" Xác Chết - Carter Brown full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xác Chết - Carter Brown full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo 1 A nnabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” Đến lượt tiếng nói của tôi bị chìm nghỉm vào tràng pháo tay như sấm nổ. Một gã nào đó com-lê đen tuyền trơn như cánh quạ, thình lình xuất hiện trên bục diễn. Gã gào như giẫm phải lửa “Minuit O’Hara… Minuit…”, rồi gã buông máy vi âm, vọt thẳng vào hậu trường như ma đuổi, bỏ lại phía sau hàng tràng pháo tay như bầy ong vỡ tổ. Tôi tập trung sự chú ý, nhìn vào chùm sáng đang di động và đổ dài theo từng bước chân của một… sinh vật. Cao ráo mảnh dẻ, tóc dài óng mướt, Minuit cuộn mình trong chiếc choàng đen lông chồn, nổi bật từng đường cong gợi cảm. Những hạt kim cương nhân tạo và những mảng vàng bạc hóa trang dát trên áo, lấp loáng như những vì sao đêm bủa quanh nàng. Đến lúc bàn tay mang găng trắng người đẹp bắt máy vi âm và cất tiếng du dương, thì cầm bằng như nàng đã thóp quả tim thiên hạ. Căn hầm chìm trong lời ca trầm bổng hòa theo những tiếng xuýt xoa ngưỡng mộ của số thính giả trung thành, bỗng bị phá tan bằng những tiếng huýt gió reo hò đập phá vang rân, kèm theo những tràng pháo tay inh ỏi: Minuit đã dứt bài ca trữ tình và mất dạng sau tấm màn nhung trên sân khấu! Khi những tràng cổ vũ lắng dịu và ban tam ca tấu bài “Đàn bà là tai họa”, Annabelle nhìn tôi bằng đôi mắt hóm hỉnh, “Thế nào?” “Nếu nàng vừa hát vừa cho ăn theo màn thoát y, anh sẽ chịu chầu rượu cho khán thính giả đêm nay.” Nhoáng cái, một gã trai lơ xuất hiện như từ trong bức tường, tiến tới chiếc bàn của chúng tôi. Gã trạc ba mươi, thuộc loại béo đẫy, mặc áo vét thể thao khá rộng vừa đủ chứa cặp táp và bộ ria ba ngày chưa cạo. Gã khom lưng sát xuống, săm soi Annabelle như món đồ cổ và nói như vừa nuốt phải vật gì vào họng, “Cục vàng mười của… anh… bằng lòng nha cưng, sẽ… sung sướng…” “Biến nhanh,” tôi quát. “Tớ… rụng cánh rồi… Mà sao phải… bốc hơi?” Gã nói như bất cần tôi. Annabelle khịt mũi khinh bỉ, hét to, “Xéo ngay, giẻ rách!” “Ái chà, mệnh phụ phu nhân hả?” Gã nhót người đứng lên một cách khó khăn. “Này, đang chia bài đấy hử? Lộn bài rồi đấy, nỡm.” Gã xoa hai bàn tay cáu bẩn vào mép quần, rồi lè nhè, “Thôi, nhà quan… nhổ rễ thực thụ. Bái bai… dê cụ…” Tôi nhìn gã loạng choạng qua các dãy bàn và bước ngoằn ngoèo băng xiên vào một cánh cửa hẹp cuối nhà hầm. Annabelle ngây thơ hỏi, “Chúa ơi, thứ ngôn ngữ gì vậy?” “Của những thằng ngậm phải bả, cưng ạ. Đó là thứ tiếng lóng trong giới lưu linh, xì ke.” “Em chả hiểu gì sất.” “Với điều kiện em đừng gắn làn sóng dài vào đó. Em có nhận ra cái xó này, rốt cục rồi sẽ kết thúc bằng sự ô nhiễm và lấy lan như sida, OK chứ? Thật là thứ vi khuẩn chẳng bằng!” Annabelle hất mái tóc vàng bạch kim qua bên, hỏi vặn, “Cho là thế đi. Thế nhưng, anh có tìm được một chỗ nào mà người ta thưởng thức Jazz tuyệt vời như ở đây không?” Tôi tỉnh cả người, hớn hở đáp, “Ơ kìa, câu hỏi này anh đã trả lời rồi cơ mà? Ở chỗ…” “Ở chỗ đó thì cho em xin! Em không biết anh sẽ giở ngón nghề gì ra đây? Thực tình mà nói ở một nơi như thế người ta khó làm việc gì khác hơn!” Tôi ngắm rất lâu thân hình đẫy đà của cô bạn, “Trái lại, em sẽ hoàn toàn thoải mái, không gặp những phiền toái đến mụ mẫm người.” “Al, em chỉ phát biểu chung chung thôi mà.” “Thì anh cũng nói như em vậy, em yêu ạ.” Annabelle chống tay lên cằm, nhìn thẳng vào tôi, “Anh có đặt câu hỏi, tại sao một cô gái nhà lành chần chừ không chịu đến chỗ ở của anh không? Anh là chàng trai duy nhất mà em biết đã tấn công em… bằng đôi mắt.” Tôi lặp lại với cố gắng vô vọng, “Ở chỗ anh có nhạc êm dịu, luôn luôn có đủ thức uống ngon…” “Và với một chuỗi dài vô tận trong mục ‘gỡ rối tâm tình thầm kín trước ngưỡng cửa yêu đương’? Ôi Al, xin cám ơn anh ạ. Mục đó còn lâu mới đến với em. Em ưa thích nhạc Jazz cuồng nhiệt và bầu không khí khoáng đãng ngoài trời!” Gã hầu phòng béo đẫy lại xuất hiện trước mặt chúng tôi, “Hai người định ngồi suốt đêm với cái ly trống rỗng đặt trước mặt à?” “Anh bạn có thể mang ra ly khác,” tôi làu bàu. “Chết vì cái này hay cái khác cũng thế thôi…” Gã nhặt gom trên tay hai cái ly ráo hoảnh rồi thốc tháo bước vô trong. “Chắc em không nghĩ rằng anh chịu tiêu phí thêm hai đêm nữa chỉ vì đôi mắt đẹp của em Annabelle Jackson? Thế mà em hững hờ, không thèm để mắt đến căn phòng của anh?” Cô đáp, giọng chanh chua, “Ngoài cái thực đơn anh vừa kể, chỗ của anh ắt hẳn còn triển lãm một món đặc biệt?” Tôi sắp sừng sộ thì bộ ba trên bục diễn lại bắt đầu hò hét. Họ lồng lộn múa máy điên cuồng qua bài hát “Tuột dốc”. Tôi khó mà chuyện trò được, trừ phi những tiếng gầm rú rùng rợn đó im hơi. Tôi châm điếu thuốc và ngồi trầm ngâm suy tư: Nếu vào một đêm nào đó, cô ca sĩ nổi tiếng đương thời mang tiếng hát ngọt ngào yêu đương, liệu có chinh phục được cô bé say mê nhạc Jazz này, để cô ngoan ngoãn ghé qua phòng tôi hay không? Bỗng dưng giấc mơ vàng của tôi biến thành cơn ác mộng: Một tiếng rú kinh hoàng vang lên theo sau một tiếng nổ đanh tai chát chúa. Hai giây đồng hồ sau đó, gã thanh niên nói vung tiếng lóng vừa băng xiên băng nai trước bàn chúng tôi, bất thình lình đứng trơ trước ba chàng nhạc sĩ trên bục diễn… Gã không thay đổi gì cả, ngoại trừ một vết máu trước ngực loang đỏ trên áo sơ-mi màu da trời. Gã đứng được một đỗi, đôi mắt trống rỗng vô hồn miệng làu bàu: “Điên quá đi!”. Rồi loạng choạng ngã choài tới trước, mặt đập mạnh lên sàn gỗ và bất động. Từ chỗ ngồi, tôi không cảm giác gì về một cái chết đột biến của gã thanh niên. T 2 hời gian tôi tiến đến cái xác, khán thính giả đã phân tán mong quá nửa. Nghe tiếng ồn ào huyên náo của số tín đồ nhạc Jazz chen chân lên bục thang, tôi vừa kịp chặn lại, không để họ chuồn. Tôi quì một chân cạnh tay mộ điệu “hí hê’ và nhận ra gã đã rồi đời, toàn thân bất động. Có một lỗ nhỏ trên chiếc áo vét thể thao màu hột gà, ngay phía trên nơi có trái tim. Cũng lấy làm lạ, gã đã đứng chịu đựng khá lâu để nghe dứt bản “Tuột dốc”! Ba tay nhạc công chăm chú nhìn tôi đứng lên và phủi phủi đầu gối. Gã hầu phòng chạy tới, hỏi tôi với cặp mắt thăm dò và giọng châm chọc, “Anh là nhà phẫu thuật xác chết?” “Không! Cớm đây.” Tôi chìa phù hiệu, trả lời cộc lốc. “Thế thì còn gì bằng! Tôi đang tự hỏi không biết đào đâu ra tay khám tử thi hay một anh cớm nào đó.” Gã nhún cặp vai to bè, tỏ vẻ khoan khoái. “Vậy là tôi rảnh nợ. Một thứ rác rưởi…” Tôi hỏi gã, “Chủ nhân là ai?” “Chính tôi đây!” Một giọng nóng sốt và khàn đục ở phía sau tôi. Tôi xoay người lại và chạm mặt Minuit O’Hara. Tôi nhắm nghiền mắt một giây, hít mạnh một hơi dài, “Chà mùi nước hoa,” tôi thì thầm. “Nó phải có một cái tên chứ?” “Minuit, dĩ nhiên!” Nàng trả lời khô khốc và hỏi lại, giọng cứng đanh, “Tôi muốn hỏi ông chuyện gì đã xảy ra?” “Một án mạng, nếu như nó không tự sát rồi nuốt luôn khẩu súng vào mồm. Việc thông thường này, cô đồng ý chứ?” Nàng cụp mắt xuống trước cái nhìn của tôi, hỏi có hơi khó chịu, “Người này là ai?” Nàng trỏ tay vào xác chết. “Tất nhiên không phải bồ bịch của tôi rồi,” tôi đáp và chỉ gã hầu phòng. “Có phải bà con với anh không?” Gã giẫy như đỉa phải vôi, “Không! Tôi không biết anh ta. Cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ nghe nói về tên cục mịch này.” Tôi nói với nụ cười mỉm, “Vậy thì anh sẽ không bao giờ được nghe hắn nói.” “Bởi vì ông là người của cảnh sát,” Minuit xen vào. “Tôi hy vọng ông sẽ làm được cái gì đó. Thật tệ hại cho quán của tôi, gặp loại chuyện thế này!” Tôi nhìn quanh hiện trường, thấy khoảng nửa tá khách hàng, không đủ khả năng cựa động nếu không được một ai đó đưa tay dẫn đi. Họ ngơ ngáo nhìn nhau như đợi một phép mầu. Tôi hỏi Minuit, “Điện thoại đặt ở đâu?” “Trong phòng làm việc của tôi. Tôi sẽ đưa ông đến đấy.” Tôi quay qua gã hầu phòng, “Anh ở lại đây, không được rời khỏi nơi này. Canh chừng không cho ai sờ mó vào cái xác.” Gã nói như mếu, “Bố ai dám dây vào cái của nợ đó.” Tôi theo sau Minuit băng qua cánh cửa ở cuối bục diễn. Ba ông thần tượng của Annabelle đứng trên đó chết trân, đôi mắt lạc thần, như lúc họ sắp trỗi bản ‘Oh! Didn’t the ramble” dành cho một linh hồn lang thang gửi mình lạc lõng lên không gian chẳng được cái tích sự gì. Phòng làm việc của Minuit gồm một bàn viết, một ghế đặt trong góc. Bàn trang điểm chiếm góc kia, còn dùng làm phòng hóa trang nghệ sĩ trước giờ trình diễn. Nền sàn được trải tấm da hổ, đôi mắt thủy tinh của con dã thú cho cảm giác vô hại, cái điều tôi đoán được rất dễ dàng. Không phải lúc nào một con mãnh thú cũng được cơ hội quanh quẩn trong phòng làm việc của một cô gái trẻ đẹp và được diễm phúc ở lại ngủ suốt đêm trong đó. Tôi chộp điện thoại đặt trên bàn và gọi Đội điều tra hình sự. Hammond đang trực ban. Tôi giải thích hắn nghe sự cố xảy ra và yêu cầu hắn tức tốc đến nơi. “Tớ gửi trung sĩ Polnik và vài chú khác đến tăng viện với cậu,” hắn trả lời cụt ngủn. “Xong việc, tớ sẽ đến ngay. Tớ bị vướng chân với các nhân chứng mới trong vụ Hurot. Người chồng đã vào xà lim. Tớ có cảm giác nội vụ sẽ hạ màn. Tớ không thể bỏ đi vào lúc này được. Trong khi chờ đợi, cậu tự xoay lấy. Wheeler.” “Trung úy thân mến ơi,” tôi xuống nước. “Đêm nay vừa đúng lúc tớ xuống ca trực. Thật ra, tớ không lòng dạ nào nhìn thấy cậu vướng víu trong mớ bòng bong, làm trật đường rầy trong vụ người chồng đau khổ đã giết người mà chứng cớ rành rành. Nhưng…” “Biết rồi, tớ thông cảm với cậu lắm, Wheeler ạ. Hãy vui vẻ nghỉ ngơi. Tất