" X.30 Phá Lưới - Đặng Thanh full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook X.30 Phá Lưới - Đặng Thanh full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Lời Nói Đầu - Chương 1: Phan Thúc Định Chương 2: Vân Anh Chương 3: Gặp Lại Người Xưa… Chương 4: Câu Chuyện Tình Của Người Cán Bộ Chương 5: Số Điện Thoại 377 Chương 6: Sự Ra Đời Của Một Nội Các Chương 7: Chiến Trường Mở Rộng Chương 8: Những Đòn Đầu Tiên Của Miền Bắc Giáng Xuống Cia Chương 9: Từ Đại Thế Giới Đến Liberty Palace… Chương 10: “Phương Án Việt Mỹ I” Chương 11: Nỗi Lo Sợ Của Thuý Hằng Chương 12: Bản Danh Sách Việt Cộng Nằm Vùng Chương 13: Biệt Thự Hoàng Chương Chương 14: Bị Theo Dõi Chương 15: Một Vụ Bắt Cóc Chương 16: Nanh Vuốt Của Cia Chương 17: Sự Thống Nhất Của Một Kế Hoạch Việt – Mỹ Chương 18: Kí Giả Phu-Lít-Xtơn Chương 19: Gió Đã Xoay Chiều Chương 20: Lãnh Chúa Miền Trung Chương 21: Vườn Cam Của Ngô Đình Cẩn Chương 22: Mai Lan Và Lý Lâm Chương 23: Tố Loan Trước Sự Thật Phũ Phàng Chương 24: Con Chim Mồi Trong Phong Trào Sinh Viên Chương 25: Hồng Nhật Đứng Trước Quân Thù Chương 26: Việc Gì Đã Xảy Ra Trong Bệnh Viện Huế? Chương 27: Sổ Lồng Chương 28: Các Ông Có Tin Tôi Không Chương 29: Kỉ Vật Cũ Của Người Bạn Bên Núi Ngự Bình Chương 30: Một Quả Đấm Hạ Hai Quân Thù Chương 31: Lá Thư Tuyệt Mệnh Của Vân Anh Chương 32: Tấn Bi Kịch Ở Ki-Lô-Mét Số 13+500 Chương 33: Thoát Hiểm Chương 34: Trở Về Chú Thích - X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Lời Nói Đầu - D Tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Diệm bị bắt tại Đức Phổ (Quảng Ngãi) khi hắn trên con đường chạy trốn. Vì có nhiều nợ máu đối với Cách mạng trong thời kỳ là tri phủ Tuy An, quản đạo Ninh Thuận và tuần vũ Khánh Hoà, Uỷ ban khởi nghĩa địa phương chuẩn bị đưa hắn ra xét xử trước Tòa án Nhân dân. Nhưng có lệnh giải hắn ra Bắc… Chính quyền nhân dân lúc bấy giờ mới thành lập. Với chính sách đại lượng khoan hồng, Hồ Chủ Tịch không những đã ban ơn tha tội chết cho hắn, lại còn cho phép hắn được ở thủ đô, đãi ngộ hắn như khách, cho hắn được tự do đi lại, rồi sau đó, được vào ở hẳn trong một nhà thờ Thiên chúa giáo ở phố Hàng Bột theo sự thỉnh cầu của hắn. Tuy biết hắn là một tên tráo trở, đã từng làm tay sai đắc lực cho Pháp, bị Phạm Quỳnh hất cẳng thì chạy theo liếm gót Nhật, đến khi Nhật đầu hàng đồng minh thì lại tìm cách quay về với chủ Pháp, Cách mạng vẫn mở rộng cửa với hắn, tạo điều kiện cho hắn trở về với con đường của dân tộc. Thế nhưng, sau khi được vào ở trong nhà thờ, Diệm đã thông qua một cha cố Pháp để bắt liên lạc với tướng Lơ-cờ-léc (Leclerc) chỉ huy quân đội Pháp, đóng ở trong thành. Tướng Leclerc đã lệnh cho Phòng Nhì Pháp giải thoát Diệm. Phòng Nhì Pháp đã giao việc thực hiện cho một người giúp việc bí mật của chúng là Phan Thúc Định – con của tuần vũ Phan Thúc Ngân, bạn thân của Diệm – đưa hắn vào thành, rồi bằng phương tiện của quân đội, Pháp bí mật đưa Diệm sang Hồng Kông. Từ đó, Diệm về Sài Gòn, sang Paris. Tuy ra tay cứu Diệm nhưng không tin Diệm bằng những tên tay sai khác, nên hắn không có vai vế gì trong chính phủ bù nhìn do Pháp dựng nên. “Sau bao năm từng lê gót nơi quê người”, như sau này hắn đã phô trương, Diệm tìm đường sang Tô-ky-ô (Tokyo), nói là đi thăm Kỳ - ngoại hầu Cường Để, nhưng thực ra, hắn chủ tâm đi tìm chủ mới. Tháng 2 năm 1950, một người Mỹ tên là Phi-sin (1) đến gặp hắn tại khách sạn Đại Đông Á, đưa cho Diệm bức thử của Hồng Y Giáo chủ Spen-man (2), mời Diệm sang Mỹ. Kèm theo bức thư, Phi-sin đã đưa cho Diệm một ngân phiếu mười vạn đôla lãnh tại ngân hàng Tô-ky-ô. Năm 1951, Diệm sang Mỹ được Hồng Y Giáo chủ Spen-man nhận làm con đỡ đầu và cho ở tại chủng viện Ma-ry Nôn (3). Hai năm sau, CIA đưa vào học trường đại học Michigan (Mi-sit găng). Lúc này hắn vừa tròn 53 tuổi. Tại đây, câu chuyện bắt đầu… X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 1: Phan Thúc Định PHAN THÚC ĐỊNH Tiến sĩ luật Diệm lẩm bẩm: - À, ra anh chàng đã đỗ tiến sĩ luật. Một cái hộ chiếu của Định được cấp từ Pháp cho phép nhập cảnh nước Mỹ. Một cái ảnh Định đứng dưới chân tháp Ép-phen. Tất cả những thứ ấy, Diệm không chú ý tới, chỉ xem qua. Nhưng có hai vật, Diệm cứ bâng khuâng ngắm nghía, cầm mãi trên tay. Một là bức bưu ảnh in hình Đức bà Ma-ri-a màu sắc, đề in rõ tại nhà in riêng của Va-ti-căng. Đức Bà bồng đức Chúa Hài Đồng trên tay, mặt phúc hậu, đẹp dịu dàng, cặp mắt hơi buồn đầy vẻ thương yêu, chung quanh người toả hào quang. Nét vẽ trau chuốt, sinh động đến nỗi người ta nhớ những bức họa của Lê-ô-na đờ Vanh-xi. Đây không phải là bức bưu ảnh thường. Vừa nhìn thấy, Diệm biết ngay đây là của Đức Cha anh, Ngô Đình Thục. Người cầm bức ảnh ấy – chỉ anh em Diệm mới hiểu riêng với nhau thôi – là người đã được Ngô Đình Thục thẩm tra rồi và tin cẩn được. Ngô Đình Diệm là người rất tin ở CIA, nhưng lại tin anh em ruột mình hơn cả CIA. Diệm biết anh mình là Ngô Đình Thục có cả một màng lưới tai mắt tay chân riêng rộng lớn mà nhiều lần Phòng Nhì của Pháp ở Việt Nam đã phải nhờ vả. Đức chúa Giê-su dạy các tông đồ rằng: “Được cả và thiên hạ làm gì nếu mà mất nước thiên đàng?”. Ở giám mục Ngô Đình Thục thì “nước thiên đàng” không trọng bằng “nước hạ giới” nên người “tinh thạo” việc đời lắm. Người đã giao cho Định cầm bức bưu ảnh Đức bà Ma-ri-a này. Vật thứ hai là một cái thẻ ngà. Khi đưa ví cho Diêm, cả Lên-sđên và Phi-sin cũng không hiểu vật đó là gì. Diệm phải giải thích cho hai tên Mỹ hiểu: Đây là cái thẻ của Nam Triều ban cho các quan lại, trên ghi chức tước phẩm ngạch để treo ở ngực bên trái ngoài chiếc áo dài. Lên-sđên gật gù: - À… như trong quân đội Mỹ khâu vải ghi tên và cấp bực của mình ở ngực đây. Có cái khác là chúng tôi đeo ngực bên phải. Chiếc thẻ ngà có mấy hàng chữ nhỏ. Chiếc thẻ ngà của người đồng liêu Phan Thúc Ngân đã quá cố đây. Phan Thúc Định vẫn giữ những di vật kỉ niệm một thời làm quan của bố. Anh ta thật là một người con chí hiếu. Những người như thế này làm sao quên được mối thù của Cộng sản đối với gia đình mình? Những người như thế này sẽ là những người rất đắc lực cho ta đây. Bức bưu ảnh của Đức Cha anh Ngô Đình Thục và cái thẻ ngà của bố mà anh ta còn trân trọng như một báu vật này đủ cho ta hiểu con người ấy như thế nào rồi. Các ông CIA nhiều khi cũng khá cẩn thận. Người Mỹ làm thế nào lại có thể hiểu được người Việt Nam bằng người Việt Nam, bằng ta. Cái thẻ ngà bâng khuâng trên bàn tay dày thô và ngắn ngủn của Diệm. Ở giữa cái nước Mỹ xa xôi toàn những con người chỉ biết có thực tại, cái vật lạc loài này tự dưng đến càng làm hắn xót xa nhớ tới dĩ vãng bạc vàng. Nhìn cái thẻ ngà, hắn như nhìn thấy cả quá khứ sống lại. Cái vật thân thuộc và nhiều kỉ niệm… Chỉ riêng việc Phan Thúc Định trân trọng giữ gìn cái thẻ ngà này đủ làm cho Diệm ưu ái Định hơn lên. X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 2: Vân Anh Sân bay Tân Sơn Nhất – một sân bay lớn ở ngoại thành Sài Gòn – đầy máy bay quân sự và máy bay dân dụng. Những đường băng rộng thênh thang. Có những đường băng bê tông nhẵn lì. Có những đường băng rải lưới thép. Đây là đầu não của con đường hàng không toả đi khắp Đông Dương, đi châu Âu, châu Á, châu Mỹ… Cách 5 phút lại có một chiếc máy bay hoặc cất cánh, hoặc hạ cánh. Những người lính không quân, thợ máy, lính thông tin, quần áo ka ki, mũ calô xanh nước biển hoặc mũ lưỡi trai đen bọc vải trắng, những cô chiêu đãi viên hàng không váy hẹp màu xanh nước biển, sơmi trắng, mũ calô xanh đi lại tấp nập. Phan Thúc Định, vẫn chiếc cặp du lịch trên tay, vẫn bộ quần áo đúng thời trang, bước vào phòng khách của sân bay. Phòng khách như lắp toàn bằng kính, người đông ồn ào. Chỗ này vài ba viên sĩ quan người Pháp đang đứng nói chuyện gẫu. Chỗ kia, mấy hành khách đang quây quanh quầy giải khát uống nước, ăn bánh ngọt. Có hành khách tay chắp sau lưng đi bước một quanh phòng, vẻ chờ đợi. Có hành khách ngồi thản nhiên trên ghế, mở báo xem, phì phèo điếu thuốc lá trên môi. Theo thói quen, bao giờ Phan Thúc Định cũng quan sát khắp gian phòng, đặc biệt chú ý đến những người hành khách ngồi có vẻ ung dung xem báo Trong những người cầm tờ báo che lấp mặt hoặc đang chăm chú xem sách kia, có người nào cần phải đề phòng không? Kinh nghiệm cho biết những người ấy mới là những người anh phải quan tâm đến. Hình như không có gì đặc biệt cả. Anh đến sát giờ. Có tiếng loa mời những hành khách đi Huế ra máy bay. Mọi người theo cô chiêu đãi viên thân hình dong dỏng, xinh xắn, luôn luôn có nụ cười duyên dáng trên cặp môi tô son màu phớt tím, ra máy bay. Chiếc thang máy bay đã để sẵn ở cửa một chiếc máy bay Công-sten-la-siông bốn động cơ của hãng “Pháp Quốc Hàng Không”. Cô chiêu đãi viên dừng bước, đứng sững cạnh thang, giơ tay nghiêng đầu rất kiểu cách, nói bằng tiếng Pháp: - Xin mời quý vị lên máy bay. Hành khách lần lượt bước lên thang, lần lượt vào chỗ ngồi của mình. Phan Thúc Định bước vào khoang máy bay, đưa mắt nhìn một lượt các hành khách. Nhanh như chớp, anh thu vào đôi mắt sắc sảo của mình những đặc điểm biểu lộ trên nét mặt đám hành khách cùng đi. Mấy sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp người thì ngồi trầm tư, người thì nói chuyện nhỏ với nhau. Mấy ông người Việt cỡ trung niên mà Phan Thúc Định chia làm hai loại: người nào láu táu, mặt lộ vẻ sốt ruột chắc là nhà buôn đi giao dịch; người nào có quần áo phẳng phiu, đầu mượt bóng, nét mặt đăm chiêu thì chắc là công chức cao cấp của chính phủ Bảo Đại hoặc là một thứ “chính khách” chưa kiếm chác được gì, đi Huế để vận động một ghế ngồi nào đó có thể hốt bạc được. Một bà già – hay nói đúng hơn một “mệ” Huế – búi tóc bằng trâm ngà, cổ đeo “kiềng” vàng, lên máy bay vẫn cầm hộp trầu trên tay. Cuối khoang máy bay có một người đàn ông khoảng gần năm mươi tuổi, chải chuốt, đeo kính mát gọng to, ngồi bên cạnh một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi. Người đàn ông ít nói, chỉ gật đầu hoặc lắc đầu trả lời rất hà tiện lời, trong khi cô gái hay nhí nhảnh hỏi chuyện. Cô gái tóc buông xoã kiểu tóc các nữ sinh trung học, mặc một chiếc áo dài trắng điểm hoa nhỏ và thưa màu xanh. Trán rộng, lông mày thanh, đôi mắt đen láy thông minh, mũi dọc dừa, đôi môi gọn nhỏ. Cô gái nói chuyện đôi lúc pha một câu tiếng Pháp. Qua câu chuyện loáng thoáng, Phan Thúc Định biết đấy là hai bố con. Anh ngồi xuống ghế, ghế bên cạnh anh vẫn còn trống. Anh tự hỏi trong đám hành khách này ai là người của CIA? Ai là người của SEDCE? Ai là người của Việt Minh? Có ai theo dõi mình không? Lại còn có thể có những gián điệp của các nước khác nữa. Bởi vì, từ sau cuộc chiến tranh Nga – Nhật và từ đầu thế kỉ 20 này, tất cả các nước trên thế giới đều thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tình báo. Nó có thể góp một phần quyết định vào cuộc chiến thắng hoặc chiến bại của mỗi bên. Trước cuộc chiến tranh Nga – Nhật 1905, hàng nghìn gián điệp Nhật Bản đóng vai thợ giày, thợ cắt tóc đã lọt vào đất Nga làm cho tất cả những cuộc vận chuyển, kế hoạch tác chiến của quân đội Nga Hoàng bị Bộ Tổng Tham mưu quân đội Nhật Bản nắm vững. Rồi trong hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhứt và thứ hai, diễn ra bao nhiêu cuộc đấu trí giữa các cơ quan tình báo Giết-ta-pô của Đức, Hắc Long của Nhật với Phòng Nhì của Pháp, lntelligence Service của Anh, Ghê-pi-iu của Nga… Riêng ở Đông Dương này, trước khi Nhật đổ bộ vào, đã có hàng trăm, hàng nghìn gián điệp Nhật đóng vai bán kem, bán sâm cao-ly, nhà buôn, du học sinh, sang sục sạo khắp nơi. Trong cuộc chiến tranh Việt – Pháp năm 1949, vụ tình báo Việt Minh lấy được bản báo cáo của tướng Rơ-ve chẳng làm chấn động thế giới đấy ư? Đã làm cho kế hoạch hành quân của Pháp bị thất bại ngay từ bước đầu, làm cho chánh phủ Pháp suýt bị đổ và nhiều nhân viên chỉ huy SEDCE phải bị cách chức. Những nơi nóng bỏng trên thế giới đều là nơi thu hút, tập trung những gián điệp quốc tế. Việt Nam đang là một trong những nơi nóng bỏng nhất của thế giới. Pháp đang muốn chèo chống giữ cho con thuyền tả tơi của mình trước cơn bão táp tấn công của Việt Minh. Mỹ đang muốn thay chân Pháp. Nhật đang muốn đục nước béo cò. Tưởng đang muốn nắm số Hoa kiều đông đảo ở đây. Anh muốn dò la để giữ vững ảnh hưởng của mình ở Mã Lai, Tân Gia Ba, Miến Điện… Việc anh về nước với nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho ấy, liệu có cơ quan tình báo nào biết mà theo dõi? Anh cứ phải đề phòng. Một điều làm anh phải suy nghĩ nữa là làm thế nào liên lạc được với Lê Mậu Thành? Làm thế nào biết được hoạt động và thái độ của Lê Mậu Thành? Từ Mỹ về Pa-ri về Sài Gòn, Định hi vọng lần gặp giám mục Ngô Đình Thục này, Ngô Đình Thục sẽ giúp đỡ anh dễ dàng trong việc hoàn tất nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho. Nhưng khi đến Vĩnh Long, gặp Ngô Đình Thục, Định thấy tự mình phải xoay xở lấy là chính. - Từ mùa thu năm 1951 đến nay – Ngô Đình Thục nói – Tôi chưa nhận được báo cáo của Lê Mậu Thành, nhưng nguồn tin riêng cho tôi biết Lê Mậu Thành vẫn còn sống và đang ở một cơ quan của Việt Minh. Còn lòng trung thành của anh ta đối với cụ Thượng (chỉ Ngô Đình Diệm) thế nào thì chưa có bằng chứng gì bảo đảm. Cụ Thượng ở xa không rõ đấy thôi chứ chưa nối được trạm liên lạc nào giữa Lê Mậu Thành với chúng tôi. Có thể anh ta phải phục xuống tạm thời cắt đứt mọi mối liên lạc để giữ mình, cũng có thể anh ta không còn là người của chúng ta nữa. Phan Thúc Định không biết những lời của Ngô Đình Thục là thực hay giả. Vì trong ngôi nhà uy nghi của Toà Giám mục Vĩnh Long, Ngô Đình Thục đã điều khiển nhiều việc bí mật, ngoài việc lên bục giảng đạo, ngồi buồng kín rửa tội, hắn đã từng phản bội người ta và bị người ta phản bội nhiều lần cho nên hắn rất già dặn công việc tiếp xúc với mọi người. Ngô Đình Thục hạ giọng nói tiếp: - Cụ Thượng đã giao trách nhiệm cho anh, thì anh nên cố gắng làm cho xong. Anh nên tìm mọi cách liên lạc được với Lê Mậu Thành. Nếu anh làm thế nào gặp được Thành thì càng tốt, nói cho Thành rõ những điều cụ Thượng đã dặn. - Nhưng thưa Đức Cha, làm thế nào con có thể bắt liên lạc được với Thành? Cha có cách nào giúp con được không? Ngô Đình Thục nheo mắt cười tinh quái, bộ mặt hắn khác hẳn lúc hắn giảng đạo: - Cái đó tuỳ thuộc vào trí thông minh và tài tháo vát của anh. Tôi chỉ giúp được anh mật khẩu để liên lạc với Thành mà thôi. Ngô Đình Thục mở khoá chiếc tủ lim lớn đàng sau hắn. Phan Thúc Định liếc nhanh vào trong tủ, thấy tủ chia làm nhiều ngăn nhỏ đánh số như tủ đựng hồ sơ. Ngô Đình Thục tìm một ngăn, lấy ra một phong bì dán kín đưa cho Định, rồi lặng lẽ đứng dậy, bắt tay Định. Bước chân ra khỏi Toà Giám Mục Vĩnh Long, Phan Thúc Định băn khoăn: “Có phải anh em họ Ngô thử mình chăng?”