"Xứ Mộng Hồn Hoa - Lê Hữu Nam full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xứ Mộng Hồn Hoa - Lê Hữu Nam full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo XỨ MỘNG HỒN HOA Tác giả: Lê Hữu Nam Phát hành: Phương Nam Book Nhà xuất bản: Văn Hóa Văn Nghệ TPHCM Ebook: nguyenthanh-cuibap Nguồn text: Waka Lời nói đầu Đ ược viết bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của một chàng trai tha thiết với quê hương xứ sở, Xứ mộng hồn hoa của Lê Hữu Nam là cuốn sách đẹp như những giấc mơ. Giấc mơ đó được tạo nên từ những nhiệm màu đơn sơ nhất, giản dị nhất. Những điều bé nhỏ, đơn sơ ấy, kì diệu thay, đã tạo nên những quyến luyến không thôi trong từng câu chữ mà bất kỳ ai đã từng cầm lên cũng khó lòng đặt xuống. Bởi vì khi đã yêu mến rồi, có điều gì còn có thể cách ngăn? Hữu Nam đã viết về những thước phim rực rỡ nhất trong cuộc đời mình: những thước phim về Đà Lạt mộng mơ, xứ mà anh tự nhận mình vừa là cố nhân, vừa là lữ khách. Đó là một Đà Lạt với bầu trời nắng vàng rực giăng đầy mây trắng, những con đường tràn ngập sắc hoa cùng tiếng chuông nhà thờ rộn vang. Đó còn là một Đà Lạt u buồn thống thiết với cơn mưa như giằng xé một khoảng trời thăm thẳm. Dù là thời khắc nào, anh cũng vẫn luôn yêu Đà Lạt bằng một tình yêu bỏng cháy. Tình yêu ấy cùng kỉ niệm đã nuôi anh lớn lên, tiễn anh đi và chắc chắn sẽ đón anh trở về. Bởi Mùi dã quỳ, Chiếc áo len xanh, Ngôi nhà trên đồi, Bánh căn phố núi… mãi mãi là những hoài niệm đẹp nhất trong anh về Đà Lạt. Anh viết tự nhiên như thể Đà Lạt chính là hơi thở, là tình yêu vẹn tròn của đời anh rồi, dù giờ đây, Đà Lạt chỉ còn là nỗi nhớ nhung luôn chực tuôn ra như tiếng thở dài. Và trái tim của anh còn đập mãnh liệt với một vùng đất khác: Sài Gòn với những con người cũ - mới song hành cùng anh trên con đường tuổi trẻ. Những con người nồng hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn anh từ khi còn là một cậu bé được đặt giữa sự sống và cái chết, mang đến cho anh những giấc mơ bỏng cháy, cùng anh lớn lên và thành người. Và hơn hết, Sài Gòn chính là nơi đã ôm anh trong những ngày côi cút, giúp anh có đủ niềm tin, có đủ tình yêu để chờ đợi một ngày đón bước chân của chàng trai trẻ quay về bên cha nó, tìm về nơi đã sinh ra mình. Để không còn gì có thể chia cắt được những con người mang tâm hồn Sài Gòn. Sài Gòn trong anh là thế: bao dung, nhân hậu và đầy tình thương yêu với biết bao phận người đa đoan. Đằm thắm và nhiều suy tư, Xứ mộng hồn hoa đã gởi lại những tâm tình rất mực chân thành. Cứ thế, Đà Lạt – Sài Gòn trong những trang viết của Hữu Nam vừa gần gũi quen thuộc, vừa lạ lẫm mới mẻ. Và hơn hết, Xứ mộng hồn hoa ấy không còn là Đà Lạt, Sài Gòn của riêng mình Hữu Nam, đó sẽ mãi là những thành phố thân thương khác, bởi kỳ diệu như tên gọi, tập sách của anh đã là món quà quý giá để mỗi người yêu thêm nơi mình sinh ra và trưởng thành. BBT Phương Nam Book Lời tác giả M ỗi người trong chúng ta đều có những kỷ niệm với nơi mình sinh ra cũng như lòng biết ơn với vùng đất đã nuôi dưỡng ta trưởng thành, bao bọc ta những năm tháng khó khăn trong cuộc đời, đưa ta đến những nơi chốn khó quên, gặp gỡ những con người nhân ái, mạnh mẽ. Tất cả truyền cho ta một nguồn năng lượng sống dồi dào, mà trong mọi thời khắc ta nguyện dùng nó để đốt cháy hết những đam mê và khát vọng. Tôi có những thước phim rực rỡ và quyến luyến về Đà Lạt trong chuỗi hành trình tìm kiếm kỷ niệm. Những năm tháng ngắn ngủi ở Đà Lạt và những lần trở lại sau đó là nguồn cảm hứng vô tận cho cuộc đời tôi. Những kỷ niệm và nguồn cảm hứng đó giúp tôi có một tinh thần hài hòa, lắng đọng ngay cả khi tôi phải rời xa nơi đây. Và cũng chính tại nơi này, Sài Gòn, tôi có những mẩu chuyện nhỏ với những con người cũ và mới, họ đang cùng tôi song hành với hành trang là tuổi trẻ. Tôi còn rất nhiều điều chưa thể viết ra, những câu chuyện chưa kịp kể, những cái tên chưa thể nhắc đến trong quyển sách nhỏ này, và như vậy đây chưa phải là tất cả những gì mà tôi hằng muốn viết để tri ân vùng đất này. Xin dành lời cảm ơn chân thành đến anh Kỳ Phong Dalatnm, Nora L, Hoàng Tùng, Như Toàn, những người bạn dù chưa một lần gặp nhưng đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành quyển sách này với những bức hình đẹp, đầy thơ mộng về Sài Gòn – Đà Lạt. Xứ mộng hồn hoa chỉ là góc nhỏ xuất phát từ trái tim tôi, nhưng sẽ vô cùng ý nghĩa đối với tôi nếu như ai đó còn nhớ đến nó với cái tên gần gũi: Tản mạn Đà Lạt – Sài Gòn. 11/11/2015 ĐÀ LẠT Có những Đà Lạt trong tôi T rong tim tôi có hai Đà Lạt bất hủ, một Đà Lạt với bầu trời nắng vàng rực giăng đầy mây trắng, Đà Lạt của những con đường tràn ngập sắc hoa cùng tiếng chuông nhà thờ rộn vang. Một Đà Lạt khác u buồn thống thiết với cơn mưa như giằng xé một khoảng trời thăm thẳm, nhấn chìm mọi ước muốn dạo chơi trên đồi hoa. Tôi yêu cả hai Đà Lạt cùng với một tình yêu cháy bỏng. Một chiều mùa xuân năm tôi chín tuổi hoặc nhỏ hơn. Tôi không nhớ rõ nhưng đúng là ngày ấy tôi còn rất nhỏ. Ba mẹ đưa anh em tôi đến nhà một người bạn của họ nằm cách khá xa trung tâm, tôi nhớ vậy là bởi vì nơi đó khá hoang vắng. Gia đình mà chúng tôi đến thăm cũng ở trong một căn hộ được phân ra từ ngôi biệt thự cổ kính của người Pháp. Ngôi biệt thự này nhỏ nhắn, xinh xắn hơn khu nhà của gia đình tôi. Mặt tiền ngôi nhà hình vòng cung, vôi trắng và cửa màu xanh, cầu thang ngắn và thấp. Cả khu nhà chỉ có một hành lang hơi thiếu ánh sáng, hai bên là những căn hộ được chia từ các phòng nguyên thủy, những người chủ căn phòng dường như không muốn cơi nới thêm và các cánh cửa luôn được đóng kín để giữ không gian riêng tư. Tôi nhớ mình đã dành nhiều phút để đi qua đi lại giữa hành lang, có thể lúc ấy tôi thấy hành lang này khác lạ so với những nơi mình đã từng đến trước đó. Bí ẩn, tối tăm và đặc biệt tiếng vọng từ nền gỗ mà tôi còn nhớ rõ. Thế nhưng khu vườn phía sau lại như nơi chốn khác. Thời khắc nhìn thấy khu vườn được cho là ký ức đẹp nhất của tôi về Đà Lạt những năm thập niên chín mươi. Đó là một mini garden đương đại, nhưng trông rất hoài cổ, xung quanh được rải đầy đá dăm màu xanh, một số bức tượng nhỏ được đặt trên những hàng gạch nung đỏ, đa phần chúng bị phủ rêu xanh và ít được cọ rửa. Khu vườn không nhiều hoa nhưng bông hoa nào cũng rực rỡ, tươi tắn, có một ít đang đâm nụ. Giữa trung tâm khu vườn xuất hiện cây liễu già cỗi, những chùm liễu đỏ au rủ xuống như dàn đèn rực rỡ thắp sáng các khóm hoa nhỏ xung quanh. Cách đó vài bước chân, cội anh đào mang lớp áo màu hồng đứng nép nơi bức tường thực vật xanh ngắt, kế bên là chiếc ghế dài, xung quanh người ta trồng một khóm hoa màu tím có cánh nhỏ xếp chồng lên nhau, tôi không biết đó là loài hoa gì. Đứng nhìn bao quát khu vườn từ xa hồi lâu như vậy, thằng nhóc tôi thưởng ngoạn bước đến đó, nhìn ngắm từng cánh hoa nhưng không dám chạm vào chúng, bởi vì trên mỗi một bông hoa đều có vài ba chú ong đang gồng mình hút mật. Tôi thấy rõ đôi cánh của chúng đang đập với tốc độ rất nhanh. Vì khi ấy còn quá nhỏ, trí tò mò của tôi nằm trong ý nghĩ thầm lặng của một đứa trẻ. Nếu bây giờ được trở lại nơi đó, tôi sẽ hỏi ai đã tạo ra một khu vườn giản dị nhưng quyến rũ đến vậy. Hẳn người này có một cuộc sống rất tinh tế. Hoặc có thể khu vườn ấy không được chăm sóc thường xuyên nên đã tạo được sự cuốn hút tự nhiên như vậy. Nhưng dẫu sao, Đà Lạt rực rỡ trong tôi bắt nguồn từ khu vườn lạ lẫm đó. Mùa đông, mùa mà tôi thích nhất trong bốn mùa, và bản violin concerto có tên Winter cũng là bản nhạc tôi thích nhất trong tổ khúc Four Seasons của nhạc gia người Ý, Antonio Vivaldi. Nhưng mùa tôi dành nhiều cho ký ức của mình nhất là mùa hạ, như bộ phim Hương mùa hè trong series phim Bốn mùa của KBS, trở thành bản tình khúc thời niên thiếu của tôi và bạn bè tôi. Song mùa hạ ở Đà Lạt lại là một hình ảnh riêng với vẻ u buồn độc đáo, là sự kết hợp với không khí tĩnh mịch của mùa đông và những cơn mưa như trút đặc trưng của xứ ấy. Nếu như Sài Gòn có những cơn mưa mùa hạ bất chợt kéo đến tưới mát không khí oi bức, thì Đà Lạt lại là chuỗi ngày với cơn mưa dầm ẩm ướt và đầy giông tố mang đến cho người ta cảm giác cô đơn tận cùng. Có những buổi chiều, ngồi nhà một mình trước bộ phim cũ được phát trên vô tuyến, tôi cảm giác hơi lạnh từ bên ngoài tràn vào gian phòng khách qua khe cửa gỗ. Tôi lấy remote được bọc trong lớp chống bụi chuyển sang một chương trình ca nhạc sôi động với hy vọng cảm giác ấm áp hơn, nhưng cuối cùng màn hình tivi đã được tắt, và thứ đập vào mắt là hình ảnh phản chiếu một khung cảnh trắng xóa bởi nước mưa. Mưa rất to và dường như trên mái nhà vọng lên tiếng lộp cộp, nghe như những viên đá nhỏ rơi từ trên trời xuống. Tôi cứ ngỡ như đó là mưa đá, nhưng không phải. Đó chỉ là cơn mưa bình thường của một buổi chiều tháng Bảy ở xứ sở này. Tôi nhẩm tính, thời gian của cơn mưa đã kéo dài hơn năm tiếng đồng hồ, từ đầu giờ chiều đến chập choạng tối. Và màu sắc của bầu trời cũng chỉ có một: trắng xóa. Vẫn như cậu bé ngóng bóng mẹ về, tôi nhìn ra khoảng không trắng xóa trước mặt với đôi mắt buồn rười rượi. Nếu thời khắc ấy là một chiều mùa xuân, có lẽ tôi đã tản bộ và ngắm ánh mặt trời đỏ rực phía triền núi. Nếu là mùa thu, tôi có thể đang ngồi ngoài sân vừa hứng những giọt nắng cuối cùng vừa đọc cuốn sách mỏng với cổ áo kéo cao. Nếu là mùa đông, hẳn tôi đang mong trời nhanh tối để được tản bộ dưới tiết trời giá rét cùng một ai đó. Và nếu, đây là một buổi chiều mùa hạ không mưa, hẳn tôi đang cùng đám bạn lông bông đâu đó trên các con đường nhộn nhịp nhất của thành phố, nhìn những cánh diều đầy màu sắc quấn vào nhau ở công viên Yersin, mà cũng có thể, lặng lẽ đứng trên ban công của khu nhà nhìn ra khoảng không trước mặt, nghĩ về tương lai mênh mông trước mắt, không có một điểm nhấn nào cho cuộc đời. Nhưng mưa vẫn mỗi lúc một nặng hạt, nếu như ở Sài Gòn có lẽ người dân đã phải bì bõm với dòng nước ngập lên sát sườn xe rồi. Không còn nghĩ đến mưa bão nữa, tôi ngồi thu lu một góc, hai từ “tương lai” bao giờ cũng khiến những suy nghĩ trong tôi tê dại. Có lúc cánh cửa chợt rung lên, gió rầm rập ngoài sân, nước tràn qua những khe hở nhỏ vào nhà, hơi lạnh đang tỏa khắp căn hộ gia đình tôi. Nỗi sợ kèm theo sự phấn khích lại khiến tôi bàng quan trước viễn cảnh của đời mình, tôi sẽ không lùi bước, dù lúc ấy tôi không biết mình đang bước đi đâu hay có thật sự bước không, hay chỉ là đang dẫm chân tại chỗ. Khung trời lạnh lẽo ngoài kia cùng với tâm trạng mông lung hòa vào nhau dễ tạo thành một cơn bão lòng trong con người ta. Nhưng tôi đã quen với cảm giác đó. Ở bất kỳ ngữ cảnh nào thì bầu trời mưa giông cũng như một bản nhạc với đầy đủ những tiết tấu réo rắt, du dương. Trong những ngày hanh khô, xác lá quắt queo, tôi chỉ mong sao Đà Lạt có cơn mưa như thế trút xuống, để nỗi niềm trong tôi được bay lên. Mưa dầm Đà Lạt vừa ám ảnh, vừa kích thích đời sống của một người vừa sôi nổi, vừa trầm lắng như tôi. Nó khiến tôi tin vào một ngày nắng bừng lên không xa, như cuộc đời của một con người cũng sẽ tìm thấy hơi ấm sau đêm giá lạnh. Khi những suy nghĩ cứ vần vũ trong đầu, tôi chợt nhận ra cơn mưa ngoài trời cũng đã tạnh, không gian bốn bề im phăng phắc, mẹ tôi không biết đã về từ lúc nào. Một lúc sau, mùi đồ ăn bốc lên sau bếp, tỏa ra tận chỗ tôi đang ngồi, xua đi bớt không khí lạnh cóng. Rồi ba tôi cũng về, em trai tôi cũng kết thúc buổi học thêm. Chúng tôi ngồi quây quần bên bữa ăn với vài câu chuyện trong ngày, một ít dành cho nắng mưa, một ít dành cho ngày mai. Trong khi tôi đang hình dung về một ngày làm được điều gì đó ý nghĩa cho cuộc đời mình, thì tiếng mưa lại vọng lên từ khu vườn phía ngoài. Tôi lại lùa vội chén cơm để giấu nhẹm đi tất cả những nghĩ suy. Cả đêm tôi nằm nghe tiếng nước chảy phía cửa sổ. Chợt nhớ đến câu nói của ai đó “Mưa Đà Lạt khác gì con gái trả thù đâu chứ? Nó dai dẳng, ai oán và cuồng điên.” Ừ, có thể, nhưng tôi yêu sự cuồng điên ai oán đó. Dù mộng mơ với ngày nắng lung linh đẹp đẽ hay muộn phiền suy tư trong chiều mưa trắng xóa thì Đà Lạt vẫn cho tôi cái cảm giác yêu thương đến kỳ lạ. Mỗi lần nhớ lại tôi như đang ngắm nghía hàng thông già quanh tòa biệt thự cũ kỹ, nhìn thấy chú sóc tìm cách len qua cái hàng rào ngăn cách giữa lối đi và đồi cỏ xanh rờn. Và cứ thế Đà Lạt ùa về trong tâm trí tôi những hạt nắng đang hong khô bức tượng nơi nhà thờ, những cơn mưa vồ vập bên ngọn đồi hoang vu, gõ vào khung kính trên căn gác nhỏ một bản tình ca sơn cước, mà cõi lòng tôi không bao giờ quên. Cố nhân và lữ khách N hững ngày này, năm thứ ba mươi của cuộc đời, nỗi ao ước được trở về Đà Lạt chưa bao giờ mãnh liệt trong tôi đến vậy. Chỉ cần nhìn thấy tấm hình của ai đó trên Facebook kèm theo “at Đà Lạt - Thành phố sương mù” và “felling Happy, Loved” là trong lòng cảm thấy nao nao khó tả. Vừa bồi hồi, vừa tiếc nuối vì có khao khát nhớ nhung đến đâu cũng khó trở về trong một sớm một chiều. Với tôi, được sinh ra trên mảnh đất nên thơ này là niềm tự hào nhưng cũng là sự đau đáu không thôi. Trái tim tôi chọn yêu thêm vùng đất khác, cũng như dành trọn những hoài bão nơi ấy, nhưng Đà Lạt vẫn là nơi tôi muốn mãi mãi ở lại, vùng đất mà cuối cùng tôi muốn làm lữ khách và cũng là cố hương duy nhất của tôi. Đà Lạt, tiếng gọi chưa bao giờ vang xa mà gần gũi đến vậy. Đã năm năm rồi, tôi chưa trở về thành phố, vì một lý do đơn giản lâu nay: sức khỏe. Một điều mà rất nhiều người cảm thấy ngạc nhiên, nhưng đó là cuộc sống của tôi, và thay vì gọi đó là hoàn cảnh thì tôi xem nó như chất liệu riêng biệt của bản thân mình. Là một người bao giờ cũng mang bao hoài niệm đẹp đẽ về vùng đất mà mình đã sinh ra cùng suốt những tháng năm sắm vai lữ khách, tôi cảm thấy mình luôn luôn gắn bó với Đà Lạt, yêu Đà Lạt trong mỗi thời khắc, trong cả hai tâm thế, người Đà Lạt và lữ khách của Đà Lạt. Tôi có những ký ức về Đà Lạt mà khi bày tỏ cùng ai đó, người ta ắt sẽ hỏi tôi “hẳn sẽ nhớ lắm thôi”. Tôi nhớ thành phố của mình qua những hình ảnh mà mình đã ngắm nhìn bằng đôi mắt của người lữ hành lẫn kẻ chân phương, mộc mạc, gần gũi nhưng vẫn cuốn hút từng khoảnh khắc. Có một lần, tôi đang lững thững bước đi trên con đường ở khu Hòa Bình, nơi dẫn xuống đến một khách sạn nổi tiếng, bỗng dưng có người vỗ vào vai tôi và hỏi: “Bạn là khách hay là dân ở đây?”