nhiên vụ này sẽ không mang hiệu quả cho lắm trong tờ báo cáo mà tớ đang bù đầu với nó đây.” “Được, được… Tớ đồng ý,” tôi miễn cưỡng nhận, giọng chua như giấm. “Biết rồi, tớ sẽ ở lại, song với con tim khắc khoải.” Hắn càu nhàu, “Trời ạ, mất ngủ đêm nay mất thôi! Mà này trong khi cậu còn ở đấy, nhớ đừng để ai làm rối tung lên. Có thể còn nhiều dấu vết bất ngờ.” Tôi nhún vai, hỏi vặn lại, “Cậu phát hiện những dấu vết gì đó từ lúc nào vậy?” “Thì tôi nói cho chắc,” nhưng cậu sẽ ngủ sau khi đến bốc tớ ra khỏi đây. Bốc ống nói ra khỏi tai, tôi cầm nó lơ lửng một chập, rồi dằn mạnh xuống giá đỡ đến nỗi từ bên kia đầu dây, Hammond chưa kịp hạ xuống nghe. Minuit nhìn tôi vẻ mệt mỏi, rồi hỏi, “Thế nào? Trung úy liệu định việc này ra sao?” “Việc gì?” Nàng trả lời, vẻ mặt hơi bực bội, “Về cuộc điều tra hoặc ít ra cái gì đó ông muốn,” nàng trỏ ngón tay tô màu đỏ chói ra bên ngoài và nhăn mặt:. “Tôi muốn nói cái của nợ kia. Ông định để nó nằm vạ trong quán của tôi tới bao lâu?” “Chỉ một chốc thôi. Trước tiên phải để y sĩ pháp y nhìn qua dung nhan của nó, rồi đến phần việc của anh phó nhòm. Việc này là thủ tục thông thường và nhờ nó những nhân viên khác trong ngành Điều tra hình sự của chúng tôi mới đặt bút ký lên tờ giấy lĩnh lương hàng tháng. Tôi chưa rõ ai đã phát minh ra thủ tục này.” Tôi nói, rồi móc điếu thuốc lá châm lửa hít một hơi dài. Tôi nhìn Minuit với sự háo hức muốn làm một việc gì, rồi tiếp, “Bởi vì người hầu phòng của cô quá bận rộn công việc, cô có phiền toái chăng để tôi tự phục vụ cho mình một cốc Scotch?” Nàng đáp bằng giọng không nồng nhiệt lắm, “Có đủ loại rượu trong chiếc rương kia,” nàng nheo một bên mắt. “Có phải trong khi hành sự, lúc nào ông cũng chuốc rượu không?” Tôi nheo mắt đáp lại, “Chỉ khi nào tôi có dịp.” Tôi bước tới cái rương, giở nắp lôi ra một chai Scotch, rồi quay lưng lại nhìn Minuit nói, “Tôi có thể chọn cho cô một thứ nào đó để nhấm nháp tí chút, được không?” Nàng gật đầu đáp gọn, “Vâng, cho tôi chút rượu. Tôi cần lấy tinh thần.” Tôi đánh cho nàng ly cốc-tai Vodka pha chanh rồi cầm ly Scotch với ly của nàng đến ngồi trên chiếc ghế có lưng tựa bọc da. Tôi trao ly Vodka qua tay nàng và hỏi, “Cô cần có rượu để lên tinh thần, thật vậy sao?” Tôi đưa cái nhìn nghề nghiệp quanh gian phòng, chờ câu trả lời. Nàng cầm ly Vodka trong tay, nói vẻ mỉa mai, “Xin cám ơn ông về ly cốc-tai và công nhận ông có cặp mắt nhà nghề,” nàng không trả lời, mà hỏi ngược lại. “Hóa ra ông không công nhận rượu có khả năng tác động con người về nhiều mặt?” Tôi cho qua câu đáp, nói tiếp ý nghĩ của mình, “Cách bài trí của gian phòng cho thấy chủ nhân có cuộc sống bình dị.” Nàng cúi xuống nhìn vào hai bàn tay, rồi ngước mắt lên, nói mỉa mai với cái nhếch mép bất cần đời, “Xin cám ơn, không ngờ ông khéo ăn nói!” “Tôi sẽ còn phải trau dồi thêm,” tôi nhìn sâu vào mắt nàng, rồi tiếp. “Có điều gì đã làm cô băn khoăn?” “Đơn giản tôi muốn biết,” nàng nói giọng chua chát. “Nếu anh không cần đến cái đó nữa, tôi có thể cho tẩm liệm.” Tôi chưa kịp nói, đã có tiếng chân sầm sập ở bên ngoài. Minuit xô ghế đứng lên, bước nhanh ra. Tôi cũng vội vã bước theo. Một bầu đoàn thê tử đi vào như diễu binh, dẫn đầu là trung sĩ Polnik, có bác sĩ pháp y Murphy, một người to béo, đầu hói, mặt đỏ gay theo đuôi. Lão thầy lang ngắm nghía tôi như nhà khảo cổ tìm được mẩu thiên thạch rơi vào trái đất. Tôi quát, “Nếu có con dao mổ trong tay, tôi thử làm cuộc giải phẫu xem cái gì đã bịt kín đôi tai của ông.” Lão sủa ngay, “Một y sĩ pháp y có lương tâm nghề nghiệp không thể bịt kín tai. Tôi rất thính tai, nhà thám tử.” “Thế thì hãy bắt tay nhanh vào việc. Tôi muốn biết trong cái sọ của gã nằm thẳng đuỗn kia, có cái gì làm cho nó hết yêu đời.” Rồi tôi quay sang Minuit O’Hara; “Hân hạnh giới thiệu, Bác sĩ Murphy chuyên gia cắt xén tử thi kiêm chủ tịch đại công ty mai táng. Riêng ông trong tay đã có hơn hai trăm cái nghĩa địa.” Vị pháp y nhìn trừng Minuit, đưa tay giụi mắt, rồi thở dài thất vọng. Ông lắc đầu, mấy sợi tóc còn lại, hơi phe phẩy, “Không phải thân chủ của tôi, cô ấy vẫn còn thở. Vậy là thế nào?” Minuit giậm chân kêu trời, “Cái lão pháp y này còn lắm tài hơn ông đấy, Trung úy ạ!” Polnik đứng phía sau, đằng hắng, “Trung úy!” Tôi quay lưng lại, “Trung sĩ, gì cơ?” “Người của ta đã đến đông đủ. Có thể tiến hành được chưa?” “Tất nhiên,” tôi đáp. Rồi mọi người đi theo tôi bước lên bục sân khấu. Murphy quì một chân cạnh xác chết, loay hoay khám nghiệm, “Tôi muốn đổi thế nằm của nó. Anh có thể cho nhiếp ảnh làm việc trước đi.” Anh phó nhòm chồm tới bấm lia vài kiểu ăn ý, rồi phụ với Murphy lăn tròn lưng cái xác. Ông đứng lên xoa mạnh hai bàn tay múp míp vào nhau: - Viên đạn ăn xuyên phổi trái đi ngọt vào tim. Cái chết đến ngay tức khắc. ””Điên quá đi!”,” tôi làu bàu trong miệng. Murphy chột dạ, hỏi ướm, “Anh nói cái gì vậy?” “Không phải tôi, chính hắn nói đấy,” tôi trỏ tay vào cái xác. “Tôi nghe tiếng súng nổ, lúc đó gã đứng trước sân khấu, quay mặt lại và nói lớn: “Điên quá!”. Co dúm người rồi ngã khuỵu…” Vẻ mặt đăm đăm khó chịu, lão hỏi, “Khoảng cách giữa tiếng la và cái xác đổ xuống độ bao lâu?” “Có thể năm giây. Không lâu hơn.” “Ngay khi đó, anh gọi ai đến?” “Chính ông! Thưa ngài chuyên gia.” “Tôi sẽ làm thủ tục mổ xẻ khi nhân viên nhà xác mang nó về. Anh không cần gì thêm chứ?” “Kết quả khám nghiệm của ông. Và bây giờ tôi có thể lục soát cát túi của nạn nhân chứ?” “Làm đi! Công việc này thuộc về anh mà.” Tôi khom xuống lục soát hết cái túi của gã tín đồ đã ngoẻo, rút ra một mớ tạp nham trao qua tay Polnik. Anh này vội vã mang vào phòng Minuit. Nhân viên nhà xác đến mang tử thi đi. Murphy lết bết theo sau. Không đầy một phút, Polnik trở ra, kề tai tôi nói nhỏ, “Thưa trung úy, cô ả có vẻ không bằng lòng cho mình tạm sử dụng căn phòng.” “Chúng ta sẽ yêu cầu ông thị trưởng gửi lời xin lỗi, nếu ông ấy thấy cần. Tôi đang trong tình trạng việt vị, còn phải chờ lệnh.” “Thưa Trung úy, nghe rõ!” Polnik đáp khẽ, vẻ chịu đựng. “Tôi đến cô ả đây,” tôi trỏ tay về phía ba gã nhạc công. “Xong việc với cô ấy, tôi còn có mẩu đàm thoại ngắn với ba anh chàng kia.” “Tỉa dần từng người một?” “Không! Khởi đầu sẽ hỏi chung, sau đó đến lượt gã hầu phòng.” “Gã nào đâu?” “Cái gã thủ xuất sắc trong vai “Hầu bàn, mang chai rượu Khum!” hoạt cảnh không thể lầm lẫn. Đó là tay hầu rượu diện bộ cánh oách, có áo hồ bột trắng muốt duy nhất trong quán này.” Trước khi Polnik đi làm quen với gã hầu phòng, tôi quay trở lại với Minuit. Nàng đang ngồi giũa móng tay, thấy tôi xô cửa bước vào, bèn hỏi giọng đanh cứng. “Dường như chưa một ai báo cho ông biết, trước khi vào phải gõ cửa?” Tôi nói tỉnh bơ, “Nếu cô không phiền bực thì căn phòng này sẽ được chúng tôi tạm thời dùng làm “Bộ chỉ huy”.” “Về phiền bực thì có hàng tá cái để nói,” nàng nói qua cái nhếch miệng, “nhưng tôi cho rằng sẽ vô ích khi kể hết chi tiết cho ông.” Nàng đã có trong tay một ly Vodka mới rót. Tôi bước ngay tới chiếc bàn hẳn còn để chai Whisky, tự rót cho mình một ly cối scotch, rồi cầm ly đến ngồi thỏm vào chiếc ghế bành bọc da. Polnik gõ cửa bước vào, bày tất cả tài sản của nạn nhân lên tấm lót bàn. Tôi đứng lên trải nó ra từng món. Đó là đống tạp nham khá sạch sẽ gồm một bao thuốc khắc chữ ‘Guốc Vàng’ mặt kia là ‘Minuit - Nửa đêm’, một chiếc mùi xoa cuộn tròn, xấp tiền giấy loại mười đô đếm ra được trăm sáu mươi đồng, một cái lược bỏ túi, một cái giũa móng tay. Vật chót hết là chiếc phong bì đã đổi màu vấy bẩn mang hàng chữ nguệch ngoạc viết bằng bút chì “Ken ơi, hãy trang điểm trong phi vụ bằng Oscar!” Tôi bốc bao thuốc lá trong đám tạp nham, rút ra một điếu hít vào mũi. Không thể lầm lẫn, đây là ma túy có tên khoa học Marihuana, giới nghiện truyền khẩu qua nhiều tên: trà, cỏ khô, bù đà, chiếc lá vàng hoặc thông thường gọi là Ken và người sử dụng nó gọi là “phi xì ke”. Tôi hỏi Minuit, “Cô có biết người nào tên Oscar không?” Nàng trề môi, “Việc của ông là tự đào bới lấy!” Lập tức bộ óc nhạy bén của tôi làm việc: “Oscar” hai chấm, mở ngoặc kép “Một trong nhiều biểu tượng, để xác nhận tài năng kịch nghệ của cá nhân trong một lĩnh vực hạn chế về nghệ thuật nào đó” đóng ngoặc kép. Annabelle sẽ hãnh diện về sự tiếp thu nhanh chóng này của tôi về những nghịch và đảo phách trong trường phái Jazz đang phổ biến. Cũng như mớ kiến thức của tôi về các loại tiếng lóng đang thịnh hành vô tội vạ. “Phi vụ”, một hoặc nhiều cuộc làm ăn bất chính có tính bạo lực, mục tiêu nhắm vào việc tống tiền trấn lột tiền bạc của cá nhân hay tổ chức nào đó. Trường hợp Oscar ở đây nghĩa bóng của nó có thể là viên đạn chì hoặc một nấm mồ. Giải đoán theo cách đó, tôi có giải thuyết này: Có một âm mưu tống tiền hoặc hành động phi pháp nào đó mà những hàng chữ viết trên phong bì gã bỏ trong túi ngụ ý “mời anh đi cho rảnh tay…” Có thể gã không nghe, mà muốn đầu tư canh bạc bằng mạng sống của chính mình. Kết cục, gã bị khử trừ vĩnh viễn. Nhận xét nghe được đấy, nhưng không vẫn hoàn không: Tôi vẫn luống cuống trong mớ bòng bong. Thậm chí đến cái tên của gã này tôi cũng mù tịt! Tôi nốc một hơi cạn phần Scotch còn lại trong cốc, đặt nó lên bàn rồi đựa tay kéo hộc bàn viết đầu tiên. Lục lọi thấy nó trống rỗng, tôi đưa mớ tạp nham của người chết vào đó, rồi đóng hộc bàn lại. “Xin trung úy tự nhiên xem như ở nhà,” Minuit nói móc. “Tôi có cần mang đến cho ông một cái gối để tựa lưng không?” “Chà, điều này thật dễ chịu, nhưng tôi lấy làm tiếc,” tôi bỏ lửng câu nói, rút bao thuốc lá lấy ra hai