác thường, vì ở đâu người ta cũng lăng xăng hoạt động, vui vẻ cần lao, chỗ thì cào phát, chỗ thì cày bừa, chỗ thì nhổ mạ chở đi, chỗ thì lum khum cấy lúa. Lối hai giờ trưa, trên khúc liên tỉnh từ Sóc Trăng qua Bạc Liêu, có một chiếc xe hơi nhỏ, 2 chỗ ngồi, ở phía Sóc Trăng chạy vô, xe sơn màu đỏ và cũ xì, máy kêu rầy rà, thùng khua lạch cạch. Khi gần tới Phú Lợi thì giàn máy chúng chứng, không muốn quay nữa, bởi vậy xe lúc chạy được, lúc rề rề, giục giặc một hồi rồi người sốp-phơ 1 khó ép buộc giàn máy ráng nữa được, nên phải đành ngừng sát bên lề đường mở cửa leo xuống. Một cậu trai, chạc chừng đôi mươi tuổi, gương mặt sáng sủa, bộ tướng mạnh mẽ, mình mặc một bộ Âu phục bằng bố xám may thiệt khéo, mà trên cánh tay trái lại có cuốn một miếng nỉ đen, cậu cũng mở cửa xe phía bên kia mà bước xuống gọn gàng. Cậu thấy sốp phơ đương lum khum dòm vô giàn máy thì cậu hỏi: - Sao mà giục giặc vậy? Nghẹt xăng phải không? - Thưa, không phải, xăng xuống đều lắm, chắc thiếu lửa, để tôi coi lại coi. - Mấy bữa đám ma, anh đi chợ hoài, có giục giặc như vầy hay không? - Thưa, không. Hổm nay chạy êm lắm mà. Xe tuy cũ nhưng mà nhờ ông ít đi, nên máy còn tốt, có hư đâu. - Anh ráng sửa, chớ nếu nằm đường chỗ nầy thì khổ lắm đa. - Thưa, có lẽ nào mà nằm đường. Cậu chơi một chút đợi tôi kiếm coi hư cái gì mà trắc trở đây. Cậu trai nầy là cậu Xuân, con của Hội đồng Kinh ở trên Bình Thuỷ, thuộc tỉnh Cần Thơ. Cậu là con một, mồ côi mẹ từ hồi mười hai tuổi, học đã đậu tú tài Phần thứ nhứt, rồi mới đây ông Hội đồng lại từ trần, làm cho cậu từ còn non nớt, đương chăm chú về đèn sách, chớ chưa để ý đến việc đời, mà bây giờ trơ trọi có một mình, trong nhà không còn cha mẹ, lại cũng không có anh em, nên cậu phải lo lắng mọi bề, phải sắp đặt các việc. Cậu thọc hai tay vào túi quần mà đi qua đi lại trên lộ, trong trí tư lự rồi sự lo biểu lộ ra ngoài, nên sắc mặt coi rất nghiêm trang. Trời ui ui chớ không nắng, lại nhờ ngọn gió Tây thổi lao xao, bởi vậy không khí được mát mẻ rồi làm cho con người khoẻ khoắn. Cậu Xuân ngước mắt mà ngó tứ hướng, thấy dưới ruộng chẳng cách lộ bao xa, có một đám đàn bà, đầu đội nón lá, quần xăn lên tới bắp vế, đương lum khum cấy lúa. Mỗi người đều chăm chú về công việc của mình, hễ tay đâm cây nọc 2, thì tay rút tép mạ mà giâm 3liền, làm rất lẹ làng, làm hoài không mỏi. Gần đó lại có một đám đàn ông ở trần phơi lưng đen trạy, người thì đem đám mạ rải trên ruộng đã dọn dẹp sạch sẽ rồi, người nào mình mẩy cũng lấm lem, song ai cũng hớn hở vui cười, chớ không phiền về việc cực nhọc. Phía bên nầy lộ có hai cặp trâu đương trục đặng dọn đất cấy, hai người đứng trục tay huơi ngọn roi mây, miệng la thá ví 4 om xòm. Gần đó có một đứa trẻ cỡi một con trâu, tay dắt theo một con nữa, nó ngồi trên lưng trâu, quần áo tả tơi, mái tóc xấp xải, mà có lẽ nó vui lòng đắc ý lắm, nó nghêu ngao hát: "Em ơi đám bắp trổ cờ, Đám dưa trổ nụ, em chờ mà ăn" Cậu Xuân lắng nghe lời lẽ rất thật thà, khác hẳn với giọng du dương, tứ dâm dật, của những câu hát ở thành thị, cậu chúm chím cười, đứng ngó trân trân theo đứa cỡi trâu đang thủng thẳng đi lần vào xóm. Mà trong xóm bây giờ lại có khói bay là đà trên mái lá của mấy nhà nhỏ dựa mé ruộng, cậu thấy vậy thì tin chắc trong nhà lo nhúm lửa nấu cơm đặng gần tới giờ mấy người đi trục, cấy và nhổ mạ nầy về có sẵn mà ăn. Cậu Xuân tuy sinh trưởng nơi chốn điền viên, nhưng mà vừa lớn lên thì cậu mắc đi học, lúc bãi trường về nhà thì cậu mắc đi chơi. Đã biết cậu có thấy người ta cày, trục, cấy, nhổ mạ và gặt lúa, song thấy là thấy thoáng qua trước mắt, chớ cậu chưa quan sát cho tường tận những công việc cực nhọc của nông phu. Hôm nay tình cờ mà cậu phải đứng lâu giữa đồng, đứng rồi tự nhiên ngó chơi mấy việc của nông phu đương làm, cậu ngó một hồi sanh cảm, trí bắt đầu suy nghĩ đến sự sống của kẻ ở chốn thôn quê. Từ đứa nhỏ cỡi trâu kia, cho tới đám đàn bà cấy lúa nầy, tới mấy anh đàn ông đứng trục và nhổ mạ đó, mỗi người đều dãi nắng dầm mưa cả năm, mọi người đều cực thân nhọc xác tối ngày, mà coi bộ ai ai cũng vui vẻ hăng hái, cực mà chẳng hề than phiền, nhọc mà chẳng hề thối chí. Hết mùa cấy rồi tới mùa gặt, hết mùa khô rồi qua mùa ướt, quanh năm cứ chuyên làm cho ra hột lúa hoài. Như may được trúng mùa lúa tốt, hột nhiều nên vui mà làm nữa, ấy chẳng lạ chi; rủi gặp thất mùa, huê lợi không xứng với công phu cực nhọc, mà cũng vẫn hăng hái làm nữa, ấy mới thiệt mà kiên tâm bền chí. Rõ ràng nông phu nước mình là hạng người vui vẻ mà chuyên cần lao, tận tụy với nghề nghiệp, sống thác với vườn ruộng, ai giàu sang mặc ai, ai khôn khéo mặc ai, miễn là mình an phận thủ thường, lòng bình tịnh, trí thơ thái thì thôi. Con người mà có đức tánh như vầy, thì sự sống tự nhiên vui vẻ khỏi buồn, khỏi lo, lại có thể giúp nhà thêm giàu, nước thêm mạnh. Cậu Xuân nghĩ tới đó thì phát tâm yêu mến kính phục nông phu, rồi nhớ tới phận mình đương hăng hái học tập tài trí đặng tranh khôn, tranh khéo với đời, thì trong trí phưởng phất chút ít sự hối ngộ. Mà vừa hối ngộ thì cậu liền nghĩ nông phu có cái thú thong thả thiệt. Nông nghiệp là một nguồn lợi lớn của nước nhà thiệt, song nếu muốn dân giàu nước mạnh, thì cần phải gầy dựng công nghệ, mở rộng thương trường nữa mới được, chớ cả mọi người chuyên cày sâu cuốc bẫm, thì nền kinh tế khó mà thạnh vượng. Đời tấn hoá thì người phải tấn hoá theo... Cậu Xuân nghĩ chưa hết ý, kế nghe xe hơi rồ xăng. Cậu mừng rỡ chạy lại chỗ xe đậu mà hỏi: - Chạy được rồi hả? Sốp-phơ lắc đầu đáp: - Thưa, ít lửa quá. - Sao máy chạy được đó? - Tuy chạy được, nhưng chạy không đều, hễ hụt lửa là tắt. - Bây giờ làm sao? - Để ráng chạy thử coi. - Ừ, anh ráng chạy cho tới Bạc Liêu. Nếu tối thì tôi ghé nhà anh Triều tôi nghỉ, để anh sửa máy cho tử tế rồi ngày mai mình sẽ đi Cà Mau. -------------------------------- 1 tài xế dụng cụ bằng gỗ dùng để cấy lúa ở vùng Tiền- Hậu giang. Sử dụng cây 2 nọc, công cấy có thể cấy đạt tốc độ rất cao so với kỹ thuật cấy tay không ở Trung và Bắc 3 cấm mạ vào 4 tới lui,mặt trái II Đến chiều, mặt trời ló ra một chút rồi chen lặn lần lần vào một vùng mây đen kịt, giăng sừng sựng như một dãy núi cao bên hướng Tây. Đi tới nhà Ông Từ Tệt, ở ngoài châu thành Bạc Liêu, dựa bên lề đường đi Cà Mau, xe của cậu Xuân mới quẹo vô sân rồi đậu ngay trước thềm. Cậu Xuân thủng thẳng mở cửa ra bước xuống, sốp-phơ rồ xăng, máy kêu ồ ồ, khói ra nghi ngút. Ông Từ Tệt, đã gần 50 tuồi, đương ngồi trong nhà đọc truyện "Đông Châu liệt quốc", bỗng nghe có tiếng xe hơi vô sân, thì ông lơn tơn bước ra cửa đứng ngó, mình mặc một cái quần lãnh đen mới tinh, với một cái áo lá lụa trắng, để trống hai cánh tay rất cứng cỏi mạnh mẽ. Cậu Xuân vừa thấy chủ nhà thì vội vã cúi chào rất hiệp lễ, nhích miệng cười, đôi môi đỏ lòm như thoa son, hai hàm răng trắng trong và khít rịt. Ông Từ Tệt mau mắn hỏi: - Cháu có việc gì hay sao mà đi tối như vầy? - Thưa, cháu đi Cà Mau nên ghé thăm chú thím với anh Triều. - Cháu đi thăm ruộng phải không? - Dạ. Thưa chú, không biết có anh Triều ở nhà hay không? - Không có. Nó đi chơi ngoài Đà Lạt. - Ủa? Ảnh tính lên Đà Lạt mà sao hôm lên đám ba cháu ảnh không nói cho cháu hay! Thưa, ảnh đi hồi nào? - Nó mới đi hôm qua. Lúc nầy bãi trường, có hai thầy giáo muốn ra ngoài đó nghỉ chơi ít ngày, họ rủ nó, nên nó đi với họ. Nó nói nó đi chừng gần khai trường rồi nó sẽ về mà đi học. - Anh nầy thông thả quá! Còn gần một tháng nữa mới khai trường. Nếu vậy thì anh Triều sẽ ở lại Đà Lạt lâu lắm. - Phải. Nó nói nó ở vài mươi ngày. Cháu đi Cà Mau, mà bây giờ gần tối rồi, đi làm sao được? - Cháu thưa thiệt với chú, ở nhà cháu đi hồi 12 giờ trưa, tính chiều chắc xuống tới Cà Mau, không dè cái xe bất nhơn quá, máy thiếu lửa, nên từ Phú Lộc qua đây cứ giục giặc hoài, nên bây giờ cháu mới tới đây. Đường đi Cà Mau còn tới 60 cây số, mà trời đã tối rồi, nếu xe nằm đường thì cháu chắc sẽ nhịn đói, mà lại bị muỗi cắn nữa. Vậy cháu xin chú cho cháu nghỉ đây một đêm, cho sốp-phơ sửa máy cho tử tế rồi sáng mai cháu sẽ đi. - Được, được. Cháu vô nhà...Anh Hội đồng mới mất mà cháu đã biết đi thăm ruộng như vậy thì được lắm. Chú khen đa. Cháu phải nong nả 1, chớ đừng có bỏ phế như anh Hội đồng thì uổng lắm. Có đất mà không lo khai phá, thì làm sao thành điền cho có huê lợi được...Thôi, vô đây cháu, vô chơi một chút rồi thím cháu sẽ về ăn cơm. - Té ra cũng không có thím ở nhà? - Bả đi với con Quyên vô trong chợ, đi từ hồi 4 giờ, chắc cũng gần về. Cậu Xuân vui vẻ day lại kêu sốp-phơ biểu kiếm chỗ để xe và dặn phải ráng sửa máy để sớm mai đi khỏi trục trặc nữa. Ông Từ Tệt chỉ một cái nhà trống bên phía tay mặt mà biểu sốp-phơ đem xe vô đó, rồi ông mới dắt cậu Xuân vô nhà. Ông Từ Tệt ở một toà nhà rộng lớn, nền đúc cao ráo, sau có nhà cặp, hai bên có hai lẫm lúa, coi rất đồ sộ. Tuy ông gốc con cháu khách, song ông cố lo làm giàu, chớ không chịu khoe khoang kiêu hãnh như mấy ông nhà giàu mới trong xứ, bởi vậy kiểu nhà ở ngoài trông không có vẻ mỹ thuật mà trong nhà bàn ghế cũng lôi thôi, không có vẻ thanh nhã. Cậu Xuân vô nhà, vừa ngồi thì liền hỏi theo lệ thường của hạng người có giáo dục: - Thưa, chú thím ở dưới nầy mạnh giỏi? - Thím của cháu thì mạnh. Còn chú từ hôm đưa đám tang của anh Hội đồng về rồi hai cái vai nó nhức dữ quá, nhức gần 10 bữa ngồi không được, mới bớt vài bữa rày đây. - Chắc tại chú lên ở mấy bữa đó chú ngồi hoài nên mệt mỏi rồi nhức vai chớ gì? - Có lẽ tại vậy đó. Một đời người có một lần chết mà thôi. Anh Hội đồng là anh em thuở nay yêu thương nhau, rủi ảnh từ trần, chú phải ở mà đưa ảnh lên đường cho bảo mãn, chớ lên thăm nhếu nháo 2 rồi bỏ về sao được. Vì mấy bữa đó khách khứa đông phải ngồi nói chuyện với người ta, nên có mỏi mệt chút đỉnh. - Chú trộng tuổi mà chú ráng ngồi luôn mấy bữa tự nhiên phải bịnh. - Không đến nỗi bịnh. Nhức mỏi hai vai chút ít vậy thôi. Anh Hội đồng mất rồi, bây giờ cháu còn có một mình, nhà cửa minh mông mới làm sao đây? Ai coi trong, ai lo ngoài? Chắc cháu phải thôi học và lo cưới vợ đặng có người giúp coi nhà cửa cho cháu, lo về ruộng vườn mới được. - Thưa, cháu không thể thôi học được. Cháu cũng như anh Triều, thi Tú tài đã đậu một phần thứ nhứt rồi. Vậy phải ráng học thêm một năm nữa đặng thi phần thứ hai cho xong rồi sẽ hay. Mà dầu thế nào thì cháu cũng không cưới vợ. - Sao vậy? - Cháu muốn thong thả đặng bay nhảy với đời. Có vợ con lòng thòng khó mà lo việc lớn cho được. Cháu chắc cái đời của cháu là đời cô lập, chẳng bao giờ cháu có vợ đâu. - Cháu nói kỳ cục quá! Người ở đời có ai mà không có vợ. - Thưa chú, có chớ. Cháu thấy có nhiều người họ ở một mình, không thèm cưới vợ, bởi vậy họ thong thả mà kinh dinh sự nghiệp được. Cháu muốn bắt chước làm theo những người ấy. - Cháu nói quấy. Không phải vậy đâu. Dầu ở đâu cũng vậy, ai cũng phải coi gia đình là một điều quan hệ, cần thiết hơn hết của con người. Phải có gia đình mới có Quốc gia. Nếu bỏ gia đình thì lấy chi mà duy trì chủng tộc. Mà nếu chủng tộc tiêu tuyệt thì còn chi mà lập thành Quốc gia. Ấy vậy dầu cháu học giỏi đến bực nào đi nữa, cháu cũng chẳng nên quên sự ấy. Cháu phải tôn trọng gia đình, cháu phải lo gầy dựng gia đình, rồi muốn làm việc chi sẽ làm. Muôn việc ở đời phải có gốc rồi mới có ngọn. Cháu muốn làm việc lớn mà cháu không lo bồi đắp cái gốc trước cho vững chắc, thì dầu làm việc gì cũng khó nên được. Cậu Xuân không cãi mà lại chúm chím cười làm cho Ông Từ Tệt thấy rõ ý cậu không phục lời ông giảng dạy đó. Ông là một người nuôi chủ nghĩa thực tế, lại có tánh kiên nhẫn đầy đủ, bởi vậy ông không ngã lòng, cứ chậm rãi nói tiếp: "Theo phận của cháu thì cháu cần phải lo lập gia đình hơn người khác. Anh Hội đồng sanh có một mình cháu. Cháu phải lo cưới vợ đặng có con mà phụng tự ông bà, nối nghiệp về sau chớ. Theo phong tục người mình, bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Cháu không nhớ câu đó hay sao? ". Cậu Xuân châu mày suy nghĩ một chút rồi đáp: - Bề nào thì cháu cũng phải lo học đặng lấy cái bằng cấp Tú tài phần thứ nhì rồi sẽ hay. - Cháu đi học nữa, rồi bỏ nhà cửa, ruộng vườn cho ai coi? - Cháu đã có cậy bà cô với ông dượng của cháu về ở coi nhà dùm cho cháu. - Cô ruột phải không? - Thưa, không. Cô bà con một họ, thuở nay ở gần một bên nhà cháu. Cháu hứa cho huê lợi trong vườn nên vợ chồng cô bằng lòng. - Nghe nói nhà cháu đó là nhà thờ phải hôn? - Thưa, phải. - Người ta nói mấy năm sau đây, anh Hội đồng có bán đất cũ của ảnh ở trên Bình Thủy. Vậy chớ bây giờ ảnh còn ruộng đất ở trển được bao nhiêu, cháu biết không? - Thưa, không còn chi hết. Ba cháu đã bán hết mà trả nợ, bây giờ còn một mẫu vườn là đất hương hoả chỗ nhà thờ đó với một ngàn mẫu đất mua của Nhà nước ở trong làng Tân Hưng, dưới Cà Mau mà thôi. - Sở đất dưới Tân Hưng thì chú biết, bởi vì chú cũng có một sở giáp ranh đó. Sở đất đó tốt lắm. Tại anh Hội đồng có bịnh, ảnh không xuống được để qui tụ tá điền mà khai phá, ảnh cho Hương thân Kiêm nó hoá 3, mỗi năm nó đóng cho ảnh vài ba ngàn giạ lúa, thiệt uổng hết sức. - Thưa chú, lúa ruộng của chú chắc là nhiều lắm? - Chút đỉnh, chú góp không tới 50 ngàn giạ. - Trời ơi! Năm chục ngàn giạ mà chú nói là chút đỉnh. - Người ta góp tới một hai trăm ngàn giạ kia chớ. - Cháu cầu được như chú thì sung sướng lắm rồi, không cần nhiều hơn nữa. - Cháu muốn được số lúa gạo bằng của chú, thì cháu phải lo khai phá đất ở dưới Tân Hưng đó đi. Hễ cháu lo làm ăn thì tự nhiên cháu sẽ giàu, chắc chắn như vậy. Có đất sẵn, nếu biết cần mẫn, biết bền chí thì làm giàu dễ như chơi, Cậu Xuân không muốn kéo dài câu chuyện ấy nữa, nên cậu trở mái mà hỏi: - Từ hồi bãi trường năm ngoái tới giờ, cháu không có xuống dưới nầy, nên không có gặp em Quyên, không biết năm nay em còn nhõng nhẽo hay không? - Vì má nó cưng nó quá, nên nó nhõng nhẽo lung lắm, làm sao mà hết được. Nó học trường con gái ở đây năm nay lên tới lớp nhứt rồi đó. Nó thấy con người ta đi học trên Sài Gòn, nó cứ đòi đi. Thím của cháu sợ nó đi xa rồi nhớ nó, nên không chịu cho nó đi. Nó làm giận làm hờn hổm nay. - Cho em lên Sài gòn học mau hơn chớ. - Chú cũng muốn như vậy, ngặt