. Tôi biết mình là ai nhưng vẫn lưỡng lự để chọn câu trả lời: “Tôi về thăm nhà...”. Rồi người khách tiếp tục hỏi tôi, giữa Crazy House và Dinh Bảo Đại (Dinh III), thì nơi nào đáng thăm thú hơn. Hai thắng cảnh mà người khách hỏi lại là những vị trí rất gần với nơi gia đình tôi sống, cả Dinh III và Ngôi Nhà Kỳ Dị đều cách chỗ gia đình tôi hơn nửa cây số, nhưng đó là một câu hỏi khó. “Anh thích tìm hiểu lịch sử, vùng đất này của thời Pháp và cuối triều nhà Nguyễn thì nên đến Dinh Bảo Đại, còn nếu anh muốn sự lạ lẫm, bí ẩn thì đến Crazy House”, tôi định nói như vậy thì bỗng dưng người khách quay đi cùng lời xin lỗi và: “Mình sẽ tự tìm hiểu...”. Tôi sống rất gần Dinh III và Crazy House nhưng đã từ rất lâu rồi tôi chưa bước chân vào hai nơi này, nghĩa là chỉ đứng nhìn từ bên ngoài. Đối với tôi, một người thích khám phá lịch sử và các nền văn hóa thì những dinh thự của Bảo Đại vẫn là nơi tôi muốn đến hơn là một ngôi nhà cổ quái theo lối kiến trúc đúng với tên gọi của nó. Song với tôi, Ngôi Nhà Quái Dị hay còn gọi là Biệt Thự Hằng Nga của nữ kiến trúc sư sáng tạo nhất nhì Đà Lạt vẫn cho tôi những ấn tượng mạnh từ khi lần đầu nhìn thấy nó. Tôi không thể rời mắt khỏi tòa nhà cổ quái đó trong một lần trên đường đi học về, khi ấy chừng bảy tuổi. Một con hươu cao cổ bằng bê tông, những thân cây gánh trên mình căn phòng nham nhở, to lớn có nhiều cửa sổ, tôi đứng nhìn cái thứ kiến trúc lạ lẫm kỳ quái đó bằng đôi mắt trẻ thơ nhưng không ngừng tự hỏi “Những hình thù ấy có ý nghĩa gì?”. Đến bây giờ, mỗi lần trở về Đà Lạt, ngang qua con đường ấy, tôi vẫn ngước đầu nhìn cùng với một câu hỏi đó, nhưng đã được chắp dài hơn: “Những hình thù ấy có ý nghĩa gì, và nó đã bao giờ trở thành bản sắc của Đà Lạt hay chưa? Một con hươu cao cổ ư? Tại sao không phải là một con vật khác? Những ô cửa trên các thân cây bị bê-tông hóa ư? Nó chứa đựng điều gì không?”. Rồi tôi chợt nhận ra, càng có nhiều câu hỏi, từ nhiều người– nhìn-ngắm, thì không cần biết ngôi nhà ấy có phải là bản sắc của Đà Lạt không, nó đã có một tiếng vọng rất Đà Lạt: “Bí ẩn, cuốn hút và kỳ vĩ...” Khi nghĩ về những tính từ bất hủ dành cho Đà Lạt, tôi cũng không thể nào quên mảnh đất ấy chứa đựng từ những câu chuyện có thật, hư cấu hay sử thi... Và vì sao, bạn có biết Đà Lạt được mệnh danh là thành phố của tình yêu? Không hẳn nơi đây là mảnh đất bình yên, trai gái dễ dàng hò hẹn yêu nhau. Mà bởi vì, từ những câu chuyện định kiến về tình yêu là một bảng lý lịch cho các địa danh như Langbiang, Hồ Than Thở, Đồi Thông Hai Mộ, Cam Ly... Tôi hẳn sẽ không cần kể cho bạn nghe thiên tình sử của chàng K’Lang và nàng H’Biang để nhớ đến một Langbiang huyền thoại, hay thuật lại mối tình thời Tây Sơn của đôi uyên ương Hoàng Tùng và Mai Nương trước khi câu chuyện ấy trở thành hiện thân của dòng nước thê lương Hồ Than Thở, hay cùng bạn nhắc nhớ về cuộc quyên sinh đầy tiếc nuối của người lính thời chiến tên Tâm và người yêu của mình, mà đến nay ta vẫn biết đến nó với địa danh đầy thủy chung Đồi Thông Hai Mộ. Bởi vì, chỉ cần truy cập vào internet, bạn sẽ có hàng trăm thông tin về những giai thoại đó. Và với chiều hướng tìm ra những câu chuyện tình yêu của xứ sương mờ, tôi chợt nhớ một câu chuyện từng được nghe từ rất lâu rồi, mà nếu hôm nay tôi không xuất thần nhớ ra thì có lẽ nó đã bị chôn vùi trong trí nhớ kém cỏi của tôi - một câu chuyện không mang hơi hướm diễm tình, một câu chuyện không bao giờ trở thành giai thoại. Câu chuyện tôi nghe từ những người đàn ông uống trà trong một quán nhỏ nơi đầu con hẻm gần nhà, họ kể nhau nghe với giọng điệu luận đàm pha chất dí dỏm. Câu chuyện về một gã Tây lãng tử yêu cô gái hái hoa người K’ho. Đó là câu chuyện tình có thật, theo lời người kể là thế, nhưng với tôi mọi câu chuyện ở vùng đất này như một sự ghi chép từ nhiều người, qua nhiều năm. Chuyện chàng Tây và cô nàng người K’ho xảy ra vào khoảng thời gian sau cái kết đầy bi oan của mối tình giữa chàng sĩ quan trẻ Minh Tâm và cô gái Lê Thảo. Dạo đó, J là một chuyên gia trẻ được phái đến giúp đỡ đồng minh trong cuộc chiến ở Việt Nam. Là lần đầu J ra khỏi Hoa Kỳ nhưng khi đến miền Nam Việt Nam, anh không được ở lại Sài Gòn mà phải di chuyển theo đoàn chuyên gia lên Đà Lạt để hỗ trợ cho trường Võ bị. Ở đó J không thể hòa nhập với các tướng lĩnh lẫn học viên, nhưng anh có cảm giác gần gũi với cảnh sơn cước của vùng đất mới này. Mỗi buổi chiều, J thường tản bộ trên các sườn đồi, tìm đến các khe suối để làm những bài thơ gửi tặng bạn bè ở quê nhà. Trong lúc thả hồn tìm nàng thơ, J nghe thấy một giai điệu quyến rũ phát ra từ sau rặng cây rừng, anh lần đến đó với sự thôi thúc kỳ lạ. Và, trước mắt anh lúc đó là một sơn nữ đang ngồi thổi sáo bầu, lưng gùi chất đầy những bông cúc trắng, và một đóa daisy đẹp nhất cài lên mái tóc vàng loe hoe. Nhìn làn da ngăm và mái tóc cháy nắng, anh biết cô gái là người sống ở vùng Thượng. Có thể cô gái sẽ bỏ chạy, nếu anh không đọc những dòng thơ mà mình vừa viết xong, và có thể J sẽ không bao giờ đọc những dòng thơ đó nếu cô gái không phải là người thổi sáo bầu hay đến thế. Người ta kể cho nhau nghe về J và cô gái K’ho như một câu chuyện đương đại, nhưng với cảm nhận sâu sắc rằng câu chuyện ấy rút ra từ cổ tích. Và dĩ nhiên, J sẽ không bao giờ lên vùng Thượng để sống với cô gái K’ho hái hoa và thổi sáo bầu, mà cô gái K’ho thổi sáo bầu sẽ không bao giờ qua Mỹ để sống cùng người mình yêu. Câu chuyện tình mang đầy định kiến ấy đã kết thúc nhanh chóng khi J chết trong vòng tay cô gái vùng sơn cước vì căn bệnh sốt rét, hoặc có thể bị đầu độc (như ai đó muốn có thêm giả thuyết khác để câu chuyện trở nên bí ẩn hơn). Những hình ảnh, những câu chuyện về Đà Lạt, mới hay cũ, thần bí hay hiện thực tôi đều có cái nhìn bằng hai tâm hồn: Sự gần gũi của người sinh ra ở vùng đất ấy, niềm hiếu kỳ của người lữ khách vừa đặt chân lên xứ sở đầy kỳ quan. Giấc mơ tuổi mộng N ăm hai mươi ba tuổi tôi có giấc mơ kỳ lạ về Đà Lạt, tôi mơ về thời gian vài năm trước đó, khi còn là một cậu nhóc mới lớn. Đó là một buổi sáng tinh mơ. Tôi xác định được bối cảnh và thời gian trong giấc mơ vì đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ những vạt nắng màu trắng tinh khôi len lỏi qua hàng thông. Đi bên cạnh tôi là cô gái Đà Lạt, tay tôi dắt chiếc xe (có lẽ mượn của ai đó vì điều này không giống với thực tế của tôi), chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, như đôi trai gái bản xứ, không một chút ngại ngần hay lo lắng bị dò xét – cũng có thể mọi chuyện đơn giản bởi vì đó là một giấc mơ, chẳng ai chung quanh, nhân vật trong giấc mơ chỉ có hai chúng tôi. Cả hai đi lên một con dốc đã quá thân thuộc, đôi bên là hàng thông xanh tươi ngút mắt. Cô gái khoảng mười sáu, rất giống với cô em gái nhỏ hàng xóm của tôi, ban đầu tôi nghĩ là cô bé, nhưng không phải. Cô gái trong giấc mơ của tôi dù có vẻ sôi nổi và thích chuyện trò nhưng không có tính trẻ con như cô bé hàng xóm của tôi, nhưng dù thế nào thì cả hai cô gái đều có nét đáng yêu. Đến đoạn đầu con dốc, chúng tôi dừng lại theo ý muốn của em. Em không nói gì, tôi cũng không hé lời, rồi em đưa mắt nhìn quanh, tôi cũng đưa mắt nhìn quanh, dĩ nhiên là điểm cuối dừng lại ở bầu má em. Sau đó tôi nghe em nói điều gì đó rất mơ hồ, ngay cả trong giấc mơ tôi cũng không định hình được câu nói. Chỉ biết là lúc đó tôi buông lơi bàn tay đang nắm lấy ghi đông, chiếc xe bỗng trượt từ trên đỉnh dốc xuống, cùng với sự ngỡ ngàng của em, chiếc xe nằm lăn lóc phía dưới con dốc. Như một phản ứng bình thường, em quay sang nhìn tôi, đôi mắt có gì đó khó hiểu – tôi nhớ rõ là ngay lúc đó tôi đã phân bua cho hành động của mình, rằng đó không phải do cố tình. Nhưng em không nói gì, khi tôi xuống dốc để dựng chiếc xe lên thì em đã bỏ đi, giấc mơ cắt đứt sau khi tôi một mình dắt chiếc xe đạp trở lại con dốc. Và tôi không hiểu sao, giấc mơ ngắn ngủi, rời rạc như vậy lại khiến tôi nhớ mãi đến bây giờ, cũng trong chừng mực nào đó của thời gian, nó vẫn không phai nhòa dù chỉ là một tình tiết nhỏ. Vào một ngày. Không phải mơ, mà tựa như mơ. Tôi ngồi ở bậc cầu thang của khu chung cư, sát bên cánh cửa căn hộ của gia đình. Sau những ngày mưa dầm dề, lớp rêu dày đặc đang xâm lấn trên mảng tường ố vàng. Tôi ngồi lặng im, chợt suy tưởng về thế giới mới của riêng mình. “Thế giới mới” trong tâm trí tôi là bỗng dưng muốn trở thành một nhà văn viết ra được loạt tiểu thuyết diễm tình có bối cảnh ở Đà Lạt, khiến nhiều cô gái phải thổn thức (nhưng thực tế là phải đến hơn sáu năm sau tôi mới bắt đầu viết tản văn, và tiểu thuyết diễm tình đến nay chưa viết được cuốn nào). Trong lúc còn đang mông lung với những mộng tưởng, một cô gái khoảng hai lăm xuất hiện trước sân nhà, chị hỏi về một người mà lần đầu tiên tôi nghe đến tên. Tôi thầm nghĩ trong cái xóm nhỏ xíu này, có mấy người đâu mà tôi không biết. Vì là một tập thể lâu năm nên các nhà còn duy trì mối quan hệ khá chặt chẽ, dù không được thân tình như xưa, nhưng tường tận nhau, bởi vì họ hàng của ai đó từ xa đến chơi mọi người còn lại đều biết tên, vậy người mà chị hỏi là ai? Tôi trả lời không biết, cũng như chắc chắn rằng ở đây không có ai như thế cả (theo lời kể của chị thì người đó là thợ ảnh, sống độc thân). Tôi chắc mẩm, ngay cả bán kính 500 mét cũng không tìm thấy ai như thế, vậy mà người ta nhẫn tâm nói với chị là anh ta sống ở đây đã được hai năm. Thấy không có biến chuyển, chị hỏi tôi có phải người ở đây không. Tôi bảo tôi ở đây, cũng chẳng cần phải tiết lộ cho chị biết là tôi vừa mới ở Sài Gòn về hôm kia. Chị nhìn tôi nghi ngại. Dễ hiểu thôi, bề ngoài của tôi hơi khác với người xung quanh, nhất là nước da xanh xao và dáng người liêu xiêu, trông tôi còn như một đứa trẻ - như ai đó từng nói tôi mãi mãi như là một Peter Pan. Tôi không cảm thấy bối rối trước ánh mắt của chị nhìn mình, tôi chỉ hơi lo khi nhìn vào mắt chị, một điều gì đó sâu thẳm sau hàng mi kia, khóe mắt chị long lanh tựa hồ sắp bật khóc. Tôi hỏi chị là sao chị lại tìm người đó ở đây. Chị không trả lời. Trong lúc im lặng, chị lấy từ trong cặp ra một cuốn sổ ghi chép, xem lại vài trang. Chị nhẩm nói điều gì đó. Sau đó chị cất cuốn sổ vào trong cặp, lúc này chị cười một nụ cười hơi mỉa mai (tôi chắc chắn chị nhận ra điều gì đó). Chị lịch sự chào tôi, và không quên nói câu gì đó hàm ý mọi chuyện là nhầm lẫn, nhưng khi chị vừa quay đi, tôi thấy một ánh mắt buồn khôn xiết. Lúc đã quay lưng hẳn về phía tôi và bước lên con dốc trước mặt, tôi thấy khuỷu tay chị nâng lên, bàn tay ngang mặt, rồi chị bước đi rất nhanh. Trên đời, nơi xứ mộng mơ này còn bao nhiêu cô gái vẫn đang đi tìm những người đàn ông bí ẩn của đời mình? Và còn bao nhiêu chàng trai ngậm ngùi tiếc nuối vì những người con gái đa đoan như thế? Mẹ tôi và thời tươi đẹp C uộc đời tôi, hình hài tôi, những suy nghĩ tôi ắt có sự ảnh hưởng ít nhiều từ mẹ, và nỗi nhớ nhung sâu thẳm về Đà Lạt cũng gợi nhớ cho tôi về quãng đời tuổi thơ của mình, mà những ngày tháng đó không thiếu đi hình ảnh của mẹ. Mẹ, người đã cho tôi một tuổi thơ êm đềm hết mức có thể, người đã âm thầm để tôi thực hiện giấc mơ của mình, trong những bước đường tôi đi, những kỷ niệm với mẹ ở Cao nguyên ngày nào đã gắn chặt trong tim tôi. Tôi có thể nhớ như in những đêm gió buốt của mùa đông, khi tôi thức dậy, nhìn theo ánh trăng sáng vành vạnh, rặng thông bên kia đường cạ quẹt vào nhau tạo ra thứ âm thanh buồn thảm, và những cơn gió khô hanh quẩn xiết làm da thịt của con người cóng buốt đến tê dại. Vậy mà trong những đêm khuya như thế, mẹ vẫn hít vào cái tiết lạnh đó, một mình gặm nhấm cái khung cảnh thê lương đó, để làm nốt những việc cuối ngày, bầy heo, thau đồ, những chiếc áo len mà mẹ đan dở. Tôi