điếu và mời nàng một điếu. Cả hai châm lửa đốt thuốc. Tôi tế nhị nhìn nàng và tiếp, “Ít ra mình phải loay hoay với một số việc vặt vãnh, chẳng hạn như đặt một ít câu hỏi về việc này việc nọ trong số người có mặt ở đây. Có thể tôi bắt đầu chuyện trò với cô trước. Được chứ?” Minuit cố gắng mỉm cười, “Được thôi, nhưng chóng vánh một chút, đừng kéo dài. Tôi còn phải cho dọn dẹp lại nơi này và dặn dò những người làm một vài việc, trước khi họ ra về.” “Đồng ý, vẻn vẹn chỉ hai câu hỏi thôi mà. Trước tiên xin hỏi, hàng đêm cô có mặt thường xuyên ở đây không?” “Chúng tôi chỉ nghỉ bán vào chủ nhật và trọn ngày thứ hai. Ngoài ra hầu như tối nào tôi cũng không rảnh.” Tôi nheo một bên mắt và hỏi một cách nồng nhiệt, “Hay quá! Thế thì, tối thứ hai cô làm gì?” B 3 a chàng nhạc sĩ ngồi túm tụm phía kia mép bàn và, lần đầu tiên tôi thấy họ là những con người có nhiều khác biệt. Tôi kéo chiếc ghế đối diện họ và quan sát từng người. Người thứ nhất, Clarence Nesbitt hơi héo hon không có cây đại hồ cầm, to lớn gần như béo phệ, tay không rời cái mũ quả dưa màu nâu sẫm đã đội suốt lúc trình diễn. Ngồi giữa là Wesley Stewart tay kèn đồng, người điều khiển ban nhạc, gầy và cao khổng như cây tre. Hắn có đôi mắt to màu xanh lơ mơ mộng và một chiếc mũi quá dài không tương xứng khuôn mặt. Cuba Carter ngồi sau cùng, béo lùn màu da hơi sạm, chắc lai máu Phi Luật Tân. Hắn để bộ ria đen ngòm hình dấu phẩy, lúc nào cũng nhe hàm răng trắng hếu ra cười, chắc để lên dây thần kinh hơi chùng. Tôi chậm rãi châm thuốc và kín đáo quan sát tiếp. Cuba cục cựa đôi chân tỏ vẻ khó chịu, trong khi Clarence búng búng mấy ngón tay như tấu đàn tưởng tượng. Tôi nhóng tai và hầu như nghe được tiếng ong ong của cây đàn basse. Duy chỉ có Wesley Stewart ngồi lặng yên, đôi mắt mơ màng nhìn xa xa vào chốn mung lung cách hàng nghìn dặm, từ căn phòng lắm phiền muộn của nàng Minuit O’Hara. Tôi vất điếu thuốc cháy dở xuống nền sàn, lấy gót giày giẫm lên nó, rồi hắng giọng cất tiếng, “Các anh bị buộc phải vào cuộc, nếu không tỏ thiện chí giúp tôi thu vén nhanh chóng vụ này.” Họ im lặng ngồi nhìn nhau người này sang người kia. Sau rốt, Clarence mở đầu, “Có thể nói, chúng tôi chả trông thấy gì sất, thưa Trung úy. Chúng tôi đang trình tấu bản “Tuột dốc” và đang để hết tinh thần tập trung vào bản nhạc, không còn ý nghĩ nào khác. Đến khi nghe tiếng gầm gừ của một gã, tôi cho rằng hắn bị kích động thần kinh. Tiếp đến là một tiếng “đoàng” tôi lại nói thầm, đây là màn trình diễn đột hứng cá nhân, như vẫn thường diễn ra với các khán thính giả không ghìm được sự cuồng nhiệt. Thâm tâm tôi hứa sẽ gắn lên môi gã một điếu xì gà thật to và đãi cho gã một ly Whisky đậm đặc để tưởng thưởng. Vừa lúc ấy gã ngã khuỵu xuống và tôi trông thấy một vệt máu trên áo sơ-mi gã…” “Hắn nói đúng đấy, thưa xếp,” Cuba gật mạnh cái đầu, nhe hàm răng trắng hếu ra cười, nói chen vào. “Hắn nói đúng! Bọn tôi tất bật công việc và chỉ ngưng kèn trống khi gã đó đã đi đời nhà ma trước mũi chúng tôi.” Tôi chăm chăm nhìn Wesley Stewart, “Còn anh? Có gì để nói không?” Wesley từ từ ngước nhìn tôi một cách chậm rãi. Hắn nói với tôi bằng một giọng êm dịu nhẹ nhàng, “Thưa Trung úy, xin lỗi. Ông hỏi cái gì ạ?” “Tôi hỏi anh, lời tường thuật của anh có giống như các đồng nghiệp kia không?” “Xin thứ lỗi,” hắn đáp bằng một nụ cười mơ hồ bên khóe môi. “Tôi không nghe gì sất! Tôi đang dự tính đánh vật với một bản blue thật mùi mẫn và đang phân vân có nên sử dụng cậy saxo tenor, thay vì…” “Thật đáng tiếc phải cắt ngang việc soạn hòa âm của anh, giản dị chỉ vì có một người đã bị ám sát trước mắt anh, cách đây chỉ nửa tiếng đồng hồ. Tôi rất thích được nghe cảm nghĩ của anh về sự cố này. Đại thể như anh có trông thấy kẻ sát nhân hay không và hành động của nó như thế nào lúc nó phạm tội…” “Thưa trung úy, tôi hiểu,” hắn đáp cũng với cái nhếch mép dễ thương và trầm lặng. “Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng chẳng nom thấy gì sất ngay cả lúc nạn nhân đứng sờ sờ trước mắt tôi. Khi trình tấu xuất thần một bản nhạc, xin lỗi Trung úy, người ta không còn thời gian để suy tư những vấn đề khác. Tôi không nghe tiếng la thét luôn cả tiếng súng nổ. Thậm chí đến lúc Clarence kể lại, tôi vẫn còn phân vân. Nói cho cùng tôi chỉ thấy gã đó ngã sóng soài…” “Có ai trong số các anh quen biết gã đó không?” Tôi hỏi và được cả ba trả lời bằng những cái lắc đầu. “Các anh không bao giờ trông thấy gã đến đây?” Một lần nữa, ba cái đầu lại lắc lư, hàm ý “không bao giờ!” “Các anh chưa bao giờ gặp gã ở đâu?” Cùng lúc họ đều biểu hiện: Không thấy! Không biết! “Nói chung các anh đều không biết cái gì cả? Các anh không thấy người nào đó với khẩu súng ngắn ở trong tay? Các anh không trông thấy người nào đó, bất chợt ở phía sau, bên trái cũng như bên phải?” Hừ, không một người nào thấy xuất hiện, mà có khả năng bắn một phát súng giết người trước hàng trăm cặp mắt? “Rất tiếc là phải làm ông thất vọng, thưa trung úy!” Wesley Stewart nói một cách rành rọt. “Vào lúc đó, cả ba chúng tôi đều rất bận rộn.” “Thôi được, cám ơn sự giúp đỡ của các anh.” Cả ba người đứng lên cùng một lúc và tiến tới cánh cửa cùng một bước. Họ vừa đi khuất, Polnik xuất hiện với bộ mặt đưa đám. “Diễn tiến đến đâu rồi, thưa trung úy?” “Cô chủ chẳng biết gì sất. Đó là do cô ấy nói. Còn bộ tam sên cũng… chẳng biết gì. Câu trả lời của họ là thế đấy.” Tôi ngừng nói, châm thuốc hút, rồi tiếp, “Tôi biết trước mặt tôi, họ không nói hết tất cả, nhưng biết làm thế nào được,” tôi huých tay Polnik. “Ta thử quay thằng con-lợn này xem.” Nửa phút sau, gã hầu bàn béo mỡ ngồi trước mặt tôi, trên chiếc ghế giữa hai chiếc kia vừa bỏ trống. Tôi chăm chú quan sát hắn, một gã cao to nặng nề và chắc nịch. Mái tóc đen, dày và dài thậm thượt, chắc phải được cắt sớm lắm là sáu tuần lễ trước đây mà bây giờ nếu cần tém dẹp phải dùng dao cắt cỏ. Ngồi chật ních trong chiếc ghế, hắn ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh và tôi đoán chắc không phải lần đầu tiên cớm hỏi thăm sức khỏe thằng-lợn-sữa này. Tôi nhìn thẳng vào hắn hỏi, “Lúc xảy ra án mạng anh ở đâu?” “Trong bếp. Tôi chờ mang thức ăn ra nuôi bốn con voi nan ngồi cạnh bàn ông. Joe phụ với tôi lo việc này và khi nghe tiếng hét, rồi tiếng súng nổ, ba chân bốn cẳng tôi vọt ra phòng ngoài, vừa kịp nhìn màn trình diễn của con ngựa vằn đang chao đảo trên bục sân khấu. Thế rồi, nó đổ sụp xuống như cây chuối ngã.” “Anh không trông thấy kẻ nào đó đã đứng sẵn phía sau bục diễn?” Hắn đáp không ngập ngừng, “Không! Không một ai cả, ngoại trừ ba thằng khỉ mắc phong đang hò hét hí hố ở trên đó.” “Anh không thích nhạc Jazz sao?” Hắn đáp, vẻ khinh miệt, “Không đáng một đồng xu. Tôi là mẫu người thích trầm lặng với cuộc sống ẩn dật.” Tôi mỉm cười với mớ lý sự quèn của hắn rồi trầm giọng hỏi. “Anh cho rằng gã bị quật ngã vừa rồi không do một ai cả và anh nói chưa từng gặp hắn bao giờ, có phải vậy không?” Hắn xốc lại cổ áo cao hồ bột, rồi hăm hở đáp, “Thưa trung úy, đúng phóc như vậy đó!” Tôi với tay lên mặt bàn, cầm cái bao nhỏ được tìm thấy trong túi áo vét của nạn nhân và mở ra. Bên trong chỉ còn ba que diêm. Tôi xoay xoay cái bao đó, rồi hững hờ nói, “Thứ này dùng đốt… “Pháo bông” vô người! Đến đây và trước khi chết trong vòng mười phút đồng hồ, một mình hắn có thể ngốn hết ngần ấy que diêm. Nghĩ cũng lạ…” Tôi châm thêm một điếu thuốc phun khói lên trần phòng khẽ quan sát thằng-lợn-sữa. Tôi nom thấy hắn vặn vẹo liên tục trong chiếc ghế, một lúc khá lâu hắn mới rặn từng tiếng, “Ơ.ơ, số là… có thể nó đã có đến đây, nhưng tôi không nhớ rõ…” Tôi vất mạnh điếu thuốc cháy dở vào một góc tường, trừng mắt rồi nghiêm khắc nói với hắn. “Anh cần nên mang kính và rất có thể tham dự buổi nói chuyện vui vẻ với chúng tôi tại bộ chỉ huy đội điều tra hình sự để thư giãn bộ thần kinh.” Bộ mặt tái nhợt, hắn nói lúng búng, “Đừng nói thế trung úy ơi. Tôi không muốn như vậy đâu. Tôi nhớ mặt nó, nhưng vì thấy nó dúm dó thiểu não và… làm đầu óc tôi rối bời, rồi quên khuấy đi…” “Gã đó đến đây mấy lần rồi?” “Bốn hoặc năm lần gì đó. Nó ngốn cỏ khô tợn lắm. Ngồi cách năm dãy bàn, còn ngửi thấy mùi.” “Anh tên gì?” “Booth. Eddie Booth.” “Anh trông thấy nó đến đây nhiều lần. Thế mà, khi tôi hỏi, anh chối bai bải rằng không thấy, không biết. Vậy kẻ nào đã hốt hồn khiến anh lú lẫn đến thế?” “Tôi không biết. Tôi luống cuống quá. Tôi…” “Anh làm như vậy chỉ vì không muốn rời khỏi nơi đây, phải vậy không? Một phần cũng vì miếng cơm manh áo, đúng không? Lúc cô chủ đứng sau lưng tôi, anh nghĩ rằng tốt hơn đừng nên cựa quậy cái lưỡi để tránh tai bay họa gửi, do đó chối phăng rằng không thấy, không biết. Đúng vậy không?” Hắn nuốt nước bọt một cách khó khăn. “Trưng úy quay tôi căng quá…” “Anh không thấy, không biết gì hết! Chờ tôi lột toẹt móng heo mới chịu ngóp ngoáp cái miệng cá hô của anh ra. Vậy là thế nào?” “Thưa trung úy, cô chủ không muốn có chuyện rắc rối trong quán,” hắn lập lại. “Không phải tới bây giờ tôi mới nom thấy gã đó. Thoạt nhìn tôi đã tự nói: Thằng này xơi thuốc…” “Chơi ông hít?” “Thưa vâng, đúng vậy! Một thằng xì ke hết cỡ, lúc nào nó cũng phi. Ông thừa biết có những thằng như vậy đó. Tôi đã đoán ngay sớm muộn gì nó cũng sanh lắm chuyện rầy rà.” “Nó tên gì nhỉ? Cái thằng xì ke đó?” “Thậm chí đến cái tên của nó tôi chẳng thèm để ý tới. Quả thật tôi không biết!” “Thật vậy sao?” “Đúng vậy!” “Thôi, kể tiếp nghe.” “Nó đến thì thầm với Minuit,” hắn hạ thấp giọng. “Tôi thấy cô ấy tỏ vẻ không hài lòng, nhưng vẫn