. Nếu gặp được Lê Mậu Thành, anh em họ Ngô sẽ đặt câu hỏi: làm thế nào mà một người như mình, vừa ở Pháp về, con một kẻ tử thù của Việt Minh, lại có thể gặp được Lê Mậu Thành ở vùng chiến khu Việt Minh một cách dễ dàng? Còn nếu Định không gặp, không liên lạc được với Lê Mậu Thành thì nhiệm vụ của Diệm giao cho sẽ không hoàn thành. Mới chỉ có một việc bình thường, bước đầu đã không hoàn thành được thì về sau ra sao? Phan Thúc Định tự nhủ: “Mình phải tìm cho ra đáp số của con toán rắc rối đó… giải quyết thế nào bây giờ? Lê Mậu Thành… Lê Mậu Thành… cái tên mình đã nghe thấy một lần rồi…”. Phan Thúc Định ngã người trên ghế suy nghĩ miên man. Bề ngoài trông anh có vẻ lơ đãng, thản nhiên nhưng thật ra tất cả những việc gì xảy ra quanh anh, trong khoang máy bay, vẫn không lọt khỏi mắt anh. Ở anh đã thành hình cái nếp: trong bất cứ một môi trường xa lạ nào, bao giờ anh cũng chỉ để một nửa tâm trí suy nghĩ, còn một nửa tâm trí thì theo dõi quan sát chung quanh. Có một cô gái bước lên máy bay, đến ngồi ghế bỏ trống bên anh. Anh quay lại… vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ: - Ô… Vân Anh! Cô gái cũng nhận ra anh, ngạc nhiên không kém anh: - Anh Định. Ôi, thật là một sự may mắn kì diệu! Với mái tóc uốn chải công phu, cắt cao, để lộ chiếc cổ trắng ngần, với cặp mắt hơi buồn ẩn sau hàng mi dài vuốt thuốc, với đôi môi tô son cầu kì, thỉnh thoảng hơi nhếch lên một cách kênh kiệu, và chiếc áo dài màu xanh nước biển có thêu nổi một bông hồng trắng trên ngực trái, Vân Anh hiện ra trước mắt Phan Thúc Định vẫn diễm lệ, vẫn quyến rũ, vẫn lộng lẫy như hai năm trước… … Hai năm trước, trong một buồi chiều bước vào mùa đông, trời Pa-ri đầy hoa tuyết đầu mùa. Hoa tuyết bay như bông nõn ai tung ra khắp bầu trời. Chàng sinh viên xóm Latinh nghèo Phan Thúc Định đang chuẩn bị luận án tiến sĩ luật khoa đã gặp cô gái đồng bào Vân Anh ở một thư viện. Xa quê hương, người cùng nước gặp nhau, hai người làm quen với nhau một cách dễ dàng và mau chóng trở thành đôi bạn. Những buổi gặp nhau ở thư viện, những buổi sóng đôi đưa nhau về một quãng đường, những buổi rủ nhau vào một quán cà phê ấm cúng ngồi tâm sự, Vân Anh đã kể cho Phan Thúc Định nghe về cuộc đời riêng của mình. Vân Anh là con một viên án sát ở một tỉnh lẻ miền Nam Trung Bộ tên là Cao Xuân Thọ. Vì có nợ máu với nhân dân nên hồi Cách mạng tháng Tám 1945, Thọ đã bị Toà án Nhân dân xử tử hình. Vân Anh phải về ở với chú ruột là Cao Xuân Đăng, trước cách mạng vốn là tham tá Toà sứ của Pháp, lúc đó chuyển sang làm công chức cho chánh quyền cách mạng. Lúc thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam năm 1946, Cao Xuân Đăng ở lại Huế, nhảy ra làm tay sai cho Pháp và được thực dân Pháp cho làm tỉnh trưởng ở một tỉnh Trung phần. Đăng nuôi Vân Anh ăn học và cho sang Pháp học ở trường đại học Soóc-bon-nơ. Một buổi đẹp trời, Phan Thức Định và Vân Anh sánh vai nhau đi dọc bờ sông Sen. Họ đi qua những quán sách cũ có những ông chủ quán để râu thuỷ thủ, ngồi lim dim như ngủ giữa đống sách dày mỏng về đủ các mặt: khoa học, văn học, lịch sử… Họ đi qua những người Pháp đội mũ nồi, ngậm ống tẩu ngồi câu bên bờ sông có những con chó ngoan ngoãn nằm bên cạnh. - Chú em chiều em lắm, không để em thiếu thốn gì cả – Vân Anh nói – nhưng em vẫn hay buồn. Cái buồn ấy, các bạn em bảo, hiện lên đôi mắt em. Người Pháp vẫn thường bảo đấy là cửa sổ của tâm hồn. Có lẽ đúng. Bởi vì dù sao em cũng là một cô gái mồ côi. Bố em đã chết bất đắc kì tử… - Em có oán hận gì những người đã giết bố em không? - Oán hận thì em có thể làm gì được nữa. Lịch sử đã chuyển qua trang khác rồi… Vả lại, em chỉ là một người phụ nữ yếu đuối cô đơn. - Em thiếu tình cảm gia đình nhưng em có thể có những tình cảm đẹp đẽ khác động viên em, an ủi em. Chẳng hạn… tình bạn… tình yêu. Vân Anh giương cặp mắt có hàng mi dài và cong, nhìn thăm thẳm vào mắt Phan Thúc Định, hình như muốn ngăn không để Định nói rồi tiếp tục: - Em không muốn giấu anh làm gì, em có người yêu rồi. Hai người im lặng. Cái sắc da trên tay Vân Anh buông thõng, đung đưa theo nhịp bước chân chậm rãi của họ. Lại mấy cửa hàng sách cũ… Lại mấy người ngồi câu… Có thêm vài anh hoạ sĩ dựng giá khung đang nheo mắt bôi màu trên vải… Một lát sau, Vân Anh thở dài: - Người yêu em ở xa lắm. - Ở Việt Nam. - Vâng. Còn xa hơn nữa, vì… ở bên kia chiến tuyến. Lại một phút im lặng. - Xin lỗi. Em không nói nên anh không dám hỏi, em đã nói thì cho phép anh hỏi nhé: em có thể cho anh biết người ấy là ai được không? – Phan Thúc Định hỏi. - Đối với anh thì được chứ. Anh Lê Mậu Thành, giáo sư trường trung học Khải Định – Huế. - Em vừa nói, người ấy ở bên kia chiến tuyến? - Vâng. Mùa hè năm ngoái, lúc em vừa đỗ xong tú tài phần thứ hai, cũng chính là lúc chúng em xa nhau. Giọng nói của Vân Anh nhỏ xuống trầm trầm xúc động: - Chúng em yêu nhau tha thiết, nhưng anh Thành lại yêu lí tưởng của anh ấy hơn cả người yêu. Anh ấy tự nhiên bỏ thành phố Huế lên chiến khu Việt Minh. Anh ấy để lại cho em một bức thư vỏn vẹn có mấy dòng. Em còn nhớ thuộc lòng bức thư đó: “Anh ra đi vì tiếng gọi của Tổ quốc, vì nhiệm vụ thiêng liêng đối với đất nước. Anh biết rằng em không thể đi theo anh được nhưng anh vẫn hi vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ gặp nhau ở chiến khu”. Sau đó, em không được tin gì của anh ấy nữa, rồi chú em nhất định bắt em sang đây du học. Em viết thư cho mấy người bạn cũ của anh Thành, ghi rõ địa chỉ của em bên này, mong mỏi nhận được một lá thư hoặc một tin tức nào đó của anh Thành cũng được nhưng suốt từ đó đến nay, vẫn đằng đẵng tuyệt vô âm tín. Linh cảm em sợ một sự tan vỡ vì anh biết đấy, em không bao giờ đi con đường của anh Thành được. Em với anh Thành ở hai trận tuyến khác nhau. Anh Thành đã theo Việt Minh còn em và Việt Minh có một mối thù không đội trời chung. Chao ôi, khoảng cách về không gian không sợ bằng khoảng cách về tư tưởng. - Trước đó, em có thấy anh Thành nói chuyện gì với em về kháng chiến không? Đôi lông mày kẻ chì của Vân Anh hơi cau như cố nhớ lại chuyện cũ: - Anh Thành là một người rất kín đáo. Khi nói chuyện về văn học, nghệ thuật, anh ấy tỏ ra hiểu biết nhiều và nói sôi nổi. Nhưng đối với các vấn đề chính trị, thời cuộc thì anh ấy thường không phát biểu gì. - Xin lỗi em nhé, em đừng trách anh là quá tò mò, cho anh hỏi thêm một điều: Em vẫn còn yêu anh Thành? - Tình cảm của em đối với anh Thành vẫn nguyên vẹn. Tình yêu của người phụ nữ không phải dễ thay đổi. Sự đổi thay trong tình yêu là một điều không đẹp đẽ. Huống chi, từ trước đến sau, anh Thành đối với em vẫn rất tốt. Giữa hai chúng em, yêu nhau mấy năm trời, vẫn giữ nguyên được lòng tôn trọng nhau. Chỉ trừ việc anh Thành bỏ đi một cách đột ngột, bất ngờ… Em vẫn mong gặp anh Thành, vẫn chờ đợi anh ấy. Dòng sông Sen lững lờ trôi. Thỉnh thoảng một chiếc ca nô chở khách lướt sóng để lại một vệt trắng dài ngầu bọt. Sau buổi ấy, Phan Thúc Định không gặp lại Vân Anh nữa. Có người nói Vân Anh bỏ học, qua Luân Đôn, thủ đô sương mù ảm đạm. Hình ảnh diễm lệ của Vân Anh với đôi mắt buồn sau hàng lông mi dài và cong, hình ảnh những ngày ngồi bên cốc càphê thơm phức ở khu xóm Latinh, hình ảnh những ngày đón nhau ở thư viện về, đi dưới những cây sên mùa đông trụi hết lá, hình ảnh một cuộc dạo chơi bên bờ sông Sen váng vất một tiếng còi canh… lùi dần vào dĩ vãng. Hai năm qua rồi… Phan Thúc Định nắm lấy bàn tay mềm mại của Vân Anh mà như thấy dĩ vãng sống lại. Câu chuyện cũ hiện ra, đồng thời cái tên Lê Mậu Thành nổi bật lên rõ rệt trong óc Phan Thúc Định: “À, Lê Mậu Thành đây rồi. Thế mà mình cứ cố nhớ mãi. Đáp số của bài toán đố anh em họ Ngô ra cho mình ở đây rồi”. Chiếc máy bay đóng cửa, từ từ cất cánh. Sau khi chạy một quãng dài trên đường băng, nó nhấc mình lên, rời khỏi mặt đất. Những căn nhà, lùm cây, những con đường tấp nập người và xe cộ lùi xa, bé dần lại. Rồi đến những cánh đồng, những dòng sông… Rồi nhìn thấy màu nước biển xanh ngắt… Rồi mây trắng bồng bềnh trôi bên ngoài khung cửa, trôi dưới thân máy bay… Trong lúc Phan Thúc Định và Vân Anh vui mừng gặp lại nhau, họ không ngờ tất cả thái độ, cử chỉ của họ đều được thu gọn, đầy đủ vào cặp mắt của người đàn ông chải chuốt đeo kính mát ngồi cạnh cô con gái. Cô nữ sinh vẫn hồn nhiên, không hay biết gì, vẫn ríu rít trò chuyện. - Con không thích Sài Gòn bằng Huế, ba ạ. – Cô gái nói – Bởi vì Huế có gia đình ta, sao ba cứ bắt con ở Sài Gòn, ít cho con về thăm Huế? Người đàn ông đeo kính mát trả lời: - Tố Loan ạ, lúc này việc học tập của con là trên hết. Con cần để thời gian vào học tập. - Nhưng con nhớ biệt thự của nhà ta, nhớ dòng sông Hương lắm. Người đàn ông im lặng, trầm tư như đang mải suy nghĩ làm cô gái không dám hỏi thêm nữa. Sau cặp kính mát hướng thẳng về phía trước mặt, cặp mắt người ấy vẫn thỉnh thoảng nhanh chóng liếc nhìn về phía Phan Thúc Định và Vân Anh. - Không ngờ lại gặp Vân Anh ở đây. – Phan Thúc Định nói. - Em cũng vậy. Đúng là quả đất tròn thật. - Sau buổi em nói chuyện với anh ở bên sông Sen, em đi đâu mà anh không nhận được tin tức gì của em cả? - Hồi ấy, em mê những bi kịch của Sếch-spia lắm… Em nảy ra ý định muốn đi sâu vào ngôn ngữ Anh. Được chú đồng ý, em qua Anh và xin vào học trường đại học Kem-brít-giơ (11). Mải học nên cũng không viết thư từ cho ai cả, anh tha lỗi cho. Còn anh, đã bảo vệ xong luận án rồi chứ? - Cảm ơn em, xong rồi. - Xin có lời chúc mừng anh. Một cô chiêu đãi viên người Pháp dong dỏng, duyên dáng bưng khay kẹo, bánh ngọt và nước hoa quả đến mời hành khách. Cặp dưới khay bánh kẹo cô ta cầm một bản quảng cáo các đường bay của hãng “Pháp Quốc Hàng Không” in màu sắc sặc sỡ. Đến chỗ Phan Thúc Định, Định nhặt mấy chiếc kẹo sôcôla sữa, rồi lịch sự hỏi cô chiêu đãi viên: - Xin lỗi, cô có thể cho tôi xin tờ quảng cáo này được không? Cô chiêu đãi viên nhìn Định, mỉm cười, đưa tờ quảng cáo cho Định: - Rất vui lòng biếu ông… Mắt người đàn ông đeo kính mát nhìn quanh tờ quảng cáo. Tờ quảng cáo gấp nếp lại thành nhiều trang nhỏ, ở trang đầu tiên có in hình huy hiệu hãng “Pháp Quốc Hàng Không” nửa mình một con ngựa trắng có cánh bay lên và ảnh cổng khải hoàn môn của thủ đô nước Pháp. Phan Thúc Định hỏi thêm cô chiêu đãi viên: - Ở Huế, tôi muốn đặt trước vé máy bay thì gọi điện theo số bao nhiêu? Cô chiêu đãi viên vẫn duyên dáng: - Thưa ông số điện thoại 377. Lúc nào chúng tôi cũng mong được hầu ông. - Cảm ơn cô. Cô chiêu đãi viên đi sang hàng ghế khác. Phan Thúc Định cất tờ quảng cáo vào trong túi áo nói với Vân Anh: - Anh thích có những kỉ niệm nho nhỏ trong mỗi chuyến đi. Em về nhà ai ở Huế? – Định hỏi. - Chú em hiện nay làm việc ở Huế. Em về nhà chú em. Chú đã hẹn ra đón em ở sân bay. - Em về thăm nhà thôi chứ? Có dự định làm gì nữa không? Vân Anh nói nho nhỏ như một hơi gió thoảng bên tai Định: - Em định tìm gặp cho được anh Lê Mậu Thành. Phan Thúc Định nhìn vào mắt Vân Anh. Anh thấy đôi mắt đượm buồn ấy sâu như biển thẳm. Óc anh nảy ra một ý nghĩ rất nhanh khi nghe Vân Anh nhắc đến tên Lê Mậu Thành. Sự gặp gỡ tình cờ với người con gái này biết đâu chẳng giúp anh giải được con toán hắc búa do anh em họ Ngô ra cho anh. Gặp Lê Mậu Thành bây giờ thì không nên, nhưng vẫn phải bắt được liên lạc với Lê Mậu Thành cho Ngô Đình Diệm. Hay nhất là qua một người khác để có thể chắp được đường dây với Lê Mậu Thành. Có thể qua Vân Anh. Phan Thúc Định cũng nói nhỏ: - Em làm thế nào tìm gặp được anh ấy? Giọng Vân Anh có vẻ bí mật: - Em sẽ nói chuyện với anh sau. Những khu rừng màu xanh bát ngát, con đường số 1 như một sợi chỉ, rồi lại đến làng mạc ruộng nương nhỏ xíu hiện ra dưới thân máy bay. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Phú Bài. Hành khách lục tục bước xuống. Người đàn ông đeo kính mát dần dà bước xuống sau Phan Thúc Định và Vân Anh. Ở phòng khách đã có một người đàn ông cao to, mặt bèn bẹt, đầu vuốt mượt, y phục sang trọng và diêm dúa một cách quá đáng, bước ra đón Vân Anh. Vân Anh chào: - Chú ạ! Chú bận thế mà cũng ra đón cháu. Rồi cô quay sang giới thiệu với Phan Thúc Định: - Đây là chú em, em đã nói chuyện với anh. Xin giới thiệu với chú đây là anh Phan Thúc Định, tiến sĩ luật khoa, bạn của con từ hồi ở bên Pháp. - Hân hạnh! - Hân hạnh! Cao Xuân Đăng hỏi Định: - Có ai đi đón anh không? - Thưa ông, không ạ. - Anh về phố nào? Tôi có xe, xin mời anh về cùng một thể. - Cảm ơn ông, tôi ở khách sạn. Tôi có một số việc mua bán ở ngoài phố nữa. Xin ông cho phép vài hôm nữa tôi được đến thăm ông và Vân Anh. Xin mời ông và Vân Anh cứ về trước. Cao Xuân Đăng không mời thêm câu nào nữa, mở ví rút ra một cái danh thiếp ghi địa chỉ mình, chìa tay ra bắt tay Định: - Đây là địa chỉ của tôi, lúc nào rảnh, mời anh đến chơi. Vân Anh cũng chìa bàn tay nuột nà, móng bôi thuốc đỏ chót ra: - Thế nào anh cũng lại thăm em nhé! Tạm biệt! Hai chú cháu bước (tới chiếc) Xitrôen 15 màu đen. Cao Xuân Đăng cầm lái, mở máy. Bên trong cửa xe, Vân Anh còn thò bàn tay trắng muốt ra vẫy Định. Định cũng vẫy tắc xi về khách sạn Thuận Hoá Người đàn ông đeo kính mát, lúc ấy mới cùng con gái bước ra đường. Miệng gã lẩm bẩm một con số: - 377. Trên cái cặp du lịch gã xách, có một cái thiếp nhỏ ghi tên: Phạm Xuân Phòng. X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 3: Gặp Lại Người Xưa… Đồng chí Vũ Long – trưởng ban công tác đặc biệt Trị Thiên – đặt tập hồ sơ trên tay xuống, hỏi đồng chí Trần Mai – đội trưởng một đội công tác nội thành của thành phố Huế – ngồi trước mặt mình: - Đồng chí vừa nói trong đơn xin phép vào chiến khu của Cao Thị Vân Anh ghi là xin vào thăm ai? - Báo cáo anh, cô ta xin vào thăm Lê Mậu Thành và nói là chồng chưa cưới. - Đồng chí cho tôi biết rõ hơn về Vân Anh. Trần Mai mở chiếc sắc-cốt đặt bên mình, lấy ra quyển sổ tay, anh tìm một trang có ghi về điều Vũ Long hỏi, nói: - Như anh đã biết sơ qua đấy: Vân Anh, năm nay hai mươi nhăm tuổi, con án sát Cao Xuân Thọ. Thọ bề ngoài là một quan lại của triều đình bù nhìn Huế, hắn còn là một chỉ điểm riêng của tên khâm sứ cáo già Pháp Gơ-ráp-phơi. Hắn đã cài một số tay chân xuống tận các xã, thôn để dò la những hoạt động của nhân dân. Hắn đã xử rất nặng những người đấu tranh cho độc lập tự do. Ngay cả những viên quan lại của Nam triều, người nào liêm khiết, dễ dãi với nhân dân cũng bị hắn báo cáo ngầm cho Pháp biết. Hắn đã nhận nhiều ân huệ về tiền nong, ruộng đất của thực dân Pháp ban thưởng cho công lao đó. Thực dân Pháp đang dự định thăng hắn lên tổng đốc thì cách mạng tháng Tám bùng nổ. Hắn đã chống đối lại cách mạng, hô lính bắn vào đoàn nhân dân biểu tình thị uy cướp chính quyền. Trước khí thế của nhân dân, bọn lính không theo lệnh hắn đã tan chạy hết. Hắn bị bắt và bị toà án nhân dân kết án tử hình. Vợ hắn đem Vân Anh về ở với người em ruột của hắn là tham tá Cao Xuân Đăng. Ít lâu sau, vợ hắn cũng chết, Vân Anh ở với Cao Xuân Đăng. Đăng ra làm tay sai cho Pháp, khi Pháp quay trở lại. Do công lao của tên anh ruột trước đây, do thái độ trung thành với đế quốc, Đăng được bọn thực dân cho làm tỉnh trưởng. Hắn đang có âm mưu muốn leo nữa, thường thì thọt đi lại nhà riêng tên Nguyễn Đệ, đổng lí văn phòng của Bảo Đại, định làm một ghế bộ trưởng, thứ trưởng gì đó của chính phủ bù nhìn. Hắn nuôi Vân Anh cũng có dụng ý riêng. Hắn muốn dựa vào công lao đối với thực dân và cái chết của tên Thọ để được tín nhiệm với Pháp. Tuy mang tiếng là nuôi Vân Anh nhưng thực ra tất cả tiền ăn học của Vân Anh hồi ở Huế cũng như học bổng sang Pháp du học của Vân Anh đều do Pháp trợ cấp hết. Hình như chính Vân Anh cũng không biết điều đó, bởi mọi việc đơn từ xin xỏ, kể công với thực dân Pháp đều do tên Đăng làm, mọi giấy tờ chứng nhận cũ của tên Thọ, Đăng còn giữ được cả. Riêng về Vân Anh thì hồi còn đi học ở Huế thường ít nói, hay buồn, hay tránh những cuộc tụ họp đông đảo của học sinh, thanh niên. Trong thời kì này, Vân Anh gặp Lê Mậu Thành và yêu Thành, sau đó Lê Mậu Thành ra vùng ta thì Vân Anh cũng sang Pháp. Theo sự điều tra của ta thì thời kì Vân Anh ở Pháp, chủ yếu là cô ả đi học chứ chưa có hoạt động gì cho bọn đế quốc cả. Lúc sang học ở Kem-brít giơ thì có hiện tượng hay vào phòng thông tin Mỹ mượn sách báo. Mùa hè năm nay trước khi về nước, cô ả có sang Mỹ một tháng dưới danh nghĩa ở trong đoàn đi du lịch tìm hiểu nước Mỹ, do phòng thông tin Mỹ ở Anh tổ chức. Việc sang Mỹ này Vân Anh không cho ai biết cả. Về nước cô ta có đến phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn vài lần. Theo phán đoán của tôi thì có thể là Vân Anh đã bị bọn tình báo nước ngoài mua chuộc trong thời kì ở Anh. Việc cô ta đến phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn chắc không phải chỉ là để mượn sách đọc báo, mà có thể là để nhận chỉ thị gì của bọn địch. Bởi vì rất nhiều tên gián điệp của Mỹ không bao giờ đến tiếp xúc trực tiếp với Toà đại sứ Mỹ mà chỉ qua bọn đội lốt nhân viên phòng thông tin. Đồng chí Vũ Long lắng nghe Trần Mai nói rất chăm chú. Mái tóc sớm hoa râm, trên khuôn mặt hãy còn trẻ của anh, hơi nghiêng nghiêng. Đôi lúc lông mày anh hơi cau lại như phân tích những sự việc Trần Mai kể, anh cầm bút ghi một vài chữ vào giấy. Khi Trần Mai nói xong, anh mỉm cười: - Không phải có thể nữa đâu mà chính Vân Anh đã là người của tình báo nước ngoài rồi đấy. Tài liệu của đỏng chí thu thập được và sự phán đoán của đồng chí về Vân Anh rất phù hợp với những điều đồng chí X.30 báo cáo về. Việc Vân Anh xin ra vùng ta nhờ đồng chí X.30, chúng ta cũng đã được biết trước. Nhưng cô ta ra đây mục đích gì là chúng ta chưa rõ. Việc xin phép ra này cũng là cách cô ta đánh một ván bài cao tay với ta đây. Vân Anh xin phép công khai chứ không lẻn ra bí mật vì biết rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của ta, cô đi bí mật thì ta cũng biết và có thể ta sẽ vin vào cớ đó mà giữ cô ta lại, gây thêm nhiều rắc rối cho cô ta. Còn một điều nữa, nếu Vân Anh lẻn ra bí mật tiếp xúc với Lê Mậu Thành thì sẽ gây thêm cho ta mối nghi ngờ lớn đối với Thành – nếu chúng ta chưa hiểu biết gì về Thành. Cô ta xin phép công khai như thế này để dễ đánh lạc hướng chúng ta, làm chúng ta tin rằng một khi đi đàng hoàng như thế là không có ẩn ý gì như trăm nghìn người khác vẫn ra thăm người thân ngoài vùng ta. Nếu chúng ta không cho phép Vân Anh ra, Vân Anh vin vào cớ đó nói rằng chúng ta ngăn cản sự đi lại, chia cắt tình cảm gia đình, buông “bức màn sắt” – như bọn địch vẫn thường rêu rao một cách khả ố. Vả lại, như thế chẳng khác gì báo cho địch rằng ta đã biết cô ta là ai rồi và làm cho Lê Mậu Thành thấy động. Trần Mai nhìn người thủ trưởng của mình và nhận xét thấy gần đây tóc Vũ Long lại thêm nhiều sợi bạc nữa. Anh nghĩ thầm: “Làm gì mà không sớm bạc đầu. Ngũ Tử Tư chỉ một đêm suy nghĩ, tóc đã trắng xoá hết, huống chi đằng này phải đối phó với những kẻ địch vô cùng nham hiểm độc ác, nhiều mưu sâu kế hiểm, len lỏi cài vào khắp nơi. Làm sao phân biệt được người ngay với kẻ gian? Người ngay thì phải bênh vực, bảo vệ. Kẻ gian thì phải trừng trị, nhưng không phải đối phó với kẻ gian nào cũng giống với kẻ gian nào. Người làm công tác đặc biệt này phải hàng ngày hàng giờ luôn suy nghĩ, nhận xét, phán đoán, phân tích, tổng hợp đề ra biện pháp, kế hoạch… Mình đến năm bốn mươi tuổi cũng bạc đầu sớm mất”. Anh lại có thêm một nhận xét nữa về thủ trưởng của mình: “Mỗi lúc Vũ Long suy nghĩ thì nét mặt anh thật nghiêm nghị, già hẳn đi, nhưng khi anh cười lại thấy anh như trẻ hắn lại, niềm lạc quan, yêu đời ánh lên trong cặp mắt đen thông minh, với hàm răng trắng bóng của anh”. Trần Mai tự nhủ: “Công tác này làm người ta già trước tuổi nhưng mình lúc nào cũng phải giữ được lạc quan như anh ấy. Điều ấy thật là khó, tuy vậy đấy cũng mới chỉ là một nét của con người cách mạng”. Thấy Vũ Long trở lại vấn đề Lê Mậu Thành, Trần Mai hỏi: - Anh đã xác minh được vấn đề Lê Mậu Thành chưa? - Vấn đề Lê Mậu Thành đã rõ rồi. Lê Mậu Thành tên thật là Lê Hùng. Bố hắn là Lê Dục, thường gọi là Hàn Dục, có đồn điền trồng cà phê ở Kon-tum và có nhiều ruộng đất ở Quảng Ngãi. Lê Mậu Thành là con thứ hai của Hàn Dục. Vào đảng Đại Việt Quốc xã khi Nhật sang, sau khi Nhật đầu hàng, hắn cùng đồng bọn tìm cách lẩn trốn. Hùng đổi tên là Lê Mậu Thành, giấu kín quá khứ, đi dạy học ở trường Khải Định. Hắn nổi tiếng nói chuyện hay, nên đã lôi kéo được một số thanh niên học sinh. Năm 1951, hắn bắt liên lạc với ta, bỏ dạy học, từ giã bạn bè ra vùng giải phóng xin tham gia kháng chiến. Chúng ta đã đón tiếp hắn niềm nở, theo nguyện vọng muốn tham gia công tác của hắn, xếp hắn công tác ở cơ quan giáo dục. Hai năm nay, ở co quan hắn làm việc rất tích cực, chứng tỏ có nhiều khả năng, hay đi lại thăm hỏi săn sóc anh em, được anh em trong cơ quan tín nhiệm. Nhưng nghiên cứu lí lịch tự khai của hắn, ta thấy hắn giấu cái quá khứ tham gia Đảng Đại Việt mà hắn tưởng ta không biết. Đồng thời bảo vệ cơ quan cho biết hắn thường xuyên lân la tiếp xúc với nhiều người trong đó có một số phần tử có nghi vấn về thái độ chính trị. Những điều ấy làm chúng ta phải nghiên cứu. Một thời gian chúng ta chưa kết luận được gì về Lê Mậu Thành vì thấy hắn hoàn toàn không liên hệ gì với tay chân của bọn Phòng Nhì Pháp cả, trong khi hầu hết bọn Đại Việt khác đều chuyển sang làm tay sai cho Pháp. Gần đây theo bản báo cáo của đồng chí X.30, thì ra hắn là người của Ngô Đình Diệm cài vào hàng ngũ ta… Sở dĩ ta vẫn để Lê Mậu Thành ở đây vì muốn theo dõi thêm hoạt động của hắn, để có những chứng cứ cụ thể mà hắn không chối cãi được và xem đồng bọn của hắn như thế nào? Ta phải phán đoán xem mục đích của Vân Anh gặp hắn để làm gì? Có phải là vì tình yêu hay đây chỉ là mối dây liên lạc đầu tiên giữa bọn gián điệp. Hai người cùng im lặng. Từ bên ngoài một tiếng chim hót lảnh lót bay vào. Trần Mai hỏi: - Bên uỷ ban hỏi chúng ta có cho phép Vân Anh vào thăm Lê Mậu Thành không? Chúng ta sẽ trả lời uỷ ban như thế nào? Giọng Vũ Long cương quyết: - Chúng ta sẽ cho phép Vân Anh vào gặp Lê Mậu Thành. Chúng ta làm cho chúng tưởng rằng chúng ta không nghi ngờ gì cả. Quyết định như thế này: Tôi sẽ báo cho uỷ ban biết ý kiến của chúng ta, đề nghị uỷ ban cứ cho phép Vân Anh vào chiến khu thăm Thành. Còn đồng chí trực tiếp đến cơ quan Lê Mậu Thành đang công tác, hoàn toàn giữ bí mật chuyện Vân Anh vào thăm Thành, đề nghị cơ quan chuyển ngay bộ phận của Thành làm việc ra một chỗ khác thật xa nơi cơ quan đang đóng, lấy cớ vì lí do an ninh. Sau khi chuyển xong độ một tuần lễ thì ta cho Vân Anh vào. Đồng chí sẽ đến chỗ Thành vừa đến đóng vai… (Vũ Long nói nhỏ vào tai Trần Mai). Đồng chí đề nghị với cơ quan giáo dục đón tiếp Vân Anh thật tốt. Sau đó, kế hoạch cụ thể sẽ như thế này. X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 4: Câu Chuyện Tình Của Người Cán Bộ Lê Mậu Thành cầm một gói giấy nhỏ bước vào phòng làm việc của đồng chí Nguyễn Phong – thủ trưởng cơ quan – đang lúi húi ghi chép trên quyển vở. Nghe tiếng gõ cửa, đồng chí Nguyễn Phong đứng lên. Thấy Thành, anh đứng dậy, niềm nở: - Mời anh vào chơi. Chị Vân Anh về rồi phải không anh. Mời anh ngồi. Lê Mậu Thành gật đầu: - Vâng, cô ấy đi đêm hôm qua. Vì khuya không dám làm phiền anh nên cô ấy nhờ tôi sáng nay chuyển đến anh lời cảm ơn anh và các anh, các chị trong cơ quan đã đón tiếp cô ấy niềm nở trong mấy ngày vừa qua. Vẫn giọng cởi mở, Nguyễn Phong nói: - Có gì đâu mà phải cảm ơn. Chiều hôm qua chị ấy cũng có đến đây gặp tôi gởi lời chào trước. Tôi có nói chuyện với chị ấy và nhờ chị ấy chuyển hộ lời chúc sức khoẻ của chúng tôi đến gia đình chị ấy. Tôi cũng xin lỗi chị ấy vì hoàn cảnh kháng chiến còn đang gian khổ, khó khăn, chúng tôi lại bận quá, nên việc đón tiếp chị ấy thế nào cũng có điều sơ xuất. Lê Mậu Thành dè dặt: - Cô ấy có nói chuyện gì với anh không? - Chị ấy nói với tôi là rất sung sướng được gặp anh, thấy anh mạnh khoẻ. Hồi ở nước ngoài, chị ấy thú thực không tưởng tượng nổi cuộc sống kháng chiến của chúng ta vẫn ung dung, lạc quan như thế này. Nhiều điều làm chị ngạc nhiên. Chị ấy nói: rất tự hào vì anh đã đi theo kháng chiến. Thành hơi nhếch miệng cười: - Vâng, cô ấy cũng nói với tôi như vậy. Hắn đặt cái gói nhỏ trên góc bàn giấy của Nguyễn Phong, móc