"What Happened - Điều Gì Đã Diễn Ra - Hillary Rodham Clinton full prc pdf epub azw3 [Tự Truyện] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook What Happened - Điều Gì Đã Diễn Ra - Hillary Rodham Clinton full prc pdf epub azw3 [Tự Truyện] Ebooks Nhóm Zalo a Mục lục 1. Lời tác giả 2. KIÊN GAN 3. Xuất hiện 4. Can đảm và biết ơn 5. ĐỐI ĐẦU 6. Cố gắng 7. Bắt đầu 8. Một ngày trong đời 9. LÀ PHỤ NỮ 10. Phụ nữ làm chính trị 11. Là mẹ, là vợ, là con, là chị em bạn hữu 12. Biến đau thương thành hành động 13. LÝ TƯỞNG VÀ HIỆN THỰC 14. Những người tạo ra thay đổi 15. Chú tâm đến từng chi tiết 16. Tạo nên lịch sử 17. SỰ PHẪN NỘ 18. Những nẻo đường quê 19. Trolls, bots, tin tức giả và người Nga thật 20. Đêm bầu cử 21. Tại sao? 22. BỀN CHÍ 23. Tình thương và sự tử tế 24. Tiến bước cùng nhau 25. Lời cuối Lời tác giả Đ ây là những gì đã diễn ra. Đây là câu chuyện về những điều tôi đã chứng kiến, cảm thấy và suy tư trong suốt hai năm dữ dội nhất mà tôi từng trải qua. Đây là câu chuyện về hành trình đưa tôi đến ngã rẽ lịch sử này, về cách tôi tiếp tục bước đi sau một thất bại cay đắng, về cách tôi kết nối lại với những thứ quan trọng nhất trong cuộc đời và bắt đầu nhìn về phía trước với nhiều hy vọng thay vì dằn vặt quá khứ với nhiều tiếc nuối. Đây còn là câu chuyện về những gì đã xảy ra với đất nước của chúng ta, về lý do tại sao chúng ta lại chia rẽ đến vậy, và chúng ta có thể làm được gì để cải thiện tình hình. Tôi không có câu trả lời cho tất cả mọi chuyện, và đây không phải những đánh giá toàn diện và đầy đủ về cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 2016. Tôi không viết theo cách như vậy, vì trong cuộc chạy đua này tôi đã đứng quá gần và đóng một vai trò quá lớn. Thay vào đó, đây là câu chuyện của tôi. Tôi muốn tiết lộ một trải nghiệm vừa phấn khởi, vui vẻ, khiêm nhường, vừa gây nhiều phẫn uất, và đơn giản là không thể hiểu nổi. Viết về trải nghiệm này không hề dễ dàng. Mỗi ngày khi còn là một ứng viên Tổng thống, tôi biết hàng triệu người đang trông chờ vào tôi, và tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ sẽ làm họ thất vọng. Nhưng tôi đã làm họ thất vọng. Tôi đã thất bại và tôi sẽ phải sống với điều này trong suốt phần đời còn lại của mình. Trong quyển sách này, tôi viết về những thời khắc của cuộc tranh cử mà tôi ước gì mình có thể quay trở lại và làm lại từ đầu. Nếu người Nga hack được tiềm thức tôi, hẳn họ sẽ tìm thấy một danh sách dài những điều tôi muốn làm lại. Tôi còn ghi lại những khoảnh khắc mà tôi muốn nhớ mãi, như khi đứa cháu ngoại bé bỏng của tôi lon ton chạy vào phòng lúc tôi đang luyện tập bài diễn văn tranh cử, để rồi vài tiếng sau đó, tôi bước lên bục đọc bài diễn văn này, chính thức là người phụ nữ đầu tiên được một trong hai đảng chính trị lớn nhất của Mỹ chọn ra tranh cử Tổng thống của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Tôi viết về những con người đã truyền cảm hứng cho tôi, từ một vị bộ trưởng ở bang South Carolina nói chuyện với tôi về tình yêu và sự tử tế, những người dân đã kề vai sát cánh với nhau trong một thị trấn bị nhiễm độc chì, đến những tình nguyện viên chiến dịch không biết mệt mỏi đã cống hiến tất cả những gì họ có vì một tương lai tốt đẹp hơn. Tôi còn chia sẻ suy nghĩ của mình về những thách thức lớn khiến tôi đau đầu nhiều thập niên qua, mà gần đây đã trở nên cấp thiết hơn. Đó là vai trò của giới tính, sắc tộc và giai cấp trong đời sống chính trị của chúng ta, đó là tầm quan trọng của sự đồng cảm của mọi người trước nhiều vấn đề quốc gia. Tôi đang cố gắng học hỏi từ những lỗi lầm của mình. Có rất nhiều, như bạn sẽ thấy trong quyển sách này, và đó là lỗi lầm của tôi, chỉ của tôi mà thôi. Chưa hết, chúng ta sẽ không thể hiểu được chuyện gì đã diễn ra trong năm 2016 nếu không được biết về chiến tranh truyền thông trơ tráo do Điện Kremlin khơi mào, về sự can thiệp không có tiền lệ của vị giám đốc FBI vào cuộc bầu cử này, và về việc một tờ báo chính trị đã tuyên bố email của tôi mới là câu chuyện quan trọng nhất. Ngoài ra, tất cả chúng ta còn phải đối diện với những nỗi căm ghét, giận dữ đã âm ỉ trong lòng mỗi người Mỹ bao năm nay. Tôi biết một số người sẽ không muốn nghe những điều này, đặc biệt là từ tôi. Nhưng chúng ta phải làm sáng tỏ mọi chuyện. Những bài học chúng ta rút ra từ năm 2016 có thể giúp quyết định liệu chúng ta có thể hàn gắn nền dân chủ của mình và bảo vệ nó trong tương lai hay không, liệu chúng ta – những công dân Mỹ có thể bắt đầu hàn gắn những chia rẽ hay không. Tôi muốn các cháu ngoại của tôi và những thế hệ tương lai biết được những chuyện đã thực sự xảy ra. Chúng ta có trách nhiệm với lịch sử – và với thế giới đầy âu lo này – phải làm sáng tỏ mọi chuyện. Tôi còn chia sẻ với các bạn những ngày đớn đau sau cuộc bầu cử. Nhiều người hỏi tôi, “Làm sao cô có thể gượng dậy nổi?” Việc đọc tin tức mỗi sáng như xát muối vào vết thương hở. Những tiết lộ mới, những cơn phẫn nộ làm cho sự việc tồi tệ thêm. Tôi như phát điên lên khi nhìn đất nước sa sút và thấy nhiều người Mỹ đang lo sợ rằng bảo hiểm sức khỏe của họ có thể bị lấy mất, để giới siêu giàu được giảm thuế. Có những lúc, tôi chỉ muốn hét lớn vào một cái gối. Nhưng dần dần, về phương diện cá nhân, mọi chuyện trở nên ổn hơn – hoặc ít nhất là ít khủng khiếp hơn. Tôi nghĩ ngợi và viết lách một chút, rồi cầu nguyện, suy ngẫm, và, cuối cùng thì, cười rất nhiều. Tôi thường đi bộ đường dài trong rừng với chồng và hai chú chó Tally và Maisie, hai chú coi toàn bộ chuyện này nhẹ nhàng hơn chúng tôi nhiều. Tôi quây quần với bạn bè, xem mấy chương trình truyền hình mà mọi người giới thiệu nhiều năm nay cũng như rất nhiều chương trình trên kênh HGTV1. Điều tuyệt vời hơn hết thảy, tôi dành nhiều thời gian với mấy đứa cháu ngoại, kể chuyện cho chúng nghe trước giờ đi ngủ, hát hò với chúng trong phòng tắm – bù đắp cho những điều tôi đã bỏ lỡ trong suốt những tháng ngày dài vận động chiến dịch. Tôi cho rằng đây là điều mà vài người gọi là “tự chữa lành”. Hóa ra, nó rất đỗi tuyệt vời. 1 HGTV (viết tắt của Home & Garden Television): Kênh truyền hình Mỹ về sửa chữa, trang trí nhà cửa, làm vườn, làm thủ công. (Tất cả các chú thích trong sách là của người dịch). Giờ thì, khi mọi người hỏi tôi đang như thế nào, tôi nói rằng, là một người Mỹ, tôi đang lo lắng hơn bao giờ hết – nhưng là một người bình thường, tôi đang rất ổn. Quyển sách này là câu chuyện của hành trình đó. Viết ra nó là một sự giải tỏa. Tôi nếm trải lại toàn bộ mọi hỉ nộ ái ố một lần nữa. Nhiều lúc, tôi phải ra khỏi bàn, nằm xuống, nhắm mắt lại, và cố gắng làm đầu óc mình trống rỗng. Quyển sách này còn khó viết vì một lý do nữa: Tôi không đếm được bao nhiêu lần mình ngồi ở bàn bếp, miệt mài viết, rồi ngưng lại để xem các bản tin nóng, cảm thấy xấu hổ ghê gớm, rồi lại thở dài, và lấy cây bút đỏ ra để bắt đầu sửa lại. Tôi đang cố gắng giảng hòa với những kỷ niệm đau đớn và ôn lại những kỷ niệm vui vẻ trong suốt chiến dịch. Trong quá khứ, vì những lý do tôi đã cố giải bày, tôi thường cảm thấy mình phải cẩn trọng trước công chúng – cảm giác như đang đi trên dây mà không có lưới bảo hộ bên dưới, nhưng giờ thì tôi đã có thể thoải mái hơn. Sau khi hoàn tất bản thảo này, tôi sẵn sàng đối mặt với tương lai lần nữa. Tôi hy vọng rằng khi đọc đến những trang cuối cùng, bạn cũng sẽ ở đó, cùng với tôi. Tôi luôn biết ơn vì được chọn là ứng viên Tổng thống của đảng Dân chủ và nhận được 65.844.610 lá phiếu bầu từ cử tri của mình. Con số này – nhiều hơn nhiều so với bất cứ ứng viên Tổng thống nào từng được bầu, ngoại trừ Barack Obama – là bằng chứng cho thấy rằng kết quả bầu cử năm 2016 chưa đủ để phản ánh ý nguyện và mong muốn của mọi người dân Mỹ. Tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả những người đã chào đón tôi đến nhà riêng, công sở, trường học, và nhà thờ của họ trong suốt hai năm dài sôi động này; cảm ơn mọi cô bé, cậu bé đã chạy nhào vào vòng tay tôi, cật lực đập tay với tôi; và cảm ơn hàng dài những con người quả cảm thuộc nhiều thế hệ khác nhau, bằng tình yêu và sức mạnh của mình đã giúp tôi có được một cuộc đời đáng tưởng thưởng ở đất nước tôi yêu mến. Nhờ có họ, dù cho bất cứ điều gì xảy ra, tôi cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc. Tôi muốn bắt đầu quyển sách này với vài lời dành cho Harriet Tubman – một trong những người tiên phong. Hai mươi năm trước, tôi có xem một nhóm trẻ em diễn kịch về cuộc đời bà khi còn sống ở nông trại cũ của bà tại Auburn, New York. Chúng rất phấn khởi về người phụ nữ quả quyết và can đảm đã vượt qua mọi trở ngại để đưa những người nô lệ đến với tự do. Dù đối mặt biết bao khó khăn, bà không bao giờ đánh mất niềm tin vào phương châm sống đơn giản nhưng vô cùng mạnh mẽ: Cứ bước tiếp. Đó cũng chính là điều chúng ta sẽ làm, ngay bây giờ. Năm 2016, chính phủ Mỹ tuyên bố rằng Harriet Tubman sẽ trở thành gương mặt được in trên tờ 20 đô la. Nếu bạn cần bằng chứng nước Mỹ vẫn có thể làm đúng, thì chính là đây. Chuyện này sẽ khó. Nếu nó không khó, mọi người đã làm rồi. Chính sự khó làm cho nó vĩ đại. —Trích phim A League of Their Own KIÊN GAN Những gì không giết được ta sẽ làm ta mạnh mẽ hơn. —Friedrich Nietzsche (và Kelly Clarkson) Xuất hiện H ít sâu. Cảm thấy không khí tràn vào phổi. Đây là một việc đúng đắn. Đất nước cần thấy rằng nền dân chủ vẫn còn đó, dù cho việc này có đau đớn đến thế nào đi nữa. Thở ra. Việc la hét để sau. Tôi đang đứng ngay sau cánh cửa mở ra những bậc thềm dẫn xuống bục nhậm chức, chờ người giới thiệu chương trình gọi Bill và tôi vào ghế ngồi. Tôi đang tưởng tượng mình đang ở đâu đó chứ không phải ở đây. Hay là Bali nhỉ? Bali là một ý kiến hay. Theo lệ thì Bill và tôi, cựu Tổng thống và cựu Đệ Nhất Phu nhân, phải tham dự buổi tuyên thệ của tân Tổng thống. Tôi đắn đo mấy tuần nay liệu có nên đi hay không. John Lewis không tham dự. Vị lãnh đạo dân sự đồng thời là một Dân biểu1 này nói rằng Tổng thống đắc cử không hợp pháp bởi vì càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự nhúng tay của người Nga vào cuộc bầu cử. Những thành viên Quốc hội khác đang cùng anh tẩy chay vị Tổng thống đắc cử mà họ coi là tác nhân gây chia rẽ. Nhiều người ủng hộ và bạn bè thân thiết cũng khuyên tôi nên ở nhà. 1 Thành viên của Hạ viện. Quốc hội Mỹ gồm Thượng viện và Hạ viện. Thành viên của Thượng viện được gọi là Thượng nghị sĩ, thành viên của Hạ viện được gọi là Dân biểu. Bạn bè tôi hiểu rằng tôi sẽ đau đớn biết nhường nào khi ngồi ở khán đài và chứng kiến Donald Trump tuyên thệ là Tổng tư lệnh kế tiếp của chúng ta. Tôi đã vận động chiến dịch không ngừng nghỉ để đảm bảo rằng điều này không xảy ra. Tôi đã nghĩ rằng nếu đắc cử, ông ta sẽ mang lại nhiều mối đe dọa và bất ổn cho đất nước và thế giới. Giờ thì điều tồi tệ nhất đã xảy ra rồi, và ông ta sắp sửa tuyên thệ để nhậm chức. Thêm nữa, sau chiến dịch không mấy mã thượng của Trump, có khả năng tôi sẽ nhận được nhiều tiếng la ó phản đối và được nghe lại điệp khúc “Bỏ tù bà ta đi!” nếu tôi tham dự. Dù vậy, tôi cảm thấy có trách nhiệm phải có mặt. Chuyển giao quyền lực một cách hòa bình là một trong những truyền thống quan trọng nhất của đất nước chúng ta. Tôi đã quảng bá điều này khắp cả thế giới khi còn là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, hy vọng rằng nhiều quốc gia khác sẽ theo gương chúng ta. Nếu tôi thật sự tin tưởng vào điều này, tôi phải gạt cảm xúc của mình sang một bên và có mặt ở đó. Bill và tôi hỏi thăm nhà Bush và nhà Carter để dò ý của họ. George W. và Jimmy là hai trong những người đầu tiên gọi cho tôi sau cuộc bầu cử, và điều này có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Thật ra George gọi cho tôi chỉ sau khi tôi kết thúc bài diễn văn thua cuộc vài phút. Anh đã lịch sự chờ máy trong khi tôi ôm đồng đội và những người ủng hộ lần sau cuối. Khi chúng tôi nói chuyện, anh đề nghị lúc nào đó cùng đi ăn burger. Tôi nghĩ đó là hành động rất riêng của người Texas để nói rằng “Tôi cảm nhận được nỗi đau của chị”. Cả anh và Jimmy đều từng đứng ra tranh cử, và Jimmy còn thấu hiểu được nỗi đau khi thất bại. Anh và tôi có nói về điều này một chút. (“Jimmy à, đây là điều tồi tệ nhất”. “Đúng vậy Hillary, rất tồi tệ”). Cũng chẳng phải chuyện gì bí mật khi những vị cựu Tổng thống này không ưa Donald Trump. Ông ta đã chỉ trích thậm tệ Jeb – em trai của George. Nhưng họ có đến buổi nhậm chức không? Có. Điều này đã cho tôi cú huých tôi cần. Bill và tôi sẽ đi. Đó là lý do vì sao tôi đứng đây, ngay bên trong Trụ sở Quốc hội, ngày 20 tháng 1, chờ được xướng tên. Hành trình để đến được đây thật dài. Giờ thì tôi chỉ cần bước thêm vài bước nữa. Tôi giữ lấy cánh tay Bill và bấu chặt, cảm thấy biết ơn vì có anh bên cạnh. Tôi hít một hơi thật sâu, bước ra cửa với nụ cười tươi nhất. Trên khán đài, chúng tôi ngồi cạnh nhà Bush. Bốn người chúng tôi đã gặp nhau bên trong mấy phút trước, cùng trò chuyện về các cô con gái và mấy đứa cháu ngoại. Chúng tôi hàn huyên như thể đây là một ngày bình thường. George và Laura cho chúng tôi biết về tình hình sức khỏe của cha mẹ George, cựu Tổng thống George H.W. và Barbara, cả hai người đã ở bệnh viện, nhưng thật may là hiện tại đang hồi phục rất tốt. Khi chúng tôi chờ Tổng thống đắc cử đến, đầu óc tôi lại lang thang về với cái ngày tuyệt vời hai mươi năm trước khi Bill tuyên thệ lần đầu tiên. Cũng không dễ dàng gì với George H.W. và Barbara khi chứng kiến cảnh này, nhưng họ đã vô cùng lịch thiệp với