lắng nghe. Nếu hỏi tại sao thì tôi đếch biết.” “Nó thuỗn được cái gì đó? Nó biết được cái gì về cô chủ của anh?” “Tôi hoàn toàn không biết. Vả lại tôi không muốn dây mơ rễ má vào việc của người khác, thưa trung úy. Ở đây tôi chỉ là người làm công. Có thể gã đó biết được những mánh mung gì đó chăng? Nhưng có lẽ là không.” “Nó đến trò chuyện với cô ấy ngay trong phòng này, ở bên ngoài hay ở bàn ăn?” “Nó đến hầu như một lần trong tuần và lần thứ nhất cách nay một tháng. Nó ngồi được một lát, rồi cho biết muốn gặp Minuit. Hai lần sau này, nó vào thẳng trong phòng làm việc và ở lại đó khoảng hai mươi phút, rồi ra về.” “Cô chủ của anh không bao giờ đi ra ngoài chung với nó?” Hắn lắc đầu một cách dứt khoát, “Không! Cô chủ không bao giờ rời khỏi quán trước giờ quán nghỉ bán, nói cách khác là ba giờ sáng. Gã đó, nó ra đi khoảng một giờ hoặc muộn hơn một chút.” “Anh có biết nó ở đâu không?” “Tôi đã nói, thưa trung úy. Cả tên của nó tôi còn không rõ, nói chi chuyện nhà cửa.” “Được lắm, Eddie. Hết rồi chứ?” “Tất cả những gì tôi đã biết. Xem như hết.” “Rất tốt. Bây giờ thì anh có thể đi nghỉ. Đừng băn khoăn gì cả!” Eddie lưỡng lự một lúc, “Ông có định nói chuyện với Minuit không?” “Anh có ý kiến gì bổ sung?” Hắn nói với vẻ đăm chiêu, “Tôi sợ sẽ có ảnh hưởng không hay đến việc làm của tôi ở đây, nếu ông đem chuyện tôi vừa ton hót ra cật vấn cô chủ.” “Eddie, tôi sẽ xoay sở với khả năng sẵn có, bởi vì anh tỏ ra thành thật với tôi.” Eddie Booth trầm ngâm rất lâu về việc này. Hắn tỏ ra không mấy tin tưởng. “Thôi được, xin chào trung úy.” Hắn nói và xoay tay trên cái đấm cửa, mở cửa ra, rồi lặng lẽ rút lui. Tôi cho gọi người gác đêm vào phòng, cật vấn gã về những điều Eddie Booth vừa tiết lộ thì được người này gật đầu xác nhận. Tôi cám ơn, rồi cho lão trở ra vị trí làm việc. Tôi bước ra dãy hành lang, đi về phía sân khấu, ba gã nhạc công đã trở lại chỗ thường xuyên của họ, trên bục diễn. Clarence đang nắn nót cái chế âm trên cây đại hồ cầm. Cuba Carter vỗ nhẹ lên mặt trống một bản swing có nội dung và Wesley vẫn ngồi trầm tư với những u hoài, đôi mắt nhắm nghiền như tham thiền nhập định. Minuit đang đứng thị sát cho người làm lau sạch vết máu trên ván sàn. Số khán thính giả bị giữ lại trước khi Polnik và người của hắn đến, đang ngồi rải rác đó đây, vẻ chán chường mệt mỏi và chắc chắn họ đã tỉnh rượu rồi. Tôi rút bút và sổ tay ghi tên họ, địa chỉ của từng người, rồi quay lại nói với Polnik, “Anh có cần hỏi gì không hay để họ về?” “Ta nên để họ tự do ra về!” Tôi đứng trước bục diễn, quan sát tò mò từng nơi. Ít phút sau, Polruk trở lại đứng cạnh tôi và nói, “Thưa trung úy, tôi còn việc gì khác để làm hay không?” “Hãy chia sẻ với tôi vài suy đoán. Chúng ta đang đứng đối diện bục diễn. Đúng không nào?” “Thưa trung úy, đúng ạ,” Polnik trả lời không chần chừ do dự. “Phía trái sân khấu có hai cánh cửa. Một dẫn vào phòng làm việc của cô chủ và cái kia thì thẳng vào nhà bếp. Không còn một cánh cửa nào khác. Đúng không nào?” “Thưa trung úy, đúng!” “Nạn nhân trước khi biến thành xác chết, phải đứng phía sau bục diễn và là nơi kẻ nào đó từ phía trên bắn thẳng vào hắn, ngay tim. Sau đó nạn nhân mang vết thương tiến tới trước bục diễn, trước mặt các nhạc công, rồi loạng choạng ngã choài xuống.” “Thưa trung úy, đúng vậy!” “Cả ba nhạc công đều không thấy nạn nhân trước khi hắn xuất hiện, vì họ đang chú ý vào việc trình diễn. Minuit O’Hara trong phòng làm việc, còn gã hầu bàn Eddie Booth đang ở trong bếp. Trong khi đó, thủ phạm không thể từ phía trên để bắn xuống nạn nhân vì khán giả bên dưới sẽ phát hiện ra hắn ngay. Giả thử khán giả không trông thấy, viên đạn chỉ xoáy xuống chân, chứ không thể đi trực diện vào ngực nạn nhân được.” “Thưa trung úy, đúng!” “Thủ phạm không thể đứng đối diện với nạn nhân phía sau bục diễn vì ở đây quá hẹp không có nơi để đứng. Dầu có đứng được chăng nữa thì nạn nhân sẽ trông thấy và la toáng lên ngay.” “Thưa trung úy, đúng vậy.” “Giả thiết hoàn toàn vô lý! Viên đạn không thể bắn vòng cầu, bay ngang qua đầu ba nhạc công để chui thẳng vào ngực nạn nhân được?” Vậy thì thủ phạm ở đâu và đứng chỗ nào. “Ơ…” Polnik chớp chớp mắt gãi đầu ngẩn ngơ. “Như vậy anh cũng thắc mắc, phân vân như tôi?” “Không có khẩu súng ở dưới chân hay vất nơi đâu đó,” Polnik nhận xét. “Như vậy không phải nó tự sát, phải không?” “Tôi không loại trừ giả thiết nó có khả năng tự sát. Còn khẩu súng thì nó nhét luôn vào bụng rồi. Ngoại trừ cuộc giải phẫu xác minh ngược lại, tôi mới chịu mình sai lầm. Trong khi chờ đợi kết quả, tôi trở vào phòng Minuit O’Hara để có mẩu chuyện nho nhỏ với nàng. Xem ra cô nàng không nồng nhiệt lắm đối với tôi.” Polnik nghi ngờ giả thiết của tôi, hắn lắc đầu làu bàu, “Ông nói bông đùa, thưa trung úy!” Phía sau tôi có tiếng đằng hắng ầm ĩ và Hammond xuất hiện. Hắn nhướn cặp mày chổi xể nhìn Polnik và nói mỉa mai, “Ông trung úy thích đùa dai, luôn cả với một nhân viên công lực đang thừa hành phận sự! Bởi vì ông ấy chỉ có cách bông lơn đó là tuyệt hảo thôi.” Tôi quay lưng lại và hỏi Hammond, “Cậu đến đây khá lâu và đứng rình rập sau lưng tôi, phải không?” “Thôi, đủ rồi. Cậu cũng đừng quan tâm đến việc đi hỏi chuyện với Minuit O’Hara vì việc này đã có tôi lo.” “Được thôi, hãy theo tôi vào văn phòng và tôi sẽ tường thuật lại cậu nghe diễn tiến mọi việc.” Tôi hướng dẫn Hammond vào phòng Minuit O’Hara. Hắn tiến thẳng đến chiếc bàn rồi chễm chệ ngồi vào chiếc ghế bành to sù và tiện nghi nhất quan sát tôi bằng cái nhìn oai nghi của viên chủ tịch hội đồng quản trị. “Thế nào, Wheeler! Có gì cho không?” “Không, hôm nay thì không cho. Tôi còn nhiều người khác đói khổ hơn.” Hammond mắt đỏ gay, miệng gầm gừ như chó bị giẫm phải đuôi, “Thôi đi, đừng làm bộ ngờ nghệch. Wheeler! Anh đã ở đây quá lâu trong cuộc điều tra này! Hãy cho tôi biết cái cách anh đã phăng ra đầu mối của nó như thế nào rồi! Tôi nghĩ việc này không trì trệ đến một phút.” “Đúng, thậm chí không hơn ba mươi giây,” tôi nói. Sau đó tôi kể hắn nghe từ lúc gã thanh niên bất hạnh lìa đời đến các việc tôi đã làm theo đúng thủ tục thường lệ. Tôi thấy thái độ của Hammond tỏ vẻ có ý lắng nghe nhưng thật ra chẳng để một câu nào lọt vào tai và tôi không thể phản đôi thái độ này của hắn được. Tôi kết luận, “Bây giờ đến lượt cậu trổ tài thám tử. Tôi chúc cậu được nhiều may mắn, bởi vì cậu có vẻ cần đến điều này, hơn cả mọi người cảnh sát tận tụy khác!” Nói xong, tôi quay lưng định bước ra. “Tôi thấy việc này không có gì gọi là khó khăn phức tạp cả, Wheeler,” hắn nói, sau cái mỉm cười khinh miệt. “Theo ý kiến của tớ, chẳng còn ai ngoài người đàn bà…” Tôi quạt ngay, “Minuit O’Hara à? Ôi, thật là một sáng kiến siêu phàm! Đúng rồi, sau khi hạ sát nạn nhân, có thể cô ả đã giấu khẩu súng vào cái chỗ rậm rịt nằm bên trong sợi dây thắt bít tất. Nếu cậu cần một tay trợ thủ đắc lực, tớ xin tình nguyện được khám chỗ đó. Suy cho cùng, tớ vẫn là chuyên gia về việc này.” “Cút đi, ma mãnh!” “Thì tớ đang làm đây!” Tôi đáp lại và lắc đầu, nói với vẻ xem thường. “Tôi không xét trước câu “có gì cho không?” nhưng phải nói tôi trì độn trong vụ này. Cậu là người tế nhị, Hammond ạ.” Tôi bước nhanh ra khỏi phòng và gặp ngay Annabelle Jackson đang chống cằm ngồi ủ rũ cạnh chiếc bàn chúng tôi ngồi. Cô ngước lên, nom thấy tôi liền mở ngay trận giặc Nam-Bắc tranh với tôi trong vai Lincoln, chỉ còn thiếu hàm râu, dĩ nhiên. Tôi nói, “Mọi việc đã xong cả rồi!” Annabelle liền nạp đạn, “Anh không còn câu nào khác để nói sao?” Tôi đáp nhẹ để cầu hòa, “Nhiệm vụ là trên hết. Thôi, đừng nhắc tới nữa, em yêu ạ…” Annabelle chịu thua, cô ấm ức nói, “Anh có nghĩ rằng, anh là người duy nhất đã làm em rớt nước mắt không?” Tôi cúi đầu nhìn nhận, “Một lời nói đúng của em hơn trăm câu thừa. Thôi, chúng ta rời khỏi nơi này, không khéo Hammond làm thêm một án mạng thứ hai để thử giải quyết cái thứ nhất đang làm hắn ngập lên tới cổ!” Hai đứa chui nhanh vào một chiếc tắc-xi và trên đoạn đường về nhà, cô ả đã hoạnh họe tôi đủ mọi thứ chuyện. Khi xe dừng lại trước cổng nhà tôi và tôi vừa bước xuống, cô ả chìa món tóc vàng bạch kim ra khỏi cửa xe, bắn một phát xanh dờn, “Anh đã để em ngồi ngóng dài cả cổ. Trong khi đó anh chui vào cái lỗ… để làm trò đú đởn với con nộm kia!” Nói xong, cô đóng nhanh cửa đánh sầm. Đứng bên ngoài, tôi nhún vai và phản pháo lại, “Hừ, tất cả đàn bà đều cùng một giuộc như nhau,” tôi nhớ tới Minuit O’Hara, nên làu bàu. “Nửa đêm, điểm hẹn hò không thể thiếu. Rồi đây Minuit sẽ không phải múa hót nữa…” “À thì ra dê cụ giả bộ cừu non!” “Không hiểu tại sao em gay gắt thế? Trong khi Minuit làm anh phải tránh, còn em thì hăm hở nhảy vào Jazz…” Annabelle trả lời bằng tiếng máy nổ của chiếc tắc-xi và vút đi mất dạng. Tôi vẫn còn lẩm bẩm nói với theo, “Anh điện thoại đến nhà xe và bắt nó phải sẵn sàng chờ anh vào sáng sớm ngày mai.” ✧ ✧ ✧ ✧ ✧ Ngồi thư giãn trong chiếc ghế bành da, tay cầm cốc pha lê sóng sánh Whisky, tay kia điếu thuốc lá tỏa mùi thơm phức, tôi lim dim đôi mắt thả hồn theo tiếng hát của Peggy Le trong bản nhạc “Black coffee” đang lan tỏa quanh bốn bức tường nhờ một máy lọc âm hiện đại. Điện thoại reo vội vã. Tôi chồm người lên chiếc bàn cạnh giường ngủ bốc ống nghe và nói ngay, “Không! Em yêu ơi, anh không giận em đâu. Trách hờn là độc dược giũa mòn cơ thể. Anh chẳng muốn thế đâu. Coi kìa, lúc nào anh cũng yêu thương chiều chuộng em mà. Ôi…” “Wheeler!” Tôi nghe tiếng gầm dữ dội, giọng kinh khiếp của một người đàn ông mà tôi rõ như lòng