túi lấy ra một bao thuốc lá Phi-líp, đưa cho anh: - Đây là quà cô ấy mang ra. Nguyễn Phong không cầm bao thuốc nói: - Cảm ơn anh, tôi có nghiện đâu. Thỉnh thoảng, vui anh em thì tôi hút một điếu thôi. Anh giữ mà hút. Hôm trước chị Vân Anh cũng mang cho tôi mấy bao, tôi chia đều cho anh em cả. - Tôi hãy còn anh ạ. Đây là phần riêng của tôi để dành biếu anh. Nguyễn Phong đỡ lấy bao thuốc, nhẹ nhàng bóc một đầu bao, rút ra một điếu. - Tôi xin anh một điếu vậy. Dứt khoát tôi không nhận đâu. Không hút để nó mốc thì phí đi. Anh trao lại bao thuốc cho Thành. Không biết làm thế nào hơn, Thành đành phải nhận lấy nó. Hắn mở bọc giấy trên bàn: - Tôi thấy có bổn phận phải báo cáo với anh: Vân Anh đã mang ra làm quà cho tôi một số thứ. Ngoài thuốc lá, đường sữa ra, cô ấy tặng tôi một chiếc đồng hồ Mô-va-đô, một đôi bút máy Pác-ke 51, một cái bật lửa Flam-ma-ri-ông. Tôi từ chối nhưng cô ấy không nghe. Tôi không muốn giấu cơ quan điều gì và xin mang nộp lại toàn bộ những vật ấy cho cơ quan. Anh nhận hộ. Nguyễn Phong chăm chú nghe. Cặp mắt anh thờ ơ nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, hộp bút máy, chiếc bật lửa sáng óng ánh trên tờ giấy Lê Mậu Thành vừa giở ra. Anh mỉm cười bảo Thành. - Không. Những vật này là của Vân Anh tặng anh, là thuộc quyền sở hữu của riêng anh, anh cứ việc giữ lấy mà dùng. Anh báo cáo lại chúng tôi biết thế này là tốt rồi. Lê Mậu Thành cũng cười: - Tôi vẫn thấy phải báo cáo đầy đủ với anh. Vì những đồ ăn, thức uống không sao, nhưng những đồ dùng loại này tôi không dám giữ, sợ một vài anh em nào đó trong cơ quan không hiểu rõ lại thắc mắc. Nguyễn Phong gạt đi: - Không. Anh không phải lo gì điều ấy. Anh cứ giữ mà dùng. Anh em ở đây đều hiểu anh cả. - Vâng. tôi cũng biết anh em trong cơ quan của ta phần lớn là trí thức – Thành đưa đà theo câu nói của Nguyễn Phong. Có tiếng lao xao ở ngoài hè nhà, ai hỏi và ai trả lời một câu gì đó rồi một người ngoài ba mươi tuổi, tầm thước, da ngăm đen, mất sáng và tươi, mặc bộ quần áo nâu, đeo sắc-cốt hiện ra trước khung cửa làm việc của Nguyễn Phong. Thành gói mấy đồ vật của Vân Anh tặng vào tờ giấy, định đứng dậy. Nguyễn Phong giữ hắn lại: - Anh cứ ngồi chơi. Đây là Lê Quang, cán bộ uỷ ban về kiểm tra tình hình và bàn phương hướng phát triển các ngành trong khu vực chúng ta. Lê Quang bước vào với nụ cười cởi mở trên khuôn mặt nắng gió: - Xin lỗi, các anh có nói chuyện gì riêng không? Nguyễn Phong nắm chặt tay Lê Quang rồi giơ tay giới thiệu Thành: - Chúng tôi nói chuyện xong rồi. Mời anh vào. Xin giới thiệu với anh: giáo sư Lê Mậu Thành, một trí thức nổi tiếng ở Huế trước đây. Lê Quang niềm nở bắt tay Thành: - Tôi nghe tiếng anh đã lâu, hôm nay mới được gặp mặt. Tôi cũng là người sinh trưởng ở Huế. - Tôi cũng rất sung sướng được quen biết anh – Lê Mậu Thành đáp. Nguyễn Phong nói đùa: - Hai anh ở cùng một thành phố, lại cùng họ Lê cả, có khi có họ hàng với nhau mà không biết đấy. Anh Quang sẽ ở lại công tác trong cơ quan ta vài ngày. Hay là trong thời gian ở đây, anh Quang ở cùng phòng với anh Thành cho vui. Đồng chí Đông, người ở cùng phòng với anh Thành, đi công tác hơn tuần nay chưa về. Quang gật đầu: - Nếu thế thì còn gì bằng nữa. Tôi có bạn để nói chuyện rồi. Tôi nhớ những kỉ niệm về Huế lắm. Tối hôm đó, cơ quan tổ chức nói chuyện thời sự. Mọi người trong cơ quan đều tập trung ở hội trường. Lê Quang không tham dự buổi nói chuyện đó, ở nhà làm việc. Chín giờ rưỡi, buổi nói chuyện kết thúc. Lê Mậu Thành về đến phòng mình vẫn thấy Quang một mình, một ngọn đèn, hí húi đọc và ghi chép. Liếc nhanh mặt trên đầu mấy tài liệu đánh máy Lê Quang đặt trước mắt, Thành thấy rõ có dấu chữ nhật đóng đỏ chói hai từ “Tối mật”. Làm như không đến ý đến, Thành hỏi: - Anh chưa đi nghỉ? Quang vừa trả lời Thành, vừa xếp những giấy tờ cẩn thận cho vào sắc-cốt: - Chưa anh ạ, tôi thường quen làm việc khuya. - Anh cứ làm việc tự nhiên. Quang treo sắc-cốt lên một chiếc đinh ở trên đầu. - Thôi, anh ạ. Hôm nay đi nhiều tôi hơi mệt. Tôi có mang theo ít chè ngon, pha một ấm, vừa uống, vừa đợi anh đây. Thành hưởng ứng: - Tôi cũng có ít thuốc lá ngon đặc biệt. Mọi tối, không có sinh hoạt, học hành gì, anh em cũng thường quây quần nhau quanh ấm chè nói chuyện. Thành đặt lên bàn bao thuốc lá Phi-líp. Quang ngạc nhiên: - À, thuốc lá đặc biệt thật. Ở đâu ra thế này? - Của người yêu cho – Thành đáp. Quang cầm phích đổ thêm nước sôi vào ấm chè. Anh tráng hai cái chén con: - Chắc chị ấy ở trong nội thành gửi ra. - Không, cô ấy vừa mới ra thăm tôi. Quang rót nước chè ra chén: - Xin mừng anh. Chị ấy lại về ngay rồi à? - Vâng, cô ấy vừa mới đi đêm qua. Quang nâng một chén nước đưa cho Thành: - Anh uống thử xem chè này có ngon không? Tôi thích uống chè từ hồi ông thân sinh ra tôi còn sống, hay bắt tôi đứng hầu chè. Uống chè ngon và được đọc thơ hay là sở thích duy nhất của cụ… Câu chuyện của hai người trở về những phong tục, tập quán cổ của Huế, những món quà đặc biệt của chợ Đông Ba, những buổi chiều mùa hè hóng mát trên cầu Tràng Tiền, những tiếng hò buồn bã mênh mông chạy dài trên dòng sông Hương, những bức tường thành cổ rêu phong đứng trầm tư chứng kiến sự diệt vong của triều đại phong kiến cuối cùng, những con đường lấp loáng nắng, rì rào tiếng gió thở than trên vòm cây thông của các lăng tẩm vua Nguyễn, những buổi tan học đường phố chao đảo bởi những cái nón bài thơ và sáng rực màu tím áo dài của các cô nữ sinh trung học. Lê Mậu Thành rất thích giọng nói về Huế say sưa chứng tỏ một tình cảm yêu mến đặc biệt đối với thành phố mình sinh ấy của Lê Quang. Càng nói chuyện, Thành càng thích Quang vì thấy Quang có một tâm hồn văn học, một trí thức về lịch sử khá sâu sắc mà Thành có thể nói chuyện tương đắc cả đêm không biết chán. Câu chuyện dẫn dần đến tình cảm riêng tư, Thành hỏi về gia đình Lê Quang và được biết Quang chưa lập gia đình riêng. Trước khi đi theo kháng chiến, anh có yêu một cô gái thuộc dòng tôn thất. Hai người quen nhau từ hồi cùng học trường Quốc học. Kháng chiến bùng nổ, mỗi người đi theo một con đường. - Cô ta là Công Tằng Tôn Nữ – Quang nói – tâm hồn rất lãng mạn, khi trước yêu nhau, chúng tôi tưởng không bao giờ có thể xa nhau được và chỉ cần sống với tình yêu thôi. Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra trước mặt tôi một chân trời mới. Tôi thấy có cái còn cao đẹp hơn, tôn quý hơn tình yêu rất nhiều. Đó là Tổ quốc, là dân tộc. Đang tuổi thanh niên, nhiệt tình hăng hái, tôi lao vào những hoạt động xã hội. Tất nhiên chúng tôi ít có thời gian đi chơi, gặp gỡ nhau hơn trước. Điều ấy, làm cô ta không bằng lòng. Nhưng làm thế nào được? Cách mạng vừa thành công, công việc bề bộn sôi nổi, việc gì cũng cần thiết, việc gì cũng quan trọng, việc gì cũng đòi hỏi phải làm ngay, ai có thể ngồi im được. Muốn gần nhau luôn, chỉ có một cách là cô ta cũng phải lao vào công tác như tôi. Tôi đã nghĩ đến điều đó. Anh bảo còn gì gần gũi đẹp đẽ bằng đi hoạt động cũng có nhau, đi họp hành cũng có nhau. Nhưng tôi không thể nào đưa cô ta ra khỏi được cái nhà đầy đồ đồng, tủ chè, sập gụ khảm xà cừ với những tập quán phong kiến nặng nề, với ông bố và bà mẹ luôn luôn tự hào về dòng giống tôn thất của mình, để tham gia những hoạt động xã hội được. Những lúc gặp nhau, tôi sôi nổi kể lại những hoạt động của tôi và lứa bạn trẻ cùng tuổi cho cô ta nghe thì cảm thấy những điều ấy không hấp dẫn đối với cô ta. Dần dân, tôi phát hiện rằng: nếu Cách mạng tháng Tám mở ra cho tôi một cuộc sống mới say sưa, tự hào, đầy ý nghĩa thì đối với gia đình cô ta, với bản thân cô ta như có cái gì mất mát, sứt mẻ. Trong khi tôi sôi nổi thì cô ta dè dặt. Trong khi tôi muốn hát thật to ca ngợi độc lập tự do thì cô ta im lặng nghe ngóng. Đến ngày toàn quốc kháng chiến thì tôi lên đường đi theo kháng chiến, còn gia đình cô ta ở lại thành. Con đường đến đây chia làm hai. Gần đây, tôi được tin cô ta lấy một viên sĩ quan ngự lâm quân của Bảo Đại và đã có hai con… Lê Mậu Thành im lặng nghe. Thấy Lê Quang ngừng lại, hắn hỏi: - Anh có buồn không? Một nụ cười thoáng qua trên đôi môi Lê Quang: - Cái gì tan vỡ mà chẳng buồn, huống chi là chuyện tình yêu. Nhưng tôi cũng rút ra được một kết luận cho bản thân tôi, xin lỗi anh hơi có vẻ triết lí một chút, là người ta chỉ có thể thực yêu nhau, thực sống với nhau có hạnh phúc được khi mà thế giới quan, nhân sinh quan hợp nhau. Tư tưởng đã không hợp nhau thì trước sau cũng sẽ tan vỡ. Câu chuyện riêng của Quang hình như tác động mạnh đến Lê Mậu Thành. Hắn trầm ngâm suy nghĩ rồi thong thả nói: - Cái kết luận của anh đúng đấy. Tôi cũng ở trường hợp tương tự như anh. Bây giờ chưa tan vỡ, nhưng sợ sau này cũng tan vỡ mất. Hắn chậm rãi kể cho Quang nghe câu chuyện tình duyên giữa hắn với Vân Anh. Chuyện những ngày yêu nhau thơ mộng ở Huế. Chuyện Thành cương quyết gạt bỏ tình riêng, gạt bỏ cuộc đời danh vọng, xe hơi, nhà lầu đi theo kháng chiến. Chuyện Vân Anh được chú cho sang Pháp học và mới đây tốt nghiệp, trở về đã ra chiến khu tìm Thành. - Cô ấy vẫn đẹp như xưa, vẫn yêu tôi như xưa – Thành nói – Phải có một tình yêu chung thuỷ lắm, cô ấy mới vượt được tất cả cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ở nước ngoài, mới vượt bao nhiêu khó khăn ra đây tìm gặp tôi. Nhưng giá cô ấy ra đây để đi theo kháng chiến cùng với tôi thì đáng quý biết bao nhiêu. Tôi sẽ yêu cô ấy hơn biết bao nhiêu lần. Đằng này, không thế. Tôi thú thực riêng với anh điều này: cô ấy lại rủ tôi bỏ kháng chiến về nội thành sống với cô ấy. Cô ấy nói đến tháng trăng mật ở Ni-xơ, nói đến một căn biệt thự xinh xắn bên bờ sông Hương, một chiếc xe hơi du lịch kiểu mới cho hai vợ chồng, nói đến cái bục giảng dạy ở một trường đại học nào đó với số lương hơn chục ngàn đồng. Những cái ấy tôi biết cả rồi và tôi đã bỏ tất cả để đi theo kháng chiến vì tôi nghĩ như một nhà thơ đã nói: “Ôi, nhà lầu vợ đẹp làm chi? Khi dạ vẫn ngậm sầu hồn đất nước”. Những cái ấy không thể làm xoá mờ được lí tưởng tôi đã theo. Trước đây, ở Huế, đã sống giữa cảnh nhà cao, cửa rộng đầy đủ tiện nghi như thế, tôi có thấy sung sướng hạnh phúc đâu khi quanh tôi bọn cướp nước ngang nhiên giày xéo tổ quốc tôi, đồng bào tôi đang vùng dậy đấu tranh. Cô ấy mang cho tôi nhiều quà, đồng hồ, bút máy… Nhưng tôi dửng dưng vì tôi đã bỏ những thứ quý gấp hàng vạn lần mấy cái đồ lặt vặt đó để đi theo kháng chiến. Chẳng lẽ bây giờ tôi lại đi tham mấy thứ đó, coi chúng hơn nhân phẩm, danh dự của tôi? Tôi có nói nhiều với Vân Anh. Cô ấy không dám nói gì về việc tôi đã bỏ tất cả để đi theo kháng chiến nhưng vẫn khăng khăng là cô ấy không chịu được khổ; không thể theo tôi ra ngoài này sống được; lấy nhau, cô ấy muốn cuộc sống của hai người phải đầy đủ về vật chất, sống đầy đủ tiện nghi và cuộc sống ấy chỉ có thể có ở trong nội thành. Cô ấy nói với tôi: “Chúng ta xa nhau lâu rồi. Tuổi trẻ của người ta rất chóng qua. Em chỉ muốn từ nay về sau, chúng ta sống hoàn toàn bên nhau, bao nhiêu thời gian chúng ta đều để dành cho nhau. Chúng ta phải được hưởng sung sướng trong tuổi trẻ. Bao nhiêu người ở nội thành nhưng tâm hồn vẫn hướng về kháng chiến thì sao? Anh không muốn nhìn thấy bọn Pháp đốt phá đất nước thì chúng ta đi ra nước ngoài sống…”. Lê Mậu Thành ngả người trên giường, bỏ lửng câu chuyện, kéo một hơi thuốc lá dài, mắt đăm đăm nhìn lên mái nhà. Quang hỏi: - Anh trả lời chị Vân Anh sao? Thành ném mẩu thuốc lá còn khá dài ra cửa, đáp: - Tôi trả lời cô ấy: như thế là nguỵ biện. Đã vào thành là theo địch rồi. Đi nước ngoài lúc này là trốn đấu tranh, trốn trách nhiệm đối với đất nước. Tôi không thể sống như thế được. Cuối cùng, cô ấy giận dỗi trở về. Thành nói xong im lặng, mắt nhìn bâng quơ lên mái nhà. Quang cũng im lặng như thông cảm với sự đấu tranh dữ dội, sự dằn vặt ghê gớm đang diễn ra trong tâm tư Thành. Tiếng con mối chặc lưỡi trên xà nhà nghe rõ mồm một. Lát sau, Thành thở dài: - Chưa ai trong hai chúng tôi, nói đến sự tan vỡ, mà tôi cảm thấy sự tan vỡ đã bắt đầu. Người ở một phương, người ở một phía, mỗi người đi theo một con đường, rồi mỗi người sẽ có một cuộc sống khác nhau. Nhưng tôi không thể nghe theo cô ấy được. Tôi không thể phản bội lại lí tưởng của tôi, không thể phản bội lại Tổ quốc để mong sống một cuộc sống sung sướng cá nhân. Chung quanh vắng lặng, không có một tiếng động. Trời đã về khuya. Lê Quang bảo Thành: - Tôi chắc anh sẽ buồn một thời gian nhưng tôi tin rằng cũng như tôi, anh sẽ tìm thấy niềm an ủi lớn trong công tác, trong tập thể. Tuy vậy, chuyện riêng tư của anh cũng có điều khác tôi. Cô Công Tằng Tôn Nữ của tôi thì đi lấy chồng, có con chắc quên hết chuyện cũ rồi; còn chị Vân Anh thì vẫn yêu anh, vẫn chờ đợi anh. Nếu chị ấy tìm ra gặp anh lần nữa, anh thử cố gắng thuyết phục xem… Khuya rồi, chúng ta tắt đèn đi nằm nhé. Thành như chợt nhớ ra: - Vâng, xin lỗi anh, tôi quên mất hôm nay anh đi nhiều đã mệt rồi. - Có gì đâu. Tôi cũng thích được nói chuyện với anh. Anh có tin tôi thì anh mới kể cho tôi nghe chứ. Mong sao được về công tác đây luôn để nói chuyện với anh. Thành ngồi dậy buông màn chiếc giường cá nhân của mình. Quang cũng tắt đèn, lên giường mình buông màn. Ánh trăng cuối tuần bị mây che làm cho nhợt nhạt hắt qua song cửa sổ tre vào một thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo. Đêm càng về khuya, sự im lặng càng mênh mông bao la, có lẽ đã quá hai giờ sáng. Tiếng thở của Lê Quang đều đều chứng tỏ anh đã ngủ say. Có tiếng động khẽ bên giường Lê Mậu Thành. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều, Lê Mậu Thành ngồi dậy. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành vén màn, đặt chân xuống đất. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành rón rén đứng dậy. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều, nhưng từ trong màn, mắt Quang hơi hé ra nhìn như dán chặt vào cái bóng mờ mờ của Lê Mậu Thành và chiếc sắc-cốt treo đầu giường. Lê Mậu Thành xỏ chân vào dép, rón rén… mở cửa đi ra ngoài. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Mấy phút sau, Thành từ bên ngoài vào. Tiếng cửa tre nhè nhẹ cót két. Tiếng chiếc then ngang lạch cạch cũng nhè nhẹ. Mắt Quang hết sức tập trung theo dõi cái bóng mờ mờ của Lê Mậu Thành. Nhưng cái bóng ấy rón rén đi về phía giường mình, chui vào trong màn, nằm xuống. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều như ngủ say. Đêm hoàn toàn yên tĩnh. X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 5: Số Điện Thoại 377 Phan Thúc Định đi dọc từ khách sạn về phía cầu Tràng Tiền. Buổi sáng, gió sông Hương nhè nhẹ thổi mát rượi. Sông Hương chia Huế ra làm hai khu rõ rệt. Bên kia là khu cung điện cũ của bọn vua chúa phong kiến với những bức tường cao, những mái nhà cong có rồng chầu, phượng múa, những gác vọng lâu cổ kính. Đi vào khu thành cũ, người ta có cảm tưởng sống lùi lại hàng thế kỉ, thơ đấy, vàng son của dĩ vãng đấy, nhưng mới nặng nề, tù túng làm sao. Những toà cung điện, những bức tường thành rêu phong như đè trĩu mảnh đất xuống Bên này sông là những công trình hiện đại, những cơ quan của bọn Pháp xây dựng như khách sạn, nhà bưu điện, nhà băng, sở lục lộ, toà sứ, viện dân biểu, và các trường học như trường Đồng Khánh, trường Khải Định (14), trường kĩ nghệ… Nổi bật là một số đồn bót, trại lính mới. Cầu Tràng Tiền nối liền hai khu với nhau. Phan Thúc Định nhìn những người qua cầu: người đi làm, người đi chợ, các em thiếu niên đi học. Phong cách chung của người Huế là ung dung, từ các bà mệ điếu thuốc lá phì phào trên môi cắp rổ đi chợ, đến các cô nữ sinh mặc áo dài màu tím Huế cắp cặp đến trường, không một ai lộ vẻ gì vội vã. Phan Thúc Định hít một hơi dài không khí trong sạch, dịu ngọt buổi sáng vào lồng ngực, bồi hồi nhìn hình ảnh cái thành phố quen thuộc đã gắn bó với anh bao nhiêu kỉ niệm từ thời thơ ấu, quen sống với cái không khí vội vã, tấp nập, khẩn trương, náo động những âm thanh của các thành phố châu Âu, châu Mỹ nên lúc mới trở về, anh hơi ngỡ ngàng với cái không khí hơi trầm lặng của Huế – mặc dầu thuở nhỏ, anh đã sống ở đây – cái ngỡ ngàng ấy anh không có khi về đến Sài Gòn. Sài Gòn là một thành phố gần với những thành phố châu Âu. Cũng không khí vội vã, khẩn trương. Cũng những tiếng động ầm ì cả ngày, cả đêm. Cũng những xe tắc xi đi lại như những con thoi. Cũng những ngôi nhà nhiều tầng. Cũng những ánh đèn nê-ông và nhạc nhảy điên dại ở các khu ăn chơi. Tất nhiên có vẻ lộn xộn hơn, nhiều nét lam lũ hơn. Cái không khí hơi trầm lặng – với con người, với tiếng nói nhẹ, dáng đi khoan thai đến cảnh sinh hoạt cùng mang nhiều nét cũ của dân tộc – anh chỉ tìm thấy ở Huế. Cái ngỡ ngàng của anh mất đi nhanh chóng. Chỉ mấy ngày sau, anh cảm thấy tất cả tình cảm thân thuộc, sâu sắc đối với Huế trong con người anh trỗi dậy. Và không khí trầm lặng của Huế đã đem lại cho anh những phút nghỉ ngơi đáng quý sau những ngày giờ sống căng thẳng ở các thành phố xa lạ, xa lạ cả người, xa lạ cả cảnh. Đến cầu Tràng Tiền, anh ngừng lại. Anh ngắm trìu mến chiếc cầu sắt bắc qua dòng sông Hương êm đềm. Chiếc cầu là hình ảnh của Huế trong lòng bất cứ người Huế nào phải xa nơi sinh trưởng của mình như hình ảnh Tháp Rùa trong lòng người Hà Nội, như hình ảnh chợ Bến Thành trong lòng người Sài Gòn. Bao nhiêu chiếc cầu đẹp đẽ, to lớn khác anh đã nhìn thấy trên quãng đường phiêu lưu của anh vẫn không xoá mờ được hình ảnh chiếc cầu này, không để lại trong tâm hồn anh một ấn tượng không thể phai mờ, một niềm nhớ nhung da diết như chiếc cầu này. Vì chiếc cầu này là chiếc cầu quê hương. Hai bên bờ sông Hương lác đác có những con đò nằm ngủ muộn, sau một đêm sa đoạ. Những con đò biến thành những hộp đêm nổi mỗi khi bóng tối phủ trên mặt sông và trở thành trơ trẽn, lạc lõng, ngượng ngập mỗi khi mặt trời lên. Đó là nỗi xót xa cho những con người của thành phố Huế. Mấy cô nữ sinh trung học cắp cặp đi học qua trước mặt Phan Thúc Định. Những chiếc nón bài thơ, những tà áo dài, những dáng đi thướt tha như đem lại cho cảnh Huế buổi sáng một sức sống tươi mát. Sức sống hiện trên những đôi mắt thông minh, những nụ cười hàm răng trắng bóng của các cô. Qua câu chuyện ríu rít, thoáng nghe được, Phan Thúc Định thấy các cô đang nói về những tờ truyền đơn kháng chiến mà bàn tay bí mật nào đã dán trên các đường phố đêm qua. Các cô nói đến điều đó với một giọng vừa khâm phục, vừa say sưa. Phan Thúc Định mỉm cười. Bên trong cái vẻ trầm lặng bề ngoài của Huế, còn có một cuộc sống khác – một cuộc sống sôi sục như bên trong một núi lửa chưa có dịp phụt tung ra ngoài. Cái mạch ruột núi lửa ấy như đang chạy khắp vùng người Pháp còn chiếm đóng. Cho đến những ngày đầu năm 1954 này, mọi người đều cảm thấy những đồn bót của người Pháp đã rung rinh trên cái núi lửa khổng lồ đó. Tiếng động cơ rầm rầm làm Phan Thúc Định quay lại. Một đoàn xe nhà binh Pháp chạy về phía An Cựu. Mở đầu là mấy xe thiết giáp chĩa lăm lăm trọng liên ra phía trước, xích sắt nặng nề nghiến xuống đường nhựa để lại những vết như dao băm. Theo sau là hơn hai chục chiếc xe vận tải GMC, xe nào cũng đầy bọn lính Pháp đội mũ sắt, quần áo dã chiến, trang bị đến tận răng, mắt như mắt những con thú dại. Cuối cùng là mấy chiếc háp-trắc lừ lừ vươn nòng pháo ra phía trước, ngất nghểu chiếc cầu thông tin dài ngoằng, bụi cuốn mù mịt. Một cuộc hành quân đi tiếp viện đâu đây? Chúng định đi bịt miệng núi lửa? Nhiều người đi đường dừng lại nhìn bọn chúng. Mọi người đều im lặng. Một sự im lặng đầy ý nghĩa. Bất giác, Phan Thúc Định nhớ đến thời kì bọn thực dân Pháp mới trở lại năm 1946 mà anh đã được chứng kiến. Lúc ấy, cũng trên những chiếc xe nhà binh này còn nguyên màu sơn mới vừa ở nhà máy sản xuất của Mỹ ra, bọn lính Pháp mới vênh vang, đắc chí làm sao. Chúng ngồi trên xe đi duyệt binh và chúng tưởng tất cả đất nước này ở trong tay chúng. Tám năm qua, bao nhiêu những chiếc xe ấy đã biến thành thép rỉ, những chiếc còn lại bạc màu, lấm lem, ì ạch. Bao nhiêu tên lính ngồi trên xe vênh vang lúc đó đã biến thành xương mục, cỏ mọc xanh mồ. Những tên còn lại ngồi trên xe kia bơ phờ, hốc hác. Những chiếc xe chở chúng đi tiếp viện như chở chúng xuống địa ngục. Bây giờ đến lượt người Mỹ… Phan Thúc Định đi thẳng đến nhà bưu điện. Anh trả tiền rồi vào buồng thuê điện thoại (ở khách sạn anh trú cũng có điện thoại nhưng anh không muốn dùng). Khi có một mình ở trong buồng điện thoại, anh gọi số 377. Anh hỏi bằng tiếng Pháp: - A lô. Có phải bàn giấy hãng “Pháp Quốc Hàng Không” không? Tiếng một người phụ nữ Pháp ở bên kia đầu dây: - Vâng, tôi nghe đây. - Xin vui lòng cho tôi gặp ông phụ trách chi nhánh của hãng. - Ông đợi một chút nhé. Im lặng. Phan Thúc Định cầm ống nghe chờ. Hai phút sau, trong ống nghe có tiếng động. Tiếng một người Pháp hỏi: - Alô, ai đấy? - Có phải ông Rơ-nê đấy không? - Vâng, tôi đây. - Chào ông. Tôi là Phan Thúc Định đây. - A… chào ông. - Tôi xin báo để cho ông biết tôi chưa sử dụng được chiếc vé khứ hồi về Sài Gòn. Tôi có việc cần phải ở lại Huế mấy ngày nữa. Khi nào xong việc, tôi sẽ gọi dây nói báo ông chuẩn bị chỗ cho về Pháp ngay nhé! - Vâng, có thế thôi ư? Ông có căn dặn gì thêm không? - Vâng, có thế thôi. Xin cảm ơn ông và chào ông. - Xin chào ông và chúc ông may mắn. Phan Thúc Định rời nhà bưu điện. Anh quan sát một lượt những người xung quanh rồi lững thững đi qua nhà thờ Sainte Marie, xuôi xuống phía cầu An Cựu, đến một biệt thự hai tầng, có hàng rào sắt sơn đỏ lại có tôn che kín chung quanh, anh bấm chuông. Một người đầy tớ gái mở cửa. Lúc ấy, anh mới nhìn thấy Cao Xuân Đăng đang đứng thọc tay vào hai túi quần trên sân sỏi nói chuyện với một gã mặc quân phục rất thẳng nếp, vai đeo hai gạch vàng. Hai gã nhìn ra. Phan Thúc Định gật đầu chào, rồi hỏi người đầy tớ: - Cho tôi hỏi cô Vân Anh có nhà không? Người đầy tớ chưa kịp trả lời thì Cao Xuân Đăng đã nói vọng ra: - Chào anh Định. Có phải anh hỏi cháu Vân Anh không? Cháu đi vắng, chưa về. Mời anh vào chơi đã. Phan Thúc Định bước vào. Chiếc cổng sắt khép lại. Cao Xuân Đăng chìa tay bắt tay anh và giới thiệu: - Đây là trung uý Thiệu, một người bạn của tôi. Đây là anh Phan Thúc Định, bạn của cháu Vân Anh, tiến sĩ luật ở Pháp về. Định và gã trung uý bắt tay nhau. Đó là một gã ngoài ba mươi tuổi, mặt nhỏ và nhẵn nhụi, tóc đen mượt ép vào hai bên sọ, mắt bé có vẻ gian xảo, thâm hiểm. Cao Xuân Đăng giơ tay: - Xin mời hai anh vào trong nhà chơi. Phan Thúc Định hỏi: - Tôi có làm phiền gì hai ông không? - Không. Chúng tôi đang nói chuyện thời thế. Không có chuyện gì riêng tư đâu. Vẫn cái phòng khách bày toafn đồ đạc cổ kính mà Phan Thúc Định đã nói chuyện với Vân Anh ở đây một lần. Cao Xuân Đăng bảo người đầy tớ gái pha trà. Ba người ngồi xuống ghế xa lông gỗ lát có phủ đệm bông. Trên bàn là bộ đồ trà, đĩa mứt sen và hộp thuốc lá “555”. Tên trung uý nhón ngay hột mứt sen bỏ vào miệng: - Anh Đăng có biết “maitre” (15) Phúc Sơn không? Người xem tướng và bói bài tây nổi tiếng từ hai mươi năm nay ấy mà. Hôm trước ghé qua Sài Gòn, vợ chồng tôi có nhờ lão coi tướng giùm. - Hắn bảo anh sao? - Chà chà, thằng cha nói giỏi thật. Hắn giơ chiếc bàn tay trắng trẻo ra trước mặt mọi người: - Hắn coi chỉ tay kết hợp với tướng mặt, tính tôi năm trăm đồng. Vợ tôi mất năm trăm đồng nữa là một ngàn. Mất một ngàn cũng đáng. Hắn nói rất đúng. Hắn bảo xưa nay số tôi rất an nhàn, có quý nhân phù trợ. Đúng vậy. Anh xem bao nhiêu lần chúng nó định đẩy tôi ra trận mà tôi cứ ngồi đàng hoàng chỗ tốt nhất trong cái đệ nhị quân khu này thôi. Các vị tướng Pháp đều quý hoá, yêu mến tôi. Trước đây, tướng Sa-lăng định giúp tôi vào quốc tịch Pháp. “Ma phăm” (16) cứ xui tôi nhận lời. Tôi nghĩ kể ra nhập quốc tịch Pháp cũng có nhiều cái lợi, trước hết là người Pháp sẽ tín nhiệm hơn nhưng sau nghĩ mình còn là sĩ quan trong quân đội quốc gia thì chưa nên vào vội. Mình phải khôn khéo, tính sâu hơn đàn bà một chút chứ. Cao Xuân Đăng mời trà. Tên trung uý vẫn say sưa ngắm bàn tay của mình và nói về mình: - Phúc Sơn nói về tương lai của tôi mà tôi giật mình. Mới đầu, hắn tưởng hắn lầm không dám nói ra ngay. Về sau, hắn cứ chặc chặc lưỡi, dùng thước đo đi tính lại trên bàn tay của tôi, gặng mãi hắn mới nói số tôi về sau này giàu sang không biết thể nào mà kể hết, uy danh lừng lẫy. Không hiểu có nên tin hắn không nhưng về quá khứ hắn nói như thế rất là đúng. Vợ tôi cũng rất phục hắn. Sau khi co tướng cho vợ tôi rồi, hắn khẳng định lời tiên đoán của hắn về hậu vận tôi là đúng, vì số báo trước về hậu vận vợ tôi cũng rất phù hợp với tôi, hắn còn khoe với tôi là trước đây hắn đã từng coi tướng cho cả quốc trưởng Bảo Đại, cả toàn quyền Brê-vi-ê và được hậu thưởng rất nhiều. Tên trung uý có vẻ không thích uống trà, chỉ nhón mứt sen ăn, cũng như có vẻ không thích nói chuyện gì khác, chỉ thích nói về mình: - Hắn có nói nhỏ với tôi một điều mà tôi suy nghĩ mãi. Hắn bảo lần này thì quý nhân phù trợ tôi không phải từ phương tây mà từ một phương trời xa hơn nữa đến. Khi gặp quý nhân thì phải biết lợi dụng ngay kẻo dịp may nhiều khi chỉ đến với người ta một lần thôi. Hắn có xin tôi ngày sinh tháng đẻ để lấy một lá số tử vi thì rõ ràng hơn và hẹn lần sau nếu tôi đến một mình, hắn có thể nói nhiều điều chi tiết hơn. Mất với hắn ngàn rưỡi đồng một lá số tử vi nữa, biết rõ quý nhân từ phương trời xa đến là ai? Cao Xuân Đăng đưa đẩy: - Có điều chắc chắn là: Với cái tài của anh, tôi tin rằng anh sẽ còn được thăng cấp nhiều. Tên trung uý cười tự mãn: - Thời thế này, người Pháp đang cần đến bọn mình. Anh xem đấy, khối thằng cha vô học chỉ là lính khố đỏ, cai đội khố xanh như mình bây giờ đã lên cấp tá, cấp tướng ầm ầm. Thật đúng là “thời thế tạo anh hùng”. Cao Xuân Đăng rót thêm trà vào chén của Phan Thúc Định: - Nhưng thời thế gần đây tôi lo lắm. Mấy mũi tấn công của tướng Na-va vào vùng địch đã không… thành công. Bọn lính đào ngũ nhiều lắm phải không? Tên trung uý nhún vai: - Ô, bao giờ chúng tôi chẳng đánh xong rồi lại rút. Những địa