chúng tôi. Vị cựu Tổng thống đã để lại cho Bill một lá thư trong Phòng Bầu dục. Đó là những lời tốt đẹp và yêu nước nhất mà tôi từng được đọc. “Thành công của các bạn là thành công của đất nước chúng ta. Tôi hoàn toàn ủng hộ các bạn”, ông ấy viết. Tám năm sau đó, chúng tôi cố hết sức để thể hiện sự trọng thị tương xứng cho George W. và Laura. Và lúc này đây, tôi đang cố gắng có được một thái độ tương tự về vị Tổng thống mới. Như tôi đã nói trong bài phát biểu thua cuộc, ông ta xứng đáng nhận được sự đón nhận và xứng đáng có cơ hội để dẫn dắt. Tôi còn nghĩ đến Al Gore, năm 2001, anh đã ngồi chịu đựng trong suốt buổi lễ nhậm chức của George W. dù đã có nhiều phiếu bầu hơn. Năm thành viên của Tòa án Tối cao đã quyết định kết quả cuộc bầu cử năm đó. Đó hẳn là một trải nghiệm tồi tệ đối với Al Gore. Tôi nhận ra mình đang tự tạo ra một thú tiêu khiển mới: tưởng tượng ra nỗi đau của những ứng viên thua cuộc do phiếu Cử tri đoàn trong quá khứ. John Adams, vị Tổng tư lệnh thứ hai của chúng tôi, phải chịu sự bất nhã khi là vị Tổng thống đương nhiệm đầu tiên thất bại tranh cử, thua Thomas Jefferson năm 1800, nhưng ông cũng đã trả được thù khi hai mươi năm sau, con trai ông là John Quincy được bầu. Năm 1972, George McGovern thua 49 trên tổng số 50 bang trước Richard Nixon – Bill và tôi đã vận động cật lực trong chiến dịch tranh cử của McGovern nên nhớ như in về thất bại năm đó. Và đừng quên William Howard Taft, người mà Teddy Roosevelt đã dọn đường để kế nhiệm ông. Bốn năm sau đó, năm 1912, Teddy cho rằng Taft chưa làm tốt trên cương vị Tổng thống nên đã chạy đua như ứng viên của một đảng thứ ba, chia tách Cử tri đoàn đảng Cộng hòa và giúp Woodrow Wilson giành chiến thắng1. Hẳn là một cú đau lắm. 1 Teddy Roosevelt và William Howard Taft cùng đảng Cộng hòa. Woodrow Wilson thuộc đảng Dân chủ. Teddy Roosevelt từng làm Tổng thống nhiệm kỳ trước William Howard Taft. Rồi Bill chạm vào khuỷu tay tôi, tôi giật mình quay trở lại thực tại. Nhà Obama và nhà Biden đang ở phía trước chúng tôi. Tôi tưởng tượng Tổng thống Obama ngồi trên chiếc limo Tổng thống cùng một người nổi lên một phần nhờ vào lời dối trá về nơi sinh của Barack và cáo buộc anh không phải là người Mỹ. Trong lúc cử hành lễ, Michelle và tôi cùng có vẻ ngoài buồn bã, như muốn nói, “Mọi người có tin được không kia chứ?” Tám năm trước, vào một ngày lạnh giá khi Barack tuyên thệ, đầu chúng tôi đầy những kế hoạch và triển vọng. Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ thể hiện sự bằng mặt và chờ cho xong chuyện. Vị Tổng thống đắc cử cuối cùng cũng đến. Tôi biết Donald Trump nhiều năm nay nhưng không bao giờ tưởng tượng được cảnh ông ta đứng trên những bậc thềm Trụ sở Quốc hội và tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Khi tôi còn là Thượng nghị sĩ của New York, ông ta chỉ là một người tô điểm thêm cho thành phố này như rất nhiều những đại gia bất động sản khác, ngoài việc ông này thì khoa trương và thích quảng bá bản thân hơn. Năm 2005, ông ta mời chúng tôi tham dự lễ cưới của mình với Melania ở Palm Beach, Florida. Chúng tôi chẳng phải bạn bè gì nên tôi cho rằng ông ta chỉ muốn có thêm ảnh hưởng của người có tiếng. Tình cờ, cuối tuần đó, Bill có buổi nói chuyện ở gần đó nên chúng tôi quyết định tham dự. Tại sao không kia chứ? Tôi nghĩ rằng đám đó sẽ vui nhộn, màu mè và xa hoa lắm, và tôi đã đúng. Tôi tham dự nghi thức lễ, rồi gặp Bill để dự tiệc ở biệt thự Mar-a-Lago của Trump. Chúng tôi chụp hình với cô dâu chú rể rồi rời tiệc. Năm sau đó, Trump tham gia cùng những người New York tiêu biểu khác trong một đoạn phim vui quay sẵn để chiếu trong bữa tối của Hiệp hội Phóng viên Ban Hành pháp (Legislative Correspondents Association – LCA) tổ chức ở Albany, là phiên bản cấp tiểu bang của bữa tối Hiệp hội Phóng viên Nhà Trắng (White House Correspondent’s Association – WHCA) nổi tiếng hơn. Ý tưởng trong đoạn phim là tượng sáp của tôi ở bảo tàng Madame Tussauds tại Quảng trường Thời đại bị đánh cắp nên tôi phải đứng vào đó và giả vờ làm một bức tượng trong khi nhiều người nổi tiếng đi qua và nói nhiều điều về tôi. Thị trưởng thành phố New York Mike Bloomberg nói tôi là một Thượng nghị sĩ tốt, rồi nói đùa về việc tôi tự bỏ tiền túi chạy đua tranh cử Tổng thống năm 2008. Khi Trump xuất hiện, ông ta nói: “Trông quá tuyệt. Thật không tin được. Tôi chưa thấy ai được như vậy. Tóc tai ngon lành. Mặt mũi thật đẹp. Tôi thật sự nghĩ rằng đây sẽ là một Tổng thống tốt. Không ai có thể sánh được”. Khi chúng tôi xem lại cảnh quay thì hóa ra ông ta không nói chuyện với tôi mà là đang nói với chính tượng sáp của mình. Lúc đó, điều này thật sự rất khôi hài. Khi Trump tuyên bố chính thức ra tranh cử vào năm 2015, cũng như nhiều người khác, tôi nghĩ đó là một trò đùa. Lúc đó, ông ta điều chỉnh lại mình từ một gã hợm báo lá cải thành kẻ lập dị cánh hữu với nỗi ám ảnh dai dẳng, viển vông, đầy tính công kích nhằm vào giấy khai sinh của Tổng thống Obama. Ông ta dính dáng đến chính trị nhiều thập niên nay, nhưng không ai nghĩ rằng ông ta nghiêm túc. Ông ta làm tôi nghĩ đến mấy ông già suốt ngày lải nhải về việc tình hình đất nước đang cực kỳ tồi tệ cho đến khi có người chịu lắng nghe mình. Thật khó để ngó lơ Trump – giới truyền thông phủ ngập tin tức và hình ảnh ông ta, miễn phí. Tôi nghĩ phải có người cho ông ta biết ông ta vô lý và cố chấp như thế nào, và tôi đã làm vậy khá sớm và thường xuyên, kể từ khi ông ta gọi người nhập cư Mexico là những kẻ hiếp dâm, buôn ma túy trong ngày tuyên bố tranh cử. Nhưng mãi cho đến khi tôi chứng kiến ông ta nắm thế thượng phong một cuộc tranh luận với rất đông những ứng viên tài năng của đảng Cộng hòa – không bằng những ý tưởng hay ho hay những luận điểm mạnh mẽ mà bằng những trò công kích xấu xí – tôi mới nhận ra ông ta đang nghiêm túc. Giờ ông ta đứng đó, với bàn tay đặt lên Kinh Thánh, hứa hẹn sẽ giữ gìn, che chở và bảo vệ Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hóa ra, chính chúng tôi mới là trò đùa. Trời bắt đầu đổ mưa. Mọi người xung quanh chúng tôi lóng ngóng mặc những cái áo mưa nhựa mỏng dính được phát. Lúc ở trong cánh gà, tôi đã giục Bill mặc áo trench coat1. Hôm đó trời ấm áp một cách khác thường nên Bill không muốn mặc. Giờ anh đang mừng vì đã nghe tôi – chiến thắng nho nhỏ của tôi với cương vị một người vợ trong một ngày tồi tệ như hôm nay. Chiếc áo mưa nhựa lúc đó trông đã rất kỳ cục rồi, nhưng chúng hẳn đã còn tệ hơn nữa. Tôi nghe nói đợt áo mưa màu trắng đầu tiên phát ra, khi nhìn từ một góc nhất định, trông có vẻ như áo trùm đầu của băng KKK2, nên một người tinh ý trong ban tổ chức lễ nhậm chức đã nhanh chóng thay thế chúng. 1 Một loại áo khoác dài không thấm nước. 2 Đảng KKK hay đảng 3K (viết tắt của “Ku Klux Klan”): Tên của nhiều hội kín lớn ngày xưa và ngày nay ở Mỹ với chủ trương đề cao thuyết “Người da trắng thượng đẳng”, bài Do Thái, bài Công giáo, chống Cộng sản, chống đồng tính luyến ái, chống dân di cư và chủ nghĩa địa phương. Bài phát biểu của Tổng thống khá tăm tối và phản địa đàng. Nó như những tiếng gầm gừ của những băng dân tộc chủ nghĩa da trắng. Câu nói đáng nhớ nhất là về việc chấm dứt “tàn sát người Mỹ”, một cụm từ phù hợp trong những bộ phim kinh dị máu me hơn là để nói trong một buổi lễ nhậm chức. Trump đã vẽ ra hình ảnh một đất nước giận hờn, đổ vỡ mà tôi không còn nhận ra. Tôi biết chúng ta vẫn còn đó những thách thức thực sự. Tôi cũng đã nói đi nói lại những điều này trong suốt chặng đường dài vận động chiến dịch: bất bình đẳng về thu nhập, quyền lực ngày một tăng của các tập đoàn, những mối đe dọa triền miên của chủ nghĩa khủng bố, biến đổi khí hậu, chi phí chăm sóc sức khỏe không ngừng tăng, nhu cầu tạo ra việc làm nhiều hơn và tốt hơn khi phải đối mặt với tự động hóa đang tăng lên không ngừng. Tầng lớp trung lưu Mỹ đang gặp rắc rối lớn. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 – 2009 đã tước đi việc làm và tác động nhiều đến họ. Có vẻ như không ai chịu trách nhiệm cho những điều này. Toàn thể người Mỹ cảm thấy xa lạ, từ những cử tri da trắng bất an trước những thay đổi của xã hội, đến những đàn ông và phụ nữ da đen cảm thấy đất nước không trân trọng cuộc sống của họ, đến những người Mộng mơ1 và những công dân Hồi giáo yêu nước bị xem như những kẻ xâm nhập ngay trên đất nước của mình. 1 Dreamers: tên gọi được truyền thông đặt cho những di dân thuộc diện được bảo vệ trong chương trình Bảo hộ dân nhập cư trái phép khi còn nhỏ (Deferred Action for Childhood Arrivals – DACA) dưới thời Tổng thống Obama. Trump đã làm rất tốt khi xát muối vào vết thương của họ. Nhưng ông ta đã sai trong nhiều chuyện. Dưới thời Tổng thống Obama, đã có 75 tháng tăng trưởng việc làm và thu nhập của 80% nhóm dưới cùng cuối cùng cũng bắt đầu đi lên. Hai mươi triệu người được hưởng bảo hiểm sức khỏe nhờ Đạo luật Chăm sóc sức khỏe hợp túi tiền (Affordable Care Act – ACA), thành tựu lập pháp lớn lao nhất của chính quyền trước. Tội phạm vẫn ở mức thấp nhất lịch sử. Quân đội Mỹ vẫn còn là quân đội quyền lực nhất thế giới. Đó là những thực tế dễ thấy, dễ kiểm chứng. Tuy nhiên, trong suốt chiến dịch tranh cử của mình, Trump đứng trước toàn thế giới và nói những điều hoàn toàn ngược lại. Ông ta có vẻ không thấy hoặc không trân trọng bất cứ năng lượng hay sự lạc quan nào tôi đã thấy khi đi khắp mọi nơi trên thế giới. Lúc ấy, nghe Trump nói, tôi cảm thấy như thể không còn tồn tại cái gọi là sự thật nữa. Và bây giờ tôi vẫn cảm thấy như vậy. Người tiền nhiệm của tôi trong Thượng viện – Daniel Patrick Moynihan – từng nói: “Ai cũng có quyền nêu ý kiến nhưng không ai có quyền nói sai thực tế”. Chúng ta có thể bất đồng về các chính sách và các giá trị, nhưng cho rằng 2 + 2 = 5 và muốn hàng triệu người Mỹ phải nghe theo thì lại là chuyện khác. Khi người quyền lực nhất đất nước nói: “Đừng tin vào mắt bạn, đừng tin vào giới chuyên gia, đừng tin vào những con số, chỉ nên tin tôi”, thì điều này đã khoét nên một lỗ thủng lớn trong một xã hội dân chủ tự do như xã hội của chúng ta. Như Giáo sư Sử học Timothy Snyder của Đại học Yale viết trong cuốn On Tyranny: Twenty Lessons from the Twentieth Century (tạm dịch: Về sự chuyên chế: 20 bài học từ thế kỷ 20), “Rời bỏ thực tế là rời bỏ tự do. Nếu không có gì là thật thì không ai có thể phê phán quyền lực, vì không có cơ sở để phê phán. Nếu không có gì là thật thì mọi thứ chỉ để xem cho vui”. Cố gắng định nghĩa thực tế là đặc điểm cốt lõi của chủ nghĩa độc tài. Đó chính là điều chính quyền Xô Viết đã làm khi họ xóa đi những người bất đồng chính kiến trong những tấm ảnh lịch sử. Đó là điều xảy ra trong tiểu thuyết kinh điển 1984 của George Orwell khi một người tra tấn giơ ra bốn ngón tay và chích điện cho đến khi tù nhân thấy năm ngón như được lệnh. Mục đích là để làm bạn hoài nghi về logic và lý lẽ, để gieo rắc sự mất tin tưởng đối với những người chúng ta cần phải tin như: nhà lãnh đạo, báo chí, chuyên gia, những người đang định hướng chính sách công dựa vào chứng cứ, và bản thân chúng ta. Đối với Trump, tất cả những gì ông ta làm chỉ đơn giản là để nắm quyền. Xu hướng này không bắt đầu từ Trump. Năm 2007, Al Gore đã viết một cuốn sách với tựa đề The Assault on Reason (tạm dịch: Tấn công vào lý lẽ). Vào năm 2005, Stephen Colbert đã tạo ra từ “truthiness”, lấy cảm hứng từ cách hãng tin Fox News biến đời sống chính trị thành một lĩnh vực phi chứng cứ của những kích động thù địch. Và những chính trị gia đảng Cộng hòa mà Fox giúp nắm lấy quyền lực cũng đã hoàn thành phần việc của mình. Chiến thuật gia đảng Cộng hòa Karl Rove đã bác những người chỉ trích đang sống trong một “cộng đồng dựa vào thực tế” – những từ có ý miệt thị – cho rằng họ không hiểu được “giờ chúng ta là một đế chế, và khi chúng ta hành động, chúng ta tự tạo ra thực tế riêng cho mình”. Nhưng Trump đã đẩy cuộc chiến về sự thật lên một cấp độ mới. Nếu ngày mai ông ta cho rằng Trái đất phẳng, cố vấn của ông ta Kellyanne Conway hẳn sẽ xuất hiện trên Fox News và chống chế rằng đó là một “thực tế tương đương”, và nhiều người sẽ tin vào điều đó. Cứ nhìn vào những gì xảy ra vài tuần đầu tiên trên cương vị Tổng thống, Trump đã cáo buộc một cách sai trái rằng Tổng thống Obama nghe lén ông ta, một cáo buộc được vạch trần nhanh chóng. Tuy nhiên, một cuộc thăm dò sau đó cho thấy rằng 74% người theo đảng Cộng hòa nghĩ rằng việc này theo mức độ nào đó cũng có thể là sự thật. Trong bài phát biểu nhậm chức, Trump đã nhắm thẳng vào hàng triệu người Mỹ đang cảm thấy bất an và phẫn nộ, thậm chí là tuyệt vọng vì những thay đổi về kinh tế và xã hội. Đám đông đang tìm kiếm ai đó để đổ lỗi. Nhiều người thấy thế giới như một trò chơi tổng không đổi1, tin rằng những thành tựu gặt hái được của những người Mỹ mà họ coi là “kẻ khác” – người có màu da khác, người nhập cư, phụ nữ, người trong cộng đồng LGBT2, người theo đạo Hồi – không do họ tạo ra mà đến từ thiệt hại của kẻ khác. Nỗi đau kinh tế và sự đổ vỡ là có thật, cũng như nỗi đau về tinh thần, nó tạo thành một hiệu ứng độc hại, dễ kích động. 1 Zero-sum game: Trong lý thuyết trò chơi và lý thuyết kinh tế, trò chơi tổng không đổi là tình huống mà tổng các lợi ích và thiệt hại của tất cả người tham dự là một số không đổi. 2 LGBT: viết tắt của “Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender” – những người đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển giới. Tôi không phải là không thấy sức mạnh của cơn giận dữ này. Trong