vì thím của cháu không chịu rời nó ra. Thôi, để nó học lớp nhứt dưới nầy cho có bằng Sơ học rồi sẽ hay. - Nước da của em còn đen không? - Nó là "Tiểu thơ mặt lọ" làm sao hết đen cho được. - Con gái mà đen quá, chừng em lớn làm sao mà gả lấy chồng. - Lo gì cháu! Nghèo kia mới sợ, chớ hễ có tiền thì nó bao phủ, rồi có thấy đen hay trắng gì đâu. - Chú nói đúng lắm. Đời nay thiên hạ họ coi tiền là hơn hết. Ông Từ Tệt cười. Cậu Xuân cũng cười. Trời đã tối. Gia dịch đốt đèn bưng ra. Sốp phơ xách va ly của cậu Xuân đem vô nhà cho cậu. Bà Tệt với con gái là cô Quyên đi chợ về. Khi bước vô nhà thấy Xuân thì bà mừng rỡ, rồi bà day lại hỏi con:" Con có biết anh nào đó hay không?" Cô Quyên nay đã 15 tuổi, nước da bánh ếch lại mặc đồ đen, nên coi gương mặt tối hù. Cô nghe mẹ hỏi thì cười và đáp: "Anh Xuân là con bác Hội đồng trên Cần Thơ chớ ai." Bà Tệt vui vẻ hỏi Xuân: - Cháu xuống hồi nào? - Thưa, cháu xuống hồi chiều. - Sao cháu không đi sớm mai? Cháu đi tối rồi bỏ nhà cửa ai coi cho cháu? Ông Từ Tệt hớt mà đáp: - Cháu nó nói có bà cô với ông dượng về coi nhà dùm. Nó đi Cà Mau, bị xe trục trặc lỡ tối nên ghé đây mà nghỉ rồi sớm mai sẽ đi. Má nó biểu bầy trẻ dọn cơm riết đi đặng cháu nó ăn với. Bà Tệt nghe như vậy thì vội vã đi thẳng vô nhà sau. Cô Quyên, tóc còn bỏ xoã sau lưng chớ chưa bới, cô ngó cậu Xuân mà cười rồi đi theo mẹ vô trong. Cách chẳng bao lâu cô Quyên trở ra mời cha và cậu Xuân vô trong dùng cơm. Bốn người ngồi chung quanh một cái bàn tròn, Quyên ngồi gần Xuân cứ ngó Xuân mà cười. Bà Tệt hỏi Xuân: - Cháu đi Cà Mau thăm ruộng hay có việc chi? Xuân dụ dự một chút rồi mới đáp: - Dạ thưa... cũng vì việc ruộng đất đó nên cháu mới đi. - Cháu muốn kiếm người khác mà cho hoá phải không? Bây giờ lỡ mùa rồi, muốn đổi người hoá thì phải chờ cho qua tháng giêng gặt rồi mới đổi được. Mà theo ý thím, thì cháu nên xuống đó cất nhà cất lẫm mà ở rồi qui tụ tá điền, bổn thân cháu khai phá thì tốt hơn. Họ hoá đất, họ lo kiếm cơm họ ăn, chớ họ có lo làm ruộng mình tốt đâu. Nếu cháu không cho Hương thân Kiêm hoá nữa, cháu đổi người khác thì cũng vậy. Đất của chú thím cũng mua một lượt với đất của anh Hội đồng. Nhờ chú thím ra công khai phá, nên bây giờ thành điền hết rồi. Thím mắc ở dưới gần một tháng, thím coi cấy xong, thím mới trở về ba bữa nay, chớ không thím đi theo cháu đặng thím chỉ cho cháu coi. Một ngàn mẫu của chú thím năm nay cấy giáp hết. Thím cho mướn tới hai giạ một công. Mấy chỗ tốt tới hai giạ rưỡi. Cháu ra công mà làm, trong ít năm nữa rồi đất của cháu cũng thành điền tốt như vậy. - Cháu không biết làm ruộng lại không có vốn, nên khó mà làm được. - Cháu không biết thì chú thím chỉ cho; còn như thiếu vốn thì chú thím giúp cho. - Cháu xin thưa thật với thím, không biết ngày sau như thế nào, chớ hiện giờ cháu không thích nghề làm ruộng chút nào hết, cháu muốn học cho có tài rồi làm những việc vĩ đại kìa. - Cháu không thích làm ruộng, là vì cháu chưa đặt chơn vào nghề ấy. Nghề làm ruộng vui lắm cháu. Lúc cấy rồi, lúa lên tươi tốt, sớm mai hoặc chiều mình ngó vô ruộng thì trong lòng khoẻ khoắn không biết chừng nào. Lúc lúa trổ đều rồi, hay là lúc lúa chín cũng vậy, nhà nông vui vẻ vô hồi. Lại ở ruộng, mình trồng cây trái chung quanh nhà, mình nuôi gà vịt, mình trồng cải rau, mình đào ao nuôi cá, mỗi ngày mình chăm sóc thú mình nuôi, mình vun phân tưới nước đồ mình trồng, vui biết bao nhiêu. Chốn điền viên có nhiều thú vui lắm cháu. - Cháu thưa thiệt, tâm hồn của cháu chưa biết thú vui ấy. Ông Từ Tệt cười và nói: - Hồi chiều cháu nói cháu không thèm cưới vợ, nghĩa là cháu nói cháu không biết yêu thú gia đình. Bây giờ cháu lại nói cháu không thích thú điền viên. Thiệt chú không hiểu ý cháu muốn sự gì. Cháu không chịu làm ruộng, vậy chớ cháu xuống Cà Mau làm chi vậy? Xuân lơ lửng một chút rồi thủng thẳng đáp: - Cháu xin tỏ thật với chú thím, có ông Cả Bình ở dưới Cà Mau lên hỏi cháu mà mua sở đất của ba cháu đó. Vì vậy cháu đi xuống đó đặng tính thử coi. Ông Từ Tệt nghe mấy lới ấy thì ông chống đũa ngó Xuân trân trân và hỏi: - Cháu tính bán sở đất đó hay sao? - Thưa, đất ở xa quá, lại nước mặn, phần thì cháu không thạo ruộng nương, bởi vậy cháu tính nếu họ mua phải giá thì bán cho rảnh. - Hứ! Anh Hội đồng mới mất mấy bữa rày, cháu làm giống gì mà gấp dữ vậy? - Cháu không biết làm ruộng, nếu để ruộng thì không có ích chi. - Ruộng mà cháu nói không có ích, thế thì còn thứ gì có ích nữa đâu! Anh Hội đồng mất, ảnh không có chút ít tiền bạc gì cho cháu hay sao, nên cháu phải bán đất mà xài? - Thưa, hôm ba cháu mất, cháu mở tủ sắt thì còn một ngàn bảy trăm đồng, tống táng ba cháu thì chỉ tốn có 900đ00, trong nhà còn dư lại được 800đ00. - Còn dư tiền sao lại lật đật bán đất? Người có chí cần kiệm, nếu hễ có vốn tám trăm đồng, thì họ làm rồi có thể gây dựng sự nghiệp lớn được. Hồi chú cưới vợ rồi ra ở riêng, chú chỉ có năm trăm đồng mà thôi, chớ nhiều nhỏi gì. Cháu bây giờ có tới tám trăm đồng, lại có một ngàn mẫu đất, có nhà cửa vườn tược sẵn sàng nữa. Cháu có đủ phương thế làm giàu, sao cháu không tính bồi đắp mà lại tính phá hoại? Xuân thấy sắc ông Từ Tệt không vui, lại không kiếm được lời mà đáp với mấy câu hữu lý của ông, bởi vậy cậu không cãi nữa. Ăm cơm rồi, bà Tệt biểu Xuân thay đồ mát và biểu người nhà trải chiếu giăng mùng sẵn tại bộ ván lớn để Xuân nghỉ. Ông Từ Tệt ngồi tại bàn giữa mà ăn trầu, có cô Quyên cà rà ngồi một bên. Chừng ông thấy Xuân thay đồ mát rồi, ông mới kêu cậu lại ngồi ngay trước mà hỏi: "Hồi chiều cháu nói dầu thế nào cháu cũng đi học nữa, chớ cháu không chịu bỏ học để cưới vợ mà lo việc nhà. Nếu cháu đi học nữa, mà cháu bán đất rồi cháu lấy tiền bạc làm việc gì đâu, cháu nói chú nghe thử coi." Xuân suy nghĩ một chút rồi đáp: - Cháu bán đất lấy bạc gởi hết vào ngân hàng, mỗi năm cháu rút số tiền lời mà ăn học. Chừng nào cháu học thành tài rồi, cháu sẽ dùng số bạc ấy để làm vốn mà làm ăn. - Vậy cháu giữ nguyên đất ấy, mỗi năm cháu lấy huê lợi mà ăn học không được sao? - Huê lợi ít quá, lại nếu để đất thì mỗi năm phải lo đóng thuế, phải lo cho mướn, phải lo thâu góp lúa ruộng, cực lòng mà lại tốn hao nữa. - Cháu cần dùng tiền mà ăn học mỗi năm chừng bao nhiêu? - Thưa, chừng vài ba ngàn. - Học gì mà lại tốn hao dữ vậy? - Cháu tính hễ lấy đủ hai bằng Tú tài rồi thì sẽ đi Tây mà học thêm nữa, học cho tới bực cao đẳng. Ông Từ Tệt gãi đầu, châu mày rồi nhìn vợ nằm bên bộ ván ngang đó. Bà Từ Tệt nói: - Cháu nói mỗi năm cháu cần dùng ba ngàn đồng bạc mà ăn học. Vậy thôi cháu đừng bán đất; cháu để thím mướn, mỗi năm thím trao cho cháu ba ngàn, thuế vụ thím đóng cho hết thảy. Xuân ngồi lặng thinh suy nghĩ. Cô Quyên ngó cậu mà cười, song cậu cũng giữ một mực nghiêm nghị. Ông Từ Tệt hỏi: - Anh Hội đồng mất, mà ảnh có để nợ nần gì hay không? Cháu nói thiệt cho chú biết. - Thưa, không. Ba cháu mắc nợ năm ngoái đã bán đất Bình Thuỷ mà trả dứt rồi, không còn thiếu ai đồng nào hết. - Nếu không có nợ sao lại lật đật bán đất? Nầy cháu, tuy anh Hội đồng với chú là anh em bạn, chớ không phải anh em ruột thịt, song thuở nay chú thương ảnh lung lắm. Vì thương nhau nên năm trước chú mới xúi ảnh đấu giá mua đất Cà Mau đó. Chú mua một ngàn mẫu, ảnh mua một ngàn mẫu, hai anh em tính hiệp lực mà khai phá. Vì bị họ giành mua nên mới mắc một chút. - Cháu có coi giấy tờ, mua sở đất đó tốn gần 30 ngàn. - Phải, tuy nói mắc, song theo giá bây giờ thì không mắc đâu. Tiếc vì mua mới có một năm kế ảnh có bịnh, rồi ảnh phải hút, nên không thể chịu cực xuống Cà Mau ở mà khai phá được. Nay ảnh theo ông, theo bà, cháu là con trai thôi đừng đi học nữa, cháu cưới vợ rồi xuống ở Cà Mau, lo qui tụ tá điền mà mở đất. Chú dám nói chắc, cháu khai kinh đắp đập, lên bờ, làm trong năm năm thì cháu sẽ trở nên một vị điền chủ lớn, có đôi ba chục ngàn huê lợi. Như cháu chịu làm thì chú sẽ bày bảo giùm cho, có cần dùng tiền mà đào kinh cất nhà, hoặc mua lúa mà nuôi tá điền, thì chú sẽ giúp cho. Chú thương cháu cũng như thằng Triều nên chú mới chỉ bảo như vậy; cháu phải nghe lời chú. Xuân ngồi cạy móng tay mà suy nghĩ. Cô Quyên mới lấy một cái vú cau mà liệng trúng cánh tay Xuân mà cười ra tiếng. Bà Tệt thấy vậy thì trách con: "Đừng có vô phép như vậy con. Để anh con nói chuyện chớ." Xuân lượm cái vú cau mà quăng lại cô Quyên rồi cười và đáp với ông Tệt: - Chú cứ xúi cháu cưới vợ hoài. Đời nầy bọn thanh niên như cháu đều muốn hưởng trọn quyền tự do của mình đặng hoạt động cho dễ. Cưới vợ rồi thì vợ con ràng buộc làm cho bước đường đời lúng túng, khó mà tính việc cao xa vĩ đại cho được. - Cháu không muốn cưới vợ thì thôi. Mà bề nào cháu cũng đừng bán sở đất đó, bán uổng lắm. Đất đến một ngàn mẫu, dễ gì kiếm hay sao cháu. Đó là cái cơ sở để giúp cháu làm giàu, lại làm giàu lớn nữa. Hột lúa quí lắm, cả bầu trời đâu đâu cũng cần dùng. Mình ở nhằm chỗ đất điền phì nhiêu, tự nhiên mình phải làm có lúa cho nhiều đặng mà lấy lợi. Nghề nông lợi lắm, lại thong thả nữa. - Cháu cũng biết nghề nông thì lợi lắm. Mà bây giờ cháu còn nhỏ nên cháu muốn đi học, chớ chưa muốn làm ruộng. Cháu phải học cho rộng trí thức tài nghề, đặng như có làm ruộng thì làm theo cách văn minh, dùng máy móc, làm cho có hột lúa nhiều, hột lúa nặng cân đặng bán cao giá. - Văn minh làm gì cháu. Cháu làm theo cách quê mùa thuở nay đó thì cũng có lúa được vậy. - Nghề gì cũng vậy, phải tấn hoá chớ. Ông Từ Tệt có tánh ngủ sớm, nên ông không cãi nữa, đứng dậy đi uống nước, sửa soạn ngủ. Cô Quyên liền hỏi Xuân: - Khai trường anh cũng lên Sài gòn mà học nữa như anh Hai tôi phải không? - Ừ, qua học nữa. - Tôi muốn lên trển tôi học quá, má tôi không chịu cho đi. Học dưới nầy cứ lù đù quá. - Phải, trường dưới nầy nhỏ tự nhiên bực học phải thấp. Như ý em muốn lên Sài Gòn thì em thưa thiệt cho má em nghe, chắc má em dầu thương nhớ em đến đâu đi nữa cũng không lẽ không cho em lên trển mà học. - Hay anh nói dùm với má tôi đi. - Em muốn thì em lên xin với thím, qua đâu dám nói. Bà Tệt nghe hai trẻ nói chuyện, bà hỏi: "Con Quyên nó nói giống gì đó?" Xuân cười và đáp: - Em Quyên cậy cháu xin với thím cho em lên trường Sài Gòn em học. - Trời ơi! Đen thui mà đòi học trường Sài Gòn. Cô Quyên cùn quằng nói: - Con đen mặc kệ con. Sao hồi đẻ con má không đẻ cho trắng, rồi bây giờ má trở lại má cười con. Bà Tệt cười ngất và ngồi dậy mà đáp: - Ai biết làm sao mà đẻ cho trắng được. Ối! Má nói giễu chơi, chớ đen hay trắng cũng không cần, miễn là mình giỏi mà thôi. Khuya rồi, thôi đi ngủ con. Để cho anh con nghỉ sớm, vì ngày nay đi xa nó mệt. Mẹ con bà Tệt dắt nhau đi vô buồng. Xuân thấy dạng ông Tư Tệt còn thơ thẩn ngoài hàng ba, cậu sợ ông trở vô giảng luân lý nữa, nên cậu lật đật chun vô mùng mà nằm. -------------------------------- 1 hăm hở, quyết làm cho được 2 lếu láo:qua loa 3 cho mưón III Sáng hôm sau, cậu Xuân thức dậy, nghe sốp-phơ đã sửa xe xong rồi, bây giờ máy có lửa đủ, hết sợ trục trặc nữa, thì cậu liền thay đồ sửa soạn đi Cà Mau. Ông Từ Tệt thấy vậy mới hỏi: - Cháu đi đâu mà sửa soạn thay đồ? - Thưa, đi Cà Mau. - Hồi hôm qua chú thím nói như vậy mà cháu không chịu đổi ý, cứ quyết bán đất hay sao, nên đi Cà Mau. - Cháu tính nếu không bán đất, thì cháu không thể học nữa được. - Cháu có cái trí muốn học cho cao thì tốt lắm. Thôi thì cháu cho thím cháu mướn đất đó, mỗi năm thím đóng cho cháu ba ngàn đồng bạc đặng cháu ăn học cũng được, cần gì phải bán. - Cháu nghĩ làm như vậy không tiện. - Sao mà không tiện? Vậy chớ họ mua bao nhiêu mà cháu ham lợi, nên bươn bả bán gấp vậy. - Thưa, ông Cả Bình lên kiếm cháu mà trả giá 30 ngàn, cháu đòi 50 ngàn. Ồng trả thêm 5 ngàn nữa là 35 ngàn. Vì bán giá đó thấp hơn giá mua hồi trước thì bán làm sao được. Cháu tính xuống nói với ổng nếu thiệt bụng ổng muốn mua, thì ít nào 40 ngàn cháu mới bán. - Thiệt cháu định bán và cháu dứt giá 40 ngàn hay sao? - Dạ. Ông Từ Tệt châu mày nghĩ một hồi lâu rồi thở dài mà nói: - Chú không bằng lòng cho cháu bán đất. Sự nghiệp của anh Hội đồng bây giờ chỉ còn có sở đất đó mà thôi. Cháu bán rồi còn gì nữa đâu! Nếu cháu không nghe lời chú, cháu nhứt định bán, thôi thì chú mua. Cháu bán cho người ta giá nào thì chú mua giá đó. Thà là chú mua, chớ chú không đành để đất ấy về tay người khác. Xuân chúm chím cười mà đáp: - Như chú muốn mua, thì cháu phải bán cho chú, chớ có lẽ nào cháu bán cho thiên hạ. - Không phải chú muốn mua. Chú nói nếu cháu quyết bán thì chú tranh mà mua, vì chú không chịu để lọt vào tay người khác. Còn như cháu để mà làm, thì chú sẽ giúp cho cháu đặng khai phá cho thành điền, chớ chú mua làm chi. - Cháu nhứt định bán, bởi vì cháu tính đi học nhiều năm nữa, không thể để được. - Cháu nói như vậy thì chú mua. Cháu định 40 ngàn thì chú mua 40 ngàn, chú không bớt. - Còn 4 tuần lễ thì tới khai trường, cháu phải đi học. Vậy nếu chú mua thì chú làm giấy tờ cho gấp gấp, chớ để khai trường e bất tiện cho cháu. - Được, cháu muốn làm giấy tờ gấp thì làm. Mình vô nói với với ông Lục sự Nô-te 1, ổng làm giấy tờ trong mấy bữa thì xong. Mà cháu có đem bằng khoán đất đi theo hay không? - Thưa, có đủ hết, có bằng khoán, có bản đồ. Mà cháu cũng sao lục khai tử của ba cháu và có lập tờ tông chi sẵn sàng rành rẽ nữa. - Được lắm. Cha chả, mà cháu còn nhỏ, không biết Nô-te họ có nài phải có trưởng tộc đứng hay không? - Thưa, không. Cháu đúng 21 tuổi rồi, cần gì trưởng tộc. Cháu cũng có đem khai sanh của cháu theo trong va ly. - Cháu sắp đặt thiệt sẵn sàng, rành rẽ. Thế thì cháu đã quyết bán đất đã lâu rồi hay sao chớ? - Thưa không. Hôm ông Cả Bình lên nói rồi cháu mới lục giấy tờ đó. - Anh Hội đồng ảnh chần chờ lắm. Còn cháu bây giờ lại mau mắn quá. Cháu không giống ảnh chỗ đó. - Tánh ngày xưa khác hơn tánh ngày nay. Hạng thanh niên bây giờ thảy hết đều cương quyết, làm việc gì cũng vậy, hễ nhứt định là làm liền, không chịu dụ dự. - Bởi vậy nên thường hay lầm. - Thưa chú, mà nhiều khi khỏi mất cơ hội tốt. Bà Tệt biểu gia dịch dọn đồ ăn lót lòng. Xuân được như ý muốn, mà khỏi đi Cà Mau mà bàn về sự bán đất với ông Cả Bình thì cậu vui vẻ ngồi ăn mà cứ giỡn với cô Quyên. Ăn uống xong