"
World of Warcraft Tập 1: Vòng Xoay Thù Hận - Keith R. A. DeCandido full prc pdf epub azw3 [Huyền ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook World of Warcraft Tập 1: Vòng Xoay Thù Hận - Keith R. A. DeCandido full prc pdf epub azw3 [Huyền ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Voøng Xoay Thuø Haän
Tác giả: Keith R.A. DeCandido
Dịch giả: Asumo
Nguồn: https://asumowow.wordpress.com Tạo eBook: Đào Tiểu Vũ
Giới Thiệu:
Cycle of Hatred – chapter 1 Cycle of Hatred – chapter 2 Cycle of Hatred – chapter 3 Cycle of Hatred – chapter 4 Cycle of Hatred – chapter 5 Cycle of Hatred – chapter 6 Cycle of Hatred – chapter 7 Cycle of Hatred – chapter 8 Cycle of Hatred – chapter 9 Cycle of Hatred – chapter 10
Cycle of Hatred – chapter 11 Cycle of Hatred – chapter 12 Cycle of Hatred – chapter 13 Cycle of Hatred – chapter 14 Cycle of Hatred – chapter 15 Cycle of Hatred – chapter 16 Cycle of Hatred – chapter 17 Cycle of Hatred – chapter 18 Cycle of Hatred – chapter 19 Cycle of Hatred – chapter 20 Cycle of Hatred – chapter 21 Cycle of Hatred – chapter 22 Cycle of Hatred – chapter 23 Cycle of Hatred – chapter 24 Cycle of Hatred – Epilogue
Giới Thiệu:
Cycle of Hatred (Vòng Xoay Thù Hận) là cuốn tiểu thuyết viết bởi Keith R.A. DeCandido diễn ra tại thế giới Warcraft, một năm sau khởi đầu World of Warcraft.
Phần nền:
“Kết thúc Warcraft 3 và bản mở rộng, con người và orc đã là đồng minh trên lục địa Kalimdor. Nhưng trong World of Warcraft, hai bên đã lại là kẻ thù. Nhiệm vụ của tôi trong tiểu thuyết Cycle of Hatred là giúp giải thích sự thay đổi đó. Nó diễn ra vào khoảng bốn năm giữa hai trò chơi, và liên quan đến con người ở Kalimdor dưới sự lãnh đạo của Tiểu Thư Jaina Proudmoore và loài orc ở cùng lục địa dưới sự lãnh đạo của Thrall. Trong tất cả các nhân vật trong vũ trụ Warcraft, tôi nhận thấy Jaina và Thrall là hai trong ba nhân vật hấp dẫn nhất. Jaina là một nữ pháp sư hùng mạnh, người bị đặt vào tình huống phải lãnh đạo một nhóm con người nhỏ ở một xứ sở thù địch trước cuộc chiến tranh tàn bạo với một bầy đàn quỷ dữ. Thrall là một orc được nuôi dạy bởi con người để làm nô lệ, người dẫn đầu quân orc nổi lên chống lại sự nô dịch của con người, và truyền cảm hứng cho loài orc trở về con đường cổ xưa trước khi họ bị nguyền rủa bởi quỷ dữ. Cả hai người thủ lĩnh đều đang cố tạo nên một tương lai mới, vượt qua những thù hận xưa kia. Không may là lòng thù hận không dễ mất đi như vậy. Nếu bạn thắc mắc ai là nhân vật thứ ba, bạn sẽ phải đọc cuốn sách này để tìm ra — nhân vật này cũng có trong sách, nhưng là ai thì là một ngạc nhiên lớn đấy.”
Về tác giả
Keith R.A. DeCandido là tác giả của hơn hai tá tiểu thuyết, cùng rất nhiều tiểu thuyết ngắn, truyện ngắn, sách điện tử, truyện tranh, và truyện thực tế, với đủ chủ đề. Ngoài Warcraft, ông đã viết về thế giới Star Trek, StarCraft, Spider-Man, X-Men, Buffy the Vampire Slayer, Serenity, Farscape, Andromeda, Resident Evil, Xena, và nhiều thế giới khác. Ông cũng là tác giả của dòng truyện kỳ ảo Dragon Precint, và là chủ bút của nhiều hợp tuyển, gần đây nhất là hợp tuyển Imaginings và các hợp tuyển Star Trek là Tales of the Dominion War và Tales from the Captain’s Table. Tác phẩm của ông đã từng nằm trong nhiều bản danh sách bán chạy nhất, và đã nhận được nhiều lời phê bình đánh giá cao từ Entertainment Weekly, Publishers Weekly, TV Zone, Starburst, Dreamwatch, Library Journal, Cinescape, v.v. Ông sống tại thành phố New York cùng với bạn gái mình và hai con mèo dở hơi. Đọc thêm về Keith tại website chính thức của ông tại DeCandido.net, theo dõi kênh của ông tại LiveJournal dưới bí danh là “kradical,” hoặc liên hệ qua thư điện tử tại keith@decandido.net.
Lời cảm ơn:
Lời cảm ơn đầu tiên nhất định phải dành cho bậc thầy của hãng trò chơi Blizzard là Chris Metzen, người có canh với mọi thứ thuộc về Warcraft nói không ngoa. Những cuộc trao đổi bằng điện thoại và thư điện tử đã cực kỳ thành canh và đầy nguồn năng lượng sáng tạo một cách đáng ngạc nhiên.
Lời cảm ơn thứ hai dành cho Marco Palmieri, chủ bút của tôi tại hãng sách Pocket Books, và sếp là Scott Shannon, hai người vẫn luôn cho rằng đây sẽ là một ý tưởng hay ho; và tới Lucienne Diver, trợ lý tài giỏi của tôi.
Lời cảm ơn thứ ba gửi tới những tiểu thuyết gia của Warcraft, Richard Knaak, Jeff Grubb, và Christie Golden. Đặc biệt, cuốn Người Bảo Hộ Cuối Cùng của Jeff và cuốn Chúa Tể Các Bộ Lạc của Christie đã rất có ích trong việc khắc họa thành canh hai nhân vật Aegwynn và Thrall.
Cũng xin gửi lời cảm ơn tới: Malibu Gang, Elitist Bastards, Novelscribes, Inkwell, và tất cả những người trong danh sách gửi thư đã giữ vững tinh thần cho tôi bằng cách khiến tôi phát điên lên; CITH và CGAG; những người ở Palombo đã chấp nhận tôi; Kyoshi Paul và những người tốt khác ở trường dạy võ; và hiển nhiên là sự kiên nhẫn của những người sống cùng tôi, cả người và mèo, vì tất cả những sự trợ giúp không ngừng nghỉ.
Ghi chú của sử gia:
Cuốn tiểu thuyết này diễn ra vào thời gian một năm trước World of Warcraft. Chuyện xảy ra ba năm sau cuộc xâm lược của Quân Đoàn Rực Lửa và thất bại của chúng trước hợp quân của orc, con người, và dạ tiên (Warcraft 3: Reign of Chaos và Warcraft 3X: The Frozen Throne).
Về tác quyền:
This book is a work of fiction. Names, characters, places and incidents are products of the author’s imagination or are used fictitiously. Any resemblance to actual events or locales or persons, living or dead, is entirely coincidental. Copyright © 2006 by Blizzard Entertainment
All rights reserved, including the right to reproduce this book or portions thereof in any form whatsoever. For information address Pocket Books, 1230 Avenue of the Americas, New York, NY10020
ISBN: 1-4165-3114-9
POCKET STAR BOOKS and colophon are registered trademarks of Simon & Schuster, Inc.
Visit us on the World Wide Web: http://www.SimonSays.com
Thông tin thêm:
Vẽ bìa: Glenn Rane
Phát hành: Pocket Star
Ngày phát hành: 31 tháng 1 năm 2006 Tình trạng dịch: đã hoàn tất
Cycle of Hatred – chapter 1
Một
Erik đang lau chùi vết bia bám trên hộp sọ quỷ gắn sau quầy rượu thì một kẻ lạ mặt bước vào.
Quán Rượu và Quán Trọ Bả Quỷ thường không mấy khi có nhiều khách đến vậy. Ngày hôm đó còn lạ thường hơn khi Erik không nhìn thấy khuôn mặt của một trong những khách hàng của anh. Thường thì anh không biết tên họ – anh chỉ nhớ được khuôn mặt của họ vì phải nhìn thấy liên tục. Erik không quan tâm lắm tới những ai tới quán rượu của anh, chỉ cần biết họ có tiền và đang khát.
Ngồi xuống một cái bàn, kẻ lạ mặt có vẻ đang chờ đợi hoặc đang ngắm nhìn một thứ gì đó. Gã không nhìn bức tường gỗ trong bóng tối – vì người ta khó có thể thấy được chúng, quán Bả Quỷ không hề có
cửa sổ và ánh sáng chỉ tới từ một cặp đuốc – hay là những cái bàn gỗ tròn nhỏ cùng những đồ trang trí nằm trên sàn. Erik chẳng bao giờ để tâm tới việc sắp xếp đống bàn theo một thứ tự nào cả, bởi vì người ta cứ tới và dịch chuyển nó xung quanh cho phù hợp với họ.
Sau một phút, kẻ lạ mặt đứng dậy và tiến tới quầy rượu bằng gỗ. “Tôi đang chờ phục vụ bàn đây.”
“Không có ai đâu,” Erik nói. Anh chưa bao giờ cảm thấy cần phải trả lương để thuê đám bồi bàn. Nếu người ta muốn uống, họ có thể đi tới quầy. Nếu họ quá say để có thể tới đó, anh cũng chẳng muốn họ phải uống thêm nữa, bởi vì khi người ta say rượu thì rất dễ dẫn tới đánh nhau. Erik chỉ thích một quán rượu yên tĩnh.
Kẻ lạ mặt ném một đồng bạc lên quầy và hỏi, “Thứ rượu đắt nhất anh có ở đây là gì?” “Là rượu grog của gấu từ phương bắc. Loài orc làm ra nó, loại men-”
Kẻ lạ mặt nhăn mũi. “Không-không phải rượu của orc.”
Erik nhún vai. Người ta thường cân nhắc một cách kỳ lạ khi nói tới rượu. Anh từng thấy người ta tranh cãi dữ dội về bia với rượu whiskey ngô hơn là những bất đồng chính trị hay tôn giáo. Nếu gã đàn anh này không thích rượu của orc, Erik cũng chẳng cần bận tâm. “Có whiskey ngô – mẻ mới làm tháng rồi.”
“Bán đi.” Kẻ lạ mặt đập tay lên quầy gỗ, khiến mớ vỏ hạnh, hạt quả, và những mảnh vụn khác tại đó nảy lên. Erik chỉ lau chùi quầy khoảng cỡ một năm một lần – không như cái sọ quỷ, chẳng có ai thực sự để ý đến cái quầy, và anh không thấy cần thiết phải lau chùi một mặt bàn mà không ai nhìn.
Một khách hàng quen, một binh sĩ luôn uống rượu grog, quay sang nhìn kẻ lạ mặt. “Đầu tôi đang bảo tôi
rằng anh không thích rượu orc phải không?”
Kẻ lạ mặt nhún vai trong khi Erik kéo cái chai thủy tinh chứa rượu whiskey ngô khỏi giá và rót vào một cái ca khá sạch.
“Không phải là tôi không thích rượu của orc, thưa ngài – mà là tôi có vấn đề với chính lũ orc.” Kẻ lạ mặt giơ tay ra. “Tên tôi là Margoz. Tôi làm nghề đánh cá, và tôi phải nói rằng tôi không được hài lòng lắm về những thứ nằm trong lưới của tôi trong mùa này.”
Không thèm bắt tay hay tự giới thiệu về mình, người binh sĩ nói, “Tất cả những gì tôi nhận thấy là anh không phải là một ngư dân giỏi cho lắm.”
Margoz hạ tay xuống khi nhận ra binh sĩ nọ không cảm thấy thân thiện, hắn vớ lấy món rượu whiskey ngô của mình. “Tôi là một ngư dân giỏi thưa ngài – tôi lớn lên tại Kul Tiras, trước khi hoàn cảnh đưa đẩy tôi tới đây.”
Phía bên kia Margoz là một tay lái buôn đang thổi phì phì vào ca bia của gã. “Hoàn cảnh cả. Chắc rồi. Bị bắt đầu quân đi đánh Quân Đoàn Rực Lửa phải không?”
Margoz gật đầu. “Tôi chắc nhiều người cũng vậy. Tôi đang cố gây dựng một cuộc sống mới ở Theramore đây – nhưng bằng cách nào bây giờ, với cái đám da xanh khốn nạn đó đã lấy mất tất cả những vùng nước nhiều cá cho riêng chúng chứ?”
Erik gật đầu đồng ý với nửa đầu lời trần tình của Margoz, nhưng không thể đồng tình với nửa sau. Anh tới Theramore sau khi Quân Đoàn Rực Lửa đã bị đánh đuổi – không phải để chiến đấu, bởi vì cuộc chiến đã
kết thúc trong lúc anh đang di chuyển, mà là để thừa kế tài sản. Người anh của Erik là Olaf đã chiến đấu với Quân Đoàn và hi sinh, để lại cho Erik đủ tiền để xây nên một quán rượu mà Olaf từng mơ ước được mở sau khi xong việc. Bên cạnh số tiền đó, Erik cũng được để lại một hộp sọ của con quỷ Olaf đã giết. Erik chưa bao giờ muốn mở một quán rượu, nhưng anh cũng chưa bao giờ muốn làm một việc nào đó khác, bởi vậy anh đã mở quán Bả Quỷ để vinh danh người anh của mình. Anh cho rằng con người ở Theramore sẽ bị thu hút tới một nơi có cái tên biểu tượng cho việc đánh đuổi lũ quỷ đã dẫn đến sự thành thấp của thành bang này.
“Tôi không hiểu điều này,” người binh sĩ nói. “Anh đã chiến đấu trong chiến tranh rồi đấy anh ngư dân – anh cũng biết loài orc đã làm gì cho chúng ta rồi.”
“Những gì chúng đã làm cho chúng ta không phải là những gì tôi quan tâm thưa ngài,” Margoz nói, “mà là những gì chúng đang làm với chúng ta.”
“Chúng lấy mất đi thứ tốt nhất.” Một thuyền trưởng ngồi tại một cái bàn sau lưng người binh sĩ nói. “Ở đường Mỏ Lết, lũ yêu tinh bọn chúng luôn ưu tiên sửa chữa hoặc chỗ đậu tàu cho lũ orc. Tháng vừa rồi, tôi đã phải chờ nửa ngày chúng mới cho thuyền tôi đậu, nhưng vài con thuyền orc đến chỉ hai tiếng sau tôi đã có được ngay chỗ đậu.”
Người binh sĩ quay lại nhìn người thuyền trưởng và nói, “Vậy thì cứ đi đâu đó khác Mỏ Lết đi.” “Không phải lúc nào cũng có sự lựa chọn,” người thuyền trưởng chế nhạo.
“Với cả có phải lúc nào chúng cũng cần sửa chữa đâu,” người đàn ông đi với người thuyền trưởng nói – Erik nghĩ rằng đó hẳn là thuyền phó của ông ta, vì họ mặc đồ khá giống nhau. “Chúng có gỗ sồi trên núi
phía trên Orgrimmar, và chúng làm tàu từ đó. Còn chúng ta có gì nào? Tất cả chỉ có gỗ vân sam yếu ớt. Chúng tích trữ tất cả những thứ gỗ tốt. Thuyền của chúng ta cứ rò nước mãi với cái thứ rác rưởi chúng ta phải hợp tác cùng ấy.”
Có vài giọng nói khác rì rầm đồng ý chuyện này.
“Vậy mấy người đều cho rằng sẽ tốt hơn nếu không có loài orc quanh đây sao?” Người binh sĩ đấm vào quầy rượu. “Nếu không có họ, chúng ta đều đã trở thành thức ăn cho quỷ rồi đấy, và đó mới chỉ là một trong nhiều lý do thôi đấy.”
“Tôi không nghĩ có ai đó phủ nhận điều đó.” Margoz nhấp cái ca rượu của mình. “Dù vậy, có vẻ như tài nguyên được phân bổ không đồng đều cho lắm.”
“Anh biết đấy, loài orc đã từng là nô lệ.” Giọng nói từ một người cũng ở cạnh quầy rượu mà Erik không thể nhìn thấy nơi anh ta đứng. “Của con người, và của Quân Đoàn Rực Lửa, nếu mà anh nghĩ cho kỹ. Chẳng trách giờ chúng lại muốn lấy tất cả mọi thứ có thể.”
“Phải trách chứ vì chúng đã lấy từ tay chúng ta chứ,” người thuyền trưởng nói.
Người lái buôn gật đầu. “Anh biết đấy, chúng đâu tới từ đây đâu. Chúng tới từ một thế giới khác, và Quân Đoàn Rực Lửa đã đem chúng tới đây.”
Người thuyền phó lẩm bẩm, “Có lẽ chúng nên quay trở về nơi chúng tới.”
“Vẫn thắc mắc Công Nương Proudmoore đang nghĩ gì vậy,” Margoz nói.
Erik cau mày. Với câu đó, cả quán rượu đột nhiên trở nên yên lặng. Có nhiều người đang lẩm bẩm đồng ý lẫn phản đối, cả ngụ ý lẫn công khai.
Nhưng ngay khi Margoz nhắc đến Jaina Proudmoore – tệ hơn nhắc đến cô ấy một cách coi thường – cả khu chợt trở nên im lặng.
Quá im lặng. Trong vòng ba năm Erik làm chủ quán rượu này, anh đã học được rằng có hai khoảng thời gian người ta biết được một cuộc đấu sắp nảy ra: lúc quá ồn ào, và lúc quá lặng. Và khả năng thứ hai thường dẫn đến những cuộc đấu thực sự khó chịu.
Một binh sĩ khác đứng lên bên cạnh người đầu tiên – người này có bờ vai khá là rộng, và anh ta không hề nói nhiều, nhưng khi anh nói, đó là một giọng nói sang sảng khiến hộp sọ quỷ sau quầy rượu rung lên trên giá. “Đừng có ai nói xấu về Công Nương Proudmoore nếu không muốn phải sống mà không còn răng.”
Margoz nuốt ực và nói nhanh, “Tôi chẳng bao giờ dám mơ tới chuyện nói tới lãnh tụ của chúng ta bằng giọng nói nào không tôn kính đâu thưa ngài, tôi xin hứa.” Hắn uống một ngụm hết chỗ rượu ngô đó cho dù có vẻ còn khá nhiều, điều đó khiến mắt hắn mở lớn. Hắn lắc lắc đầu vài lần.