suốt chiến dịch, Bill và tôi đều đọc lại The True Believer (Tín đồ đích thực) với những khám phá năm 1951 của Eric Hoffer về tâm lý đứng sau chủ nghĩa thần tượng và những cuộc vận động quần chúng, và tôi chia sẻ quyển này với các cán bộ cấp cao của mình. Trong suốt chặng đường vận động chiến dịch, tôi đã nêu ra những ý mà tôi tin sẽ phân tích được nguyên nhân tiềm ẩn của sự bất mãn và giúp tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả người Mỹ. Nhưng tôi đã không thể và sẽ không cạnh tranh bằng cách chọc khoáy vào sự phẫn nộ và nỗi căm ghét của mọi người. Tôi nghĩ đó là một điều nguy hiểm. Việc ấy giúp những nhà lãnh đạo muốn lợi dụng sự phẫn nộ để làm tổn thương mọi người hơn là giúp đỡ họ. Ngoài ra, đó không phải là cách làm của tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao giờ đây Trump đang phát biểu để nhậm chức còn tôi thì ngồi giữa đám đông. Tôi sẽ nói gì khi tôi là người đang đứng trên kia? Cũng khá đáng sợ khi phải tìm ra lời lẽ phù hợp cho sự kiện này. Hẳn tôi sẽ phải viết đi viết lại hàng triệu bản viết nháp. Nhân viên soạn diễn văn tội nghiệp của tôi hẳn sẽ chạy trước tôi chỉ vài bước để đem thẻ nhớ có lưu bản nháp cuối cùng đến cho nhân viên trực máy chiếu. Nhưng tôi hẳn sẽ trân quý cơ hội được tiếp cận tất cả người Mỹ dù họ có bầu cho ai đi chăng nữa, và mở ra trước mắt họ viễn cảnh về một sự hòa hợp, về cơ hội và khối thịnh vượng chung cho toàn quốc gia. Đó hẳn là một vinh dự to lớn khi được là người phụ nữ đầu tiên đọc lời tuyên thệ. Tôi sẽ không giả vờ rằng mình không mơ về giây phút đó – cho tôi, cho mẹ tôi, cho con gái tôi, con gái nó và con gái của tất cả mọi người – và cho tất cả con trai của chúng ta. Thay vào đó, cả thế giới đang phải lắng nghe cơn thịnh nộ không chút giấu giếm của vị Tổng thống mới. Tôi nhớ nhà thơ quá cố Maya Angelou đã đọc một bài thơ của bà tại buổi lễ nhậm chức đầu tiên của Bill. “Đừng kết giao mãi với nỗi sợ, đừng gắn kết vô tận với bạo tàn”, bà thúc giục chúng tôi. Bà sẽ nói gì nếu nghe được bài phát biểu này? Rồi mọi thứ cũng xong, Trump trở thành Tổng thống của chúng tôi. “Đó là một thứ vớ vẩn dị hợm”, George W. với bản tính Texas thẳng như ruột ngựa đã nói vậy – theo những gì được tường thuật lại. Tôi không thể nào đồng tình hơn. Chúng tôi bước lên những bậc thềm để rời khán đài và trở lại bên trong Trụ sở Quốc hội, bắt tay người này người kia trên đường đi. Tôi thấy một người đứng khuất một bên và nghĩ đó là Reince Priebus, người đứng đầu Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa và sắp tới là Chánh văn phòng Nhà Trắng. Khi tôi bước tới, chúng tôi bắt tay nhau và có nói chuyện một chút. Sau này tôi nhận ra người đó không phải là Priebus mà là Jason Chaffetz, lúc đó là Dân biểu Utah. Ông ta muốn trở thành Javert1 thứ hai khi đã tạo ra không biết bao nhiêu thứ rác rưởi chính trị từ những email của tôi và bi kịch năm 2012 ở Benghazi, Libya. Sau đó, Chaffetz đã đăng bức ảnh chúng tôi bắt tay nhau với lời chú thích “Rất mừng khi bà ta không phải là Tổng thống. Tôi cảm ơn bà ta vì đã phụng sự đất nước và chúc bà may mắn. Cuộc điều tra vẫn tiếp diễn”. Thật là một hành động hay ho làm sao! Suýt chút nữa thì tôi đã tweet2 đáp trả, “Nói thật tôi đã tưởng anh là Reince”. 1 Nhân vật Thanh tra Javert trong tác phẩm Les Misérables (Những người khốn khổ) của Victor Hugo. 2 Hành động đăng trên mạng xã hội Twitter. Phần còn lại của ngày hôm đó dành cho việc chào hỏi bạn bè và tránh nhìn mặt những người đã nói những lời kinh khủng về tôi trong suốt chiến dịch. Tôi tình cờ gặp Thẩm phán Tòa án Tối cao Ruth Bader Ginsburg đang bước đi chậm nhưng rất vững vàng. Nếu tôi chiến thắng, hẳn bà sẽ tận hưởng những năm nghỉ hưu vui vẻ. Giờ tôi hy vọng bà vẫn giữ ghế cho đến khi tuổi tác còn cho phép. Trong bữa trưa ở Trụ sở Quốc hội, tôi ngồi tại bàn được chỉ định và nói chuyện với Nữ dân biểu Nancy Pelosi, lãnh đạo đảng Dân chủ trong Hạ viện, chính trị gia sắc sảo nhất và có ảnh hưởng nhất Washington. Chị xứng đáng được ngợi ca vì đã phụ trách bình bầu cho ACA 2010 trong những hoàn cảnh gần như không khả thi và dù đứng ở nhóm đa số hay thiểu số, chị đều đấu tranh vì điều đúng đắn. Nhiều năm nay, phe Cộng hòa đã coi chị là quỷ dữ vì họ biết một khi chị làm, chị sẽ làm đâu ra đó. Thượng nghị sĩ John McCain của bang Arizona đi đến và ôm lấy tôi. Anh có vẻ khủng hoảng tinh thần như tôi vậy. Cháu gái của một vị quan chức cấp cao trong chính quyền mới của Trump bước đến tự giới thiệu mình và thì thầm vào tai rôi rằng cháu đã bầu cho tôi, nhưng cháu đã giữ bí mật về chuyện đó. Dân biểu Ryan Zinke, người sắp trở thành Bộ trưởng Nội vụ của Trump dẫn vợ đến để chào tôi. Tôi khá ngạc nhiên, vì trong năm 2014 cậu ta đã gọi tôi là “Kẻ phản Chúa”. Có thể cậu ta đã quên, bởi vì cậu ta đến mà không mang theo tỏi hay cọc gỗ hay bất cứ thứ gì để xua đuổi Kẻ phản Chúa. Nhưng tôi thì chưa quên. “Cậu biết không, Dân biểu”, tôi nói, “sự thật là tôi không phải là Kẻ phản Chúa”. Cậu ta khá kinh ngạc và lắp bắp điều gì đó rằng mình không hề có ý đó. Một điều tôi học được trong những năm qua là người ta rất dễ dàng nói những lời kinh khủng về tôi khi tôi không có ở đó, nhưng họ không thể nhìn vào mắt tôi và nói thẳng vào mặt tôi. Tôi nói chuyện với Tiffany Trump về dự định học trường luật của cô bé. Tôi đùa với Thượng nghị sĩ Cộng hòa John Cornyn về việc tôi có kết quả xuất sắc hơn mong đợi ở bang Texas của anh. Trong bài phát biểu của Tổng thống vào bữa trưa, khi ông ta không còn trong tầm mắt của những người ủng hộ giận dữ, Trump đã cảm ơn Bill và tôi vì đã đến tham dự. Rồi, cuối cùng, chúng tôi cũng được về nhà. Tôi không biết gì mấy về chuyện chính quyền mới đã nổ ra những tranh cãi đầu tiên xung quanh quy mô đám đông tham dự lễ nhậm chức. Như lẽ thường, Cục Công viên Quốc gia Mỹ đã nhanh chóng công bố những bức ảnh chụp ngày trọng đại này. Lần này vị Tổng thống mới không vui vẻ gì khi thấy trong ảnh chỉ có một đám đông nhỏ tham dự lễ nhậm chức và ra lệnh Cục phải bịa ra rằng đám đông “vô cùng lớn”. Điều này hoàn toàn đi ngược với những gì chúng ta có thể tận mắt chứng kiến. Tôi cũng thấy những gì Trump thấy khi đứng trên bục cao đó. Không như ông ta, tôi có thể so sánh nó với những gì tôi thấy trong những buổi lễ nhậm chức kể từ năm 1993. Tôi hiểu vì sao ông ta trở nên phòng thủ như vậy. Thật sự đã có một sự khác biệt. Chuyện này khá ngớ ngẩn nhưng cũng là một lời cảnh báo sớm: chúng ta đang ở trong một “thế giới mới tươi đẹp”1. 1 Brave New World: ám chỉ một xã hội tăm tối, phản địa đàng (dystopia) như trong tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của Aldous Huxley. Nếu buổi lễ nhậm chức hôm thứ Sáu là sự kiện tồi tệ nhất từ trước đến nay, thì ngày thứ Bảy hóa ra lại là ngày tốt đẹp nhất. Tôi quyết định ở nhà mình ở Chappaqua, New York thay vì tham dự Tuần hành phụ nữ1 để phản đối vị Tổng thống mới. Đó là một quyết định khó khăn. Tôi rất muốn tham gia vào đám đông và hò hét cật lực. Nhưng tôi nghĩ nên để những tiếng nói mới chiếm lĩnh khán đài, đặc biệt là trong ngày hôm nay. Có rất nhiều nữ lãnh đạo trẻ trung và phấn khởi sẵn sàng đóng những vai trò lớn hơn trong chính trị. Điều cuối cùng tôi muốn là trở thành một yếu tố gây phân tâm, chia tách chú ý khỏi năng lượng tràn trề và đích thực của người dân. Nếu tôi ra mặt, khó tránh khỏi việc sự kiện sẽ bị chính trị hóa. 1 Tuần hành phụ nữ (Women’s March): Cuộc biểu tình chính trị diễn ra tại nhiều thành phố khắp thế giới vào ngày 21 tháng 1 năm 2017 (một ngày ngay sau khi Tổng thống Donald Trump tuyên thệ nhậm chức), nhằm ủng hộ quyền phụ nữ, cải cách nhập cư, quyền của cộng đồng LGBT, bình đẳng chủng tộc, tự do tôn giáo và quyền của người lao động. Vì thế tôi ngồi trong ghế bành nhà mình và vui vẻ đọc tin tức về những đám đông khổng lồ ở hàng chục thành phố khắp nước Mỹ và thế giới. Bạn bè gửi cho tôi những báo cáo đầy hứng khởi về những toa tàu điện ngầm và phố xá chật ních người với nam nữ đủ mọi lứa tuổi. Tôi lướt qua Twitter và gửi đi những lời cảm ơn và cảm xúc phấn chấn của mình. Tuần hành phụ nữ là cuộc biểu tình riêng lẻ lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Hàng trăm ngàn người đã tụ tập tại những thành phố như New York, Los Angeles, và Chicago. Hàng ngàn người còn đổ ra đường ở những bang như Wyoming và Alaska. Ở Washington, cuộc biểu tình làm đám đông tham dự lễ nhậm chức của Trump ngày hôm trước nhỏ bé và ít ỏi hơn. Và mọi chuyện diễn ra hoàn toàn hòa bình. Có lẽ đó là điều sẽ xảy ra khi bạn cho phụ nữ nắm quyền lãnh đạo. Cuộc biểu tình này hoàn toàn khác với cuộc biểu tình đầu tiên của phụ nữ ở Washington, một ngày trước khi Woodrow Wilson nhậm chức vào năm 1913. Hàng ngàn phụ nữ đã diễu hành trên Đại lộ Pennsylvania đòi quyền được bầu cử, gồm có Alice Paul, Helen Keller và Nellie Bly. Đàn ông đứng hai bên đường, nhìn chòng chọc, chế giễu và cuối cùng trở thành một đám đông giận dữ. Cảnh sát chẳng giúp được gì. Hàng chục người biểu tình bị thương. Cuộc bạo loạn đã thu hút sự chú ý của quốc gia đến việc phụ nữ đòi quyền bầu cử. Trưởng lực lượng cảnh sát bị sa thải. Quốc hội tổ chức những phiên điều trần. Và bảy năm sau, Bản sửa đổi thứ mười chín của Hiến pháp được thông qua, trao cho phụ nữ quyền được bầu cử. Gần một thế kỷ sau, chúng ta đã tiến bộ hơn nhiều, nhưng vị Tổng thống mới của chúng ta là một sự nhắc nhở đau lòng rằng chúng ta vẫn còn một chặng đường rất dài nữa để đi. Đó là lý do vì sao hàng triệu phụ nữ (và nhiều người đàn ông ủng hộ) đã đổ xuống đường. Tôi thừa nhận rằng ngày hôm đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Nhiều năm qua, trên khắp thế giới, tôi đã thấy phụ nữ tạo ra những phong trào từ dân, lấy quyền lực cho mình và cộng đồng của mình, buộc những đội quân chiến tranh phải đến bàn đàm phán hòa bình, viết lại số phận của quốc gia. Giờ đây, liệu chúng ta có đang thấy sự chuyển mình của điều gì đó tương tự ngay trên đường phố của đất nước ta hay không? Đó là một điều truyền cảm hứng, như tôi đã nói trên Twitter vào cuối ngày hôm đó. Nhưng tôi không thể không tự hỏi tinh thần đoàn kết, sự phẫn nộ, và lòng nhiệt huyết này đã ở đâu trong suốt kỳ bầu cử. Từ tháng 11, hơn năm mươi phụ nữ – đủ mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu trong độ tuổi hai mươi – đã tiếp cận tôi trong nhà hàng, nhà hát, cửa hiệu để xin lỗi vì đã không bầu cho tôi hoặc không làm nhiều hơn để giúp chiến dịch của tôi. Tôi đã đáp lại bằng những nụ cười gắng gượng và những cái gật đầu cứng nhắc. Có lần, một người phụ nữ lớn tuổi lôi tay đứa con gái trưởng thành của mình đến nói chuyện với tôi và bắt cô ấy xin lỗi vì đã không đi bầu – cô ta làm theo lời mẹ mình, đầu cúi xuống đầy hối lỗi. Tôi muốn nhìn thẳng vào mắt cô gái ấy và hỏi, “Cháu không bầu sao? Vì sao cháu lại không bầu? Cháu đã trốn tránh trách nhiệm công dân vào lúc đất nước cần nhất! Và bây giờ cháu muốn tôi làm cháu thấy đỡ có lỗi hơn?” Tất nhiên, tôi đã không nói như thế. Những người này đang kiếm tìm sự tha thứ mà tôi không thể cho họ. Tất cả chúng ta đều phải sống với hậu quả từ những quyết định của mình. Kể từ ngày bầu cử, nhiều lúc tôi không muốn tha thứ bất kỳ ai, ngay cả bản thân mình. Tôi đã – và vẫn đang – rất lo lắng về đất nước của chúng ta. Có điều gì đó không đúng. Làm sao mà sáu mươi hai triệu người lại bầu cho một người họ nghe từ băng ghi âm đang khoe khoang về những vụ quấy rối tình dục lặp đi lặp lại? Sao ông ta có thể tấn công phụ nữ, người nhập cư, người theo đạo Hồi, người Mỹ gốc Mexico, tù nhân chiến tranh, và người khuyết tật – và là dân kinh doanh, ông ta bị cáo buộc lừa đảo vô số doanh nghiệp nhỏ, nhà thầu, sinh viên và người cao tuổi – mà vẫn được bầu cho vị trí quan trọng và quyền lực nhất thế giới? Làm sao chúng ta với tư cách một quốc gia lại cho phép hàng ngàn người Mỹ bị tước quyền bầu cử vì luật đàn áp cử tri? Vì sao giới truyền thông lại quyết định phơi ra các tranh luận xoay quanh những email của tôi, xem như đó là câu chuyện chính trị quan trọng nhất kể từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai? Làm sao tôi lại để điều đó xảy ra? Làm sao chúng ta lại để điều đó xảy ra? Dù vậy, khi chứng kiến cuộc Tuần hành phụ nữ, tôi không thể không thấy vui sướng và cảm thấy như thể sức sống không lẫn vào đâu được của nền dân chủ Mỹ đang quay trở lại ngay trước mắt chúng ta. Trang Twitter của tôi tràn ngập hình ảnh về những người tham gia biểu tình đang cầm những tấm bảng hài hước, cảm động và đáng kinh ngạc. “Tệ Thật. Ngay Cả Những Người Sống Nội Tâm Cũng Ở Đây”. “Chín Mươi, Già Gân, và Không Lùi Bước!” “Khoa Học Không Phải Là Âm Mưu Tự Do”. Một cậu bé dễ thương đã đeo thông điệp này quanh cổ: “Con ♥ Ngủ Trưa Nhưng Con Vẫn Còn Thức Đây”. Tôi còn thấy những cô gái trẻ giơ cao các câu trích dẫn từ những bài diễn văn của tôi nhiều năm qua: “Quyền Phụ Nữ Là Quyền Con Người”, “Tôi Mạnh Mẽ Và Có Giá Trị”. Trong những ngày cuối tuần khó khăn ấy, những lời này đã vực dậy tinh thần tôi. Những người dân tuần hành trên phố lúc đó đang gửi cho tôi và tất cả chúng ta một thông điệp: “Đừng từ bỏ. Đất nước này xứng đáng để đấu tranh vì nó”. Lần đầu tiên kể từ ngày bầu cử, tôi cảm thấy tràn trề hy vọng. Hãy cứ bước tiếp Không có cảm xúc nào là cuối cùng. —Rainer Maria Rilke Can đảm và biết ơn V ào ngày 9 tháng 11, ở thành phố New York, trời lạnh và mưa nhiều. Những đám đông trên vệ đường quay lại nhìn xe tôi khi chúng tôi