bàn tay của mình. Lạy chúa, tôi vội vàng buông nhẹ ống nghe xuống và nghĩ thầm, nhưng không mấy hy vọng, “Lão buông tha cho mình rồi…” “Wheeler!” Giọng chói tai đó lại vang lên và tôi nhận ra như tiếng sủa trong các kỳ triển lãm các chú khuyển. “Cảnh sát trưởng Lavers đang ở đầu dây…” “Có chắc không?” Tôi cố ý châm chọc. Tiếng gầm bên kia đầu dây lại càng khạc to, khiến tôi phải đưa xa ống nghe ra, “Không phải lúc đùa đâu, Wheeler. Phải ba chân bốn cẳng đến đây ngay lập tức. Không được trì hưỡn! Rõ chưa?” “Rõ, thưa sếp! Nhưng để đầu giờ sáng mai được chứ?” “Hừm! Tôi nói ngay lập tức và nên bổ sung để anh dỏng tai mà nghe cho rõ. Đầu giờ sáng mai có nghĩa là ngay bây giờ! Rõ chưa?” “Thưa sếp… rõ ạ…” T 4 ôi cầm điếu thuốc, uể oải đi dọc theo các dãy hành lang phòng việc của Lavers, cái lão đã bốc tôi ra khỏi giấc mơ với những nàng tiên tóc vàng. Tôi băng qua nhà tiền sảnh, đặt tay lên nắm cửa phòng làm việc của Lavers, bỗng nghe bên trong có tiếng người nói vọng ra. Tôi ngồi thỏm vào chiếc ghế da trông thấy đầu tiên, châm lửa điếu thuốc đã cầm mãi trên tay với những ý nghĩ không thể bộc lộ ra với lão cẩm hắc ám của hội đồng thành phố này. Năm phút sau, cánh cửa mở và hiện ra một nhân vật đường bệ cao lớn, gầy trơ xương như bó củi khô. Món tóc xám chải chuốt tinh tươm láng lưỡng, mũi cánh chim dài ngoẵng và hai cái môi dường như không có sự hiện diện của nó trên một gương mặt dương dương tự đắc này đang khệnh khạng bước đi trong bộ sậu may cắt đắt tiền, áo sơ-mi khít khao vừa vặn và cà vạt bằng tơ in hoa hồng kiểu mới. Lúc đi ngang qua tôi, lão vênh váo bộ mặt xem như tôi không còn hiện diện trên cõi ô trọc này. Của đáng tội và tôi chẳng lạ lùng làm gì. Lão biết tỏng tôi là thứ tép riu trong đám thuộc hạ của lão Lavers, chẳng là cái thá gì cả. Lavers chờ lão biến dạng, mới làm hiệu cho tôi bước vào phòng. Tôi chưa kịp mở miệng “Chào sếp” thì lão đã nói ngay, môi trễ ra vì ngậm điếu xì gà. “Mừng cho anh đã biết đến đúng lúc đấy.” Tôi ngồi phịch vào chiếc ghế bọc da êm ái dành cho khách còn hơi nóng và cẩn thận tránh cái nhìn như móc ruột xé gan người ta của lão chánh cẩm, cái lão đã làm tôi mất nhiệt khí trong lần hội kiến vừa qua. Miệng vẫn còn hờ hững ngậm điếu xì gà, đột nhiên lão châm câu, “Cái xác chết anh vừa phát hiện trong đêm nay,” lão lầm bầm cái gì trong miệng như nhai đá. “Tốt hơn anh nên nhích chân thêm tí nữa, vậy có được không?” Tôi nhanh nhẩu trả lời, “Nếu vì chuyện này mà ông dựng tôi dậy, tôi xin tán thành hai tay.” Lão dộng tiếp một câu, “Cái tên Landis có nói lên cho anh một cái gì đấy chứ?” Tôi gật đầu hời hợt, nói sau cái bĩu môi, “Hẳn nhiên. Lão chủ nhân hách xì xằng của tờ lá cải “La tribune”.” “Đây là nhân vật đường bệ anh vừa chạm mặt và cũng vừa rời khỏi nơi này. Cái xác chết mà anh tình cờ phát hiện là John Landis, quí tử của nhà Landis!” “Sếp muốn nói cái gã nghiện ngập… gã…” “Cái gã sa đà tha hóa, cái gã xì ke bét hạng là cái từ anh muốn nói chứ gì? Nhưng tôi xin anh, nó vẫn là cậu ấm của nhà Landis, dù là chiếc ấm sứt! Ngài Landis đòi phải phục thù rửa hận, đòi công lý phải nghiêm trị kẻ giết người. Này, anh xem đây những bài báo bênh vực công lý của ngài Landis.” “Ngài Landis và tờ… lá cải của lão!” Sếp ngả-lưng vào ghế tựa trục xoay, khoanh hai tay như khúc dồi trên bộ ngực hộ pháp, nhìn tôi chăm chăm trước khi thuyết giảng, “Ngài Daniel Landis là một trong những nhân vật nổi cộm của thành phố chúng ta. Ngài có trong tay một thế lực đáng gờm, một sức mạnh huyền bí có thể đánh bật tất cả mọi sự manh nha nào nếu có, làm hoen ố thanh danh của ngài mà tờ ‘La Tribune’ là mũi xung kích vô cùng bén nhạy, sẵn sàng quật ngã đối thủ…” Tôi đổ thêm dầu, “Vì là một con người có thể bò lọt qua bất cứ một lỗ kim nào, cộng thêm số tài sản kếch sù đáng ngại, nên lão mặc tình làm mưa làm gió…” Lavers khoát hai bàn tay lông lá no tròn làm hiệu bảo tôi dừng lại, rồi lão nói với gương mặt nói màu ớt chín, “Tôi nghĩ rằng tôi nói cũng khá rõ rồi Wheeler. Chả nhẽ tôi phải lặp lại rằng không một kẻ nào dám chống lại ngài Landis!” Tôi nổi máu dế mèn, sừng sộ, “Không ai có thể nói rõ hơn thế, thưa sếp. Tôi bắt đầu nghi ngờ táo bạo rằng đó cũng là lý do ông gọi tôi đến?” “Không! Trung úy Hammond đã là người chính thức được chọn điều tra vụ này!” Sếp ngừng nói, vặn vẹo một cách khó khăn trong chiếc ghế trục xoay, ưỡn mình hít một hơi dài, rồi nói gằn từng tiếng, “Dù Hammond đã được ủy thác, nhưng tôi thích làm theo cái cách của tôi,” sếp giơ tay chỉ vào đầu, “và nó đang ở trong này nè. Anh phải đích thân tiến hành điều tra, tóm cổ ngay bất cứ con đàn bà hoặc thằng chó đẻ nào đã nhẫn tâm sát hại Johnny Landis. Nếu không đưa được bọn chúng vào xà lim trong vòng một tuần lễ, trước tiên tôi sẽ xin tòa thị chính thu nhận vào làm thằng lau sàn gạch.” Lão ngừng nói để thở, trỏ tay vào mặt tôi và tiếp, “Còn anh cũng nên chuẩn bị trước một nghề ngỗng gì đó, nếu không thanh toán mau chóng vụ này!” Tôi đứng bật lên, phản đội, “Ơ kìa vụ này có dính dáng gì đến tôi đâu trong khi đã có Hammond?” Lavers khoát tay bảo tôi ngồi xuống, rồi thẳng thừng nói, “Anh chăm lo quyền lợi của tôi… và luôn của anh nữa. Nếu Landis có quyền nhích văng cái ghế cảnh sát trưởng của tôi, thì dù cho anh có vẽ ra trăm nghìn bức tranh và đưa lời giải thích, cái lon trung úy quèn của anh trong đội điều tra hình sự này cũng đi tong!” “Tôi hiểu rồi, sếp làm tôi rầu lòng quá. Vậy thì tôi phải làm gì đây? Tôi làm việc với Hammond hay là…” “Một cách chính thức, Hammond đang bắt tay vào việc này. Một cách không chính thức anh theo dõi nó cho tôi. Dễ thôi! Nếu Hammond thất bại, vẫn một cách không chính thức, anh phải tiếp tục cho đến nơi đến chốn, mà phải thật chóng vánh. Hiểu rồi chứ?” Tôi gật đầu và chua chát nói, “Hiểu! Đó là điều Hammond hài lòng nhiều lắm.” Lavers ngạc nhiên, “Anh và Hammond không “ăn ý” nhau từ lúc nào thế?” “Đơn giản tôi muốn biết tôi ở vào vị trí nào và chỗ nào tôi không được ở,” tôi nhìn Lavers, đưa câu hỏi. “Do đâu người ta khám phá ra được, xác chết là con trai của Landis?” “Lúc anh ra về, một cô ả đỏng đảnh đã hót nhẹ vào tai Hammond và tôi chuyển tin tức hấp dẫn này ngay cho ngài Landis…” “Cô gái đó tên gì?” “Một cái tên kỳ quái, để tôi nhớ xem. Như chừng “Vành trăng sáng” hay đại loại gì gì đó về ban đêm. Không rõ có đúng không?” “Nàng Minuit - Nửa đêm?” “Ừ, đúng đấy!” “Cô ả còn nói gì thêm với hắn nữa không?” “Rằng cái gã có tên Landis đã nhiễu sự với ả quá nhiều. Gã huênh hoang Daniel Landis là người trong cánh họ và vì vậy, cô ả buộc phải miễn cưỡng để gã yêu. Ả chỉ than phiền cái thằng trời đánh mất dạy đó đã làm ồn ào mất trật tự trong hộp đêm của ả.” “Theo cô ả, người nào có khả năng hạ sát gã đó?” Lavers nhún cặp vai to bè, lắc đầu chán nản, “Tất cả mọi người đều muốn thịt thằng đó, chỉ cần thấy mặt nó một lần.” “Đây là những đầu mối Hammond moi được nơi nàng Minuit?” “Gần như chỉ có vậy. Hammond đã thất bại khi đinh ninh rằng cô ả là thủ phạm. Hắn có cho một nữ nhân viên của chúng ta đi thăm dò lục lạo về cô ả nhưng không ăn thua.” “Vì cái vỏ bọc ngoài của cô ả quá cứng. Sếp có ngạc nhiên về nhận xét này của tôi không?” “Tôi muốn nói hiện giờ cô ả chưa được “đánh bóng”. Tôi mong rằng anh đừng làm rối tung lên về điều thuận lợi này.” “Tôi phải hết sức vất vả với một cô gái tóc vàng, lúc xếp gọi dây nói đến. Tôi khẩn khoản yêu cầu sếp miễn cho tôi khỏi phải đầu tư thêm vào cái mục đó để phục vụ theo ý đồ của sếp.” Lavers bóc tờ giấy kiếng bọc xì gà, nhăm nhăm đầu thuốc, rồi bật lửa. Lão chậm rãi lật từng trang giấy trên mặt bàn, rút ra một tờ, rồi thong thả nói, “Đây là mẫu báo cáo kết quả khám nghiệm tử thi.” Lão lấy kính tra lên mắt, lẩm bẩm đọc. “Đầu đạn 22 ly. Không thấy dấu vết ma túy.” Lão giở kính xuống đặt lên mặt bàn, hai tay khoanh tròn trước ngực, nhìn tôi và tiếp, “Chưa tiêm ma túy, thậm chí chưa qua thời kỳ đậm đà cần sa. Kết quả như thế đấy!” Tôi nói mỉa, “Chà, đây hẳn là niềm an ủi nhẹ nhàng nhất cho lão bố!” Lavers rứt vài hơi xì gà, dùng lưỡi đẩy nó sang bên mép, lão nói như ngọng, “Sự thể như thế đấy. Chúng ta đừng mơ hão, Wheeler, và không nên chảy dãi vào chuyện đó. Anh, tôi và tất cả những người phụ trách điều tra vụ này cũng vậy nữa. Không ai chịu nghe chúng ta suy luận phản lại một sự giám định như thế đâu. Tốt hơn chúng ta nên hướng cuộc điều tra vào một điểm khác…” “Thế thì cái chết của cậu con tác động Landis ở điểm nào?” “Lão cóc cần cái chết của con lão,” giọng nói của Lavers trở nên chua chát. “Chỉ có thanh danh của lão là trên hết. Một vụ nghiêm trọng như thế sẽ có nguy cơ làm hoen ố thanh danh của lão. Do đó lão nằng nặc đòi phải trả thù. Đây là điều anh phải căng các nếp nhăn trong óc của anh ra, bắt nó phải làm việc ngay lập tức.” “Sếp nên gọi tên tôi là Archimède. Tôi sắp vào bồn tắm đây.” Lavers nhăn nhúm mặt, “Không phải máu mà là những giọt đá băng đang lưu chảy trong các tĩnh mạch của Landis. Lão xem cái xác tê cóng của đứa con trai cũng ngang bằng những tờ giấy bạc lão đã rút tỉa ra từ tờ con vịt “La tribune”. Nó chết vừa kịp lúc để không phải nghe ông bố nói một câu như thế. Người ta nghĩ lão rất hài lòng vì đã không lầm!” “Ôi, một người cha chí tình tận nghĩa!” “Wheeler, hãy nghe tôi nói. Điều duy nhất chúng ta có thể xoáy vào là chuyện Daniel Landis đã truất quyền thừa kế của cậu con từ hơn ba tháng nay, sau cái ngày khám phá ra cậu quí tử hít cần sa.” “Đúng là một ông bố mẫu mực, một người cha dễ thương đáo