“Công Nương Proudmoore rất tốt với chúng ta,” người lái buôn nói. “Sau khi chúng ta đánh đuổi Quân Đoàn Rực Lửa, người đã gây dựng được nên cả một cộng đồng. Lời trách của anh có lý đấy Margoz à, nhưng chẳng đáng cho công nương để ý. Tôi từng gặp vài phù thủy trước đây rồi, và hầu hết bọn họ đều chẳng đáng cho tôi để tâm. Nhưng công nương là một người tốt, và sẽ chẳng thể có bất cứ ai ủng hộ anh miệt thị người đâu.”
“Tôi chưa bao giờ có ý miệt thị đâu thưa ngài,” Margoz nói, vẫn có vẻ còn hơi run sau ngụm rượu ngô
hơi nhiều đó. “Nhưng hẳn cũng phải thắc mắc tại sao lại không có bất kỳ hiệp định buôn bán nào để kiếm được thứ gỗ siêu phẩm mà mấy quý ông kia nhắc đến chứ.” Trông hắn trầm tư đôi chút. “Có lẽ người đã thử, nhưng lũ orc lại không cho phép.”
Người thuyền trưởng hớp một ngụm bia rồi nói, “Có lẽ loài orc bảo người hãy rời Trạm Bắc.”
“Chúng ta nên rời khỏi Trạm Bắc,” người lái buôn nói. “Xứ Đất Cằn là vùng đất trung lập, điều này đã được thỏa thuận ngay từ đầu.”
Người lính cứng đờ. “Anh điên mất rồi nếu nghĩ chúng ta sẽ rời bỏ nó.”
Margoz nói, “Đó là nơi lũ orc đánh nhau với Đô Đốc Proudmoore.”
“Ừ, thật bối rối. Một lãnh tụ tài giỏi như Công Nương Proudmoore lại có một người cha ngu ngốc đến thế.” Người lái buôn lắc đầu. “Chúng ta không nên nhớ về toàn bộ sự việc tồi tệ đó nữa. Nhưng sẽ không còn lâu-”
Người thuyền trưởng xen ngang. “Nếu anh hỏi tôi, chúng ta sẽ cần phải mở rộng ra ngoài Trạm Bắc.”
Người lái buôn nói có vẻ khá khó chịu – nhưng là vì bị xen ngang hay là vì nội dung thì Erik không biết mà cũng chẳng quan tâm, “Anh điên à?”
“Anh điên thì có. Lũ orc đang kìm chặt chúng ta! Chúng thì ở khắp lục địa thiêng liêng này, và chúng ta chỉ có Theramore. Đã ba năm kể từ khi Quân Đoàn Rực Lửa bị đánh đuổi. Chúng ta có xứng với một vị trí tốt hơn với cái vị trí hạ đẳng này ngay trên vùng đất của chúng ta không – bị giới hạn trong cái chuồng của một thành bang này không?”
“Theramore cũng là một thành phố tốt đẹp như bao thành phố ở xứ sở con người mà anh có thể thấy được.” Người lính nói đầy kiêu hãnh, để rồi lại tiếp tục bằng giọng nhún nhường. “Nhưng đúng là loài orc có lãnh thổ lớn hơn thật. Đó là lý do tại sao Trạm Bắc lại rất quan trọng – nó cho phép chúng ta duy trì hàng phòng thủ bên ngoài tường thành Theramore.”
“Bên cạnh đó,” người thuyền phó vừa nói vừa cười với cái ca bia, “lũ orc không thích chúng ta ở đấy đâu. Nhiêu đó là đủ lý do để giữ nó rồi, nếu mấy người có hỏi.”
“Chẳng ai hỏi anh đâu,” người lái buôn cạnh khóe.
Người cũng ở cạnh quầy nọ nói – Erik đã đi xuống phía đó một chút, và giờ nhận thấy rằng đó là người quản thư làm việc tại bến tàu, “Có lẽ có ai nên làm gì đó. Lũ orc làm như thể chúng sở hữu cả Kalimdor vậy, và cứ như chúng ta chỉ tới thăm viếng thôi ấy. Nhưng đây cũng là nhà của chúng ta, và đã đến lúc chúng ta phải chứng minh điều đó rồi. Lũ orc không phải con người, thậm chí còn không thuộc về thế giới này. Chúng làm gì có quyền bức chúng ta phải sống như thế nào chứ?”
“Chúng có quyền sống cuộc sống của chúng chứ?” người lái buôn nói.
Người binh sĩ gật đầu và nói, “Tôi có thể nói rằng chúng đã có được điều đó khi chúng chống lại Quân Đoàn Rực Lửa. Nếu không có chúng…” Anh ta uống hết chỗ rượu của mình, rồi trượt cái ca về phía Erik. “Thêm bia cho tôi.”
Erik lưỡng lự. Anh đã bắt đầu với tay lấy chai rượu grog. Người binh sĩ này đã lui tới Bả Quỷ ngay từ khi Erik mở cửa, và anh ta chưa từng uống thứ gì ngoài rượu grog.
Nhưng sau ba năm ròng hay lui tới anh đã biết rằng không nên thắc mắc. Bên cạnh đó, nếu anh ta trả tiền thì anh ta có thể uống cả nước xà phòng, Erik cũng chẳng bận tâm.
“Vấn đề là,” người thuyền trưởng nói, “đây là thế giới của chúng ta, ngay từ lúc sinh ra. Loài orc bọn chúng chỉ là khách ở nhà của chúng ta, và lâu rồi chúng mới cư xử như thế này!”
Cuộc nói chuyện kết thúc từ đấy. Erik phục vụ thêm chút rượu, ném vài cái ca vào chậu để sau này rửa, và chỉ sau khi anh đưa bia cho người lái buôn anh mới nhận ra rằng người khởi xướng cuộc nói chuyện là Margoz đã biến mất.
Hắn thậm chí còn chẳng để lại tiền boa. Erik lắc đầu chán ghét, hắn đã làm xấu đi cái tên của người ngư dân.
Nhưng anh nhớ mặt hắn. Và chắc hẳn sẽ nhổ vào rượu của tên khốn nạn đó vào lần tới hắn tới đây – kẻ chỉ uống mỗi một chầu và rồi lại gây rắc rối. Erik ghét những kẻ chuyên gây rắc rối như thế tại nơi đây. Chỉ đơn giản là ghét thôi.
Nhiều người bắt đầu than phiền về loài orc. Một người – người võ sĩ cạnh người binh sĩ – còn đập ca bia lên quầy mạnh tới nỗi bắn cả rượu lên hộp sọ quỷ. Erik thở dài, lấy cái giẻ lau nó đi.
Từng có khoảng thời gian Margoz rất sợ khi phải đi một mình trên những đường phố tối mịt tại Theramore.
Thật vậy, tội phạm không phải mối lo ngại lớn ở một cộng đồng nhỏ như Theramore – hầu như mọi người đều biết nhau, và nếu không, họ lại biết được một người khác biết được người đó – vậy nên việc phạm tội
rất hiếm khi xảy ra. Những kẻ dám làm thế thường sẽ bị xét xử nhanh chóng và tàn nhẫn bởi binh sĩ của Công Nương Proudmoore.
Dù vậy, Margoz thì nhỏ con và yếu đuối, cá lớn thường nuốt cá bé, bởi vậy Margoz thường tránh đi lại một mình vào đêm khuya. Ta chẳng thề biết có gã nào to khỏe đang ẩn náu đâu đó để thể hiện mình to khỏe như thế nào bằng cách bắt nạt những mục tiêu yếu đuối hơn. Nhiều lần, Margoz đã trở thành một mục tiêu như vậy. Hắn sớm nhận ra rằng tốt nhất nên làm theo lời bọn chúng cho chúng vui để tránh bị hành hung.
Nhưng Margoz không còn phải sợ như vậy nữa. Hoặc sợ bất cứ thứ gì nữa. Giờ hắn đã có một người bảo trợ. Đúng vậy, Margoz cũng phải đền đáp lại, nhưng lần này phần thưởng là uy lực và của cải. Trước kia, phần thưởng là không bị đánh thừa sống thiếu chết. Có lẽ chỉ là thay đổi từ nỗi sợ què quặt thành cái khác, nhưng Margoz nghĩ rằng điều này là tốt hơn cho hắn.
Một làn gió mặn thoảng qua bầu không khí, tràn vào cảng. Margoz hít sâu, mùi nước tiếp thêm sinh lực cho hắn. Ít nhất hắn cũng nói đúng một phần ở quán Bả Quỷ: hắn là một ngư dân, tuy chưa bao giờ thực sự thành công. Tuy nhiên, hắn không hề chiến đấu với Quân Đoàn Rực Lửa như hắn nói, mà đã tới đây sau khi chúng đã bị đánh đuổi. Hắn mong sẽ có nhiều cơ hội ở đây hơn ở Kul Tiras. Việc lưới của hắn không đạt tiêu chuẩn không phải lỗi của hắn – chúng là tất cả những gì hắn có thể chi trả, nhưng cứ thử nói điều đó với người quản lý cảng để xem chuyện đó sẽ dẫn ta tới đâu.
Hầu như chuyện đó sẽ dẫn tới việc hắn bị đánh.
Bởi vậy hắn tới Kalimdor, đi theo dòng người mong được cung cấp dịch vụ cho những người sống tại đây
dưới quyền Công Nương Proudmoore. Nhưng Margoz không phải là ngư dân duy nhất làm việc này, hắn cũng chẳng phải người xuất chúng nhất.
Trước khi người bảo trợ của hắn tới, Margoz rất nghèo túng. Hắn còn không bắt cá đủ để nuôi sống bản thân chứ chưa nói tới chuyện bán, và hắn từng cân nhắc một cách nghiêm túc về chuyện cầm lấy mỏ neo mà nhảy xuống đáy nước tự tử. Tự giải thoát bản thân khỏi cảnh nghèo túng.
Nhưng rồi khi người bảo trợ của hắn tới, mọi thứ trở nên khá hơn.
Margoz nhanh chóng được đưa tới nơi ở giản dị của mình. Người bảo hộ của hắn không cho phép hắn chuyển tới một nơi ở khá hơn, bất kể hắn đã cầu xin – người bảo hộ gọi đó là than vãn, và không chính đáng – vì nó thiếu thông thoáng, đồ đạc nghèo nàn, và lũ chuột. Nhưng người bảo hộ khăng khăng với hắn rằng sự thay đổi bất ngờ của hắn có thể thu hút sự chú ý, và bởi vậy giờ đây hắn ta phải bị làm ngơ.
Tới tận tối nay, hắn được chỉ dẫn tới quán Bả Quỷ và bắt đầu gieo rắc tư tưởng chống orc. Trước đây, hắn chưa bao giờ dám bước chân vào một nơi như vậy. Những loại người thích đánh đập hắn thường tập trung thành nhóm trong quán rượu, và hắn muốn tránh xa chúng vì lý đó.
Hoặc đúng hơn là từng muốn tránh xa chúng.
Hắn bước vào phòng mình. Một ổ rơm còn mỏng hơn cả một lát bánh mỳ; một mảnh bao bì ngứa tới nỗi hắn chỉ sử dụng khi mùa đông trở nên cực kỳ lạnh, và kể cả khi đó cũng là một lựa chọn khó khăn; một cây đèn lồng; và gần như chẳng còn gì khác nữa. Một con chuột chạy băng ngang và chui vào mấy cái kẽ nứt trên tường.
Hắn thở dài, biết rằng việc tiếp theo cần phải làm là gì. Bên cạnh việc không thể chuyển tới một nơi ở tốt hơn, thứ Margoz ghét nhất về thỏa thuận của mình với người bảo hộ là cái mùi mà hắn phải mang theo. Đó là một kiểu tác dụng phụ của thứ ma thuật của người bảo hộ, nhưng dù gì thì nó cũng làm Margoz khó chịu.
Nhưng dù vậy nó vẫn đáng giá để có uy lực này. Và khả năng đi lại trên đường phố và uống rượu tại quán Bả Quỷ mà không phải sợ bị trả đũa.
Lồng tay vào cổ tới chạm vào áo trong, Margoz kéo chiếc vòng cổ với mặt bạc có hình thanh kiếm bốc cháy ra. Nắm thanh kiếm chặt tới nỗi hắn cảm nhận thấy lưỡi sắc của nó chọc vào lòng bàn tay, hắn thốt lên những lời với ý nghĩa mà hắn chưa bao giờ hiểu được, nhưng khiến hắn sợ hãi không tả xiết mỗi lần thốt lên: “Galtak Ered’nash. Ered’nash ban galar. Ered’nash havik yrthog. Galtak Ered’nash.”
Mùi lưu huỳnh bắt đầu tỏa khắp căn phòng nhỏ. Đây là thứ Margoz rất ghét.
Galtak Ered’nash. Ngươi đã làm xong những việc ta giao chưa?
“Rồi thưa ngài.” Margoz bối rối khi nhận ra giọng mình trở nên lí nhí. Hắn đằng hắng và cố lấy giọng. “Tôi đã làm như những gì ngài yêu cầu. Ngay khi tôi nhắc đến trở ngại của lũ orc, gần như cả quán trọ đều đồng tình.”
Gần như à?
Margoz không thích sự đe dọa ngụ ý trong câu hỏi đơn giản đó. “Một người vẫn cố chấp, nhưng những người khác đã áp đảo anh ta được phần nào. Thực sự đã khiến họ tức giận.”
Chắc là vậy. Ngươi đã làm rất tốt.
Câu nói này giúp hắn khuây khỏa rất nhiều. “Cảm ơn ngài, cảm ơn. Tôi rất vui lòng được phục vụ.” Hắn lưỡng lự. “Liệu tôi có thể hỏi, thưa ngài, giờ đã phải lúc thích hợp để chuyển chủ đề về việc cải thiện tiện nghi chưa? Có thể ngài đã nhận thấy con chuột-”
Ngươi đã phụng sự chúng ta. Ngươi sẽ được ban thưởng.
“Đúng như ngài nói, thưa ngài, nhưng – chà, tôi vẫn mong phần thưởng sẽ tới sớm hơn.” Hắn quyết định nhắc tới nỗi sợ hãi từ trước. “Tôi phải đối mặt mối nguy hiểm chết người vào tối nay đấy ngài biết không. Đi lại một mình gần bến tàu có thể-”
Ngươi sẽ không bị hãm hại khi mà ngươi vẫn còn phụng sự. Ngươi không cần phải sợ hãi bao giờ nữa hết, Margoz à.
“Dĩ – dĩ nhiên rồi. Chỉ là tôi-”
Chỉ là ngươi muốn sống cuộc sống ngươi chưa bao giờ được phép sống thôi. Đúng là mối quan tâm có thể hiểu được. Kiên nhân đi Margoz. Phần thưởng của ngươi sẽ tới vào lúc thích hợp. Mùi lưu huỳnh bắt đầu dịu đi. “Cảm ơn thưa ngài. Galtak Ered’nash!”
Giọng nói của người bảo hộ mập mờ nói, Galtak Ered’nash. Rồi nơi ở của Margoz lại trở nên im lặng.
Trên tường có tiếng đập mạnh, sau đó là giọng nghèn nghẹt của người hàng xóm. “Thôi la hét đi! Bọn tao đang muốn ngủ!”
Trước đây, những lời dọa nạt như vậy sẽ khiến Margoz co rúm lại sợ hãi. Giờ đây, hắn chỉ bỏ ngoài tai bọn chúng và nằm lên ổ rơm, mong rằng cái mùi đó sẽ không khiến hắn mất ngủ.
Cycle of Hatred – chapter 2
Hai
“Thứ ta không hiểu là, mục đích của sương mù là gì?”
Thuyền trưởng Bolik, chủ tàu buôn orc Orgath’ar, biết rằng gã rồi sẽ hối tiếc về những lời đó kể cả khi gã thấy mình gần như bị ép phải trả lời phát biểu của gã phục vụ. “Nó có mục đích gì không?”
Rabin lắc đầu khi gã tiếp tục lau chùi bộ nanh của gã thuyền trưởng. Đó không phải là một thói quen mà orc nào cũng có, nhưng Bolik cảm thấy rằng trách nhiệm làm thuyền trưởng Orgath’ar là luôn phải trở nên bảnh bao hết mức có thể. Orc là những người cao quý, đã bị tước mất quê hương mình và bị nô dịch, cả bởi quỷ dữ và con người. Những orc bị nô dịch luôn bẩn thỉu lôi thôi. Là một orc tự do sống tại
Durotar dưới luật lệ ôn hòa của vị chiến binh vĩ đại Thrall, Bolik cảm thấy việc tỏ ra càng ít giống những tên nô lệ thời xưa càng tốt là rất quan trọng. Điều đó có nghĩa là giữ vệ sinh, quái dị đối với hầu hết orc, và đó là điều gã mong muốn ở cả thủy thủ đoàn của gã.
Chắc hẳn điều này đúng với Rabin, kẻ làm đúng theo chỉ thị của thuyền trưởng nhiều hơn hầu hết thủy thủ đoàn của tàu Orgath’ar. Rabin giữ cho lông mày gọn gàng, răng và nanh sạch sẽ, móng tay sắc bóng, và đeo càng ít trang sức càng tốt – chỉ có một vòng mũi và một hình xăm.
Để trả lời cho câu hỏi của Bolik, Rabin nói, “Chà, mọi thứ trên thế giới này đều phục vụ cho một mục đích nào đó, phải không thưa ngài? Ý tôi là, nước ở đó để ban cho chúng ta cá để ăn và đường cho tàu thuyền di chuyển. Không khí ở đó để cho chúng ta thứ gì đó để hít thở. Mặt đất cũng cho chúng ta thức ăn, chưa nói đến nơi để chúng ta xây nhà. Chúng ta đang làm tàu thuyền từ những gì cây cối cho chúng ta. Kể cả mưa và tuyết – chúng cho chúng ta nước để uống, không như biển. Tất cả đều có một ý nghĩa nào đó.”
Rabin tập trung chú ý vào việc dũa móng tay của Bolik, bởi vậy Bolik ngả người ra sau. Cái ghế của gã đặt gần vách ngăn phòng, nên gã tựa lên đó. “Nhưng sương chẳng có ý nghĩa gì à?”
“Thực sự tất cả những gì nó làm là ngáng đường mà chẳng cho chúng ta gì cả.”