đứng ở nách cửa, với bộ đồ pyjama và chiếc áo len màu nâu sẫm, gọi mẹ. Mẹ bảo tôi vào giường, mẹ sẽ vào liền. Tôi lững thững đi vào, rồi lại ngủ đi nhanh chóng. Một lần, cũng vào một đêm khuya lạnh không thể quên, tôi thấy những giọt nước mắt của mẹ chảy dài trên gò má, tôi không hỏi vì sao mẹ lại khóc nhưng trong lòng tôi buồn khôn xiết. Hồi nhỏ tôi là một đứa hiểu chuyện, một người như mẹ, nếu không phải chứng kiến hay đón nhận điều gì đó đáng thương đến mủi lòng thì mẹ sẽ không khóc. Mẹ cam chịu, nhịn nhục và biết hy sinh, giọt nước mắt của mẹ là giọt nước mắt của sự hy sinh cùng cực. Tôi rất sợ nhìn mẹ khóc, và cũng như tôi, thành phố trong những đêm mẹ khóc rất u buồn, những áng mây cố gắng lướt qua như đang hòng lẩn trốn khỏi ánh sáng của trăng thanh, khỏi ánh mắt của những vì sao. Và rồi từ những lăn tăn đó tôi nghĩ về cuộc đời mẹ. Mẹ sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp xa cách với tầng lớp thành thị, rồi lớn lên ở vùng đất cằn cỗi và định kiến, mang nhiều hình thức trọng nam khinh nữ, vì vậy những mong ước thời thiếu nữ dường như không bao giờ là thứ mẹ có thể dễ chia sẻ, với bất kỳ ai – dù đó là ông bà ngoại hay dì cậu tôi. Như hầu hết những cô gái thời ấy, bao nhiêu khao khát của mẹ sớm lắng chìm trong thứ nề nếp xưa cũ của gia đình và láng giềng. Cuộc sống như vậy đã khiến mẹ trở thành cô gái cam chịu, siêng năng, sống nhún nhường và không còn quan tâm đến sự hằn học hay tranh giành nào, điều đó càng rõ ràng hơn kể từ khi ước mơ bé nhỏ nhất trong mẹ đã tiêu tan trước ngưỡng cửa hôn nhân. Mẹ chấp nhận mọi sự xáo trộn để phụng sự cái thiên chức làm mẹ, làm người phụ nữ của một gia đình mà tiếng nói đã không còn là điều cần thiết – như cách sống của đa phần phụ nữ thời đó, ít nhất là những người không còn mong mỏi gì hơn là một cuộc sống bình lặng trong cái tổ ấm bé mọn và mong manh của họ. May thay Đà Lạt đã đi vào trong tâm hồn mẹ một cách tự nhiên và chậm rãi. Mẹ yêu thích cái tiết trời ôn hòa vùng Cao nguyên, và những tia nắng làm nụ cười của mẹ đẹp hơn. Và với tính rụt rè thầm kín như chính loài hoa tỉ muội, mẹ đẹp cả khi rơi vào trong nỗi buồn, cả những khi mưa gió xiêu trời. Đã có đôi lần, tôi thấy mẹ bước đi trong làn sương với tâm trạng mệt nhoài, nhưng bước chân hầu như không bao giờ rệu rã, và dù trong mọi khoảnh khắc buồn đau nhất mẹ vẫn có thể cười cho nhẹ lòng người đối diện. Từ thuở ban đầu đến nay mẹ hầu như không có một cuộc tình nào hay có bất kỳ người bạn thân thiết nào trong đời, nhưng mẹ vẫn giữ cho mình một cuộc sống phong phú trong chính sự hẹp đãi với bên ngoài – điều ít ai có thể biết nếu như không thật hiểu mẹ. Thời còn ở Đà Lạt, dù trong những ngày cơ cực sớm tối, trong những ngày đẹp trời mẹ cùng với ba dẫn chúng tôi đi mua những món đồ xinh xắn, mẹ thường cắm bông cả trong những ngày bình thường, mẹ thích nấu những món ngon cho chúng tôi thưởng thức, mẹ vẫn biết điểm phấn tô son khi lòng khấp khởi và lâu lâu mẹ cho phép bản thân được chưng diện đôi chút. Với chiếc áo dài hay chiếc măng tô đen, đôi bông to, mái tóc uốn quăn, cho đến khi đưa tôi rời khỏi Đà Lạt và mẹ đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống ở Sài Gòn. Và giờ đây, trong những lần nhắc về năm tháng xinh tươi mà cũng khắc nghiệt hồi ấy, mẹ vẫn cười với nụ cười đầy mộng mơ. Mẹ vẫn thường xem lại những tấm hình kỷ niệm và tự kể câu chuyện nào đó về Đà Lạt, như một bức mành được vén lên, để người nghe biết rằng mẹ khao khát sống lại những năm tháng xưa cũ, với mẹ giá buốt của những ngày ấy như không tồn tại trong ký ức của một thời tươi đẹp. Đôi tình nhân tuổi học trò P hía chân trời xuất hiện những áng mây nhạt màu, bụi hoa ngũ sắc gần nhà đang tối dần sau một buổi chiều êm đềm tĩnh lặng. Tôi ngồi trên sofa nơi cửa sổ với một cuốn truyện tranh trên tay, lòng không thôi nghĩ về cô gái trong lòng mình. Em là một hình mẫu kỳ lạ trong cuộc đời non nớt bấy giờ của tôi, dáng gầy, mái tóc mượt, khuôn mặt nổi bật với chiếc cằm nhọn, lưng còng, chân tay mảnh khảnh và nước da đen ngăm, em giống như một cây thông non giữa cánh rừng thông xanh ngắt. Em không đẹp như các cô gái thường đi cùng em, nhưng với tôi em là một thiên thần, một thiên thần thực sự được tạo ra từ Cupid và Psyche. Nghĩ đến hình ảnh sẽ được đi cùng em một đoạn đường, tôi buông cuốn truyện, đặt chúng ngay ngắn bên cuộn len màu trắng của mẹ, cũng đúng lúc đó tôi thấy gương mặt ngây ngô của chính mình phản chiếu nơi mặt bàn bóng loáng. Sau khi chải chuốt mái tóc, tôi đút tay vô túi áo jacket và chậm rãi leo lên con dốc hướng ra con đường trước nhà. Ngày đó tôi mười chín, tâm trí không ngừng mộng mơ về một mối tình, nhưng cuộc đời thì vô phương hướng. Và buổi chiều hôm ấy, tôi đứng chờ em rất lâu cho đến khi nhận ra sự chờ đợi vẫn sẽ kéo dài đến tối, vậy là tôi tha thẩn bước đi một mình trên con đường phía trước cùng ước muốn được sánh vai em. Khi chỉ còn cách Dinh Bảo Đại một con dốc – nơi mà khi xưa Nam Phương hoàng hậu thường tìm đến để trút những tâm tư trước thế sự binh biến, trước tình yêu đầy hiểm nguy với Quốc trưởng - tôi chợt đứng lại, vô thức đưa mắt nhìn về phía đồi thông, xen vào đó là vạt nắng vàng ươm, hương của loài cây lá kim thoang thoảng trong gió. Tôi nhắm mắt hít hà cái không khí tuyệt diệu ấy vào khứu giác. Giữa rặng thông xanh ngút mắt đó, có đôi tình nhân tuổi học trò ngồi bên nhau. Họ vẫn còn bận nguyên bộ đồ học sinh của trường phổ thông có tiếng nhất thành phố, cùng nghe một bản nhạc từ chiếc máy Walkman còn mới tinh. Như không hề biết đến sự hiện diện của tôi, cô gái ngả đầu về phía bạn trai, mái tóc dài mượt buông xuống như một dải lụa đen tuyền. Tôi đứng đó nhìn họ, lòng không nguôi nghĩ về cô gái trong lòng mình. Có thể giờ này em đang ở lớp học thêm, hoặc đang cùng với đám bạn ghé quán ăn vặt quanh khu vực Hòa Bình. Cô gái của lòng tôi ơi! Lẽ nào em không biết tôi cũng muốn được như chàng trai kia, được ngả đầu vào vai em, hít hương tóc em, cùng em nghe chung một bản nhạc? Có thể là ABBA, là Duy Mạnh hay KPop, miễn là được nghe nhạc cùng em dưới những rặng thông xanh kia. Hoặc chỉ được nhìn em như thế, trong chính cái thời khắc này. Rồi đôi tình nhân đứng dậy, họ nắm tay nhau bước xuống vệ đường đầy những bông hoa xuyến chi. Tôi đi theo họ, nhìn tà áo dài của cô gái bay trong gió cùng màu áo len đỏ sẫm quen thuộc của đám học sinh trường chuyên, tôi lại nghĩ về em. Họ đi thật chậm rãi, cười nói dịu dàng. Đoạn cô gái kéo chàng trai ghé vào quán nhỏ gần nhà tôi, mua hai cái bánh kẹp, đôi kẹo mút rồi từ từ tản bộ xuống con dốc là hình ảnh rất đẹp. Tôi đi theo thêm đoạn nữa trước khi dừng lại bên chiếc xe tải già nua, và dõi mắt nhìn theo đôi tình nhân trẻ khuất dần phía con đường giao nhau. Trong khoảnh khắc mặt trời đổ xuống một màu như chảo lửa, tôi đứng trên đỉnh dốc dẫn xuống một villa xập xệ, nơi cư ngụ của gia đình tôi và sáu gia đình khác. Tôi hét lên một âm thanh ngắn ngủi trong vô thức. Tôi nghe tiếng mình vọng lại từ không trung. Đà Lạt là vậy, khi đứng trên con đường lộ mà dưới chân bạn là một vùng trũng hoặc thung lũng, bạn chỉ cần hướng mặt về phía núi và hét lên, ngay lập tức bạn nghe thấy tiếng mình vang giữa bầu trời. Đôi khi, tôi đứng một mình và hét lên một chữ cái, tôi nhận được một từ mình mong muốn. Vì vậy dịp nào đó, bạn ghé thăm Đà Lạt của tôi, đứng trên đỉnh dốc của căn hộ nhà tôi, nhìn về phía dãy núi và hét lên chữ “y”, âm thanh vọng lại sẽ cho biết bạn đang rất muốn được yêu, đang yêu hay cũng có thể là đang đau khổ trong tình yêu. Hoặc bạn chỉ ngồi xuống, ngắm nhìn mặt trời hạ dần sau đỉnh núi, bạn sẽ khám phá ra bí mật của ngày và đêm. Như tôi đã từng khám phá ra niềm vui lẫn nỗi buồn khi bước lên bậc thang của khu nhà villa xập xệ để rồi nghe thấy tiếng chim hót trên ô cửa. Đêm đông Trong những lần về thăm lại Đà Lạt, bao giờ tôi cũng nhớ đến quãng đường có hàng cây gần nhà. Nếu bạn đoán tôi đang nghĩ về hàng cây anh đào, thông, tùng, thì đó đều không phải là kết quả. Phải, tôi đang nói đến hàng mimosa đẹp nhất trong những hàng mimosa đẹp nhất của xứ sở này. V ào những tối mùa đông u buồn tĩnh lặng, tôi có thói quen đi dạo một mình, hoặc đôi khi cùng với một cậu nhóc hàng xóm, một cậu bé thích đạp lên những cái bóng người đổ dài trên mặt đường. Những chỗ khuyết ánh đèn cao áp, ta có thể thấy làn sương mờ đang giăng hãm một khoảng không. Với tiết trời lạnh giá của mùa đông, tôi có thể nhìn thấy hơi lạnh tỏa ra từ miệng của mình, cảm giác lớp vải áo quần dính vào da thịt. Trong cái lạnh như vậy, tôi thường có thói quen xoa xoa hai tay vào đôi tai, sau đó là vo vo cái mũi để người mình có cảm giác ấm lên. Chán chê với hai cái bóng, cậu nhóc xoa hai tay vào nhau rồi hỏi tôi: “Mình đi đâu vậy anh?” “Đi dạo thôi, đi nữa không?” “Thôi! Anh đi một mình đi, em về đây.” Vừa dứt lời, cậu nhóc co chân chạy, chỉ thoáng chốc cậu ta mất hút trong làn sương giăng kín khu biệt thự già nua xập xệ. Còn lại một mình, tôi rảo bước với hai tay đã đeo găng đút sâu vào túi áo, cổ áo kéo cao, cổ thụt vào, mắt nhìn về phía trước với hàng mi vướng những giọt nước từ cành cây nhiễu xuống. Đi một mình giữa tối mùa đông, tôi có nhiều lý do để cảm nhận sự yên bình và những nỗi niềm trong lòng. Để nghỉ lấy hơi, tôi đứng lại lắng nghe tiếng chim cú mèo kêu trên đỉnh cây tùng. Khi tiếng chim thôi kêu, nhờ những bóng đèn cao áp, tôi nhìn thấy con chim bay từ cành cây này qua cành cây khác. Tôi hình dung đôi mắt sáng quắc của nó đang nhìn mình, hiển nhiên nó có thể nhìn thấy một sinh vật lạ lẫm và đơn độc ở dưới đất đang đắm chìm trong đêm giá lạnh bằng ý nghĩ mơ hồ nào đó. Rồi tôi hít một hơi dài và tiếp tục rảo bước. Trong đêm đen tĩnh lặng này, đôi lúc vẫn có những chiếc xe vụt qua, cả những người có thói quen tản bộ ban đêm nữa. Họ đi lướt qua nhau với một nụ cười nhẹ. Tiếng gió rít dữ dội bên tai càng làm cho bạn muốn bắt chuyện với ai đó, dù chẳng quen. Ở cái xứ này, người ta dễ làm quen nhau là vậy. Tối đó có người nhờ tôi chỉ đường đến khách sạn Cảng Sài Gòn, tôi thản nhiên chỉ “Anh đi hết đường, quẹo trái, đi xuống con dốc và đụng một con đường song song với đường này, quẹo trái rồi đi tới giữa đường. Cảng Sài Gòn ở đó. Ok?”. Với chất giọng rặt miền xuôi, anh ta cảm ơn tôi rối rít. Có vẻ như tôi không có khiếu chỉ đường, nhưng đoạn đường này tìm khách sạn Cảng Sài Gòn cũng chẳng khó. Bởi vì, nơi đó cách chỗ tôi đang đứng chỉ vài trăm mét, trên một con đường song song. Sau vài phút, tôi đã thấy cây mimosa đầu tiên. Bên bờ rào kín kẽ của khu hành chính tỉnh, hàng cây đứng đó với dáng vẻ buồn thảm. Để bước tới đó, tôi phải leo lên con dốc thoai thoải. Vì vậy tôi bước đi thật chậm, cảm nhận được bước chân nhẹ tâng trong không khí. Cây mimosa đây rồi, chẳng hiểu sao khi ấy bỗng dưng tôi tháo găng tay ra, và từ từ chạm tay vào nó. Thân cây được bao lấy bởi lớp vỏ thô ráp màu ghi, mùa này hoa không đua nở, nhưng vẫn có lác đác vài bông trên cành. Theo suy nghĩ hiếu kỳ, tôi gõ gõ ngón tay mình lên thân cây như đang cố gắng chuyện trò với một người bạn, nhưng đáp lại vẫn chỉ có tiếng động từ ngón tay tôi gõ vào thân cây. Tôi đi dọc con đường và chạm tay vào từng thân cây một, anh lính gác nhìn tôi vẻ khó hiểu. Nhưng nhận ra đó không phải phận sự của mình, anh ta để tôi tự do với sở thích quái lạ đó. Đoạn chạm đến cây cuối cùng, tôi ngoái nhìn lại. Hàng cây vẫn đứng im bất động, như thể chúng đứng đó để chứng kiến sự cô độc của con người. Như thể bàn tay tôi chạm vào chúng cũng chỉ là một sự tiếp xúc vô nghĩa. Mà quả đúng là vậy, bàn tay tôi đâu có phép thuật nào. Chỉ là trong tâm tư tôi lúc ấy muốn chạm vào thứ gì đó thuộc về mình. Như thành phố này, nơi tôi chỉ có thể về thăm vài ba hôm rồi lại đi. Khi về đến nhà, tôi thấy mẹ đang ngồi trên sofa móc áo, còn ba đang xem tivi. Thỉnh thoảng ông cất lên lời bình phẩm, kiểu giống như nói lại câu của người thuyết minh. Trên gác, em trai tôi đang miệt mài học, chỉ còn hơn một năm nữa là nó kết thúc quãng đời học sinh của mình. Máng áo khoác vào giá treo, tôi leo lên gác. Đứng giữa căn phòng bít bùng, le lói thứ ánh sáng của cây đèn bàn và ô cửa sổ, tôi âm thầm nhìn ra ngoài. Qua khung kính cũ kỹ, hoen ố đã tồn tại hơn nửa thế kỷ, tôi thấy một khung trời bí ẩn hiện ra. Nhưng trong vẻ bí ẩn đó, thành phố vẫn đẹp. Sương khói quyện hòa, hàng cây thưa len lỏi trong các khu nhà cổ kính, con đường được nhuộm một màu vàng của ánh đèn cao áp. Phía nhà đối diện, bác hàng xóm trồng vài chậu lan rừng trên tầng thượng. Đêm đó, tôi trằn trọc với những ý nghĩ vẩn vơ về một thành phố không bóng người. Chỉ có tôi và hàng cây mimosa tĩnh lặng. Chỉ có tôi và những con đường hun hút xa xăm và chỉ có mình tôi với núi rừng xanh thẳm. Vì bởi lẽ, có những lúc tôi thấy mình như một đứa trẻ ở hành tinh này, nơi mà ai cũng chỉ thích làm người lớn. Và lẽ nào đó, tôi yêu thành phố của mình. Yêu tiếng chim cú mèo trong đêm, yêu mùi hoa loa kèn, yêu làn khói tỏa ra từ miệng, yêu