chạy qua. Vài người đang khóc. Vài người giơ tay hoặc nắm tay lên thể hiện sự đoàn kết. Mấy đứa nhỏ được ba mẹ cõng trên vai. Lần này, nhìn họ làm tim tôi hụt hẫng thay vì hân hoan. Đội của tôi đang nháo nhào đi tìm hội trường để tôi đọc bài diễn văn thua cuộc. Hội trường Trung tâm Hội nghị Jacob K. Javits, nơi chúng tôi đã hy vọng sẽ tổ chức tiệc ăn mừng chiến thắng, không còn được chọn. Ba giờ ba mươi phút sáng, sau khi lùng sục một vài địa điểm, đội tiền trạm của tôi bước vào sảnh khách sạn New Yorker ở Midtown Manhattan, cách không xa nơi tôi và gia đình đang ở. Họ yêu cầu nhân viên khách sạn gọi điện và đánh thức người quản lý lúc đó còn đang ở nhà. Bốn giờ ba mươi phút sáng, họ chuẩn bị sử dụng một phòng khiêu vũ của khách sạn cho sự kiện không ai hy vọng sẽ xảy ra này. Sau này, tôi biết được rằng New Yorker cũng là nơi Muhammad Ali dưỡng thương sau trận thua cay đắng trong mười lăm vòng đấu tranh ngôi vô địch hạng nặng trước đối thủ Joe Frazier năm 1971. “Tôi không bao giờ muốn thua, chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ thua, nhưng điều quan trọng là bạn thua như thế nào”, Ali đã phát biểu vào ngày hôm sau. “Tôi không khóc. Bạn bè tôi không nên khóc”. Nếu chúng tôi viết điều này trong một bộ phim, sẽ chẳng ai tin được. Sáng đó, Bill và tôi đều mặc trang phục màu tím. Màu này cũng hợp với cả hai đảng (xanh dương pha đỏ sẽ là tím). Đêm trước, tôi đã hy vọng sẽ cảm ơn đất nước trong sắc phục trắng – màu của những người phụ nữ đòi quyền bầu cử – trong khi đứng trên sân khấu được trang trí theo hình của nước Mỹ bên dưới trần kính rộng lớn. (Chúng tôi thật sự đã lên kế hoạch từ đầu đến cuối cho các biểu tượng). Thay vào đó, bộ đồ màu trắng nằm trong túi đồ. Bộ màu xám và tím tôi dự định sẽ mặc trong chuyến đi đầu tiên đến Washington khi trở thành Tổng thống đắc cử được lôi ra. Sau bài phát biểu, tôi ôm thật nhiều người có mặt trong phòng. Rất nhiều bạn bè cũ và những nhân viên chiến dịch tận tụy có mặt ở đó, nhiều gương mặt đẫm nước mắt. Mắt tôi ráo hoảnh, tôi cảm thấy bình tĩnh và thông suốt. Việc của tôi là chịu đựng qua hết sáng nay, mỉm cười, tỏ ra mạnh mẽ vì tất cả mọi người và cho nước Mỹ thấy rằng cuộc sống vẫn tiếp diễn và nền Cộng hòa của chúng ta sẽ vẫn trường tồn. Cuộc đời một người của công chúng đã tập luyện cho tôi rất nhiều trước việc này. Dù tốt dù xấu, tôi vẫn hết sức bình tĩnh. Theo cách nào đó, có vẻ như tôi đã được huấn luyện hàng chục năm nay để có được khả năng kiểm soát bản thân như lần này. Dù vậy mỗi lần tôi ôm một người bạn đang khóc thút thít – hoặc một người đang cố gắng kìm nén giọt nước mắt sắp trào ra, thật ra điều này còn tồi tệ hơn – tôi phải cố gắng kháng cự nỗi buồn rũ rượi đang chực nuốt chửng lấy mình. Với mỗi bước đi, tôi cảm thấy mình đã làm mọi người thất vọng. Vì thực sự tôi đã làm vậy. Bill, Chelsea và chồng nó – Marc – từ đầu đến giờ đều ở bên cạnh tôi. Tim Kaine và vợ anh – Anne Holton – cũng thế, họ đã vô cùng tử tế và mạnh mẽ trong những tình huống tréo ngoe. Tôi chọn Tim làm ứng cử viên sáng giá cho vị trí Phó Tổng thống trong số rất nhiều ứng viên xuất sắc, vì anh có kinh nghiệm điều hành, một bản thành tích sáng chói khi còn là Thị trưởng, Thống đốc, và Thượng nghị sĩ, một danh tiếng xứng đáng vì cách sống đường hoàng và có những phán đoán chuẩn xác, và anh còn thông thạo tiếng Tây Ban Nha từ thời đi truyền giáo. Anh hẳn là một người bạn đồng hành đắc lực và một người nói lên sự thật nếu là Phó Tổng thống của tôi. Thêm nữa, tôi cũng rất quý mến anh. Sau khi trao nhau những cái ôm, những nụ cười kéo dài và gắng gượng đến nỗi mặt tôi bị đau, tôi bảo những nhân viên kỳ cựu của mình quay trở lại tổng hành dinh ở Brooklyn để đảm bảo rằng mọi người đều không sao. Cái vẫy tay cuối cùng trước đám đông, lời cảm ơn cuối cùng đến Tim và Anne, cái ôm hôn vội vã dành cho Chelsea và Marc – cả hai đều hiểu mọi cảm xúc của tôi dù tôi không nói một lời nào – rồi Bill và tôi ngồi vào băng sau xe của Sở Mật vụ và rời khỏi đó. Cuối cùng thì tôi cũng không còn phải gượng cười nữa. Chúng tôi gần như lặng thinh. Cứ vài phút, Bill lại lặp lại những từ anh đã nói suốt cả buổi sáng: “Anh rất tự hào về em”. Giờ thì anh nói thêm, “Đó là một bài phát biểu tuyệt vời. Lịch sử sẽ ghi nhớ nó”. Tôi yêu anh vì đã nói điều này, nhưng tôi không có gì để đáp lại. Tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt quệ. Và tôi biết rằng mọi việc sẽ tồi tệ hơn trước khi chúng bắt đầu tốt đẹp trở lại. Phải mất khoảng một tiếng đồng hồ chạy xe từ Manhattan chúng tôi mới về tới nhà mình ở Chappaqua. Chúng tôi sống ở cuối một con đường yên ắng nhiều cây cối. Tất cả những căng thẳng thường biến mất ngay khi tôi rẽ vào con phố cụt. Tôi rất yêu ngôi nhà của mình và rất vui khi được về nhà. Đó là một nơi ấm cúng, nhiều màu sắc, nhiều tác phẩm nghệ thuật, và mọi bức tường đều phủ đầy ảnh của những người tôi yêu thương nhất trên đời. Ngày hôm đó, khi thấy cổng nhà hiện ra, tôi đã cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm. Những gì tôi muốn làm lúc đó là bước vào trong, thay một bộ quần áo thoải mái, và có lẽ là không bao giờ trả lời một cú điện thoại nào nữa. Thú thật là tôi không nhớ gì nhiều về phần còn lại của ngày hôm đó. Tôi thay quần yoga và áo khoác mềm gần như ngay lập tức. Hai chú chó dễ thương của chúng tôi chạy theo tôi hết phòng nọ đến phòng kia, và có lúc tôi dẫn chúng ra ngoài để chỉ hít thở không khí mưa giá lạnh. Chốc chốc, tôi lại mở tin tức lên nhưng rồi tắt ngay lập tức. Câu hỏi cứ thấp thỏm trong đầu tôi là, “Làm sao mà chuyện này lại xảy ra cơ chứ?” May mắn là tôi vẫn còn đủ minh mẫn để nhận ra rằng việc mổ xẻ chiến dịch ngay lúc đó là chuyện không nên làm. Thất bại là một việc khó khăn cho bất kỳ ai, nhưng thất bại trong một cuộc chạy đua bạn nghĩ bạn sẽ thắng thì thật là khủng khiếp. Tôi còn nhớ khi Bill không được tái bầu là Thống đốc bang Arkansas năm 1980. Kết quả khiến anh khủng hoảng đến nỗi tôi phải đến khách sạn nơi tổ chức tiệc bầu cử để thay anh nói chuyện với những người ủng hộ anh. Sau đó một thời gian rất lâu, anh vẫn trầm uất đến mức không thể ra khỏi nhà. Đó không phải là tôi. Tôi sẽ bước tiếp. Tôi cũng sẽ ngẫm nghĩ, suy tư về nó. Tôi cứ xem đi xem lại những đoạn băng – tìm ra từng lỗi sai – đặc biệt là những lỗi của tôi. Khi tôi cảm thấy mình sai, tôi nổi điên lên, và rồi tôi tìm cách kháng cự lại. Vào cái ngày đầu tiên đó, tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi và trống rỗng. Việc suy xét cứ để sau. Rồi chúng tôi ăn tối. Chúng tôi nói chuyện FaceTime1 với cháu ngoại – Charlotte hai tuổi và em trai nó, Aidan, vừa mới sinh hồi tháng 6 năm 2016. Tôi an tâm khi thấy mẹ chúng. Tôi biết Chelsea đang rất đau lòng vì tôi, và điều này làm tôi đau khổ, nhưng những đứa bé này là những liều thuốc làm phấn chấn tinh thần ngay tức thì cho tất cả chúng tôi. Chúng tôi lặng lẽ tận hưởng những liều thuốc này ngày hôm đó và mỗi ngày sau đó. 1 Ứng dụng gọi điện audio hoặc gọi điện video được cài sẵn trên các thiết bị dùng hệ điều hành iOS (iPhone, iPad…). Có lẽ điều quan trọng hơn hết thảy là sau đêm hôm trước chẳng chợp mắt được bao nhiêu, tôi leo lên gường vào giữa trưa và ngủ một giấc dài và ngon lành. Tôi còn đi ngủ sớm vào tối hôm đó và ngủ đến tận sáng hôm sau. Cuối cùng thì tôi cũng làm được điều này. Tôi tránh xa điện thoại và email vào ngày đầu tiên đó. Tôi đoán rằng mình sẽ nhận được một cơn bão lũ tin nhắn (và đúng như vậy), mà tôi chưa thể giải quyết được – chưa thể đáp lại hết lòng tốt và nỗi buồn của mọi người, sự hoang mang và những giả thuyết cho việc chúng tôi đã mắc sai lầm ở đâu và vì sao. Rồi tôi sẽ giải quyết hết. Nhưng giờ thì Bill và tôi lánh xa cả thế giới. Tôi biết ơn lần thứ một tỷ rằng tôi có một người chồng ở bên cạnh mình không chỉ trong lúc vui mà còn trong những lúc buồn. Tôi không nghĩ rằng những người đang đọc quyển sách này từng thua trong một cuộc bầu cử Tổng thống. Nhưng tất cả chúng ta đều đối mặt với thất bại trong cuộc sống. Tất cả chúng ta đều đối mặt với những sự thất vọng khủng khiếp. Sau đây là những gì giúp tôi vượt qua cuộc khủng hoảng tệ nhất trong cuộc đời mình. Có lẽ chúng sẽ giúp ích bạn nữa. Sau ngày đầu tiên ẩn dật, tôi bắt đầu tìm đến mọi người. Tôi trả lời hàng tấn email; tôi nghe và trả lời các cuộc điện thoại. Rất khó khăn. Cũng hợp lý khi mọi người tự cô lập mình lúc đang gặp chuyện. Sẽ rất đau lòng khi nói về chuyện đó; đau lòng khi nghe thấy sự lo lắng trong giọng nói của bạn bè. Ngoài ra, trong trường hợp của tôi, tất cả chúng ta đều đang gặp chuyện. Mọi người đang rất buồn – vì tôi, vì chính họ, vì nước Mỹ. Rồi trong nhiều trường hợp, tôi hóa ra lại trở thành người an ủi thay vì được vỗ về. Dù vậy, thật tốt khi kết nối với mọi người. Tôi biết sự cô lập không tốt lành gì và giờ tôi cần bạn bè mình hơn bao giờ hết. Tôi biết rằng tránh né nói chuyện với mọi người sẽ chỉ làm cho việc này trở nên khó khăn hơn sau này. Và tôi rất rất muốn cảm ơn mọi người đã giúp tôi trong suốt chiến dịch và muốn đảm bảo rằng họ trụ vững trong hoàn cảnh này. Tôi cảm thấy được an ủi và giúp đỡ nhiều nhất là khi ai đó nói, “Điều này làm tôi càng muốn đấu tranh”. “Tôi sẽ tăng khoản tài trợ của mình”. “Tôi đã bắt đầu tham gia tình nguyện rồi”. “Tôi sẽ đăng bài nhiều hơn trên Facebook; tôi sẽ không im lặng nữa”. Và điều tốt đẹp hơn cả là “Tôi đang nghĩ đến chuyện tham gia tranh cử”. Một phụ nữ trẻ tên Hannah, thành viên ban tổ chức chiến dịch của tôi ở Wisconsin, gửi cho tôi những dòng này một vài ngày sau thất bại của tôi: Hai ngày vừa qua vô cùng khó khăn. Nhưng khi em nghĩ đến những gì mình đã cảm thấy vào buổi sáng thứ Ba đó, khi em đã khóc cả tiếng đồng hồ vì em nghĩ chúng ta sắp có nữ Tổng thống đầu tiên, em biết chúng ta không thể bỏ cuộc. Dù cho những ngày qua em đã khóc vì điều khác, khí phách và sự duyên dáng của chị đã truyền cảm hứng cho em phải mạnh mẽ lên. Em biết rằng dù tất cả chúng ta đã bị đánh gục, nhưng chúng ta sẽ đứng lên. Vài năm tới đây, chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn cùng nhau và sẽ tiếp tục đấu tranh cho điều đúng đắn. Từ một phụ nữ ghê tởm này gửi đến một phụ nữ ghê tởm1 khác, em cảm ơn chị. 1 Nasty woman: cụm từ mà Trump đã gọi Hillary Clinton trong cuộc tranh luận Tổng thống. Vì tôi rất lo rằng thất bại của tôi sẽ làm nhụt chí thế hệ trẻ đã góp sức trong chiến dịch của mình, nên biết rằng thất bại của tôi không làm họ thoái chí là một sự nhẹ nhõm to lớn. Điều này còn làm tôi thức tỉnh. Nếu họ có thể tiếp tục bước tới thì tôi cũng vậy. Và có lẽ nếu tôi cho thấy rằng tôi không bỏ cuộc, những người khác sẽ lạc quan hơn và tiếp tục đấu tranh. Điều đặc biệt quan trọng nữa là tôi muốn tất cả mọi người đã làm việc trong chiến dịch của tôi đều hiểu rằng tôi tự hào và biết ơn tất cả họ. Họ đã hy sinh nhiều thứ trong suốt hai năm qua, nhiều người còn trì hoãn những dự định cá nhân để đi khắp mọi nơi trên đất nước và làm việc nhiều giờ liền với những đồng tiền không tương xứng. Họ chưa bao giờ ngừng tin tưởng vào tôi, tin tưởng vào nhau và vào tương lai đất nước. Giờ thì nhiều người trong số họ không biết kỳ lương tiếp theo sẽ đến từ đâu. Tôi làm liền hai điều này ngay lập tức. Đầu tiên, tôi quyết định viết và ký thư gửi đến 4.400 thành viên trong số các nhân viên hỗ trợ chiến dịch. May mắn thay, Rob Russo, người phụ trách thư từ của tôi nhiều năm nay, đồng ý hỗ trợ toàn bộ dự án. Tôi còn đảm bảo rằng tất cả chúng tôi có thể trả lương cho từng người đến ngày 22 tháng 11 và trả bảo hiểm sức khỏe đến cuối năm. Vào thứ Sáu sau cuộc bầu cử, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc ở một khách sạn trong khu Brooklyn gần tổng hành dinh. Trong tình hình đó, buổi tiệc tuyệt vời hơn mong đợi. Ban nhạc tuyệt vời – một số nghệ sĩ từng chơi trong đám cưới của Chelsea và Marc năm 2010 – và sàn nhảy đông nghẹt. Tôi cảm thấy gần như là một Lễ tiệc Ireland1: tiệc tùng trong đau khổ. Hãy để người ta không bao giờ nói đội ngũ “Hillary vì nước Mỹ” không gắn bó với nhau khi cần. Để thêm vui, ở đó còn được trang bị một quầy bar phục vụ miễn phí. 1 Tổ chức tiệc tùng sau cái chết của một thành viên gia đình hay bạn bè, mọi người thường tụ lại, uống say xỉn và kể chuyện về người đã khuất. Sau khi ai cũng vui chơi thỏa thuê, tôi cầm micrô và cảm ơn mọi người. Mọi người cùng đồng thanh đáp lại “Cảm ơn!”