Bolik cười, hàm răng láng bóng lóe lên trong ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn trong phòng. Lỗ cửa sổ không hề tăng thêm chút ánh sáng nào cả vì chính màn sương Rabin đang nhắc đến. Gã thuyền trưởng hỏi, “Nhưng tuyết và mưa cũng ngáng đường đấy thôi.”
“Cũng đúng, Thuyền Trưởng à, cũng đúng đấy.” Rabin đã dũa xong ngón cái và chuyển sang những ngón
khác. “Nhưng như tôi nói, tuyết và mưa có mục đích lớn hơn nhiều. Kể cả khi chúng ngáng đường, ít nhất thì chúng cũng có chút ích lợi. Nhưng ngài nói cho tôi xem, sương mù thì có tác dụng gì không? Nó không cho chúng ta thấy chúng ta đang đi đâu, và chẳng trả lại cho chúng ta thứ gì cả.”
“Chắc vậy.” Bolik nhìn gã phục vụ. “Hoặc có lẽ chỉ đơn giản là chúng ta chưa biết được tác dụng của nó. Dù sao thì, cũng có lúc chúng ta không hề biết rằng tuyết chỉ đơn giản là mưa bị đóng băng thôi. Loài orc cũng từng xem tuyết phiền phức y như sương mù bây giờ ấy. Cuối cùng thì mục đích thật sự của nó – như mày nói, để cung cấp cho chúng ta nước để uống trong mùa rét – cũng đã được nhận ra. Vậy đâu phải lỗi của sương mù đâu, là lỗi của chúng ta chưa nhận ra sự thật thôi. Rồi ta cũng sẽ biết. Thế giới bảo cho ta biết những gì ta cần chỉ khi chúng ta đã sẵn sàng mà thôi. Đó là cách mọi thứ vận động.”
Rabin nghĩ về lời của thuyền trưởng khi gã dũa móng xong và bắt đầu đánh bóng. “Tôi cũng cho là thế. Nhưng hôm nay nó chẳng giúp gì được cho chúng ta phải không thưa ngài?”
“Ừ, đúng là không. Thủy thủ đoàn xử lý nó như thế nào rồi?”
“Tôi cho là hết sức mình rồi,” Rabin nói và nhún vai. “Người quan sát bảo gã chẳng thấy được cái răng nanh của chính gã ngay trước mặt ấy chứ.”
Bolik cau mày. Con tàu vẫn cứ thường xuyên rung lắc nhẹ, nhưng giờ có vẻ như nó nảy lên hơi nhiều hơn một chút. Thường thì điều này nghĩa là nó đang bị tác động bởi sóng của một con tàu khác.
Đứng dậy khỏi cái ghế trong lúc Rabin vẫn đang dũa móng dở, Bolik nói, “Việc này để sau đã Rabin.” Rabin đứng dậy và gật đầu. “Vâng thưa Thuyền Trưởng.”
Bolik nắm lấy cây chùy của cha gã và rời phòng tới hành lang hẹp bên kia. Orgath’ar – Bolik đặt tên nó theo Orgath, người cha vinh quang của mình và chủ nhân cũ của cây chùy, người đã chết trong cuộc chiến với Quân Đoàn Rực Lửa – đã được dựng nên bởi lũ yêu tinh, vì gã chỉ muốn một con tàu tốt nhất. Kẻ dựng tàu, một tên yêu tinh già sắc sảo tên là Leyds, đã quả quyết với Bolik rằng gã nên làm cái hành lang rộng hơn cho phù hợp với kích thước lớn của loài orc. Không may là quan điểm “rộng hơn” của gã yêu tinh lùn ít hào phóng hơn so với ý nghĩ của Bolik, vậy nên gã thuyền trưởng khó khăn lắm mới ép được thân mình to lớn qua cầu thang dẫn tới boong tàu.
Khi gã đi lên cầu thang, gã thấy tên thuyền phó Kag vừa có ý định đi xuống. “Tôi đang xuống tìm ngài đây.” Kag cười, cặp nanh dài gần như chọc vào mắt. “Đáng ta cũng phải biết anh cũng thấy được sự thay đổi chứ nhỉ.”
Bolik cười khoái trá khi gã đi lên boong tàu. Ngay khi gã tới nơi, gã ngay lập tức thấy tiếc khi không gọi Kag xuống cầu thang tìm gã. Màn sương dày tới độ gần như có thể cắt bằng kiếm. Gã biết Orgath’ar rõ tới mức có thể đi dọc boong tàu mà không cần phải nhìn, nhưng giờ đó là cách duy nhất để tới đó. Kag đi theo, đứng gần như mũi chạm mũi với gã thuyền trưởng để họ có thể nhìn thấy được nhau.
Nhận ra rằng gã không thể thấy nổi bất cứ con tàu nào khác – thực sự gã chẳng có được mấy dấu hiệu đủ cho thấy họ đang thực sự ở trên mặt nước, vì gã khó lòng thấy được gì – gã quay sang gã thuyền phó. “Cái gì vậy?”
Kag lắc đầu. “Khó nói lắm. Người quan sát không thấy được gì nhiều. Anh ta thấy loáng thoáng một con tàu, nhưng có lúc anh ta nghĩ đó là một tàu hộ tống quân sự của Theramore – lúc thì anh ta nói anh ta thấy chẳng hề giống một con tàu bình thường nào của cả con người và orc.”
“Thế anh nghĩ gì?”
Kag nói không hề do dự, “Người quan sát sẽ không nói nếu anh ta không chắc chắn. Nếu anh ta nói là anh ta thấy tàu quân đội của Theramore, rồi nói có một thứ gì đó khác, thì có nghĩa là anh ta thấy một thứ khác vào lần đầu. Tôi nghĩ đó là hai con tàu. Bên cạnh đó, cơn sóng đủ mạnh với cả hai tàu, hoặc một tàu đi vòng tròn. Trong màn sương này chẳng phân biệt nổi gì cả.”
Bolik gật đầu đồng ý. Người quan sát của họ, Vak, có thể nhìn hai đốm nằm trên đường chân trời và nói cho ta biết đâu là tàu đánh cá và đâu là tàu chở quân. Thậm chí còn có thể cho ta biết tàu đánh cá đó được dựng lên bởi đoản nhân hay là con người, và kể cả tàu chở quân đó được làm trước hay sau cuộc xâm lược của Quân Đoàn Rực Lửa. “Ba tàu tới gần như thế này hẳn là có rắc rối đấy. Chúng ta cần thổi tù và. Lấy-”
“Tàu!”
Nhìn thẳng lên cột buồm, Bolik cố nhìn Vak, nhưng khoảng không trên đầu gã bị nuốt gọn bởi màn sương. Giọng của Vak vọng xuống từ thứ mà con người gọi là “ổ quạ,” vì lý do nào thì Bolik không hiểu nổi – gã biết quạ là một loài chim, nhưng gã không chắc cái tổ của nó thì ảnh hưởng gì tới cái cột của người quan sát – nhưng gã thuyền trưởng không thấy được hắn.
Kag gọi với lên. “Anh thấy gì?”
“Có tàu đang tới! Con người! Tôi không thấy nổi cờ có màu gì cả!”
“Thế còn tàu quân sự?”
“Giờ không thấy đâu cả, nhưng mới thấy tích tắc trước thôi! Đang chạy song song!”
Bolik không thích điều này. Một tàu con người không treo cờ gì thường có nghĩa đó là cướp biển. Chắc không phải vậy – màu cờ gần như là vô nghĩa trong màn sương như thế này – và chỉ đơn giản là họ không thể thấy tàu orc. Bolik không hề muốn mạo hiểm hàng hóa. Nếu những thùng hàng của gã không được chuyển an toàn tới Đồi Đao, Bolik sẽ không được trả tiền, điều đó có nghĩa là thủy thủ đoàn không được trả tiền. Những ngày thủy thủ đoàn không có tiền không phải là những ngày hay ho đối với một chủ tàu.
“Thổi tù và. Canh gác khoang chứa hàng.”
Kag gật đầu. “Vâng thưa ngài.”
“Lao móc!”
Khi Vak hét lên, Bolik thầm chửi rủa. Lao móc chỉ có một trong hai khả năng. Một là con tàu kia tưởng nhầm Orgath’ar là một sinh vật biển cỡ lớn như cá voi hoặc hải xà. Khả năng kia là chúng là cướp biển và lao móc được gắn dây dùng để leo lên boong.
Do rắn biển lẫn cá voi đều thường không di trú xa tít phương bắc như thế này, Bolik khá tin tưởng vào khả năng thứ hai.
Những cái lao móc đập xuống boong tàu, cạnh cầu thang dẫn xuống dưới boong, và những nơi khác Bolik không thể thấy qua màn sương. Rồi dây được nối với chúng bị kéo căng.
“Chuẩn bị có kẻ đột nhập lên boong!” Kag hét lên.
Bolik nghe thấy có tiếng nói, “Cắt dây ngay!”
Có tiếng đấm đá ngay sau khi Kag nói, “Đừng ngu ngốc thế! Kiếm không thể chặt đứt loại dây ấy đâu, mấy người sẽ bị sơ hở đấy.”
Những câu nói khác đều bị cắt ngang bởi sự xuất hiện bất ngờ của đám đột nhập, hiện ra như thể ma thuật nhờ màn sương. Chúng là con người, Bolik nhận thấy điều đó, và không mặc bất cứ đồng phục quân đội nào cả. Ngoài ra, Bolik cũng không chắc chúng đang mặc gì – sự thích thú với quần áo ngoài vượt quá nhu cầu của con người là thứ luôn làm Bolik khó hiểu. Gã biết quân đội của Công Nương Proudmoore mặc gì.
“Giết lũ cướp biển!” Bolik hét lên, nhưng thủy thủ đoàn đâu cần đến nhắc nhở. Trận chiến đã diễn ra rồi. Bolik nhấc cây chùy của cha gã trong tay phải và vong nó về phía tên con người gần nhất, hắn cúi xuống rồi lao kiếm tới.
Bolik đỡ thay kiếm bằng cánh tay trái, cùng lúc đó gã xoay vòng cây chùy trên đầu để chuẩn bị tấn công tiếp, tên con người vung kiếm lên đỡ cây chùy. Tuy nhiên, khi hắn cúi người tới, tên con người đưa thân mình tới gần Bolik hơn, khiến gã thuyền trưởng orc dễ dàng đấm vào bụng hắn. Gập mình lại vì đau đớn và ho, tên con người ngã sụp xuống boong tàu, và Bolik bổ cây chùy xuống gáy hắn.
Thêm hai tên khác nhảy tới trước mặt Bolik, ý định đấu hai chọi một để khiến gã phải trốn tránh. Nhưng Bolik cứng rắn hơn thế. Dù cho sinh ra là một nô lệ tại thế giới này, gã được được giải thoát bởi Thrall, và đã thề là sẽ không bao giờ trốn trách con người nữa. Đúng là gã đã chiến đấu bên cạnh họ, nhưng không bao giờ cúi mình chịu thua kém.
Kể cả với hai kẻ cầm kiếm đang đối mặt với mình.
Tên cướp biển bên trái gã vung kiếm tấn công – một thanh kiếm cong loại Bolik đã từng thấy trước đây – trong khi tên bên phải dùng hai thanh kiếm ngắn hơn. Bolok đỡ thanh kiếm cong bằng tay trái, nhưng lần này lưỡi kiếm đã ngập vào cẳng tay gã, trong khi gã dùng chùy để gạt một trong hai thanh kiếm ngắn. Thanh kiếm ngắn còn lại chém hụt ngực Bolik trong gang tấc.
Mặc dù đòn vừa rồi khiến cánh tay trái của gã đau đớn, Bolik giật mạnh tay xuống, lưỡi kiếm vẫn còn kẹt trong đó. Sức khỏe siêu việt với tác dụng của đòn bẩy khiến đối thủ phía trái của gã bị tước mất vũ khí, thanh kiếm vẫn găm vào thịt Bolik. Vừa đá vào tên cướp biển phía bên phải, Bolik vừa nắm lấy đầu tên bên trái và nhấn xuống, khiến tên cướp biển phải khuỵu gối.
Tên cầm kiếm ngắn cố lăng người trong khi đang lùi trên sàn, cố tránh cú đá chặt chân đó, nhưng đổi lại không thể giữ nổi thăng bằng.
Bolik, với bàn tay trái khổng lồ vẫn còn túm chặt đầu tên cướp biển cầm kiếm cong, liệng tên ngu ngốc đó sang một bên. Đầu tên con người đập vào cột buồm với một tiếng huỵch đầy thỏa mãn.
Tuy nhiên đòn đó khiến tên còn lại có cơ hội đứng dậy. Ngay khi hắn vung hai thanh kiếm nhỏ xíu của hắn, Bolik ngả người ra sau và di chuyển về bên phải, duỗi thẳng tay phải ra sau lưng, rồi vung cây chùy vào đầu hắn, khiến sọ tên con người bị đập nát, chết tại chỗ.
“Vak!” Bolik hét lên phía cột buồm khi gã gỡ thanh kiếm cong khỏi tay và ném nó xuống sàn gần xác chủ nhân nó. “Thổi tù và lên!” Lũ cướp biển hẳn không biết tiếng orc, vậy nên không ngờ được chuyện tù và được thổi lên.
Vài giây sau, một tiếng động chói tai vang lên khắp không gian. Bolik đã chuẩn bị tinh thần cho thứ âm thanh gần như rung lắc tới tận xương tủy, và gã cho là cả thủy đoàn nữa – gã không thể thấy hầu hết bọn họ.
Lũ con người Bolik thấy được bị bất ngờ, nhưng đó chính là thứ Bolik đã tính trước. Những orc Bolik có thể thấy được bắt đầu lấy được lợi thế. Bolik bắt đầu vung cây chùy trên đầu tới khi gã tìm thấy một mục tiêu khác. Thứ vũ khí của cha gã đập vào vai một tên cướp biển gần đó, hắn ngã ra sàn, gào lên trong đau đớn.
Bolik nghe thấy một tên con người hét lên bằng tiếng của con người mà gã khá chắc có nghĩa là “rút lui,” phỏng đoán này được xác thực khi lũ cướp biển bắt đầu leo qua dây quay trở lại tàu. Bolik thấy Kag cắt đứt chân của một kẻ đang tháo lui, khiến hắn rơi xuống Biển Lớn.
Kag quay về phía Bolik. “Chúng ta có đuổi theo không?”
Bolik lắc đầu và nói, “Không. Cứ để chúng đi.” Chẳng có mấy ý nghĩa trong việc cố đuổi theo một con tàu trong cái màn sương quái gở này. “Kiểm tra hàng hóa đi.”
Gật đầu tuân lệnh, Kag chạy tới phía khoang tàu, tiếng bước chân vang vọng khắp boong tàu. Bolik nhìn lên nói, “Người quan sát, còn tàu con người thì sao?”
“Họ không di chuyển gì cả,” Vak nói, “cho tới tận khi chúng ta thổi tù và. Rồi họ lại đi rồi. Giờ không thấy đâu nữa.”
Bolik siết chặt nắm đấm, tay phải nắm chặt cán cây chùy của cha gã, gã tưởng như nó sắp nát ra tới nơi.
Con người là đồng minh của họ. Nếu có binh sĩ của Công Nương Proudmoore đang ở gần, tại sao họ lại không hỗ trợ khi lũ cướp xâm nhập tàu Orgath’ar chứ?
“Thưa ngài,” Kag nói khi quay trở lại cùng Forx, chiến binh có trách nhiệm bảo vệ hàng hóa, “một trong những thùng hàng đã bị đập nát. Một thùng khác đã bị ném xuống biển bởi một tên con người để tạo đường rút lui.”
Forx nói thêm, “Chúng cử hầu hết quân tới khoang tàu. Chúng tôi đã cản được chúng, chúng tôi đã làm thế, thưa ngài. Nếu không thì chúng đã lấy được tất cả rồi.”
“Các anh làm tốt lắm Forx à. Và các anh sẽ được thưởng.” Bolik biết lời gã có ý nghĩa như thế nào. Hai thùng hàng mất đi đồng nghĩa với việc hai mươi phần trăm số hàng đã mất trắng, có nghĩa là mất đi hai mươi phần trăm tiền công. Bolik đặt một tay lên vai Forx. “Các anh sẽ nhận được đúng số tiền các anh đáng được hưởng lúc số hàng còn nguyên – thiếu bao nhiêu ta sẽ bù.”
Mắt Kag mở lớn. “Chúng tôi rất vinh dự, thưa Thuyền Trưởng.”
“Không– anh đã bảo vệ được thuyền. Các anh không đáng bị phạt vì điều đó.”
Forx cười. “Tôi sẽ báo cho các chiến binh, thưa ngài.”
Bolik quay về phía Kag khi Forx rời đi. “Đánh giá tổn hại, ném tất cả xác của lũ con người xuống biển, và đưa chúng ta lại hành trình.” Gã hít một hơi, rồi thở dài. “Và khi chúng ta quay trở lại, ta muốn gặp một người đưa thư ngay. Thrall cần được thông báo ngay về chuyện này.”
Kag gật đầu và nói, “Vâng thưa Thuyền Trưởng.”
Nhìn vào màn sương đã cho phép lũ cướp biển tiến đến quá gần để tấn công như vậy, Bolik nghĩ lại về lời của Rabin, và quả quyết rằng màn sương sẽ không có tác dụng nào đáng hơn như vậy…
Cycle of Hatred – chapter 3
Ba
Công Nương Jaina Proudmoore đứng trên đỉnh mô đất tại Đồi Đao, nhìn khắp vùng đất nơi cô đã giúp lập ra liên minh không thể ngờ nhất trong lịch sử thế giới.
Dĩ nhiên Đồi Đao là lãnh thổ của orc, nhưng Jaina và Thrall đã đồng ý rằng, theo thẩm quyền của cô, tốt nhất họ nên gặp mặt tại đất của orc, nơi Thrall thường xuyên có mặt. Về phần của Jaina, ma thuật của cô cho phép cô tới bất cứ đâu cô muốn ngay lập tức.
Thực sự khi lời triệu tập tới từ Thrall, điều đó diễn ra khá dễ chịu. Gần như như cả quãng đời của Jaina từ lúc trưởng thành đến giờ đều đi từ thảm họa này tới thảm họa khác. Cô đã phải chống lại hết quỷ dữ rồi
đến orc và rồi các chiến tướng, và số mệnh cả thế giới đã đặt vào đôi tay nhỏ bé của cô không dưới một lần.