để. Nhất định là dễ thương vì trong suốt thời gian ba tháng gần đây, lão không ngó ngàng gì đến sinh hoạt đời sống và nơi trú ngụ của cậu con…” Lavers búng tàn xì gà vào cái gạt kim loại trên bàn, thư thả nói tiếp, giọng trầm trầm, “Trong khi hàng tháng lão rót vào tài khoản ngân hàng mấy trăm đôn, thế đây! Lão tin chắc rằng thằng con trời đánh của lão đã rơi xuống vũng bùn và đang lặn ngụp ở trong đó, từ ba tháng nay. Thậm chí lão còn cầu cho nó xơi đạn chì vì không trang trải nổi số nợ cho bọn đã cung cấp thuốc lắc cho nó để chơi bời.” “Thế còn bà Landis? Bà ấy hành động ra sao?” “Bà ấy chẳng hành động gì sất. Bà về chầu tiên tổ rồi!” “Bà ấy rảnh nợ đời kịp lúc.” “Thế nhưng, lão còn một cô con gái. Cô chiêu nhỏ hơn cậu ấm sứt khoảng năm sáu tuổi gì đó. Cô đang ở chung với lão bố. Có thể ở đây ra lão bươn bả về nhà để thông tin cho con gái.” “Một con người như thế làm cố vấn đạo đức cho thành phố nghĩ cũng lạ. Chẳng rõ lão nuốt phiếu bầu của cử tri qua lối nào?” Lavers với tay dụi điếu xì gà vào gạt tàn, vươn vai thoải mái, rồi nhìn tôi nghiêm trang đưa một sáng kiến, “Rồi đây, tôi nghĩ anh cũng nên làm một chuyến viếng thăm xã giao đứa con gái của lão Landis. Biết đâu cô ả chẳng phun ra cái gì đó hữu ích liên quan đến hành động của người anh bất hạnh trong vòng ba tháng nay.” “Không, tôi nghĩ việc này phải để Hammond làm mới đúng. Dầu sao hắn cũng là…” Lavers xua tay như đuổi ruồi, mặt lão như bị kim chích nổi những chấm đỏ li ti. Lão kêu ăng ẳng, “Chẳng là cái gì cả, cái gã Hammond ấy đấy. Tôi không cần gã đó phải làm hay không làm.” Wheeler, anh làm việc cho tôi và anh phải làm điều gì do tôi ra lệnh! Rõ chưa? Tôi gãi tai gật đầu, vẻ mặt nhăn nhúm, “Rõ, thưa sếp. Nhưng giả thử tôi đụng đầu Hammond tại bục cửa nhà Landis thì thế nào? Chuyện này nhiêu khê cho tôi quá.” “Đừng nên quan tâm. Chuyện đó không bao giờ xảy ra đâu.” “Nhưng tôi vẫn nghi ngờ. Hammond không đến nơi đó, có thể hắn đã được thông báo trước một điều gì. Không hay đâu!” “Chúng ta tức là toàn Đội Điều tra hình sự ở đây có trách nhiệm phải gửi cho Landis tờ tường trình đầy đủ về các phương án sắp tiến hành trong cuộc điều tra này.” Lavers nhún vai ngán ngẩm, nói tiếp, “Chắc chắn Landis sẽ không thèm để mắt dò hỏi gì nơi cô con gái.” “Nhưng chắc mẻm lão sẽ để mắt vào tôi, cái thằng thò mũi vào việc này, mà lão thừa biết tôi không có nghĩa vụ gì cả. Và rồi, sếp chỉ còn có nước hạ cố xin lỗi lão già, ca cẩm rằng cái thằng láu cá Wheeler đã làm một việc hết sức ngu đần. Dĩ nhiên lúc ấy lão sẽ xắn tay áo và quật tôi như ngóe. Căng đấy sếp!” Lavers nhăn mặt, “Wheeler, anh thấy toàn màu đen.” Rồi lão đánh lá bài chết tiệt. “Cùng lắm là anh lãnh một giây khiển trách, chỉ có thế thôi.” Tôi nhếch miệng cười chua chát, “Bây giờ tôi mới rõ người ta nói thế nào là con vật dùng để hy sinh. Tôi đang bê cái chậu ở trên tay và đưa cổ ra để sếp chọc tiết đây.” Lavers không để tai vào việc này, lão đang cuống quít về việc của lão, “Này Wheeler, hãy động não lên, thử bỏ cái này vô đầu anh một lần xem!” Lão lại rống to. “Công việc này cần phải được thanh toán nhanh.” Không nhằm nhò gì đến một số sĩ quan có thể bay lon mất chức vì nó! Tôi đăm chiêu búng mấy ngón tay vào nhau, cố nặn một nụ cười và hót, “Điều làm tôi thấy thích thú là được làm việc với sếp. Tôi đang cảm thấy được nâng đỡ quá mức…” Sếp nghe vừa ý, ngoác miệng ra cười và nói, “Ấy đấy, nhưng cho qua đi! Lưu ý anh, ở Đội Điều tra hình sự anh được nổi tiếng là một cớm không thích nghi. Đây là lúc hoặc chẳng bao giờ anh chuộc lại danh dự…” L 5 úc tôi đưa chiếc Austin Healey vào bãi đỗ trước bản doanh gia đình Landis, bầu trời buổi sáng nhuộm màu xám tro như bức rèm treo ở nhà táng. Trú khu là tòa nhà làm một trang viện lâu đời của Anh quốc. Hai tầng lầu chênh chếch với những dãy đầu hồi bằng gỗ sồi chạm trổ tinh vi mang tính nghệ thuật trung đại và những bộ xà cột thời nữ hoàng Victoria như thách thức ai đó rằng ta đây này! Ngôi độc cư sừng sững giữa hoa viên nhỏ được bao quanh bằng một bức rào trồng nhiều loại cây lạ cắt xén công phu lại được tô điểm thêm một chiếc hồ nhân tạo có gắn bảy con thiên nga trắng. Tôi bước lên thềm, trên những bậc thang bằng gang và giơ tay ấn lên cái nút đặt sát bên cánh cửa to sù bằng gỗ nụ láng bóng, nhưng tôi thất vọng, không nghe nó dội lại tiếng nào, dù là tiếng chuông gọi hồn. Thì ra bên cạnh nó, còn một cái chuông chùm. Tôi kê tay kéo lia lên nó, như giật chuông nhà thờ. Ít phút sau, khi đã đẩy cái then sang một bên và cánh cửa mở rộng, một gã quản gia kẻng trai xuất hiện và đứng ngay bục cửa. Gã nhìn tôi bằng cặp mắt khinh nhờn, một lát sau gã mới hở miệng nói như cái môi vừa bị cắt qua chiếc ly mẻ, “Chào ông,” giọng của gã khinh khỉnh. “Tôi e rằng những người đại diện chào hàng sẽ không được…” Tôi bước tới hai bước và nói với gã cũng bằng giọng khinh khỉnh, “Tôi vừa chọn được một vòi nước tự động dành cho một thành viên trong gia đình này. Tôi muốn gặp cô Landis một chập.” Gã trả lời, giọng dứt khoát, “Không thể được! Nhà này đang có tang.” Tôi bước tới sát gã, nói giọng nghiêm chỉnh, “Hãy vào trình, tôi là nhân chứng trong cái chết này, là Trung úy Wheeler thuộc Đội Điều tra hình sự.” Tôi nhá ra cho gã thấy chiếc phù hiệu chứng minh tôi là cớm thứ thiệt hay ít ra nó cũng nói lên có thể tôi vừa thịt một nhân mạng nào đó. Tôi nhét phù hiệu trở vào ve áo, rồi gằn giọng, “Tôi cần gặp cô Landis. Nói rõ hơn, chúng tôi yêu cầu điều đó!” Gã lui lại một bước, vẻ phục thiện, “Được thôi, thưa trung úy. Ông đi theo tôi chứ?” Tôi đi theo gã dọc theo một hành lang khá dài lát ván sàn bằng gỗ rồi đánh véc ni láng lưỡng, đến một chân cầu thang có đặt bộ giáp trụ sét gỉ và đi vòng qua phía kia là gian tiền sảnh cũng lát gỗ hình cánh chéo rất tinh vi đến tận chân cầu thang. Gã dừng lại tại đây và lễ phép nói, “Xin ông vui lòng chờ. Tôi đi thông báo.” Tôi gật đầu và nghĩ thầm, màn trình diễn truyền hình của mình sắp bắt đầu. Gã quản gia bước ra và khép cánh cửa lại phía sau lưng với một sự êm ái nhẹ nhàng đáng sợ. Tôi châm một điếu thuốc và ngồi ngắm cảnh trí trong ngôi tiền sảnh với nỗi phân vân. Nơi này không khéo được dùng làm phòng treo áo. Khoảng năm phút sau gã quản gia trở lại và đi như bơi đến trước mặt tôi, “Cô nương sẽ tiếp ông trong gian phòng khách nhỏ, thưa trung úy. Xin ông vui lòng đi theo tôi.” ✧ ✧ ✧ ✧ ✧ Phòng khách nhỏ được lát gỗ bách hương có những nét chặt góc hoa văn theo kiểu xưa. Một lò sưởi được xây bằng gỗ nâu sậm đánh véc ni bóng. Bức vách bên đây là khẩu súng hỏa mai của thế kỷ mười bảy và bên kia là bức chân dung một nhà quí tộc gương mặt vui vẻ đang toét miệng cười. Tôi hiểu được cái không khí sầu thảm của gian phòng. Bây giờ, mọi tiếng cười trong nhà này đều là bất nhã. Một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ dày cộm trải giữa nền phòng và trên tấm thảm ngự trị một chiếc tràng kỷ xưa với bốn ghế bành to rộng bọc vải hoa nhiều màu sắc rực rỡ không thích hợp kiểu mẫu thời thượng của chiếc ghế bành. Tôi lục tìm đôi mắt người thiếu nữ trong ngôi nhà. Người tôi quyết định gặp, tóc màu hung mướt rượt búi cao sau chiếc áo dài đen cao cổ, đang kín đáo sụt sùi sau chiếc mùi xoa đăng ten trắng. “Tiểu thư sẽ trở lại đây trong giây lát.” Gã quản gia nói khẽ bên tai tôi, trước khi lịch sự rút lui đúng phong thái lịch lãm như tất cả những người quản gia khác. Tôi ngồi lên tràng kỷ, nó kêu một tiếng kẹt, nhưng lò xo không nhún nhảy. Tôi chăm chăm soi mói cái bát sứ tráng men cực nhuyễn đang uy nghi ngự trên chiếc bàn xoay có chân chạm khắc hoa văn trường phái Trung Hoa cổ đại, mà không ngớt tự nhủ thầm: cổ vật quí giá này là món kỷ niệm của gia đình hay chỉ dùng làm cái gạt tàn? Mà có là gì chăng nữa, khi nó được đặt ở đây cạnh chiếc tràng kỷ này, thì việc gạt tàn thuốc quả là một tiện nghi hứng thú. Tôi dụi đầu thuốc vào đó và châm thêm một điếu khác để tiêu khiển trong lúc đợi chờ. Tôi ký thác hú họa một đống tro tàn vào cái bát cổ, vừa lúc cánh cửa buồng bên hé mở và cô gái xuất hiện. Tôi liếc nhìn nàng thật nhanh, đánh rơi điếu thuốc đang cầm trên tay xuống tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Nàng có một thân hình trung bình và mọi thứ khác thuộc về nàng cũng trung bình. Mái tóc màu hung lộng lẫy được nàng thắt lửng lơ sau gáy phất phơ như đuôi ngựa. Khuôn mặt nàng phối hợp hài hòa với cái miệng dày tròn và tô son đỏ thắm. Nàng ngoảnh mặt nhìn tôi, phác một cái bĩu môi nhẹ đầy kiêu sa mà cũng khêu gợi lạ kỳ. Nàng diện chiếc áo cánh chẽn liền váy kiểu Trung Hoa bằng loại tơ Thượng Hải màu xám tro. Khít rịt vào người như chiếc găng tay, chẻ dọc theo hai sóng chân lên tận thắt lưng. Cứ mỗi bước đi của nàng, cái lằn chẻ ấy lại phơi bày ra thêm nữa hai sóng chân màu đồng sậm của một thân hình thanh mảnh. Đôi mắt màu tím sẫm của nàng dường như quá to sau khung kính gọng vàng và hai con rồng dường như đang phun lửa dưới đôi dái tai tròn trĩnh. Cô gái nhìn tôi chăm chăm, hơi thở của nàng phập phồng trong lồng ngực căng tròn, nàng nói với tôi bằng giọng véo von như chim hót, “Tôi là Rena Landis.” Tôi cúi xuống nhặt điếu thuốc cháy dở trên tấm thảm sàn và ngước lên, nói, “Trung úy Wheeler thuộc Đội…” Nàng khoát năm ngón tay tô màu bồ quân, “Khỏi giới thiệu, tôi đã biết. Talbot đã thông báo trước cho tôi rồi.” “Anh chàng quản gia ấy à?” “Được xem như thế,” nàng buông câu nói làm tôi choáng ngợp. “Đúng ra là một anh chàng bị dồn nén quá mức do tình trạng sống độc thân không