. Thật sự tôi không thể nào đòi hỏi một đội ngũ tốt hơn hay siêng năng hơn được nữa. Tôi nói cho họ biết điều quan trọng là họ không để thất bại này làm họ nản chí trong việc phục vụ cộng đồng hay ngăn cản họ tham gia vận động cho những chiến dịch trong tương lai với tất cả tấm lòng và công sức như trong chiến dịch của tôi. Tôi kể cho họ nghe về những chiến dịch thất bại tôi đã tham gia vận động những năm tôi hai mươi tuổi, bao gồm cả chiến dịch của Gene McCarthy trong cuộc bỏ phiếu sơ bộ1 của đảng Dân chủ năm 1968 và George McGovern năm 1972, và mỗi thất bại mà đảng Dân chủ phải gánh chịu cho đến khi mọi chuyện thay đổi vào năm 1992. Chúng tôi đã kiên cường đến giờ phút cuối cùng và lúc này tôi đang trông mong họ cũng sẽ kiên cường như vậy. 1 Trước khi chính thức tranh cử Tổng thống, mỗi đảng tiến hành bầu cử sơ bộ – chọn ứng viên trong nội bộ đảng để trở thành đại diện duy nhất của đảng chạy đua vào Nhà Trắng. Mỗi bang sẽ chọn một trong hai hình thức: bỏ phiếu phổ thông (primary) hoặc bỏ phiếu kín (caucus). Bỏ phiếu phổ thông là hình thức bỏ phiếu như thông thường – cử tri của bang sẽ đến một địa điểm được chỉ định trong một ngày được chỉ định để thực hiện bỏ phiếu. Trong khi đó, bỏ phiếu kín là bầu cử trong nội bộ mỗi đảng, do đảng tổ chức và chính quyền địa phương đóng vai trò giám sát. Tôi còn nói tôi có mang một món quà nhỏ cho họ. Một nhóm phụ nữ nhiệt huyết gọi là UltraViolet đã gửi đến nhà tôi 1.200 bông hồng đỏ sáng sớm hôm đó, và tôi đã nhờ người gói hoa lại và mang đến bữa tiệc. Chúng đang nằm từng đống gần lối ra. “Lát nữa khi ra về, mỗi người hãy lấy một vài bông”, tôi nói với mọi người. “Hãy nghĩ về niềm hy vọng mà những bông hoa này tượng trưng, cũng như tình yêu và sự cảm kích mà rất nhiều người khắp cả nước đang dành cho tất cả các bạn”. Đội của tôi đã dành cả ngày thứ Tư và thứ Năm gói gém đồ đạc trong văn phòng chiến dịch ở Brooklyn, nạp năng lượng bằng pizza do những người tốt khắp cả nước gửi cho chúng tôi. Những người ở cùng tòa nhà đã dán những tấm bảng “Cảm Ơn Các Bạn Vì Những Gì Các Bạn Đã Làm” ở thang máy. Khi các nhân viên khiêng những cái thùng cuối cùng ra khỏi tổng hành dinh, họ được một nhóm trẻ con và ba mẹ chúng chào đón. Đám trẻ con đã dùng phấn viết đầy trên vỉa hè những thông điệp như “Sức Mạnh Phụ Nữ!” “Mạnh Mẽ Cùng Nhau!” “Yêu Những Gì Trumps Ghét!” “Đừng Bỏ Cuộc!” Khi những thành viên cuối cùng của đội cùng ra xếp hàng lần cuối, những đứa trẻ đến tặng hoa cho họ – nghĩa cử cuối cùng của khu phố đã đối xử tốt với chúng tôi hết lần này đến lần khác. Vài tuần tiếp theo, tôi vứt bỏ mọi sự phấn khởi giả vờ. Tôi rất buồn và lo lắng cho đất nước. Tôi biết hành động phù hợp và đáng tôn trọng để làm là im lặng và chấp nhận mọi việc, nhưng trong lòng tôi đang dâng trào nhiều cảm xúc. Bình luận viên Peter Daou từng vận động trong chiến dịch năm 2008 của tôi đã nói đúng tâm tư tôi khi tweet rằng “Nếu Trump thắng với 3 triệu phiếu, thua Cử tri đoàn 80K, và Nga đã hack RNC1, phe Cộng hòa hẳn đã đóng cửa luôn nước Mỹ”. Tuy nhiên, tôi không thể hiện cảm xúc của mình một cách công khai. Tôi âm thầm tiết lộ chúng ra. Khi tôi biết rằng Donald Trump đã dàn xếp vụ kiện Đại học Trump của ông ta bằng 25 triệu đô la, tôi đã hét lớn vào màn hình TV. Khi tôi đọc tin ông ta bổ nhiệm những chuyên gia ngân hàng ở Phố Wall vào đội của mình sau khi liên tiếp buộc tội tôi là con rối của họ, suýt chút nữa tôi đã ném cái điều khiển vào tường. Khi tôi nghe thông tin ông ta bổ nhiệm Steve Bannon, người truyền bá đứng đầu tổ chức Alt- Right2 mà nhiều người đã mô tả là gồm cả người theo chủ nghĩa Dân tộc da trắng, trở thành người phụ trách chính về chiến lược trong Nhà Trắng, thì tôi cảm thấy rằng đó là vực thẳm sâu nhất trong chuỗi dài những vực thẳm. 1 Bộ điều khiển thông tin thế hệ 3. 2 Alt-right: một nhóm tổ chức lỏng lẻo của những người có tư tưởng cực hữu, chối bỏ dòng chính của chủ nghĩa Bảo thủ tại Mỹ. Họ lấy chủ nghĩa Dân tộc da trắng làm cơ bản, bài Hồi giáo, chống chủ nghĩa Nữ quyền, chống người đồng tính… họ ủng hộ Donald Trump và đảng Cộng hòa. Nhà Trắng là một nơi thiêng liêng. Franklin D. Roosevelt đã treo một tấm thẻ trên lò sưởi trong Phòng ăn Quốc gia có khắc một dòng từ lá thư mà John Adams đã gửi cho vợ trong đêm thứ hai sống trong Nhà Trắng mới xây: “Nguyện xin Chúa ban những phước lành tốt đẹp nhất cho ngôi nhà này và tất cả những người sẽ sống ở đây từ nay về sau. Xin chỉ cho những người đàn ông chân thật và thông tuệ lãnh đạo bên dưới mái nhà này”. Tôi hy vọng Adams sẽ bằng lòng với một người phụ nữ thông tuệ. Tôi không tưởng tượng được ông sẽ nói điều gì nếu ông có thể thấy ai đang đi lại trong những sảnh phòng đó. Những lá thư bắt đầu lũ lượt tràn về từ khắp mọi miền đất nước, nhiều lá thư cảm động đến nỗi sau khi đọc một số, tôi đã bỏ chúng sang một bên và đi tản bộ. Một sinh viên năm ba từ Massachusets tên Rauvin viết về cách cháu và bạn bè nữ của cháu sẽ nhìn lại thời gian này: Vào ngày 8 tháng 11 năm 2016, tụi cháu đã cảm thấy thật khủng khiếp, hoàn toàn bất lực và thất vọng như chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Nên tụi cháu đã khóc. Và rồi tụi cháu sánh vai nhau, cùng kéo nhau đứng dậy, và tiếp tục việc học hành. Tụi cháu cứ bước lên và bước lên, luôn luôn ghi nhớ rằng tụi cháu sẽ không bao giờ, không bao giờ cho phép bản thân mình trở lại cảm giác của ngày hôm đó. Và dù sự giận dữ và thất vọng đã dấy lên trong cháu nhưng nó không thiêu rụi chúng cháu, không làm chúng cháu hoài nghi hay tàn ác. Nó làm chúng cháu mạnh mẽ. Và cuối cùng, cuối cùng thì một trong số chúng cháu sẽ vươn lên, đập vỡ cái trần kính cao nhất, cứng nhất. Tụi cháu sẽ làm được nhờ sự chăm chỉ, lòng quyết tâm và sự kiên cường. Nhưng đó còn là vì cô. Xin cô hãy chờ xem. Trong phần tái bút, cô gái này còn viết thêm: “Nếu cháu được phép gợi ý cho cô một số cách chữa lành vết thương thì đó là: dành thời gian với bạn bè và gia đình, tất nhiên, ngoài ra thì còn có mùa đầu tiên của Friday Night Lights1, mùa mới của Gilmore Girls2, album nhạc kịch Hamilton, nui phó mát của Martha Stewart, một quyển sách hay, một ly vang đỏ”. Thật là một lời khuyên hữu ích! 1 Một bộ phim truyền hình Mỹ về một đội bóng bầu dục trường trung học ở thị trấn giả tưởng Dillon, Texas. Phim gồm 5 mùa chiếu với 76 tập. 2 Một bộ phim truyền hình hài hước Mỹ về mối quan hệ của một người mẹ đơn thân và con gái. Phim khai thác những đề tài về gia đình, tình yêu, giáo dục, tình bạn, tham vọng, và khoảng cách của các thế hệ và tầng lớp xã hội. Phim gồm 7 mùa chiếu với 153 tập. Một người phụ nữ tên Holly từ Maryland viết thêm những hướng dẫn sáng suốt: Tôi hy vọng chị sẽ muốn ngủ thật muộn và mang giày thể thao cả ngày. Hãy đi massage và đứng dưới ánh nắng mặt trời. Ngủ trên giường của chị và tản bộ với chồng chị. Cười hí hửng với cô cháu gái và chơi trò vuốt ve với cậu cháu trai… Hãy thở sâu. Chỉ nghĩ về chuyện chị sẽ muốn ăn dâu tây hay phúc bồn tử vào bữa sáng, về quyển sách Dr. Seuss nào chị sẽ muốn đọc với cháu ngoại. Nghe tiếng gió hoặc nhạc Chopin. Debbie, bạn tôi từ Texas gửi cho tôi một bài thơ để làm tôi phấn chấn hơn. Ba bạn từng kể với bạn rằng một người bạn của ông đã sáng tác bài này sau khi họ làm việc cho Adlai Stevenson, một ứng viên Tổng thống tranh cử hai lần, về một trong những lần thất bại đớn đau của ông trước Dwight Eisenhower vào những năm 1950. Tôi phải thừa nhận rằng nó làm tôi phải khúc khích cười: Ngày bầu cử đã xong Kết quả giờ đã rõ Ý chí của nhân dân Đã được thể hiện rõ Hãy cùng nhau đứng lại Để nỗi buồn đi qua Tôi sẽ ôm Voi1 anh Anh hôn Lừa2 của tôi. 1 Con vật biểu tượng của đảng Cộng hòa. 2 Con vật biểu tượng của đảng Dân chủ. Ngoài ra, ở đây còn mang ý nghĩa hài hước. Con lừa tiếng Anh là “ass”, còn có nghĩa là cái mông. Pam từ Colorado gửi cho tôi cái hộp chứa một ngàn con hạc giấy được gắn kết với nhau. Cô giải thích rằng ở Nhật một ngàn con hạc giấy là một biểu tượng mạnh mẽ của hy vọng, treo chúng trong nhà sẽ mang lại may mắn. Tôi treo chúng trước mái hiên nhà tôi. Tôi sẽ nhận tất cả mọi may mắn và hy vọng tôi có thể có được. Tôi cố gắng hết sức để rũ bỏ gánh nặng phải thể hiện vẻ mặt hạnh phúc hay trấn an mọi người rằng tôi hoàn toàn ổn. Tôi biết rồi tôi sẽ ổn nhưng trong những tuần, những tháng mới mẻ này, tôi không ổn một chút nào cả. Và dù tôi không trải hết ruột gan ra với tất cả mọi người tôi gặp nhưng tôi đã thành thật trả lời hiện trạng của mình. “Sẽ ổn cả thôi”, tôi nói, “nhưng lúc này thì khá là khó khăn”. Nếu tôi cảm thấy khó chịu, tôi sẽ trả lời “Khốn kiếp, nhưng không phục” (“Bloody, but unbowed”), một câu trong bài Invictus, bài thơ yêu thích của Nelson Mandela. Nếu họ muốn cùng chia sẻ nỗi buồn vì những tin tức mới nhất từ Washington, đôi khi tôi sẽ thú nhận nó làm tôi điên tiết thế nào, còn những lúc khác tôi sẽ chỉ nói, “Tôi không có lòng dạ nào để nói về điều này”. Mọi người đều hiểu. Tôi còn để mọi người làm nhiều điều cho mình. Đối với tôi, chuyện này không đến một cách dễ dàng. Nhưng Chelsea đã chỉ ra, “Mẹ à, mọi người chỉ muốn làm điều gì đó có ích – họ muốn mẹ để họ làm”. Nên khi một người bạn nói cô ấy gửi đến một hộp đầy những quyển sách ưa thích của mình… và một người khác nói anh sẽ ghé nhà vào cuối tuần dù cho chỉ để tản bộ cùng nhau… và một người khác nói cô sẽ dẫn tôi đi xem một vở kịch dù tôi có muốn đi hay không… Tôi đều không phản đối hay tranh luận. Lần đầu tiên trong nhiều năm trời, tôi không phải bận tâm đến một lịch trình phức tạp. Tôi chỉ phải nói “Được!” mà không cần nghĩ ngợi gì. Tôi nghĩ nhiều về mẹ tôi. Một phần tôi mừng là mẹ không có ở đây để chịu đựng một sự thất vọng cay đắng nữa. Thất bại sít sao của tôi trong cuộc tuyển cử của đảng Dân chủ trước Barack Obama năm 2008 thật khó chấp nhận đối với bà, dù mẹ tôi cố gắng không để tôi thấy điều này. Hầu như tôi chỉ thấy nhớ bà thôi. Tôi muốn ngồi xuống với bà, nắm tay bà, và chia sẻ về mọi khó khăn của tôi. Bạn bè giới thiệu cho tôi thuốc Xanax và khen ngợi nhiệt tình về tác dụng trị liệu tuyệt vời của nó. Các bác sĩ nói với tôi họ chưa bao giờ phải kê toa gồm nhiều thuốc chống trầm cảm đến như vậy trong sự nghiệp của mình. Nhưng đó không phải là tôi. Chưa bao giờ là tôi. Thay vào đó, tôi tập yoga với huấn luyện viên của mình, Marianne Letizia, và tập trung nhiều vào “việc thở”. Nếu bạn chưa bao giờ thở bằng một bên mũi thì nó rất đáng thử. Ngồi chéo chân với tay trái đặt trên đùi và tay phải đặt trên mũi. Hít sâu vào từ cơ hoành, đặt ngón cái tay phải lên lỗ mũi phải và ngón áp út và ngón út lên lỗ bên trái. Nhắm mắt lại, và bịt lỗ mũi phải, thở chậm và sâu bằng lỗ mũi trái. Giờ thì bịt cả hai lỗ mũi và nín thở. Thở ra từ lỗ mũi trái. Theo như người ta giải thích cho tôi, việc này sẽ giúp oxy kích hoạt cả não phải – cội nguồn của sự sáng tạo và trí tưởng tượng – và não trái – nơi điều khiển lý trí và lập luận. Hít vào thở ra, lặp lại toàn bộ quá trình một vài lần. Bạn sẽ cảm thấy thư thái hơn và tập trung hơn. Nghe có vẻ ngớ ngẩn nhưng nó rất hiệu quả với tôi. Cũng không hẳn toàn bộ là nhờ yoga và việc thở. Tôi còn uống rượu vang trắng Chardonnay. Tôi dành nhiều thời gian hòa mình với thiên nhiên. Cái ngày sau khi tôi đọc bài diễn văn thua cuộc, Bill và tôi đến một vườn cây rậm rạp gần nhà. Đó là khoảng thời gian phù hợp nhất trong năm để đi bộ thư giãn – không khí khô nhưng không lạnh với mùi của mùa thu trong không khí. Chúng tôi chìm đắm trong suy nghĩ thì tình cờ gặp một cô gái đang đi bộ đường dài với đứa con gái ba tháng tuổi địu sau lưng và con chó lẽo đẽo bên chân. Cô có vẻ hơi ngại ngùng khi dừng lại và chào chúng tôi, nhưng cô nói là cô không thể kìm được – cô cần ôm tôi một cái. Hóa ra, tôi cũng cần như vậy. Sau đó, cũng trong ngày hôm đó, cô đăng tấm ảnh của chúng tôi lên Facebook và bức hình nhanh chóng được lan truyền. Và chuỗi những tấm ảnh chế về “HRC trong Hoang dã”1 được ra đời. 1 Nguyên tác: HRC in the Wild, trong đó “HRC” là chữ viết tắt của Hillary Rodham Clinton. Trong suốt tháng 11 và tháng 12, Bill và tôi cột chặt dây giày và đi hết con đường mòn này đến con đường mòn khác, từ từ phân tích lý do vì sao tôi thua, tôi có thể làm gì để cải thiện tình hình, và chuyện gì đang xảy ra với nước Mỹ. Chúng tôi còn dành kha khá thời gian để nói về món sẽ ăn tối nay và bộ phim sẽ xem ngay sau đó. Tôi còn tham gia những dự án. Tháng 8 năm 2016, chúng tôi đã mua lại ngôi nhà sát bên: Một kiểu nông trại kinh điển chúng tôi yêu thích với sân sau nối liền với nhà chúng tôi. Ý tưởng lúc mua nhà là để có thêm phòng cho Chelsea, Marc và con cái của chúng, các anh tôi và gia đình họ, và bạn bè chúng tôi. Thêm vào đó, tôi đã hơi nhanh nhảu nên đã nghĩ trước chuyện tiếp đón một đội quân hùng hậu sẽ đi đó đây với một Tổng thống. Từ tháng 9 và tháng 10, chúng tôi đã âm thầm sửa sang lại, nhưng với chiến dịch đang hồi nước sôi lửa bỏng, tôi không có nhiều thời gian nghĩ về bất cứ điều gì. Giờ thì tôi chẳng có gì ngoài thời gian, nên tôi dành hàng giờ xem xét lại kế hoạch với nhà thầu, chuyên gia trang trí nội thất và bạn tôi Rosemarie Howe: thử màu sơn, mua đồ đạc, ghế xích đu ở sân sau. Bên lò sưởi, tôi treo một khẩu hiệu cổ điển của nhóm phụ nữ đấu tranh đòi quyền bầu cử mà Marc đã tặng tôi “Quyền Bầu Cử Cho Phụ Nữ”. Trong căn phòng của gia đình, chúng tôi treo lên bức tranh đầy màu sắc vẽ những bong bóng ở Hội nghị Quốc gia đảng Dân chủ. Bill và tôi đều thích những quả bong bóng này. Đặc biệt là Bill. Đây là một kỷ niệm về những ngày vui vẻ. Việc tu sửa lại nhà đã hoàn thành trước lễ Tạ ơn. Sáng đó, tôi đi quanh nhà để đảm bảo rằng mọi thứ đã đâu vào đó trước khi bạn bè và gia đình đến dùng bữa tối. Có một lúc, tôi đứng ở thềm trước và thấy vài người tụ tập ở một góc đường với mấy tấm bảng “Cảm Ơn” cắm dưới đất, phủ đầy những trái tim, cầu vồng và cờ Mỹ. Đó là một trong rất nhiều những cử chỉ đẹp – không chỉ từ bạn bè và những người thân thiết mà còn từ những người lạ hoàn toàn – đã giúp tôi vượt qua những tháng đầu tiên này. Trong mọi dịp lễ Tạ ơn, từ khi rời Nhà Trắng, chúng tôi có truyền thống tổ chức tiệc với một nhóm bạn bè của Chelsea không về nhà trong dịp lễ hoặc những người đến từ những quốc gia khác và muốn biết lễ Tạ ơn Mỹ là như thế nào. Luôn có hai mươi hoặc ba mươi người ngồi quanh những cái bàn xếp dài trang trí lá, trái thông và nến tạ ơn – không có gì quá cao để che khuất tầm nhìn của mọi người nên những câu chuyện có thể dễ dàng