Cô từng là người yêu của Arthas, khi hắn còn là một chiến binh cao quý, nhưng rồi hắn đã bị tha hóa, giờ đã trở thành Thi Vương của quân Truy Quét, chiến tướng tàn bạo nhất trong một thế giới có đầy những kẻ như thế. Cô biết rằng một ngày nào đó cô sẽ phải đối mặt với hắn trong chiến đấu. Medivh, vị phù thủy bị Sargeras ếm suýt đã hủy diệt cả nhân loại bằng cách dẫn đường cho loài quỷ và orc tràn vào thế giới này, trở thành một đồng minh đáng tin cậy và đã thuyết phục Jaina và Thrall đoàn kết dân tộc cùng với loài dạ tiên để chống lại Quân Đoàn Rực Lửa.
Sau chuyện đó, khi con người xây dựng Theramore thành một ngôi nhà mới ở Kalimdor, Jaina đã nghĩ rằng mọi thứ sẽ ổn dồn. Nhưng chẳng bao giờ là ổn với một người lãnh đạo, kể cả trong thời bình, cô nhận thấy suốt những ngày dài cai quản Theramore gần như khiến cô lại thèm muốn được trở lại những ngày cô phải chiến đấu cho sự sống của mình.
Gần như, nhưng không hoàn toàn. Thực sự, cô ít khi cảm thấy hối hận – nhưng cô cũng cố giành được chút cơ hội nghỉ ngơi giống như một người lạc giữa sa mạc tìm thấy một bình nước.
Đứng trên một mép của gò đất, cô nhìn xuống ngôi làng nhỏ của orc tít phía dưới chân đồi. Những túp lều được bảo vệ kỹ càng nằm rải rác trên nền đất nâu khô cằn. Kể cả trong thời bình, loài orc cũng luôn cố bảo vệ nhà của mình. Một số orc đang đi lại giữa những túp lều, chào hỏi nhau, một số dừng lại nói chuyện. Jaina không ngăn nổi một nụ cười trước sự mộc mạc bình thường như vậy.
Khi cô nghe thấy một ầm ầm trầm và đều đều báo hiệu sự xuất hiện của tàu bay của Thrall. Cô quay người lại thấy quả khí cầu khổng lồ đang xuất hiện. Khi nó tới gần hơn, cô chỉ nhìn thấy Thrall đứng trên
bộ khung treo bên dưới quả cầu khổng lồ chứa đầy khí nóng giúp đẩy cỗ máy bay lên không trung. Lớp vải trên quả cầu được trang trí bởi nhiều ký hiệu, một số Jaina nhận ra rằng là ngôn ngữ orc kiểu cũ. Một thứ cô biết là biểu tượng của gia tộc của Thrall, bộ tộc Sói Băng. Đó là thứ chủ yếu giúp phân biệt tàu bay của orc với tàu bay của người Jaina hay dùng – những con tàu bay Theramore thuê của loài yêu tinh có rất ít hình trang trí rõ ràng. Jaina tự hỏi không biết cách làm của loài orc có tốt hơn không – biến phương tiện vận chuyển vô tri của họ thành thứ gần giống với những con thú sống.
Trước đây, khi họ gặp mặt ở gò đất, Thrall thường mang ít nhất một hai vệ sĩ. Việc giờ đây anh tới đây một mình khiến Jaina khá lo lắng.
Khi con tàu bay tới gần, Thrall kéo vài cái cần, và quả khí cầu bay chậm lại, cuối cùng bay lơ lửng ngay bên trên gò đất. Kéo cái cần cuối cùng, Thrall thả một cái thang dây xuống và leo xuống. Giống hầu hết orc, Thrall có màu da xanh và mái tóc đen, tóc được tết lại và thả xuống hai vai. Bộ giáp tấm màu đen với mép bằng đồng mà anh mặc là của Orgrim Doomhammer, thầy của Thrall và là người mà thủ phủ của Durotar được đặt tên theo. Đeo sau lưng anh là vũ khí của Orgrim, thứ ông ta được đặt tên theo: Búa Diệt Vong Doomhammer, một thứ vũ khí hai tay cầm và Jaina từng thấy Thrall dùng trong chiến đấu. Máu của nhiều ác quỷ đã đổ dưới cây búa vĩ đại này.
Tuy nhiên thứ đáng chú ý nhất về Thrall là cặp mắt màu xanh dương, màu mắt rất hiếm gặp ở loài orc. Chúng cho thấy cả sự thông minh và lòng tốt của anh.
Ba năm trước, khi cả Theramore và những thành phố xứ Durotar đang được xây dựng, Jaina đã đưa cho Thrall một cái bùa ma thuật: một viên đá nhỏ được khắc một cổ tự của người Tirisfal. Jaina cũng có một cái giống hệt. Thrall chỉ cần cầm nó và nghĩ về cô thì cái bùa của Jaina sẽ tỏa sáng; ngược lại cũng vậy.
Nếu họ muốn bí mật gặp mặt, để bàn về những vấn đề ảnh tưởng tới một trong hai, hoặc cả hai, về dân tộc mình trong những vấn đề chính trị với vị trí của cả hai đều là những người lãnh đạo – hoặc chỉ đơn giản là họ muốn nói chuyện như hai người bạn và đồng đội – tất cả những gì họ phải là làm kích hoạt cái bùa. Jaina sẽ độn thổ tới gò đất, và Thrall sẽ tới bằng tàu bay, do không thể tới gò đất bằng bất cứ cách nào khác.
“Thật tốt khi được gặp anh, bạn tôi,” Jaina nói và mỉm cười ấm áp. Và cô thực sự có ý đó. Trong cả đời mình, cô biết rằng sẽ chẳng có ai đáng tin cậy và đáng kính trọng như anh chàng orc này. Từng có lúc cô đã xem cha mình và Arthas là những người như vậy. Nhưng Đô Đốc Proudmoore đã cố tấn công loài orc ở Kalimdor, từ chối tin tưởng chính con gái của mình khi cô nói rằng loài orc cũng là nạn nhân của Quân Đoàn Rực Lửa y như con người vậy, vậy nên họ không phải là kẻ xấu. Giống như nhiều người Jaina biết, Đô Đốc Proudmoore không thể chấp nhận được một thế giới khác với thế giới lúc ông còn trẻ, và ông chống lại bất cứ thay đổi nào của nó. Điều đó bao gồm cả sự hiện diện của loài orc, và Jaina đã bị đặt vào một tình thế tồi tệ vì đã phản bội chính cha đẻ của mình để đứng về phía dân tộc của Thrall nhằm mong ngừng đổ máu.
Với Arthas, hắn đã trở thành một trong những kẻ xấu xa nhất trên thế giới này. Giờ Jaina nhận thấy chính mình ở một vị trí mà cô tin tưởng thủ lĩnh của các bộ tộc orc hơn cả người đàn ông cô yêu lẫn người cha của mình.
Khi cha cô tấn công, Thrall – người nhìn thấy nỗi đau trong mắt Jaina khi cô nói cho anh cách đánh bại vị đô đốc – đã giữ lời hứa. Và anh ta không phải là người chịu chấp nhận số mệnh an bài cho chính mình. Anh đã từng bị bắt khi còn là một đứa bé sơ sinh và được nuôi dạy bởi một con người tên là Aedelas
Blackmoore để trở thành một nô lệ hoàn hảo, thậm chí còn được đặt một cái tên để tượng trưng cho điều đó. Nhưng Thrall đã phá tung xiềng xích và tập hợp quân orc đầu tiên là để dành tự do, rồi sau đó là tìm lại con đường dân tộc mình đã đánh mất do lỗi của bầy quỷ đã đem họ tới thế giới này.
Giờ đây, Jaina nhìn thấy sự khác lạ trong ánh mắt xanh lạ thường của Thrall. Người bạn yêu quý của cô đang tức giận.
“Chúng ta chẳng hề ký một hiệp ước nào cả, cả cô và tôi.” Thrall bắt đầu ngay, thậm chí còn không trả lời lời chào của Jaina. “Chúng ta chẳng hề lập ra bất cứ điều khoản nào cho liên minh này. Chúng ta tin tưởng rằng mối liên kết giữa chúng ta được rèn nên bởi máu, và chúng ta sẽ không bao giờ phản bội lẫn nhau.”
“Tôi đâu có phản bội anh đâu Thrall à.” Jaina hơi căng thẳng, nhưng với sự mềm mỏng được luyện tập từ lâu, cô vẫn giữ được cảm xúc của mình. Cô không chấp nhận bị quy kết phản bội khi mà thậm chí còn chưa nói chuyện rõ ràng – hoặc thậm chí công nhận mối liên kết vượt quá cả niềm tin bất thình lình của anh giữa họ mà cô đã phá vỡ – nhưng điều đầu tiên cô được dạy khi là một pháp sư tập sự là những cảm xúc mạnh mẽ và thuật phù thủy không phải lúc nào cũng phối hợp tốt. Cô nắm chặt cây trượng bằng gỗ được trang trí đẹp đẽ mà cô mang theo, tài sản kế thừa do thầy cô là Đại Pháp Sư Antonidas để lại.
“Tôi không tin cô làm vậy.” Giọng của Thrall vẫn còn vẻ gây hấn. Không giống những orc khác, sự thô lỗ không phải cung cách thông thường của Thrall, hẳn là do được con người nuôi dạy. “Tuy nhiên, có vẻ như người của cô không giữ vững mối liên kết giữa chúng ta được chắc như cô.”
Jaina hỏi bằng giọng căng thẳng, “Thrall à, anh đang nói về chuyện gì vậy?”
“Một trong các tàu buôn của chúng tôi, tàu Orgath’ar, đã bị cướp biển quấy rối.”
Jaina cau mày. Dù cho họ đã cố phòng bị, cướp biển vẫn còn là vấn nạn trên biển. “Chúng tôi đã tăng cường tuần tra nhiều hết mức có thể, nhưng-”
“Tuần tra cũng vô dụng nếu họ cứ ngồi im mà nhìn thôi! Tàu Orgath’ar nhìn thấy một tàu tuần tra của cô ở gần đó! Nó gần đến nỗi đủ để nhìn thấy trong màn sương dày, nhưng họ chẳng hề đả động gì tới giúp Thuyền Trưởng Bolik và thủy thủ đoàn của ông ta! Thậm chí Bolik đã thổi tù và, nhưng rồi người của cô cũng cứ ngồi im như vậy.”
Sự bình tĩnh của cô trái ngược hoàn toàn với cơn giận của Thrall, Jaina hỏi, “Anh nói là người quan sát của anh có thể thấy họ. Điều đó không hoàn toàn đồng nghĩa với việc họ có thể thấy Orgath’ar.”
Điều này khiến Thrall á khẩu.
Jaina nói tiếp. “Dân tộc anh có thị giác tốt hơn chúng tôi. Và khi họ nghe thấy tiếng tù và, hẳn họ xem đó là một tín hiệu tránh đường.”
“Nếu họ ở gần tới độ người của tôi thấy được, họ cũng ở đủ gần để nghe thấy tiếng có nhóm đột nhập lên tàu! Đúng là dân tộc chúng tôi có thị giác tốt hơn, nhưng chúng tôi cũng không đánh nhau một cách lén lút. Tôi không tin rằng tàu tuần tra của cô không nghe thấy chuyện gì xảy ra.”
“Thrall-”
Anh chàng orc quay người, tay vung vào không khí. “Tôi cứ nghĩ ở đây mọi chuyện rồi sẽ khác! Tôi cứ nghĩ rằng dân tộc cô cuối cùng đã chấp nhận bình đẳng với chúng tôi. Đáng ra tôi phải nhận ra rằng khi
con người dám đứng lên chống lại chính dân tộc mình để trợ giúp cho loài orc, họ cũng có thể bỏ rơi chúng tôi.”
Giờ Jaina bắt đầu cảm thấy khó kiềm chế cơn giận dữ của mình hơn. “Sao anh dám nói thể? Tôi đã từng nghĩ rằng sau tất cả những gì chúng ta cùng trải qua, ít nhất anh cũng không nhanh chóng nghi ngờ chúng tôi như thế chứ.”
“Rõ ràng là-”
“Rõ ràng cái gì? Anh đã nói chuyện với ai ngoài cái người Thuyền Trưởng Bolik và thủy thủ đoàn của ông ta chưa?”
Sự im lặng của Thrall đã trả lời cho câu hỏi của Jaina.
“Tôi sẽ tìm xem tàu tuần tra đó là tàu nào. Tàu Orgath’ar bị tấn công ở đâu?”
“Nửa lý đường từ bờ biển gần Mỏ Lết, một giờ đi từ cảng.”
Jaina gật đầu. “Tôi sẽ cho lính đi điều tra. Những tàu tuần tra đó được phối hợp cùng với Trạm Bắc.” Thrall căng thẳng.
“Đó là gì?”
Anh chàng orc quay lại đối mặt với cô. “Tôi rất bị áp lực buộc phải chiếm lại Thành Trạm Bắc.” “Và tôi rất bị áp lực phải giữ được nó.”
Thrall và Jaina chằm chằm nhìn nhau. Giờ đây khi họ đối mặt với nhau, Jaina nhận thấy có gì đó trong ánh mắt của anh chàng orc: không phải cơn giận dữ, mà là sự bối rối.
“Sao chuyện này lại xảy ra được?” Thrall hỏi bằng giọng nhỏ nhẹ hơn, tất cả sự gây hấn có vẻ như đã biến mất. “Sao tự dưng chúng ta lại cãi nhau những chuyện ngu ngốc như thế này nhỉ?”
Jaina không nhịn nổi và cười lớn. “Chúng ta đều là những người lãnh đạo cả mà Thrall.” “Lãnh đạo đưa chiến binh đi chiến đấu.”
“Đúng, vào thời chiến,” Jaina nói. “Nhưng vào thời bình thì khác. Chiến tranh là một nỗ lực thuộc về sinh tồn, nhưng khi nó kết thúc, vẫn còn nỗ lực sinh tồn.” Cô đi tới bên người đồng đội cũ và đặt bàn tay nhỏ bé của cô lên cánh tay khổng lồ của anh. “Tôi sẽ điều tra chuyện này, Thrall à, và tìm ra sự thật. Và nếu lính của tôi không làm tròn bổn phận với liên minh, tôi thề với anh là họ sẽ bị trừng phạt.”
Thrall gật đầu. “Cảm ơn cô, Jaina. Và tôi xin lỗi vì sự buộc tội của tôi. Nhưng dân tộc tôi đã phải chịu đựng rất nhiều rồi. Tôi đã phải chịu đựng rất nhiều, và tôi sẽ không để dân tộc mình bị ngược đãi nữa.”
“Cả tôi cũng vậy,” Jaina nói nhỏ nhẹ. “Và có lẽ-” Cô ngập ngừng.
“Sao thế?”
“Có lẽ chúng ta nên lập nên một hiệp ước cho có lệ. Bởi vì lúc nãy anh nói đúng – anh và tôi có thể tin tưởng nhau, nhưng không phải tất cả con người và orc đều như vậy. Và dù chúng ta rất muốn, chúng ta cũng không thể sống mãi được.”
Thrall gật đầu. “Thường rất… khó để nhắc nhở người của tôi rằng các cô không còn là chủ nô của bọn tôi nữa. Bằng nhiều cách, họ vẫn muốn tiếp tục nổi loạn dù cho thời nô dịch của orc đã qua từ rất lâu rồi. Thỉnh thoảng tôi cũng bị họ kích động, đặc biệt bởi vì tôi từng được nuôi lớn trong cảnh nô lệ bởi một sinh vật độc ác không kém gì bất cứ thành viên nào của Quân Đoàn Rực Lửa. Có lúc tôi e sợ điều tồi tệ nhất, điều dân tộc tôi trở thành khi tôi ra đi và không còn có thể nhắc nhở họ được nữa. Vậy có lẽ cô nói đúng.”
“Để chúng ta giải quyết vấn đề này trước,” Jaina nói và cười với Thrall. “Rồi sau đó ta sẽ nói tới chuyện hiệp ước.”
“Cảm ơn cô.” Rồi Thrall lắc đầu và cười.
“Sao thế?”
“Cô trông chẳng giống cô ấy chút nào, nhưng – khi cô cười, trong khoảnh khắc cô làm tôi nhớ đến Tari.”
Jaina nhớ rằng Taretha Foxton, thường được gọi là Tari, là con gái của một người hầu cảu Aedelas Proudmoore, là nguyên do Thrall thoát ra được khỏi bàn tay của Blackmoore với cái giá phải trả là tính mạng của mình.
Loài orc lưu giữ lịch sử của mình bằng những bài hát: một lok’amon nói về khởi đầu của một gia tộc, lok’tra kể về một trận chiến, còn lok’vadnod kể về cuộc đời của một anh hùng. Theo như hiểu biết của tất cả mọi người, con người duy nhất có được một bài lok’vadnod về cuộc đời mình mang cái tên Tari.
Và vậy là Jaina cúi đầu và nói, “Tôi rất vinh dự vì có liên quan như vậy. Tôi sẽ cử Đại Tá Lorena tới Trạm
Bắc, và ngay khi cô ấy báo cáo lại, tôi sẽ báo cho anh.”
Thrall lắc đầu. “Lại thêm một phụ nữ nữa trong quân đội của cô à. Con người thỉnh thoảng lại làm tôi kinh ngạc đấy.”
Giọng Jaina trở nên lãnh đạm; một lần nữa cô lại nắm chặt quyền trượng. “Ý anh là gì? Ở thế giới của anh đàn ông và phụ nữ không bình đẳng với nhau sao?”
“Dĩ nhiên là không rồi. Tôi phải nói là vậy,” anh nhanh chóng nói thêm trước khi Jaina kịp xen vào, “rằng họ không bình đẳng với nhau – không khác gì việc nói một con côn trùng và một đóa hoa là bình đẳng với nhau. Họ phục vụ cho những mục đích hoàn toàn khác nhau.”
Dễ chịu vì điều này, Jaina nói với Thrall cùng một câu cô đã nói với Antonidas khi cô còn là một cô gái trẻ hỗn láo cứ khăng khăng đòi làm học trò của ông ấy. Lúc ấy, vị đại pháp sư đã nói với cô, “Bản năng trở thành phù thủy của phụ nữ chẳng khác gì bản năng soạn nên một bản nhạc của một con chó vậy.”