mùi hương dạ lan nồng nàn, tôi cũng yêu em, cô gái mình hạc xương mai trong quá khứ của tôi. Và yêu cả mùa đông giá buốt của một thời tôi sống nơi căn hộ thân thương của gia đình. Trái tim còn nơi ngọn núi C ách đây mười năm, mọi người xem tôi là một cậu bé vừa vùng khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Dẫu ngày ấy cuộc đời tôi trầm kha tẻ nhạt, nhưng phần nào đó tâm tưởng tôi vẫn tràn đầy niềm say mê với cuộc sống. Sức khỏe cùng tâm trạng cải thiện từng ngày, tôi có thể đi bộ khoảng nửa cây số hoặc leo một con dốc ngắn mà không cảm thấy nặng nơi lồng ngực, tôi giao du trở lại với đám thanh niên xóm giềng và khắng khít hơn với thằng bạn thân tên Phong. Về lại Cao nguyên, tôi có cảm tưởng người ta thích nhìn làn môi tím và đôi mắt đỏ tía của mình. Đó là triệu chứng của căn bệnh trầm kha mà tôi mang vào từ lúc chào đời, và cái tên của nó cũng không kém phần mỹ miều: bệnh tim. Ấy vậy, trái tim đập như vũ bão theo nghĩa đen của tôi và với một nghĩa bóng, nó cũng đập đầy mãnh liệt. Trái tim tôi luôn rung động dữ dội trước những cảnh sắc lung linh, trước nụ cười mê ly, trước nghĩa cử chân thành, trước lòng người bác ái và nó cũng run rẩy trước những nỗi hụt hẫng đớn đau một cách vô cùng nhạy cảm. Và như vậy, mọi sự khác biệt đều có giá trị của nó. Tôi có sự khác biệt của chính tôi, và trong cái nhìn của tôi, Đà Lạt cũng có sự khác biệt của chính vùng đất này. Trên những con đường tôi đi qua, trong đôi mắt ưa chiêm ngưỡng của mình, tôi cố gắng ghi nhớ loạt hình ảnh hoang dại của Đà Lạt. Từ hàng rào kẽm gai được bao bọc bởi lớp áo của loài hoa bìm bịp, hồng dại, đến các bức tường vôi trắng cũ kỹ phủ kín bằng dải thường xuân xanh ngắt và những lối nhỏ hoang vắng dẫn lên các triền đồi ngập nắng, nơi những hoa pensée, foget me not, bồ công anh đua nhau nở. Cả trong khoảnh khắc dừng chân nơi lưng chừng con dốc để thở, tôi nhìn thấy chú chim bồ câu trắng đậu trên mái nhà rêu xanh, cạnh con vật nhỏ nhắn đáng yêu đó là nhành dương xỉ tồn tại ngang một đời người. Rồi tôi tự hỏi, có bao nhiêu người bắt gặp những cảnh nắng chiều rơi trên phố vắng, khi bóng mặt trời vĩ đại nhập vào đỉnh núi phía Tây? Một màu đỏ thắm rưới lên khoảng không, chú chim bồ câu trắng như trở thành loài hồng hạc và tung cánh bay lên không trung, để lại nhành dương xỉ đang chảy máu nơi mái nhà rêu hoang. Những khoảnh khắc như vậy, tôi may mắn bắt gặp bên ngày tháng lữ hành trên chính quê hương mình, và nó sẽ tồn tại mãi mãi trong ký ức không bao giờ phai của tôi. Thế nhưng đã nhiều năm nay, với mục tiêu đô thị hóa, những tòa địa ốc diêm dúa, những cung đường thiếu nhất quán trong quy hoạch đã phá hủy đi bao mảng xanh nguyên sinh bạt ngàn, để rồi thành phố bị nuốt chửng trong một khung cảnh trống rỗng ngày một lan rộng. Người Đà Lạt mới dường như quên đi bản sắc của chính mình. Họ cho rằng Đà Lạt là Paris, là Seoul, là bất cứ thành phố nào mà họ nghĩ rằng nó đẹp là hiện đại. Mà người ta quên rằng, những nhà kiến thiết lỗi lạc thời xưa luôn luôn duy trì một tỉ lệ cân bằng mảng xanh với những tòa nhà bằng bê tông. Và trong một lần ngồi cà phê với một người anh từng lăn lộn với núi rừng nơi đất lạnh xứ sương, anh nói với tôi: “Nếu em tự hào mình là người Đà Lạt, ít nhất em phải nhớ đến cảnh sương chiều rơi trên ngọn đồi hoang vu, là em đã từng sống trong những căn nhà gỗ, là em biết vo những cọng thông khô đốt lửa.” Từ câu nói đó của anh, tôi biết mình là ai. Thật vậy, nếu là người Đà Lạt, bạn phải biết cảnh sương chiều rơi trên ngọn đồi hoang vu như một tuyệt tác của Michael Gorban, biết cảm giác sống trong căn nhà gỗ với cơn gió lạnh thổi qua những khe ván, biết vo những chiếc lá kim đốt lửa, và biết nói “Trái tim tôi đặt trên đỉnh núi” chứ không đơn giản để buột miệng câu: “Đà Lạt của tôi đẹp lắm, mời bạn ghé thăm”. Hồn nhớ thương “Lâu rồi không thấy Nam post những bài viết cảm xúc như khi xưa, những bài trên trang blog hồi ký, những bài viết tương tự trong cuốn nhật ký Nam viết cho con. Lâu rồi, thấy Nam đã khác...” C húng ta, ai rồi cũng sẽ khác, khác để mà sống, như chiếc lá dưới vòm trời lồng lộng, như triền cỏ ngả màu theo mùa qua, như đường chạy của lũ kiến và dáng đi của chú ngựa trên đường mòn. Mọi thứ ắt sẽ phải khác. Vậy vì đâu mà phải khác, tự nhiên nó sẽ khác hay bắt buộc phải khác? Gió làm cho lá khác, hay tự cây làm cho lá đổi khác? Tận cùng của sự khác chính là thích nghi. Đó là sự lý giải giản đơn nhất cho sự sống, cho nhân loại. Ngày hôm nay tôi vui không, buồn không mà viết những dòng này? Có phải trong tận cùng nỗi đau, ai cũng phải khóc, để nhận ra mình sẽ khác? Một người lính bị viên đạn găm vào ngực, anh ta khóc - một người đàn ông chứng kiến kẻ thủ ác giết hại vợ mình, ông ta khóc – một bà cụ chứng kiến cháu mình bị gọi ra chiến trường, bà ta khóc – một phụ nữ thấy chú chó của mình bị xe cán chết thảm thương, chị ta khóc – một chàng trai chia tay người yêu, cậu ta khóc – một cô gái mang thai ngoài giá thú, cô ta khóc – người LGBT thấy mình bị xúc phạm, họ khóc. Tôi đã khóc rất nhiều cho những điều không lý giải, khi còn nhỏ và cũng khóc vừa đủ cho những điều được lý giải – tương tự như ai cũng phải khóc. Nhưng sau tiếng khóc đến nấc lòng, mọi thứ trước mắt sẽ phải trở nên khác. Để thích nghi. Ngày hôm nay chúng ta không khóc, chẳng có gì để phải khóc, vì chúng ta đâu còn trẻ, vì nỗi buồn khó để mà định hình, đáng hay không cho những dòng lệ? Nhưng sẽ có những ngày chúng ta nhận ra bao suy tưởng, bao hi vọng về sự đổi thay cuộc đời dường như hóa thành vở kịch câm, chứa chấp một nụ cười ngây ngô, phờ phỉnh. Ngày người mẹ tặng đứa con trai cây viết chì màu xanh khi cùng lên con dốc nhỏ, ngày của cơn mưa tầm tã không làm ướt chiếc áo nỉ vì hàng thông hiên ngang che chắn, ngày của cậu bé trong chiếc áo len dày nghỉ ốm chép bài qua vở bạn, ngày của những con chuồn chuồn rụng cánh trên hồ nước trong veo, ngày của những trái thông khô nằm lăn lóc trong ngăn tủ buet – ngày ùa về trong lòng tôi. Tôi nằm trong căn phòng có tiếng ồn của chiếc quạt máy mà nghe tiếng gió rít qua đồi thông, tôi cầm lẵng hoa đất sét của cô bạn chợt thấy màu xanh của hoa móng rồng trên bờ tường của nhà hàng xóm, thấy lá thông cháy trong lửa, nghe tiếng láo nháo của bầy chim ăn đêm, nghe thấy tay mình lạnh cóng trong lớp túi mỏng, hít hà mùi dạ lan trong đêm, ngửi thấy mùi của lớp nhựa trạng nguyên. Tôi thấy mình đang ôm, đang hôn những ký ức Đà Lạt. Dẫu muốn hay không, chúng ta vẫn phải bước đi trên con đường của mình, cùng với những bước ngoặt khác, nhưng một ngày ai rồi cũng sẽ nhận ra, mọi cố gắng hay sự thành bại của cuộc đời chẳng nghĩa lý gì với nỗi nhớ nhung nào đó chầu chực tuôn ra những tiếng thở dài, mà trước đó ta nghĩ rằng cái sự khác đã đè nén nó xuống, xóa tan nó rồi. Tôi đã nhiều lần dằn nén thứ cảm xúc tội nghiệp của một người bắt buộc phải xa miền đất của mình, để sống trọn vẹn hơn với vùng đất đang che chở. Mọi bản ngã hay nỗi niềm đều một mực đồng lòng, là phải sống hết mình với ước vọng, với sự đãi ngộ của tạo hóa. Nhưng đôi khi, tôi cảm thấy mình như bị mắc kẹt giữa hai thái cực buông xuôi và cố gắng. Trong ý thức thích nghi và tận tụy, lòng tôi lại dâng lên thứ cảm xúc yếu mềm. Và dù sao, hôm nay tôi muốn mình khác với những ngày đã khác, với nỗi buồn xáo trộn, ao ước trở về miền đất ấy, nằm nơi đồi cỏ hoa vàng. Vĩnh viễn không còn phải khác để thích nghi, vĩnh viễn không còn phải chặn tiếng nấc của niềm nhớ nhung, mà xao lãng một cuộc đời đầy gánh nặng, như cây thông già một đời nghiêng bóng bên hồ. Đà lạt trong tách Cappucchino T ách Cappucchino đặc quánh của bàn bên cạnh khiến tôi chăm chú hơn cả khung cảnh đang chuyển động không ngừng phía ngoài cửa sổ, những làn xe nối nhau lướt đi dưới ánh đèn nhập nhoạng của buổi tối Sài Gòn. Người ta tạo hình một cành cọ trên bề mặt tách cà phê Ý, thứ nước ấy không ngừng tỏa ra mùi thơm hấp dẫn. Chiếc lá cọ dập dềnh sóng sánh chẳng hiểu sao làm tôi liên tưởng đến tháp tùng, gợi nhớ về những buổi chiều tà Đà Lạt – dù thành phố nơi tôi sinh ra không có nhiều cọ. Nỗi nhớ sẽ khiến người ta dễ dàng liên tưởng đến mọi thứ từ ý tưởng nhỏ nhặt nhất, mặc cho đôi lúc ý tưởng khơi gợi chẳng mấy liên quan đến kỷ niệm trong ta, nhưng không vì thế mà dòng suy tưởng lại bị ngăn lại. Tách cà phê Cappucchino tối hôm đó có lý do chính đáng để làm tôi bồi hồi về những buổi chiều Đà Lạt. Kể cả ngày mưa dầm dề ướt át hay ngày nắng vàng rực thì xế chiều vẫn là buổi đẹp nhất trong ngày, dù với tôi buổi sáng cũng là khoảng thời gian đáng để ghi nhận về một vẻ đẹp của thành phố. Mỗi lần về chơi, tôi không thức dậy quá sớm hay quá muộn, tầm hơn bảy giờ, khi đó trời cũng đã ấm dần lên, tôi ăn sáng ở gian bếp, bếp nhà tôi nằm ngay phía dưới cầu thang của khu nhà. Sau đó tôi ra phòng khách, căn phòng duy nhất có đến hai hướng nhìn ra ngoài, phía nào cũng dễ dàng chiêm ngưỡng khung cảnh của thiên nhiên, những cành cây đung đưa như cánh tay vũ nữ. Hàng cây đã đứng đó cả thế kỷ. Bên những tòa nhà, người ta có thể thấy bầy chim én tự do bay qua bay lại trên đó. Tia sáng mặt trời chiếu thẳng xuống, xuyên qua các khe hở của cành cây, nhuộm lên những tán lá xanh ngắt một màu vàng huyền diệu lung linh. Để rộng tầm nhìn hơn, tôi lững thững leo lên những bậc thang mặt tiền chung cư, đứng ở hành lang chính khu nhà, tha hồ hít thở ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, thi thoảng có một chiếc xe vụt qua rồi nhanh chóng biến mất, tất cả quay về vẻ tĩnh lặng ban đầu. Thời kỳ đó tôi chưa biết thưởng thức âm nhạc, cũng không chú tâm đọc sách hay viết lách như bây giờ. Như một lẽ tự nhiên, đó lại là thời gian tôi dành cho việc quan sát, một cách chú tâm và hăng hái. Những gì diễn ra, tôi dễ dàng lưu lại trong đầu, tự nhủ khi nào có dịp sẽ lấy ra như người thám hiểm lấy tấm mật đồ được cuộn kỹ trong chiếc ống lưu trữ bí mật. Buổi trưa, ánh nắng trong vắt vô hình, cảnh vật trở về với màu sắc thật của nó. Những bông hoa, bầy ong mật, hàng rào, ngọn cỏ, viên sỏi, mái nhà, tất cả trở về nguyên bản, nhờ vào thứ ánh sáng tự nhiên trong trẻo kia. Ngày lãng đãng trôi qua bên khung kính, chiều bắt đầu buông sau rặng thông xanh, và trên mỗi cành hoa bầy ong đã tản đi từ khi nào, bóng dáng của loài chim đã ẩn mình sau những tòa nhà cũ kỹ. Tôi mở cánh cửa, bước ra đường, như một thói quen đã thành hình từ lâu, hễ cứ ra khỏi nhà là tay đút trong túi áo khoác – hoặc túi quần. Đã vậy, với dáng đi thất thểu, điệu bộ trầm ngâm, nom tôi chẳng khác gì một người bộ hành già nua lang thang, càng giống hơn khi bước đi dưới vẻ ủy mị của mặt trời đang buông dần ánh sáng mà cách đó nửa ngày còn căng tràn sự sống. Nhưng may mắn, tôi bay bổng, miệng thường huýt sáo theo đoạn nhạc ngắn, hễ gặp ai cũng mỉm cười như quán tính quen thuộc. Hình thù mong manh trong tách Cappucchino tương phản khung cảnh cuối ngày Đà Lạt, cũng bởi vì màu sắc chiếc lá trên bề mặt kem trắng muốt giống như ánh hoàng hôn đang buông xuống mọi ngõ phố, con đường, mặt hồ. Bọt kem gợn lên như màn sương mỏng phủ lấy rừng cây, mà có thể từ trên các tầng mây nhìn xuống mới thấy được nét đẹp của nó. Đà Lạt, chiều xuống nhân ảnh nhạt nhòa, cảnh sắc huyền ảo, mà khi tách cà phê được khuấy lên trở thành một màu nâu đồng đều, tia sáng mặt trời đỏ rực đang bao trùm phố núi. Tất thảy dần hóa thành bức tranh rực rỡ của người họa sĩ mù, John Bramblittl. Người ta bắt đầu nhấp tách cà phê Ý, tôi miên man nuốt trọn những kỷ niệm vào trong, mà lòng dạ không cách nào nguôi ngoai. Rồi Sài Gòn tối đó nóng lên trong từng ngõ phố, cho tôi nhớ cái giá lạnh quê nhà, đau đáu với bao kỷ niệm thuở nào, ước muốn quay về chốn cũ vẫn là một giấc mơ dài. Tiếng cười nói của bạn bè hôm đó, như tiếng thông vi vu trước nhà. Hai chốn, thành một trong tâm hồn không thôi nhớ của tôi. Chiếc áo len xanh H ôm nay một người bạn đồng nghiệp cũ khoe tấm ảnh thời phổ thông của cô ấy, tôi nhận ra điểm quen thuộc trên tấm hình chân dung kỷ niệm của bạn, đến độ tôi có cảm giác nao nao ùa về. Đó là chiếc áo khoác len xanh mà bạn tôi mặc vào thời ấy, đồng phục của học sinh Đà Lạt cùng các huyện lân cận, một ký ức đẹp cho những ai đang bôn ba hay sống trên miền đất khác. Nghĩ về chiếc áo khoác len xanh, tôi lại nhớ cặp tình nhân học trò tình tứ năm nào. Chỉ có điều, áo len của đôi tình nhân đó mang màu sắc khác, cốt để phân biệt trường phổ thông năng khiếu tỉnh so với các trường đại trà còn lại, điều này tôi nghĩ thực tình không cần phải thế, nhưng cứ cho rằng đôi khi cuộc sống vẫn cần có sự phân biệt. Cũng thật khiếm khuyết nếu như nói về những kỷ niệm với Đà Lạt mà lại không nhắc về màu áo len xanh. Chiếc áo len ấy trở thành thứ ký ức không thể tách rời với những người Đà Lạt, hay những người từng học ở đó, mà hết thảy đều muốn hoài niệm về một thời tươi đẹp, trong sáng. Suốt những năm tôi học ở Đà Lạt, mẹ tự tay đan áo cho anh em tôi. Mẹ là người cẩn thận, mẹ nói áo tự đan mặc bền hơn và hợp với dáng người