điểm nào không có lợi về chiến lược thì giữ làm gì. Còn bọn lính đào ngũ bao nhiêu thì bắt bọn khác thay vào. Chỉ càng giàu cho bọn OD (17) thôi. À, hôm nọ có một phái đoàn quân sự Hoa Kỳ đến thăm bộ tham mưu đệ nhị quân khu chúng tôi, có lộ vẻ ngạc nhiên hỏi chúng tôi tại sao đi toàn xe “díp” cũ, vì họ giúp cho người Pháp toàn xe mới cả. Chúng tôi trả lời không biết… Mấy ngày hôm sau thấy người Pháp cho thêm năm xe “díp” mới nguyên. Thấy câu chuyện như hết chỗ để khoe về cái tôi rồi, tên trung uý đứng dậy vuốt cái đầu mượt, cầm lấy cái mũ bình thiên có gắn huy hiệu hai con rồng châu vào một miếng ba vạch, đứng dậy: - Thôi, xin phép, tôi phải về xem việc giải quyết cho mấy đứa cháu vào học trường Đalat xong chưa. Hắn chìa tay bắt tay Cao Xuân Đăng và Phan Thúc Định. - Ô-rơ-voa (18). Cao Xuân Đãng tiễn hắn ra đến cửa. Lúc quay vào, Đăng nói như thanh minh với Phan Thúc Định: - Trung uý Nguyễn Văn Thiệu này là người nhiều thủ đoạn thâm hiểm lắm. Tuy giao thiệp tôi cũng chỉ quan hệ có mức độ thôi. Anh nghe nói chuyện thì biết tính nết anh ta đấy. Bọn sĩ quan quốc gia đều như thế cả. Rồi Cao Xuân Đăng nói sang chuyện khác: - Tôi sốt ruột về cháu Vân Anh quá. Cháu bảo đi chơi với mấy người bạn gái ở Đà Nẵng, hẹn hôm nay về mà chưa thấy về. Nếu mai chưa thấy cháu về, tôi phải đánh điện vào anh bạn quen ở Đà Nẵng nhờ anh ta hỏi hộ xem. Phan Thúc Định lịch sự: - Chắc Vân Anh vui bạn chưa kịp về. Ông cứ an tâm, vùng Đà Nẵng cũng an ninh. Cao Xuân Đăng lắc đầu: - Anh mới về nước chưa hiểu biết tình hình đấy. Có vùng nào là an ninh tuyệt đối đâu. Ban ngày là quốc gia, ban đêm là Việt Minh rồi. Ngay giữa những vùng người Pháp coi là an ninh tuyệt đối, Việt Minh vẫn hoạt động nhiều lúc công khai. Nguy hiểm cho chúng ta là dân lại che chở, giúp đỡ họ. Hắn đưa thuốc lá mời Phan Thúc Định, hỏi: - Rất nhiều người tính đến chuyện rút ra nước ngoài. Theo ý anh, tôi có nên sang Pháp không? Anh ở bên ấy về, anh thấy tình hình bên ấy như thể nào? Có thể sống yên ổn và làm ăn được không? Phan Thúc Định châm điếu thuốc lá. đáp: - Thưa ông, suốt thời gian ở Pháp tôi bận học nên không chú ý gì đến chính trị cả. Cao Xuân Đăng nói như nói với chính mình: - Bọn họ có tiền, có quyền nên dễ hơn mình anh ạ. Ông Nguyễn Đệ, đổng lí văn phòng của quốc trưởng, đã góp cổ phần với hãng dệt Đoóc-mơi, lại có cổ phần ở hãng dầu xăng. Ông Phan Văn Giáo, thủ hiến Trung Phần này thì mua rất nhiều cổ phần của hãng rượu Mác-ti-ni, lại khối tiền gởi nhà băng Pháp. Ai cũng vơ cho thật nhanh để chuẩn bị đường rút cả rồi. Tôi thì mới làm việc được ít lâu, phải thù tạc chạy chọt nhiều, dành dụm mãi mới mua được cái biệt thự này và cái xe hơi. Bây giờ chẳng lẽ lại bỏ đi. Sang bên ấy, mình là người tay trắng thì sống ra làm sao? Thực khó nghĩ quá. Hắn ghé cái mặt bè bè phì nộn vào sát Phan Thúc Định đến nỗi cả mùi sáp bóng hắn bôi đầu cũng bay vào mũi anh, hỏi: - Nghe cháu Vân Anh nói anh cũng qua Mỹ một thời gian phải không? Phan Thúc Định nhìn thẳng vào mắt hắn: - Vâng. Tôi có sang đó trong một chuyến du lịch. Giọng hắn nhỏ xuống: - Tôi hỏi thực anh nhé: anh có gặp cụ Ngô không? Phan Thúc Định tỏ vẻ ngạc nhiên: - Xin lỗi ông, cụ nào ạ? - Cụ Thượng Ngô Đình Diệm ấy mà. Nghe nói cụ ấy đang ở Mỹ và người Mỹ chuẩn bị đưa cụ ấy về nước.Ông sang Mỹ mà không biết gì ư? Phan Thúc Định lắc đầu: - Không. Tôi không được biết gì cả. Vì đi du lịch nên tôi chỉ thăm phong cảnh mấy thành phố lớn. Vả lại, như tôi đã nói với ông, tôi mải học nên chẳng còn tâm trạng nào để ý đến chính trị cả. Cao Xuân Đăng thất vọng nhìn về phía chiếc lọ cổ để góc phòng: - Rất tiếc anh không biết mà tìm gặp cụ Ngô xem ý kiến cụ ấy ra sao. Tôi cảm thấy thời thế sắp đổi thay. Anh bảo anh không biết gì đến chính trị, ấy là lúc đi học. Chứ bây giờ đã học xong rồi, ra làm việc thì muốn hay không, anh cũng phải để ý đến. Vì nó liên quan ngay đến chỗ đứng của anh, chức vị của anh, nguồn sống của anh, đồng tiền anh kiếm được. Tôi nhiều tuổi hơn anh, tôi khuyên anh thực: Sống phải biết theo thời thế anh ạ. Cây gỗ cứng thường hay gãy. Cây mềm gió chiều nào, uốn theo chiều ấy thì chẳng bao giờ gãy cả. - Xin cảm ơn ông… - Dạo này ở Huế nhiều người nhắc đến cụ Ngô. Có người đã bí mật đến thăm cậu Cẩn rồi. Thiên hạ lắm anh bợm thật. - Thưa ông, họ nhắc đến cụ Ngô như thế nào? Cao Xuân Đăng quay lại nhìn Phan Thúc Định: - Sao anh vừa nói anh không quan tâm gì đến chính trị? Phan Thúc Định thản nhiên: - Ông chẳng vừa nói: tôi sắp ra làm việc, cần phải hiểu biết thời thế là gl. Tôi nghe lời khuyên của ông muốn hỏi để biết đôi chút thôi; hướng sau này của tôi là mở phòng luật sư hoặc đi dạy học chứ không muốn làm một công chức. Cao Xuân Đăng cười: - Tất nhiên họ sẵn sàng theo cụ Ngô nếu cụ Ngô vẫn giữ nguyên được cho họ những cái gì họ có được trong mấy năm nay. Uống cạn chén trà, Phan Thúc Định đứng dậy cáo từ: - Xin phép ông, tôi về. Hôm khác, mong lại đến hầu chuyện ông. Nếu Vân Anh có về, ông làm ơn nói hộ tôi đến thăm và Vân Anh gọi điện báo cho tôi biết. Tôi ở khách sạn Thuận Hoá, số điện thoại 1203… Cao Xuân Đăng tiễn Phan Thúc Định ra đến cổng sắt, chìa tay ra: - Tôi sẽ nói lại với cháu. Lúc nào rảnh rỗi, mời anh lại chơi. Tôi cũng đang mong cháu. Phan Thúc Định lững thững đi về phía khách sạn mình ở. Anh nghĩ miên man: bọn này đã cảm thấy sự thất bại của Pháp, đang đi tìm quan thầy mới. Nhưng từ đâu đã tung ra những tin đồn về Ngô Đình Diệm? Tại sao những tin đồn ấy loan ra nhanh vậy! Việc về của Ngô Đình Diệm đã được chuẩn bị như thế nào? Anh không biết rằng trong một khoang thuyền đậu bên bờ sông An Cựu, có một người đàn ông đeo kính đen nhìn theo anh. Anh đi được một quãng, người ấy cũng rời thuyền, lên bờ. Trên thuyền chỉ còn một gã Hoa kiều thản nhiên bắc bếp nấu cơm… Huế vẫn trầm lặng, vẫn thơ, vẫn mộng… X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 6: Sự Ra Đời Của Một Nội Các Cái gì phải xảy ra đã xảy ra. Ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954, quân đội viễn chinh Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ. Như một tiếng nổ lớn có sức chấn động dây chuyền vang dội cả về mặt không gian lẫn thời gian, cả về mặt xã hội lẫn tâm lí con người, chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam anh bùng đã làm lịch sử Việt Nam, cũng như lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới chuyển sang một trang mới, đến một bước ngoặt vĩ đại. Ở hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề Đông Dương, bọn thực dân Pháp chuẩn bị chấp nhận một sự thất bại hoàn toàn. Chủ nghĩa thực dân kiểu cũ chuẩn bị chấp nhận sự cáo chung của vai trò ăn cướp giết người dã man, đẫm máu đã quá kéo dài của mình trên sân khấu chính trị thế giới. Nhưng chủ nghĩa thực dân mới giấu bên trong bộ áo cờ hoa sặc sỡ của mình bom nguyên tử và máy bay phản lực, kế hoạch thống trị và huỷ diệt nhân loại, lồng lộn ra trò, ở châu Á thì đeo chiếc mặt nạ da vàng, ở châu Phi thì đeo chiếc mặt nạ da đen… Giữa lúc bọn thực dân Pháp và lũ nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai tuyệt vọng, bối rối, hoang mang, gục xuống tưởng không thể nào đứng dậy được nữa thì bọn quan chức và nhân viên Mỹ thi nhau bay đến Sài Gòn, Hà Nội. Có người của CIA, người của DIA (19), người của G2, của A… Trong đó, có đại tá Lên-sđên, có “giáo sư” Phi-sin, thiếu tá Tô-ma, “nhà báo” Xôm-xăng-đơ (20)… Trong khi Phô-stơ Đa-lét, Bộ trưởng Bộ ngoại giao bỏ hội nghị Giơ-ne-vơ đi gặp hết thủ tướng Anh I-đơn, lại thủ tướng Pháp La-ni- en và sau này Măng-đét Phơ-răng để vận động chống lại việc công nhận chủ quyền của ba nước Đông Dương và kéo dài chiến tranh, để Mỹ đổ quân vào Việt Nam, thì ở Việt Nam, máy bay do phi công Mỹ lái tiếp tục ném bom dữ dội xuống các làng mạc, hạm đội 7 Mỹ tiến vào vịnh Bắc Bộ. Bọn quan chức nhân viên Mỹ tới tấp sang “nghiên cứu về vấn đề Việt Nam”, hết gặp tướng Na-va lại gặp Bảo Đại, hết gặp công khai những nhân vật công khai lại gặp bí mật những nhân vật bí mật. Những nhân vật bí mật này làm đủ nghề, từ công chức trong bộ máy nguỵ quyền, sĩ quan nguỵ quân đến bọn lí lịch bất hảo vẫn vỗ ngực là “lãnh tụ đảng phái quốc gia”, từ bọn đội lốt thầy tu khoác áo chùng đen lẫn áo nâu đến bọn thầy bói, thầy tướng, từ một nhà buôn xuất nhập khẩu giàu có đến bọn du thủ, du thực đứng ở các bến ô tô. Chưa bao giờ Toà đại sứ Mỹ và các phòng thông tin Mỹ, cơ quan viện trợ Mỹ ở Hà Nội, ở Huế, ở Sài Gòn bận tíu tít đến thế. Rồi những tin đồn úp úp mở mở, hư hư thực thực. Rồi những lời dụ dỗ, thăm dò, hứa hẹn, mặc cả. Cuối cùng, như các báo chí nước ngoài đưa tin, từ trong tay áo chú Sam thò ra một con nộm… Ngày 18 tháng 6 năm 1954, ở sân bay Tân Sơn Nhất diễn ra một cuộc đón tiếp kì lạ, nửa công khai, nửa bí mật, nửa chính thức, nửa không chính thức, nửa bình thường, nửa nghi thức như đón tiếp một nhân vật quan trọng. Bí mật, không chính thức, bình thường vì cuộc đón tiếp này chỉ có riêng một số người biết, sân bay không có cờ quạt, khẩu hiệu, dàn nhạc, đội quân danh dự. Công khai, chính thức, nghi lễ vì không khí sân bay nghiêm trang, chờ đợi, nhiều cảnh sát, hiến binh canh gác, nhiều mật thám bí mật lởn vởn đi lại, một số nhà báo mang máy ảnh đến đưa tin. Người đi đón đều là những nhân vật quan trọng, tuy không phải là những kẻ cầm đầu bộ máy xâm lược của đế quốc thực dân và lũ nguỵ quyền, nguỵ quân nhưng đều là đại diện chính thức của những kẻ ấy. Người ta thấy đại diện của cao uỷ Pháp ở Đông Dương đứng cạnh đại tá Mỹ Lên-sđên, đại diện cho Bảo Đại ở Sài Gòn (Bảo Đại có hai văn phòng đại diện ở Hà Nội và Sài Gòn) đứng cạnh đại diện của đại sứ Mỹ tại Việt Nam, “nhà báo” Xôm-xăng-đơ đứng cạnh giám mục Ngô Đình Thục, thủ lĩnh Đại Việt đứng cạnh Tô-ma… Thái độ đám đi đón hoàn toàn khác nhau, người thì vênh vang đắc chí như “cờ đã đến tay”, kẻ thì buồn rầu miễn cưỡng như bị cướp mất miếng ăn; người thì hớn hở tràn trề hi vọng như nắm chắc ghế “bộ trưởng” trong tay, kẻ thì vẫn dè dặt, lấm lét mắt trước mắt sau như phân vân không biết đã nên theo ông chủ mới hay chưa và liệu ông chủ cũ đối với mình thế nào. Một chiếc máy bay bốn động cơ của hãng hàng không “Freedom Air Lines” (21) lừ từ hạ cánh xuống sân bay. Mọi người im lặng, chăm chú nhìn lên khung cửa máy bay. Cửa máy bay mở rộng. Cầu thang máy bay đẩy tới. Một người ngoài năm mươi tuổi mập lùn, mặt bừ bự, lông mày rậm, mắt trắng dã, mặc bộ âu phục vải trắng, thắt cà vạt đen, tay áo che đến nửa bàn tay, đôi chân ngắn trong ống quần rộng, bước xuống: Ngô Đình Diệm. Hắn hấp háy mắt trước ánh nắng chói chang của sân bay, cười nhăn nhó cả mặt, giơ một bàn tay lên chào những người ra đón. Đằng sau hắn, một tên Mỹ chắc nịch như một võ sĩ, mắt cau có lầm lì: “giáo sư” Phi-sin. Rồi lần lượt đến Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phan Thúc Định xuống thang… Máy ảnh của mấy nhà báo giơ lên bấm. Ngô Đình Diệm bước nhanh đến chỗ đám người ra đón. Hắn bắt tay mọi người, vừa bắt tay vừa nghe giới thiệu về tên và chức vụ, nghề nghiệp từng người. Hắn dè dặt khi bắt tay mấy tên Pháp, vồ vập khi gặp lại bọn Mỹ mà hắn đã từng quen biết, hân hoan khi gặp những người trong gia đình hắn, nhìn ban ơn và hứa hẹn với bọn nguỵ quyền, nguỵ quân chạy theo chủ mới. Giám mục Ngô Đình Thục làm dấu ban phước lành cho hắn. Mấy nhà báo xô đến định phỏng vấn. Hắn mỉm cười bí mật: - Tôi tuyên bố gì bây giờ cũng còn hơi sớm. Các ông đợi cho 10 ngày nữa. Cả đám kéo nhau ra xe hơi đủ kiểu đậu ở cửa sân bay. Còn lại đám cảnh sát, mật thám ngơ ngác nhìn theo không hiểu ra sao cả. Vì chúng được lệnh theo dõi thái độ những người đi đón thì những người đi đón lại đều là cấp to có thể sai phái được các “sếp” của chúng; chúng được lệnh theo dõi người được đón, thì người được đón lại là người mà các “sếp” của chúng phải chạy rạt thật xa, không dám đến gần. Thực là khó hiểu. X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 7: Chiến Trường Mở Rộng Cảng Sài Gòn tấp nập, ồn ào. Những chiếc tàu há mồm LCT, LCM của bọn nhà binh Pháp nằm cạnh các tàu buôn, những chiếc tàu vận tải, tàu chở hành khách nằm bên chiến hạm của hải quân Mỹ đã ngang nhiên, công khai kéo cờ sòng sọc xanh trắng trên đỉnh cột tàu. Hầu hết các tàu đều toàn là người bị cưỡng ép di cư từ Bắc vào và hàng hoá Mỹ. Những người bị cưỡng ép di cư – đa số là người công giáo vùng Bùi Chu, Phát Diệm, Xã Đoài – sau mấy ngày nằm chồng chất trên tàu Mỹ ăn những bữa cơm phát chẩn của Mỹ, bây giờ được đổ lên bến Sài Gòn. Nét mặt người nào cũng ngao ngán, mệt mỏi, đầy lo lắng. Bỏ tất cả nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông cha, nghe theo bọn chiến tranh tâm lí, bọn đội lốt thầy tu, họ vào đây bơ vơ không biết ngày mai của mình sẽ ra sao. Nhiều ông già, em nhỏ đi biển xa không chịu được, chết trên tàu. Không có chuyến tàu nào mà không có người chết. Mỗi chuyến tàu cập bến, mấy cái cáng khiêng xuống trước. Rồi mẹ bồng con, chồng kéo áo vợ chen chúc nhau ra cầu tàu. Đồ đạc vứt lỏng chỏng. Có người nhặt nhạnh tất cả gia tài mồ hôi nước mắt suốt mấy đời lao động mang đi theo, phút chốc bị mất sạch. Mấy thằng Mỹ đứng trên boong tàu lúc thì nheo mắt bĩu môi nhìn đám người di cư gồng gánh, khổ sở, nheo nhóc, lúc thì chúng há miệng hô hố cười cảnh vợ lạc chồng, con lạc cha chạy nháo nhác, tìm gọi nhau thất thanh. Tiếng loa phóng thanh nheo nhéo như chọc thủng màng tai, cứ nhại đi nhại lại mấy câu sỉ nhục: - Đồng bào lưu ý. Khi xuống khỏi tàu, mỗi đồng bào sẽ được lãnh một tấm thẻ xanh. Tấm thẻ xanh sẽ đổi lấy 100đ do Mỹ quốc tặng. Ai lấy tiền rồi, lấy nữa “dô” tù nghe. Mấy thằng phóng viên Mỹ vác máy quay phim chạy đến quay cảnh người di cư nhận tiền bố thí của Mỹ. Một anh lái tắc xi người miền Nam ngạc nhiên hỏi một đồng bào miền Bắc di cư: - Ngoài đó độc lập rồi. Thầy Hai còn vô đây mần chi? Người di cư bị hỏi, mặt hơi cúi xuống, sượng sùng: - Có lẽ tôi lại tìm đường ra thôi. Xe vận tải nhà binh tám bánh to lớn đã đứng đón sẵn đám người di cư. Đứng đón đám người này còn có bọn chủ đồn điền cao su, hau háu nhìn họ như nhìn những món hàng nhập kho của chúng. Mấy tên mật vụ nguỵ mắt lừ lừ xoi mói sau cặp kính mát, bọn đội lốt thầy tu thì mặt hồng hào hớn hở đếm từng đầu người lên ô tô giao cho bọn chủ đồn điền. Những chiếc xe vận tải sẽ đưa thẳng đám người di cư đến một trại tập trung hoặc một đồn điền nào đó và những con người đang tự do đã biến thành nô lệ. Phu khuân vác chạy đi chạy lại, mồ hôi ướt đẫm áo. Giữa sự hỗn độn nhốn nháo, ầm ĩ ấy, không ai để ý đến một chiếc hạm thuyền nhỏ của Mỹ đậu ở gần cuối cảng. Nó cũng đậu neo vào giữa các tàu khác. Nhìn bề ngoài, nó cũng không khác gì các tàu bè, các hạm thuyền xung quanh; cũng có những người phu khuân vác chạy lên, chạy xuống vác những hòm sữa ế, vải thừa đóng dấu “viện trợ Mỹ”. Trên tàu, ngoài bọn thuỷ thủ Mỹ, có mấy thuỷ thủ Phi Luật Tân đi lại. Chiếc hạm thuyền đã bốc hết hàng. Những người phu khuân vác Việt Nam và Hoa kiều đã xuống hết, chuyển sang bốc dỡ hàng ở tàu khác. Trên hạm thuyền, bọn thuỷ thủ đang phun nước rửa boong. Một chiếc xe hơi đến đậu ở cảng. Cánh cửa xe mở, hai tên Mỹ bước xuống, cả hai tên cùng mặc thường phục: một tên mặc sơ mi trắng, quần trắng, mặt lạnh lùng, khắc khổ: đại tá Lên-sđên; một tên mặc sơmi chim cò, quần tếch-gan sẫm, tay luôn luôn như muốn sờ mó vào mọi vật chung quanh: trung tá Tô-ma. Hai tên đi về phía chiếc hạm thuyền Mỹ. Trên tàu, tên thuyền trưởng và một tên trung uý lục quân đã đứng đợi. Lên-sđên và Tô-ma bước lên. Tên thuyền trưởng và tên trung uý lục quân đứng nghiêm, giơ tay lên ngang mặt chào. Lên-sđên, Tô-ma giơ tay chào lại. Tô-ma giới thiệu: - Đây là đại tá Lên-sđên, người chỉ huy tất cả mọi hoạt động an ninh của chúng ta ở đây. Xin giới thiệu với đại tá đây là thiếu tá hải quân A-lan (24), chỉ huy trưởng của tàu, đây là trung uý En-đru (25), người nổi tiếng về tổ chức những hoạt động bí mật đặc biệt mà tôi vẫn thường nói chuyện với đại tá. Mấy tên bắt tay nhau. Lên-sđên hỏi: - Xong rồi chứ? En-đru đáp: - Thưa đại tá xong rồi! - Bao nhiêu tên? - Báo cáo, hai mươi mốt tên và hai tên đi theo làm bếp. - Đưa xuống có ai biết không? Mặt En-đru ánh lên nét tự mãn: - Thưa đại tá, không ai có thể biết được. Tôi đã tổ chức cho chúng giả làm đám phu khuân vác, trà trộn lẫn với đám phu, rồi từng đứa một lần xuống tầng dưới tàu. - Chúng nó trung thành cả chứ? - Thưa đại tá, trung tá Tô-ma và tôi đã tuyển lựa rất kĩ trong đám di cư. Chúng đều rất thích làm việc cho chúng ta. - Ở căn cứ Clác (26) đã chuẩn bị xong hết cả chưa? - Thưa đại tá, đã dành một khu riêng ở cạnh căn cứ để huấn luyện chúng. Mấy chuyên viên của ta về ám sát, phá hoại bằng mìn, thu thập tin tức tình báo, điện đài… đã sang đầy đủ và đang đợi chúng. Chương trình huấn luyện bọn chúng, chắc trung tá Tô-ma đã trình bày để đại tá duyệt. - Có, tôi đã nắm được rồi, chúng tôi đề nghị rút ngắn thời gian huấn luyện lại. Trước định hai tháng rưỡi, bây giờ chỉ nên huấn luyện chúng trong một tháng rưỡi thôi, vì thời gian gấp lắm. Chúng ta phải lợi dụng khi người Pháp chưa rút hết miền Bắc mà tung chúng ra hoạt động ngay, phối hợp với bọn của thiếu tá Cô-nên (27) ngoài đó. Thời gian huấn luyện bọn chúng càng ngắn thì chúng ta càng huấn luyện được nhiều toán. Lúc này, ta chỉ cần số lượng, chưa cần chất lượng vội. Một toán, chỉ cần chúng phá hoại một vài công trình của bọn Cộng sản rồi chúng đi cũng chẳng sao. - Xin chấp hành ý kiến của đại tá. - Cho tôi xem qua bọn chúng. En-đru và A-lan đi trước dẫn đường, Lên-sđên và Tô-ma đi theo. Chúng bước về phía cuối tàu, xuống một khoang riêng. Ở đó, có hai mươi ba tên người Việt mặc quần áo lấm láp như những người phu khuân vác, đang nằm ngồi ngổn ngang. Thấy bọn chủ Mỹ xuống, lũ tay sai như là lò xo bật cả dậy, đứng cứng người. Tên En-đru chỉ từng tên một báo cáo với Lên-sđên: - Đây là tên Bình, đảng viên đảng Đại Việt, đã từng đi lính cho Nhật. Đây là tên Hảo, vệ sĩ công giáo ở Phát Diêm, sau vào lính nhảy dù Pháp, bỏ trốn khỏi lính nhảy dù vì cướp của, tống tiền. Đây là tên Phay bị toà án Việt Minh truy tố về tội giết người. Đây là tên Đính làm cho Phòng nhì Pháp từ năm 1946… Tên En-đru đọc vanh vách tên và lí lịch từng thằng tay sai một. Đứa nào cũng có một quá khứ lưu manh và làm tay sai cho giặc. Lên-sđên nhìn mặt bọn chúng, mỗi thằng một khuôn mặt khác nhau, đứa thì hàm bạnh mũi hếch, đứa thì trán ngắn, lông mày rậm, đứa thì tóc đít vịt, răng vàng, nhưng chúng đều có những cái nhìn giống nhau: gian giảo xảo quyệt, lại rất quỵ luỵ, khúm núm trước mặt chủ – những cái nhìn của giống chó săn. Lên-sđên gật đầu bằng lòng, hỏi: - Chúng nó có nói được tiếng Anh không? - Thưa đại tá không, có mấy thằng nói được tiếng Pháp. - Chúng nó có yêu cầu gì không? - Chúng chỉ xin được đưa tiền trước. Có đứa thì xin sau được đi Phi Luật Tân hoặc Nhật Bản chơi bời. - Trung uý hãy cho chúng tiền, hứa với chúng muốn đi đâu cũng được, nếu chúng làm được việc. Thôi trung uý đưa bọn chúng đi. Thiếu tá A-len có thể chuẩn bị cho tàu nhổ neo. Lên-sđên và Tô-ma quay lên, A-len và En-đru tiễn hai tên lên tàu. Chúng chào và bắt tay nhau. Hai tên sĩ quan CIA không mặc quân phục đó, đi dọc cảng, giữa những đám người di cư hỗn độn, đau khổ, ngơ ngác. Đàng sau chúng, chiếc hạm thuyền Mỹ kéo một hồi còi. Bỗng Lên-sđên hích khẽ Tô-ma, mặt hơi cau lại, hất hàm ra phía trước, Tô-ma nhìn theo cái hất hàm của Lên-sđên: Phan Thúc Định đang đứng trên bờ cảng, đeo chiếc máy ảnh cạnh sườn ngắm nhìn đồng bào di cư và những chiếc tàu đậu dài bến cảng. Giữa đám người bận bịu tấp nập, anh có thái độ ung dung của một người đi dạo. Đúng lúc ấy Phan Thúc Định cũng nhìn thấy hai tên Mỹ. Anh mỉm cười, gật đầu chào chúng. Lúc đến gần Định, Lên-sđên hỏi: - Ông Định có việc gì mà lại ra đây vậy? Định vẫn mỉm cười đáp: - Cũng như các ông thôi. Lên-sđên nghiêm nét mặt: - Chúng tôi ra xem cảnh đón tiếp người Bắc Việt di cư. Phan Thúc Định vẫn lịch sự: - Tôi cũng vậy. Lên-sđên hỏi: - Ông thấy người Mỹ chúng tôi tổ chức giúp dân các ông tị nạn Cộng sản chu đáo không? - Thủ tướng Ngô Đình Diệm sẽ cảm ơn các ông. Câu chuyện rời rạc và hai tên Mỹ cũng không muốn kéo dài, chìa tay bắt tay Phan Thúc Định. Lúc đã ngồi vào xe ô tô, Tô-ma vừa mở máy vừa hỏi Lên-sđên: - Bản danh sách bọn nhân viên SEDCE của Định cung cấp cho Ngô Đình Diệm thế nào? - Một bản danh sách có đầy đủ tên người nhưng vô ích. - Tại sao? - Trong đó có ghi một số tên quan trọng có thành tích chống Cộng, nắm được nhiều tin, ta có thể dùng được, nhưng khi người của ta tìm đến thì những tên đó mất tích không hiểu vì sao. Còn lại một số tên không quan trọng, chỉ thích có tiền, tham lam và đần độn – đối với những thằng tham tiền, đần độn như vậy, chúng ta không thiếu gì, và cũng chỉ dùng được chúng trong một việc nào đó thôi. Muốn chống lại Công sản một cách có hiệu lực, chúng ta cần phải có những tên có lí tưởng chống Cộng, có tử thù với Cộng sản… Bản danh sách của Phan Thúc Định cung cấp cho Ngô Đình Diệm có thể nói là vô ích! Tôi đang đánh dấu hỏi vào số người mất tích kia. Chúng còn sống hay đã chết? Nếu chúng bị thủ tiêu hay bị Việt Minh bắt đi thì thật là một thiệt hại lớn cho chúng ta vi chúng am hiểu tình hình ở đây, chúng ta đã mất một số tên giúp việc có khả năng. Nếu chúng ta không có một số tên bản xứ trung thành với chúng ta thì trong công việc sẽ gặp thêm nhiều khó khăn. - Chúng ta có thể dùng Phan Thúc Định được không, thưa đại tá? - Đây là điều chúng ta phải cân nhắc. - Vì sao? - Vì nhiều lẽ: Định là người tin cẩn của Ngô Đình Diệm, có học thức, có trình độ, có khả năng, ta không thể dùng vào những việc nhỏ, những việc nhất thời, những việc liều lĩnh chỉ cần gây một chấn động như dùng bọn “Bình”, bọn “Hảo” (28) vừa rồi được. Có dùng Định, phải dùng vào những việc lớn, vào những kế hoạch lâu dài của chúng ta trên mảnh đất này. Nhưng đến bây giờ chúng ta vẫn chưa nắm được Định, nếu Định là người của SEDCE, nếu Định chỉ trung thành với Diệm thôi mà không trung thành với chúng ta, nếu Định bị một lực lượng thứ ba nào đó lôi kéo như bọn trí thức ở Sài Gòn này vẫn có phong trào đó, thì ta vẫn không thể nào dùng được. Chúng ta cần tìm hiểu kĩ về Định hơn nữa. Và còn điều này mới quan trọng, một nhân viên của ta, phục vụ tại khách sạn Ma-giết-tíc cho tôi biết Định vừa có một bản danh sách cán bộ Việt Minh cũ ở Sài Gòn-Chợ Lớn còn nằm lại. Một nhân viên tình báo Pháp của SEDCE đã bán bản danh sách đó cho Phan Thúc Định. Tô-ma nhổm người lên như ngồi phải lửa: - Chúng ta cần phải có ngay bản danh sách đó. Một nụ cười nhạt nhẽo hiện ra trên bộ mặt lạnh lùng của Lên sđên: - Đúng. Nhưng vấn đề là làm thế nào… Chiếc xe của hai tên Mỹ phóng nhanh quá suýt đâm vào một cụ già đi ngang đường. Tô-ma hãm phanh, vòng tay trái, miệng bật ra một tiếng chửi. Tiếng còi của tên cảnh sát nguỵ đứng đầu đường rít lên. Tô-ma không thèm để ý, vẫn rú thêm ga, vượt một chiếc tắc xi chạy phía trước. Chiếc xe lao nhanh qua các phố xá tấp nập xe cộ của Sài Gòn, bất chấp luật lệ giao thông, chạy về phía vườn ông Thượng (29). Đến cổng dinh Gia Long, chúng bấm còi. Trông thấy chiếc xe quen thuộc, tên lính gác mở chiếc cổng sắt. Chiếc xe chạy thẳng vào phía trong. Hai tên Mỹ mở cửa xe, bước xuống. Những tên bảo vệ, công chức trong dinh đã quen mặt. đứng nghiêm chào. Chúng lạnh lùng gật đầu đáp lại và đi thẳng đến một chiếc phòng lớn: phòng làm việc của Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm đang ngồi với Ngô Đình Nhu và mấy tên tay chân cao cấp khác. Thấy hai tên Mỹ vào, mấy tên tay chân đứng dậy cáo từ sang phòng bên, riêng Ngô Đình Nhu vẫn ngồi lại. Nhìn hình dáng bên ngoài Ngô Đình Nhu có đôi nét không giống hẳn Ngô Đình Diệm: Hắn gầy hơn và cao hơn ông anh ruột hắn, mặt hắn không thô bỉ như mặt Diệm nhưng trông gian hiểm, tàn nhẫn hơn. Điếu thuốc lá thường xuyên trên môi và ngón tay ám vàng khói thuốc. Hắn lừ đừ như một con thú đang tập trung tất cả sự hoạt động của mình vào bên trong đế rình mồi và hình như bất cứ lúc nào hắn cũng đang dự định làm một việc gì to lớn. Lên-sđên với giọng đùa cợt, chào hai anh em Diệm: - Kính chào ngài thủ tướng và ngài cố vấn chính trị. Hình như hai ngài đang nghị bàn đại sự. Chúng tôi đến lúc này có gì phiền cho các ngài không? Ngô Đình Diệm đưa tay mời hai tên Mỹ ngồi xuống ghế, đáp: - Chúng tôi đang mong gặp các ông để báo ngay tin việc chúng tôi vừa cho bắt hai tên: trung tá Lan và đại uý Giai vì bọn này đã công khai phát thanh trên đài Sài Gòn chống đối chúng tôi và hô hào lật đổ chúng tôi. Ngô Đình Nhu tiếp lời anh: - Chúng tôi thấy cần phải bóp chết bọn chống đối chúng tôi – bất kì chúng là ai – ngay trong trứng nước. Giọng Lên-sđên hết đùa cợt: - Tôi đề nghị các ông thả chúng ra. Không phải tôi bênh gì chúng. Lúc nào chúng tôi cũng đứng về phía ông, ông Diệm ạ. Nhưng lúc này, chưa phải lúc chúng ta diệt bọn chúng. Lúc này chúng ta phải tập họp được nhiều người để chống Cộng. Ngô Đình Nhu đáp: - Tôi tổ chức đảng Cần lao nhân vị. Lên-sđên lắc đầu: - Chưa đủ, các ông không thả chúng ra thì chỉ làm cho hàng ngũ chống đối các ông thêm đông đảo, trong lúc các ông chưa yên chỗ đứng, chỉ làm cho những người trước đây đã làm việc cho Pháp nghi kị, oán ghét các ông, trong lúc các ông vẫn cần đến họ. Vả lại, chúng dám làm như vậy vì đằng sau chúng có những thế lực mà lúc này các ông không làm gì nổi, đang đe doạ hất đổ các ông lúc nào không biết. Tôi xin báo riêng để ông rõ: tướng Nguyễn Văn Hinh đang xúc tiến một cuộc đảo chính lật các ông. Họ sẽ đem xe bọc thép tấn công vào dinh này. Ngô Đình Diệm bật lên: - Quân phản bội! Ngô Đình Nhu mím chặt môi rít thuốc lá. Lên-sđên tiếp: - Còn nữa: Vừa rồi ở Can-nơ, Bảo Đại đã gặp Bảy Viễn. Bảo Đại đã biết các ông định gạt Bảo Đại bằng cách loại bỏ hết người thân cận của hắn trong nội các. Hắn đã khuyến khích Bảy Viễn tập hợp lực lượng lật các ông, nếu lật được