có chỗ giải tỏa. Tôi đã có dịp thử qua. Suy cho cùng đây chỉ là dấu hiệu về sự mất thăng bằng về sinh lý.” Nàng ngừng nói, nhìn tôi bằng cái nhìn đầy ý nghĩa và nói tiếp, “Giả dĩ như có một mụ đàn bà nào đó, tôi tin chắc rằng anh chàng sẽ vặt lông cô ả đến chết lịm…” Tôi châm biếm, “Theo tôi, trong một lĩnh vực nào đó, người đàn bà có thừa khả năng để chịu đựng.” Nàng mỉm cười ý nhị, nhìn tôi và hỏi, “Tên thường gọi của anh là gì nhỉ?” Tôi nhấp nháy đôi hàng mi và dè dặt nói, “Al!” “Xin gọi em là Rena,” nàng buông thõng hai bàn tay dọc theo mép đùi, hơi chồm người tới và nói tiếp. “Em nghĩ rằng nơi nào có sự gò bó ngượng nghịu, thì ở đó sẽ không có sự sảng khoái nhất định. Anh có đồng quan điểm như em không, hở Al?” Nàng ngồi cạnh tôi trên tràng kỷ. Cái chỗ hở rộng trên cổ áo mở toang cho tôi cảm giác nàng còn hơn mặc áo cộc, tính cách buông thả của nàng không khéo dìm tôi thật tệ hại. Thoáng suy nghĩ này càng khiến tôi thêm bối rối. “Có phải anh đến đây vì John? Xin lỗi nhé. Buổi sáng nay bố chả nói thêm cho em một lời nào cả. Anh có tin rằng anh ấy hít cần sa không?” “Người ta tìm thấy những điếu cần sa ở trong túi của anh ấy,” tôi nói. “Em đã thử qua nó rồi,” nàng nhăn mặt và tiếp. “Nhưng em không phải là hội viên thường trực của nó.” “Tuyệt!” “Thật ngu đần, nhưng phải nói John là một đứa trẻ. Cần sa chỉ là bước đầu. Vào một lúc nào đó, người ta đi đến bạch phiến và thuốc phiện. Trước khi biết ra thì hỡi ôi, đã là kẻ nô lệ vĩnh viễn của ma túy mất rồi! Em cho rằng ma túy, thuốc sái và rượu cồn đều là những loại “Thuốc gây thói quen”. Đây là những tạp chất không gây nên sự phụ thuộc vào cơ thể như một nhu cầu cấp thiết, nhưng nó có khả năng tạo thói quen. Nếu ta không cương quyết dẹp bỏ nó đi, ta vĩnh viễn biến thành nô lệ của nó. Em chống lại tất cả sự ràng buộc nào của sự nô lệ vô lý như thế. Nhưng với anh lại là vấn đề khác, đúng vậy không Al?” Nàng nhoẻn cười lộ lúm đồng tiền duyên dáng và nói tiếp. “Tuy nhiên, ta không nên câu nệ, từ chối điều gì ta cảm thấy thích thú. Mỗi người có một sở thích riêng. Có thể những cái em không ưng ý nhưng là sự hài lòng của anh, đúng không Al? Em cho rằng họ đều là những tên đạo đức giả, hay ít ra cũng là những kẻ bất lực cằn cỗi, không đáng giá một xu đối với em! Trái lại, em đánh giá anh là một chàng trai rất quyến rũ. Còn anh, có thấy em quyến rũ không, hỡi Al?” “Tôi… ơ…” “Anh không phải trả lời,” nàng nở nụ cười mà người đàn ông nào cũng hiểu rõ ý nghĩa của nó. “Em thấy anh không nói vì mải nhìn một cách bối rối vào đôi chân em! Đúng đấy, Al. Những lúc thế này, cử chỉ động tác sẽ tác động thành công và hữu hiệu gấp trăm nghìn lần lời nói. Em gọi nó là “rung nhiệt tình!” Anh có thể ôm hôn em được rồi đấy, Al.” Tôi bị nghẽn khói thuốc vì hơi thở đứt quãng, bèn vội vàng dụi lia mẩu tàn vào cái bát sứ cổ. Đôi mắt long lanh như hai hòn bi, nàng trố ra nhìn tôi, rồi ngoẻo đầu lên lưng ghế cười ngặt nghẽo. “Bố sẽ rất sung sướng thấy anh làm như vậy.” Nàng nói và vẫn chưa dứt cười. “Bát sứ đó có tên “Weodgwoo” ở vào thế kỷ mười tám. Lần đầu tiên nó được dùng vào việc hứng những mẩu tàn thuốc vung vãi của anh. Hay đấy!” Tôi cho qua cái đó, lấy thái độ chững chạc nói, “Trở lại vấn đề người anh của cô,” tôi nhấn mạnh. “Cô có thể cho biết, tại sao…?” “Al, đừng quan tâm đến Talbot. Hắn không dám bỏ chỗ làm để đến đây rình rập chúng mình đâu. Còn những người giúp việc khác thì họ đều ở trong bếp, ở cuối căn hộ này. Anh có thể tự do ve vãn, Al ạ. Thú thật, chưa hề đến với em, nhất là một chàng cớm dẹp trai như anh. Vô cùng thích thú phải không anh? Hãy trổ hết ngón nghề ra đi cưng. Đại loại như anh vặn siết em trong đôi tay, vuốt ve mơn trớn hay gì gì đó. Nhưng chỉ có vậy mà thôi, vì em cần phải quen dần với ý nghĩ mình đang… làm tình.” Tôi giật bắn người nhảy phắt khỏi ghế, rồi xoay chân trụ bước sang phía sau chiếc ghế bành bọc da bên cạnh. Tôi hơi yên tâm với chỗ che chắn này, nhưng không tuyệt đối hy vọng. Tôi nói như van nài, “Cái tôi đang mong muốn là được đặt vài câu hỏi ở nơi cô về…” “Anh không muốn em à?” Nàng giương đôi mắt màu tím thẫm, hỏi tôi. “Anh không nhận thấy em xinh đẹp sao? Có phải anh muốn em chập đôi tay và ôm chầm lấy anh trước, có phải vậy không?” “Tôi muốn cô hãy ngồi yên tại đó, và im lặng một lát đừng nói nhảm nhí nữa.” Nàng bĩu môi, “À há, anh đối xử thô bạo và la ó với em như thế đấy! Anh không yêu những cô gái tóc nâu à?” Tôi đáp rất rõ và gằn từng tiếng một, “Tôi nhận thấy cô rất đẹp, tôi sẽ yêu những cô gái có mái tóc nâu khả ái, nếu họ cũng xinh đẹp như cô. Tôi sẽ sung sướng lắm để được ghì chặt cô vào lòng, nhưng chắc chắn không phải vào lúc này. “Tôi đến đây với tư cách mở cuộc thẩm vấn chính thức. Tôi là một sĩ quan cảnh sát, làm nhiệm vụ được ủy thác để có đồng lương. Cô rõ rồi và không có vấn đề gì khác chứ?” “Tuyệt, rất tuyệt với nghĩa vụ và trách nhiệm của anh đấy. Nhưng, Al, anh hãy tin rằng em không bao giờ muốn làm anh bị tụt lon hoặc mất chức. Điều này sẽ mang đến anh lắm cái phức tạp đầy phiền bực. Nào, anh hãy cật vấn em trước đi,” nàng nhún vai phụng phịu, rồi tiếp, “Dĩ nhiên, sau đó chúng ta sẽ làm tình. Em đang nghe anh hỏi đây!” Tôi lấy lại nhịp thở một cách khó khăn, “Cô có suy nghĩ gì không về nguyên nhân tạo ra cái chết cho anh cô?” Tôi chậm rãi nói. “Tôi biết rằng gợi lại việc này sẽ làm cho cô đau khổ, nhưng…” “Đau khổ!” Nàng cắt lời tôi bằng một nụ cười cay đắng. “Em không ngờ anh hiểu biết chỉ có thế. Phải nói em thù ghét anh ấy từ lúc chập chững biết đi, cả khi tập nói! Anh ấy là một con người cục mịch, thô lỗ và vô cùng hung bạo. Anh có thấy đứa trẻ nào đang nô đùa với một con vật hiền hậu dễ thương, rồi đích thân nó xé toạc con vật khốn khố đó ra không?” “Vâng, nhưng…” “Không, John chính là con người như thế đấy! Và hắn đã liên tục làm những việc gớm ghiếc đại loại như vậy.” “Thế nhưng, trong một ý nghĩa nào đó,” tôi nói với vẻ không chắc chắn lắm. “Những việc làm như vậy của anh cô không cản trở gì đến nghĩa vụ cô phải chịu tang khó lúc anh ấy từ trần?” “Hừ, chẳng những em không chịu tang khó mà còn nổ sâm banh ăn mừng cho anh ấy. Khi em không chịu từ bỏ rượu, anh sẽ thấy em say. Rượu cồn là ma túy của những kẻ không tự chủ, không biết kìm chế mình. Như anh thấy đó, nó tạo ra thói quen mà mình là kẻ bị nô lệ. Hình như em đã nói qua về sự kinh tởm của em đối với những sự nô lệ như thế này rồi cơ mà?” “Hoan hô!” Tôi lẩm bẩm trong miệng. “Vì lý do như thế đó, em “bái bai” luôn thuốc sái với xì ke…” “Nhưng ái tình thì cô không bao giờ kinh tởm, nếu được diễn ra một cách kín đáo tế nhị và trong một chừng mực nào đó?” “Về ái tình thì em không bao giờ chán ghét vì nó không mang đến một nô lệ nào cả,” nàng cuồng nhiệt nói và ném cho tôi một cái nhìn đầy ý nghĩa. “Nó thuộc lĩnh vực sinh vật học. Sẽ vô cùng nguy hiểm khi người ta cố tình đẩy lùi những phản ứng thuộc về sinh hóa. Anh thừa hiểu mà, Al. Điều này sẽ…” “Vâng, vâng tôi hiểu,” tôi nghiến răng nói cho qua. “Điều này sẽ mang đến những ray rứt phiền bực, sẽ mang đến những trạng thái thần kinh căng thẳng, hết sức khổ sở, sẽ…” “Rất chính xác…” “Thế còn những câu hỏi của tôi,” tôi hỏi gần như van nài. “Cô không có ý kiến nào về cái chết của anh cô sao? Cô không tìm hiểu kẻ nào đã giết anh ấy à?” “Ơ, có chứ! Em có tìm hiểu và đoán chắc rằng, có ai đó chỉ cần gặp mặt anh ấy một lần thôi, đủ là nguyên cớ nổ ra một án mạng.” “Ai đó? Bộ cô không thấy một người nào chính xác chăng?” “Coi kìa… Em, bố em, Talbot. Còn có chị bếp, cô Elsie người giúp việc nhà, Jannings người làm vườn. Còn có anh đưa thư, anh…” “Trời ạ, thật là ngán ngẩm,” tôi chép miệng thở dài. “Thật vậy sao? Anh ngán ngẩm sao?” Nàng hỏi và tôi đoán biết suy nghĩ của tôi đã khiến nàng thành thật ngạc nhiên. “Em không tìm cách làm anh ngán ngẩm đâu, Al ạ…” “Ngoài gia đình và những người giúp việc, cô không thấy một người nào khác sao?” “Không! Anh thừa biết, đã ba tháng nay John không còn ở chung với chúng em trong một gia đình. Thậm chí anh ấy ở đâu, em cũng không biết và cũng không gặp mặt nữa. Đây là điều chắc chắn…” “Chắc chắn?” “Vâng! Lúc người ta gặp mặt, anh ấy có khuynh hướng của một kẻ nghiện ngập sa đà. Cái mà em gọi là thói quen biến thành nô lệ,” giọng nói của nàng trở nên chua chát. “Anh thử tưởng tượng xem, anh ấy bẻ tay em, đánh em. Thậm chí còn đá em vào xương chân… Anh xem đấy, một người như thế đó.” “Một cậu trai…” “Không! Anh ấy là gã thanh niên ở thời kỳ quá độ,” nàng tiếp bằng giọng chán chường. “Một gã đồi trụy chuyên nghiệp. Từ cách ăn diện, cách nói năng, những câu chữ líu lo trọ trẹ mà ngay chính anh ấy cũng chẳng hiểu được ý nghĩa.” Nàng thở dài, rồi tiếp, “Chúa ạ, chỉ có thánh biết. Ôi, còn loại nhạc mà anh ấy say mê như thần tượng. Nhạc Jazz…” Tôi chú ý điều này. “Anh thấy đấy, thử lựa chọn xem bất cứ người nào anh ấy đánh bạn cũng đều một giuộc như nhau! Thậm chí, đến như em đây còn muốn giết quách anh ấy cho rồi. Đó là một kinh nghiệm không phải là vô bổ.” “Và phòng hơi ngạt cũng không phải là vô bổ vì nó là cứu cánh cuối cùng của một kinh nghiệm.” Nàng cười xòa, “Bởi thế em không dám thử qua vì cái viễn ảnh đó. Em thắng lại kịp từ lâu rồi, Al ạ.” Nàng rút hai chân lên tràng kỷ, hai đầu gối xếp lại, rồi duỗi dài ra và bắt chéo hai bàn tay đan sau gáy, ưỡn người lên lưng tràng kỷ. Cách ngồi này làm chiếc váy Trung Hoa lụa Thượng Hải phải bày trọn vẹn chiều dài hai sóng chân không bít tất lên tận chỗ ram rám. Nàng ném sang