Giờ đây, cô nói với Thrall: “Có phải chúng ta khác với động vật ở điểm rằng chúng ta có thể thay đổi bản năng của chính mình sao? Sau tất cả, có những người lại cho rằng bản năng của loài orc là trở thành nô lệ.” Rồi Jaina lắc đầu. “Tuy nhiên, cũng có nhiều người nghĩ như anh. Đó là lý do tại sao phụ nữ phải làm việc vất vả gấp đôi đàn ông mới có thể đạt được vị trí tương tự – đó là lý do tại sao tôi tin Lorena hơn bất kỳ đại tá nào khác của tôi. Cô ấy sẽ tìm ra được sự thật.”
Trước câu nói ấy, Thrall ngửa cái đầu to lớn ra sau và cười vui vẻ. “Cô là một phụ nữ tốt, Jaina Proudmoore à. Cô nhắc tôi rằng còn biết bao nhiêu thứ tôi cần phải học từ con người nữa, dù đã được nuôi dạy bởi họ.”
“Tùy vào việc ai nuôi dạy ta thôi, tôi tin là vậy chính bởi vì anh được nuôi dạy bởi họ mà.”
Thrall gật đầu. “Quan điểm hay ho đấy. Để người nữ đại tá của cô điều tra chuyện đó xem. Chúng ta sẽ lại nói chuyện khi cô ấy xong việc.” Anh di chuyển về phía cái thang dây vẫn còn lủng lẳng dưới cái tàu bay đang lơ lửng.
“Thrall à.” Anh dừng lại và quay lại nhìn cô. Cô nhìn anh bằng ánh mắt khích lệ nhất có thể. “Chúng ta sẽ không để liên minh này sụp đổ đâu.”
Anh gật đầu một lần nữa. “Không, chúng ta không để điều đó xảy ra đâu.” Và rồi anh trèo lên thang.
Về phần mình, Jaina lẩm bẩm một câu thần chú bằng thứ ngôn ngữ chỉ có pháp sư biết đến, rồi hít một hơi. Bụng dạ cô cảm thấy như bị hút cả ra qua đường mũi, khi gò đất, con tàu bay, Thrall, và Đồi Đao di chuyển và biến đổi, trở nên lờ mờ xung quanh cô. Một tích tắc, và rồi mọi thứ nhập lại thành một khung cảnh quen thuộc của căn phòng của cô trên tầng cao nhất của tòa tháp lớn nhất tại Theramore.
Cô làm hầu hết mọi việc tại đây, trong căn phòng nhỏ này cùng với một dãy bàn và hàng ngàn cuộn giấy, chứ không phải trong vương điện, một danh hiệu phô trương với một không gian cũng phô trương như vậy. Jaina rất hạn chế ngồi trên ngai vàng đó – kể cả trong sự kiện hàng tuần khi gặp người đệ đơn, cô thường rảo bước trước bộ ghế to lớn dễ gây bối rối đó thay vì thực sự thả mình trên đó – và sử dụng căn phòng giản dị này. Căn phòng đó tạo ra cảm giác giống như phòng nghiên cứu của Antonidas, nơi cô học nghề, dãy bàn chứa đầy những cuộn giấy lộn xộn. Cảm giác như là nhà vậy.
Có một thứ mà phòng vương điện có mà phòng này không có là một cửa sổ có góc nhìn rất đẹp. Jaina biết rằng cô không thể nào làm được bất cứ việc gì nếu có góc nhìn ra Theramore – cô sẽ bị xao nhãng
bởi việc cứ thắc mắc họ đang xây dựng cái gì ở đầu kìa và hoảng sợ vì cô có trách nhiệm với nó.
Độn thổ luôn là một việc làm nặng nề tốn sức, và Jaina được huấn luyện để luôn sẵn sàng chiến đấu sau khi hoàn thành phép đó, nếu mọi chuyện bình thường, cô thường cho phép bản thân một ít thời gian để hồi sức. Giờ cô cho mình chút thời gian đó trước khi gọi thư ký của mình. “Duree!”
Người góa phụ già bước vào qua cửa chính. Căn phòng này có ba lối vào. Hai cửa mọi người đều biết: cánh cửa Duree vừa vào, và một cửa dẫn tới hành lang cầu thang dẫn tới phòng riêng của Jaina. Lối thứ ba là một đường hầm bí mật được dùng làm đường tẩu thoát. Chỉ có sáu người biết về nó, và năm trong số đó là những công nhân đã xây dựng lên nó.
Duree nhìn Jaina qua cặp mắt kính. “Không cần hét lên đâu, tôi vẫn luôn ngồi ngay bên ngoài cửa như mọi lần. Việc người gặp gã orc đó thế nào rồi?” Jaina thở dài và nói, không phải lần đầu tiên, “Tên anh ta là Thrall.” Duree vẫy cánh tay mạnh tới nỗi người phụ nữ mảnh mai này gần như mất thăng bằng. Cặp kính của bà tuột khỏi mũi và lơ lửng trên sợi dây quanh cổ. “Tôi biết, nhưng đó đúng là một cái tên ngu ngốc. Ý tôi là, loài orc có những cái tên như là Hellscream và Doomhammer và Drek’Than và Burx và kiểu như vậy, và gã vẫn gọi mình là Thrall sao? Có orc tự trọng nào mà lại tự gọi mình như thế chứ?”
Không thèm giải thích rằng Thrall có lòng tự trọng hơn bất cứ orc nào cô biết – bởi vì lời giải thích chưa bao giờ có tác dụng vào hàng trăm lần trước cô từng nói – thay vì đó Jaina nói, “Là Drek’Thar, không phải Drek’Than.”
“À thì vậy.” Duree đặt kính trở lên mũi. “Đó những cái tên orc hay. Chứ không phải Thrall. Mà thế nào cũng được, chuyện sao rồi?”
“Chúng tôi gặp vấn đề. Gọi Kristoff tới đây, và cho người tìm Đại Tá Lorena và bảo cô ấy chuẩn bị một phân đội để tới Trạm Bắc, rồi báo cáo lại cho tôi.” Jaina ngồi xuống bên bàn và bắt đầu lục lọi mớ giấy, định tìm những báo cáo tàu thuyền.
“Sao lại là Lorena? Sao người không chọn Lothar hay Pierce? Ai đó bớt – tôi không biết nói như nào nữa, bớt nữ tính hơn chăng? Họ đều đang ở Trạm Bắc.”
Tự hỏi cô có sắp phải nhắc lại những lời này mỗi lần tên của Lorena được nhắc đến không, Jaina nói, “Lorena giỏi hơn cả Lothar và Pierce gộp lại đấy. Cô ấy sẽ làm được thôi.”
Duree bĩu môi, điều khá thô thiển đối với một phụ nữ già như vậy. “Không nên. Quân sự đâu phải việc của phụ nữ đâu.”
Không thể tìm ra nổi những báo cáo tàu thuyền, cô chuyển sang nhìn người thư ký chằm chằm. “Cả việc điều hành một thành bang cũng vậy.”
“Chà, khác chứ,” Duree yếu ớt nói.
“Như thế nào?”
“Chỉ là như vậy thôi.”
Jaina lắc đầu. Ba năm rồi, và Duree chưa bao giờ có câu trả lời nào thỏa đáng hơn. “Cứ đi tìm Kristoff và cử người tìm Lorena đi trước khi tôi biến bà thành thằn lằn đấy.”
“Nếu mà người biến tôi thành thằn lằn thì người sẽ chẳng bao giờ tìm ra nổi thứ gì đâu.”
Cô giơ tay lên trời trong thất vọng. “Giờ tôi đang chẳng tìm ra nổi thứ gì đây. Cái đống báo cáo tàu thuyền đâu cả rồi?”
Duree cười và nói, “Kristoff lấy chúng đi rồi. Tôi sẽ bảo ông ta đem chúng tới khi ông ta tới được chứ?” “Phiền bà.”
Duree cúi người, cặp kính của bà lại rơi xuống. Rồi bà rời khỏi phòng. Jaina hơi có ý chút ít định muốn ném một quả cầu lửa về phía bà ta, nhưng rồi lại thôi. Duree nói đúng – không có bà ấy, Jaina sẽ chẳng bao giờ tìm ra nổi thứ gì.
Chỉ chốc lát sau, Kristoff tới, vài cuộn giấy cầm trong tay. “Duree nói là người muốn gặp tôi, thưa tiểu thư. Hay là người chỉ muốn mấy cái này thôi?” Ông ta ra dấu với mấy cuộn giấy.
“Thật ra là cả hai. Cảm ơn ông,” cô nói thêm khi cô lấy mớ giấy từ tay ông ta.
Kristoff là thị trưởng của Jaina. Cô là người trị vì Theramore, trong khi Kristoff là người điều hành nó. Khả năng kiểm soát những vấn đề nhỏ nhặt khiến ông ta rất phù hợp với việc này, và là nguyên nhân chính giữ cho Jaina khỏi phát điên khi việc trở thành nhà lãnh đạo là quá nặng nề cho đôi vai không được lớn lắm của cô. Ông ta từng là thư ký của Đại Chúa Tể Garithos trước chiến tranh, khi năng lực tổ chức của ông ta đã trở thành huyền thoại.
Dĩ nhiên là ông không thể thăng tiến được trong quân đội nơi chỉ dựa vào lòng dũng cảm cùng sức mạnh. Kristoff tuy cao nhưng lại rất gầy, yếu ớt chẳng khác Duree là mấy, ít ra bà ta còn đổ tội cho tuổi già được. Mái tóc đen thẳng dài hơi quá vai phủ lên khuôn mặt nhọn với mũi khoằm, nét mặt trong như luôn
mang một vẻ cau có.
Jaina kể về câu chuyện của Thrall về vụ tấn công tàu Orgath’ar và con tàu gần đó không hề giúp đỡ gì cả.
Kristoff nhướn một bên lông mày mỏng và nói, “Câu chuyện nghe có vẻ không đáng tin lắm. Người nói là cách Mỏ Lết nửa lý phải không?
Jaina gật đầu.
“Không có tàu quân đội nào được phân công vào vùng đó cả thưa tiểu thư.”
“Sương mù rất dày – có thể con tàu Thuyền Trưởng Bolik nhìn thấy đã đi lệch hành trình.”
Kristoff gật đầu, thừa nhận điều đó. “Tuy nhiên thưa tiểu thưa, cũng có thể rằng Thuyền Trưởng Bolik nhầm lẫn.”
“Ít có khả năng lắm.” Jaina rảo bước quanh bàn sang phía bên kia và ngồi lên ghế, đặt đống báo cáo tàu thuyền trên chỗ trống duy nhất còn lại. “Nên nhớ loài orc có thị giác sắc bén hơn chúng ta, và thường chọn người có thị lực tốt nhất để làm người quan sát.”
“Chúng ta cũng phải cân nhắc đến khả năng loài orc đang nói dối.” Trước khi Jaina kịp bày tỏ quan điểm – mà cô thực sự định làm thế – Kristoff giơ một ngón tay dài lên. “Tôi đang không nói về Thrall, thưa tiểu thư. Vị orc Thống Chiến là một người đáng kính, đó là sự thật. Người đã đúng khi đặt niềm tin vào anh ta, và tôi tin rằng anh ta chỉ đơn giản là thuật lại những gì người của anh ta nói.”
“Vậy ông đang định nói gì?” Jaina biết câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng muốn nghe Kristoff xác nhận.
“Tôi đang nói cùng một chuyện tôi đã nói cho người lâu nay rồi, thưa tiểu thư – chúng ta không thể mù quáng tin vào loài orc được. Đúng là có nhiều orc rất đáng tôn kính, nhưng orc có đều giống nhau như vậy không? Chúng ta hẳn phải ngu ngốc lắm mới tin rằng họ đều muốn tốt cho chúng ta, và rằng tất cả bọn họ sẽ sáng suốt như Thrall. Anh ta là một đồng minh mạnh mẽ khi chống lại Quân Đoàn Rực Lửa, và tôi thực sự rất khâm phục những gì anh ta làm – nhưng những gì anh ta đã làm chỉ là nhất thời thôi.” Kristoff đặt bàn tay gầy gò dọc cái bàn, cúi người về phía Jaina. “Thứ duy nhất kiềm chế được loài orc là Thrall, và vào giây phút anh ta biến mất, tôi có thể đảm bảo với người, thưa tiểu thư, rằng loài orc sẽ quay trở lại bản chất cũ và làm mọi thứ có thể để tiêu diệt chúng ta.”
Jaina cười lớn, dù không cố tình. Những lời của Kristoff y hệt như những gì Jaina và Thrall nói với nhau – nhưng có vẻ như mang ít lý trí hơn khi được thốt ra từ miệng của viên thị trưởng.
Kristoff đứng thẳng dậy. “Có gì khiến người thích thú sao, thưa tiểu thư?”
“Không. Tôi tin rằng ông đáng giá quá cao hoàn cảnh ấy.”
“Và tôi tin rằng người đang đánh giá thấp nó đấy. Thành bang này là tất cả những gì giúp cho Kalimdor khỏi bị loài orc chiếm hoàn toàn.” Kristoff ngập ngừng, điều này thường không hay xảy ra. Viên thị trưởng rất thẳng tính, đó là một trong những phẩm chất hữu dụng nhất của ông ta.
“Rồi sao hả Kristoff?”
“Đồng minh của chúng ta đang… lo lắng. Quan điểm rằng cả một lục địa nằm dưới sự kiểm soát của loài
orc khá là… đáng ngại đối với nhiều người. Hiện tại, chưa có nhiều việc được thực hiện, một phần vì còn có những vấn đề khác, nhưng-”
“Nhưng ngay giờ đây tôi là tất cả những gì đang ngăn cản một cuộc xâm lăng ư?”
“Một khi Công Nương Proudmoore – vị phù thủy vĩ đại, người chiến thắng trước Quân Đoàn Rực Lửa – còn lãnh đạo con người ở Kalimdor, phần còn lại của thế giới sẽ vẫn còn được ngủ ngon. Khoảnh khắc họ tin rằng Công Nương Proudmoore không thể kiểm soát nổi loài orc nữa, điều đó sẽ thay đổi. Và quân xâm lược sẽ khiến cho đội tàu của người cha quá cố của người chỉ trông như một cặp thuyền nhỏ xíu thôi.”
Jaina ngả người ra trên ghế. Thực sự cô không nghĩ nhiều đến thế giới bên ngoài Kalimdor, cô còn mải bận bịu chống lại lũ quỷ và rồi là việc xây dựng Theramore. Và cuộc tấn công của chính cha cô đã dấy nên một sự thật rằng những ai không thực sự chiến đấu bên loài orc sẽ vẫn xem họ là loài hạ đẳng như thú vật.
Nhưng Kristoff hẳn phải biết rõ ràng hơn. “Ông đang định đề nghị gì vậy hả Thị Trưởng?”
“Rằng gã Thuyền Trưởng Bolik này có thể là một kẻ khích động, cố khiến Thrall chống lại người – chống lại chúng ta. Kể cả với Trạm Bắc, chúng ta cũng vẫn gần như bị cô lập trong cổng thành Theramore, và có thể dễ dàng bị loài orc bao vây – và hơn nữa, loài troll đã ở phe họ và loài yêu tinh thì chắc hẳn sẽ chẳng chịu về bên nào cả.”
Jaina lắc đầu. Dự đoán của Kristoff là cơn ác mộng tồi tệ nhất của mọi con người sống ở Kalimdor. Có vẻ mới chỉ ngày hôm qua thôi họ đang đi trên con đường biến cơn ác mộng đó trở thành điều bất khả thi. Việc giao thương với loài orc đang diễn ra suôn sẻ, Xứ Đất Cằn – vùng đất trung lập giữa Durotar và
Theramore – vẫn hòa bình và trật tự, và cả hai loài từng rất khinh miệt lẫn nhau đã sống hòa bình được ba năm ròng.
Giờ đây câu hỏi Jaina đang tự hỏi chính mình là đây liệu có phải là điểm gở cho tương lai không, hay đơn giản chỉ là thời kỳ nghỉ ngơi trong khi họ khôi phục lại sau trận chiến với Quân Đoàn Rực Lửa và chỉ là sự thanh bình quen thuộc trước một cơn bão.
Trước khi Jaina trầm ngâm suy nghĩ sâu hơn, một người phụ nữ cao với mái tóc đen có khuôn mặt vuông, mũi nhọn, bờ vai rộng bước vào. Cô mặc bộ đồng phục quân đội tiêu chuẩn với bộ giáp tấm cùng áo choàng màu lục có hình biểu tượng Kul Tiras hình mỏ neo, quê hương xưa của gia tộc Proudmoore.
Giơ tay lên trán chào, cô nói, “Đại Tá Lorena có mặt theo lệnh, thưa tiểu thư.”
Jaina vẫn đứng và nói, “Cảm ơn cô, Đại Tá. Cứ đứng thoải mái. Duree đã nói cho cô cần chuẩn bị những gì rồi chứ gì?” Jaina luôn cảm thấy thấp bé khi đứng cạnh Lorena nên thường chọn đứng lên khi có mặt cô, để giúp cơ thể nhỏ bé hơn của cô trông cao hơn kha khá.
Hạ tay xuống chắp sau lưng, nhưng vẫn đứng thẳng trong tư thế chuẩn xác. Lorena nói, “Vâng thưa người, bà ấy đã nói. Chúng tôi có thể tới Trạm Bắc trong vòng chỉ một tiếng, và tôi đã cử người đưa thư tới báo trước cho Thiếu Tá Davin về sự có mặt của chúng tôi rồi.”
“Tốt lắm. Xong mọi việc rồi, cả hai người có thể lui được rồi.”
Lorena chào rồi quay gót rời đi. Tuy nhiên Kristoff vẫn nấn ná lại.
Viên thị trưởng không nói gì cả, Jaina thúc giục ông. “Sao thế Kristoff?”
“Sẽ tốt hơn nếu để phân đội hộ tống Lorena ở lại Trạm Bắc để canh chừng.”
Jaina nói không hề do dự, “Không.”
“Thưa tiểu thư-”
“Loài orc muốn chúng ta rời khỏi Trạm Bắc, Kristoff à. Và dù tôi hiểu tại sao chúng ta không thể chấp nhận yêu cầu đó, tôi cũng sẽ không làm việc gì đó khiêu khích như là tăng quân tại đó, đặc biệt khi họ tin rằng chúng ta đã từ chối giúp họ chống lại cướp biển.”
“Tôi vẫn nghĩ là-”
“Ông được phép lui, Thị Trưởng à,” Jaina lạnh nhạt nói.
Kristoff trừng mắt nhìn cô một chốc trước khi cúi mình, dang hai tay và nói, “Vâng thưa tiểu thư,” trước khi rời đi.
Cycle of Hatred – chapter 4
Bốn
“Tôi không chắc tôi có hiểu vấn đề không nữa, thưa Đại Tá.”