rồi, Xuân mới lấy giấy tờ ra xe hơi mà đi với ông Từ Tệt vô toà cậy ông Lục sự Nô-te lập tờ bán đất. Thấy mối hậu, ông Lục sự Nô-te tiếp rất hậu, xem xét giấy tờ rồi chịu lãnh làm liền và hứa sẽ làm mau mau. Chừng về nhà, ông Từ Tệt mời luôn Xuân ở dưới nầy đợi bữa nào giấy tờ làm xong thì ký tên liền cho khỏi trễ. Bà Tệt với cô Quyên cũng ân cần cầm ở lại, nói rằng nhà đã có sẵn người coi, nên không phải cần về làm chi. Xuân chịu ở, mới sai sốp-phơ đi xe đò về Bình Thuỷ lấy thêm áo quần và lấy luôn cái máy chụp hình đem xuống cho cậu. Cô Quyên là con cưng nhứt trong nhà nên trừ ra đi học mới đi chơi bời với chị em trong trường, còn về nhà cô không có bậu bạn nào hết, vì Triều mắc học trên Sài Gòn, không ở nhà. Nay nghe Xuân chịu ở chơi, thì cô mừng quá cô cứ đeo theo một bên Xuân, cậy Xuân dạy cô học, rủ Xuân ra vườn chơi. Trưa bữa sau anh sốp-phơ đem đồ xuống. Xuân lấy máy chụp hình ra mà chùi, tính chiều mát mẻ đi kiếm cảnh đẹp mà chụp lấy hình để dành chơi. Cô Quyên đòi đi theo Xuân đặng coi chụp hình. Vợ chồng ông Tư Tệt cưng con, không muốn làm cho con buồn, lại nghĩ con vẫn còn khờ dại, còn Xuân như con cháu trong nhà, một thể với Triều, bởi vậy ông bà đều chịu cho đi, song căn dặn con phải mặc quần áo cho tử tế và lên xe ngồi tề chỉnh, chẳng nên liến xáo 2 . Đến xế mát, Xuân thay y phục, mặc bộ đồ Tây, Quyên mặc áo quần toàn lụa trắng cũng mới, tóc chải láng mướt, chưn mang giày thêu, hai trẻ vui vẻ dắt nhau lên xe hơi. Vì xe có hai chỗ ngồi nên Xuân biểu sốp-phơ ở nhà, cậu cầm tay bánh để Quyên ngồi một bên, mượn Quyên ôm giùm cái máy chụp hình, rồi mới mở máy cho xe chạy ra lộ. Quyên đắc ý, liếc mắt ngó Xuân, miệng chúm chím cười. Vợ chồng ông Từ Tệt đứng bên thềm ngó theo, tuy mặt tươi cười, song lòng có chút lo ngại. Xuân không thông thạo đường sá tỉnh Bạc Liêu, nên cậu vào chợ rồi cậu bợ ngợ không biết phải đi đường nào mới có cảnh đẹp mà lấy hình. Cậu day qua hỏi Quyên thì cô ú ớ không biết đường nào mà chỉ. Cậu đi nhầu, té ra nhằm đường qua Hưng Hội. Ra khỏi châu thành thì hai bên đường ruộng lúa cấy đã hơn một tháng, lúa nở bụi tốt tươi, lá phơi màu xanh lét, trải ngay trước mặt là một bức tranh thiên nhiên gồm đủ cảnh quảng đại và cảnh u nhàn. Cô Quyên có tánh cũng liến xáo, song cô có lòng đa cảm, bởi vậy thấy cảnh đẹp cô chẳng khỏi động lòng. Tiếc vì cô không đủ lời để tả cảnh tả tình, bởi vậy cô chỉ nói với giọng rất thiệt thà rằng: - Lúa coi xanh tốt quá, anh Xuân hả? Xuân không hiểu ý cô, nên gật đầu mà thôi, không nói tiếng chi hết, làm cho cô thất vọng ngồi buồn hiu. Xe chạy một hồi thì tới xóm Thổ 3 , kêu là Sóc Đồn. Xuân thấy dựa trên đường có một cảnh chùa Thổ, chùa tuy không tốt lắm song chung quanh có cây cao tàn lớn, làm cho cảnh xem rất huyền ảo, đáng lấy hình dành chơi. Cậu ngừng xe bên đường mà leo xuống. Cô Quyên xách máy chụp hình cũng leo xuống, rồi hai trẻ song song dắt nhau đi trên lộ, lựa chỗ thuận tiện mà chụp hình. Xuân muốn lấy cái chùa và lấy luôn cho được vài cây lớn vào trong hình nên đứng lại mà nhắm. Quyên trao cái máy cho cậu, rồi đứng khít một bên, tay vịn vai cậu, mắt dòm theo chỗ cậu nhắm. Xuân chụp cái chùa rồi day qua ngó Quyên và cười mà hỏi: - Qua muốn em lại đứng trước lùm cây kia đặng qua chụp mà lấy hình của em. Em chịu không? - É! Không dám đâu... - Sao mà không dám? - Tôi sợ lắm. - Có qua đây mà sợ cái giống gì? - Anh đứng với tôi thì tôi mới chụp. - Qua mắc cầm máy mà chụp, làm sao mà đứng với em được. Em lại đứng đó đi. Qua đứng trước mặt em đây, chớ phải đi đâu mà sợ. Cô Quyên đứng suy nghĩ rồi hỏi: - Anh muốn chụp hình tôi lắm hả? - Ừ. Chụp đặng lấy hình "Tiểu thơ mặt lọ" để dành chơi. Cô Quyên châu mày xụ mặt, ngoe ngoảy bỏ đi lại phía xe đậu. Xuân lật đật đi theo, vừa cười vừa hỏi: - Qua nói chơi, mà em giận qua hay sao? Quyên chừ bự không trả lời. Xuân lấy tay gõ gò má Quyên mà nói: - Thôi dừng giận nữa. Giận rồi cái mặt trông xấu quá. Quyên cười mà nói: - Anh phải năn nỉ tôi mới chịu. Xuân nói: - Hay hờn mát quá!...Thôi để qua xin lỗi. Vì hôm qua chú kêu em là "Tiểu thơ mặt lọ" nên qua bắt chước mà nói chơi, chớ không phải có ý ngạo em, vậy xin em đừng giận qua nữa, lại đứng đặng qua chụp hình em để làm kỷ niệm. Quyên cùng quằng đáp: - Nói như vậy tôi không chịu. Xuân lắc đầu chúm chím cười và nói: - Trời ơi! Vậy chớ phải nói thế nào em mới vừa lòng? Thôi, để qua hun em một cái, cũng như anh Triều hun em vậy, đặng qua chuộc tội nói mích lòng em, em chịu không? Quyên cười. Xuân bèn kề mặt mà hun gò má Quyên, cũng như đứa em gái của mình, rồi lại dắt Quyên đứng trước lùm cây, mở máy nhắm mà chụp hình. Bóng trời chiều rọi mặt Quyên, coi cô rất vui vẻ thơ thái. Chụp hình rồi Xuân khoá máy và nói: - Hình của em chắc tốt lắm vì bóng, vừa không nắng nhiều, mà cũng không mát lắm. - Chắc tốt hả? Phải anh đứng chụp chung với tôi chơi. - Làm sao được. Có ai đâu mà mượn họ chụp. - Thôi để về nhà, tôi với anh đứng rồi cậy tía tôi chụp được không? - Sợ chú không biết rồi chụp hư chớ. - Anh chỉ trước thì biết chớ gì. Coi bộ dễ mà. Để tôi biểu anh Hai tôi mua cho tôi một cái máy đặng tôi chụp chơi. Anh dạy tôi trước đi. Nghe không? - Ừ! Để về nhà rồi qua chỉ cách chụp cho em biết. Hai trẻ dắt nhau đi dài theo lộ mà chơi. Xa xa dưới ruộng, có mấy người đàn bà Thổ đi hái rau chóc, đội thúng rau trên đầu nước chảy xuống mặt ướt nhem. Mặt trời chen lặn, Xuân rủ Quyên trở lại mà về, Quyên giục giặc, dường như quyến luyến cảnh đồng ruộng lúa xanh, vui khí trời mát mẻ khoẻ khoắn, ham nghe tiếng dế kêu chéo chét quanh mình, nên không nỡ bỏ mà về, cứ đứng ngóng trông. Xuân thấy vậy mới hỏi: - Em ưa ruộng lắm hay sao? - Tôi ưa lắm. - Ngoài đồng buồn xo mà ưa nỗi gì? - Ngó ruộng chơi, vui lắm chớ. Anh không ưa hay sao? - Qua ưa đi chơi trong chợ. Ngoài ruộng buồn lắm, qua chịu không được. - Tôi ưa ruộng chớ không ưa chợ. - Tại em có óc "Nhà quê". Quyên cười rồi đi theo Xuân trở lại xe mà về. Trời đã chạng vạng tối. Khi xe vô sân rọi đèn thì thấy vợ chồng Ông Từ Tệt đương đứng trên thềm nhà mà chờ. Xe vừa ngưng thì bà Tệt nói: "Đi đâu xa lắm hay sao nên về tối dữ vậy." Cô Quyên lật đật leo xuống xe và vui vẻ nói: - Đi ra ngoài chỗ nào đó không biết, ruộng lúa thiệt tốt lại có chùa Thổ ngộ lắm má à. Anh Xuân chụp hình chùa rồi có chụp hình con nữa. Mai con đi nữa. Ông Từ Tệt nói: - Có đi thì phải về sớm sớm; về trễ ở nhà lo sợ hết sức. Chắc là đi ra ngoài Sóc Đồn chớ gì, nên mới có chùa Thổ. Thôi, đi thay đồ rồi ăn cơm. Sáng bữa sau, vừa thức dậy thì Quyên nài Xuân phải dạy cô chụp hình. Xuân cầm máy ra đứng trước sân rồi chỉ cho cô Quyên biết cách nhắm, biết cách chụp. Quyên lấy làm đắc ý, biểu Xuân chụp cái nhà lớn, chụp hai lẫm lúa, chụp cái xe hơi có cô đứng một bên. Quyên kêu cha mẹ ra coi. Luôn dịp Xuân chụp ông Tệt, bà Tệt, rồi chụp luôn cô Quyên ngồi trên thềm nhà. Quyên biểu Xuân cậy ông Tệt nhắm đặng ông cầm máy mà chụp cô với Xuân đứng chung. Ban đầu ông Tệt không chịu, mà bị con ép quá, nên rồi ông cũng phải làm theo ý con. Chụp xong rồi Quyên muốn làm sao có hình cho mau đặng cô coi. Xuân phải vô chợ kiếm tiệm chụp hình mà mướn họ rửa. Chiều lại, Quyên đòi đi chơi nữa. Hai trẻ mới ngồi xe hơi đi vô chợ lấy hình về. Tấm hình nào cũng tốt hết thảy, mà nhứt là hình Quyên đứng trước lùm cây và hình Quyên với Xuân đứng chung thì rõ ràng đẹp lắm. Vợ chồng ông Tệt lấy làm vui lòng, biểu tiệm rửa thêm nữa, mỗi thứ làm ra 5 tấm đặng để dành chơi. Từ ấy Quyên càng dan díu với Xuân, tối ngày không chịu rời Xuân một giây phút nào hết. Cô mặc quần áo mới luôn luôn, gỡ đầu bới tóc vén khéo, chớ không bỏ tóc xoã xuống lưng như trước nữa. Hễ xế mát thì cô năn nỉ Xuân đem xe hơi đi chơi, Xuân không thể không làm theo ý muốn của cô được, nên bữa nào cũng phải cầm bánh xe chở cô đi chơi. Khi đi Phú Lộc, khi đi Hoà Bình, khi đi Sóc Đồn, khi đi Om Trà Cổ. Có bữa ra đồng trống vắng vẻ, cô biểu ngừng xe lại, rồi cô leo xuống, hoặc ngồi dựa gốc cây, hoặc quì gối trên cỏ mà cậy Xuân chụp hình cô. Có bữa cô mang theo bánh trái, rồi ra đồng cỏ mở gói bánh ra để trên đám cỏ non xanh lè ăn chung với nhau, nói nói cười cười thiệt là hoan lạc. Xuân đợi 10 ngày mới ký tên bán đất được. Ông Từ Tệt chồng bạc cho cậu đủ 40 ngàn, rồi cậu sửa soạn mà đi về. Quyên hay tin Xuân tính về thì cô buồn hiu, ra vô dàu dàu. Cô thấy Xuân đứng có một mình cô mới hỏi: - Anh về hay sao? - Ừ! Qua về. - Tôi muốn anh ở lại chơi. - Sao được, qua phải sửa soạn đặng lên Sài Gòn mà học chớ. - Tôi cũng sẽ lên Sài Gòn mà học nữa. - Ừ! Em muốn thì nói với chú thím đem lên trển cho em học. Có anh Triều dìu dắt em cũng tiện. - Chừng khai trường anh xuống đây rồi đi cùng một lượt với tôi và anh Hai tôi được không? - Sợ không được, bởi vì qua có công việc nhiều lắm Quyên châu mày ủ mặt, mà Xuân mắc lo sửa soạn hành lý nên không ngó thấy. Lúc Xuân từ giã vợ chồng ông Tệt và cô Quyên rồi lên xe mà đi về, thì cô Quyên đứng trước cửa ngó theo, nước mắt chảy rưng rưng. -------------------------------- 1 công chứng 2 hay đùa giởn 3 xón người Khmer IV Mấy năm nay nhà nông trong xứ làm ruộng trúng mùa luôn luôn. Mà bán lúa cũng đặng cao giá nữa. Cuộc thương mại nhờ đó mà trở nên thịnh vượng, bởi vì mọi người đều làm dễ ra tiền rồi ai cũng mua đồ dùng trong nhà, ai cũng sắm áo quần loè loẹt. Bề ăn ở của bình dân thì rộng rãi, còn của phú gia thì xa xỉ, nhứt là ở mấy châu thành, sự ăn xài quá độ phát hiện rõ hơn hết. Tại Sài Gòn, trong dãy phố trệt ở đường Lagrandière bây giờ là đường Gia Long, giáp với đường Verdun bây giờ là đường Lê Văn Duyệt, căn nào cũng chưng dọn hực hỡ. Nhưng mà có một căn dọn vén khéo, đồ đạc tốt đẹp hơn hết. Trên hai lan can phía trước có để hai cái chậu, mỗi chậu trồng một bụi cau, lá sum sê, cọng vàng tươi. Tại cửa giữa có treo một tấm màn màu trứng gà, rẽ vén hai bên đặng ra vào cho tiện. Hai cửa sổ có giăng hai tấm màn ren cũng màu trứng gà để ngăn cát bụi, chớ không ngăn ánh sáng mặt trời. Trong nhà, phía trước để một cái bàn nhỏ với 4 cái ghế, trên bàn có để một bình bông, còn mặt ghế thì có lót nệm gòn đặng khách ngồi cho êm; phía trong, đụng vách buồng, có để một cái đi văng, trên cũng trải nệm mỏng còn chung quanh thì đóng hộc mà để đồ. Hai bên vách cũng không bỏ trống, một bên thì để một cái tủ nhỏ, trên tủ có để một cái máy hát. Phía trong buồng có giường sắt, giăng mùng, trải "drap" 1trắng muốt; có bàn viết, có tủ áo, có tủ sắt, lại dựa cửa sổ có lót một cái bàn để ăn cơm cho mát. Căn nhà đẹp đẽ nầy là nhà của cậu Xuân mướn ở mấy tháng nay đặng mỗi ngày vô trường Chasseloup Laubat mà học cho gần. Một bữa chủ nhật, lối 4 giờ chiều. Xuân mặc một bộ đồ mát bằng lụa trắng, cậu ra đứng dựa cửa sổ rồi kêu thằng Chí, là đứa nhỏ làm bồi, mà biểu nó nhắc cái ghế xích đu đem ra để trong hàng ba. Cậu trở vô lấy một cuốn sách rồi nằm trên ghế mà đọc. Mặt trời ngả bóng lần lần, trước cửa bây giờ mát rượi, còn ngoài đường thì người và xe đi lại nườm nượp. Thằng Chí xách nửa thùng nước đem tưới hai bụi cau vàng. Nó mới trở vô thì chị chín Thiện là người ở đi chợ nấu ăn, chị ở trong lại bước ra khỏi thềm rồi đứng nói om xòm: "Bữa nay chị nghỉ may phải không chị Hai? Có cô Hai ở nhà hay không?" Tưới cau rồi nói chuyện, những sự ấy làm cho Xuân lo ra không thể đọc sách được. Cậu mới xếp sách đứng dậy rồi bước ra đứng trước thềm. Lúc ấy dì Hai Oanh, là thợ may, tuổi trên bốn mươi, ở cách Xuân một căn phố, đương thủng thẳng đi lại. Mấy tháng nay Xuân ở gần ra vô thường gặp mặt dì Hai Oanh, nên vừa thấy dì là Xuân cúi đầu chào liền. Dì Hai Oanh đáp lễ, vui vẻ hỏi Xuân: - Chúa nhựt nghỉ học, cậu không đi chơi sao? - Dạ, cháu mới đi hồi sớm mai rồi, buổi chiều ở nhà học bài. Mời dì vô nhà uống nước. - Để cậu học chớ, có lẽ nào tôi dám làm rộn cậu. - Thưa, không. Có bận rộn chi đâu. Cháu học bài rồi, nãy giờ ở không xem sách chơi. Chị Thiện bải buôi tiếp lời: - Vô nhà chơi chị Hai... vô uống nước. Tôi mới chế một bình trà còn nóng hổi. Xuân coi bộ dì Hai Oanh chịu vô, thì cậu thối lui đứng nép một bên. Dì Hai Oanh đi trước, chị Thiện đi theo sau mà vô nhà. Xuân tiếp theo sau nữa, và kéo một cái ghế mời dì Hai Oanh ngồi. Chị thiện lo rót nước trà mà đãi khách. Xuân lại ngồi trên đi văng rồi hỏi dì Hai Oanh: - Dì may coi thế đắt mối dữ. Cháu thấy có người ta đến thường thường hoài. - Không mấy khá cậu à. Tôi lãnh may của mấy cô quen thuở nay, chớ người lạ họ có biết tôi đâu mà đưa đồ cho tôi may. - Dì có mướn người phụ với dì chớ? - Tôi có mướn một người luông 2 cho tôi may. Đồ có nhiều đâu mà phải mướn thợ phụ. - Dì lập tiệm, lãnh bài sanh ý 3, treo bảng và rao trong báo, thì người ta mới biết mà đặt may đồ chớ. Dì Hai Oanh ngó Xuân và chúm chím cười mà đáp: - Lập tiệm phải có vốn bảy trăm hoặc một ngàn. Vì không có vốn, nên tôi không dám tính tới việc đó, tôi may ở nhà vậy thôi. - Dì may ở nhà thì làm sao có lợi đủ trả tiền phố và tiền ăn xài? - Tiện tặn thì cũng đủ. Tôi có con cháu đi thêu, nó phụ giúp với tôi. Chị Thiện đứng vịn cái máy hát, chị tiếp mà cắt nghĩa: - Chị Hai đây có một người cháu gái là cô Hai Quế thêu khéo lắm cậu. Cô đi thêu cho nhà hàng ngoài đường Catinat lãnh lương mỗi tháng tới 5,6 chục. Xuân hỏi: - Cô thêu thứ chi? Thêu lối Việt Nam hay lối Tây? Chị Thiện làm lanh mà rồi bít lối, không trả lời được. Dì Hai Oanh mới thế mà đáp với Xuân: - Hồi con em tôi còn sanh tiền, có cho cháu tôi học trường Nữ học đường được hai năm, bởi vậy nó biết thêu theo lối Tây. Chừng em tôi khuất rồi, tôi đem cháu tôi về ở với tôi, thì tôi cho nó học thêm lối Việt mình nữa. Nhờ vậy nên nó biết thêu cả hai điệu. Nó thêu mặt giày, khăn tay, thêu màn, làm ren, thêu bông vào áo cho mấy ông, mấy bà, thêu thứ gì cũng được hết. - Giỏi dữ há. Có nghề như vậy thì sự sống mới vững vàng, khỏi lo thiếu thốn. - Phải, nó khỏi lo đói rách. Mấy tiệm may lớn họ giành nhau mà mướn nó. - Nếu dì có tiệm may lớn, dì để cho cô lãnh phần thêu thì chắc tiệm phát đạt lắm. - Nói gì cái đó. Dì Hai Oanh dòm cùng trong nhà rồi nói tiếp: - Cậu ở có một mình mà dọn nhà đẹp quá. - Tại tánh tôi ưa sạch sẽ vén khéo. - Cậu gốc ở tỉnh nào? - Tôi là người Cần Thơ. - Nghe nói Cần thơ là tỉnh giàu đệ nhứt...