được lắng nghe và chia sẻ. Vì chúng tôi bắt đầu bữa ăn với những lời cảm tạ bắt đầu từ Bill rồi lần lượt từng người quanh bàn, nên tất cả mọi người có thể nói điều mà họ cảm thấy biết ơn trong suốt năm qua. Khi đến lượt tôi, tôi nói tôi cảm ơn vì vinh dự được tranh cử Tổng thống, cảm ơn gia đình và bạn bè tôi đã ủng hộ tôi. Trở lại ngôi nhà cũ của mình, tôi sắp xếp lại mọi tủ đồ với một sự tập trung đến nỗi mấy chú chó chạy biến khỏi bất cứ căn phòng nào tôi đi vào. Tôi gọi cho bạn bè và nài nỉ họ lấy đôi giày mà họ từng nói rất thích hoặc cái áo mà tôi nghĩ là sẽ vừa in. Tôi từng là kiểu bạn bè thúc ép vậy đó, nên hầu hết họ đều biết là họ sẽ phải nhận chúng. Tôi còn xếp lại hàng đống hình ảnh vào những cuốn album, vứt hết mấy chồng tạp chí cũ và những bài báo làm xuống tinh thần, rồi còn phân loại lại cả triệu danh thiếp mà mọi người cho tôi nhiều năm qua. Với mỗi hộc tủ sáng trưng và mỗi đồ vật được đặt vào vị trí phù hợp của nó, tôi cảm thấy thỏa mãn vì mình vừa làm cho thế giới của mình được trật tự hơn một chút. Vài người bạn bắt tôi đi du lịch, và chúng tôi thực sự đã đi chơi với Chelsea, Marc và mấy đứa nhỏ vài ngày đến Mohonk Mountain House, một địa điểm ưa thích của tôi ở New York. Nhưng sau hai mươi tháng ròng rã đi lại để vận động cho chiến dịch – thêm vào đó là bốn năm trời đi khắp thế gian với cương vị là Ngoại trưởng – tôi chỉ muốn ngồi trong ngôi nhà yên tĩnh của mình để tĩnh tại. Tôi cố gắng đắm mình trong những quyển sách. Nhà chúng tôi ngập tràn sách, mà chúng tôi thì cứ mua thêm. Như mẹ tôi, tôi thích những tiểu thuyết bí ẩn và có thể đọc trọn vẹn cuốn sách mới chịu đứng dậy. Vài quyển tôi thích gần đây là của các tác giả Louise Penny, Jacqueline Winspear, Donna Leon và Charles Todd. Tôi vừa đọc xong bốn quyển tiểu thuyết Neapolitan của Elena Ferrante và rất thích câu chuyện họ kể về tình bạn giữa những phụ nữ. Mấy cái kệ của tôi trĩu nặng những sách về lịch sử và chính trị, đặc biệt là tiểu sử các vị Tổng thống, nhưng trong mấy tháng đầu tiên đó, không quyển nào làm tôi thấy hứng thú. Tôi quay trở lại với những thứ làm tôi cảm thấy vui hoặc được an ủi trong quá khứ, như thơ của Maya Angelou: Bạn có thể viết tên tôi vào lịch sử Bằng những lời dối trá, đắng cay Bạn có thể kéo lê tôi trong cát bụi Nhưng, như cát bụi, tôi sẽ đứng lên… Bạn có thể dùng lời lẽ của mình để bắn tôi Hoặc cứa vào tôi chỉ bằng ánh mắt Bạn có thể giết chết tôi bằng sự căm ghét Nhưng, như không khí, tôi sẽ đứng lên. Vào những ngày tháng 12, với trái tim vẫn còn đau nhói, những lời thơ này giúp tôi rất nhiều. Việc đọc to những bài thơ làm tôi cảm thấy mạnh mẽ. Tôi nghĩ tới Maya và giọng văn mạnh mẽ, giàu hình ảnh của bà. Bà sẽ không bị khuất phục trước điều này, không một chút nào. Tôi đi xem những buổi biểu diễn Broadway. Chẳng có gì làm bạn quên đi phiền phức của mình trong một vài tiếng đồng hồ như đi xem nhạc kịch. Theo kinh nghiệm của tôi, một vở kịch tầm thường cỡ nào đi nữa cũng sẽ cuốn hút bạn. Và những bài hát của vở diễn là những khúc nhạc hay nhất trong những lúc khốn khó. Bạn nghĩ bạn buồn ư? Hãy nghe những gì Fantine trong Những người khốn khổ nói! Cho đến nay, màn biểu diễn ưa thích nhất của tôi ở thành phố New York này không nằm ở Broadway: Đó là màn trình diễn của Charlotte. Thật hấp dẫn biết bao khi xem một đám nhóc hai tuổi cứ rúc rích cười suốt và đi lại không yên cố gắng nhảy múa đều nhau. Vài đứa thì cực kỳ tập trung (đó là cháu gái của tôi), vài đứa thì cố gắng nói chuyện với ba mẹ đang ngồi dưới khán đài, và một cô bé thì ngồi bệt xuống giữa chừng và cởi giày ra. Thật là một màn lộn xộn đáng yêu. Khi tôi nhìn Charlotte và bạn bè nó cười giỡn rồi té ngã rồi lại đứng lên, tôi cảm thấy một điều gì đó chưa thể gọi tên. Rồi tôi nhận ra đó là gì: sự giải tỏa. Tôi đã sẵn sàng để cống hiến toàn bộ bốn năm hoặc tám năm tiếp theo của cuộc đời cho đất nước mình. Nhưng điều này sẽ kéo theo những cái giá phải trả. Tôi sẽ bỏ lỡ rất nhiều những màn trình diễn múa như thế này, những câu chuyện buổi tối và những chuyến đi đến sân chơi. Giờ thì tôi có lại toàn bộ. Cái này còn hơn cả “Tái ông mất ngựa”. Trở về nhà, tôi xem mấy bộ phim truyền hình Bill đã lưu lại. Chúng tôi xem những tập cũ của The Good Wife, Madam Secretary, Blue Bloods và NCIS: Los Angeles mà Bill cứ khăng khăng là series hay nhất của NCIS. Cuối cùng tôi còn xem được mùa cuối cùng của Downtown Abbey. Chương trình này luôn làm tôi nhớ đến cái đêm tôi ở Cung điện Buckingham vào năm 2011 trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Obama tới đất nước này, tôi ở trong một căn phòng bên dưới sảnh từ ban công Nữ Hoàng hay đứng vẫy tay chào đám đông. Như thể bước vào một câu chuyện cổ tích. Vào thứ Bảy sau ngày bầu cử, tôi bật chương trình Saturday Night Live và xem Kate McKinnon mở màn với những ấn tượng của cô về tôi thêm một lần nữa. Cô ngồi tại một cây đại vĩ cầm và chơi “Hallelujah”, một bài hát tuyệt vời đầy ám ảnh của Leonard Cohen, người vừa qua đời cách đó mấy ngày. Khi cô hát, có vẻ như cô đang cố gắng kìm nén nước mắt. Khi lắng nghe, cả tôi cũng vậy. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng vẫn chưa đủ Tôi không thể cảm thấy, nên tôi cố gắng sờ vào Tôi đã nói sự thật, tôi không muốn dối lừa bạn Và dù mọi chuyện đều sai bét cả Tôi vẫn sẽ đứng trước vị thần của những bài ca Với không gì ngoài lời hát “hallelujah”. Kết thúc bài hát, Kate – trong vai Hillary – quay vào camera và nói, “Tôi không bỏ cuộc và cả bạn cũng vậy”. Tôi cầu nguyện rất nhiều. Tôi gần như có thể thấy những người yếm thế trợn mắt. Nhưng tôi cầu nguyện, một cách thành tâm và nhiệt tình. Tiểu thuyết gia Anne Lamott từng viết rằng ba lời cầu nguyệt thiết yếu nhất mà bà dùng là “Giúp con”, “Cảm ơn” và “Wow”. Bạn có thể đoán được tôi đã dùng lời cầu nguyện nào cho mùa thu vừa rồi. Tôi cầu nguyện được giúp đỡ để có thể bỏ lại sau lưng nỗi buồn và sự tuyệt vọng mà thất bại vừa rồi đã mang lại cho tôi; để có thể có được hy vọng và trái tim rộng mở thay vì trở thành một kẻ hoài nghi, cay đắng; để tìm thấy mục đích mới và bắt đầu một chương mới, để phần còn lại của cuộc đời mình không bị giống như cô Havisham trong Những kỳ vọng lớn lao của Charles Dickens, suốt ngày lảm nhảm trong nhà về những nếu-như, giá-mà. Tôi cầu nguyện rằng những sợ hãi tồi tệ nhất về Donald Trump sẽ không phải sự thật, và rằng cuộc sống của người dân và tương lai nước Mỹ sẽ trở nên tốt hơn, không tệ hơn, trong suốt nhiệm kỳ của ông ta. Tôi vẫn còn cầu nguyện về điều đó, và tôi có thể sử dụng mọi sự hỗ trợ mà bạn có thể giúp. Tôi còn cầu xin có được sự khôn ngoan. Tôi đã được Bill Shillady giúp đỡ. Ông là mục sư hội Giám lý Thống nhất đã cùng tổ chức hôn lễ cho Chelsea và Mac và chủ trì nghi lễ cho mẹ tôi. Trong suốt chiến dịch, mỗi ngày ông đều gửi cho tôi những bài Thánh ca. Vào ngày 9 tháng 11, ông gửi cho tôi bài nói chuyện được đăng lần đầu tiên trên blog của mục sư Matt Deuel. Trong tuần đó, tôi đọc đi đọc lại rất nhiều lần bài đó. Như đoạn này thật sự đã làm tôi cảm động: Hôm nay là thứ Sáu nhưng Chủ nhật đang đến gần. Đây không phải là bài viết mà tôi hy vọng sẽ viết. Đây không phải là bài viết mà bạn mong sẽ nhận trong ngày hôm nay. Trong khi Thứ Sáu Tốt Lành có lẽ là đại diện bình thường nhất cho một ngày thứ Sáu chúng ta có, cuộc sống thì tràn đầy những ngày thứ Sáu. Dành cho những tín đồ và những người theo Chúa trong thế kỷ đầu, Thứ Sáu Tốt Lành đại diện cho ngày mà mọi thứ đổ vỡ. Tất cả đã mất. Và dù rằng Chúa đã nói với các tín đồ rằng ba ngày nữa đền thờ sẽ được phục hồi… họ đã phản bội, chối từ, than khóc, bỏ chạy và trốn núp. Họ làm mọi thứ trừ việc cảm thấy tốt lành về ngày thứ Sáu và hoàn cảnh của mình. Các bạn đang trải qua một ngày thứ Sáu. Nhưng Chủ nhật đang đến. Cái Chết sẽ vỡ tan. Hy vọng sẽ lại về. Nhưng trước hết, chúng ta phải sống qua những tăm tối và những tuyệt vọng của thứ Sáu. Tôi gọi đức cha Bill, và chúng tôi nói chuyện một lúc rất lâu. Tôi đọc lại một trong những quyển sách ưa thích của mình, The Return of the Prodigal Son (tạm dịch: Đứa con hoang tàn trở về ) của giám mục Hà Lan Henri Nouwen. Đó là điều tôi thường làm đi làm lại vào những lúc gặp khốn khó trong cuộc sống. Hẳn bạn đã biết câu chuyện ngụ ngôn về người em lạc lối, phạm nhiều tội lỗi nhưng cuối cùng cũng trở về nhà. Anh được cha mình đón chào đầy thương yêu nhưng lại bị người anh căm ghét, vì người anh đã ở lại để phụng dưỡng cha mình trong khi người em có thể làm bất cứ điều gì anh ta muốn. Có lẽ vì tôi là chị cả trong nhà và là thành viên trong đội Hướng đạo sinh nữ, nên tôi luôn liên tưởng mình là người anh trong câu chuyện. Thật khó chịu biết nhường nào khi thấy người em trai lạc lối của mình được chào đón về nhà như chưa có gì xảy ra. Anh ta hẳn sẽ có cảm giác rằng bao năm khổ sở và tận tụy chăm sóc cha mình không có ý nghĩa gì cả. Nhưng người cha đã nói với người anh, “Cha đã không lo được cho con sao? Con đã không sống gần cha sao? Con không ở bên cạnh cha để học hỏi và làm lụng hay sao?” Những thứ này tự thân nó đã là những phần thưởng rồi. Đó là câu chuyện về tình thương vô điều kiện – tình thương của một người cha, và cũng là của Đức Cha, người luôn sẵn sàng yêu thương chúng ta dù biết bao lần chúng ta vấp ngã. Câu chuyện làm tôi liên tưởng đến cha tôi, một người cương nghị và ít nói nhưng lúc nào cũng đảm bảo rằng tôi biết tôi có ý nghĩa thế nào với ông. “Ba sẽ không làm như con làm”, ông sẽ nói với tôi, “nhưng ba sẽ luôn thương con”. Khi còn nhỏ, tôi luôn nghĩ ra mọi giả thuyết tai quái để kiểm chứng. “Nếu như con trộm đồ ở cửa hàng hoặc giết chết ai đó thì sao? Lúc đó ba còn thương con không?” Ông sẽ nói, “Tất nhiên là có. Ba sẽ vô cùng thất vọng và đau lòng, nhưng ba sẽ luôn thương con”. Một hai lần hồi tháng 11 năm ngoái, tôi nghĩ với chính mình, “Vậy, ba à, nếu như con thua một cuộc bầu cử mà lẽ ra sẽ thắng và để một đối thủ không xứng tầm trở thành Tổng thống Mỹ thì sao, lúc đó ba có còn thương con không?” Tình thương vô điều kiện là món quà to lớn nhất mà ba đã dành cho tôi, và tôi đang cố gắng hết sức để trao nó cho Chelsea và giờ cho Charlotte và Aidan. Nouwen thấy một bài học mới từ ngụ ngôn Đứa con hoang tàn: một bài học về sự biết ơn. “Tôi vẫn có thể chọn lòng biết ơn ngay cả khi cảm xúc và cảm giác của tôi chất đầy tổn thương và thù hận”, ông viết. “Tôi có thể chọn để nói về sự tốt lành và điều đẹp đẽ ngay cả khi con mắt bên trong của tôi vẫn còn kiếm tìm người để đổ lỗi hoặc tìm một câu xấu xí để nói. Tôi có thể chọn lắng nghe những giọng nói tha thứ và nhìn vào những gương mặt mỉm cười ngay cả khi tôi đang phải nghe những từ ngữ thù hận và thấy những cái nhăn mặt đầy căm ghét”. Tất cả phụ thuộc vào chúng ta khi chúng ta lựa chọn để biết ơn ngay cả khi mọi chuyện không được tốt đẹp. Nouwen gọi đó là “nguyên tắc của lòng biết ơn”. Đối với tôi, nó có nghĩa không chỉ là biết ơn vì những điều tốt đẹp, bởi vì việc này rất dễ, nhưng còn biết ơn những thứ khó khăn nữa. Biết ơn cả những lỗi lầm, bởi vì cuối cùng, chúng làm chúng ta mạnh mẽ hơn bằng cách cho chúng ta một cơ hội để vươn tới những điều ngoài tầm. Nhiệm vụ của tôi là biết ơn vì trải nghiệm khiêm nhường khi thua trong cuộc bầu cử Tổng thống. Sự khiêm nhường có thể là một đức hạnh đau thương. TrongKinh Thánh, Thánh Paul đã nhắc chúng ta rằng tất cả chúng ta đều nhìn qua lăng kính tối tăm vì giới hạn của mình. Đó là lý do vì sao đức tin – yên tâm về những thứ được hy vọng và kết án những thứ không được nhìn thấy – cần một cú nhảy.Vì những giới hạn và sự không hoàn hảo mà chúng ta phải vượt lên chính mình để đến với Chúa và đến với nhau. Thời gian thấm thoát trôi qua, tháng 11 đi, tháng 12 tới, khoảng thời gian khủng khiếp, tồi tệ và chẳng tốt đẹp gì đó dần kết thúc, tôi bắt đầu tìm lại lòng biết ơn của mình. Tôi cảm nhận được những hiệu ứng tốt đẹp mà việc đi bộ và ngủ đủ giấc mang lại; tôi trở nên thanh thản hơn và mạnh mẽ hơn. Tôi bắt đầu nghĩ tới những dự án mới mà mình muốn xúc tiến. Tôi bắt đầu chấp nhận lời mời đến các sự kiện để nói lên những tâm tư của mình: một bữa tối của tổ chức Kế hoạch hóa gia đình, Hội nghị thượng đỉnh Phụ nữ trên Thế giới và gala “Những giọng nói quan trọng” mừng những nữ lãnh đạo và nhà hoạt động khắp nơi trên thế giới, và những buổi tụ họp với sinh viên ở Harvard, Wellesley và Georgetown. Những căn phòng đó chứa đầy nhiệt huyết. Tôi hấp thu mọi thứ và thấy rằng mình đang nghĩ nhiều về tương lai hơn quá khứ. Hãy làm những điều bạn cảm thấy đúng đắn, vì dù gì bạn cũng sẽ bị chỉ trích. Bạn sẽ bị “lên án nếu bạn làm và vẫn bị lên án nếu bạn không làm”. —Eleanor Roosevelt ĐỐI ĐẦU Chúng ta chỉ việc cố gắng, những thứ còn lại không phải việc của chúng ta. —T.S. Eliot Cố gắng T ôi chạy đua vào Nhà Trắng vì tôi nghĩ tôi sẽ làm tốt công việc này. Tôi nghĩ trong số những người sẽ tham gia tranh cử, tôi là người có kinh nghiệm nhất, đã gặt hái nhiều thành tựu có ý nghĩa, đưa ra nhiều đề xuất tham vọng nhưng khả thi, và có khả năng giúp mọi việc ở Washington hoàn thành đâu ra đó. Nước Mỹ đang ở vị thế tốt hơn nhiều so với những quốc gia lớn khác, nhưng đâu đó vẫn còn nhiều bất công, và tăng trưởng kinh tế còn quá ít. Sự đa dạng của chúng ta là một lợi thế, và điều này giúp phát huy tính sáng tạo và sức sống, nhưng sự thay đổi quá nhanh chóng về xã hội và kinh tế làm người dân không thích ứng kịp. Họ đang nghĩ rằng có quá nhiều việc