tôi cái nhìn nóng bỏng kèm theo nụ cười khích lệ, “Các câu hỏi đã chấm dứt rồi, phải không Al? Bây giờ người ta được phép nghĩ tới tình yêu chứ?” Dẫu rằng còn khá nhiều người không nghĩ đến vấn đề đó, nhưng tôi chỉ là một người đàn ông, không phải thần thánh thì làm sao tránh được chuyện trăng hoa. Thế nhưng, tôi cũng hiểu rằng, nếu tôi đồng lõa với nàng tiến thêm một bước rất ngắn, chắc chắn tôi sẽ phải trải qua nhiều đêm nằm cắn móng tay vì ân hận. Bị dằn vặt dữ dội, tôi trở lại chiếc tràng kỷ và ngồi cựa động mãi không yên. Nàng thì thào thật êm bên tai tôi, “Đừng lo ngại gì cả, Al. Tất cả mọi người ở đây, không ai dám quấy rầy chúng mình đâu!” “Trời ạ, tôi rầu nẫu ruột. Thú thật, em là một phụ nữ anh mới thấy lần đầu, từ khi anh chập chững biết đi,” vừa nói tôi vừa nhích tới gần và choàng tay ôm chặt nàng. “Hỡi ông trời, liệu tôi có bị chặt đứt bàn tay này không?” Nàng so đôi vai tròn lẳn và nói hết sức ngọt ngào, “Có thể anh thuộc thành phần ‘kỹ thuật trì độn’…” Nàng vụt đứng lên, uyển chuyển duyên dáng như một con mèo, giở gọng kính vàng và tỉ mỉ đặt nó lên mặt bàn xong. Cái nhìn trần trụi của nàng cuốn vào tôi cho thấy nàng không cận thị. “Vì anh thiếu huấn luyện, em phải tiếp tay mới xong.” Nàng cầm hai tay tôi đặt lên bộ ngực rắn chắc vun trùn và nhẹ nhàng nắn nót. Tôi cảm thấy rần rật như có trăm con kiến bò trong máu qua cái nóng hâm hấp trên cơ thể của người con gái, trong làn lụa mỏng của chiếc áo chẽn Trung Hoa. Nàng ấn nhẹ hai tay tôi lên đó, rồi những ngón tay búp măng thon dài của nàng dẫn bàn tay phải của tôi mân mê lên bầu ngực. Nàng ghì đầu tôi vào đó, thì thào qua hơi thở hổn hển và đứt quãng, “Cái này gọi là sợi dây khóa mở. Anh chỉ cần kéo nó xuống phía dưới.” Tôi ngoan ngoãn làm theo, bàn tay run run, kéo tụt cái phéc-mơ-tuya phía sau lưng nàng xuống tận hông. Chiếc áo Trung Hoa thay ngôi đổi chủ biến thành đống vải lụa xôm xốp dưới chân nàng. Bộ đồ lót bên trong chỉ là mảnh lụa hồng bằng ba ngón tay treo ở phần trên, và phía dưới cũng một mảnh vải kích thước như thế kết đăng ten trắng. Cổ họng tôi co thắt, nước bọt khô cằn như bị nghẹn. Nàng cựa quậy trong đôi tay tôi, mùi thơm của da thịt nàng lan tỏa khắp người tôi và những chiếc răng bén nhọn của nàng cắn nhẹ vành tai tôi, rồi cánh môi mềm tìm lấy môi tôi, mấp máy mãi. Một lúc rất lâu, nàng mím môi lại rồi mở nó ra, cất giọng nói như từ cõi xa xăm nào đó vọng về, “Mỗi người có một trách vụ và em đã làm xong. Bây giờ đến lượt anh làm cái việc của mình…” Giữa lúc tôi sắp làm một cái gì đó cho số máu đang đập loạn xạ trong tim được điều hòa và cho bộ thần kinh đang căng thẳng như sợi dây đàn được thư giãn thì có tiếng lách cách từ phía cửa. Tôi chợt tỉnh người và thầm nghĩ cái gã quản gia láu cá đã rời cái chỗ lý ra hắn phải ở đó. Kế tiếp tôi nghe tiếng giày nện thình thịch phía sau lưng và một giọng nói ầm ì như tiếng máy tàu vọng chát chúa bên tai, mà câu nói này được phun ra làm tôi tin không phải của gã quản gia, “Rena, cút ngay vô phòng!” Nàng cúi xuống nhặt nhanh mớ quần áo, từ từ ngước mặt lên, trong khi bộ áo chẽn liền váy kiểu Trung Hoa bị nhàu nhò được nàng ôm khư khư trước ngực. Cử chỉ này làm tôi càng cảm giác hơn là lúc nàng trần trụi. Hốt hoảng đổ sập tới như cơn lốc ở sa mạc làm toàn thân nàng rung chuyển như một cành lá, “Bố…” Giọng nàng như bị nghẽn. “Con không hay bố vào bất thình lình…” “Tao bảo xéo, xéo ngay vô phòng!” Lão bố rống lên dữ tợn. Cô nàng loạng choạng bước tới cánh cửa, chao đảo đi vô phòng, không quay lưng lại, chẳng nhìn vào tôi. Tôi thấy thương cảm nàng nhiều hơn chính bản thân mình, chưa biết sẽ đón nhận cái gì đây. Nàng đã khép cửa phòng và tôi còn nghe vang dội trên dãy hành lang những bước chân dồn dập tháo chạy. “Về phần ông, thưa ông,” một giọng nói cứng đanh được phun ra nơi chiếc mồm như nhai đá. “Người ta có thể biết được không, tên của gã Sở Khanh bị bắt quả tang đang… dụ dỗ con gái tôi ngay dưới mái nhà tôi?” “Smith!” Tôi nói phóng mạng một cái tên ba xạo nào đó, nhưng không mấy tin tưởng. Trên chiếc bàn xoay, chiếc kính gọng vàng của nàng còn nằm đó nhấp nháy cặp tròng như thầm bảo “Đừng có run…!”. Đ 6 ứng thẳng đuột trước bàn làm việc, Daniel Landis một tay đặt lên điện thoại, một tay để trên mặt bàn. Giọng của lão thong dong, rõ ràng từng tiếng như cha giảng ở nhà thờ, “Thì ra thế đấy, anh đến đây để cật vấn con gái tôi về cái chết của anh nó, trong khi nó còn đang xúc động về thảm kịch xảy ra trong gia đình. Tuyệt nhiên, anh không thèm đếm xỉa gì đến một hậu quả to tát khác cũng không kém phần bi đát sẽ xảy ra, nguyên nhân là do cái cách thẩm vấn như thế đó đối với một đứa con gái cực kỳ bén nhạy vì thần kinh của nó rất… bất thường!” “Tôi…” Giọng tôi lộ vẻ luống cuống vì tình trạng mà tôi đang lâm vào. “Anh không có ý định gặp tôi trước đã! Anh cũng không có chút lịch sự tối thiểu để yêu cầu tôi cho phép được nói chuyện với con gái tôi.” Lão hít sâu một hơi để chuyển ‘tông’, “Vậy thì tôi phải nói một câu như thế này. Trung úy, anh vừa phạm phải một chuyện vô cùng nhảm nhí không thể biện giải được!” “Nhưng ông sẽ không cho tôi biết được điều gì cả,” tôi khẳng định chắc nịch. Lão nghiến răng đỏ mặt, “Lần này anh không còn nhiễu sự như đã từng làm đối với những con chuột sống rúc trong cống rãnh, mà phải bươu đầu sứt trán trước người phát ngôn chính thức, đại diện cho công luận quần chúng, một cơ quan ngôn luận có uy tín và thế lực bậc nhất trong thành phố này. Anh rõ chưa, trung úy?” Lão trừng mắt nhìn tôi như rà kiếm quả mìn nào đó đang mang trong người của một tên sát nhân nguy hiểm, rồi bĩu môi khinh bỉ, nói tiếp. “Rồi đây, anh sẽ nếm mùi búa rìu dư luận, khi họ được biết mặt trái đáng kinh tởm được dùng bởi cái gọi là ‘người bảo vệ pháp luật’!” Đôi mắt lão long lên sòng sọc nhìn tôi một lần nữa, trong khi chọn một con số trên mặt đĩa máy nói, “Alô? Daniel Landis đây! Chuyển đầu dây để tôi nói chuyện với viên Chánh cẩm… ừ, ngay lập tức!” Bốn giây đồng hồ trôi qua. Tôi đếm nó từng cái tích tắc. “Chánh cẩm Lavers đây hử? Daniel Landis đây. Vừa về đến nhà, tôi bắt gặp một trong số người của ông đang khủng bố con gái tôi… ừ, một cuộc khủng bố thực sự, hoàn toàn đúng như vậy! Tội nghiệp con bé mất hết hồn vía, trước cách lấy khẩu cung man rợ của gã đó. Rồi đây, vì nguyên nhân này chắc chắn con bé đáng tội nghiệp sẽ phải trải qua một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, không khéo sẽ dẫn đến chứng tâm thần. Tôi muốn gã đàn ông man rợ đó, cái gã đã dùng vũ lực xâm nhập gia cư tôi bất hợp pháp phải được pháp luật trừng trị thích đáng. Trong khi chờ đợi, những biện pháp kỷ luật nội bộ phải được thi hành ngay tức khắc đối với gã. Tôi nói, tức khắc…!” Bỗng lão nhóng tai chồm tới, áp sát má vào ống nghe. Sau đó, không lâu, như con nít trúng sởi, mặt lão nói cộm những chấm đỏ và lão thở hồng hộc, “Tôi không có ý xen vào công việc nội bộ, chỉ có lời khuyên ông nên dè dặt, khi đề cử nhân viên xung vào những công tác tế nhị và cũng nên rà lại thành phần nhân sự để loại ra những phần tử như vậy đó…” Tôi khoái chí nghĩ thầm, “Chà, sếp chịu chơi! Ít ra sếp phải ca bài gì đó về thể diện.” Nhưng hy vọng của tôi bị tắt ngấm. Daniel Landis vẫn trên cơ, lão đang tung lá bài tẩy, “Cảnh sát trưởng, còn cái này nữa… Những cách thức hung bạo, những lời hỏi cung man rợ đó không thể tha thứ được. Trong mọi trường hợp, để ngăn ngừa điều đó tiếp tục diễn ra và đang dẫn đến hậu quả không lường được cho con gái tôi, tôi sẽ viết một bài báo trong mục “diễn đàn hôm nay” và nó sẽ đến tay độc giả vào buổi sáng mai. Khi tờ ‘La Tribune’ đã gióng tiếng chuông, không nói quanh co gì cả, chắc chắn ông sẽ rõ thông điều này! Không bao giờ còn có một kẻ nào trong số người của ông chõ mũi vào nhà tôi vì nó sẽ bị quẳng xác không thương tiếc như một con chó điên…” “Lạy chúa, khiếp quá!” Lão dập máy xuống một cách thô bạo, rồi quay sang tôi như con vụ, “Tôi mong anh lấy việc này làm bài học, Wheeler. Tôi có cảm giác cảnh sát trưởng của anh sẽ thấm thía về những nhắn nhủ nhẹ nhàng của tôi, trước khi lão ấy đọc bài xã luận tóe khói phát hành vào sáng ngày mai.” “Vậy thì, ngay buổi chiều sau đó, tôi được mời ra đứng ngoài công lộ?” Lão trừng mắt nhìn tôi, miệng gầm gừ, “Còn gì nữa? Đó là sự điều phối hợp tình hợp lý dành cho anh.” Lão ngồi bệt xuống ghế thở dốc, sủa tiếp, “Tôi nghĩ với trình độ nghiệp vụ như anh, một chỗ như thế đã quá tương xứng với anh rồi. Cấp trên của anh sẽ sáng suốt nhận ra điều đó. Quan cẩm và ngài giám đốc của anh đang phân vân lựa chọn cho anh một biện pháp, ngay khi tờ báo của tôi được phát hành.” Tôi châm một điếu thuốc, rồi thung dung vất que diêm vào cái bát sứ tráng men. Đang ngồi, bỗng Landis đứng bật lên như chiếc lò xo có đàn hồi mạnh, lão bươn bả tới chỗ để cái bát sứ, cúi đầu nhìn kỹ. Chưa tin nơi mắt mình, lão đưa hai ngón tay vào cái bát sứ: Đó là đống mẩu thuốc, tàn vụn và que diêm cháy dở đang nằm ngổn ngang trong đó. Gương mặt nhạt màu như tờ lá úa, lão ngẩng đầu lên và như bị ai đó chẹn họng, giọng nói của lão ngất ngơ ngất ngưởng, “Chúa… chúa ơi,” lão đưa hai tay lên cao, nói ú ớ, “đây, đây là… cái bát sứ của ta.” “Thưa vâng, cái bát sứ “Weodgwood” thuộc thế kỷ thứ mười tám. Nếu tôi không nhầm.” Run bắn người lên vì tức giận, lão ngồi thụp xuống như một nhúm giẻ trên chiếc ghế. Chưa đặt đít xuống, lão lại nhảy dựng lên như ngồi phải cọc, luồn ngón tay trỏ trỏ vào tấm thảm, lão lắp bắp, “U… ơi, tấm thảm của """