Lorena nhìn ra ngoài khung cửa phòng trực nhỏ trông ra Thành Trạm Bắc. Câu nói vừa rồi là của Thiếu Tá Davin, sĩ quan chỉ huy hiện tại của Trạm Bắc, người đang bực bội với Lorena từ khi cô và phân đội sáu binh sĩ tới một tiếng trước.
Từ chỗ ngồi của anh ta cạnh cái bàn nhỏ ngay giữa phòng trực, Davin, một người mập mạp với bộ râu dày, đã bảo Lorena rằng có một tàu hộ tống đã bị lạc trong sương mù. Đó có thể chính là con tàu mà loài orc cho là đã nhìn thấy.
Lorena quay lại nhìn xuống anh ta – nhìn xuống là bởi vì anh ta đang ngồi, dù Lorena có đứng thì vẫn cao hơn viên thiếu ta – và nói, “Vấn đề ở đây, Thiếu Tá ạ, là lúc đó loài orc đang chờ chúng ta giúp đỡ. Và đáng ra họ nên làm thế.”
“Để làm gì?” Davin rõ ràng đang bối rối.
“Họ là đồng minh của chúng ta.” Lorena không tin nổi cô cần phải giải thích điều này. Davin là một người hùng trong cuộc chiến, là người sống sót duy nhất còn lại sau cuộc tàn sát cả trung đội lúc đó đang hộ tống một phù thủy là người cũng đã bị giết. Thông tin anh ta mang lại là vô giá.
Nhưng giờ đây người anh hùng chiến tranh chỉ nhún vai. “Đúng là chúng đã chiến đấu cùng chúng ta, nhưng lúc ấy là bắt buộc. Đại Tá à, bọn chúng có văn minh gì đâu. Lý do duy nhất để liên hiệp với chúng là vì Thrall, và gã chỉ đáng có được điều đó là vì gã được con người nuôi dạy. Nhưng những gì xảy ra với chúng không phải mối quan tâm của chúng ta.”
“Công Nương Proudmoore không đồng ý với suy nghĩ đó,” Lorena nói với giọng căng thẳng, “và cả tôi nữa.” Cô quay lưng lại. Cảnh tượng Biển Lớn từ khung cửa này thật đẹp mắt, và Lorena nhận thấy mình thích nó hơn là nhìn vào bộ mặt khó ưa của Davin. “Tôi đã cử người tới tìm Thuyền Trưởng Avinal và thủy thủ đoàn để xem phần chuyện của họ là gì.”
Giờ Davin đã đứng dậy. “Với tất cả sự tôn trọng, thưa Đại tá, chẳng có “phần” nào cả. Tàu của Avinal bị lạc. Họ đã trở lại lý trình. Họ đã về đến nhà. Nếu có một con tàu của orc bị cướp biển tấn công, thì đồng ý, nhưng đó không phải vấn đề của chúng ta.”
“Có chứ, thực sự là có đấy.” Cô không thèm quay lại nhìn anh ta. “Tất cả cướp biển không hay kén chọn
sẽ tấn công ai đâu. Chúng sẽ tấn công cả yêu tinh, orc, troll, ogre, tiên, người lùn – hoặc cả con người. Nếu có cướp biển ở gần Mỏ Lết tới vậy thì có liên quan tới chúng ta đấy.”
“Tôi đã được phân công ở trạm gác này đã ba năm rồi đấy thưa Đại Tá.” Giờ Davin trở nên nóng nảy. “Tôi không cô bảo cho tôi về lũ cướp biển.”
“Nếu vậy, thì anh đã không cần tôi phải nhắc cho anh lý do tại sao một tàu orc bị tấn công lại liên quan tới anh.”
Một binh nhì nhỏ bé mặc bộ đồng phục có vẻ vừa với cả một người có chiều cao hơn hẳn một cái đầu, gõ nhẹ lên cánh cửa phòng trực. “Ờ thưa ngài, có người tới đây gặp ngài và Đại Tá Lorena, thưa ngài, nếu không phiền hai ngài.”
“Ai vậy?” Davin hỏi.
“Ờ là Thuyền Trưởng Avinal, thưa ngài, và một binh sĩ tôi không biết, thưa ngài.” “Chắc là Strov,” Lorena nói. “Anh ta là người tôi bảo đưa người thuyền trưởng tới đây.”
Davin chằm chằm nhìn Lorena. “Vậy việc làm nhục mạ một người đàn ông bằng cách đem anh ta tới trạm gác như một tù nhân tầm thường mục đích để làm gì?”
Trong đầu Lorena đang tính đến việc gửi một lá thư cho Công Nương Proudmoore và Tướng Norris về việc đề nghị cho Davin chuyển tới phân đội nuôi quân. “Đầu tiên, Thiếu Tạ ạ, tôi nghĩ rằng anh sẽ muốn tôi nói chuyện với thuyền trưởng của anh trước sự có mặt của anh. Thứ hai – có phải anh thường đem tội phạm tới phòng trực thay vì tới phòng giam chăng?”
Có vẻ như Davin chỉ định tiếp tục nhìn chằm chằm thay vì trả lời câu hỏi của cô. Bởi vậy Lorena quay về phía anh sĩ quan trẻ. “Xin hãy mời cả hai vào đây, Binh Nhì.”
Anh chàng binh nhì bỏ qua mà nhìn Davin trước. Gã thiếu tá gật đầu, chỉ khi đó người binh nhì mới trở ra.
Sau đó hai người đàn ông bước vào căn phòng nhỏ. Strov là người trung bình nhất mà Lorena biết – chiều cao, cân nặng, và vóc người trung bình, tóc nâu, mắt nâu, cơ bắp nhỏ. Anh ta trông giống như mọi nam giới con người khác trên thế giới này, đó là một trong nhiều lý do tại sao anh ta lại là một trinh sát giỏi đến vậy. Anh ta không có gì nổi bật để người ta phải chú ý đến anh.
Theo sau Strov là một người đàn ông với vẻ ngoài sương gió của một thủy thủ đầy kinh nghiệm. Dáng đi của ông ta thật vụng về, ông ta đi như thể sàn nhà sắp lún xuống tới nơi, và mặt ông chứa đầy những nếp nhăn và có màu đỏ sẫm vì phơi nắng nhiều.
“Thuyền Trưởng Avinal,” Davin nói và lùi về phía cái ghế, “đây là Đại Tá Lorena. Công Nương Proudmoore gửi cô ấy từ Theramore tới để tìm hiểu tại sao có một tàu cướp biển tấn công một tàu orc.”
Avinal cau mày. “Tôi nghĩ điều đó quá rõ ràng rồi chứ Đại Tá.”
Quay sang lườm Davin một chốc, Lorena quay lại nhìn Avinal. “Lý do tôi tới đây theo như lời ngài thiếu tá nói là không chính xác. Tôi biết tại sao tàu cướp biển lại tấn công một tàu buôn orc – những gì tôi không biết là tại sao các ông không giúp họ.”
Avinal chỉ Strov và hỏi, “Đó là lý do tại sao người này và người của anh ta quấy nhiễu thủy thủ đoàn của
tôi à?”
“Binh Nhìn Strov và đồng đội đang làm theo lệnh của công nương, Thuyền Trưởng à, cũng như tôi.” “Tôi còn phải tuần tra nữa, thưa ngài. Việc này có thể chờ-”
“Không được Thuyền Trưởng à, không thể chờ được.”
Avinal nhìn Davin. Davin nhún vai, như thể ý muốn nói đó không phải việc của anh ta. Sau đó viên thuyền trưởng nhìn xoáy vào Lorena. “Tốt thôi.
“Năm ngày trước. Theo như Thiếu Tá Davin thì các anh bị sương mù quây vào sáng hôm đó.” “Vâng, đúng là vậy.”
“Anh có thấy tàu nào khác sáng hôm đó không?”
“Chắc là có – có một số hình thù có thể là vài cái tàu đâu đó xung quanh, nhưng không chắc chắn được gì cả. Có lúc chúng tôi tới gần được một con tàu, tôi chỉ biết được vậy thôi – và họ thổi tù và.”
Lorena gật đầu. Điều này phù hợp những những gì loài orc nói với Công Nương Proudmoore.
“Nhưng chúng tôi chẳng thấy rõ được thứ gì cả. Chẳng thể thấy nổi cả cái mũi của mình ngay trước mặt, nói không ngoa. Tôi đã đi tàu suốt năm mươi năm rồi, thưa Đại Tá, và tôi chưa từng nhìn thấy sương mù dày như vậy bao giờ. Kể cả Sargeras có đi lại trên boong thì tôi cũng chẳng thể thấy nổi. Tôi đã làm tất cả để giữ cho cả đoàn khỏi loạn cả lên, thật đấy. Thế mà thứ cuối cùng bọn tôi phải lo là một đám da xanh à.”
Lorena nhìn chằm chằm vị thuyền trưởng trong vài giây. Rồi cô thở dài. “Thôi được rồi, Thuyền Trưởng, cảm ơn ngài. Ngài xong việc rồi đấy.”
“Khốn thật đúng là phí thời gian,” Avinal khẽ lẩm bẩm và rời đi.
Sau khi ông thuyền trưởng rời đi, Strov nói, “Hầu hết thủy thủ đoàn đều nói y như vậy thưa bà.”
“Dĩ nhiên họ nói như vậy rồi,” Davin nói. “Bởi vì đó là sự thật, rất rõ ràng với tất cả những ai chịu bỏ ít giây suy nghĩ về nó.”
Quay về phía gã thiếu tá, Lorena nói, “Nói cho tôi biết, Thiếu Tá à, sao anh không nhắc gì tới chuyện Thuyền Trưởng Avinal đã từng ở gần một tàu khác – hay là nó đã thổi tù và chứ?”
“Tôi không nghĩ điều đó là xác đáng.”
Lorena thay đổi lá thư trong đầu cô để Davin sẽ được thuyên chuyển đi làm dưới hầm phân. “Việc đánh giá mức độ xác đáng không phải việc của anh, Thiếu Tá ạ. Việc của anh – trách nhiệm của anh – là làm theo lệnh của cấp trên.”
Davin thở dài. “Hãy xem đi, Đại Tá – cô được cử tới đây để tìm hiểu xem liệu Thuyền Trưởng Avinal có làm gì sai không. Ông ấy không làm gì sai cả. Và có vấn đề gì không nếu một đám da xanh bị lấy mất mớ hàng của chúng chứ?”
“Thật ra họ đâu có bị mất – họ đã tự đánh đuổi lũ cướp biển.”
Giờ Davin đã đứng dậy và đang nhìn Lorena như thể cô ấy bị điên. “Vậy thì – với tất cả sự kính trọng,
thưa bà, tất cả những lời thẩm vấn này có ý nghĩa là gì vậy? Có vẻ lũ da xanh không cần chúng ta giúp đỡ – vậy tại sao lại xem chúng tôi như một lũ tội phạm như vậy? Như tôi nói đấy, chúng tôi có làm gì sai đâu.”
Lorena lắc đầu, không đồng ý với lời điều trần này chút nào.
Cycle of Hatred – chapter 5
Năm
Byrok chưa bao giờ tưởng tượng nổi khoảng thời gian vui vẻ nhất trong đời gã lại là khi câu cá.
Bề ngoài thì đó có vẻ không phải là cuộc sống của một orc. Việc câu cá chẳng liên quan gì tới chiến đấu cả, không có vinh quang, không phải những trận đấu đầy thách thức, không phải cuộc so tài của một kẻ với một đối thủ ngang tầm. Không liên quan gì tới vũ khí, không phải đổ máu.
Nhưng lý do tại sao gã lại làm thế thực sự rất đơn giản. Byrok đi câu cá bởi vì gã là người tự do. Khi còn trẻ, gã từng được nghe về những lời hứa giả dối của Gul’dan và Hội Đồng Bóng Tối của gã, chúng đã hứa hẹn về một thế giới mới nơi bầu trời xanh ngắt và cư dân là những con mồi dễ dàng cho loài
orc siêu việt chinh phục. Cùng với cả bộ tộc, Byrok đi theo chỉ dẫn của Gul’dan, không biết rằng hắn và cả hội đồng đã móc ngoặc với Sargeras và lũ ác quỷ độc ác của gã, không nhận ra được cái giá phải trả cho thế giới mới này là chính linh hồn của họ.
Mất cả một thập kỷ loài orc mới bị đánh bại. Hết bị nô dịch bởi ác quỷ mà họ cứ nghĩ đó là ân nhân của họ, rồi họ lại bị nô dịch bởi con người, những kẻ tỏ ra hiếu chiến hơn nhiều so với tưởng tượng của lũ ác quỷ.
Ma thuật ác quỷ đã khiến những ký ức của Byrok về quãng đời ở quê hương bản địa của loài orc lu mờ. Sự thờ ơ với ký ức đó cũng xảy ra với quãng đời sống trong cảnh bị con người nô dịch. Chủ yếu gã chỉ nhớ những công việc đó là làm đầy tớ và khổ sai, và nó đã phá hủy chút tinh thần ít ỏi còn lại lũ quỷ để lại trong gã.
Rồi Thrall tới.
Mọi thứ thay đổi từ đó. Con trai của Durotan vĩ đại – người có cái chết bằng nhiều cách đã chấm dứt con đường xưa cũ của loài orc – Thrall đã thoát khỏi lũ giám thị và sử dụng chiến thuật của con người để chống lại họ. Anh ta đã nhắc nhở loài orc về quá khứ đã bị lãng quên từ lâu của họ.
Vào cái ngày Thrall và đội quân đang dần lớn mạnh của anh giải phóng cho Byrok, gã đã thề rằng gã sẽ phụng sự cho anh chàng orc trẻ tuổi đó tới khi một trong hai chết đi.
Suốt từ bấy tới giờ, cả hai vẫn còn sống, bất kể cố gắng của cả quân đội con người lẫn của bầy quỷ. Tuy nhiên một thành viên thấp kém của Quân Đoàn Rực Lửa đã đoạt được con mắt phải của Byrok. Để đổi lại, Byrok đã tước nguyên cái đầu của con quỷ đó.
Khi cuộc chiến kết thúc, và khi loài orc định cư tại Durotar, Byrok đề nghị được nghỉ nghĩa vụ. Nếu lời kêu gọi chiến đấu được vang lên, Byrok hứa gã sẽ là kẻ đầu tiên đứng lên tiếp tục thực hiện trọng trách của người chiến binh, kể cả đã mất đi một con mắt, nhưng giờ gã muốn được tận hưởng sự tự do mà gã đã phải chiến đấu rất gian khổ để giành được.
Đương nhiên là Thrall ban cho gã điều đó, và cho tất cả những ai đề nghị.
Dĩ nhiên Byrok không cần cá. Durotar có một vài nông trại rất tốt. Bởi vì đất đai của con người nằm ở vùng đất phía nam toàn đầm lầy, con người không thể trồng trọt được, vậy nên họ buộc phải tập trung vào việc đánh cá. Họ sẽ trao đổi số dư của họ cho loài orc để đổi lấy lương thực dư thừa.
Nhưng Byrok không muốn cá do con người bắt được. Gã chẳng muốn bất cứ thứ gì của con người nếu gã có thể tránh được. Đúng là con người đã từng chiến đấu bên cạnh loài orc chống lại Quân Đoàn Rực Lửa, nhưng đó chỉ là một liên minh lúc bắt buộc thôi. Con người là quái vật, và Byrok không muốn liên quan gì tới những sinh vật mọi rợ đó cả.
Bởi vậy quả thực rất choáng váng đối với gã orc chột mắt khi nhận thấy có sáu con người đang ở tại bãi câu quen thuộc của gã tại Bãi Biển Deadeye.
Để giới thiệu, vùng đất xung quanh bãi câu của Byrok là một đồng cỏ cao. Khả năng theo dấu của Byrok đã giảm sút đôi chút bởi đã mất đi con mắt phải, nhưng gã vẫn không thấy chút dấu hiệu nào của có ai ngoài gã đã băng qua vùng cỏ mọc – đặc biệt là không có con người nào, loài sinh vật nhỏ bé nhẹ cân, và thường rất hay công khai di chuyển. Byrok không hề thấy con tàu bay nào gần đó, lẫn bất cứ tàu bè nào có thể nhìn thấy từ bãi câu.
Tuy nhiên việc chúng tới đây bằng cách nào không khiến Byrok bận tâm bằng sự việc rằng chúng đã tới đây. Đặt bộ đồ câu xuống, gã tháo cây chùy xích ra khỏi lưng. Thứ vũ khí này chính Thrall đã tặng cho gã sau khi anh chàng Thống Chiến giải phóng gã khỏi cảnh nô lệ, và Byrok lúc nào cũng mang theo nó.
Nếu đó là orc lạc vào bãi câu của Byrok, gã hẳn đã hỏi về sự xuất hiện của họ, nhưng con người – đặc biệt là những kẻ xâm phạm – không xứng đáng được hưởng điều đó. Gã sẽ tìm ra mục đích của chúng bằng cách lén lút. Tốt nhất chúng chỉ nên là những kẻ ngốc đi lạc quá xa về phương bắc mà không nhận ra là chúng đang xâm phạm chủ quyền của người khác. Byrok đã sống khá lâu rồi, và đã bắt đầu hiểu rằng nguyên nhân thường là đúng là do sự ngu ngốc đó hơn là do mưu đồ độc ác.
Nhưng tệ nhất, chúng có thể đúng là những kẻ xâm lược, và nếu vậy, Byrok sẽ không cho phép chúng sống sót mà rời khỏi bãi câu của gã.
Byrok đã học ngôn ngữ con người trong thời gian bị bắt, vậy nên gã hiểu được những lời mà sáu kẻ đó – ít nhất là với những gì gã có thể nghe thấy. Từ nơi gã cúi mình nấp trong bãi cỏ cao, gã chỉ có thể nghe được vài từ.
Tuy nhiên những từ gã nghe được không được tốt cho lắm. Một từ là “đánh bại,” một từ khác là “Thrall.” Có lúc là “da xanh,” một từ con người dùng để nhắc đến loài orc một cách miệt thị.
Và rồi gã nghe thấy một câu, “Chúng ta sẽ giết tất cả bọn chúng và chiếm lấy lục địa này cho riêng chúng ta.”
Một kẻ khác hỏi một câu hỏi, và từ duy nhất Byrok nghe được là “troll.” Sau đó kẻ muốn chiếm lấy cả lục địa nói, “Chúng ta cũng giết chúng luôn.”