Ông cụ, bà cụ còn song toàn chớ. - Thưa, ba má tôi đều khuất hết. - Tội nghiệp dữ hôn! Mồ côi sớm quá. - Tại cái mạng của tôi như vậy, biết làm sao bây giờ. Dì Hai Oanh rờ bình bông trên bàn mà nói: - Trên bàn nầy thì lẽ cậu phải để một tấm thêu tròn, hoặc hột soài, rồi để bình bông chính giữa coi mới đẹp. Xuân đáp: - Hôm trước có một người bạn học của tôi cũng nói như vậy. Để bữa nào rảnh rồi tôi sẽ kiếm để tôi mua. Chị Thiện chen vô nói nữa: - Cậu cậy cô Hai thêu cho. Dì Hai Oanh tiếp lời: - Con cháu tôi nó thêu thứ nầy hoài, thêu lẹ lắm, chừng ít bữa thì rồi. Xuân dụ dự đáp: - Cô Hai mắc đi thêu cho người ta, có thời giờ đâu mà thêu cho tôi. - Không. Ai đặt đồ riêng thì nó thêu ban đêm ở nhà. Cậu muốn thêu cách nào, thêu bông gì thì vẽ kiểu cho cậu coi, như cậu chịu rồi nó thêu cho. - Thiệt tôi dốt về khoa đó. Tôi không biết phải thêu bằng cách nào mà nói. - Thứ trải bàn đây, tôi thấy có sẵn nhiều kiểu. Để nó đưa kiểu cho cậu lựa, cậu chịu kiểu nào nó thêu kiểu nấy cho cậu. Chị Thiện nói: - Chị Hai, để tôi lại tôi kêu cô Hai Quế đem kiểu cho cậu tôi coi. Chị nói dứt lời thì đi liền. Xuân nói với dì Hai Oanh: - Tôi làm nhọc lòng dì, mà lại mất công cho cô Hai nữa, tôi ái ngại quá. - Không có nhọc lòng đâu. Dì cháu tôi là thợ may thợ thêu. Cậu đặt đồ cho chúng tôi thêu, ấy là cậu giúp cho chúng tôi chớ. - Dì nói như vậy thì tôi mới dám. Cô Hai Quế đi theo chị Thiện lại tới cửa. Cô bước lên thềm rồi dụ dự, chưa dám vô. Cô vừa được 20 tuổi, chơn mang guốc, mình mặc y phục tầm thường, áo lụa đen, quần lãnh đen, không dồi phấn thoa son, tay trái cô đeo cà rá nhận một hột ngọc màu đỏ bầm, chớ không có nữ trang nào khác, nhưng nhờ da trắng má bầu, nhờ gương mặt sáng rỡ, nhờ cặp mắt có đức, nhờ hình vóc dong dảy, nhờ tướng đi dịu dàng, nhứt là nhờ vẻ đẹp thiên nhiên, bởi vậy ai thấy cô cũng đều cho cô có quốc sắc. Chị Thiện mời cô vào, mà dì Hai Oanh ở trong cũng kêu cô, bởi vậy cô chậm rãi bước vô nhà. Xuân đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu đáp lễ, mỗi cử động đều duyên dáng. Dì Hai Oanh nói: - Cậu đây muốn đặt cho con thêu một tấm trải trên bàn đặng để bình bông coi cho đẹp. Con có kiểu nào hay thì đem lại cho cậu coi. Xuân mời cô Quế ngồi, mà cô cứ đứng ngó cái bàn, mặt tỉnh táo mà suy nghĩ một chút rồi mới nói: "Cái bàn nầy vuông. Theo ý con thì tấm thêu cũng cắt hình vuông theo chiều bàn coi mới được; song chính giữa phải có mặt trăng tròn đặng để cái bình bông. " Dì Hai Oanh hỏi Xuân: - Còn màu thì cậu muốn màu nào? Xuân bỡ ngỡ nói: - Tôi không biết màu nào đẹp. Lúc ấy đứa tớ gái của dì Hai Oanh chạy lại cho dì hai hay rằng có bà lục sự ghé đặng may áo và biểu mời dì về nói chuyện. Dì Hai Oanh liền từ giã Xuân và chị Thiện và dặn cô Hai Quế ở đó bàn việc thêu với Xuân rồi dì lật đật ra về. Cô Quế đứng ngó cùng trong nhà, Xuân kéo một cái ghế ra và mời cô ngồi nột lần nữa. Bây giờ cô ngồi. Xuân ngồi phía bên kia bàn, ngang mặt cô, chị Thiện đi vô trong, vì đã chiều rồi nên phải lo nấu cơm. Cô Quế khiêm nhượng hỏi Xuân: - Cậu muốn thêu hàng hay là thêu vải và muốn màu nào? - Cha chả, tôi không thạo việc nầy rồi! Xin cô liệu dùm coi thứ nào tốt thì cô làm cho tôi. - Theo ý em, tấm thêu màu cũng phải một màu với mấy tấm màn coi mới có vẻ thanh nhã. - Cô nói phải lắm. - Trải bàn chẳng cần phải dùng tơ lụa, làm bằng vải cũng được. Chẳng nên thêu rằn rực, thêu bốn phía bốn nhành mai, lan, cúc, trúc thì đủ đẹp. - Tôi chịu, xin cô thêu đi. - Để em về vẽ kiểu cho cậu xem trước. - Khỏi, khỏi mà. Cô liệu dùm mà làm coi cho được thì thôi. Cô thêu chừng nào mới xong? - Chừng năm ba bữa. - Không gấp gì. Cô thêu một tuần rồi cũng được. Song cô thêu giùm cho khéo để làm kỷ niệm chơi. Cô Quế chúm chím cười, mặt mày càng ửng đỏ như hoa hường mới ướm nở. Cô ngó Xuân mà hỏi: - Cậu nói thêu cho khéo để làm kỷ niệm. Vậy chớ kỷ niệm việc chi? Nên cho em biết đặng em liệu coi như cần phải sửa cho hợp với việc làm kỷ niệm. Nghe Xuân dùng hai chữ "Kỷ niệm" không biết cô Quế có nghi cậu không thông nghĩa nên dùng đùa, như là cậu thanh niên đời nay, hay là cô nghi cậu chú ý muốn ghẹo tình cô, như nhiều cậu trai đa tình lãng mạn, mà cô gạn hỏi như vậy làm cho Xuân bối rối, sắc mặt thẹn thùng một lát rồi mới nói: - Tôi mới phác một ý riêng, tôi muốn kỷ niệm cái ý ấy. Tôi tưởng dầu tôi có tỏ cái ý riêng ấy cho cô hiểu, có lẽ chẳng hại gì mà cần phải giấu cô. Số là mấy năm nay, ở trong trường, tôi có kết bạn thâm giao với hai người bạn học một lớp. Ba anh em tôi tính kiếm thêm một người nữa cho đủ bốn đặng làm bạn "mai, lan, cúc, trước (trúc?)" để tiêu biểu một tánh chất tứ thời. Chúng tôi chưa gặp một người nào đồng tâm đồng chí đáng nhận làm người thứ tư. Hôm nọ một anh bạn tôi có tỏ ý nếu kiếm bạn nam nhi không ra thì chúng tôi có lẽ sẽ chọn một cô gái làm người thứ tư cũng được. Người bạn tôi tỏ ý như vậy, tôi tưởng là muốn giễu cợt, chẵng dè hôm nay cô tính thêu "mai, lan, cúc, trước", mà cô lại là gái nữa, ấy vậy họ biết chừng cô là người thứ tư trong đám bằng hữu, mà người bạn tôi đã đoán trước hôm nọ. Tôi muốn cô thêu để kỷ niệm cái ý ấy. - Em lựa kiểu thêu, thiệt em không dè kiểu ấy lại thích hợp với việc riêng của cậu. Vậy em cũng thêu kiểu đó, khỏi cần phải sửa đổi, mà em lại ráng thêu cho đẹp, để biểu hiện cho xứng đáng cái tình cảm của cậu. - Tôi rất cám ơn cô. Cô cần phải lấy tiền trước đặng mua hàng, mua chỉ thêu hay không? - Thưa, không. - Mấy năm nay ba anh em tôi kêu nhau như vầy: Tôi trơ trọi một mình, không có anh em, lại nhứt định không cưới vợ, bởi vậy mấy bạn tôi cho tôi là Mai. Anh Triều, người gốc Bạc Liêu, anh tha thướt, yếu đuối lắm, nên anh là lan. Anh Quan gốc Trà Vinh, anh lỏng khỏng ốm yếu mà tánh tình lại ghét cái dở, cái thấp, cái bậy, nên cho anh là quân tử Trước. Còn Cúc, thì chưa có ai. Cúc biểu hiện cho người ẩn dật mà thơm tho xinh đẹp. Cô là người ẩn núp trong hạng bình dân, mà cô lại có sắc đẹp, có danh thơm, nếu cô vui lòng làm biểu hiện cho Cúc thì chúng tôi hân hạnh lắm. Cô Quế nghiêm nét mặt mà suy nghĩ một chút, rồi cô ngó ngay Xuân mà đáp: - Em rất cảm ơn cậu. Em không dám. - Sao mà cô không dám? Cô ngại sợ nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng phải không? - Thưa, không. Nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng xấu, ấy là tại tánh tình thấp thỏi, rồi gây ra những chuyện không hay, nên mới mang tiếng xấu, chớ người đã quyết lập tánh tình cao thượng như: Mai, Lan,Trước thì quí lắm. Em được làm bạn, em có ngại chi đâu. Em nói em không dám là vì em sợ em không xứng đáng ngang hàng với mấy cậu là bực giàu có sang trọng đó mà thôi. - Lời cô nói đó là lời khiêm nhượng, chớ tôi chắc cô dư biết theo ý chí của người quân tử, thì nhân nghĩa, đạo đức mới quí chớ không phải là giàu sang mà quí đâu. Mà bọn anh em tôi không phải giàu sang gì cả, có người cũng nghèo khổ lắm chớ. - Mấy cậu học giỏi còn phận em dốt nát quá, em phải đi thêu mướn mới có cơm mà ăn. - Ố. Theo ý tôi, dầu cầm cây viết hay là cây kim cũng vậy, hễ nghiệp nghề mình được chí thiện, tận mỹ thì quí như nhau, chớ không phải người cầm viết mà sang hơn người cầm kim. Chúng tôi học chữ, ví như chúng tôi có tài viết văn hay; còn như cô đi thêu mướn mà cô có tài thêu khéo. Cái hay đối với cái khéo thì bằng nhau chớ có cao thấp chi đâu. Cô Quế cười mà thôi, chớ cô không trả lời nữa. Cô đứng dậy dợm từ mà về, Xuân biết ý liền nói: - Mời cô ngồi nói chuyện chơi một chút nữa. - Em sợ làm mất thời giờ của cậu. - Không, không...Cô nói chuyện nghe có ích lắm. Chúa nhựt không đi học, tôi ở nhà tôi buồn hết sức. Nãy giờ có cô nói chuyện, tôi vui không biết chừng nào. - Em mới đến nhà cậu lần đầu, mà em nói chuyện nhiều quá em sợ khiếm nhã. Vậy em xin từ cậu mà về, để khi khác có lẽ em sẽ ngồi lâu hơn. - Cô sợ ngồi chơi lâu rồi dì Hai không vui hay sao? - Thưa, không. Dì Hai em biết tánh tình của em, nên chẳng bao giờ hiềm nghi chỗ đó. - Còn tấm thêu cô chắc bữa nào thêu rồi? - Cậu cho em một tuần thì mãn tuần rồi em sẽ đem lại. - Bữa nay chúa nhựt, té ra chúa nhựt tuần sau tôi sẽ có tấm thêu mà trải bàn. - Thưa, phải. Xuân đứng dậy mà suy nghĩ, rồi nói tiếp: - Xin cô cho biết cô có chịu làm Cúc, theo như lời tôi nói hồi nãy đó hay không? - Xin cậu để cho em suy nghĩ ít bữa rồi em sẽ trả lời. - Được. Tôi muốn sáng chúa nhựt cô đem tấm thêu lại được hôn. - Thưa, được. - Tôi sẽ cho hai người bạn tôi hay, đặng hiệp với tôi mà tiếp rước tấm thêu đó. Cô Hai, tôi muốn mời cô sớm mai chúa nhựt cô ở lại chơi rồi ăn cơm trưa với ba anh em tôi, được không? Tôi sẽ lại nhà cô mà xin phép với dì Hai cho. - Nếu vậy thì có lẽ được. - Để mai mốt rồi tôi sẽ xin phép với dì Hai mà mời cô ăn cơm. Cô Quế cười rồi từ mà đi về. Xuân đưa khách ra tới thềm rồi mà còn đứng ngó theo, và miệng chúm chím cười. -------------------------------- 1 khăn giường 2 cách may giấu đường chỉ một bên 3 sanh ý: nghề nghiệp, bài sanh ý: môn bài V Chúa nhựt tuần sau. Lối bảy giờ rưỡi sớm mai. Triều là con của ông Từ Tệt ở Bạc Liêu, với Quan là con một bà sương phụ ở Trà Vinh, cả hai đều học tại trường Chasseloup Laubat, ăn ngủ trong trường và là bạn thâm giao của cậu Xuân, y theo lời Xuân mời nên hiệp nhau ra nhà Xuân. Khi bước vô cửa, hai cậu có ý sụt sè, vì sợ có khách lạ đã tới trước rồi. Chừng thấy có một mình Xuân từ trong đi ra, y phục đàng hoàng, mặc đồ trắng mới ủi thẳng băng, cổ thắt nơ đen, đầu chải láng mướt thì Triều cười mà hỏi: - Cô Cúc chưa lại hay sao? - Chưa, mời hai anh ngồi. Có lẽ 8 giờ rồi cô mới lại. - Cô hứa chắc không? - Chắc chớ. Hôm thứ năm, moa có lại nhà mà xin phép với dì của cô. Dì cô bằng lòng, mà cô cũng hứa lời nữa. Tại sao mà toa nghi nên toa hỏi như vậy. - Con gái hay mắc cỡ. Moa sợ cô ái ngại không dám ăn cơm với mình chớ. - Không, đời nay con gái Việt mình dạn dĩ lanh lẹ lắm, chớ phải như con gái đời xưa hay sao? - Cô chịu kết tình bằng hữu với ba anh em mình hay không? - Việc đó cô chưa có hứa. Cô nói để cho cô suy nghĩ ít bữa. - Moa sẽ năn nỉ với cô. - Năn nỉ làm chi? - Toa ở ngoài nầy toa buồn; để toa năn nỉ cho toa có một người bạn đặng nói chuyện chơi cho vui. Nãy giờ Quan ngồi im lìm. Chừng nghe Triều nói như vậy Quan mới nói: "Anh Triều bày chuyện quá! Anh muốn làm cho anh Xuân vui rồi cuối năm ảnh thi rớt cho mà coi." Triều ngoe ngoảy hỏi Quan: - Vui mà sao lại thi rớt? - Mắc vui nên cứ chơi hoài, học có được đâu mà thi đậu. - Con người phải làm việc, mà cũng phải giải trí, nếu làm việc hoài mà không giải trí thì phải bịnh, hoặc phải điên. - Giải trí có nhiều cách. Ta đi chơi ngoài đồng, ta đi xem hát. Giải trí như vậy dầu không có ích thì cũng không hại. Chớ kiếm con gái mà làm bạn, đặng nói chuyện để giải trí. Trời ơi! Hiểm nghèo lắm, moa sợ có hại chớ không có lợi đâu. - Toa tụng kinh cho hai đứa moa nghe hả? Xuân can hai người: - Hai anh chẳng nên cãi. Triều sợ moa buồn, còn Quan sợ moa hư, hai người đều lo cho moa hết. Vậy moa cám ơn. Song moa xin Quan chẳng cần phải lo cho moa lắm, bởi vì moa như một gốc cây, không biết nhiễm ái tình, không để ý đến gia thất, bởi vậy moa gần đàn bà con gái không hại gì đâu mà sợ. Quan rùng vai mà đáp: - Cần phải thí nghiệm rồi sẽ đoan chắc. - Ba anh em bàn luận tới đó, kế cô Quế bước vô, tay cô cầm một gói giấy màu trắng hường. Bữa nay cô mặc một bộ y phục bằng lụa trắng mới tinh, may thiệt khéo, tuy cô không trang điểm cho lắm, song nhờ có vẻ đẹp thiên nhiên, nên cô thiệt có duyên, lại có sắc nữa. Ba cậu đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu mà đáp lễ, vừa đoan trang, vừa nghiêm nghị. Xuân muốn tiến dẫn hai người bạn cho cô Quế biết, nên nói: - Anh nầy là Triều, tiêu biểu cho Lan; còn anh nầy là Quan, tiêu biểu cho Trước, hai người bạn thiết tôi đã nói cho cô nghe hôm trước. Cô Quế chào hai người một lần nữa rồi nói: - Còn cô Quế 20 tuổi mà thôi. Hết thảy phải tôn Triều làm anh cả, còn cô Quế đành chịu làm em út. Xuân hỏi Triều vậy chớ được chức anh cả sao không đãi tiệc hoặc làm lễ gì, để ra mặt người lớn. Triều suy nghĩ rồi kêu thằng Chí đưa cho 5 đồng bạc và biểu nó đi mua hai đồng bạc bánh ngọt còn bao nhiêu thì mua nước cam với nước đá đặng đãi các em. Xuân với Quan vỗ tay mà khen cử chỉ xứng đáng. Lúc đợi thằng Chí đi mua đồ ăn uống thì Xuân mời hết anh em đi cùng trong nhà từ trước ra sau, đặng anh em thấy cách sắp đặt chỗ ăn ở của mình. Triều khen cái nầy chê cái nọ, nói vang rân, duy có Quan với cô Quế đi theo mà không nói chi hết. Xuống tới nhà bếp thấy chị Thiện đương lăng xăng nấu nướng, Triều kiểm soát các vật thực coi chủ nhà sẽ đãi món gì, rồi móc túi lấy ra một đồng bạc mà cho chị Thiện và nói: "Chị nấu cho ngon, nghe không. Nếu tôi ăn ngon thì tôi còn thưởng." Quan cười nói với Xuân: - Anh Triều bữa nay rộng rãi quá. - Được chức "anh cả" người ta khoái, nên xài lớn. Xuân mời trở ra trước đặng nghe vặn "ra đô". Cô Quế xin để cho cô tiếp tay với chị Thiện lo nấu ăn. Anh em đều không chịu, ép cô phải chơi, chớ không được làm. Đương hát trong máy thu thanh thì thằng Chí, cô Quế đi lấy dĩa mà sắp bánh, còn Xuân với Quan thì vô trong lau ly và coi thằng Chí chặt nước đá, duy chỉ có Triều cứ ngồi nghe hát, làm ra tuồng anh cả để các em lo cho mình. Chừng bánh với nước cam dọn ra xong rồi, Triều mới tắt máy thâu thanh, buộc mỗi người phải ngồi ngay hiệu của mình. Xuân với tay tính lấy một cái bánh, Triều liền cản mà nói: - Khoan đã! Phải để cho anh cả đọc đích cua 1rồi mới được ăn uống. Quan có tánh trầm tĩnh hơn hết, mà nghe nói như vậy thì vỗ tay và nói: - Đích cua chắc hay lắm. Vậy để tôi vỗ tay trước. Triều không thèm để ý đến lời châm biếm của Quan, cậu thủng thẳng đứng dậy, bộ coi rất nghiêm nghị, mắt ngó tấm thêu trên bàn rồi nói lớn: - Các em. Bộ tứ thời của chúng ta mấy năm nay chỉ có ba tấm mà thôi là Mai, Lan và Trước, còn thiếu một tấm Cúc chúng ta tìm không ra. Hôm nay chúng ta mới tìm được một bụi Cúc. Mà Cúc nầy vừa thơm tho, vừa tươi đẹp, thiệt chúng ta có phước