của mỗi đứa, áo mua ngoài chợ chỉ được một thời gian là hỏng hết, sợi len xác xơ, đường may ở tay áo, cổ áo sẽ nhanh chóng tuột chỉ, kiểu may lại đơn giản. Chiếc áo đầu tiên của tôi là áo len lông, màu xanh đại dương. Chiếc áo của tôi khá khác biệt so với các bạn trong lớp, bởi các bạn chủ yếu mặc màu xanh sẫm, loại len trơn và đa phần được mua ở ngoài. Có lẽ nhiều người không tin, đó là chiếc áo mà tôi đã mặc từ lớp Một đến lớp Năm. Chiếc áo đã đi vào trong cả giấc mơ của tôi. Nó là một chiếc áo cực kỳ tốt, dù đã giãn theo năm tháng tôi mặc, nhưng suốt thời tiểu học, nó chưa bị rách hay bị thủng, dù chỉ là một đường nhỏ. Tôi còn nhớ cảm giác vô cùng ấm khi mặc nó vào. Nó trở thành điều gì đó thiêng liêng với tôi, riêng tôi. Có lần tôi đã hỏi mẹ còn giữ chiếc áo đó không, mẹ nói mọi thứ đều để ở Đà Lạt nhưng chiếc áo đó thì không biết còn hay đã bỏ đi. Ban đầu em tôi cũng có chiếc áo như thế, nhưng vì nó không mặc được áo len lông nên mẹ đan cho nó cái khác, loại len trơn thông thường. Nhìn chung áo len lông rất ít đứa học sinh nào mặc, nhưng tôi lại thích nó, dù phải thú thật cảm giác mặc len trơn thoải mái hơn. Có lẽ vì trong chừng mực nào đó, tôi vẫn thích sự khác biệt khi đứng cùng tụi bạn, ít nhất là về chiếc áo. Phải nói, những chiếc áo len xanh của học sinh phố núi là hình ảnh không phải hiếm, nhưng vẫn có thể xem là “đặc sản” trong loạt trang phục của dân bản xứ, nhất là với thời tiết Đà Lạt, mặc một chiếc áo len ở ngoài không chỉ mang lại hơi ấm mà nó còn hài hòa với cảnh sắc. Vì vậy mà mỗi lần về thăm thành phố, tôi thích ngắm nhìn nữ sinh trung học mặc áo len cùng với áo dài bên trong, dù như vậy sẽ làm giảm đi nét đẹp của bộ áo dài nhưng nó có gì đó đặc biệt, kỳ lạ. Không bàn đến sự phối màu giữa áo dài trắng và áo len xanh, không nói về sự hấp dẫn hình thể của phái đẹp, khi nhìn các thiếu nữ trong bộ đồng phục tôi liên tưởng ngay đến những cái cây. Ví dụ rõ ràng thân cây tùng chẳng hạn, phần trên được phủ đều lá với mật độ dày đặc, bên dưới lộ ra thân cây. Giống như vậy, những thiếu nữ khoác lên thân mình chiếc áo len xanh, còn lại là màu trắng của tà áo dài bên dưới. Chỉ có hai màu đều đặn, xanh trên – trắng dưới. Vẫn về những chiếc áo len, không chỉ riêng màu đồng phục của học sinh phổ thông Đà Lạt mới làm tôi xao xuyến. Ngay cả chiếc áo len của mẹ, của những người phụ nữ bán bắp nướng bên hồ, các cô gái bản xứ, những cụ già tuổi đã xế bóng - khi họ khoác vào lớp áo len đều toát lên vẻ gì đó vô cùng thu hút. Tôi nhớ những chiếc áo khoác len mỏng, áo cao cổ bằng len của mẹ, khi mẹ mặc chúng nét mềm mại ở mẹ được tôn lên. Lẽ dĩ nhiên, tôi không khỏi mê mẩn các cô gái xinh đẹp bận lên mình chiếc áo len cổ lọ, dù chúng có là màu gì thì những chiếc áo như thế đều rất tuyệt. Tôi đã từng không chớp mắt chỉ vì một người con gái duyên dáng vận chiếc áo cổ lọ màu trắng. Giờ tôi mới nhớ ra, chính người con gái đi tìm gã họa sĩ bí ẩn – người đàn ông của đời chị cũng đã làm tôi ấn tượng với chiếc áo chị mặc, nó làm tôi thật sự xao xuyến. Chiếc áo len của cô bạn đồng nghiệp đã gợi cho tôi những hình ảnh về một Đà Lạt ấm áp, duyên dáng, sâu thẳm. Rồi cũng chính nó, tôi lại thấy nỗi khao khát trở về nơi mình đã sinh ra càng lúc càng xa. Món bánh căn phố núi T ôi ngồi với lũ bạn hàng xóm quanh chiếc bàn gỗ thấp, đoạn cuối con dốc cách nhà chừng nửa cây số. Gió thổi mạnh, những cành thông lao xao trên đầu, đám cát trước căn nhà gỗ ở đoạn đường giao nhau bị quẩn lên rồi lắng xuống như cơn bão sa mạc vừa đi qua. Chiếc mũ len của tôi bịt kín hai tai chưa buồn cởi, áo khoác cũng kéo lên tới cổ, cô chủ gánh bánh căn đang đổ từng thìa bột gạo vào khuôn, bột bánh kêu xì xèo trên lớp dầu được quết trước đó. “Sáng lạnh không mấy đứa?” - Giọng cô chủ khàn khàn hỏi, tay vẫn thoăn thoắt. “Lạnh gì đâu cô, cô làm lẹ được không? Tụi con đói rồi.” – Một thằng vừa trả lời vừa lấy giấy lau từng đôi đũa. Hết thảy khoảng năm, sáu đứa. “Xong ngay đây! Chờ cô chút nghe.” Tôi và tụi bạn ban đầu ngồi thưa ra, chặp hồi sát lại với nhau như không còn lấy một kẽ hở. Cái thú ăn bánh căn sáng sớm ở xứ này thiệt đã. Gió lạnh chừng nào càng sướng chừng đó, vì gió chỉ đủ thổi đến lưng, còn mặt quay vào phía lò, than đốt đến đâu là cảm giác ấm đến đó. Hai tay xoa xoa vào nhau, từng đứa từng đứa cứ nhìn chằm chằm vào lò, hồ hởi chờ từng cặp bánh. Cô chủ gánh xoay trở nhanh, hốt một lần dăm cặp bánh đổ đĩa, người phụ gánh bưng nước mắm ra. Tụi tôi vừa thổi vừa ăn, khách quanh bàn cũng vậy. “Ngon quá! Lâu rồi con không có ăn bánh căn ngon vậy đâu cô.” – Tôi nói. “Cám ơn con. Mà bánh cô làm ngon thật không mấy đứa?” Thật tình mà nói, tôi cũng có biết cô hàng gánh bánh căn này là ai đâu. Chỉ biết ở Ngã Ba Giao Thông gần nhà có quán bánh căn ngon, nên thỉnh thoảng mấy đứa trong xóm mò xuống ăn. Tôi là đứa ghiền món này, đúng ra bánh căn ở đây có hôm ngon, nhưng có hôm cũng thường. Ngoài nơi này ra tôi cũng đi ăn ở nhiều nơi, khi ăn ở trên phố, có hôm ăn ở chợ, có lúc ở gần Ngã Năm Đại Học, có lúc ăn ở khu Cẩm Đô. Nói chung quầy bánh căn gần khu Cẩm Đô là ngon, theo tôi nhớ là vậy. Có lần tôi cũng đi ăn ở một tiệm bánh căn ở gần khu Hòa Bình, người đổ bánh thì ở ngoài, còn người ăn vào trong nhà ngồi đợi, và tôi ấn tượng nhất bữa hôm đó là một sự nhàm chán, khi ăn bánh căn mà không được ngồi quây quần bên lò bánh. Bánh căn ăn khi trời lạnh mới cảm được độ ngon của nó, bởi khi vừa đổ bánh người ta đã hướng khứu giác về phía khuôn bánh, cảm nhận được sự nóng hổi của lớp bánh, độ giòn của bột gạo ngay từ lúc bánh đang ở trong khuôn. Khi cắn miếng bánh đầu tiên, bạn sẽ thấy cảm giác vừa giòn vừa dai, giòn vì lớp cháy mỏng bao quanh bánh, dai vì độ dính kết của bột gạo. Nhân được làm từ thịt, tép hay trứng tùy vào sở thích của mỗi người. Bánh căn ở Đà Lạt đa phần không chấm mắm nêm mà là nước mắm mỡ hành, có thêm thịt bằm hay nếu muốn, đúng chất của nó là nước mắm cá, nhưng do Đà Lạt không có được cá tươi nên ít ai dùng làm nước chấm. Bánh căn nên chọn ăn ở những gánh bếp chồm hổm ngoài trời, vì như vậy mới có cảm giác dân dã của nó, bởi món bánh căn là của người dân duyên hải Nam Trung bộ, mà người dân xứ ấy ngày xưa sống hào sảng, ăn uống cũng phải vậy, cứ cả làng cả xóm quây vào một bếp mà ăn, ăn ngay bờ biển, ăn ở cửa nhà, ăn xả láng, cười nói xả láng. Khi nào hết gạo lại ra biển kiếm cua kiếm cá mang về đổi lúa, rồi lại có cái ăn như bao đời vẫn làm thế. Những chủ gánh bánh căn ở Đà Lạt đa phần xuất thân là dân miền biển di cư lên phố núi, làm đủ nghề sinh nhai, cho đến khi thấy món đặc sản của quê mình hợp với dân bản xứ, phần nhờ vào thời tiết. Bánh xèo, bánh căn, bánh canh cá, bánh bột lọc, bánh bèo rất được chuộng, vì vậy người ta không ngoa khi nói Đà Lạt có hương vị của Phan Rang. Giờ tôi chuyển qua chế độ ăn thanh đạm để ủng hộ hành động nhân đạo với động vật, nghĩa là đang đoạn tuyệt với các loại thịt từ gia súc, gia cầm, hạn chế ăn tôm cá, vì vậy cũng lâu rồi tôi không ăn bánh căn Sài Gòn. Trước đó thì cũng có dăm đôi lần đi cùng bạn bè hoặc cùng em trai, nhưng cảm giác bánh căn Sài Gòn không sánh bằng bánh căn Đà Lạt, có lẽ vì thời tiết hoặc do không gian nhộn nhịp Sài Gòn làm mất đi cảm giác ngon của miếng bánh. Người làm bánh cũng khác với trong nhãn quan của tôi, họ giống với dân miền biển nhưng lại không phải dân miền biển ở phố núi. Nói như vậy giống như ăn bánh căn Phan Rang ở Sài Gòn để nhớ về Đà Lạt, như vậy nghe có lý hơn là đi ăn cho thỏa cơn thèm. Dù cho thế nào đi nữa, những điều tôi viết ra cũng là theo cảm tính của một người đi xa khi viết về quê nhà. Nhưng với tôi, một khi mình gắn bó với mảnh đất nào, ắt sẽ khó quên cái cảm giác đã đi vào tiềm thức của miền đất đó, dù nơi mới đến, nơi nguyện ở như miền đất song song, trong một vài ngữ cảnh nó cũng không thể thay thế, không thể xóa đi cái tiềm thức vốn đã gắn chặt với cuộc đời mỗi chúng ta. Cũng như vậy, khi tôi về Đà Lạt, trong một vài ngữ cảnh, Đà Lạt cũng không thể thay thế Sài Gòn. Hôm đó tôi và tụi bạn hàng xóm có một bữa sáng quá xá ngon, ngon vì lâu lắm chúng tôi mới được ngồi cùng nhau quanh lò bánh căn ấm cúng, giành nhau ăn từng chiếc bánh thơm ngon, dậy lên thứ tình bạn trong sáng tô tư. Và nó làm đầy thêm kỷ niệm của tôi về Đà Lạt thân yêu, cùng với một món ăn miền biển ở xứ núi, mà rất có thể tôi sẽ không bao giờ tìm thấy cảm giác như vậy ở bất kỳ nơi nào về sau. Gặp lại cô gái Đà Lạt Những đôi má mềm mại ửng hồng, giọng nói trầm êm, phảng phất làn gió Cao nguyên mặn mà dễ khiến bao tâm hồn phải xao động, đó là nét đặc trưng của con gái Đà Lạt. Và dù họ có đi đâu, gặp ai, hay thời gian trôi đi thế nào thì họ vẫn thế, những người con gái Cao nguyên. T ôi và Xuân vội vã hẹn nhau ở quán ăn gần chỗ tôi làm. Đó là một buổi trưa tháng Mười Hai bình lặng, Sài Gòn nhiều mây, nắng vàng nhẹ tạo nên một phông màu tuyệt đẹp. Sau khi ra khỏi cánh cửa trong suốt của tòa nhà công ty, tôi thấy Xuân đang đứng đợi. Vừa nhìn thấy nhau, chúng tôi bước nhanh vào quán, phố xá khi ấy cũng vãn người qua lại. Đây là lần gặp riêng đầu tiên và duy nhất giữa hai đứa chúng tôi. Tôi khá bối rối khi gặp Xuân ngay tại Sài Gòn mà không phải ở Đà Lạt, và vì cả hai chúng tôi trước đó không hề thân với nhau, nói đúng ra là xa cách dù đã quen biết nhau từ khi còn nhỏ, mãi cho đến khi chúng tôi gặp lại trên Facebook, từ đó thỉnh thoảng trò chuyện hỏi han qua lại. Khi ấy Xuân đang du học xa, còn tôi vừa lập gia đình. Và cũng có lẽ đã gần mười năm rồi chúng tôi mới có buổi nói chuyện, đúng nghĩa là nói chuyện, giữa hai người với nhau mà không phải qua điện thoại hay màn hình máy tính hoặc bất kỳ phương tiện gián tiếp nào. “Xuân đi gì qua?” “Đi xe ôm. Nam làm ở đây hả?” “Ừ, cũng được hơn năm rồi.” “Vậy là tốt rồi. Công việc ổn không?” Tôi nhún vai như muốn nói: “So với những gì Nam có trước đây thì là quá ổn.” “Châu Âu vui chứ?” “Cũng vui. Chủ yếu là học thôi mà.” “Trở về lâu chưa?” “Cũng mới mấy ngày.” Thời điểm chúng tôi gặp lại nhau cũng là lúc tôi vừa nhận ra cuộc hôn nhân của mình không còn có thể cứu vãn, trùng hợp là Xuân cũng sắp sửa lên xe hoa với một người mà tôi cũng có biết sơ sơ. Tôi khá bất ngờ với cái tin đó, không phải vì sự đột ngột khi Xuân “thông báo” cho tôi, mà là vì tâm trạng bỗng dưng bị chùng xuống giữa hai đứa. Tôi không hỏi Xuân nhiều về tương lai sắp tới của Xuân và chồng chưa cưới, vì tôi nhận ra trong câu nói của người con gái trước mặt mình, Xuân cố gắng như không muốn đả động gì thêm về chuyện đó, như thể chuyện Xuân sắp lấy chồng là điều nên cho tôi biết, và chỉ nên dừng lại ở đó. Nhưng sau đó tôi hơi bất nhã, như không tin vào lời nói của người đối diện. “Sao đột ngột vậy? Có thật là Xuân muốn kết hôn không?” “Không biết nữa. Cũng tốt thôi mà, đúng không?” “Ừm, sẽ tốt thôi. Mình tin vậy.” Rồi chúng tôi nói sang chuyện khác, về cuộc sống của Xuân trong thời gian tu nghiệp ở nước ngoài, công việc tiếp theo sau khi trở về. Như cái tính cách vốn có, Xuân trả lời chóng vánh và không thể hiện nhiều cảm xúc. Xuân hỏi tôi về cuộc sống gia đình thế nào, vợ tôi có gọi vào hay không, cũng không quên khen Po của tôi rất đáng yêu và chúc mừng tôi vì điều đó. Xuân không hề nồng nhiệt khi trò chuyện, nhưng trong ánh mắt của Xuân tôi thấy có dành cho tôi một sự thương xót, tôi thì không hề thích người khác nhìn mình với ánh mắt đó, bất kể điều đó mang thông điệp gì. Có lẽ vì lâu rồi Xuân không tiếp xúc với tôi nên vẫn cứ nghĩ tôi là thằng nhóc ngày nào, gầy yếu, vô phương và kiệt quệ. Với lại khi biết tôi đang đối diện một cuộc hôn nhân như vậy, Xuân càng thấy có điều gì đó hoang mang, dù đã làm ra vẻ mọi chuyện sẽ ổn. Dẫu vậy, tôi vẫn cảm thấy một niềm an ủi lớn khi gặp Xuân, giữa thành phố này, sau bao biến cố, sau bao cuộc chia tay với những người con gái mà tôi quý mến. Xuân là một cô gái xinh đẹp, thông minh và là hình tượng của người con gái mà tôi rất muốn có ý nghĩa với cuộc đời mình. Tôi không biết cuộc gặp này có ý nghĩa gì cho mối quan hệ của hai đứa sau này hay không, nhưng thật sự tôi thấy mình đang được trở về cái tuổi mộng mơ, dù những chuyện giữa tôi và Xuân đang nói lại rất nặng nề. “Nam rất nhớ Đà Lạt. Nam nhớ ngày xưa cũng thỉnh thoảng gặp Xuân nhưng chẳng có cơ hội nói chuyện.” “Sao không về một chuyến? Lâu rồi Nam chưa về đúng không?” “Ừ, cũng đã bốn hay năm năm gì đó. Giờ khó để về lắm.” – Tôi nói và nhớ cái cảm giác được tản bộ giữa tiết trời giá lạnh của Đà Lạt. “Sức khỏe không cho phép hả? Mà thấy Nam rất hợp với Sài Gòn. Thấy Nam rất xông xáo, tươi tắn.” “Ừ, giờ thì mọi thứ đang tiến triển tốt. Công việc, nghề viết mang lại cho Nam nhiều thứ mà mình từng ấp ủ.” Rồi tôi nhìn Xuân. Tiết trời Giáng sinh thật dễ chịu, và nó làm cho tôi không muốn buổi gặp này phải kết thúc sớm. Qua khung cửa, thời gian như đang trôi chậm lại. Song thực tế cả hai chuẩn bị nói những câu cuối cùng và nghĩ về những ngày tháng sắp tới, khi tôi tiếp tục chờ đợi con trai và