Gạt đám cỏ sang một bên, Byrok tiến lại gần đám con người hơn. Gã không phật biệt nổi bọn họ với nhau – tất cả con người đều trông giống hệt nhau đối với Byrok – nhưng gã orc già nhận ra hai kẻ gần gã nhất có hình một thanh kiếm bốc cháy trên người: một tên là một vết xăm trên cánh tay, tên kia là cái khuyên tai.
Gã cảm thấy lạnh ngắt, Byrok nhớ về nơi gã từng thấy biểu tượng đó trước kia. Đã rất lâu về trước, khi loài orc lần đầu tiên tới thế giới này theo lời thúc giục của Gul’dan: chúng gọi mình là tộc Đao Lửa, và áo giáp cùng cờ của chúng mang biểu tượng tương tự với cái hai tên con người kia mang. Tộc Đao Lửa là một trong những kẻ mộ đạo hung hãn nhất của Hội Đồng Bóng Tối. Về sau chúng đã bị thanh trừng, và không còn kẻ nào thuộc bộ tộc yêu quý quỷ dữ đó sống.
Nhưng lũ người này đang mang biểu tượng của chúng, và nói về chuyện giết Thrall.
Sôi máu, Byrok đứng lên và bắt đầu chạy về phía sáu kẻ kia, tay vung cây chùy xích trên đầu. Kể cả với thân mình to lớn, âm thanh duy nhất gã gây ra khi xuất hiện là tiếng rít của sợi xích trên cây chùy khi nó xoay quanh cán chùy trong bàn tay Byrok và khiến quả cầu gai lớn ở đầu kia quay vòng trên đầu gã orc.
Không may là như thế là quá đủ. Hai tên con người – hai kẻ với biểu tượng tộc Đao Lửa – tản ra. Vì vậy Byrok nhắm vào kẻ gần hơn trong cả hai, gã ném cây chùy xích về phía cái đầu cạo trọc của hắn. Gã không sợ bị mất vũ khí – chẳng có con người nào có thể nhấc được nó lên, bởi vậy sẽ rất an toàn cho tới khi gã lại nắm được nó.
“Một con orc!”
“Vừa đúng lúc một con xuất hiện!”
“Giết nó đi!”
Vì yếu tố bất ngờ đã biến mất, gã gầm tướng lên – điều đó luôn dọa được con người – và nhảy tới phía một tên khác, tên này có một bộ râu dài. Nắm đấm khổng lồ của Byrok đập vào đầu tên có râu.
Tên trọc đầu tóm lấy vai gã – hắn đã né được đòn ban nãy trước sự thất vọng của Byrok – và cố nhấc cây chùy xích lên bằng tay kia. Nếu có thời gian, hẳn Byrok đã phá lên cười rồi.
Tuy nhiên, gã đang quá bận vì đang nắm lấy đầu tên con người kia trong tay phải và chuẩn bị ném tên xâm lược này vào một tên đồng đội của hắn. Tuy nhiên điều đó không kịp xảy ra vì một tên người khác tấn công từ bên phải.
Thầm chửi rủa chính mình vì quên mất chuyện gã bị mù hướng đó, Byrok vung tay phải lên, đúng lúc cơn đau cào xé phía đó.
Thêm hai tên người nữa lao vào gã, một tên đang đấm, còn tên kia đang lao tới với một lưỡi kiếm. Byrok cố dẫm lên chân một kẻ tấn công, khiến nó gãy vụn. Tiếng la hét của nạn nhân đã kích thích gã orc, và gã lại thực hiện lại đòn đó. Nhưng bọn chúng có quá đông. Dù cho hai tên trong số đó đang bị thương năng, chúng vẫn tiếp tục tấn công gã, và kể cả Byrok cũng không thể đánh bại nổi sau con người mà không có vũ khí.
Nhận ra rằng gã cần vũ khí của mình, gã hít một hơi rồi gầm lớn đồng thời dùng toàn lực đấm mạnh ra hai phía. Điều đó chỉ làm đối thủ của gã bất ngờ trong khoảnh khắc, nhưng khoảng khắc đó là tất cả những gì gã cần. Gã nhào xuống với lấy vũ khí, ngón tay nắm chặt cán.
Tuy nhiên trước khi gã kịp nhấc nó lên, hai tên con người đã đánh vào đầu gã, và một tên khác đâm một con dao găm vào đùi trái của gã. Gã vung mạnh tay, quả cầu của cây chùy xích bay vào không khí, suýt đánh trúng một tên người.
Và rồi, gã khinh bỉ chính mình vì phải làm việc này, Byrok chạy.
Thật là một việc khó khăn cho gã, và không chỉ vì con dao găm vẫn còn nhô ra từ bắp đùi khiến bước chân gã chậm lại. Chạy trốn khỏi một trận đấu thật là đáng hổ thẹn. Nhưng Byrok biết rằng gã có trọng trách lớn hơn phải thực hiện – tộc Đao Lửa đã trở lại, chỉ khác là lần này chúng là con người. Và tất cả những kẻ tấn công, không phải chỉ có hai tên gã nhận ra từ trước, là mang hình thanh đao bốc cháy đâu đó trên người: một cái vòng cổ, một hình xăm, một thứ gì đó.
Thông tin này cần phải tới tai Thrall.
Vậy nên Byrok chạy.
Hoặc đúng hơn là gã nhạy tập tễnh. Vết thương của gã đang tác động xấu. Kể cả thở cũng thật khó khăn. Nhưng gã vẫn chạy.
Gã lờ mờ nhận ra sáu tên con người đang đuổi theo, nhưng gã không thể chú ý tới điều đó được. Gã phải quay về Orgrimmar và báo cho Thrall những gì đã xảy ra. Kể cả với vết thương đó, sải chân của gã cũng dài hơn nhiều so với con người, và gã vẫn có thể chạy nhanh hơn chúng. Một khi gã chạy đủ xa, gã sẽ cắt đuôi chúng trong đám cây bụi tại vùng đất gã biết rõ ràng hơn tất cả những kẻ xâm phạm. Bên cạnh đó, có vẻ như chúng chỉ muốn hạ gục một orc. Chắc hẳn chúng không nhận ra rằng Byrok hiểu được thứ
ngôn ngữ bẩn thỉu của chúng, và bởi vậy chúng không biết rằng Byrok biết chúng là ai. Chúng sẽ không đuổi theo gã quá mức chúng thấy cần thiết.
Hoặc gã mong là thế.
Đầu óc Byrok không còn nghĩ được gì nữa. Gã không còn để ý tới bất cứ chuyện gì khác trừ việc khẩn cấp nhất là phải bước hết chân này rồi đến chân khác, nền đất đập mạnh vào đế giày gã. Gã phớt lờ cẳng chân bị đau, và bất cứ chỗ nào bị chúng đánh hay chém, phớt lờ sự thật rằng con mắt còn lại của gã đang mờ đi, phớt lờ sự mệt mỏi đang rút kiệt sức lực từ tứ chi gã.
Nhưng gã cứ chạy.
Rồi gã vấp ngã. Chân trái của gã từ chối nhấc lên – nhưng chân phải vẫn tiếp tục chạy, vậy nên gã ngã ra đất, cỏ cao cùng bụi đất bám đầy mũi cùng mồm và mắt gã.
“Phải… đứng… dậy…”
“Mày không chạy được đi đâu đâu đồ quái vật.” Byrok có thể nghe được giọng nói đó, nghe thấy tiếng giày của đám con người, và rồi cảm thấy áp lực của hai tên trong bọn chúng ngồi lên lưng, khiến gã không cử động nổi. “Bởi vì đây là nguyên do – thời gian của mày hết rồi. Orc không thuộc về thế giới này, vậy nên bọn tao sẽ tống khứ bọn mày khỏi đây. Hiểu ý tao không?”
Byrok cố nhấc đầu lên để gã thấy được hai tên con người. Gã nhổ nước bọt về phía chúng. Đám con người chỉ cười lớn. “Làm thôi nào, các chàng trai. Galtak Ered’nash!”
Năm tên còn lại cùng trả lời: “Galtak Ered’nash!” Rồi chúng bắt đầu đánh gã orc.
Cycle of Hatred – chapter 6
Sáu
Một giờ sau khi tra hỏi Davin và Avinal, Đại Tá Lorena tập trung phân đội của mình tại một bãi đất trống ngay bên ngoài Trạm Bắc. Đá cùng những cái cây to nằm rải rác khắp nơi, và nhiều bụi cây nhú lên trên mặt đất gồ ghề. Mặt trời chiếu xuống mặt đất và những cây cỏ, khiến mọi thứ trở nên chói sáng – và giữ ấm cho mọi người trong bộ giáp của mình.
Đa số người trong phân đội mà Lorena đem đi chỉ là những cái tên nằm đầu bảng phân công công việc, nhưng cô cũng tự chọn ra hai người trong họ. Dù cho còn trẻ, Strov đã là binh sĩ đáng tin cậy nhất của cô – anh ta làm việc của mình mà không thắc mắc gì cả, anh thường hỏi han khi cần, nhưng thường thì
sẽ làm chính xác theo lệnh. Anh ta cũng có thể theo dấu bất cứ ai mà không để lạc mất họ hoặc khiến mục tiêu biết được mình đang bị theo dõi.
Người còn lại thì đối lập với Strov: Jalod là một binh sĩ già từng chiến đấu với loài orc từ tận khi chưa ai biết loài orc là gì. Người ta đồn rằng ông đã từng huấn luyện cho Đô Đốc Proudmoore, dù cho Lorena không tin vào điều đó lắm. Dù sao thì ông ta cũng đã nhìn thấy mọi thứ, đã làm mọi thứ, và vẫn còn sống để kể lại những câu chuyện đã bị phóng đại về tất cả những chuyện đó.
Strov nói, “Như tôi đã nói trong phòng trực, thưa bà, các thủy thủ đoàn khác đã làm chững cho những gì Thuyền Trưởng Avinal nói. Họ không thể thấy gì ngoài ấy cả. Tôi e rằng họ không biết rằng cả tàu Orgath’ar lẫn tàu cướp biển đang ở đó.”
“Và nếu họ biết,” một binh sĩ khác, một binh sĩ kỳ cựu tên là Paolo, nói thêm, “họ cũng chẳng khá khẩm gì hơn để giúp người khác. Những thủy thủ tôi nói chuyện đã rất sợ hãi khi kể về nó.”
Mal, một người từng phục vụ trong hải quân Azeroth nhiều năm trước gật đầu. “Chẳng thể trách họ được. Sương mù là thứ tệ nhất. Không thể nào xác định được phương hướng. Thường thì tốt nhất nên thả neo đến khi nó tan đi. Thật sự mà nói là tôi rất ngạc nhiên khi họ không làm thế đấy.”
“Điều đó có nghĩa gì chứ?”
Đó là Jalod. Lorena nhíu mày. “Anh đang-?”
“Lũ orc bọn chúng đã tàn sát đội tàu của Đô Đốc Proudmoore! Giết chết một trong những người đàn ông tốt nhất từng sống trên cõi đời này! Nếu tôi điều hành con tàu của Avinal, tôi thà giúp bọn cướp biển ấy chứ. Điều này thật đáng xấu hổ, Công Nương Proudmoore đã phản bội chính dân tộc mình để đi theo lũ
man rợ đó – phản bội chính cha đẻ của mình để theo một lũ như chúng. Thật xấu hổ với những việc cô ta khiến chúng ta phải làm khi đáng nhẽ chúng ta phải truy đuổi đám quái vật đó!”
Mọi người đều cúi gằm xuống chân một cách không mấy thoải mái với những lời đó.
Và rồi, chỉ duy có Lorena là người rút gươm ra chĩa vào họng Jalod. Người đàn ông già có vẻ ngạc nhiên với điều này, đôi mắt xanh của ông ta mở lớn đầy sợ hãi, thấy rõ kể cả dưới những nếp nhăn phủ khắp khuôn mặt.
Lorena nói bằng giọng trầm và nguy hiểm, “Đừng bao giờ nói xấu về Công Nương Proudmoore khi có mặt ta, Trung Sĩ à. Ta không quan tâm ông phục vụ cho ai hay là ông đã giết bao nhiêu troll và quỷ, nếu ông còn nghĩ như vậy về Công Nương Proudmoore, ta sẽ xẻ xác ông ra từ đầu đến chân và cho chó ăn đấy. Ông đã hiểu chưa?”
Strov tiến lên phía trước. “Tôi tin rằng trung sĩ không có ý bất kính với Công Nương Proudmoore, thưa bà.”
“Dĩ nhiên không rồi.” Giọng Jalod run run. “Tôi chẳng có suy nghĩ nào khác ngoài tôn kính người, thưa bà, bà biết điều đó mà. Chỉ là-”
“Chỉ là gì?”
Jalod nuốt nước bọt, mũi kiếm của Lorena chạm vào yết hầu của ông ta. “Tôi muốn nói là lũ orc bọn chúng không thể tin tưởng được.”
Đó không phải là tất cả những gì Jalod muốn nói, nhưng Lorena vẫn hạ kiếm xuống. Hàng thập kỷ phụng
sự của Jalod cho phép ông ta được quyền nghi ngờ, và những lời này quá trái ngược với một người đàn ông đang hăm hở muốn được phục vụ dưới quyền Công Nương Proudmoore bấy lâu nay, trở về cái thời trước khi Arthas trở mặt. Thực vậy, nếu đó là bất cứ ai khác, cô đã không thèm bận tâm tới chuyện cảnh cáo mà đã moi tim người đó ngay ra rồi.
Cho kiếm vào bao, Lorena nói, “Quay trở về bến tàu nào. Chúng ta phải đi một hành trình rất dài mới về đến nhà đấy.”
Khi họ tiến về phía bến tàu nơi tàu vận tải đang đậu, Lorena cứ thắc mắc chuyện gì đang xảy ra. Cô đã là quân nhân suốt cả quãng đời trưởng thành. Là con út trong mười người con, và là con gái duy nhất, cô cũng muốn trở thành một quân nhân như các anh trai và cha mình. Cô đã luôn tự thuyết phục mình rằng cô là một đứa con trai, mãi tới tận khi tới mùa hè năm mười ba tuổi và cơ thể cô buộc chính mình phải đối diện với sự thật rằng mình là phụ nữ. Cô rất giỏi dùng kiếm và khiên và đã khiến cha mình vượt qua sự miễn cưỡng và chịu đảm bảo cho đơn xin vào Vệ Quân Thành Phố Kul Tiras. Suốt nhiều năm, cô đã rất cố gắng để được thăng tiến, cuối cùng đã được phong làm đại tá bởi chính Công Nương Proudmoore trong cuộc chiến với Quân Đoàn Rực Lửa.
Suốt những năm tháng ấy cô đã mài dũa bản năng của mình – bản năng của một quân nhân trong một gia đình quân nhân – và bản năng đó đã bảo cô rằng có nhiều uẩn khúc đằng sau việc một tàu hộ tống quân đội không nhận ra một tàu buôn hay tàu cướp biển đang tấn công họ trong màn sương. Sự hồ nghi cứ lởn vởn trong đầu cô từ lúc cô tới Trạm Bắc, nhưng những lời Jalod đã khiến điều đó càng lộ rõ.
Thật sự thì cô không chắc có điều gì là không ổn, nhưng cô quyết phải tìm ra.
Khi họ đi về rìa khoảng đất trống, Binh Nhì Strov phải đảm bảo luôn giữ Trung Sĩ Jalod trong tầm mắt. Anh không chắc chuyện gì đã xảy ra với gã già này, nhưng Strov không thích điều đó, không một chút nào.
Đó là một trong những chuyện thường than phiền về loài orc. Điều này cũng dễ hiểu, vì lịch sử đã chứng minh, dù cho chính Strov cũng thường nghĩ loài orc chỉ là nạn nhân của quỷ dữ. Một trong những người cũng bị ghét nhiều như vậy là Medivh, ông ta được tán dương làm người hùng bất kể những gì loài quỷ đã làm với ông ta. Dù sao thì, anh có thể hiểu tại sao có một số người lại thù hận loài orc như vậy.
Nhưng mà về Công Nương Proudmoore ư? Những kẻ duy nhất có lý do nghĩ xấu về cô ấy là Quân Đoàn Rực Lửa và những kẻ đồng tình với mục đích của chúng.
Jalod chưa bao giờ bày tỏ cảm xúc như vậy trước đây. Điều đó khiến Strov nghĩ rằng có lẽ người trung sĩ đã mất đi lý lẽ rồi. Điều đó không có gì sai – nó có thể xảy ra với cả những người tốt nhất – nhưng nó có thể gây nguy hiểm cho họ. Một trong những điều họ khắc vào đầu óc người ta trong huấn luyện là phải tin tưởng vào những người cùng đội. Strov không chắc anh còn có thể tin tưởng vào Jalod nữa không.
Như vậy mục đích của anh là luôn phải giữ người trung sĩ trong tầm mắt, rồi Strov dần nhận ra vài thứ anh đã để ý từ trước. Những cái cây và đá tảng, cùng vài lều hàng dùng cho Trạm Bắc, trở thành một biên giới gần như tròn lẳn. Khi họ tới gần mép hình tròn, Strov nhìn thấy bốn hình thù khoác áo choàng nấp sau những lều hàng, những cái cây, và cả những tảng đá. Chúng nấp rất kỹ, nhưng Strov có đôi mắt sắc bén hơn hầu hết mọi người.
“Có phục kích!”
Khi Strov hét lên, cả bảy người bọn chúng cúi mình lấy đà và rút kiếm ra. Gần như cùng lúc, cả bảy tên – Strov không nhìn ra nổi ba tên trong đó – nhảy ra khỏi chỗ nấp.
Những hình thù đó thật to lớn, lớp áo choàng không đủ để cho dấu đi sự thật rằng đó là loài orc, dù cho chúng đã làm được một việc rất tốt là che dấu những đặc điểm cá nhân.
Strov cũng nhận ra vài thứ khác khi anh đỡ cây dùi cui đang vung vào đầu anh: tấm áo choàng có biểu tượng hình một thanh kiếm bốc lửa trước ngực. Strov trông nó rất quen thuộc, nhưng anh chẳng có thời gian nghĩ về nó vào lúc này, vì tên orc trùm áo choàng đang làm mọi thứ có thể để kết liễu Strov.
Tên orc vung cây dùi cui thêm ba lần, và cả ba lần Strov đều đỡ được, nhưng lần thứ ba anh cũng đã tiến lên và đạp vào bụng tên orc. Không ngờ được đòn này, tên orc sẩy chân, và Strov đâm kiếm thẳng vào người hắn. Tuy nhiên, tên orc đã kịp đỡ cú đâm ấy bằng cây dùi cui.
Không may cho tên orc, điều này đã đưa Strov vào thế tấn công. Anh vẫn tiếp tục tấn công bằng những cú đánh khác, hòng khiến hắn sơ suất, nhưng đối thủ của anh quá thiện chiến và phản xạ nhanh một cách đáng ngạc nhiên – và giờ đã cảnh giác với mọi cú đấm và đá Strov có thể dùng. Strove biết rất nhiều người phụ thuộc toàn bộ vào vũ khí trong chiến đấu, nhưng Strov luôn sử dụng cả cơ thể mình.
Strov đâm xuống thấp, mong rằng tên orc sẽ đỡ đòn đủ thấp để khiến phía trên đầu sơ hở. Tuy nhiên đã đoán trước được, chỉ dùng một tay để cầm dùi cui, tay còn lại giơ lên bảo vệ đầu.
Vậy nên Strov đá vào chân tên orc.
Cú đá không đủ để khiến xương gãy, nhưng tên orc bị sẩy chân và phải vẫy cả hai tây để giữ thăng bằng.
Điều này cho Strov cơ hội cần thiết để đâm vào ngực tên orc.
Hoặc là anh nghĩ như vậy. Thanh kiếm dễ dàng lọt qua lớp áo choàng, ngập khoảng nửa thanh, nhưng Strov không cảm nhận thấy nó đâm qua thịt, và khi anh rút kiếm ra – mất nhiều sức hơn anh nghĩ – chẳng hề có máu trên kiếm.
Strov nghiến răng, không để sự ngạc nhiên vì không dành được chiến thắng vừa rồi khiến anh xao nhãng trước đối thủ giờ đã lại đứng vững vàng.
Hít một hơi, Strov tiến tới đầy quyết tâm. Anh vung kiếm vào cổ tên orc, đòn đó bị đỡ, rồi ngay lập tức tấn công vào bụng, rồi vào cổ, rồi vào chân. Tay anh nhòe đi khi anh đẩy tên orc phải lùi lại mãi, không ngừng nghỉ, chẳng cho đối thủ mấy thời gian để đỡ đòn – và mong rằng sớm hay muộn, hắn sẽ không thể đỡ được nữa.
Đột nhiên, một thanh kiếm không hiểu đến từ đâu chém vào đầu tên orc. Tấm áo choàng bị xẻ rách, và một nửa rơi xuống để lộ ra khuôn mặt màu xanh giận dữ của một tên orc nam. Cái nanh trái của hắn có khắc hình thanh kiếm bốc cháy.
Thanh kiếm nói trên là của Đại Tá Lorena. Strov cho rằng cô đã triệt hạ đối thủ của mình.
Về phần tên orc, hắn ra lệnh rút lui bằng tiếng orc, rồi tất cả chúng đều hét lên một câu, “Galtak Ered’nash!” Strov biết nhiều thứ ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng orc, troll, yêu tinh, và người lùn, kể cả bốn thứ tiếng tiên. Anh chưa bao giờ nghe thấy câu nói đó.
Đối thủ của anh đang chạy trốn, Strov quay sang nhìn về phía Ian và Mal đang nằm – một người đã chết
với cổ họng rách toạc, người còn lại còn sống nhưng bị thương ở một chân – nhưng cả anh, Lorena, Jalod, Paolo, và Clai đều không bị thương. Một tên orc cũng đang nằm trên mặt đất. Sáu tên còn lại đang rút lui, hai tên trong số đó bị chảy máu.
“Strov, Clai, đuổi theo,” Lorena nói khi cô chạy về phía Mal.
Clai là chiến binh tàn bạo nhất trong phân đội. Strov nhận ra rằng thanh kiếm của người binh nhì đồng đội dính một vệt máu orc. “Cậu đâm được vào thịt à?” Strov hỏi khi họ chạy về phía sau tên orc kia.
Clai gật đầu và nói, “Chỉ khi tôi đánh vào đầu hay là cổ thôi. Cứ như là cơ thể chúng làm từ khói hay cái gì tương tự ấy.”
Mấy hình thù ấy đều biến mất vào một cành liễu nhô ra trông như một bức tường. Chỉ chạy sau vài bước, Clai và Strov nhảy qua để tìm-
-và chẳng thấy gì cả. Chẳng còn chút dấu vết nào của lũ orc nữa. Kể cả vết máu của hai tên bị thương cũng biến mất. Mặt đất có thể được nhìn thấy cả nửa lý đường trước mặt – lũ orc không thể nào biến mất nhanh như thế được.
Strov đứng lại và hít một hơi. “Cậu ngửi thấy mùi gì chứ?”
Clai lắc đầu.
“Mùi lưu huỳnh. Cả gia vị nữa – tôi nghĩ là mùi xạ hương.”
Clai hỏi có vẻ hơi bối rối, “Thì sao?”
“Là ma thuật. Điều đó cũng giải thích được tại sao chúng không thể bị đâm.”
Trong mắt Clai lóe lên ánh vừa buồn vừa vui, anh ta hỏi, “Lũ quỷ à?”
“Cầu mong là không.” Strov rùng mình. Clai chỉ là một anh chàng lính mới trẻ tuổi quá trẻ để chiến đấu với Quân Đoàn Rực Lửa. Tính hăm hở muốn chiến đấu với quỷ dữ đó là của một người chưa bao giờ phải chiến đấu với chúng.
Strov quay lại chạy qua tán lá về phía Lorena, Clai bám ngay sau.
Người đại tá đang quỳ gối bên Mal, cùng với Paolo, anh ta đang băng vết thương cho Mal. Khi thấy Strov và Clai, cô đứng dậy và tức giận hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Chúng biến mất rồi thưa bà. Biến mất hoàn toàn – kể cả vết máu. Và ở đó có mùi ma thuật.”
Lorena nhổ nước bọt. “Khốn thật!” Cô thở qua kẽ răng, rồi chỉ vào tấm áo choàng trên mặt đất. “Nhưng cơ thể đó. Có vẻ như quá rõ ràng rồi.”
Nhìn gần hơn, Strov nhìn thấy tấm áo choàng đang nằm bẹp trên nền đất. Anh dùng kiếm chọc vào lớp vải, khiến ít tro bay lên. Rồi anh nhìn người đại tá.
“Chắc chắn là ma thuật,” cô gật đầu và nói.
“Thưa bà, có gì đó quen thuộc về-” Cuối cùng Strov nhắc đến nó, nhớ lại cuộc trò chuyện vừa đây với người anh của mình. “Chính là nó!”
“Đó là gì thế Binh Nhì?”
“Khi tôi về nhà dạo gần đây, anh tôi là Manuel kể cho tôi về một nhóm tự gọi mình là Đao Lửa. Có kẻ đã cố tuyển mộ anh ấy vào lần cuối anh ta ở quán Bả Quỷ. Nghe nói chúng đang mời những người không được hài lòng với cuộc sống tới cuộc họp của chúng, nhưng không chịu nói gì thêm.”
Jalod khịt mũi. “Luôn có người không vui vẻ với cuộc sống hiện tại cả. Luôn có lý do để dự họp về chuyện đó.”
Strov nghĩ điều này thật lạ, dựa vào những gì Jalod vừa nói, nhưng không trả lời trực tiếp, thay vì đó ông tiếp tục báo cáo với đại tá. “Thưa bà, tên orc mà tôi đánh lại có hình một thanh kiếm bốc cháy khắc trên nanh.”
“Một thanh đao bốc cháy.” Lorena lắc đầu. “Tên tôi đấu – tên đã biến thành tro đầu kia – cũng có hình một thanh đao bốc cháy lủng lẳng dưới khoen mũi.”
Clai giơ một tay. “Tôi xin được nói, thưa bà.” Lorena gật đầu. “Một trong những đối thủ của tôi có một cái – nó giống như tên mà Binh Nhì Strov đã đấu, thưa bà, ở trên nanh.”
“Khốn thật.” Cô nhìn về phía Paolo, người đang đứng phía trên Mal. “Anh ta sao rồi?”
“Vẫn cần một y sĩ thật, nhưng nó sẽ không chảy máu nữa tới khi ta về Theramore.” Anh nhìn qua Lorena về phía trung tâm Trạm Bắc. “Tôi không thể tin vào bệnh xá nơi này được, thưa bà.”
Qua kẽ răng nghiến chặt, Mal nói, “Tôi đồng ý, thưa bà.”
“Tốt thôi.” Lorena cho kiếm vào vỏ mà không thèm lau – Strov cho rằng cô sẽ làm thế khi họ đã lên tàu – cô bắt đầu đi về phía bến tàu. “Tới chỗ tàu và lấy cho anh ta ít rượu để giảm đau khi chúng ta đã lên tàu
nào.”
Mal cười mệt mỏi và nói, “Đại Tá quả là một phụ nữ rộng lượng.”
Lorena hơi cười với người hạ sĩ, cô nói, “Không rộng lượng thế đâu – chỉ một cốc nhỏ thôi, không hơn không kém. Nó đắt lắm đấy.”
Paolo ra dấu cho Clai, và hai người họ nhấc Mal lên, giữ cho cái chân bị thương không cử động trong khi họ mang anh ta đi, mỗi bên một người, hướng về phía bến tàu. Trong khi đó Strov vác theo cái xác đẫm máu của Ian.
Lorena nói với anh khi họ bước đi, “Binh Nhì à, khi ta trở lại Theramore, tôi muốn anh nói chuyện với anh trai của anh. Tôi muốn biết mọi thứ có thể về cái hội Đao Lửa này.”
“Vâng thưa bà.”
Cycle of Hatred – chapter 7
Bảy
Căn phòng với những bức tường đá nơi chứa ngai Thống Chiến Đại Tộc của Thrall thật lạnh lẽo. Thrall thích điều này – orc không phải loài ưa lạnh, vậy nên họ không thấy thoải mái lắm ở đây. Anh nhận ra rằng tốt nhất người của mình không nên thấy thoải mái trước sự có mặt của thủ lĩnh. Vậy nên khi nơi này được xây dựng, anh đảm bảo rằng lớp đá phải dày và không có cửa sổ. Ánh sáng chỉ được cấp bởi đèn lồng thay vì đuốc, bởi vì chúng ít tỏa nhiệt hơn.
Nhưng không quá lạnh tới mức thực sự khó chịu. Anh không muốn người của mình phải chịu khổ khi phải thỉnh kiến anh, nhưng anh cũng không muốn họ hoàn toàn thoải mái. Thrall đã phải đi một con đường rất khó khăn, và anh biết vị trí hiện tại của mình quý giá – và bấp bênh tới mức nào. Bởi vậy anh sẽ nắm lấy mọi cơ hội có thể, cho dù là nhỏ nhất như là giữ cho ngai phòng của mình lạnh hơn một chút.
Giờ anh đang gặp mặt Kalthar, pháp tăng của mình, Burx, chính binh mạnh mẽ nhất của anh. Cả hai đều
đứng trước Thrall, anh đang ngồi trên chiếc ghế da làm từ da của những sinh vật tự tay Thrall đã giết.
“Con người vẫn còn ở Thành Trạm Bắc. Tin gần đây nhất chúng tôi nhận được là một tàu với nhiều lính đã xuất hiện. Tôi thấy có vẻ như họ đang tăng cường quân.”
“Chắc không đâu.” Thrall ngả người ra ghế. “Công Nương Proudmoore báo cho ta biết rằng cô ta đang cử quân tới điều tra báo cáo của Thuyền Trưởng Bolik.”
Burx đứng thẳng người. “Họ không tin lời một chiến binh sao?”
Kalthar, người có nước da xanh đã chuyển dần thành tái và nhăn nheo của tuổi già, cười khàn khàn. “Tôi chắc là, Burx ạ, rằng họ tin lời một orc cũng bằng với việc anh tin lời một con người thôi.”
“Con người thật hèn nhát và ti tiện,” Burx nói thô bạo.
“Con người Theramore không như vậy đâu.” Thrall ngả người về trước. “Và ta sẽ không nghe những lời nói xấu về họ khi có mặt ta nữa đâu.”
Burx giậm chân tại chỗ. Thrall phải kiềm chế cười lớn trước phản ứng của gã chiến binh. Động tác đó khiến Thrall nhớ lại một đứa bé con người đang giải tỏa cơn giận dữ; tuy nhiên, với loài orc, hành động đó là dấu hiệu của sự không bằng lòng. Dù anh giờ đây là chúa tể của các bộ tộc, từng có thời gian Thrall buộc phải tự nhắc nhở bản thân rằng anh không được lớn lên giữa chủng tộc của mình.
“Đây là đất của chúng ta, Thrall à! Của chúng ta! Con người không có quyền gì với nó cả. Cứ để chúng băng qua Biển Lớn quay về nơi chúng thuộc về và để cho chúng ta trở lại cuộc sống trước khi ác quỷ nguyền rủa chúng ta – tránh xa khỏi tất cả sự hiện diện của cái xấu, dù có là người phàm hay không.”
Thrall lắc đầu. Anh đã từng nghĩ những lời tranh luận như thế này đã phải chấm dứt hai năm trước rồi. “Con người đang chiếm mảnh đất khắc nghiệt nhất ở Kalimdor, và rất quý giá chỗ đất ít ỏi ấy. Thậm chí chúng ta còn chẳng chiếm lấy Đầm Đằm Đất. Người của Jaina-”
“ ‘Jaina’ à?” Burx chế nhạo cái tên đó.
Giờ Thrall đã đứng dậy. “Cẩn thận đấy, Burx. Công Nương Proudmoore – Jaina – đã nhận được lòng kính
trọng của ta. Vậy mà những người như anh đã đánh mất nó quá nhanh đấy.”
Burx thu mình lại đôi chút. “Tôi xin lỗi, thưa Thống Chiến – nhưng ngài phải hiểu, rằng ngài lớn lên giữa chúng. Đôi lúc nó có thể – khiến ngài trở nên mù quáng trước những gì quá hiển hiện với số còn lại chúng tôi.”
“Ta chẳng mù quáng trước cái gì cả, Burx. Anh nên nhớ rằng chính là ta đã khai sáng mắt cho loài orc khắp thế giới này, những người đã trở thành con mồi cho lời nguyền của ác quỷ và rồi bị con người giam giữ, và nhắc nhở cho họ rằng họ là ai. Từ giờ đừng có tự phụ mà quở trách ta-”
Họ bị cắt ngang bởi một orc trẻ thở không ra hơi mới chạy vào. “Lũ thằn lằn sấm!”
Thrall nháy mắt. Lằn Sấm, nhà của sinh vật được nhắc tới đó, khá xa so với đây – nếu tin báo tới tận Orgrimmar, hẳn phải khá nghiêm trọng.
“Ở đâu?” Burx hỏi.
“Rõ ràng là ở xa nơi đây,” Kalthar mệt mỏi nói, “nếu không thì sẽ không chỉ có một người đưa tin trẻ thế này đâu.”
Cậu chàng thực sự có mang cái khoen mũi hình tia chớp ra dấu rằng đó là một người đưa tin. Hẳn cậu chàng đã chạy từ tận Lằn Sấm tới để báo cáo với Thrall. “Nói đi,” Thrall nói với cậu trai.
“Tôi đến từ Hẻm Khe Cạn, thưa Thống Chiến. Lũ thằn lằn sấm, chúng đang chạy khỏi lằn núi, thực sự là như vậy.”
“Sao chuyện này có thể xảy ra?” Burx hỏi.
Thrall liếc nhìn người chiến binh và nói, “Để cậu ta nói, rồi có lẽ chúng ta sẽ biết.” Anh nói với cậu trai, “Tiếp đi.”
“Một nông dân tên là Tulk, chính ông ta nghe thấy cuộc tháo chạy. Ông ta gọi các con trai mình tới, và họ đánh đuổi lũ thằn lằn đi, họ đã đuổi được trước khi chúng phá hủy rẫy của ổng. Nhưng chưa từng có ai nghe tin có con thằn lằn sấm nào rời khỏi lằn núi trước đây, vậy nên ông ấy đã tập hơn các con trai
mình và rồi người nông dân tiếp theo và các con của ông ấy, và rồi họ đều tới lằn núi, thực sự là vậy.”
Thrall gật đầu. Lằn Sấm được bao quanh bởi một khu rừng rậm với những cái cây có thân to mà lũ thằn lằn không thể tàn phá được. Một con có thể lén lút đi qua rừng được, nhưng thằn lằn sấm chưa bao giờ làm vậy.
“Khi họ tới đó, họ nhận ra rằng khu rừng đã bị san bằng thành bình địa, thực sự là vậy. Lũ thằn lằn, chúng đã tạo được đường trống để ra khỏi lằn núi. Các nông dân đang lo sợ cho rẫy của họ, thực sự là vậy.”
Tuy nhiên Thrall vẫn còn mải bám theo phần trước. “Bị san bằng à? Chính xác là san bằng như thế nào?”
“Những cái cây, chúng đều bị chặt hạ. Những gốc cây còn lại chỉ cao khoảng cỡ một gang tay trên mặt đất thôi.”
Burx hỏi, “Chúng được mang đi đâu?”
Cậu ta nhún vai. “Không biết. Họ không thấy cành cây nào cả, không còn gì cả, chỉ còn mỗi gốc.” Thrall lắc đầu và hỏi, “Sao chuyện này có thể xảy ra chứ?”
“Không rõ sao chuyện này có thể xảy ra, thưa Thống Chiến,” cậu chàng nói, “nhưng đó là những gì đã xảy ra, đúng như tôi đã nói với ngài.”
“Cậu đã làm rất tốt.” Thrall chào cậu trai. “Đi lấy chút nước và đồ ăn đi. Có thể sẽ có thêm câu hỏi cho cậu sau khi cậu no bụng đấy.”
Cậu chàng gật đầu và nói, “Cảm ơn ngài, thưa Thống Chiến,” và chạy ra ngoài.
“Con người,” Burx nói ngay khi cậu trai rời khỏi ngai phòng. “Chắc là thế. Chúng vẫn luôn tìm hỏi gỗ cây ở Lằn Sấm nhiều lần rồi. Chắc chắn không có orc nào lại làm nhơ bẩn một vùng đất như thế.”
Mặc dù Thrall bất đắc dĩ lắm mới tin vào lời nói xấu cho con người, Burx cũng đã đúng rằng không có orc nào ở Durotar lại làm một chuyện như thế. “Họ không thể chuyện một lượng lớn gỗ như vậy từ Lằn
"""