không biết chừng nào. Vậy chúng ta mỗi người phải ăn vài cái bánh, uống cạn một ly nước cam, đặng chào mừng bụi Cúc xinh đẹp mới tìm được, cầu chúc cho tình Mai, Lan, Cúc, Trước của chúng ta trăm năm bền vững, nhứt là thệ tâm gìn giữ thái độ và tánh tình cho cao thượng cũng như bốn thứ cây biểu hiện cho của chúng ta. Triều nói dứt lời liền lấy một cái bánh ăn. Anh em đều vỗ tay lốp bốp rồi ăn uống. Xuân nói: - Lan mừng Cúc, theo phép lịch sự thì Cúc phải cám ơn. Đợi nghe em Quế nói sao đây. Cô Quế nghe lời khiêu khích như vậy, thì cô đứng dậy, bộ rất yểu điệu, miệng chúm chím cười rất duyên dáng. Cô chậm rãi nói: - Kính thưa ba anh, phận em hèn mọn, em có phước nên được ba anh hạ cố, khứng kết nghĩa kim bằng với em, cái ơn ấy dù ngàn năm em cũng chưa quên được. Em là em út, vậy em xin ba anh dạy bảo cho em, nếu em có sơ sót chỗ nào xin ba anh dung thứ. Em nguyện sẽ giữ gìn bản tánh như Cúc, cũng như ba anh hứa giữ gìn tánh tình như Mai, Lan và Trước vậy. Em van vái ba anh ăn học, công sớm thành, danh được toại, rồi chung lộn với đời mà làm những việc ích quốc lợi dân, nghĩa là đem tài hay đức tốt làm cho dân tộc ta được tiến bộ, được văn minh, ngang hàng với những dân tộc tiên tiến trên thế giới. Ba cậu vỗ tay một hồi rất lâu, rồi mỗi người đều cúi đầu và đưa tay nắm tay cô Quế, để biểu hiện tình bằng hữu kết chặt từ đây. Chừng ngồi ăn uống lại, Triều mới nói: - Bữa nay vui quá. thiệt tôi không dè em Quế chơn chất mà lại dạn dĩ đến thế. Từ rày sắp lên, hễ chúa nhựt thì anh em mình tựu nhau lại đây đặng ăn uống đàm luận chơi cho vui, toa chịu hay không, Xuân? Xuân đáp ngay: - Chịu lắm. Triều suy nghĩ một lát rồi nói tiếp: - Mà đàm luận thì phải nói chuyện có ích, chớ không nên nói chuyện pha lửng bậy bạ, đã mất thời giờ, lại tổn đức nữa. Moa là anh cả sẽ coi chừng, nếu ai nói chuyện quấy hoặc vô ích, moa sẽ rầy thẳng tay. Bữa nay là buổi nhóm đầu tiên. Vậy mỗi người nên tỏ cho anh em biết quan niệm về sự ở đời của mình như thế nào. Ai nấy đều nín khe. Triều bèn nói lớn: - Xuân, toa nói trước đi. Toa nói cái ý toa muốn đường tương lai của toa ra thể nào. - Anh cả phải nói trước chớ. - Mấy em nói trước rồi anh cả sẽ nói sau. - Nếu muốn tôi nói trước thì tôi nói...Từ ngày tôi có đủ trí khôn, tôi thấy xã hội Việt Nam mình, tôi buồn lắm. Xã hội gì mà có rất ít người biết lo cho dân khôn ngoan, lo cho nước cường thạnh, mỗi người chỉ lo phận mình, ai cực chết mặc ai, nước nghèo nước yếu mặc nước. Giữa lúc trong hoàn vũ người ta lấy chủ nghĩa Quốc gia làm mục đích, còn mình cứ ôm thờ chủ nghĩa cá nhân. Tôi coi thế Quốc gia mình cứ mỗi ngày mỗi nghèo yếu, tôi thấy xã hội mình ngày càng thêm suy bại, chớ không thể phát đạt nổi, dầu vật chất hay là tinh thần cũng vậy. Vì thấy tình cảnh như vậy nên tôi nhứt định ráng học cho cùng đường, học thành tài rồi cũng không thèm lập gia đình, tôi để hết trí lực tài năng mà lo chấn hưng xã hội, lo nâng cao trình độ cho quốc dân, lo làm cho Quốc gia được giàu được mạnh. - Hứ! Chú nó có cái óc tham lo quốc sự, tính thí thân đi lo cho nước cho dân. Nầy, người ta nói gia đình là nền tảng của quốc gia, của xã hội. Nếu muốn cho quốc gia được phú cường, xã hội được cao thượng, thì trước hết phải lo bồi đắp tô điểm gia đình, chớ sao toa lại nói toa không thèm lập gia đình? Toa cày ruộng mà toa để lưỡi cày đi trước con trâu, thì làm sao toa cày được? Toa phải suy nghĩ lại. Mà toa quyết học cho cùng đường vậy chớ toa học khoa nào? - Việc đó moa chưa quyết định, để lấy đủ hai bằng Tú tài rồi sẽ hay. - Được. Toa có ý muốn lo việc công ích, lo bồi đắp Quốc gia thì cũng được. Song moa khuyên toa phải nhớ rằng chủ nghĩa gia đình là chủ nghĩa tối yếu, dầu làm việc gì cũng phải nương theo gốc ấy mới được... Còn Quan, toa có sắp tiến trình của toa rồi hay chưa? Quan chúm chím cười và thủng thẳng đáp: - Phận tôi mẹ goá con côi, trong nhà vừa đủ ăn chớ không có dư dả, bởi vậy quan niệm về tiến trình tôi không dám nuôi chí viễn đại. Tôi mong học thi cho đậu hai bằng Tú tài rồi tôi kiếm chút công việc làm để nuôi thân, cho má tôi và anh tôi khỏi tốn hao với tôi nữa. - Toa làm việc rồi toa cưói vợ, hay là toa cũng không thèm lập gia đình như Xuân vậy. Nghe Triều hỏi như vậy, Quan lộ sắc mặt mắc cỡ, liếc ngó cô Quế, rồi cúi mặt mà suy nghĩ. - Toa nói đại cho anh em nghe chơi, có chi đâu mà mắc cỡ. - Nếu tôi làm việc mà có tiền dư thì tôi sẽ cưới vợ. Mà cưới vợ thì tôi chẳng cần kiếm con nhà giàu sang, tôi chỉ lựa người bạn trăm năm có đức, có hạnh, ham cần lao, biết tằn tiện, biết quí trọng chồng, biết dạy dỗ con cái vậy thôi, để tạo lập một gia đình thuận hoà vui vẻ, mà hưởng hạnh phúc ở đời. Gia đình của tôi chẳng cần giàu, miễn được xum hiệp trong một căn nhà lá cao ráo sạch sẽ, chung quanh có một miếng đất để trồng cây, hoặc trồng rau cải, rồi sớm mai và buổi chiều, tôi tưới cây, tưới rau chơi cho giải trí. Tôi hy vọng nhỏ nhen thấp thỏm như vậy song không biết có được mãn nguyện hay không? - Moa biết tánh ý của toa. Moa chắc toa sẽ mãn nguyện. Toa có muốn giàu sang gì đâu mà thất vọng... Còn em Quế quan niệm của em về đời tương lai như thế nào, em nói cho mấy anh nghe thử coi. Cô Quế cười mà đáp: - Em không có tính tới việc tương lai. Phận em nghèo, nên em mắc lo bề hiện tại. - Em có tính lấy chồng đặng lo làm ăn chớ? - Việc ấy không phải việc của em phải tính. Mà em cũng đã nhứt định không thèm tính. - Phải, con gái dầu muốn lấy chồng mà không có chú trai nào xin cưới thì làm sao lấy chồng cho được mà tính. Anh muốn biết ví như có một chú trai nào xin cưới em, vậy chớ em có chịu lấy chồng hay không? - Anh hỏi như vậy, em không trả lời được. Vợ chồng phải tâm đầu ý hợp thì gia đình mới có hạnh phúc. Anh nói có một người trai xin cưới em, mà em không biết người ấy hay dở, cao thấp thế nào, làm sao em ưng được? Mà đời nay đàn ông con trai phần đông đều giả dối, họ có biết danh dự, có kể gia đình là gì. - Anh hiểu rồi. Em cũng trọng chủ nghĩa gia đình như Quan, song em kén chọn người bạn trăm năm phải tâm đầu ý hiệp em mới ưng, chớ không phải nuôi ý tưởng "vô gia đình " như chú Xuân. Xuân rùn vai mà cãi với Triều: - Muốn hỏi em Quế về việc tương lai thì hỏi coi em tính làm ăn cách nào, chớ sao toa lại hỏi việc vợ chồng. Cử chỉ của toa coi khiếm nhã. - Chú Xuân quên tôi là anh cả hay sao nên kêu tôi bằng "toa" vậy hả? - Thôi, kêu bằng "anh cả". Vậy xin anh cả hỏi em Quế có tính việc làm ăn thế nào hay không? Hay là cứ đi thêu mướn cho tới già. Triều gật đầu và ngó cô Quế mà nói: - Em trả lời với Xuân đi. Cô Quế suy nghĩ một chút rồi mới đáp: - Cần lao là chủ hướng của em thuở nay, bởi vì em nghĩ sanh làm con người thì phải làm việc; lại có làm việc cực nhọc thì trí mới mở mang, thân mới tráng kiện. Ngặt vì thêu mướn cho người ta mà ăn tiền ngày tiền tháng, thì tấm thân có hèn hạ đôi chút. Vì vậy em tính tiện tặn để dành tiền, đặng ngày nào em có chút ít vốn, em lập một tiệm may nho nhỏ, em thêu đồ em bán, em làm chủ thân em, cho khỏi cái thấp hèn tôi tớ. Hy vọng của em chỉ có bấy nhiêu đó. Quan ngồi trơ trơ mà sắc mặt coi tư lự lắm. Xuân nói: - Ba em đã nói đủ rồi. Bây giờ tới phiên anh cả. Anh nói đi. Triều tằng hắng rồi mới chậm rãi nói: - Để anh tóm tắt chủ trương của ba em coi rồi anh nói tới việc anh tính. Xuân thì chủ hướng về Quốc gia xã hội. Quan thì chủ hướng về gia đình. Còn em Quế thì chủ trương về cần lao. Ba em tuy chí khác nhau, song bổn tâm người nào cũng tốt hết. Còn phận anh bây giờ muốn cái gì nào. Mình ở nhằm xứ ruộng, lại con nhà làm ruộng. Thuở nay anh thích nghề nông lắm. Mình gieo một đám mạ, trong ít ngày mạ lên tốt, phơi màu xanh lặc lìa, xem khoẻ con mắt biết chừng nào. Chừng cày cấy rồi cũng vậy, lúa nở bụi coi vui quá. Còn nói gì lúa trổ, sớm mai mình đi thăm ruộng, mình hửi mùi thơm tho lạ thường, tới chừng lúa chín mình ngó đám ruộng, mình thấy một màu vàng tươi, mình mừng hết sức, mừng vì công phu của mình được kết quả và nhứt là mừng vì lúa sẽ làm cho mình có tiền nhiều. Ấy vậy học xong rồi có lẽ anh sẽ về nhà cưới vợ rồi lo làm ruộng đặng có lúa cho nhiều mà nuôi thiên hạ. Xuân cười và nói: - Anh nuôi người ta, mà người ta phải trả tiền cho anh. - Chớ sao!... Trả tiền mặt nữa à! - Tôi thay mặt cho dân làm ruộng mà cảm ơn anh! - Nếu tránh sự anh bán lúa mắc thì hết thảy ra làm ruộng như anh đặng có lúa mà ăn khỏi đi mua. - Nếu dân cả nước đều làm ruộng hết thì ai bán cá thịt, rau cải cho mà ăn, làm sao có áo quần mà mặc, làm sao có xe cộ mà đi? - Chưa gì mà toa đã bàn về vấn đề kinh tế, toa muốn binh xã hội rồi đó. Khoan đã, để sau rồi sẽ hay. Bữa nay mình nói chủ trương của mình cho anh em nghe chơi chớ có việc chi đâu mà cãi. Nhưng mà trong bọn có ba người biết yêu chủ nghĩa gia đình, duy có một mình toa khác ý. Toa phải suy nghĩ lại chỗ đó. - Tôi nhứt định không cưới vợ. Chắc chắn như vậy. - Không chắc chắn đâu, để sau rồi sẽ biết. Đồng chỉ 11 giờ, chị chín Thiện nấu nướng đã xong, thằng Chí bưng dọn lên bàn ăn ở trong, rồi ra nói nhỏ cho chủ hay. Xuân bèn đứng dậy mời khách vô dùng cơm. Chủ khách ngồi chung quanh bàn ăn, cũng theo thứ tự Mai, Man, Cúc, Trước, tức thì cô Quế ngồi đối diện với Xuân bên tay trái của cô thì có Triều, còn bên tay mặt thì có Quan. Bữa ăn nầy ở trong một bầu không khí vừa vui vẻ vừa thân mật. Tuy Xuân thì có tánh nghiêm nghị, còn Quan ưa trầm tĩnh lại khiêm nhượng, nên hai người ít cười, song nhờ có Triều lanh lợi bãi buôi, nên câu chuyện kéo dài, mà chẳng bao giờ khiếm nhã. Gần một giờ trưa, ăn cơm rồi, cô Quế mới từ ba cậu mà về. Vì mấy anh theo nài xin, nên cô phải hứa cô sẽ xin phép với dì cô đặng mỗi chúa nhựt cô lại nhà Xuân nói chuyện chơi cho trọn niềm bằng hữu. -------------------------------- 1 diễn văn VI Trót mấy tháng trường, bốn bạn Mai, Lan, Cúc, Trước, hễ chúa nhựt thì hội nhau lại nhà cậu Xuân mà nghị luận, hoặc về nhân tình thế thái, hoặc về văn chương, rồi khi thì ở ăn cơm với nhau, khi rủ nhau đi chơi, hoặc lên miền Lái Thiêu, hoặc vô trong Chợ Lớn. Đối với cô Quế thì Xuân, Quan và Triều đều giữ mực cung kính, bởi vậy cô Quế không ái ngại, không sụt sè chi hết, cô trọng ba cậu cũng như anh ruột của cô. Vì gần gũi nhau như vậy nên tình bằng hữu ngày càng càng thêm mặn nồng, và tuy cãi lẽ với nhau, song mỗi người đều giữ vững cái chủ hướng của mình, không ai chịu vì ai mà thay đổi tâm chí. Gần tới ngày thi Tú tài kỳ nhì, Triều, Xuân và Quan lo học đêm học ngày, hễ chúa nhựt chẳng nói chuyện chi khác là sách vở. Cô Quế sợ mấy anh vì cô mà lo ra rồi lơ đãng sự học, bởi vậy cô xin mấy anh cho phép chúa nhựt khỏi hội nữa, đợi chừng nào thi xong rồi sẽ tái hiệp mà đàm luận việc đời. Mấy cậu cũng nhứt định đình cuộc hội hiệp. Một bữa chúa nhựt, Xuân đương ngồi học ôn những bài về triết lý, thình lình Quan bước vô, sắc mặt buồn hiu. Xuân chỉ ghế mời bạn ngồi và hỏi: - Toa đã nhứt định ở luôn trong trường mà học, mà sao toa còn ra đây? - Mấy tuần nay ở luôn trong trường, trí vừa mệt lại thấy buồn hiu, vì vậy moa đi giải trí một chút. Toa học triết lý phải không? - Phải. - Quan châu mày, ngó cùng trong nhà rồi hỏi: - Em Quế bữa nay không lại chơi hay sao? - Không. Mình đã nhứt định đình cuộc hội hiệp, nên mấy tuần nay em Quế không có lại chơi nữa. - À, phải. Moa mệt mà ra đây thấy toa ngồi học moa càng thêm mệt. Quan dứt lời liền đứng dậy đi qua đi lại. Cách một hồi lâu cậu hỏi Xuân: - Toa mệt hay không? - Không. Toa hỏi chi vậy? - Tưởng toa học mệt thì anh em thả đi chơi một chút mà giải trí. - Đi đâu? - Đi đâu cũng được, thả đi bậy ngoài chợ, hay là đi thăm em Quế chơi. - Toa muốn thăm em Quế à? - Ừ! Thăm chơi một chút. - Mỗi ngày em đi ngang cửa nhà moa, nên moa thấy em luôn luôn, có cần gì phải thăm em, nếu toa muốn đi thì moa đi dùm cho. - Không... Không phải moa muốn. Quan chấp tay sau lưng, đi qua đi lại nữa. Chẳng hiểu cậu nghĩ thế nào mà thình lình cậu nói: "Ừ! Buồn quá. Thay đồ đặng lại thăm em Quế chơi toa ". Muốn làm vui lòng bạn, Xuân xếp sách đi thay y phục. Cô Quế đương ngồi chăm chỉ thêu tại hàng ba. Cô mặc áo bà ba lụa trắng, quần lãnh đen, không trang điểm chi hết, nhưng mà gương mặt sáng rỡ như trăng rằm, miệng đẹp đẽ như đoá hoa hường mới nở, cặp mắt thanh bạch biểu lộ lòng vô tư lự. Xuân với Quan tới ngang cửa bèn đứng ngoài cửa mà ngó vô. Có lẽ hai cặp mắt chong ngó có điện lực mạnh mẽ lắm hay sao, mà cô đương chăm chỉ trông bàn thêu thình lình cô lại ngước mắt lên ngó ra đường. Thấy Xuân và Quan thì sự vui vẻ liền phát hiện ra mặt mày cô, làm cho diện mạo cô tươi tắn lại càng tăng thêm vẻ đẹp. Cô buông bàn thêu, vội vã đứng dậy, vừa cười vừa hỏi lớn: "Hai anh đi đâu đó? Kiếm thăm em phải không? Em xin mời hai anh vô chơi một chút". Xuân với Quan đi vô, Xuân đi trước chăm hẩm bước lên thềm, còn Quan theo sau trong lòng ngần ngại nên bước không được mạnh mẽ. Cô Quế vui vẻ nói: - Hai anh lại thăm em, thiệt em mừng lắm. Em mời hai anh vô nhà. Xuân ngó vô nhà mà hỏi: - Có dì Hai ở nhà hay không? - Thưa, có. Dì em ở nhà sau. Mời hai anh vô chơi, rồi một chút dì em sẽ ra. Anh Quan định ở luôn trong trường mà học cho đến ngày thi, sao anh ra? Quan đương cầm cái bàn thêu đưa lên mà coi, mắt chăm chỉ ngó tấm thêu, chừng cô Quế hỏi như vậy thì cậu bối rối đáp: - Tôi định ở luôn trong truờng song hôm nay học mệt quá, nên đi ra chơi một chút. Xuân nói: - Tôi đương học, Quan ra rồi biểu tôi thay đồ đặng lại thăm em, nên hai đứa tôi mới lại đây. Cô Quế ngó Quan vừa cười vừa nói: - Té ra nhờ anh Quan chủ mưu, nên mới có cuộc gặp gỡ nầy. Em rất cám ơn anh Quan. Quan bối rối, không đáp theo ý cô Quế, mắt cứ ngó tấm thêu mà hỏi: - Em thêu hình chi đây? - Em mới bắt đầu thêu từ hồi sáng nay nên chưa ra hình chi hết. Để chừng em thêu xong rồi hãy cho mấy anh xem. Có lẽ chừng ba anh thi đậu thì em thêu cũng rồi. - Mà em tính thêu cảnh chi đây chớ? Em nói trước nghe chơi. Cô Quế bước lại đứng khít một bên Quan rồi chỉ vô tấm thêu mà nói: - Em tính giấu mấy anh mà giấu không được. Em ngụ ý muốn thêu một cây thông già, trên ngọn có một cặp chim phượng hoàng đậu mà ngó mông ra một