thời gian Xuân làm quen với cuộc sống hôn nhân. “Mọi thứ sẽ tốt đẹp thôi” – Chúng tôi động viên nhau. “Về Đà Lạt sống vui nhé, nhớ nhắn cho Nam thường xuyên.” “Sẽ còn gặp nữa mà. Xuân sẽ còn xuống Sài Gòn dài dài.” “Vậy khi nào có mặt ở Sài Gòn thì cho Nam biết. Mà Xuân thích gì nếu lần sau mình gặp nhau?” “Đi ăn, Xuân thích được đi ăn.” “Vậy mình sẽ đi ăn nhé!” “Nhớ nha. Chắc chắn xuống Sài Gòn Xuân sẽ gọi Nam.” Tôi cười rồi tiễn Xuân ra quán, chúng tôi bước những bước cuối cùng trước khi chia tay. Rồi tôi kéo Xuân lại và ôm nàng, Xuân cũng ôm tôi. Đó là cái ôm duy nhất mà hai đứa dành cho nhau. Và cách đây vài ngày tôi gặp lại Xuân cùng với vài người bạn, cuối cùng thì Xuân đã không kết hôn, nhưng hôm đó chúng tôi không có dịp nói chuyện nhiều. Khi cả bọn chia tay, tôi hứa sẽ gọi cho Xuân để cà phê, nhưng từ ngày hôm đó đến nay tôi không gọi cho Xuân, tôi cũng không hỏi Xuân đã về Đà Lạt lại hay chưa, dù đã có lúc tôi bắt máy lên định gọi cho Xuân nhưng rồi lại thôi. Tôi muốn gặp Xuân, muốn nhìn đôi má ửng hồng của Xuân, nghe cái giọng chóng vánh nhưng trầm êm của nàng, để tôi biết rằng mình đang còn một cái gì đó vấn vương. Mùi Dã quỳ M ùa nắng dài chưa hẳn đã qua đi mà những ngổn ngang vẫn còn ở trong lòng. Tháng Mười Một với cơn mưa chiều nặng hạt cùng những ưu tư phiền muộn, xin được hồi nhớ về một loài hoa cánh vàng nơi Cao nguyên nắng gió, để thấy lòng mình như bung tràn quyến luyến. Như gã trai cuồng si với những mối tình bất hủ, từng mạch máu trong tôi phảng phất mạch hoài niệm của một thời niên thiếu, thời mà tâm hồn tôi theo từng áng mây thiên di, vồ vập ôm chầm ngọn núi, và hơi thở đa đoan tỏa đi khắp chốn hồn hoa nắng gió. Mối tình của tôi là bóng dáng gầy gò của người đàn ông Triều Châu gánh trên vai hương cốm ngọt bùi năm nào, là bà cụ với nồi đậu hũ nóng hổi đã đi vào ký ức một thủa, là cây thông trước ngõ đã bị đốn hạ bởi nhát cưa chói tai, là đôi chim sâu cùng nhau ríu rít suốt ngày nơi bụi rậm trước hiên nhà, là hàng dã quỳ vàng ngắt bên đường mỗi mùa đông về. Thời còn là cậu bé xíu xiu, đeo chiếc cặp trên lưng, tôi thất thểu leo lên con dốc dẫn về nhà. Đoạn lưng chừng con dốc, phía hàng rào những tòa biệt thự cổ kính mà lâu nay người ta dùng làm chốn công sở, tôi nán chân lại bên đường, rụt rè bước lên vạt cỏ và đưa tay với lấy đám lá dã quỳ, ngắt một chiếc lá xanh, nhẹ nhàng đưa lên hít hà và đăm đắm nhìn đóa hoa vàng trước mặt. Mùi dã quỳ đến nay còn âm ẩm trong ký ức của tôi. Lần về Đà Lạt của tôi gần đây, dã quỳ bắt đầu nở bông. Nụ hoa vàng chưa rộ, những cánh hoa non nớt e ấp nơi đám lá xanh sẫm như những hài nhi nằm ngủ trong vòng tay mẹ, tôi lại nhớ về tuổi thơ mình được sống trong tình yêu thương của mẹ cha, của những câu chuyện thần tiên mà họ kể cho tôi nghe. Bao đêm mùa đông lạnh lẽo, tấm chăn chưa đủ làm ấm chúng tôi, mẹ lại quàng vòng tay mình để những đứa con yên giấc. Tôi không chọn cho mình một cuộc đời, mà đôi lúc tôi muốn được đổi thay dù một lần, nhưng giờ đây nghĩ lại tôi thấy mình giống như những cánh dã quỳ vàng rực, chúng chỉ trở về từ mùa đông và rực rỡ từ trong chính mùa đông giá buốt ấy. Bao ngày gió cuốn bụi bay, như thuở còn cung đường vó ngựa ngang qua, mọi thứ còn nguyên vẹn hai sắc vàng-xanh dịu dàng. Tôi không thể nào quên những vạt quỳ mong manh, đằm thắm bị người ta chặt đi để thông đường thoáng lộ, chẳng muốn lưu giữ những bức tường hoa lá tràn lan trên vệt mòn phố núi, người ta không mong nhìn thấy lũ muỗi đực tụ về vo ve dưới bóng trời tà, mà chỉ là nơi in dấu những cuộc khai hoang để lại tàn tích. Mùi dã quỳ như một giấc mơ xuyên thời gian, đánh dấu một thế kỷ vun xây của người Pháp trên mảnh đất thần tiên, để dân chúng dậy lên những cuộc bể dâu, để đám nam nữ thanh xuân tô lên mối tình đầy máu gai của nàng H’limh và chàng K’lang trong cổ tích, chống chế trước nỗi hờn ghen độc địa của người đời. Dã quỳ quê tôi! Loài hoa dại khơi dậy những mạch sống của thị xã Lâm Viên từ thuở sơ khai. Là màu hoa đã đi vào trong lòng mỗi người bản xứ, trong đó có tôi, một cách nhẹ nhàng. Như một bài tình ca đẹp đẽ, dã quỳ vô tình níu chân người lữ thứ yêu kiều bằng cánh đồng vàng-xanh kỳ vĩ, đánh thức trái tim của giai nhân trong cuộc kiếm tìm chân lý tự do. Cánh hoa vàng là hiện thân của thời thanh xuân vụng dại lao mình vào cuộc vui thâu đêm, của bậc tri nhân không ngừng toan tính sự đời, cánh hoa nghiêng nghiêng trên con đường kín đáo như dáng người đàn ông bước vào tuổi xế chiều. Tràng dã quỳ kéo dài bất tận từ nơi triền núi, ẩn hiện trong màn sương dày đặc thê lương trên các cánh đồi. Từng bức tường dã quỳ phủ quanh biệt điện nguy nga, bao bọc những dinh thự vàng son một thủa, đẹp đến mê hồn người. Dã quỳ nơi quán cà phê dốc đá u buồn len vào những con hẻm vòng vèo của một đô thị mềm mại khi xưa. Dã quỳ hôm nay cố vươn mình trên những cung đường trơn láng, bên những hành lang tân thời chưng diện đủ thứ cỏ cây. Chiếc xe ngựa chất đầy những bó hoa lạ, thay cho khóm hoa vàng trong sân nhà thành một bài ca dĩ vãng. Dã quỳ không còn tồn tại trên những con phố trung tâm hoa lệ, không còn là bức tường bao quanh biệt thự, dã quỳ thu về một góc nhỏ nhắn nơi góc phố rêu phong, hiu quạnh. Dã quỳ mất hút vào trong nỗi nhớ thương của gã trai si tình. Và mùa đông lại đến, dã quỳ sẽ về lại với những chấm vàng trên mảng tường lá xanh bất diệt. Khi tôi đang ngồi viết những trang cuối cùng cho ký ức tươi đẹp, cánh đồng hoa sẽ nở bung giữa trời sương giá, đôi tình nhân sẽ hôn nhau trên vệt đường mòn, đoàn lữ khách hăm hở bắt từng khoảnh khắc vào trong khung máy ảnh. Đà Lạt làm sao quên khi dã quỳ còn nở trong những mùa khô về. Thì thôi, xin mỉm cười thêm lần nữa để mong ngóng ngày về bên đóa hoa vàng rực rỡ. Và nhớ lắm, một đóa dã quỳ đã cầm trên tay... Ngôi nhà trên đồi N hững ngôi nhà cũ chênh vênh trên ngọn đồi đa phần đều mang một vẻ xa lạ, lạnh lẽo và bí ẩn. Từ nơi đó, không ít câu chuyện bi thương kèm theo tình tiết ma quái, rùng rợn được người ta vô tư truyền tai nhau, mà trong đó chẳng ai biết có bao nhiêu là sự thật, hoặc có thể chỉ là một cách để người ta dễ dàng ngồi cùng nhau bên đống lửa, bên chum rượu của ngày đông lạnh giá. Chẳng hạn ngôi nhà ở đỉnh đèo Prenn, theo thời gian người đời thêu dệt thành câu chuyện về một cô gái mấy mươi năm trước bị bức hại đến chết, từ đó linh hồn cô thường hiện về hằng đêm và ám ảnh những nam nhi đương sống. Rồi người ta lại nhắc đến con đường Trần Hưng Đạo, hàng chục ngôi biệt thự ở đó gắn liền với những vụ tự tử đầy uẩn khúc và trở thành nơi “nương tựa” của các hồn ma còn vương vấn chốn trần gian. Những câu chuyện kiểu vậy dường như đã theo tôi lớn lên, tôi thuộc chúng như thuộc một bài thơ vỡ lòng. Nhưng đâu đó ở Đà Lạt vẫn có những ngôi nhà trên đồi rất thơ mộng và bình yên, trang nghiêm và kỳ vĩ. Mùa xuân của hơn mười năm về trước, tôi cùng đứa bạn lang thang qua khu vực gần thung lũng, một nơi khá xa nhà. Khi đi ngang qua ngọn đồi thấp, tôi nhìn thấy một ngôi nhà gỗ rất đẹp nằm giữa đồi, xung quanh cũng có vài căn nhà bình thường khác. Ngôi nhà gỗ được sơn hai màu xanh và trắng, phía trước là một vườn hoa rực rỡ cùng những cây xum xuê lá, gần đó có những tảng đá to trông như toán binh sĩ đang mai phục chờ đợi quân thù. Vì chúng tôi không dừng lại, nên tôi chỉ có thể quan sát ngôi nhà trong chốc lát, nhưng chính ngôi nhà đó phần nào đã ảnh hưởng trong một vài sáng tác của tôi trong thời gian gần đây. Bởi vì sự mơ hồ của nó, nét chấm phá của ngôi nhà trong một không gian hoang dại, tạo nên một bức tranh kỳ vĩ trong ký ức của tôi. Tôi còn nhớ, cũng chính từ ngôi nhà đó, tôi đã nhìn thấy một người con gái trong chiếc váy dài đang tưới luống hoa trước nhà, đó là một hình ảnh mộng mơ nhưng đứt quãng được lưu lại trong tâm trí tôi. Đến giờ tôi còn cảm thấy luyến tiếc vì đã không thể biết nhiều hơn về ngôi nhà đó, hay chủ nhân của nó cũng như cô gái đã tưới những luống hoa trong khu vườn nhỏ. Đà Lạt là xứ sở dễ khiến người ta phải tiếc nuối vì một khoảnh khắc nào đó bị bỏ quên, vì không tìm hiểu hết ngọn ngành câu chuyện được nghe, vì bỏ qua tháng ngày thám hiểm những nơi xa xăm hùng vĩ. Song vẫn có cách để mỗi người trong chúng ta không phải tiếc nuối khi có quá ít thời gian dành cho Đà Lạt, ta chỉ cần kiên trì nhớ lại những thời khắc đẹp đẽ nhất đã tận hưởng, đừng bỏ quên bất cứ điều gì mà ta có thể chạm vào từ trong ký ức. Tiếp tục về những ngôi nhà trên đồi, tôi mong muốn được kể về một dinh thự đặc biệt, dinh thự đó luôn là nơi tôi bị cuốn hút, rất nhiều người Đà Lạt và cả với những du khách cũng bị cuốn hút; đó là Dinh Bảo Đại, mà người bản xứ chúng tôi gọi là Dinh III. Từ nhà tôi đi đến Dinh III chưa tới cây số, chỉ cần đi hết con đường nhà quen thuộc, vòng qua Viện Pasteur, men theo khu vực huấn luyện đội Cảnh sát cơ động nằm đối diện, và leo thêm một con dốc ngay đó, nơi có những villa màu trắng. Dinh III nằm trên một ngọn đồi thông, với tôi là một nơi gần nhưng xa, vì tôi ít có dịp vào trong đó, lần vào mới đây nhất chắc cũng đã đến gần hai mươi năm. Nhưng đó là một nơi thân thuộc với tôi, từ khi tôi còn là một đứa nhóc học vỡ lòng cho đến những ngày lớn lên tôi vẫn thường lên đồi thông và đứng ngoài cổng nhìn vào. “Ê Nam, đi lên Dinh III chơi không?” “Ừ thì đi.” Rồi chúng tôi đi, lúc thì tôi với thằng bạn, có lúc với ông anh hàng xóm, lúc thì cả lũ kéo nhau đi. Có những buổi chiều mùa hè chúng tôi ở đó, dựng xe dưới gốc cây thông, chạy vào khoảng sân trước cổng, chen vô giữa những đoàn khách du lịch, đứng ở hàng rào nhìn vào trong ngôi nhà nguy nga bề thế. Có lúc chúng tôi tranh thủ ngắm nhìn những cô gái đẹp, đám người Tây mang balô và cả những chiếc xe hơi đời mới từ Sài Gòn lên lấp hết mọi khoảng trống. Ở đó, ngay khoảng sân phía ngoài cổng dinh thự là một thế giới khác, nó không hề giống như chỗ chúng tôi ở, lúc nào cũng bận rộn, tấp nập, đúng với một tụ điểm du lịch thương mại. Nhưng phía trong dinh lại khác, một thế giới trang nghiêm hiện ra, ai nấy đều cảm nhận được mình đang bước vào một không gian cổ kính và khuôn phép. Tôi nhớ khi còn nhỏ, ba mẹ hay thỉnh thoảng là bà con họ hàng mỗi lần có dịp đều đưa anh em tôi vào đó. Mỗi lần bước qua khỏi cánh cổng sắt được giám sát bởi tổ trị an và phòng soát vé, tôi thấy mình như đắm chìm vào khung cảnh xa hoa, bề thế và trịnh trọng. Như mọi đứa trẻ ưa khám phá, sau khi bị lạc ở khu vườn trước cửa dinh thự, tôi đã không thể rời mắt khỏi cây bảo kiếm của Quốc trưởng Bảo Đại nơi thư phòng, những vật phẩm của Nam Phương hoàng hậu, cảm giác như không muốn bước ra khỏi những căn phòng lộng lẫy trang nghiêm, và khi nhìn vào những chiếc ghế sofa sang trọng, tôi còn tự hỏi ai đã ngồi trên đó, cũng như ai đã treo những bức tranh kia, ai đã chơi cây đàn này, ai đã chăm chút cho vườn hoa ngoài kia trong suốt thời gian nơi đây còn là cơ ngơi của đức vua? Rồi tôi được nghe đôi chút về những đoàn khách nước ngoài mà Quốc trưởng tiếp với nghi lễ xã giao gì đấy, sau này thời Việt Nam Cộng hòa, đến lượt tổng thống Diệm và tổng thống Thiệu làm nơi nghỉ mát cao cấp cũng có rất nhiều sự kiện đã diễn ra. Tôi không nhớ hướng dẫn viên du lịch đã nói gì về những chi tiết đó, nhưng sau này tôi tìm hiểu mới biết có rất nhiều điều khiến tôi khao khát trở lại, tất cả các dinh tẩm của Bảo Đại, các ngôi nhà cổ kính trên đồi, các biệt điện thời xưa hay tất cả những tòa nhà cổ kính ở thành phố thân yêu này. Đối với tôi, những nơi đó không chỉ là điểm đến của một chuyến du ngoạn, đó là lịch sử, là niềm tự hào của người Đà Lạt. Đà Lạt, hoài niệm và ân tình T ôi có nguyện ước cuốn sách nhỏ này được xuất bản trong dịp Festival hoa năm nay, vì nếu điều đó được thực hiện, nó sẽ mang một ý nghĩa lớn cho cuộc đời tôi, như thể sau ba mươi năm hiện hữu trên cõi đời, tôi được tạ lỗi cũng như thành tâm hướng về thành phố quê hương mình. Còn nếu chẳng may chậm trễ, tôi cũng sẽ không lấy làm tiếc cho những dòng sau đây. Bởi khi mà sự kiện lớn nhất của người dân xứ sở ngàn hoa sắp diễn ra, cảm giác trong tôi nao nao khó tả, tôi sẽ viết với những dòng cảm xúc của riêng mình, với một niềm hy vọng nào đó trong tim mà bấy lâu tôi chưa có dịp giãi bày cùng ai. Bao giờ cũng vậy, mùa đông luôn là thời khắc khiến tôi nhớ về quê hương nhiều nhất. Với những mong muốn sâu thẳm, tôi vẫn tìm cách khắc họa lại tấm chân tình dành cho quê hương, một bức tranh có cả hoài niệm, niềm tự hào lẫn những ước ao cháy bỏng. Mặt trời sẽ sưởi ấm những con đường heo hút dẫn vào cánh rừng, thì niềm tự hào sẽ soi sáng ta tìm đến ước mơ. Tôi còn nhớ, trước kỳ Festival hoa đầu tiên một năm, tức mùa đông năm 2004, chính quyền thành phố cho tổ chức một lễ hội, gọi là Lễ hội hoa Đà Lạt. Lần đó không riêng gì tôi, mà đa phần người trẻ ở Đà Lạt đều rất háo hức. Dù cũng tự hiểu rằng những lễ hội ở tỉnh nhà đa phần đều rất nhàm chán, chúng tôi vẫn đếm từng ngày đến lễ hội, hớn hở đi thăm thú những địa điểm đang được thiết kế, dành dụm từng đồng tiền lẻ để đi chơi chỗ này, mua vé chỗ kia. Ngang qua diễu lại ở trung tâm, bờ hồ, công viên một ngày không biết bao nhiêu lần mà chẳng biết chán. Vào yahoo messenger! gặp ai ở xa cũng hỏi có lên Đà Lạt chơi không, sắp có lễ hội hoa tưng bừng dữ lắm. Nghĩa là, trong lòng khi ấy cảm thấy rất tự hào. Những dịp như vậy là lý do thu hút khách du lịch từ tứ phương kéo về, giúp các khu chợ và hàng quán được nhộn nhịp trong hình ảnh người mua kẻ bán, mấy điểm tham quan nọ kia sẽ dồi dào nguồn thu, và hơn hết người ta sẽ không thể quên một Đà Lạt thơ mộng, khác biệt so với vùng đất mà họ đang sinh sống. Quả thật như vậy. Năm đó thành phố nhỏ bé của chúng tôi chật kín khách du lịch. Về đêm, các khoảng sân rộng ở cơ quan, trường học trở thành bãi đậu của các loại xe du lịch cỡ lớn. Bước chân ra các khu Hòa Bình, bờ hồ, chợ Đà Lạt, mấy khu phố ăn đêm, chúng tôi thấy người khắp muôn nơi thăm quan thành phố, mặc cho cái lạnh căm căm, mặc cho sương gió len vào da thịt, trên khuôn mặt của đoàn người vẫn mang nét hồ hởi, vui thú, và chính cái vẻ lãng mạn gần gũi đó của người lữ khách phương xa đã truyền một sức sống mãnh liệt đến cư dân bản địa. Người bán áo chợ đêm có dịp kiếm thêm miếng ăn, cô bán bắp bờ hồ về nhà khuya hơn ngày thường. Khu chợ đêm đèn đóm sáng choang, áo choàng, badesi, măng tô, mũ trùm, khăn len, găng tay là những món đồ mà dân du lịch ưa mua mỗi độ lên chu du xứ lạnh. Ở câu chuyện khác, tôi được nghe một số người khi ấy đang ấp ủ lập nghiệp bằng nghề trồng hoa bàn tới rất nhiều. Họ hy vọng sau dịp lễ hội sẽ có thể giao lưu được với các nhà trồng hoa đến từ Nhật, Thái và Hà Lan... Cũng chính năm đó tôi bắt đầu nghe về danh từ Hasfarm, và điều đó gợi cho tôi một mối liên hệ giữa Đà Lạt và người châu Âu trong lịch sử. Trước đó đúng một năm, tức mùa đông năm 2003, thành phố cũng tưng bừng đón một sự kiện, gọi là Lễ kỷ niệm 110 năm thành lập Thành phố Đà Lạt. Năm đó tôi nhớ dân Đà Lạt chúng tôi có dịp tôn vinh bác sĩ Alexandre Yersin, người có công rất lớn trong việc biến cao nguyên Lâm Viên hẻo lánh, xa cách với đồng bằng thành một xứ sở tuyệt vời mà nhiều người đã không thể thốt nên lời, để rồi sau đó một thị xã Đà Lạt hữu tình hình thành dưới thời Toàn quyền Đông Dương như một địa điểm nghỉ mát của người Pháp. Vào thời đó, dân ta phải sống trong cảnh đô hộ, gánh chịu niềm đau thương tủi hờn, và sau bao năm tháng quật cường chiến đấu, người Việt mới được tự do trên mảnh đất của mình. Nhưng là một người Đà Lạt, tôi vẫn biết ơn những bậc kỳ nhân Pháp, những kiến trúc sư bậc thầy, những nhà khoa học lỗi lạc. Bắt đầu từ chuyến thám hiểm nhỏ của Paul Néis, mà Đà Lạt của tôi có cả ngàn căn biệt thự thơ mộng, những chốn thiên đường hiện ra từ những cái tên Prenn, Cam Ly, Valleé d’Amour - Thung Lũng Tình Yêu, Hồ Than Thở - Lac des Soupirs, Núi Voi, Đồi Cù... Và quan trọng hơn, lịch sử đã cho chúng tôi hưởng một nền văn minh tân tiến của châu Âu, biến Đà Lạt thành một giấc mơ khác biệt mang tên ngàn hoa, xứ sở sương mù và vùng đất ái tình, hay đơn giản là để tôi biết Đà Lạt từ nhiều khái niệm văn hóa. Vì lẽ đó mà những cái tên như Yersin, Ernest Hébrard, Paul Néis mãi mãi là những bậc kỳ nhân trong lòng tôi. Và dù Đà Lạt có đang ở thời cuộc nào, với tầm phát triển nào, thì lịch sử hình thành nên thành phố đối với những người như tôi không bao giờ quên. Tôi tự hào là người Đà Lạt không phải vì tôi có được diễm phúc sinh ra ở một vùng đất lãng mạn, xinh đẹp. Tôi tự hào bởi vì với tôi Đà Lạt là xứ sở dễ khiến con người ta ưa chuộng cái đẹp, biết tìm về thiên nhiên và không quên đi ân tình. Như vậy, tôi mới có thể chắc chắn về tình yêu nguyên vẹn mà tôi dành cho Đà Lạt. Hai tiếng “Đà Lạt” luôn luôn thổn thức trong tim tôi, nơi đã tiễn tôi đi trong những năm tháng của tuổi mộng mơ và sẽ đón tôi về với một tâm hồn rộng mở. Tôi yêu Đà Lạt, thành phố của vạn con dốc đã hằn lên biết bao thời kỳ tươi đẹp, xứ sở ấy đã ôm tôi qua những năm tháng biến động của trái tim yếu ớt. Đà Lạt sẽ lại chở che tôi như những ngày ấu thơ, để tôi mãi mãi là một người con ở vùng đất này. Và giấc mơ trở lại không bao giờ còn xa, để tôi tiếp tục những câu chuyện về Đà Lạt cùng với ai đó, khi họ muốn nghe. SÀI GÒN Em sắp đi rồi, Sài Gòn có vấn vương em không? M ột buổi chiều chen chúc giữa rừng người lạ lẫm, nơi xuất hiện biết bao khuôn mặt nhìn đến phát chán trên các trang tin tức giải trí, tôi rời khỏi con sảnh lớn của tòa khách sạn danh tiếng nằm giữa nội đô Sài Gòn. Bước đi dưới cái nắng nhợt nhạt buổi xế chiều, tôi lặng lẽ tìm đến một quán cà phê nhỏ nhắn cách đó vài dãy nhà. Ngồi yên vị nơi góc bàn cạnh cửa kính, tôi nhìn ra bên ngoài với tâm trạng bịn rịn thay cho một người. Tôi đợi Mai, cô gái mà tôi quen qua một lần lang thang đâu đó trên mảnh đất này. Với cuộc sống không lấy làm sôi nổi của mình, thì việc quen em hay gặp gỡ em là một trong những điều lý thú nhất. Đó là diễm phúc của người từng có ý nghĩ bị lãng quên giữa trăm khuôn mặt thân thuộc, giữa những con đường hằn lên biết bao ký ức vui buồn. Em gặp tôi lúc tôi đang có cảm giác mình là một người của chiếc bóng, không còn tồn tại trong ký ức của bất kỳ ai. Nói đúng hơn, em đến làm bạn với tôi khi tôi đang ở trong giai đoạn chỉ biết lao vào cuộc sống như một con thiêu thân, tự hủy hoại thân xác mình trong niềm khao khát tuyệt vọng. Giữa chúng tôi không hề có chung niềm đam mê và cũng chẳng có mục tiêu nào giống nhau. Nhưng cả hai đều xem nhau như tâm giao ngay sau vài lần gặp gỡ. Mối liên hệ giữa chúng tôi, chính là mỗi người đều mang một thế giới khác. Có lần Mai từng ví tôi giống như một thân cây, thoạt đầu người ta nghĩ loài cây bất di bất dịch và lặng lẽ, nhưng bên trong nó có một làn sóng cuộn trào, tâm hồn nó thoát ra ngoài và bay theo những chiếc lá, nó có thể đi đến bất cứ đâu trên thế giới mà không phải nhích một bước chân. Rồi em tự ví mình như một đồng cỏ xanh ngắt, nơi người ta thích tìm đến để dựa dẫm nhưng mục đích cuối cùng vẫn là ngắm những thân cây hoặc ánh mặt trời. Tôi không đồng ý với sự so sánh đó. Tôi cho rằng em là ánh mặt trời để người ta nhìn ngắm, trân trọng sau một ngày mệt mỏi trên chuyến hành trình thường nhật. Trong điệu nhạc dập dìu và làn khói thuốc kế bên cùng những nghĩ suy về tình bạn của chúng tôi, em bất ngờ xuất hiện từ lúc nào. Thấy tôi hơi giật mình vì sự xuất hiện không gây động tĩnh gì của mình, em cười thích thú. Một nụ cười tôi dám chắc rằng những gã ngồi ở bàn kế bên đang phì phèo khói thuốc đã phải chết lặng. Nụ cười của em đẹp đến nỗi, tôi phải dẹp bỏ ngay ý nghĩ muốn được chạm vào môi em. “Em làm thủ tục đến đâu rồi?” “Xong hết rồi. Anh có gì vui không, kể em nghe đi?” Chỉ vài tuần nữa thôi em sẽ bay đến một châu lục khác, một đất nước với loài hổ - sói Tasmania trong vòng tranh cãi tuyệt chủng và lũ Kangaroo cực kỳ dễ thương. Em sẽ xa đất nước này một thời gian dài, theo em nói thì là năm năm hoặc nhiều hơn. Và đó là lý do những chuyện vui trong tôi bỗng nhiên bị dập tắt. Thay vì kể cho em nghe sự tình, tôi đề nghị em hãy cùng nhau nói về Sài Gòn những ngày này, về công trình tàu điện trong tương lai và về Thương xá Tax. Không ít chuyện buồn về thành phố hoa lệ này, thành phố mà cả em và tôi đều cảm thấy mình gắn bó một cách khó cưỡng. Khác với tôi là một người đến từ thành thị khác, em sinh ra ở tại đây, mang dòng máu của người Gia Định gần hai thế kỷ. “Thương xá Tax là nơi em thường đến nhất sau những chiều đi học về.” Và em nói, mỗi buổi chiều em đến Tax chỉ để ngắm những tấm bản đồ, những mẫu vật nhỏ nhắn làm quà lưu niệm hoặc chỉ để nghe lỏm người Tây nói gì với nhau. Rồi có lần em vui mừng vì mua được chiếc băng đô bọc vải màu tím ở Thương xá, chiếc băng đô đó đã khiến em thích nhìn khuôn mặt mình hơn. “Anh có nghĩ là người ta đập Thương xá thật không?” “Anh không biết. Hy vọng là không.” “Nhưng anh có tin họ đập không?” “Có!” Em cười nhạt. Tôi thì không cười. Dù sao đối với tôi, buổi chiều đó tôi chỉ muốn nghe em nói, muốn nhìn em cười, muốn biết về những dự định của em trong cuộc sống tới đây, muốn nghe em tường thuật những kỷ niệm của mình về Sài Gòn. Bởi vì tôi biết, em sẽ rất nhớ Sài Gòn trong những ngày tháng ở xứ người. Cũng như tôi cũng sẽ rất nhớ em. “Em sắp đi rồi, không biết Sài Gòn có nhớ em không nhỉ?” Em thốt lên câu nói đó với một âm giọng đầy tâm trạng khiến tôi thầm nghĩ, một loại ý nghĩ kiểu như “Sài Gòn đã quen với nỗi buồn đó rồi”. Nhưng thành phố sẽ vui đến phát điên nếu ngày mai em đứng giữa đại lộ Nguyễn Huệ và hét lên “Tôi sẽ không đi đâu hết...”. Rồi chúng tôi chuyển sang những đề tài khác cho đến khi tôi nhận ra những vị khách ngồi cạnh bên đã không còn một bóng. “Em sẽ siêng viết mail cho anh.” Rồi sau đó em dặn dò tôi. Tôi tiễn em một đoạn ngắn trước khi em bước lên taxi. Em không vẫy tay chào, nhưng em mỉm cười trước khi cánh cửa xe đóng sập lại. Đó là hình ảnh cuối cùng của em trong tâm trí tôi. Buổi tối đó, tôi thấy mình đơn độc khôn nguôi. Tại sao những nụ cười đẹp đẽ nhất đến rồi lại đi? Sài Gòn ôm tôi trong những ngày côi cút T ổ ấm bé nhỏ của tôi đã chia cắt làm đôi kể từ ngày vợ bồng con về quê thăm bố mẹ cô ấy, một chuyến thăm ám ảnh nhất cuộc đời tôi, mà có thể sau này nó sẽ còn được nhắc nhiều kể cả khi tôi không còn tồn tại trên cõi đời này. Mọi cảm giác chỉ còn lại nỗi nhớ và những câu hỏi không có lời đáp. Và chắc chắn một điều rằng, tình yêu của chúng tôi cũng dần tan theo cơn gió về phương Bắc, chấm dứt những ân tình sâu nặng vợ chồng, thứ ân tình mà trái tim cuồng nhiệt của tôi từng tin rằng sẽ là vĩnh cửu – như bất cứ ai đều tin vào nó khi đầu ấp tay gối. Thế nhưng tôi vẫn hy vọng và đợi chờ, cầu nguyện và nhắc nhớ những kỷ niệm không bao giờ tìm thấy nơi đâu được nữa. Kèm theo nỗi nhớ con quay quắt và vòng ôm dịu dàng của buổi còn yêu, giọt nước mắt đọng khô trên môi mắt, người đàn ông trong tôi bỗng dưng trở nên yếu đuối như chưa từng. Những tháng ngày như thế kéo tôi đi như cơn ác mộng. Đến hôm nay, cả khi đã khuây khỏa, tôi nhận ra tình yêu mình dành cho người vẫn còn đó, mà lẽ ra, tôi cần phải quên đi để tiếp tục sống thật thanh thản cho phần còn lại của cuộc đời. Nhưng bao giờ cũng vậy, những kỷ niệm trong quá khứ trở thành nỗi niềm hôm nay, kết chặt người ta lại như một miền tư tưởng khó lãng quên. Khi yêu nhau, tình yêu quá đỗi ngọt ngào, chúng tôi đã vạch ra một chân trời đầy xán lạn dù ngay trên đỉnh đầu còn đó tảng mây đen đang hiện nguyên hình thù. Khi còn thuộc về nhau, từng câu nói, từng cử chỉ của người đã trở thành biểu tượng của cuộc đời tôi. Và Sài Gòn chính là mảnh đất tác hợp cho tình yêu ấy. Tôi còn nhớ, ngoài giấc mơ tay gối đầu ấp, người thì thầm với tôi những lý do người ở đây là vì Sài Gòn bình yên, là vùng đất đáng để tận hiến, và tình yêu là điều rất dễ tìm thấy nơi đây, trong mỗi con người có khát vọng... Vậy mà chỉ như một làn sương mỏng, mọi thứ bỗng chốc trôi đi và tan vào hư không, tôi nhận lại những ngày tháng buồn đau như vừa nhân đôi. Rồi trong niềm vui mới, liệu có bao giờ người tự hỏi Sài Gòn bây giờ ra sao? Tôi bây giờ thế nào? Tôi vẫn phải sống với những ngày tháng cô đơn chưa từng, càng nặng thêm phần trách nhiệm và áp lực khi con trai không ở cạnh. Nhiều khi tôi muốn chạy đến một nơi nào đó không tiếng người, để trốn khỏi những lời đàm tiếu, rời khỏi cái không khí luôn cho tôi cảm giác nhớ nhung. Thế nhưng giữa thị phi cuộc đời, giữa muôn ngàn nỗi đau, tôi vẫn có đức tin về miền đất này, Sài Gòn sẽ còn cưu mang tôi khỏi những giông tố. Như đã từng và mãi mãi. Tôi đứng dậy, bước đi dưới cái nắng 35 độ C, giữa khói bụi thị thành, giữa tiếng ồn gầm vang, giữa những dòng người mắc cửi mà vẫn thấy chính mình đang sống giữa bộn bề. Sài Gòn vẫn luôn như thế, đó chính là minh chứng cho một vùng đất cưu mang biết bao phận người đa đoan, hèn kém, hay cho cả những vị chức sắc đầy lòng tin vào Chúa Trời, Đức Phật, Cao Đài... Sài Gòn của những con phố Tàu trăm năm lanh lảnh tiếng Triều Châu và tinh hoa ẩm thực phương Đông. Sài Gòn với góc phố Tây Bùi Viện đón những bước chân vãng lai đến từ bao miền đất viễn xứ, những kệ sách đủ thứ ngôn ngữ được chào mua bởi giọng rao tri thức qua nửa thế kỷ. Sài Gòn của ngôi đền Rạch Miễu lưng lửng giữa sông dài chứng minh một thời kỳ giữ cửa thần linh. Sài Gòn mộc mạc, giản đơn đang oằn mình qua bao cuộc bể dâu nhưng không mất đi nét kiêu kỳ lấp lánh của thời gian. Quay lại với niềm tự sự của mình, Đà Lạt cho tôi cảm giác bình yên với những gợi nhớ về năm tháng đẹp đẽ, Sài Gòn là nơi tôi sẽ sống và cống hiến cho những chuỗi ngày còn lại. Lẽ đó mà tôi thấy mình là người diễm phúc vì Đà Lạt luôn ở tận sâu trong tâm khảm gợi nhớ những ký ức tuyệt vời, và Sài Gòn còn đó một lòng bao dung nâng đỡ bước chân tôi. Dù cảm xúc ở hai miền đất khác nhau, nhưng vẫn chung một niềm tự hào. Chung một tình yêu, chung một niềm tin không bao giờ nguôi ngoai. Và chắc chắn Sài Gòn vẫn còn đó một ngày đón bước chân của chàng trai trẻ quay về bên cha nó, tìm về nơi đã sinh ra mình. Để không có gì có thể chia cắt được những con người mang tâm hồn Sài Gòn. Nếu mệt, em hãy về Sài Gòn M ười Ba tháng Sáu năm Mười Lăm, bầu trời u ám từ sớm tinh mơ, xế chiều mưa giông kéo đến. Lặng nhìn những hạt mưa trút xuống hàng hiên, lòng chợt nhớ về một buổi chiều không mưa cách đây không lâu. Đó là buổi chiều lãng đãng u buồn với những cơn gió quẩn xuất hiện làm hai hàng cây bên vệ đường nghiêng ngả. Khi bầu trời xám xịt đông cứng, Vy ghé ngang tòa soạn để gặp tôi. Chúng tôi ngồi trong một quán kem gần đó, nơi một màu xanh bao phủ lên các bộ sofa bọc da. Trước đó tôi đoán chủ đích của em cho cuộc gặp này, nhưng sau lại quên, cả khi gặp Vy tôi lại càng quên, đoạn em chìa ra tấm thiệp cưới cùng với nụ cười rất đẹp, là lúc tôi mới giật mình nhớ ra. Tôi đón lấy tấm thiệp cùng một nụ cười, nhưng không biết có đẹp như nụ cười của em không. Chỉ biết rằng tôi thành tâm chúc phúc cho em. Vy và tôi ngồi nói chuyện với nhau về hôn nhân, tình yêu và niềm tin của con người, điều mà em đang nghĩ và hình dung về nó nhiều trong thời gian qua. Đã một lần đứt đoạn và mang đầy nỗi ám ảnh về cuộc hôn nhân ngắn ngủi của mình, tôi cũng chẳng có lấy một lời nào đủ chắc chắn để căn dặn em. Mà có lẽ em cũng không muốn ai đó phải nói gì về lựa chọn của mình. Dù Vy còn trẻ nhưng em có một con đường sự nghiệp rất dài, và em đủ chín chắn để hiểu rằng hạnh phúc không phải là thứ dễ tìm và cũng chẳng phải dễ giữ trong tay. Chỉ là, cơn mưa không đến vào buổi chiều hôm đó, chỉ là trong đôi mắt Vy có một nỗi niềm về tình yêu, về niềm tin và về tương lai của con đường mà em đã chọn, sắp sửa bước đi. Mà con đường đó sẽ không còn là con đường của riêng em. Cũng trong đôi mắt long lanh u buồn của Vy ngày hôm đó, tôi nhớ lại cuộc gặp với em những ngày trước nữa, tại thư quán nhỏ quen thuộc, nơi chiếc bàn màu trắng đặt phía dưới những chậu hoa tinh khôi treo ngoài hiên. Hôm đó đông người, chúng tôi tách ra để chuyện trò với nhau ít phút. Đó cũng là ngày Vy chính thức thông báo cho tôi biết về một lễ cưới sắp diễn ra. Tôi không tìm hiểu về chàng trai đó, người mà em chọn lấy làm chồng để kết thúc một hành trình tự do nhưng đơn độc của mình, mà tôi chỉ hỏi em có thật sự muốn thế không. Em cười, một nụ cười rất đẹp, nụ cười cùng đôi mắt long lanh những giọt nước trong trẻo: “Em không biết chắc, nhưng em nghĩ là có”. Rồi tôi nói, như một câu văn được lập sẵn: “Anh hy vọng em sẽ được hạnh phúc.” Quay lại quán kem với tông màu xanh, Vy bắt đầu nói về những dự định của mình khi chồng chưa cưới của em đang định cư ở nước ngoài, còn em thì vẫn muốn bước tiếp sự nghiệp ngay tại quê hương. Còn tôi thì vẫn nói với em đôi điều trước và sau hôn nhân. Tình yêu quy cho cùng cũng không quan trọng đến mức ta phải đánh đổi tất cả, nhưng không thể thiếu được trong cuộc sống gia đình. Rồi chúng tôi chia tay nhau, tôi cầm trên tay tấm thiệp của em trở về tòa soạn trước khi đứng ở ngưỡng cửa nhìn em xa dần giữa dòng chiều trôi. Đắm chìm trong khoảng không bao la ở ban công tòa nhà, nhìn ánh mặt trời mặc sức giằng co với những áng mây xám xịt, tôi nhớ lại khoảng thời gian quen biết em. Bắt đầu từ đêm nhạc Á–Âu ba năm trước, em là một trong số những người tôi phỏng vấn hôm đó trong bài ghi hình, một khoảng thời gian khá lâu sau chúng tôi vô tình gặp lại, cũng tại một sự kiện âm nhạc thính phòng, rồi em cũng là người đứng trước ống kính, cầm micro trả lời những câu hỏi của tôi. Sau đó, đến lần thứ ba, khi tôi phỏng vấn em trong một bài chân dung, chúng tôi mới thật sự hiểu nhau hơn. Vy không phải là một tiểu thư đài các như vẻ bề ngoài của em, trong em là một người con gái mạnh mẽ sau những thăng trầm của cuộc sống mà em phải đón nhận nó quá sớm. Tôi trân trọng em hơn bao giờ hết khi em mở lòng mình ra trước tôi, điều mà em thú nhận rằng rất ít khi em làm với người khác. Rồi từ đó, trong sự thấu hiểu và đồng cảm, Vy coi tôi như một người anh, dĩ nhiên tôi cũng vậy: em là cô em gái mà tôi hằng ao ước. Tôi ao ước có thể bước đi cùng em khi em buồn, hay đơn giản là ngồi nhìn em trút gánh nặng trong lòng. Giá như tôi gặp em sớm hơn, khi tôi không quá nhiều điều để vướng bận. Rồi thì, tôi chợt nhận ra, nếu như tôi không vướng bận thì niềm vô ưu của tôi sẽ không cảm nhận được hết tâm hồn của em, nhất là những điều ẩn chứa trong câu nói “Em cũng hy vọng...”. Cơn mưa ngày Mười Lăm tháng Sáu năm Mười Lăm vừa ngớt. Hai ngày với những cơn mưa để hồi nhớ về một người em gái vừa sang ngang, mà mặc nhiên chúng tôi sẽ còn gặp nhau nơi thư quán nhỏ, nơi mà chúng tôi đã hẹn cho lần gặp tới, cùng cuốn sách nào đó để bàn luận trong câu chuyện của hai anh em. Và ít ra đời còn vui khi còn đó cuộc tái ngộ. Tháng Mười, trước lúc về phương Bắc – nơi em phải đến, em nhắn cho tôi một đoạn tin: “Em không biết có còn chịu đựng nổi hay không nữa anh ạ...”. Một tin nhắn ngắn ngủi khiến tôi hắt ra một tiếng thở dài. Cuộc hôn nhân của em tái hiện giấc mơ xưa của tôi. Không thể nói, sai lầm ở đâu. Không thể phân biệt đúng sai trong mọi chọn lựa của trái tim, mà chỉ có thể nói chuyện đã rồi chỉ còn trông chờ vào vận may cuối cùng, đánh cược cả cuộc đời cho một thứ gọi là hạnh phúc vốn đã quá mong manh, hoặc dường như không hề tồn tại. Trong cuộc trò chuyện của hai anh em, tôi chỉ biết an ủi Vy. “Nếu mệt quá hãy quay về em nhé, Sài Gòn luôn là nhà của em.” “Em sẽ về, anh đừng lo.” Tôi chỉ biết cầu chúc cho em lần nữa, rằng hạnh phúc sẽ còn lại bên những người luôn trân trọng nó. Sài Gòn, bóng hôm nay sẽ không phai... S ài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi...!, điệp khúc ấy bỗng ngân lên trong lòng tôi với cung buồn rệu rã. Một mình ngồi ở ban công của tiệm ăn nhỏ khu vực gần Lam Sơn - nghe rõ tiếng ồn của phố xá từ dòng người qua lại, tôi đưa mắt nhìn ra khoảng trời bao la. Chợt rùng mình khi thấy những bóng cây đã không còn nơi đó, những hàng cây đã gắn liền trong trí nhớ của tôi từ thuở vừa đặt chân đến thành phố này, nơi mà năm mười hai tuổi, với cảm giác thật bình yên tôi đã ngồi hóng gió cùng với người cô điều dưỡng sau những ngày dài ở phòng cấp cứu. Cho đến nay, kẻ đã chạm vào ngưỡng “nửa đời người”, tôi vẫn nhìn ngắm Sài Gòn với nét phồn hoa. Chợt thấy lòng không thôi nhói lên một nỗi ray rứt, nghiễm nhiên lời đối thoại từ sâu trong tâm tư mình trỗi dậy, dù chỉ là hình dung tưởng tượng nhưng nỗi buồn vọng lên từ nơi sâu thẳm. Một cảm giác xót xa khó tả chực ùa về, bởi những thân cây ấy chính là máu thịt, là linh hồn của những ai trân quý mảnh đất này. Sài Gòn sẽ có sự chuyển mình của thời đại, đó là những chuyến tàu điện ngầm, những tòa nhà chọc trời mọc lên. Quý hóa lắm. Nhưng, tự hào làm sao đây? Vì thành phố phải thay da đổi thịt, vì sự tiến bộ của đô thị mà mất đi những góc phố xanh ngắt trăm năm, những tòa nhà hoa phải chìm vào dĩ vãng. Nhưng rồi đâu còn cách nào khác. Không máu mủ với đất trời nơi đây, nhưng Sài Gòn đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ khi còn là một cậu bé được đặt giữa sự sống và cái chết. Sài Gòn đã cho tôi những giấc mơ cháy bỏng, sống khát khao và giữ gìn những kỷ niệm. Tôi đã lớn lên, thành người trên mảnh đất rộng lớn nhưng đầy những cuộc đời nhỏ bé biết khát vọng này. Những ân tình sâu nặng của bác sĩ mà cậu bé mang theo từ giường bệnh, những món quà nhỏ cậu nhận nơi hành lang khoa tim trong đêm Giáng sinh từ những người xa lạ, tấm drap trải giường được cô hộ lý ưu tiên, chiếc khăn giấy người qua đường đưa thấm mồ hôi. Đến ngày tôi trở thành một người biết phân định giữa yêu thương và oán giận. Biết để lòng mình ngả về phía an nhiên mà quên đi hờn tủi. Cũng giống như những hàng cây và tòa nhà mang theo bao tàn tích của chuỗi dài năm tháng kia, người Sài Gòn có tấm lòng đãi giao hào phóng. Vậy cớ sao lại lấy đi của mảnh đất này những kho báu trăm năm? Sài Gòn giờ đây tìm đâu những bóng cây xanh, những tòa nhà uy nghi cao quý - mà ở đó có bao cuộc xương máu đã đi qua? Sài Gòn hào sảng, bao dung đang trôi về đâu khi những dự án tân thời mọc lên, vùi lấp đi những chứng tích của thời gian - mà lẽ ra những nét phố xưa đẹp đẽ ấy phải được lưu giữ đến ngàn đời? Sài Gòn, thương cho phận thị thành tàn tạ với những nhát chém hủy diệt đầy đớn đau. Tôi nhìn thấy bia đá kia tuôn ra những dòng máu đỏ thắm, chực vùng vẫy giữa cuộc thay da cực ải – như ai đó phải thốt lên: “Lẽ nào bia đá không đau?”. Phải rồi, Sài Gòn rồi đây sẽ khoác lên mình một tấm áo hào nhoáng, lại vẫn là tâm điểm của các cuộc đổi thay, nhưng cái tâm cốt của một Sài Gòn xưa nay trôi về đâu? Người Sài Gòn sẽ sống sao với những kỷ niệm khi mà từng tán lá, từng viên gạch đã hằn sâu trong tâm trí của họ sẽ biến mất? Nhìn những đôi mắt thị dân đang hướng về khoảng không vô định, tôi thấy nét buồn vương trong họ, trong cả tôi. Nghẹn ngào chứng kiến những kỷ niệm về Sài Gòn vô tình bị phá hủy mà không thể làm gì hơn, từng người từng người dường như lầm lũi bước vào một ký ức xưa, mà đã là ký ức thì chẳng thể nào tìm thấy nguyên vẹn. Rồi thì người ta cũng sẽ tập sống với những mất mát, nhắm mắt để dòng thời gian trôi đi cùng những hủy diệt và tái sinh. Có người hỏi tôi Sài Gòn có còn là Sài Gòn không anh? Tôi nói với âm giọng của một kẻ đến từ phương xa rằng, Sài Gòn vẫn còn nếu người Sài Gòn không buông bỏ. Vết thương phải được khâu lại trong những ngày Sài Gòn tiếp tục chảy máu. Và tôi lại đau đáu nhớ câu hát Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai... Những thân cây xanh vạm vỡ ấy sẽ không phai, những tòa nhà hoa lệ ấy sẽ không bao giờ bị lãng quên trong ký ức của tôi, càng không bao giờ lãng quên với người Sài Gòn. Sài Gòn, dù có ra sao thì vẫn còn đó cái hồn của nó. Đẹp, thách thức và bao dung. Mối tình Sài Gòn Về một người con gái đặc biệt, đặc biệt trong khoảng thời gian mà tôi quen em, đặc biệt vì em thoáng qua đời tôi như cơn gió, đặc biệt vì vị trí của em trong tim tôi, đặc biệt vì những gì đã xảy ra giữa chúng tôi. T ôi và em quen nhau khi cả hai còn chưa nhìn thấy bước ngoặt gì trong cuộc đời mình. Vào năm đó mục tiêu lớn nhất của em là tấm bằng cử nhân kinh doanh, còn tôi thì chẳng hề hình dung được mình sẽ làm gì trong vài ba năm tới, ngay cả việc sống đến đó cũng có thể là một ván bài. Như một hành trình vô ngã, tôi chỉ ngồi ở nhà viết những thứ mà hàng triệu người đang viết: blog, và làm bộ quản lý một forum mà đa số học sinh-sinh viên tham gia, thậm chí tôi còn chưa nghĩ một ngày nào đó mình sẽ sống bằng nghề viết. Từ ngày đầu tiên nói chuyện cho đến ngày tôi nhìn em lần cuối ở sân bay, tôi nhận ra giữa tôi và em không hề có điểm chung. Chúng tôi quá khác nhau, ngoại trừ em chơi guitar, mà tôi thì cũng từng viển vông mơ ước được làm nghệ sĩ. Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau là vào một buổi chiều cách đây khoảng năm năm. Tại một quán cà phê ngoại ô, xung quanh hoa sứ rơi đầy, dễ dàng nghe rõ tiếng chim bà bóng hót trên cành cây, thỉnh thoảng chúng sà xuống đất hồ như muốn lăn ra chết. Vì còn bỡ ngỡ và chưa mấy hiểu nhau, cuộc gặp ngày hôm đó xem như là để khởi đầu cho một tình bạn bình thường. Bình thường, nếu như lúc chia tay em không bất ngờ nói với tôi một câu để rồi tôi không nghĩ lời nói đó dành cho một người như mình. Em thua tôi hai tuổi, có thể nói là xinh đẹp, có học vấn và trầm tính nhưng lại để trái tim mình hướng về tôi. Những ngày sau đó chúng tôi nhắn tin cho nhau nhiều hơn, kể cho nhau nghe nhiều chuyện riêng tư hơn. Vào những buổi cùng dạo chơi, chúng tôi thường vào công viên gần khu em ở, cũng tiện cho tuyến xe bus mà tôi ưa đi. Ngồi với nhau trên thảm cỏ, để em lau những giọt mồ hôi lấm tấm và nghe em đàn, tôi mới biết thế nào là tình yêu. Với tôi, em là mối tình đầu. Mối tình kể từ khi tôi biết rung động về một người con gái. Vào buổi sáng tháng Ba, trong ngày sinh nhật muộn của tôi, chúng tôi ngồi trên băng đá khu Hàn Thuyên, tôi nói với em rằng tôi đã bỏ phí những năm tháng của mình, mà lẽ ra tôi phải biết quý trọng thời gian hơn ai cả. Em chăm chú nghe và dường như không có bất kỳ phản ứng gì cho chuyện đó. Một lúc sau, em hỏi điều tôi muốn làm là gì? Tôi trả lời em tôi muốn viết về thành phố này, trong con mắt của những người yêu nhau. Em bảo đó là một ý tưởng tốt, em còn muốn nhìn thấy tôi trở thành một tác giả thực thụ. Thay vì việc tôi đang làm bây giờ gần giống với việc giết thời gian, em khuyên tôi nên bắt tay vào viết lách, em nhìn thấy một năng khiếu viết lách ở con người tôi. Như một cách để chối bỏ sự kỳ vọng của em, tôi bảo rằng nếu như tôi sống đến năm bốn mươi tuổi. Em không nói gì, sau đó chỉ trích một câu nói thông dụng của Thomas Edison về sử dụng ý tưởng. Câu nói đó của em, vài năm sau tôi lấy đó tự vấn mình, nó giúp tôi nhận ra mình không chỉ bỏ phí thời gian mà còn để thất thoát hằng bao ý tưởng, bây giờ có tìm lại cũng không nhớ nổi. Rồi tôi dựa đầu vào vai em, nhìn thứ ánh sáng tự nhiên đang vuốt ve những phiến lá cùng một nụ """