các ông thì hắn sẽ phong cho Viễn làm thủ tướng. Tôi tự hỏi: Các ông đã thấy hết mối nguy cơ của các ông chưa? Ngô Đình Diệm ngồi im. Ngô Đình Nhu vẫn mím chặt môi rít những hơi thuốc lá dài, mặt càng đanh ác, thâm hiểm. Lên-sđên và Tô-ma có vẻ thích thú nhìn hai anh em Ngô Đình Diệm bối rối, khuất phục trước cặp mắt mình, cái thích thú của những người chủ nhìn những con vật mình nuôi, sau khi đã cho mấy ngọn roi, mất hết tính hung hăng khó bảo, đã trở lại nem nép quỳ mọp dưới chân mình. Một lát sau, Ngô Đình Diệm ngẩng lên hỏi Lên-sđên: - Tôi chỉ cần biết thái độ của chính phủ Hoa Kỳ. Xin các ông cho biết. - Tôi với ông là bạn thân – Lên-sđên đáp úp mở, không trả lời thẳng vào câu hỏi của Diệm. – Tôi sẽ giúp ông, ông Diệm ạ. Như đã nói với ông, chúng tôi đã đưa ông về nước. chúng tôi có trách nhiệm với ông. Các ông nên nghe chúng tôi. - Chúng tôi sẵn sàng nghe các ông. Lên-sđên tự phụ: - Chưa cần các ông đề nghị, chúng tôi đã có kế hoạch hành động đầy đủ rồi. Trước hết, chúng tôi sẽ phá âm mưu đảo chính của tướng Hinh. Tướng Hinh đang định dựa vào tên trung tá Lan và tên đại uý Giai để tiến hành đảo chính. Chúng tôi sẽ điều tra xem ngày nào bọn họ định tiến hành đảo chính. Gần đến ngày đó, tôi sẽ đề nghị tướng Ô Đa-nien (30) mời bọn họ đi một nước nào đó tham quan – chẳng hạn như sang Phi Luật Tân – Chúng ta làm nhẹ nhàng thể thôi, không gây một chút ồn ào nào. Mặt khác, ông Diệm cần phải có một lực lượng quân sự tin cậy làm chỗ dựa. Đại sứ Cô-lin đã thoả thuận với tôi, giúp ông một số tiền để ông “mua” một số tướng tá, một số thủ lĩnh giáo phái có quân trong tay. Ngay bọn bảo vệ ông ở cái dinh này cũng không tin được. Tôi đã đề nghị với một người bạn thân tôi ở Phi Luật Tân: đại tá Na-pô-lê-ông Va-lê-ri-a-nô (31) – vừa là cánh tay phải vừa làm người tổ chức đội quân bảo vệ cho tổng thống Mắc-xay-xay (32) sang đây tổ chức và huấn luyện một tiểu đoàn riêng để bảo vệ dinh của ông, chống lại các cuộc tấn công có thể xảy ra… Các ông bằng lòng chứ? Ngô Đình Diệm không giấu nổi sung sướng: - Các ông chu toàn quá. Một lần nữa, xin tri ân các ông. Ngô Đình Nhu không nói gì, vẫn im lặng hút thuốc lá nhưng nét mặt hắn đã giãn ra và hơi thuốc hắn rít không kéo dài như trước. Lên-sđên tiếp tục nói: - Chúng tôi đã bỏ rất nhiều tiền ra để đưa người Bắc Việt di cư vào đây. Chúng ta sẽ tuyển lựa trong đó nhiều người dùng được. Đó là nguồn nhân lực để ông lôi kéo vào quân đội của ông, cũng là nguồn nhân lực để giúp các công ty Hoa Kỳ khai thác sau này. Lúc ấy, Ngô Đình Nhu mới nói: - Chúng tôi sẽ cố gắng nắm những người di cư đó. Lên-sđên gật đầu: - Đúng! Còn một vấn đề nữa: việc phá hoại miền Bắc và những vùng Việt Minh còn kiểm soát ở miền Nam, chúng tôi sẽ làm thay các ông trong giai đoạn này. Các ông sẽ thấy những vụ nổ lớn, có những sự tàn phá, gây hoang mang trong các vùng đó. Bây giờ các ông hãy làm thế nào đối phó các lực lượng chống đối các ông ở đây để giữ vững chỗ đứng của các ông đã. Trong các lực lượng chống đối đó có bọn Bình Xuyên và các giáo phái… Bọn ấy chúng tôi chưa nắm được mọi hoạt động của chúng, ông có người nào làm được việc đó không? Ngô Đình Diệm ngẫm nghĩ rồi đáp: - Tôi thấy có một người làm được: Phan Thúc Định. Nghe đến tên Phan Thúc Định, Lên-sđên ngần ngại: - Tại sao Định có thể làm được? - Vì bọn ấy trước đây là người của Pháp chi phối. Phan Thúc Định biết nhiều nhân viên SEDCE chắc chắn sẽ có cách tìm hiểu được mọi hoạt đông của chúng. Chúng lại rất thích tìm những người trí thức làm quân sư, cố vấn. Chắc chúng không thể nghi ngờ một người trí thức như Định. Tôi tin rằng tôi giao việc gì Định sẽ làm hết sức. Lên-sđên cau mày suy nghĩ một chút, gật đầu: - Cũng được! Như chợt nhớ ra, Lên-sđên hỏi Ngô Đình Diệm: - Phan Thúc Định đang có trong tay một bản danh sách các cán bộ kháng chiến cũ ở lại Sài Gòn-Chợ Lớn. Vậy anh ta có cho ông biết chưa? Ngô Đình Diệm ngạc nhiên: - Quái thật! Việc gì đại tá cũng biết cả! Anh ta đã đưa cho chú Nhu bản danh sách đó. - Phải, chúng tôi đã có bản danh sách đó. – Ngô Đình Nhu tiếp lời anh – Phan Thúc Định đã trao cho tôi cách đây ba hôm. Tôi đã bàn với ông Trần Kim Tuyến kế hoạch làm ngay một mẻ lưới. Ông Tuyến sẽ trình với ông kế hoạch đó. Lên-sđên gật đầu. Hỏi tên Mỹ bước ra xe. Tô-ma mở máy và nhìn Lên-sđên có ý hỏi – Lên-sđên xem đồng hồ nói: - Chúng ta đi ăn một chút, xong tôi phải đến lớp dạy tiếng Anh riêng cho các quý phu nhân đây! Rồi hắn nói với một giọng thích thú: - Trong đó có cả Nguyễn Văn Hinh phu nhân và cô con gái yêu của bà… những người phụ nữ Pháp mới lịch sự, duyên dáng làm sao!… X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 8: Những Đòn Đầu Tiên Của Miền Bắc Giáng Xuống Cia Vũ Long chăm chú ngắm tập ảnh… Xem xong mỗi chiếc, anh lại chuyển cho Trần Mai. Nhìn tấm ảnh chụp hai tên Mỹ đi giữa cảnh hoạt động của bến tàu Sài Gòn, Vũ Long nói: - Đây là đối thủ của chúng ta. Cái tên cao là Lên-sđên. Tên mập hơn mặc sơ mi hoa này là Tô-ma. Chúng ta đã thắng bọn tình báo Pháp trong cuộc chiến tranh vừa qua. Bây giờ, đối với những đối thủ này, chúng ta còn ít hiểu biết về chúng quá. Bổn phận chúng ta là tìm hiểu kĩ về chúng, không thể chủ quan với bọn này được. Chúng có nhiều tiền, có phương tiên kĩ thuật tối tân, tiến hành phá hoại trên phạm vi toàn thế giới và đem những kinh nghiệm ấy áp dụng vào nước ta. Cuộc đấu trí, đấu sức giữa ta và chúng chắc chắn sẽ gay go, khó khăn và quyết liệt lắm đấy. Có tấm ảnh chụp một chiếc tàu biển. Cái tài của người chụp là ở chỗ lấy được toàn bộ hình dáng con tàu lẫn số hiệu tàu rõ rệt vào ảnh. Vũ Long chỉ vào con tàu bảo Trần Mai: - Theo báo cáo của X.30 gửi kèm cuốn phim về thì đồng chí đó muốn ta đặc biệt chú ý đến con tàu này. Tại sao hai tên trùm CIA lại xuống thăm con tàu này? Vũ Long ngừng lại suy nghĩ. Theo thói quen, sự suy nghĩ ấy dẫn anh từ chi tiết nọ đến chi tiết kia của sự việc, bật ra sự liên hệ giữa các chi tiết đó. Anh vừa thủng thẳng nói, vừa cân nhắc: - Theo điều tra của đồng chí X.30 thì hành trình của con tàu này là Sài Gòn – Hải Phòng và Sài Gòn – Phi Luật Tân. Hải Phòng thì hãy còn là khu vực tập kết của quân đội Liên hiệp Pháp, đang là chỗ đón những người dao động, lạc hậu, những kẻ chạy trốn cách mạng muốn bám theo địch đến cùng, đồng thời cũng đang là cái bàn đạp để kẻ địch tung bọn gián điệp thâm nhập vào miền Bắc vừa được giải phóng, tiến hành chiến tranh tâm lí, chiến tranh phá hoại. Phi Luật Tân là một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ ở Thái Bình Dương, đồng thời cũng là nơi bọn Mỹ dùng để huấn luyện những thứ binh chủng đặc biệt của chúng. Sài Gòn – Hải Phòng, Sài Gòn – Phi Luật Tân, hai tên trùm CIA và một chiếc tàu… tất cả những điều ấy phải liên quan gì với nhau? Đồng chí có thấy những điều ấy liên quan với nhau không? Ý đồng chí thế nào? Trần Mai không đáp ngay câu hỏi của Vũ Long mà hỏi lại anh: - Anh đã đọc cái báo cáo của cơ sở chúng ta ở cảng Sài Gòn chưa? Vũ Long gật đầu: - Có, tôi đọc rồi. Cái báo cáo ấy cũng liên quan đến một con tàu. Cơ sở ta ở cảng phát hiện có một số tên khuân vác đáng nghi, ngày thường không thấy xuất hiện ở cảng, đã xuống một con tàu. Anh em theo dõi thì không thấy chúng lên nữa. Ấy đấy, nếu tổng hợp các chi tiết tưởng chừng rời rạc ấy lại với nhau thì sự việc đã tương đối rõ đấy nhỉ. Chúng ta có thể sơ bộ nhận định thế này: bọn CIA đang bí mật tung người ra tiến hành những âm mưu thâm hiểm đối với miền Bắc vừa được giải phóng. Đồng chí hãy gởi gấp phiên bản cuốn phim của đồng chí X.30, những báo cáo của cơ sở ta ở cảng Sài Gòn… lên cấp trên ngay. Đồng chí ghi rõ nhận định của chúng ta nữa. Khi Trần Mai quay ra. Vũ Long tiếp tục xem lại từng bức ảnh, mong tìm ra thêm được những chi tiết đáng chú ý nữa. Kinh nghiệm cho anh thấy rằng có những bức ảnh, bức thư… chỉ xem, chỉ đọc một lần thường không phát hiện hết những điều đáng chú ý. Nhưng nếu ta xem, ta đọc thêm mấy lần sau nữa, có khi tìm ra được những điều rất thú vị. Anh nheo mắt ngắm bức ảnh chụp hai thằng trùm tình báo Mỹ mặc thường phục đi giữa những người Việt ở cảng Sài Gòn. Những ý nghĩ lúc nãy lại quay trở về với anh: “Đây là những đối thủ mới. Bọn này ghê gớm hơn bọn cũ rất nhiều. Tất nhiên ta chưa hiểu hết về chúng nhưng ta tin ở sức mạnh của nhân dân, tin ở sự sáng suốt của cấp trên. Nhân dân thuộc về ta. Chúng có nhiều tiền bạc, nhiều phương tiện tối tân, nhiều mánh khoé, thủ đoạn thâm hiểm, nhưng sang đây, chúng không thể sống riêng biệt chỉ có chúng nó với nhau được, chúng không thể vác cái mũi lõ, mắt xanh thâm nhập vào hàng ngũ của ta được. Chúng sẽ cần những người Việt Nam, cần những người thông ngôn, cần những cô thơ kí, cần những ông già quét dọn nhà cửa, cần những anh lái xe, cần những em nhỏ đánh giày… giúp việc cho chúng. Và những người ấy sẽ là tai mắt cho ta, sẽ là những người góp phần thầm lặng vào việc tống cổ chúng ra khỏi đất nước này. Tiền bạc của chúng có thể mua được một số tay sai nhưng chắc chắn không thể mua được tâm hồn, tấm lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Phương tiện tối tân của chúng có thể gây nhiều khó khán cho ta nhưng chắc chắn không thể giúp chúng kiểm soát được những người ngay bên cạnh chúng, không thể giúp hiểu được mỗi người dân Việt Nam nghĩ gì. Mà người dân Việt Nam thì ai cũng yêu nước, ghét bọn ngoại bang xâm lược. Không thể chủ quan với chúng được, nhưng chắc chắn chúng cũng sẽ thất bại như bọn trước thôi, có khi còn thất bại đau hơn!”. Vũ Long mỉm cười, cái cười của người bước vào trận đánh biết trước sẽ gay go, căng thẳng, đầy nguy hiểm nhưng tin ở sức mình. Anh tin ở ngày mai miền Nam cũng sẽ được hoàn toàn giải phóng như miền Bắc… X.30 PHÁ LƯỚI Đặng Thanh dtv-ebook.com Chương 9: Từ Đại Thế Giới Đến Liberty Palace… Phan Thúc Định đứng trước gương thắt cà vạt. Nam – gã giúp việc – hỏi anh: - Ngài có lấy áo không ạ? Trong bụng, Định rất khó chịu với gã giúp việc này, nhưng nét mặt và lời nói anh vẫn thản nhiên: - Cảm ơn bác, hôm nay tôi đi chơi mát thôi. Gã giúp việc lặng lẽ lui ra. Đó là một gã đàn ông ngoài bốn mươi tuổi, mặt vuông, môi dày, trán ngắn, lông mày rậm, có vẻ đần độn. Dáng điệu gã chậm chạp. Lời ăn tiếng nói xem chừng thật thà. Riêng đôi mắt gã thật kì lạ: bình thường thì lờ đờ nhưng đôi lúc nhanh như mắt mật thám. Phan Thúc Định biết gã đã từng hầu hạ gia đình Ngô Đình Nhu trên hai mươi năm, từ hồi Ngô Đình Diệm còn mũ áo dài giữa triều đình Huế. Gã được liệt vào hạng tôi tớ trung thành của gia đình họ Ngô. Phan Thúc Định biết là Ngô Đình Nhu đưa gã Nam đến giúp việc anh, không phải là không có lí do. Vì có lần về, nhìn lại ngăn kéo bàn giấy, Định thấy vẫn khoá nhưng sợi tóc nhỏ anh đánh dấu rơi ra ngoài. Anh được Ngô Đình Diệm cho ở hẳn trong dinh Gia Long và được dùng hai phòng thoải mái: một phòng ngủ và một phòng làm việc. Anh có riêng một chiếc xe hơi kiểu Rơ-nôn bốn mã lực khi chạy ra đường, lẫn với hàng nghìn chiếc tắc xi đang được dùng phổ biến ở Sài Gòn lúc đó. Thắt cà vạt xong, Định đóng cửa buồng và bảo gã giúp việc lúc nào cũng ở quanh quẩn chỗ anh: - Bác ở nhà nhé, nếu cụ Ngô gọi, bác thưa với cụ hộ là tôi ra phố. Anh đi qua sân, về phía nhà xe. Một tiếng gọi thỏ thẻ làm anh đứng lại: - Anh Định. Trần Lệ Xuân – vợ Ngô Đình Nhu – đang ngồi trên một chiếc ghế đá, khuất sau lùm cây, nhìn anh đăm đăm. Định lịch sự, hơi cúi đầu: - Chào bà. Trần Lệ Xuân khoảng ngoài ba mươi tuổi, từ vẻ mặt đến thân hình đều lộ ra những nét của một người còn tiếc rẻ tuổi xuân và để nhiều thời gian vào các mĩ viện. Bà ta mặc chiếc áo dài trắng “kiểu Trần Lệ Xuân” hở cổ và khoảng vai trắng ngần, quần trắng, đi dép đầm cũng màu trắng. Tay bà ta đeo đầy vàng và kim cương. Từng cái cau mày, từng cử chỉ, từng lời nói đều lấy điệu như một diễn viên kịch, như có máy ảnh đặt trước mặt. Bà ta nhìn Phan Thúc Định, trách móc: - Tôi đã nhiều lần bảo anh đừng gọi tôi như thế. Tôi hãy còn trẻ. Định vẫn lịch sự: - Vâng… nhưng xin lỗi bà, bà là bà cố vấn. Tôi muốn tỏ sự kính trọng của tôi. Lệ Xuân lắc đầu: - Không. Nhà tôi với tôi, tuy thế, cũng có những điểm khác nhau chứ. Công việc làm tính nết nhà tôi già đi nhiều. Còn tôi, tâm hồn lúc nào cũng trẻ. Nhà tôi ít nói, tôi thì thích nói chuyện với mọi người. Nhà tôi hầu như chỉ biết có công việc, sống cô độc. Còn tôi, tôi muốn tiếp xúc với mọi người… Rồi hắn nhìn Định thăm dò: - Lúc nào có mặt nhà tôi, có mặt mọi người anh gọi thế cũng không sao, nhưng những lúc chỉ có riêng tôi với anh, tôi thấy anh xưng hô như vậy là kém sự thân mật đi. - Vâng… - Tôi rất quý anh. anh có biết không? - Dạ, cảm ơn… bà. - Đấy lại thế rồi. Tôi rất quý anh cho nên tôi muốn mách riêng anh điều này: giáo sư Phi-sin không ưa anh và để ý anh. Anh có hiểu tại sao không? - Tôi cũng không hiểu tại sao ông ta lại quá quan tâm đến tôi như vậy. Phan Thúc Định trả lời Lệ Xuân và nhìn hắn bằng một cái nhìn ý nhị. Lệ Xuân mỉm cười: - Chẳng lẽ do tôi. """