khoảng trời rộng minh mông, trông mút mắt. Đồng không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, mà chỗ nào cũng cỏ non đua mọc, phơi màu xanh mướt như gấm như nhung. Ở xa thì có một dãy núi lúp xúp, song thấy dàng dạng mà thôi, chớ không tỏ rõ. - Em bắt đầu thêu cây thông đây phải hôn? - Thưa, phải. Em thêu cây thông ở gốc nầy, để dư chỗ cho nhiều đặng thêu khoảng đồng với dãy núi. - Dãy núi nằm chỗ nào? - Phía trên đây. - Cái cảnh em nói đó thiệt là cảnh chứa chan thi vị. Cha chả, mà thêu ra cảnh đó có lẽ hơi khó, chớ không dễ đâu. Nếu mình vẽ thì mình liệu mà cho màu, có lẽ được, chớ thêu mà làm cho ra cỏ non, cho ra dãy núi thấy mờ mờ đàng xa, cho ra màu da trời, thiệt là khó. Phải có cái tâm hồn mỹ thuật đầy đủ thì thêu mới được. - Vẽ hay thêu cũng vậy, nếu không có tâm hồn mỹ thuật thì làm sao cho ra cảnh vật được. Tấm tranh em tính thêu đây thiệt là khó, nhưng em ráng để hết tâm hồn trí ý của em vô đặng thêu thử coi được hay không? Xuân gật đầu hỏi Quế: - Tấm tranh nầy em thêu đặng bán hay là thêu để chơi? - Trong một tuần lễ, em phải làm việc cho người ta đến 6 ngày, để lấy tiền mà nuôi sự sống, còn có một ngày chúa nhựt em rảnh rang, em phải để dành ngày ấy em chơi, em có thèm tính làm đặng bán lấy tiền thêm đâu. - Em tưởng tượng cảnh để thêu như vậy đó, có lẽ em còn ẩn ý gì chớ chẳng không. Tôi muốn biết chỗ đó. Cô Quế ngó ngay Xuân mà chậm rãi đáp: - Anh muốn hiểu chỗ đó thì em nói cho anh nghe. Mấy tháng nay em được ba anh hạ cố, cho em làm bằng hữu rồi đàm luận việc đời với nhau, mấy anh làm cho em suy nghĩ đến những việc mà thuở nay em không để ý. Mấy anh vạch tấm màn thế sự ra cho em dòm thấy bọn thanh niên hiện thời, dù trai gái cũng vậy, người nào cũng xem đường đời cùa mình chớn chở hy vọng, song nó minh mông lại lờ mờ quá, không biết phải theo hướng nào mà đi cho tới cảnh hạnh phúc. Tại em thấy như vậy nên em hội ý, muốn thêu bức tranh nầy để ghi tạc tâm hồn thanh niên trong lúc nầy chơi. Quan gật đầu khen: - Em đã sẵn tâm hồn mỹ thuật, em còn có thêm tâm hồn thi sĩ nữa, hai tâm hồn ấy lại hướng về xã hội, gái như em mới đáng lãnh chức "gái tiền tiến". Cô Quế lật đật xua tay và nói vội: - Anh đừng quá khen em. Anh khen như vậy, một là em tự thẹn rồi không dám làm, hai là tự đắc rồi em không ráng sức, thua sút người ta còn gì. Quan chưa kịp trả lởi, kế thấy dì Hai Oanh từ nhà sau đi ra. Cô Quế nói: - Dì của em kia. Mời hai anh vô chơi. Xuân với Quan cúi đầu chào dì Hai Oanh. Dì Hai Oanh biết Xuân, nên vui vẻ nói: - Tôi chào hai cậu. Con dại quá, sao con không mời hai cậu vô nhà, để đứng ngoài hàng ba mà nói chuyện? Tôi mời hai cậu vô nhà chơi. Xuân với Quan vô nhà. Cô Quế nhắc ghế mời khách ngồi rồi lo rót nước trà đãi khách. Xuân và Quan ngó trong nhà thì thấy gần cửa có để một cái máy may lau chùi sáng ngời, dựa vách buồng có để một cái tủ kiếng nhỏ, trong tủ có để hàng lụa nhiều màu, lại có mấy gói vuông đẹp đẽ. Trên bộ ván gõ, chỗ dì Hai ngồi thì có treo hai khúc tầm vông láng lẫy, mỗi khúc có áo vắt lòng thòng. Dì Hai Oanh nói: - Cách mấy tháng trước, con nhỏ tôi có thưa cho tôi hay rằng ba cậu thấy nó nghèo nên chiếu cố đến nó, muốn kết tình bằng hữu với nó, rồi chúa nhựt hội nhau mà dạy cho nó biết cách ở đời. Nó học ít, mà được hai cậu dạy dỗ thì quí biết chừng nào. Tôi vui lòng mà cho phép nó liền. Đã biết theo lễ nghĩa của Việt Nam mình thì con gái không được gần gũi với con trai như vậy. Nhưng mà tôi nghĩ sanh ở đời nào phải theo phong tục đời ấy. Ở đời nay mà giữ lễ xưa thì bất hợp thời. Đã vậy mà mấy cậu là người học giỏi, lại tôi biết tánh ý con nhỏ tôi, nhứt là nó có đeo chiếc cà rá của mẹ nó đó, thì tôi không cần ái ngại. Lúc ấy cô Quế đương bưng hai tách nước trà đem lại để trên bàn, chỗ khách ngồi. Xuân với Quan ngó tay cô, thiệt cô đeo một chiếc cà rá vàng nhận hột ngọc đỏ bầm. Cô Quế bước lui lại đầu ván mà ngồi, tay rờ rẫm, mắt ngó trân vào chiếc cà rá, sắc mặt buồn thảm chớ không vui vẻ như hồi nãy nữa. Bây giờ trong nhà im lìm, một làn không khí sầu não phảng phất làm cho chủ khách đều không an. Trong lòng ăn năn về mấy lời nói đó, dì Hai Oanh liền nói tiếp: - Hễ nhắc tới chiếc cà rá là nó buồn. Hai cậu lại thăm chơi mà tôi vô ý tôi nhắc tới chiếc cà rá nên mất vui. Cô Quế nói: - Hột ngọc đỏ gắn trong chiếc cà rá nầy là máu của má con. Dì nhắc tới thì con làm sao vui cho được. Quan không thể nín được, nên hỏi dì Hai: - Theo lời của dì Hai và lời của em Quế nói, thì dường như chiếc cà rá mà em Quế đeo đó có một sự tích bí mật. Không biết anh em tôi có nên biết sự tích ấy không? Cô Quế nói: - Chiếc cà rá mà con đeo đây là cây nêu, là đèn rọi, để con nhắm mà đi trong đường đời. Dì cứ nói cho hai anh con biết, có hại chi đâu mà ngại. Dì Hai Oanh ngó hai cậu mà nói: - Chiếc cà rá đó là chuyện không đẹp trong thân tộc. Nhưng mà hai cậu đã là anh em với cháu tôi, chắc hai cậu biết chuyện không lẽ hai cậu chê cười. Vậy để tôi nói cho hai cậu hiểu. Chị em tôi là con nhà nghèo, từ nhỏ chí lớn phải chuyên nghề may mướn mà nuôi thân. Em tôi, là má của con Quế đây, hồi nhỏ có nhan sắc, ai thấy cũng ngấm nghé. Chúng tôi vẫn biết phận mình nghèo hèn, chúng muốn là muốn chơi qua đường, chớ có ai tính kết nghĩa trăm năm với mình bao giờ. Em tôi biết số phận như vậy, nên nó giữ gìn tới 20 tuổi không chút bợn nhơ. Một lúc nọ, có một người thuộc về hạng thượng lưu chớ không phải điếm đàng du đãng cứ theo dụ dỗ rù quến nó, nói nhân nghĩa nghe hay lắm, mua cho nó chiếc cà rá đó, hứa hễ để vợ 1 xong rồi thì cưới nó. Em tôi tưởng nghĩa trăm năm, không cần dè dặt, nên kết tình với người ấy rồi sanh con Quế đó. Lúc sanh, em tôi nài nỉ người ấy đứng khai sanh giùm cho con Quế có cha. Người ấy nói vì để vợ chưa xong, nên đứng khai sanh thì trái luật, bởi vậy phải đợi để vợ xong rồi thì sẽ ra Toà mà nhìn nhận con, chẳng muộn gì. Chị em tôi không biết luật, nên tưởng thiệt như vậy, không nghi ngại chi hết, chẳng dè chừng người ấy để vợ được rồi, lại kiếm cớ khác mà nói, cứ lần lựa hoài, không ra Toà nhìn con Quế là con, mà cũng không đem mẹ con nó về ở chung. Đến chừng con Quế được 10 tuổi, người ấy lần lần không tới lui nữa, rồi sau lại đi cưới vợ, cưới con một ông điền chủ ở dưới vườn, bỏ dứt mẹ con Quế. Em tôi buồn rầu hết sức, ăn ngủ không yên. Một đêm con Quế đương ngủ, em tôi kêu con nhỏ thức dậy khóc mà nói hết sự bạc bẽo của cha nó cho nó nghe, lấy chiếc cà rá đeo vào tay con nhỏ, rồi lấy dao cắt họng mà chết. Em tôi nó trối với con nhiều lắm, làm cho con nhỏ cảm động, nên từ đó đến nay con Quế giữ chiếc cà rá đó hoài, không khi nào rời ra. Thấy gương của mẹ nó như vậy, con Quế nó oán hết đàn ông con trai, mấy năm nay trai nào chọc ghẹo nó đều bị nó từ nan hết thảy. Sự tích chiếc cà rá là vậy đó. Quan trầm tĩnh, song ngay thẳng, bởi vậy nghe dì Hai Oanh thuật chuyện thì nóng giận không thể dằn được. Chừng dì Hai nói dứt lời, Quan châu mày hỏi: "Thưa dì, ông thượng lưu bạc tình giết đàn bà đó, chừng hay tin ổng có ăn năn hay không?" Dì Hai lắc đầu đáp: - Người ta có thèm tới lui gì đâu mà mình biết người ta ăn năn hay không ăn năn. - Đã được một bài học ở đời rất thảm thương như vậy, ít nữa cũng phải hối hận mà nhìn nhận em Quế là con chớ. - Không. Có nhìn đâu. Cô Quế vùng nói lớn: - Dầu có muốn nhìn đi nữa em cũng không chịu. Một người cha như vậy mà mình nhận là cha làm chi. Không đáng cho mình kêu là người nữa kìa. Xuân nói: - Anh kính phục mấy lời em nói đó lắm. Quan nói với dì Hai Oanh: - Dì Hai coi hai cháu cũng như con cháu trong nhà, nên mới đem việc gia đình mà nói cho hai cháu biết. Bây giờ anh em cháu được biết sự thống khổ của em Quế, thì anh em cháu lại càng quí trọng kính mến hơn nữa, quí mến thập bội phần. Dì Hai Oanh nói: - Xin mấy cậu thương giùm phận nó. Xuân đứng dậy mà đáp: - Ba anh em cháu hứa chắc chắn với dì, anh em cháu sẽ tận tâm mà bảo hộ em Quế, bảo hộ luôn luôn, không để ai gạt gẫm em Quế được đâu. Dì Hai gật đầu cười và nói: - Cám ơn các cậu. Xuân và Quan từ mà về, sắc mặt buồn hiu, nhứt là Quan. -------------------------------- 1 ly dị VII Một buổi chiều trời chuyển mưa, mây giăng mù mịt, gió thổi ào ào. Thầy thợ ra khỏi sở, ngó thấy quanh cảnh như vậy thì sợ mắc mưa, nên bươn bả đi riết về nhà. Ngoài đường người ta đi dập dìu, lại thêm xe hơi, xe ngựa, xe máy, chiếc xuống chiếc lên, tiếng chuông leng keng, tiếng còi te tét. Cô Quế đi thêu ngoài nhà hàng, cô cũng đi về nhà như người ta và cũng như người ta cô đi xăng xớm, bộ như sợ mắc mưa. Thế mà cô không đi thẳng về nhà, cô lại ghé vô nhà cậu Xuân. Thấy cửa giữa đóng chặt, cô lại đứng chỗ cửa sổ mà kêu thằng Chí. Chị Chín Thiện ra mở cửa và nói: - Cô Hai đi thêu về sớm dữ. Thằng Chí mới đi ra chợ mua bánh mì. Cô Hai cần dùng nó đi đâu hay sao? Cô Quế mau mắn đáp: - Không, không... Anh Xuân chưa về hay sao? - Thưa, chưa. Cậu tôi đi thi trong trường. - Tôi biết... Thi đã cả tuần rồi chớ. Bữa nay vô trường đặng nghe xướng danh coi đậu hay rớt, sao tới chừng nầy mà chưa về! - Tôi cầu khẩn cho cậu tôi đậu. - Tôi cũng mong ước như vậy. Tôi vái van cho đậu hết, nếu có người nào rớt tôi buồn dữ lắm. - Mời cô hai vô nhà chơi. Tối rồi chắc cậu tôi gần về... - Dì đi nấu cơm đi dì Chín. Để tôi đứng ngoài nầy tôi chơi một chút. Chị Chín trở vô bếp, cô Quế đứng trước hàng ba ngó ra đường có ý trông cậu Xuân. Thằng Chí đi chợ về, tay cầm một ổ bánh mì. Cô Quế thấy nó bước vô thì nói: - Em coi nhà nghe không em Chí. Để qua về một chút rồi qua trở lại. Thiệt quả cô về chẳng bao lâu thì cô lại nữa. Bây giờ trời đã tan mây lặng gió. Thằng Chí thấy đã tối rồi, nên vặn đèn trong nhà cho sáng. Thế mà cô Quế không vô, cô đứng trên thềm nhà ngó mông, bỗng thấy Xuân với Triều đằng xa đi lại, bộ đi chậm rãi dường như không muốn tới nhà cho mau. Cô Quế nóng nảy, muốn hay tin liền về cuộc thi, nên cô bước ra đường mà đón hai cậu. Chừng hai người đi gần tới thì cô lật đật hỏi: "Đậu hay không?" Triều lắc đầu và chúm chím cười và đáp: - Rớt! - Hả? Rớt hết sao? - Rớt hết! - Trời ơi! Anh Quan cũng rớt nữa à? - Quan mà rớt sao được. Nó đậu mà còn được lời khen của ban giám khảo nữa chớ. Ba người đắt nhau vô nhà. Xuân buồn hiu, quăng cái nón lên bàn rồi nằm ngửa trên ghế xích đu, mắt lim dim, không nói một tiếng chi hết, Triều quay máy hát dĩa "Trảm Trịnh Ân", đứng hát tự nhiên, dường như không quan tâm đến việc thi rớt. Cô Quế thấy cậu Xuân buồn thì nói: - Người ta thường nói "Học tài thi mạng". Kỳ nầy rủi rớt thì ráng học thêm nữa đặng kỳ sau thi lại. Phải kiên nhẫn, phải cố gắng, phải phấn chí luôn luôn, chẳng nên ngã lòng. Xuân cứ nằm thiêm thiếp. Triều cứ đứng nghe máy hát. Cô Quế muốn giải nỗi buồn cho hai cậu, cô bèn bước lại ngừng máy hát, mời Triều ngồi, kêu thằng Chí biểu dọn cơm. Cô đi lăng xăng, cô nói không ngớt chớ không tề chỉnh nghiêm nghị như trước nữa. Thấy Xuân cứ nằm trơ trơ, cô mới kêu mà nói: - Anh Xuân dậy đi thay đồ rửa mặt rồi ăn cơm chớ. Em có thưa cho dì em rồi, bữa nay em ở đàng nầy đặng em ăn cơm với anh. Em đói bụng quá, dậy ăn cơm đặng em ăn với chớ. Triều nói tiếp: - Dậy ăn cơm toa, Xuân. Moa cũng đói bụng nữa. Xuân thủng thẳng đứng dậy mà nói: - Tôi hết muốn ăn cơm. Cô Quế cười và nói: - Trời ơi! Thi rớt rồi tính tuyệt thực hay sao? Làm trai mà yếu trí quá vậy? Thanh niên tân học ta phải có trí kiên nhẫn, có óc hùng cường. Đường đời đương nhiên có chông gai nhiều, mình phải lập thế tránh mà đi tới nơi tới chốn mới hợp. Đã biết thi rớt là một việc trắc trở đáng tiếc lắm. Nhưng mà sự trắc trở ấy nhỏ mọn không đáng cho mình sầu não. Thi rớt thì học thêm đặng thi lại, học hoài cho tới thi đậu mới nghe. Phải có cái trí như vậy mới được. Làm trai nếu gặp việc khó khăn rồi buồn rầu thất trí như thế có hơn đàn bà con gái chỗ nào đâu! Có lẽ mấy lời cứng cỏi ấy làm cho Xuân hoặc phấn chí hoặc hổ thầm, bởi vậy cậu mau mau đi rửa mặt không ngẩn ngơ dã dượi nữa. Triều ngồi hút gió rồi nói: - Ai học nữa thì học, tôi xin kiếu; về cưới vợ, rồi làm ruộng đặng làm giàu đi xe hơi chơi. Thình lình Quan từ ngoài bước vô nói: - Hai anh rớt, tôi buồn quá, phải hai anh đậu hết tôi mới vui. Cô Quế mừng nói: - Em nghe anh đậu, em vui quá. Em mừng cho anh. - Cám ơn em. - Anh Xuân với anh Triều nãy giờ buồn hiu. Em xin anh ở ăn cơm nói chuyện cho hai anh đó bớt buồn một chút. - Thình lình quá, đâu có cơm sẵn mà ăn. - Có mà. Để em sắp đặt mà mua đồ ăn thêm. Cô Quế bỏ ba cậu ở ngoài nói chuyện, cô đi vô trong lo bữa cơm. Cách độ một hồi cô trở ra mời ba cậu đi ăn cơm, đồ ăn đã dọn đủ hết. Bốn người ngồi ăn cũng theo thứ tự Mai, Lan, Cúc, Trước. Triều hỏi Xuân: - Bây giờ toa tính sao đây Xuân? Toa nói nghe thử coi. - Tính giống gì? - Toa nghe lời em Quế toa học nữa hay sao? - Moa chưa nhứt định, để suy nghĩ ít bữa rồi sẽ hay. - Moa tính như vầy hay lắm toa. Toa về Cần Thơ mà ở, moa về Bạc Liêu moa xin với tía moa kiếm hai cô con gái con nhà giàu, nói mà cưới vợ cho hai anh em nhà mình, rồi mình lo làm ruộng, buôn lúa, đặng làm nhà giàu. - Moa không có chí làm nhà giàu. - Toa cứ tính chuyện viển vông hoài! - Không phải viển vông. Thuở nay moa đi học, moa quyết học thành tài, đặng moa dùng tài học cùa moa mà mở trí đồng bào, cải lương xã hội, làm cho quốc dân cao thượng, làm cho nước nhà chấn hưng. Moa đã nói với toa, moa nhứt định không cưới vợ mà moa cũng nhứt định không làm giàu. Vậy toa muốn làm việc gì thích ý toa, toa cứ làm, đừng rủ moa. - Toa thích làm việc minh mông, đã mệt trí lại không ích gì cho toa hết. - Nếu mỗi người đều chỉ biết lo cho mình, xã hội còn ra gì nữa. Moa giận rồi, có lẽ moa phải đi Pháp mà học. - Tự ý toa. Moa chỉ xin nhắc cho toa nhớ rằng lúa gạo là vật báu trời ban cho xứ mình có nhiều. Vậy mình cứ níu cái hạnh phúc ấy mà sống, chẳng cần phải lo minh mông cho nhọc trí. - Cái tâm hồn của toa là tâm hồn nhà quê. Toa không thể hiểu chí hướng của moa nổi. Đừng có nói chuyện ấy với moa nữa. Triều rùn vai mà hỏi Quan; - Quan, toa thi đậu rồi bây giờ toa tính làm việc gì? - Có lẽ tôi sẽ kiếm chỗ mà làm việc nhà nước. - Làm việc gì? - Biết đâu. Để đợi cơ hội mở kỳ thi vào ngạch công chức nào thì tôi sẽ lập đơn dự thi chớ bây giờ biết đâu mà nói trước được. Xuân liền nói với Quan: - Toa đi Tây mà học thêm với moa. - Ồ! Phận tôi nghèo, tôi đâu dám đèo bồng quá như vậy. - Moa còn ba mươi bảy ngàn bạc gởi dưới băng. Số bạc ấy không đủ cho hai đứa mình ăn học bên Pháp năm mười năm hay sao? Toa đi với moa thì moa bao cho toa. - Cám ơn. Phận tôi mẹ goá con côi, tôi không thể tính việc xa vời. - Toa là người không có đại chí, toa không có lợi ích cho nước nhà chi hết. - Ở đời mình làm việc chi cũng phải lượng sức mình chớ. - Moa tiếc cho toa lắm, tiếc vì tài lớn mà chí nhỏ. Chớ chí toa mà chí lớn như moa, thì toa quí không biết chừng. Bây giờ cô Quế mới xen vô: - Ba anh mỗi người có một chí riêng, không ai giống ai hết. Mới có ba người, lại là ba anh em thân thiết với nhau, mà cũng chưa đồng tâm được, thế thì mười mấy triệu đồng bang làm sao mà hiệp ý cùng nhau. Mấy lời của Quế đây là lời bình luận nghe chơi cho vui, chớ không có ý chê bai hay nhạo báng. Thế mà ba cậu trai nghe qua, dường như ăn năn hay hổ thầm nên liếc mắt ngó nhau rồi ngồi gầm mà ăn không nói thêm một tiếng chi nữa hết. Có lẽ lời bình phẩm ấy động tới Xuân nhiều nhứt, bởi vì Xuân châu mày cúi mặt trầm tư nghiêm nghị lắm, làm cho không khí thêm nặng nề. Cô Quế dòm thấy cái lỗi của cô, thì cô ăn năn muốn kiếm thế mà gây cuộc vui vẻ lại, song cô không tìm ra chước, bởi vậy khoảng sau bữa ăn có vẻ lãng đạm đìu hiu. Ăm cơm rồi, Triều với Quan từ giã đi vô trường lo sửa soạn hành lý đặng sáng mai đi về nhà. Xuân với cô Quế đưa ra cửa. Chừng hai cậu đi rồi, cô Quế thấy Xuân có sắc trầm tư bèn hỏi cậu: - Anh nhứt định đi qua Pháp học nữa hay sao? - Đó là con đường qua chọn lâu rồi. Trước sau gì rồi qua cũng phải theo con đường ấy. Vậy nên đi liền bây giờ thì phải hơn. - Nếu anh có trí un đúc cho có tài cao, thì anh qua Pháp mà học là phải. Học cho thiệt cao mới có ích. - Em đồng ý với qua hay sao? Cô Quế nhếch miệng cười rất có duyên; tuy ngoài hàng ba không có đèn, song Xuân thấy cô ngước mắt ngó mình và nói: - Không phải em đồng ý. Vì anh có chí như vậy nên em phải trưởng chí cho anh chớ. Xuân thở dài mà nói: - Cám ơn em. Cô Quế muốn nói chuyện nữa, nhưng cô nghĩ thế nào không rõ, cô đứng dụ dự rồi nói: - Thôi, để em về cho anh nghỉ. Em chào anh. Cô Quế bước xuống thềm. Xuân đứng ngó theo tư lự châu mày. VIII Gần 6 giờ chiều, đèn ngoài đường phực cháy lên làm cho quang cảnh châu thành Sài Gòn nằm giữa lúc giao thời, nửa sáng nửa tối. Xuân thay đồ mà đi từ hồi 3 giờ, đi xuống nhà băng, đi qua hãng tàu. Cậu về nãy giờ, song cậu ngồi không yên, cứ đi ra đi vô hoài. Bây giờ cậu mới bước ra đường rồi thủng thẳng đi bách bộ, có ý đón cô Quế đi thêu về. Chừng thấy dáng cô đi xa xa, thì cậu mừng thầm nên chúm chím cười, đứng nép bên đường mà chờ cô. Vừa gặp nhau thì cô Quế hỏi: - Anh làm gì đứng đây? - Qua đón em. - Cần gì phải đón. Có việc chi gấp hay sao? - Có. Qua có một việc riêng cần nói với em. - Vậy thì trở về nhà. Hai người dắt nhau đi về nhà Xuân. Cô Quế vừa đi vừa nói: - Có việc chi quan hệ lắm hay sao mà anh phải đón em, anh làm em lo sợ quá. - Để một chút rồi qua sẽ nói. - Việc không gấp, vậy thì để em về rồi thì anh sẽ lại nhà em anh nói, hoặc anh sai thằng Chí kêu em cũng được, cần gì phải đón ngoài đường? - Vì qua bối rối trong trí quá, không thể ngồi yên được nên phải đi ra đường. - Vậy hả? Anh có hỏi thăm chắc chắn bữa nào tàu chạy hay chưa? - Hỏi rồi. Sáng mốt đúng 6 giờ tàu kéo neo. - Vậy thì chừng nào anh phải xuống tàu? - Qua tính tối mai, chừng 10 giờ qua xuống tàu. - Vậy để tối mai em đưa anh xuống tàu, rồi sáng mốt lúc tàu gần chạy em sẽ qua bến tàu mà từ giã anh. Vô nhà rồi, cô Quế ngồi liền, còn Xuân thì cứ đi qua đi lại, dòm sắc mặt thì cậu lo lung lắm. Cô Quế ái ngại, không muốn biết gấp việc riêng làm cho cậu phải đón mình, nên cô ngồi lặng thinh. Thình lình cô nhớ đến việc cậu Quan cô liền hỏi: - À, hôm qua anh nói anh có được thơ của anh Quan. Ảnh nói hôm tháng trước ảnh thi vô làm việc trong dinh Đốc lý đã đậu rồi mà mới được lịnh đòi đi làm, nên mai ảnh sẽ lên. Không biết ảnh lên kịp mà đưa anh xuống tàu hay không? - Quan lên tới rồi. - Hồi nào? - Hồi trưa. Nó có ghé nhà qua. - May dữ! Ảnh đi đâu rồi? - Hồi trưa nó ghé một chút rồi đi kiếm chỗ ở đậu mà làm việc. Nó nói tối nay nó sẽ trở lại. - Chừng nào anh Quan trở lại anh phải cho em hay. Em muốn chiều mai em mời anh với anh Quan ăn cơm với em một bữa. Bữa cơm ấy là bữa lễ tiễn biệt anh và là lễ mừng anh Quan bước chân vào đời. - Thôi, đãi đằng làm chi. Em chẳng nên nhọc lòng. Mà em cũng chẳng nên làm cho qua nhọc lòng thêm nữa. - Em có làm nhọc lòng anh hay sao? - Nhọc lòng lắm. - Em không dè. Em xin anh tha lỗi cho em. Vậy chớ trước khi anh đi, anh có thể cho biết lỗi của em đặng em ăn năn trước mặt anh hay không? - Sự làm nhọc lòng qua đó không phải lỗi của em. Mà qua mời em ghé đây, chánh qua muốn tỏ sự ấy cho em biết. - Vậy thì anh nói đi. - Nãy giờ qua dụ dự là vì việc ấy khó nói quá, nói ra sợ em phiền. - Anh thiếu can đảm, mà cũng thiếu trí quyết đoán. Anh tính qua Pháp học, mà gần ngày xuống tàu, anh thối chí, không muốn đi hay sao? - Không, không... qua có thối chí bao giờ đâu, qua quyết đi lắm chớ. - Nếu anh quyết đi thì anh phải hăng hái lo mua sắm đồ đặng xuống tàu đi, chớ còn dụ dự nỗi gì. Em nói thiệt, em không muốn anh dụ dự. - Vì qua có một việc, qua muốn tính cho vuông tròn, rồi qua sẽ đi. - Việc chi? Anh có thể nói cho em biết hay không? Xuân kéo ghế ngồi một bên cô Quế mà đáp: - Qua sẽ nói. Chỉ còn có hai đêm với một ngày nữa thì qua sẽ từ biệt quê cha đất tổ mà gởi thân nơi xứ lạ. Việc tương lai không biết nó ra sao. Chừng nào qua trở về xứ? Mà qua sẽ về hay, hay không? Lại qua sẽ có phước mà gặp lai em nữa hay không? Đó là những câu hỏi làm cho qua nhọc lòng khổ trí hết sức. - Ở đời phải nuôi tâm hồn lạc quan thì trí mới thơ thới được. - Tại qua hay lo xa, mà cũng tại qua thương thân phận em út, nên qua bi quan như vậy. - Thân phận của em an ổn lắm, có làm sao đâu mà anh phải thương. - Để qua nói rõ cho em hiểu. Ba anh em kết tình bằng hữu với em gần một năm nay, qua không hiểu ý của Triều và Quan như thế nào, chớ riêng qua thì qua thương em lắm. Qua nói thiệt nếu qua không lập chí hiến thân cho Tổ Quốc, qua thích thú gia đình như Triều với Quan, thì qua thưa với dì Hai mà xin cưới em. - Cám ơn anh. - Ngặt vì qua nuôi cái chí viển vông quá, nếu cưới em thì qua sẽ làm cho em nhọc lòng chớ không hạnh phước chi hết. Qua đã thương em mà ngày nọ qua nghe dì Hai kể chuyện thương tâm của em nữa thì qua càng yêu mến em, nên qua có hứa sẽ bảo hộ thân em đến cùng. Ngày nay qua phải bỏ xứ lìa em mà đi, thì làm sao qua bảo hộ em nữa được. Chỗ qua nhọc lòng là chỗ đó. Cô Quế nghe những lời chứa chan tình nghĩa, thì cô cảm động, nên hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Xuân cũng cảm động, song phải gắng gượng mà nói tiếp: - Hồi trưa qua có cậy Quan ở nhà bảo hộ giùm em. Để rồi qua cũng phải viết thơ cho Triều mà gởi gắm thêm nữa. Tuy vậy mà qua cũng chưa yên lòng. Qua nhớ ngày nọ em có nói với qua rằng em hy vọng có được một tiệm may nho nhỏ đặng làm chủ, khỏi đi thêu mướn cực nhọc mà hèn hạ. Em quyết tiện tặn đặng thực hiện hoài vọng ấy. Em tiện tặn đến chừng nào mới có đủ số vốn lập tiệm cho được? Lâu lắm. Vậy nay qua gần đi, qua muốn để lại cho em một ngàn đồng bạc đặng em dọn tiệm liền, khỏi đi thêu mướn nữa. Xin em vui lòng lãnh số bạc ấy, nếu em từ chối thì qua buồn lắm. Cô Quế lau nước mắt rồi ngó ngay Xuân mà đáp: - Em rất cám ơn anh. Anh thương em nên em muốn giúp em như vậy, em cảm tình anh không biết chừng nào. Nhưng mà có nhiều cớ khiến em không thể nhận số tiền anh cho được. Thứ nhứt, anh qua Pháp mà học, phải học lâu nên tốn hao nhiều; Vậy thì anh phải để dành tiền mà ăn xài, không nên để lại cho em. Thứ nhì, em nghe nói những người gần gũi với anh đều được thưởng công xứng đáng. Anh cho dì Chín Thiện một trăm, cho thằng Chí năm chục đặng đền công họ cực nhọc với anh trót mấy năm nay. Bây giờ anh cho em tiền nữa, té ra anh cũng thưởng công em làm cho anh vui xưa nay đó hay sao? - Hai cớ em nói đó đều sai hết. Hiện bây giờ qua có tới ba mươi bảy ngàn đồng bạc; qua để lại cho em một ngàn, cũng còn 36 ngàn, không đủ ăn học hay sao? Còn em viện cớ thưởng công, cái lý do không chánh đáng nên qua xin phép qua cãi lại. Qua muốn để lại cho em một ngàn, ấy là vì qua muốn tính giúp em được thoả mãn chỗ mơ ước của em, chớ có thưởng công gì đâu. Mà số tiền ấy cũng như số tiền qua gởi em để em cất giùm cho qua; đã làm anh em, sao em còn ái ngại điều nhỏ mọn ấy? Xuân liền thò tay vào túi lấy ra một cái bao thơ đựng mười tấm giấy một trăm mà đưa cho cô Quế và nói tiếp: - Em hãy lấy mà cất đi. Nêu em từ chối thì qua buồn lắm vậy. Cô Quế châu mày ngồi lặng thinh mà suy nghĩ một chút, rồi cô đứng dậy nói xẳn xớm: - Anh nói như vậy thì em phải nhận lấy số tiền nầy, mà em xin phép hỏi gắt anh một câu: Anh để một ngàn đồng bạc lại cho em là vì anh muốn giúp em làm ăn chớ không có ý gì khác phải không? Xuân cũng đứng dậy mà nói cứng cỏi: - Thiệt như vậy. Qua chỉ có ý đó mà thôi, chớ không có ý nào khác. Cô Quế chảy nước mắt một lần nữa. Cô lấy cái bao thơ của Xuân rồi thủng thẳng nói: "Anh muốn làm nghĩa với em. Vì tình anh em nên em phải lấy số bạc của anh." Xuân hớn hở nói: - Em làm cho qua hết buồn. Qua vui lắm, qua cám ơn em. Còn một việc nầy nữa: đồ đạc trong nhà đây qua không biết làm sao. Hồi trưa qua khuyên Quan về ở đây mà làm việc thì nó nói lương nó ít, nó không có sức ở nổi một căn phố, nó phải đi ở đậu với anh em; qua nói hết sức mà nó cứ từ chối hoài. Bây giờ chở đồ đi bán coi kỳ quá. Còn chị Chín Thiện với thằng Chí, thì qua đã có cho tiền rồi, không lẽ qua còn cho thêm đồ đạc nữa. Vậy qua xin gởi hết đồ đạc trong nhà của em. Hễ qua đi rồi, thì em đem đồ đạc về nhà mà dùng rồi trả phố lại cho chủ. Tiền phố qua đã trả đủ tháng nầy rồi. Cô Quế nói: - Chớ chi anh Quan về ở đây, ảnh giữ đồ giùm cho anh thì tiện lắm. - Qua nói hết lời mà nó không chịu. Mà nó không chịu cũng phải, bởi vì tiền phố mắc quá, nó ăn lương thì ít chịu sao nổi. Vì vậy nên qua không dám ép. - Anh Quan không chịu lãnh thì em giữ giùm cho anh, chớ biết làm sao bây giờ. - Cám ơn em. Sự buồn sự lo của anh giờ đã bay hết. Qua vui lắm. Qua muốn em thưa cho dì Hai hay, rồi ở đằng nầy ăn cơm với qua. - Có anh Quan về ăn cơm hay không? - Nó không có hứa. - Vậy để em về thưa cho dì hay rồi em trở lại. Cô Quế bước ra cửa thì gặp Quan vô, hai người mừng nhau rồi cô Quế đi về, cô hứa lát nữa cô trở lại ăn cơm. Thiệt quả cách chẳng bao lâu cô Quế trở lại, mà bây giờ cô rửa mặt sạch sẽ, bới đầu vén khéo, lại bận đồ mới chớ không phải bộ đồ cũ bận đi làm như hồi nãy. Vừa bước vô, cô trách Quan: - Anh Quan lên làm việc mà anh không thèm ghé nhà em chơi. - Tôi mới lên tới. Nên chưa kịp thăm em. - Chừng nào anh bắt đầu đi làm? - Sáng mai. - Anh sẽ ở đâu? - Tôi ở đậu nhà người quen trên chợ Đủi. Anh em nói chuyện tới đó, kế thấy một chiếc xe hơi lớn dừng ngay trước cửa rồi ba bốn người mở cửa leo xuống xe. Xuân dòm ra rồi nói: „ Ý! Anh Triều lên kìa! Có tía má ảnh nữa chớ." Ba người trong nhà đều đứng dậy. Triều bước vô trước, theo sau là vợ chồng ông Từ Tệt và cô Quyên. Xuân chào mừng. Triều tiến dẫn cô Quế với Quan cho cha mẹ biết. Mỗi người chào nhau rồi Xuân mời ngồi rồi kêu thằng Chí biểu rót trà đãi khách. Xuân lại đứng gần cô Quyên, ngó cô mỉm cười và nói: "Em Quyên đi Sài Gòn, tôi không dè chút nào hết. Em lên trên nầy đặng chụp hình hả". Cô Quyên ngó Xuân, nét mặt hơn hở, cô cười và đáp: "Nếu chụp hình thì anh chụp cho em, chớ em không chịu người khác chụp." Xuân cười và hỏi ông Từ Tệt: - Chú thím lên tới hồi nào? Đi Sài Gòn chơi hay là có việc chi? - Mới lên hồi xế. Con Quyên cứ đòi đem nó lên trên nầy cho nó học. Bởi vậy chú thím dắt nó lên trường Nhà Trắng đặng nó coi như nó chịu, thì xin cho nó một chỗ để khai trường nó ở nó học. - Chú thím đã dắt em đi coi hay chưa? - Đi coi hồi chiều rồi. Nó chịu, nên chú thím cũng đã xin chỗ cho nó rồi nữa. - Chú thím ở đâu? - Mướn phòng ở ngoài khách sạn. Nghe thằng Triều nói cháu tính đi Tây mà học nữa phải không? - Thưa, phải. - Té ra thiệt cháu không chịu nghe lời chú? Thiệt cháu nhứt định đi Tây hay sao? - Thưa, cháu nhứt định đi Tây, cháu xin giấy thông hành và mua giấy tàu rồi. Sáng mốt tàu chạy. Ông Từ Tệt ngó Xuân rồi lắc đầu, sắc mặt không vui. Cô Quyên nghe nói thì chưng hửng; cô cũng ngó Xuân trân trân và ứa nước mắt mà hỏi: - Sáng mốt anh đi Tây hay sao? - Phải, sáng mốt anh đi. - Tưởng lên trên nầy học cho gần anh, té ra anh đi Tây! Triều hỏi Quan: - Toa lên hồi nào? - Mới lên hồi trưa. - Toa lên đặng đưa Xuân xuống tàu phải không? - Không. Moa lên đặng làm việc. - Làm ở đâu? - Dinh Đốc lý. - Moa mừng cho toa. Để moa xin tía má moa ở nán lại đặng sáng mốt đưa Xuân xuống tàu. Cô Quyên vội nói: - Tôi cũng ở nữa. Ông Từ Tệt cười và nói: - Muốn ở thì ở. Đưa cháu Xuân xuống tàu rồi sẽ về. Nầy, cháu Xuân, chú mời cháu chiều mai ra nhà hàng ăn cơm với chú thím một bữa rồi sẽ đi. Xuân bợ ngợ đáp: - Lời chú biểu cháu không dám cãi. Mà nếu vâng chịu thì có chỗ bất tiện cho cháu. Bà Từ chận hỏi: - Sao mà bất tiện? - Dạ, cháu tính tối mai cháu ăn cơm với cô Quế và anh Quan đây rồi cháu xuống tàu. - Tưởng ai đâu lạ, chớ anh em với thằng Triều thì thím xin mời hết chiều mai ăn cơm chung với nhau cho thím vui. Thím xin mời hết anh em. Triều đứng dậy nói lớn: - Hội Mai, Lan, Cúc, Trước nhóm đại hội, không ai được phép vắng mặt. Lời của trưởng hội truyền. Chiều mai anh em tụ lại đây rồi tôi đem xe vô rước đi. Ăn cơm rồi mình sẽ tính việc đưa Xuân xuống tàu. À, Xuân, toa hay chuyện moa đã nói vợ hay chưa? Xuân cười mà hỏi lại: - Nói vợ ở đâu? - Bên Long Mỹ, con gái một vị điền chủ, đẹp lại giàu. - Người ta ưng gả hay không? - Sao lại không ưng? - Nếu vậy thì toa gần đạt được mục đích của toa rồi. - Phải, chớ chi toa làm như moa thì xong quá, khỏi đi học tốn của tốn công. - Ai có chí nấy... Bà Tệt nói: - Thi rớt rồi về nhà nó đòi cưới vợ, chú thím phải lo nói vợ cho nó. Chỗ đó người ta chịu gả rồi, song ra giêng mới cưới. Xuân với Quan bắt tay mừng cho Triều. Vợ chồng ông Từ Tệt ở chơi một lát rồi trở ra khách sạn mà nghỉ với hai con, ân cần mời Xuân, Quan và cô Quế chiều mai phải ra nhà hàng mà ăn cơm, không ai được từ chối. Khách đi rồi, Xuân liền hối Chị Thiện dọn cơm đặng ăn với Quan và cô Quế. Ba người ăn uống nói chuyện chơi tới 10 giờ rồi cô Quế về. Còn Quan ở đó ngủ với Xuân. Chiều bữa sau Triều đem xe hơi vô nhà Xuân mà rước anh em. Cô Quế đi thêu về, cô thay đổi y phục, trang điểm chút đỉnh rồi lên xe đi với ba cậu ra nhà hàng. Trong bữa ăn, cô Quế nói chuyện khôn ngoan vui vẻ, làm cho vợ chồng ông Từ Tệt mới quen mà cũng yêu mến cô như đã quen lâu rồi. Còn cô Quyên ngồi một bên Xuân, cô cứ ngó Xuân hoài, sắc mặt buồn hiu, không nói chi hết. Ăn cơm rồi, vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên sửa soạn lên xe đi về phòng. Mấy anh em đưa ra xe. Cô Quyên hỏi nhỏ Xuân: - Anh đi bên Tây chừng nào anh về? - Học xong anh mới về. - Chừng mấy năm. - Năm mười năm, không biết trước được. - Lâu quá!..Anh đem mấy tấm hình của em theo hay không. - À, quên. Để lát nữa về nhà rồi anh sẽ lấy mà bỏ trong rương. - Anh phải nhớ đa, nghe không. - Nhớ! Em hãy an tâm. Xe đưa vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên về phòng rồi trở lại nhà hàng. Triều mời Xuân, Quan và cô Quế lên xe trở về nhà trước. Bốn người đều vui vẻ, tính bỏ đêm ấy không thèm ngủ, để trò chuyện chơi với nhau. Đem đồ xuống tàu xong rồi bốn người bèn lên xe đi Thủ Đức ăn nem. Xuân nhân dịp ấy mới gởi gắm cô Quế cho Quan và nhứt là căn dặn Quan ở Sài Gòn phải hết lòng bảo vệ cô, phải giữ cho trọn nghĩa kim bằng. Đến ba giờ khuya mấy người mới trở về Sài Gòn. Triều đưa Xuân, Quan và Quế xuống bến tàu rồi trở về khách sạn mà rước cha mẹ. Gần 5 giờ sáng, vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên mới xuống tới. Chị Chín Thiện với thằng Chí cũng qua bến tàu mà đưa chủ. Lúc tàu gần kéo neo, Xuân từ giã mọi người đặng lên tàu. Cô Quế chúc Xuân lên đường bình an, chúc học mau thành tài, cô vui vẻ như thường, chẳng bịn rịn chi hết. Riêng cô Quyên thì cô khóc mùi, cô nắm cánh tay Xuân chặt cứng, dường như không muốn để Xuân đi song cô không nói ra được. Tàu rút chạy. Lúc nầy là lúc cảm động hết sức, cảm động giữa kẻ ở người đi. Người dưới tàu đưa tay mà ngoắc; người trên bờ cũng ngoắc lại, và ai ai cũng ngó theo chiếc tàu, song có người buồn mà cũng có người vui, bởi mỗi người có một tâm sự riêng mà không ai thấu hiểu của ai được. Phần Tthứ Nhì I Cách bảy năm sau. Một buổi chiều tháng giêng, bầu trời sáng trong, gió thổi mát mẻ. Tan hầu, mấy ông mấy thầy từ các sở đi ra, ai cũng muốn thả lều bều trên đường Catinat, hoặc đi chung quanh Chợ Mới mà hứng gió xem hàng, duy có người nào có việc nhà mới vội vã về gấp. Ông Còm-mi Quan ra khỏi cửa dinh Đốc lý thì bước lên chiếc xe nhỏ ba chỗ ngồi, tay cầm tay lái, chân đạp máy, cho xe chạy xuống đường Espagne bây giờ gọi là đường Lê Thánh Tôn. Tới trước tiệm may "Xuân Quan" xe ngừng sát lề đường. Quan tắt máy rồi bước xuống xe mà đi vô tiệm may. Dì Hai Oanh đương ngồi tiếp chuyện với ba người khách đặt may áo, vừa thấy Quan vô thì vui vẻ hỏi: - Tan sở rồi hay sao con? - Dạ, tan sở rồi. - Hôm nay tan sở rồi mà trời còn sớm quá. Dì liền day vô nhà trong mà nói trổng: "Đứa nào ở không đó thì cho cô Hai hay đặng về kẻo sắp nhỏ nó trông." Cô Quế tươi cười đi xuống thang và vội vã nói với chồng: - Được, được. Em đang lật đật xuống để về cùng anh đây. - Về sớm đặng qua tưới đồ một chút, vì bữa nay trời nắng quá, sợ vườn hoa khô héo hết. - Anh sợ vườn hoa khô héo, còn anh không sợ hai con trông hay sao? - Quan ngó vợ rồi cười mà đáp nho nhỏ: "Sợ hết cả hai." Cô Quế càng thêm vui vẻ, màu hạnh phúc càng chói loà mặt mày cô. Quan với Quế dắt nhau đi ra, tới chỗ dì Hai Oanh ngồi nói chuyện với khách, thì ngừng lại từ giã rồi mới lên xe. Dì Hai Oanh ngồi ngó theo hai trẻ bằng cặp mắt chứa chan thân ái. Một bà khách hỏi dì Hai Oanh: - Con và dâu bà đó phải không? - Thưa, không. Con nhỏ là cháu gọi tôi bằng dì, chớ không phải là con, còn chồng nó hiện làm Còm-mi trên dinh Đốc lý. - Hèn chi hai vợ chồng không ở chung với bà. Một bà khách quen với dì hai đã lâu nên biết gia đạo của dì, bèn rước đáp: - Vợ chồng cô Hai có nhà trên Phú Nhuận, mỗi bữa cô xuống coi thêu rồi chiều cô về, chớ ở dưới nầy sao được. Dì Hai Oanh tiếp lời: - Nó có tới hai đứa con, bữa nay có đồ thêu gấp, trưa nó phải ở lại mà thúc cho thợ họ thêu, mà nó nhảy nhót nhớ con ngồi không an. Nó là chủ tiệm mà nó bỏ phú cho tôi. Phần lúc nầy đồ nhiều, nên tôi mệt hết sức. Thiệt như vậy, tiệm may "Xuân Quan" nầy là tiệm của cô Quế. Còn Quan là người bạn trong nhóm Mai, Lan, Cúc, Trước hồi trước đó là chồng của cô. Số là khi Xuân xuống tàu đi Tây rồi, thì cô Quế không đi thêu mướn nữa, cô dùng một ngàn đồng bạc Xuân để lại cho cô đó mà mướn phố dọn tiệm may. Dọn tiệm may xong rồi, cô không biết phải đặt hiệu tiệm thế nào, cô mới lấy tên của hai người bạn thiết là Xuân và Quan mà đặt, ý muốn kỷ niệm tình thân ái của cô với hai anh bạn. Trong tiệm thì cô Quế quản xuất về phần thêu, còn dì Hai Oanh chủ trương về phần may. Thêu thiệt tươi mà may cũng thiệt khéo, bởi vậy tiệm "Xuân Quan" lập ra trong vòng mấy tháng thì danh tiếng lẫy lừng khắp Sài thành. Mấy bà mấy cô mặc quần áo hay là đi giày thêu mà không phải của "Xuân Quan" may hay thêu thì chưa phải là người biết ăn mặc đứng đắn. Hàng ngày khách đến tiệm may áo may quần hoặc đặt thêu mặt gối nườm nượp. Dì cháu cô Quế phải mướn đến hai mươi người thợ phụ thêu và may mới kịp. Vì Quan đã hứa bão hộ cô Quế, mà lại có lời Xuân căn dặn thêm nữa, nên Quan làm việc ở Sài Gòn thường hay ghé lại tiệm mà thăm. Mỗi lần Quan ghé thì cô Quế niềm nở vui vẻ, cùng nhắc nhở Xuân luôn luôn. Quan mừng cho cô Quế làm ăn thịnh phát, cô Quế cám ơn đạt được hy vọng cô ôm ấp từ lâu. Tới lui gần gũi nhau thường, tình của Quan với Quế càng thêm dan díu. Có khi ngồi nói chuyện chơi rồi Quan từ giã ra về, chừng ra đường Quan tự hỏi thầm trong trí: "Có phải cô Quế là người bạn trăm năm của ta hay không?" Còn cô Quế khi thanh vắng nằm một mình, cô nhớ tới Xuân và Quan, cô cũng thì thầm trong trí: "Anh Xuân nhứt định không lập gia đình. Còn anh Quan trái hẳn, ảnh giữ chủ nghĩa gia đình, song ảnh đợi người đồng tâm, đồng chí ảnh mới chịu phối hiệp. Không biết mình có phải là người đồng tâm đồng chí đó không?" Hai người tuy có để ý tới sự hiệp nhau dựng gia đình, xây hạnh phúc, song hoặc còn ái ngại, hoặc chưa quyết định, nên ai giữ kín ý nấy, không tỏ cho nhau biết. Sự làm ăn của cô Quế thiệt mau phát đạt. Dọn tiệm mới có một năm mà trong tủ có đôi ba ngàn tiền dư. Cô Quế đã có sắc có hạnh, lại có tiền nữa thì càng thêm duyên. Bởi vậy có nhiều ông sang trọng gấp ghé muốn cậy mai mối mà cưới cô. Một đêm Quan ghé thăm. Dì Hai Oanh mệt mỏi nên đã nghỉ rồi. Cô Quế mời Quan lên lầu. Bữa nay cô Quế có sắc nghiêm trọng chớ không vui vẻ như lúc trước. Quan lấy làm lạ, đương suy nghĩ thì thình lình cô Quế nói: - Em có một việc riêng muốn tỏ với anh. - Việc chi thì em cứ nói cho qua nghe. - Có một ông Đốc-tờ muốn cưới em. - Em ưng hay không? - Em chưa nhứt định. Em muốn hỏi anh coi ý anh nghĩ thế nào? Quan châu mày nghĩ một chút rồi mới hỏi lại: - Em biết tánh tình ông Đốc-tờ đó hay không? - Em biết mặt chớ không biết tánh tình. - Vợ chồng thì phải ý hiệp tâm đầu thì mới ở đời với nhau được. Em nên dọ tánh tình của người cho rõ rồi sẽ nhứt định. Qua không quen với người ấy, nên qua khó mà tỏ ý kiến của qua về cuộc trăm năm của em. Cô Quế trầm ngâm rồi cô đưa tay chỉ vào chiếc cà rá mà nói: "Chiếc cà rá nầy nó làm cho em ngần ngại nhiều lắm. Em không dám tin người đàn ông nào hết, trừ ra anh với anh Xuân." Quan chưng hửng, ngước mắt ngó ngay cô Quế và hỏi: - Thiệt như vậy hay sao? - Thiệt như vậy. - Tại sao em lại tin qua với anh Xuân? - Tại em thấu hiểu tánh tình của hai anh. Quan lơ lửng một hồi rồi mới nói: - Xuân không chịu lập gia đình. - Phải...Ảnh quyết định như vậy. - Còn qua thì trọng gia đình... Ví như hai anh em mình hiệp nhau mà lập gia đình, theo ý em, cái gia đình ấy có thể có hạnh phúc hay không? - Sẽ có hạnh phúc nhiều lắm. - Vậy thì chúng ta sẽ lo lập gia đình ấy, lập cho mau. Cô Quế gật đầu và ngó Quan mà cười. Quan khoan khoái trong lòng không ngồi yên được nữa nên đứng dậy đi qua đi lại mà nói: - Chúng ta sẽ thành một cặp phụng hoàng đứng trên cây tùng già ngó mông ra khoảng đồng ruộng mênh mông như trong tấm thêu của em năm ngoái. Cô Quế nói: - Chẳng những cặp phụng hoàng ấy đậu trên cây tùng rồi ngó mông mà thôi, nó còn kêu mà chỉ đường hạnh phúc cho thanh niên nam nữ khác nữa. Quan hết sức vui mừng sung sướng, đứng ngó cô Quế mà nói; - Qua cũng bắt đầu nếm mùi hạnh phúc rồi. - Em cũng vậy. - Cha chả, Xuân biết chúng ta phối hiệp trăm năm đây chắc ảnh không vui. - Sao lại không vui? Ảnh không chịu lập gia đình thì thôi, ảnh muốn người khác cũng phải theo ảnh sao được. Mà em muốn chúng ta đừng cho ảnh biết cuộc phối hiệp của chúng ta. Chúng ta viết thơ cho ảnh thì nói việc thường mà thôi, chớ đừng nói tới việc nầy. Chừng nào ảnh về rồi thì ảnh hay chẳng muộn gì. Anh chịu như vậy hay không? - Chịu. Em tính như vậy thì hay lắm. Ảnh mắc lo học. Mình phải để cho ảnh yên chí, chẳng nên làm rộn cho ảnh. Huống chi ảnh nghịch với chủ nghĩa gia đình, thì đám cưới chẳng cần phải cho ảnh hay. Người ta thường nói phải có duyên nợ mới kết thành vợ chồng được. Không biết cái lý thuyết ấy có chánh đáng hay không, nhưng mà đối với cô Quế và Quan đây thì nó đúng lắm. Cô Quế kết bạn với Quan và Xuân, vì Xuân có tánh đa sầu đa cảm, còn Quế có tánh thận trọng trầm tĩnh, nên cô tưởng Xuân có tình với cô nhiều hơn Quan, chẳng dè tình ý bây giờ lộn ngược, làm cho người mà cô để ý lại không có tình, còn người cô không để ý lại có tình. Đó không phải là duyên nợ hay sao? Ngày lễ Quan về Trà Vinh thưa với mẹ và anh hay, rồi chánh thức tỏ với dì Hai Oanh mà xin cưới cô Quế. Đám cười làm đơn tiện, mời bà con mà thôi, đến Triều mà Quan cũng không cho hay. Cưới rồi Quan về ở chung tại tiệm may mà đi làm việc. Tình vợ chồng ngày nay cũng như tình bằng hữu hồi trước, vẫn một mực chân thành ái kính luôn luôn. Y như lời cô Quế đoán trước, gia đình thiệt là đầm ấm, chồng yêu vợ, vợ kính chồng, mỗi người đều giữ nhiệm vụ vuông tròn nên bầu trời cứ thanh bạch, chẳng bao giờ có một cụm mây phưởng phất. Cái hạnh phúc của Quan với Quế càng bữa càng lớn thêm hoài. Chẳng những tiệm may được thạnh lợi hơn mà thôi; mà vợ chồng ở được vài năm thì sanh được một đứa con trai đặt tên là Minh, rồi mới năm ngoái đây lại còn sanh thêm một đứa con gái nữa, đặt tên là Phượng. Minh và Phượng là kết quả của niềm ân ái vừa nồng nàn vừa thanh bạch giữa Quan và Quế, mà cũng hai đóa hoa tươi đẹp vừa mới nảy nở để thêm duyên thêm quí cho gia đình trẻ nầy. Bởi vậy Quan với Quế trân trọng đêm ngày, tuy vợ chồng phải đi làm việc, song chẳng có lúc nào hình ảnh hai trẻ không có vởn vơ trong trí. Năm ngoái, khi sanh Phượng rồi, cô Quế một là muốn mẹ chồng được chung hưởng hạnh phúc gia đình, hai là muốn đem cái hạnh phúc ấy mà để vào một cảnh thanh tịnh tiêu diêu, nên cô than thở xin chồng kiếm mua một miếng đất gần Sài Gòn cất một cái nhà nho nhỏ mà ở cho con chơi thong thả và đặng rước mẹ chồng về ở chung cho vui. Có một căn nhà, không cần mỹ lệ, song phải cao ráo mát mẻ, ở giữa một miếng đất có hoa quả, cải rau, ấy là cái hy vọng của Quan thuở nay. Hôm nay Quan thấy vợ cũng hiệp ý với mình, lại trong nhà bây giờ có dư đến năm bảy ngàn đồng bạc, bởi vậy Quan không dụ dự, quyết tán thành nguyện vọng của vợ mà cũng là sự mơ ước của mình. Lúc ấy ở chung quanh Sài Gòn đất trống có nhiều mà bán giá rẻ. Nhờ có anh em quen chỉ dẫn, Quan mua bên Phú Nhuận, dựa trên đường lên Lăng Cha Cả, một miếng đất rộng hơn một mẫu mà giá chỉ có một ngàn đồng thôi. Mua đất rồi Quan đặt cất một cái nhà ngói ba gian vách ván, có nhà bếp, nhà xe, có lồng bồ câu, có giếng nước ngọt, các cuộc tốn hao hết hai ngàn nữa. Nhà cất xong rồi, vợ chồng Quan dọn hết những đồ của Xuân để lại mà đem về đó, có thiếu bàn ghế tủ giường thì mua thêm, rồi vợ chồng về ở với con và Quan cũng rước mẹ là bà Hương sư Huy lên ở với mình. Quan mua một chiếc xe hơi nhỏ để mỗi ngày, sớm mai cũng như xế chiều, vợ chồng xuống Sài Gòn, chồng làm việc, vợ coi tiệm. Ở nhà thằng Minh có đứa giữ, con Phượng có vú nuôi, lại có bà Hương sư coi sóc trong ngoài, cũng như ở dưới tiệm có dì Hai Oanh nên vợ chồng Quan khỏi nhọc lòng cực trí. Miếng đất rộng quá. Quan liệu khó mà trồng cho giáp hết được, bởi vậy Quan chia hai ra rồi phía sau cho người ta trồng thuốc, trồng đậu, trồng bắp, trồng khoai. Quan ra vốn mua giống, mua phân rồi giao cho họ trồng, họ ra công ươm trồng, vô phân rồi tưới nước, chừng bán được bao nhiêu tiền thì họ chia cho Quan phân nửa. Kẻ có của người có công, hai đàng đều vui lòng, Quan xuất vốn thì có lợi, mà họ ra công cũng không thiệt hại. Còn phân nửa miếng đất nằm về phía trước, thuộc chung quanh nhà thì Quan mướn người coi trồng. Trước sân trồng đủ thứ bông, dọc theo mé quan lộ trồng một hàng mít, hai bên nhà trồng rau trồng cải, trồng ớt, trồng nhãn, trồng trầu, còn phía sau nhà trồng mỳ trồng khoai lang, có khi cũng thay đổi mà trồng bắp, trồng mía. Trót một năm nay gia đình Quan yên tĩnh cũng như mặt biển lúc trời còn êm, hạnh phước của cô Quế như mùa xuân trăng tỏ. Chung kính mẹ, chung kính dì, chung yêu con, chung làm việc, vợ chồng Quan chẳng mơ ước điều chi khác nữa, chỉ mong làm sao cho chuỗi ngày hạnh phúc nầy kéo dài cho mãn đời. Chiều hôm đó Quan ghé tiệm "Xuân Quan" mà rước vợ chạy riết về nhà. Xe vô sân vừa ngừng thì thằng Minh chạy ra kêu ba má líu lo, còn con Phượng còn nằm trên tay chị vú, song nó cũng đưa hai cánh tay mềm mại non nớt ra đòi má ẵm. Quan bồng Minh, Quế ẵm """