đang diễn ra và diễn ra quá nhanh, vì thế họ cảm thấy xa lạ và bị bỏ rơi. Vị thế của chúng ta trên thế giới vẫn rất mạnh nhưng chúng ta phải đối phó với nạn khủng bố, toàn cầu hóa, và sự tiến bộ về công nghệ và kỹ thuật đã tiếp thêm năng lượng cho hai vấn đề này. Tôi tin rằng những kinh nghiệm của mình ở Nhà Trắng, ở Thượng viện và Bộ Ngoại giao sẽ giúp tôi trang bị để đương đầu với những thách thức đó. Tôi đang sẵn sàng hơn ai hết. Tôi có nhiều ý tưởng để làm đất nước mạnh hơn và cuộc sống của hàng triệu người Mỹ sẽ tốt đẹp hơn. Tóm lại, tôi nghĩ mình sẽ là một Tổng thống không chê vào đâu được. Dù vậy, người ta vẫn không ngừng hỏi tôi, “Tại sao bà muốn làm Tổng thống?” Vì sao à? Nhưng, đúng thật, vì sao chứ? Người ta ám chỉ rằng hẳn có điều gì đó đang xảy ra, họ cho rằng tôi có một tham vọng đen tối nào đó hoặc nghĩ rằng tôi ham mê quyền lực. Không ai phân tích Marco Rubio, Ted Cruz, hay Bernie Sanders về lý do họ tranh cử. Chuyện họ tranh cử được cho là bình thường. Nhưng đối với tôi, dù nhiều người vẫn cho rằng sớm muộn gì tôi cũng sẽ tranh cử – nhưng theo cách nào đó thì họ vẫn nghĩ điều này là bất bình thường và đòi hỏi một lời giải thích xác đáng. Sau ngày bầu cử, tôi đã nghĩ rất nhiều về điều này. Có lẽ bởi vì tôi là phụ nữ, mà chúng ta vẫn chưa quen việc phụ nữ tranh cử Tổng thống. Có lẽ bởi vì cách lãnh đạo của tôi không phù hợp với lúc này. Hoặc có lẽ bởi vì tôi chưa giải thích bản thân mình cặn kẽ hơn. Vì thế, tôi sẽ giải thích ngay từ ban đầu và cho các bạn biết vì sao và bằng cách nào tôi quyết định tranh cử. “Em có thể thua”, Bill nói với tôi. “Em biết”, tôi nói. “Em có thể thua”. Vấn đề bắt đầu từ lịch sử. Cực kỳ khó khăn cho bất cứ đảng nào nắm giữ Nhà Trắng trong hơn tám năm liên tiếp. Trong thời hiện đại, điều này chỉ xảy ra có một lần, khi George H. W. Bush kế nhiệm Ronald Reagan vào năm 1989. Kể từ thời Phó Tổng thống Martin Van Buren thắng cử vào năm 1836, kế nhiệm Andrew Jackson, không một ứng viên Dân chủ kế nhiệm nào được nắm giữ Nhà Trắng trong hai nhiệm kỳ liên tiếp. Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 – 2009, đâu đó vẫn còn nhiều nỗi giận dữ và thù địch, và trong khi cuộc khủng hoảng xảy ra vào kỳ nhiệm chức của đảng Cộng hòa, đảng Dân chủ nắm quyền với sứ mệnh dẫn dắt một cuộc hồi phục, mà việc phục hồi lại diễn ra quá chậm. Cũng nên cân nhắc đến hội chứng “phát ngấy với nhà Clinton”. Nhiều người phàn nàn rằng chuyện bầu cử ở Mỹ là cuộc đua mệt mỏi giữa hai nhà: nhà Clinton và nhà Bush. Rồi cũng lại là vấn đề giới tính nữa. Trong lịch sử đất nước chúng ta, chưa từng có người phụ nữ nào thắng bầu cử sơ bộ của một trong hai đảng lớn, nói chi đến việc thắng cử Tổng thống. Chúng ta sẽ dễ dàng bỏ qua tầm quan trọng của điều này, nhưng khi ngừng lại để xem xét thì đây là một lý do vô cùng quan trọng. Đó là một ngày mùa thu năm 2014, Bill và tôi đã nói chuyện về việc này nhiều tháng nay. Liệu tôi có nên ra tranh cử lần thứ hai hay không? Rất nhiều người tài năng sẵn sàng nhảy vào hỗ trợ cho chiến dịch của tôi nếu tôi tranh cử. Báo chí và đa số tầng lớp chính trị cho rằng tôi đã sẵn sàng chạy đua chiến dịch. Vài người trong số họ còn bị thuyết phục trước những tranh biếm họa tôi là một người đàn bà hám quyền mà họ không thể tưởng tượng được tôi có thể làm được gì khác. Mặt khác, tôi đã hình dung ra rất nhiều nẻo đường khác cho chính mình ngoài việc trở thành Tổng thống. Tôi đã nếm được mùi vị của sự thất bại rồi. Trừ phi bạn đã từng trải qua, bằng không thì cũng khó diễn tả được nỗi đau bạn cảm thấy trong tim gan khi bạn thấy mọi việc đi sai hướng và không thể tìm ra cách khắc phục; cú đánh khủng khiếp khi nhận được kết quả cuối cùng; sự thất vọng khắc trên gương mặt bạn bè và những người ủng hộ bạn. Các chiến dịch tranh cử là những doanh nghiệp khổng lồ với hàng ngàn người làm việc cùng nhau để hướng tới một mục tiêu chung, nhưng cuối cùng, nó cực kỳ mang tính cá nhân, thậm chí là đơn độc. Chỉ có tên bạn nằm trong lá phiếu. Bạn được chào đón hoặc chối từ, hoàn toàn do bản thân mình. Cuộc đua với Barack Obama năm 2008 có một kết quả sít sao và tôi đã chiến đấu đến cùng. Cuối cùng, anh dẫn đầu với những lá phiếu Cử tri đoàn quan trọng nhất, nhưng khi so sánh phiếu bầu phổ thông thì tôi chỉ ít hơn đâu đó chưa tới 1/10. Điều này làm cho thất bại đó đau đớn hơn, nhưng cũng tạo ra niềm vui khi đã vận động không ngừng nghỉ để chiến đấu tới cùng với anh. Tôi hoàn toàn tôn trọng Barack và tôi tin rằng anh sẽ là một Tổng thống tốt, anh sẽ làm tất cả mọi điều có thể để tiến đến những giá trị mà cả hai chúng tôi đều muốn vươn tới. Điều này làm cho việc thua cuộc trở nên dễ chịu hơn. Liệu sau lần đó, tôi có muốn đặt mình vào một cuộc đua tàn khốc nữa không? Cuộc đời tôi sau khi rời khỏi chính trường trở nên khá tuyệt vời. Tôi cùng Bill và Chelsea tham gia làm thành viên mới trong ban quản trị Quỹ Clinton. Bill đã biến Quỹ này thành một trong những tổ chức phúc thiện lớn nhất thế giới sau khi anh rời nhiệm sở. Điều này cho phép tôi theo đuổi những niềm đam mê của mình và xây dựng một tầm ảnh hưởng mà không dính dáng gì đến thói quan liêu và những tranh cãi ì xèo tủn mủn của Washington. Tôi khâm phục những gì Bill đã gầy dựng nên, và tôi rất thích việc Chelsea quyết định đưa những kiến thức về sức khỏe cộng đồng và kinh nghiệm riêng của con bé vào Quỹ, giúp cải tiến cách quản trị, sự minh bạch và tính hiệu quả của nó sau một thời kỳ phát triển chóng mặt. Tại Hội thảo AIDS Quốc tế ở Barcelona, Bill có nói chuyện với Nelson Mandela về nhu cầu cấp thiết nhằm hạ giá thuốc điều trị HIV/AIDS ở châu Phi và trên toàn thế giới. Bill nghĩ rằng anh có thể giúp được nên đã thương lượng với những công ty dược và chính phủ các nước để hạ giá thuốc xuống mức thấp nhất, đồng thời gây quỹ để trả tiền thuốc. Việc này thực sự hữu hiệu. Hơn 11,5 triệu người ở hơn bảy mươi quốc gia giờ đã có thể tiếp cận những liệu trình điều trị HIV/AIDS rẻ hơn. Hiện tại, trong số những người được thuốc này cứu sống ở các nước đang phát triển trên khắp thế giới, hơn phân nửa người lớn và 75% trẻ em đang được hưởng lợi từ thành quả của Quỹ Clinton. Sau khi hồi phục từ ca phẫu thuật tim hồi năm 2004, Bill tham gia cùng Hiệp hội Tim Mỹ để bắt đầu lập tổ chức Liên minh vì một thế hệ khỏe mạnh hơn (Alliance for a Healthier Generation) – tổ chức đã giúp hơn hai mươi tỷ sinh viên tại hơn 35 ngàn ngôi trường ở Mỹ thưởng thức thức ăn bổ dưỡng hơn và tham gia nhiều hoạt động thể chất hơn. Liên minh đã ký các thỏa thuận với nhiều công ty nước giải khát lớn để giảm lượng calories trong thức uống ở trường học xuống còn 90%, và còn hợp tác với chiến dịch “Let’s Move” của Michelle Obama. Quỹ từ thiện còn giúp chống lại cơn khủng hoảng thuốc giảm đau nhóm opioid ở Mỹ; giúp hơn 150.000 nông dân ở châu Phi tăng thu nhập; mang năng lượng sạch tới những đảo quốc ở Caribe và Thái Bình Dương. Năm 2005, Bill khởi động Chiến dịch Clinton Global (Clinton Global Initiative – CGI), một hình thức thiện nguyện mới của thế kỷ XXI giúp các nhà lãnh đạo từ kinh doanh, chính phủ và những lĩnh vực phi lợi nhuận kết nối lại với nhau để đưa ra những cam kết hành động vững chắc về mọi thứ, từ việc cung cấp nước sạch, nâng cao hiệu quả năng lượng, đến hỗ trợ y tế cho trẻ em khiếm thính. Các hội nghị hằng năm nhấn mạnh những cam kết thú vị nhất cũng như những kết quả mang lại. Không ai xuất hiện chỉ để nói, bạn phải thực sự làm điều gì đó nữa. Sau mười hai năm, những thành viên CGI, những chi nhánh của CGI Mỹ và CGI Quốc tế đã thực hiện hơn 3.600 cam kết, giúp nâng cao đời sống của hơn 435 triệu người ở hơn 180 quốc gia. Một trong những thành tựu nổi bật nhất của CGI là gửi đi 500 tấn dược phẩm và trang thiết bị đến Tây Phi để chiến đấu với đại dịch Ebola và giúp gây quỹ 500 triệu đô để hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ, nông trại, trường học, chăm sóc y tế ở Haiti. Tại Mỹ, CGI đã giúp thiết lập quan hệ hợp tác với công ty Carnegie New York để hoàn thành mục tiêu của Tổng thống Obama – thêm 100.000 giáo viên mới cho những môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ sư và Toán – mà không tiêu tốn một đồng nào của người đóng thuế. Và tổ chức cũng đã hỗ trợ tạo nên quỹ hạ tầng tư nhân lớn nhất ở Mỹ – 16,5 tỷ đô la được những quỹ hưu trí của viên chức đầu tư. Quỹ được Hiệp hội Giáo viên Liên bang Mỹ (American Federation of Teachers – AFT) và Liên hiệp Xây dựng Thương mại Bắc Mỹ (North America’s Building Trades Unions – NABTU) điều hành, đã tạo nên 100.000 việc làm và cung cấp những khóa đào tạo kỹ năng cho 250.000 công nhân mỗi năm. Khi tôi gia nhập Quỹ Clinton vào năm 2013, tôi hợp tác cùng Melinda Gates và Quỹ Gates để triển khai một chiến dịch tên “No Ceilings: The Full Participation Project” (Không trần cao: Dự án tham gia toàn diện) để phụ nữ và bé gái trên toàn thế giới có được những quyền cao hơn và có nhiều cơ hội hơn. Tôi còn xây dựng một chương trình tên “Too Small to Fail” (Quá nhỏ để thất bại) để khuyến khích việc đọc, nói và hát cho trẻ sơ sinh và trẻ chập chững để giúp não chúng phát triển và nâng cao từ vựng. Chelsea và tôi còn bắt đầu một mạng lưới những tổ chức bảo tồn động vật hoang dã lớn nhằm bảo vệ những con voi châu Phi đang có nguy cơ tuyệt chủng vì bọn săn trộm. Không chương trình nào phải trưng cầu dân ý hay phải quảng bá rình rang. Chúng chỉ cần tạo ra những khác biệt tích cực cho thế giới. Sau nhiều năm làm chính trị, những công việc này vừa mới mẻ và đem lại niềm hạnh phúc. Dựa trên kinh nghiệm của mình, tôi biết rằng nếu tôi tranh cử Tổng thống lần nữa, mỗi thứ Bill và tôi sờ tới sẽ là chủ đề để soi mói và tấn công – gồm cả Quỹ Clinton này. Đó là một mối lo lắng, nhưng tôi chưa bao giờ tưởng tượng rằng một tổ chức từ thiện quốc tế được tôn trọng như thế lại bị bôi nhọ và công kích như vậy. Trong nhiều năm, Quỹ Clinton và CGI đều được cả phe Cộng hòa và phe Dân chủ ủng hộ. Những cơ quan kiểm tra độc lập, các tổ chức từ thiện như CharityWatch, GuideStar và Charity Navigator đều đánh giá Quỹ Clinton bằng những thang điểm cao nhất vì đã giảm chi phí và có tầm ảnh hưởng tích cực đáng kể. CharityWatch cho điểm A, Charity Navigator đánh giá 4 sao, và GuideStart xếp Quỹ Clinton vào hạng bạch kim. Nhưng những điều này cũng không thể làm người ta dừng những công tích tàn bạo một chiều vào nó trong suốt chiến dịch. Ở đây tôi viết về quỹ này khá nhiều vì một phân tích gần đây được đăng trên tờ Columbia Journalism Review đã chỉ ra rằng trong suốt chiến dịch, những điều viết về Quỹ Clinton nhiều gấp đôi so với những bài viết nói về các vụ scandal của Trump, và hầu như tất cả những bài về quỹ đều là tiêu cực. Điều này làm tôi vỡ lẽ. Như Daniel Borochoff, người sáng lập CharityWatch nói, “Nếu Hillary Clinton không tranh cử Tổng thống, Quỹ Clinton sẽ được xem là một trong những quỹ nhân đạo xuất sắc nhất trong thế hệ này”. Tôi tin rằng quỹ này đúng là như vậy và sẽ là như vậy, và tôi hoàn toàn tự hào khi là một thành viên của nó. Ngoài những công việc với quỹ, tôi còn dành nhiều thời gian trong năm 2013 và 2014 để viết một cuốn sách với tựa đề Hard Choices (Những lựa chọn khó khăn) nói về những trải nghiệm của mình khi là Ngoại trưởng. Cuốn sách khá dài, hơn 600 trang về chính sách đối ngoại, nhưng vẫn còn khá nhiều những câu chuyện của tôi bị bỏ lại trong phòng biên tập và còn nhiều điều tôi muốn nói. Nếu tôi không tranh cử, tôi sẽ viết nhiều quyển sách khác. Có lẽ là tôi sẽ dạy học và dành nhiều thời gian với các bạn sinh viên. Hơn nữa, như những nhân viên chính phủ trước, tôi biết rằng các tổ chức và doanh nghiệp muốn tôi đến nói chuyện với họ về những kinh nghiệm của mình và chia sẻ suy nghĩ của tôi về thế giới – và họ sẽ trả tôi hậu hĩnh để tôi làm điều này. Tôi tiếp tục có những bài nói chuyện mà không được trả đồng nào, nhưng tôi vẫn muốn cách để kiếm sống tốt mà không cần phải làm cho bất cứ công ty nào hay phải tham gia vào bất cứ ban bệ nào. Đó còn là một cơ hội để gặp gỡ những con người thú vị. Tôi nói chuyện với khán giả thuộc những ngành nghề khác nhau: công ty du lịch và người bán xe, bác sĩ và các doanh nghiệp công nghệ, người bán tạp hóa và người tư vấn trại hè. Tôi còn nói chuyện với giới nhà băng. Thường thì tôi hay kể những câu chuyện trong thời gian làm ở Bộ Ngoại giao và trả lời về những vấn đề nóng bỏng toàn cầu. Tôi hẳn đã kể những câu chuyện hậu trường về cuộc đột nhập đã mang Osama bin Laden ra công lý ít nhất là một trăm lần. Đôi khi tôi kể về tầm quan trọng của việc tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ, cả trên thế giới và trong các tập đoàn Mỹ. Tôi hiếm khi nào nói một chiều. Những gì tôi nói làm khán giả cảm thấy thú vị nhưng chưa đủ đặc biệt để lên tin. Nhiều tổ chức muốn những bài nói chuyện này được chia sẻ riêng tư, và tôi tôn trọng điều này: Họ trả tiền để có được trải nghiệm độc đáo. Điều này cho phép tôi thẳng thắn chia sẻ những ấn tượng của mình về những lãnh đạo thế giới và họ hẳn sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu họ nghe được. (Tôi đang nói về ông đấy, Vladimir). Sau này, những người chống đối tôi thêu dệt nên những câu chuyện về những điều kinh khủng tôi hẳn đã nói sau những cánh cửa khép kín và về cách thức mà tôi, với cương vị Tổng thống, sẽ mãi mãi nằm trong túi của giới nhà băng tăm tối đã trả tiền để tôi phát biểu. Lẽ ra tôi nên thấy được những gì sẽ xảy đến. Xét đến những điều tôi nói về Thượng viện – đặc biệt là những cảnh báo ban đầu của tôi về khủng hoảng thế chấp, những lá phiếu chống lại việc cắt giảm thuế của Bush, và những luận điểm ủng hộ định chế tài chính, bao gồm đóng lại lỗ hổng về thuế của các quỹ đầu cơ được biết như lợi nhuận tích lũy – thì lời công kích này không thuyết phục lắm. Tôi không nghĩ rằng nhiều người Mỹ tin chuyện tôi sẽ bán cả một cuộc đời nguyên tắc và tận hiến với bất cứ giá nào. Khi bạn biết vì sao bạn làm điều gì đó, và bạn biết rằng không có gì hơn về nó và chắc chắn đó không phải là một việc xấu, thật dễ dàng thừa nhận rằng những người khác cũng sẽ thấy theo cách bạn thấy. Đó là một sai lầm. Chỉ bởi vì nhiều nhân viên chính phủ trước được trả một khoản phí lớn để phát biểu, tôi cũng không nên cho rằng sẽ không sao khi tôi làm điều tương tự. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009, lẽ ra tôi nên nhận thấy rằng đó sẽ là một hướng đi tồi tệ và nên né tránh bất cứ điều gì liên quan đến Phố Wall. Tôi đã không làm vậy. Và tôi phải trả giá. Đây là một trong những sai lầm tôi đã phạm phải mà bạn sẽ đọc được trong quyển sách này. Tôi cố gắng tường thuật lại một cách chân thật về việc tôi đã sai lúc nào, đã thiếu sót ở đâu, và điều gì khiến tôi ước mình có thể quay lại và làm khác đi. Điều này chẳng dễ dàng gì, cũng chẳng vui vẻ gì. Sai lầm của tôi đang thiêu đốt tôi từ bên trong. Nhưng như một trong những nhà thơ yêu thích nhất của tôi, Mary Oliver nói, trong khi sai lầm của chúng ta làm chúng ta muốn khóc, thế giới không cần nhiều hơn thế. Sự thật là, ai cũng phạm sai lầm. Đó là điều tự nhiên của con người. Nhưng những sai lầm của chúng ta không định nghĩa được con người chúng ta. Chúng ta chỉ nên được đánh giá dựa trên toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của mình. Nhiều vấn đề không có lời giải đáp và một quyết định tốt ngày hôm nay có thể không được nhìn nhận là đúng đắn trong mười hay hai mươi năm sau qua lăng kính của những điều kiện mới. Khi bạn tham gia chính trường, điều này còn trở nên phức tạp hơn. Tất cả chúng ta đều muốn – và báo giới chính trị đòi hỏi – một “câu chuyện”, và điều này biến con người trở thành hoặc là thánh nhân hoặc là kẻ tội đồ. Bạn không thể vừa được khen vừa được chê. Và chẳng có câu chuyện chính trị nào hấp dẫn bằng chuyện vị thánh nhân bị lột mặt trở thành một kẻ tội đồ. Kiểu nhân vật hoạt hình hai chiều thì dễ tiêu hóa hơn là một con người đa chiều, hoàn chỉnh. Đối với một ứng viên, một lãnh đạo, hay bất cứ ai, câu hỏi không phải là “Anh có sai lầm không?” mà là “Anh làm gì với sai lầm của mình?” Anh có học được gì từ sai lầm của mình để có thể làm tốt hơn và trở nên tốt hơn trong tương lai không? Hoặc anh có chối từ công sức của sự tự hoàn thiện và thay vào đó anh cố kéo những người khác xuống để có thể nói rằng họ cũng xấu xa hoặc tệ hại như anh? Tôi luôn cố gắng làm điều đầu tiên. Và, nói chung, cả đất nước của chúng tôi cũng vậy, với sự tiến bước dài đến một sự đoàn kết hoàn hảo hơn. Nhưng Donald Trump lại làm điều thứ hai. Thay vì thừa nhận những sai lầm, ông ta công kích người khác, hạ thấp và sỉ nhục người khác – thường bằng cách buộc tội họ làm những điều ông ta đã làm hoặc chuẩn bị làm. Vì thế, nếu ông ta biết rằng Quỹ Donald J. Trump của mình chỉ có giá trị nhỉnh hơn một con heo đất chút xíu, ông ta sẽ quay ra và buộc tội mà không có bằng cớ rằng Quỹ Clinton được nhiều người kính trọng đã bị tha hóa. Sự điên loạn này của ông ta có một phương pháp. Đối với Trump, nếu mọi người đều bị kéo xuống bùn với mình thì ông ta không bẩn thỉu hơn những người khác. Ông ta không cần phải làm tốt hơn nếu những người khác đều làm điều tồi tệ. Tôi nghĩ rằng đó là lý do vì sao ông ta có vẻ khoái trá trong việc sỉ nhục những người quanh mình đến vậy. Và đó là lý do ông ta hẳn đã rất vui mừng khi Marco Rubio cố đua theo ông ta trong việc tung hứng những lời lăng mạ xấu xa đến cá nhân trong suốt những cuộc bỏ phiếu phổ thông. Tất nhiên, điều này làm tổn thương Rubio nhiều hơn Trump. Như Bill thường nói, đừng bao giờ đấu vật trong bùn với một con heo. Móng của chúng phù hợp cho việc trụ trong bùn và chúng cực kỳ khoái chuyện bị lấm bẩn. Đáng buồn là chiến thuật của Trump lại thành công. Khi mọi người bắt đầu cho rằng tất cả chính trị gia đều dối trá và đồi bại thì kẻ đồi bại đích thực lại né tránh được sự soi mói và nỗi hoài nghi lại tăng lên. Nhưng tôi đã vượt lên chính mình. Trở lại năm 2014, tôi quyết định tranh cử Tổng thống. Chúng ta đã nói về những việc tôi làm tại quỹ, quyển sách của tôi và những bài nói chuyện, nhưng tới giờ, phần tốt đẹp nhất về cuộc đời tôi sau khi rời chính phủ – và hẳn là lý do chính đáng nhất để không tranh cử – là trở thành bà ngoại. Tôi còn thích chức vụ này hơn là mình nghĩ. Bill và tôi viện nhiều cớ để chạy xuống Manhattan, tạt qua nhà Chelsea và Marc để được gặp Charlotte, chào đời vào tháng 9 năm đó. Chúng tôi trở thành những người trông trẻ, người đọc sách và bạn chơi nhiệt tình nhất thế giới. Chúng tôi vô cùng hoan hỉ khi Aidan ra đời vào tháng 6 năm 2016. Tranh cử Tổng thống một lần nữa có thể đồng nghĩa với việc đưa toàn bộ điều này – cuộc đời tuyệt vời mới của tôi – vào chế độ chờ đợi và lại đi trên sợi dây thăng bằng của chính trị quốc gia. Tôi không chắc mình đã sẵn sàng cho điều này chưa. Gia đình tôi hoàn toàn ủng hộ tôi. Nếu tôi muốn tranh cử, họ sẽ hỗ trợ tôi 100%. Chelsea đã giúp tôi không ngừng nghỉ vào năm 2008, trở thành một người thay thế tuyệt vời và làm bản lề vững chắc cho tôi. Bill biết hơn ai hết về việc làm Tổng thống là như thế nào. Anh còn cho rằng tôi là người phù hợp nhất cho vị trí này và luôn chối rằng không phải đây là cách nói của một người chồng thương vợ. Dù vậy, những trở ngại vẫn vô cùng đáng sợ. Đúng vậy, tôi đã rời khỏi Bộ Ngoại giao cùng với nhiều lời đánh giá tốt đẹp nhất dành cho một người của công chúng – một cuộc trưng cầu từ Wall Street Journal và NBC News vào tháng 1 năm 2013 đã cho tôi 69%. Và theo cuộc khảo sát hằng năm của công ty thăm dò dư luận Gallup, tôi còn là người phụ nữ được ngưỡng mộ nhất thế giới. Thật là những ngày cũ tươi đẹp. Nhưng tôi biết rằng việc tôi được đánh giá cao một phần là bởi vì đảng Cộng hòa sẵn sàng hợp tác với tôi khi tôi là Ngoại trưởng, công nhận và khen ngợi công lao của tôi. Người họ nhắm vào chủ yếu là Tổng thống Obama và phần lớn, họ để tôi được yên. Thêm nữa, báo giới đưa tin tôi vào những năm đó thật sự quan tâm đến công tác ngoại giao và những vấn đề tôi phải đương đầu, điều đó đồng nghĩa là họ chỉ tập trung đưa tin về công việc của tôi, và những tin tức này phần lớn là chính xác. Tôi biết mọi chuyện sẽ khác đi khi tôi ra tranh cử Tổng thống một lần nữa. Như Bill nói – và lịch sử đã chứng minh – niềm khát khao thay đổi bất di bất dịch của đất nước sẽ làm chuyện đắc cử trở nên khó khăn với bất cứ ứng viên đảng Dân chủ nào, đặc biệt là một người gắn bó khăng khít với chính quyền lâm thời như tôi. Năm 2014, tỷ lệ tán thành Tổng thống Obama bị kẹt đâu đó trong khoảng 40%. Dù chính quyền đã nỗ lực hết sức mình nhưng tốc độ hồi phục của nền kinh tế vẫn vô cùng yếu ớt, lương hướng và thu nhập cho hầu hết người Mỹ chưa cải thiện được mấy. Chính quyền phá hỏng việc triển khai những thị trường chăm sóc sức khỏe mới, trong đó có ACA – một trong những thành tựu nổi bật của Tổng thống Obama. Nhóm khủng bố mới ISIS đã chiếm đóng nhiều khu vực ở Iraq và Syria, đang chặt đầu các công dân và phát trực tiếp trên mạng internet. Rồi đại dịch Ebola đang hoành hành ở châu Phi và nhiều người Mỹ lo sợ đại dịch sẽ sớm tràn tới Mỹ. May mắn thay, chính quyền Obama đã phản ứng nhanh nhẹn để có những biện pháp phòng vệ cho sức khỏe cộng đồng và hỗ trợ ngăn chặn Ebola ở Tây Phi. Mặc cho những sự thật hiển nhiên này, những người bảo thủ vẫn không ngừng cảnh báo – mà không đưa ra được bằng chứng nào – rằng nhóm khủng bố ISIS sẽ lẻn vào biên giới phía nam và mang theo đại dịch Ebola. Đó là một thuyết âm mưu nhằm vào ba mục đích của cánh hữu. Trong đợt bầu cử giữa kỳ1 năm 2014, Bill và tôi đều miệt mài vận động khắp cả nước cho những ứng viên đương chức của đảng Dân chủ có nguy cơ rời Quốc hội và những ứng viên mới nặng ký. Đến khuya, chúng tôi ngồi lại để xem xét những ghi chú về nỗi giận dữ, căm ghét và hoài nghi mà mình đang chứng kiến, cũng như những công kích đổ thêm dầu vào lửa của phe Cộng hòa. 1 Bầu cử diễn ra hai năm một lần để chọn các thành viên Quốc hội, gồm tất cả 435 ghế ở Hạ viện và 33 hoặc 34 ghế trong tổng số 100 ghế ở Thượng viện. Ngoài ra, trong những cuộc bầu cử này, 34 trong 50 bang sẽ bầu Thống đốc bang (nhiệm kỳ 4 năm). Nhiều năm nay, những nhà lãnh đạo đảng Cộng hòa đã chọc khoáy vào nỗi thất vọng và sự sợ hãi của dân chúng. Họ sẵn sàng phá hoại chính phủ để chặn đứng nghị trình của Tổng thống Obama. Đối với họ, ngưng hoạt động không phải là lỗi, nó là một đặc điểm. Họ biết rằng Washington càng mang vẻ tồi tệ thì càng có nhiều cử tri sẽ nghĩ chính phủ không phải là một lực lượng hiệu quả cho sự tiến bộ. Họ sẽ nhúng tay vào để những điều tốt đẹp không xảy ra, và rồi hưởng lợi từ chuyện này. Khi có điều gì đó tốt đẹp thực sự diễn ra, như việc mở rộng các chính sách chăm sóc sức khỏe, họ sẽ tập trung vào việc phá hoại nó thay vì làm cho nó tốt đẹp hơn. Với việc nhiều cử tri của họ nhận tin tức từ những nguồn tin một chiều, họ tìm thấy cách để hưởng lợi vì đã tạo nên đông đảo những cử tri nói rằng họ căm ghét chính phủ. Chiến thuật này rõ ràng đã thành công. Năm 2014, ở Georgia và North Carolina, tôi đã vận động cho hai ứng viên thông minh, tài năng, tự chủ và có nhiều cơ hội chiến thắng là Michelle Nunn và Thượng nghị sĩ Kay Hagan. Hai cuộc chạy đua đều suýt soát cho đến phút chót. Nhưng vài ngày trước cuộc bầu cử, một người quan sát chính trị lỗi lạc ở Georgia tâm sự với tôi rằng anh đã tham dự một cuộc trưng cầu riêng tư cho thấy Nunn và những ứng viên Dân chủ khác rớt đài. Phe Cộng hòa đang dùng nỗi sợ hãi về ISIS và Ebola để dọa dẫm người dân và làm dấy lên những câu hỏi rằng liệu đảng Dân chủ, đặc biệt là một người phụ nữ, có đủ cứng rắn về vấn đề an ninh quốc gia hay không. Ở một số bang, phe Cộng hòa chạy một mẩu quảng cáo tập hợp hình ảnh về các phản ứng viên Ebola trong trang phục bảo hộ cùng những bức ảnh Tổng thống Obama đang chơi golf. Thật mỉa mai khi nhớ rằng giờ đây, Donald Trump đang dành 20% nhiệm kỳ Tổng thống của mình ở những câu lạc bộ golf xa hoa của ông ta. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi: Nếu bạn cộng gộp thời gian ông ta dành cho golf, Twitter và tin tức trên mấy kênh truyền hình cáp, thì còn lại bao nhiêu thời gian? Bill kể cho tôi nghe về cuộc nói chuyện đầy phiền não của anh với một người bạn đang sống ở Ozarks, miền bắc bang Arkansas. Anh bạn này sắp trở thành một loài sắp tuyệt chủng ở bang Arkansas này – một người theo đảng Dân chủ, tiến bộ và rất trung thành. Bill gọi cho bạn anh và hỏi anh ấy nghĩ gì về việc Thượng nghị sĩ hai nhiệm kỳ Mark Pryor có thể được tái bầu cử. Mark là một người theo đảng Dân chủ, ôn hòa, và mang một cái tên vàng. (Cha anh, David, là một huyền thoại Arkansas, đã phục vụ trong Quốc hội, là Thống đốc bang, và Thượng nghị sĩ). Mark đã bầu cho Đạo luật Obamacare vì anh tin rằng mọi người xứng đáng được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao mà anh nhận được khi bị ung thư hồi còn trẻ. Người bạn của chúng tôi nói rằng anh không biết, rồi anh và Bill cho rằng cách tốt nhất để biết là đến thăm một cửa hàng ở tận Ozarks nơi vài trăm người thường xuyên ra khỏi rừng để mua thức ăn và nói chuyện chính trị. Khi người bạn của chúng tôi trở về, anh gọi cho Bill và thuật lại những điều mà người chủ cửa hàng đã nói: “Anh biết đó, tôi luôn ủng hộ cho Clinton, và tôi rất quý anh bạn Mark Pryor. Anh ấy là một người tốt và công bằng với tất cả mọi người. Nhưng chúng ta sắp phải trao Quốc hội lại cho phe Cộng hòa rồi”. Người chủ cửa hàng không phải là kẻ ngốc. Anh ta biết rằng đảng Cộng hòa sẽ không làm gì cho anh và những người hàng xóm của anh. Nhưng anh nghĩ đảng Dân chủ cũng không làm được gì. “Và ít nhất đảng Cộng hòa sẽ không làm gì ảnh hưởng đến chúng tôi”, anh nói. “Đảng Dân chủ muốn tước đi súng của tôi và muốn tôi đến dự tiệc cưới của mấy cặp đôi đồng tính”. Tất nhiên, Mark thua trong ngày bầu cử trước đối thủ Tom Cotton, một trong những thành viên cánh hữu của Quốc hội. Không phải là cử tri quay lưng lại với những chính sách mà Mark và những người đảng Dân chủ khác đã làm tốt – thật ra, trong cùng kỳ bầu cử, họ đã thông qua việc tăng mức lương trung bình của bang. Nhưng chính trị của đặc tính văn hóa và sự căm ghét đã làm mờ đi những bằng chứng, lý lẽ và trải nghiệm cá nhân. Có vẻ như Brexit1 đã đến với nước Mỹ thậm chí trước cả cuộc bầu chọn ở Anh quốc, và năm 2016 không báo trước điều gì suôn sẻ. Đảng của chúng tôi có lẽ đã thắng trong cuộc bỏ phiếu phổ thông vào năm trên sáu kỳ bầu cử Tổng thống vừa qua, nhưng bối cảnh chính trị cho cuộc chạy đua năm 2016 đang trở nên cam go hơn nhiều. 1 Cụm từ chỉ việc nước Anh tách ra khỏi Liên minh châu Âu. Ở đây, chỉ sự chia rẽ của nước Mỹ. Cứ như thể những chuyện này chưa đủ để lo nghĩ, vẫn còn một thực tế đơn giản nhưng khó tránh khỏi: Tôi sắp qua tuổi 68. Nếu tôi tranh cử và giành chiến thắng, tôi sẽ là Tổng thống già nhất kể từ nhiệm kỳ của Reagan. Tôi đồ rằng sẽ có nhiều làn sóng tin đồn xoay quanh vấn đề sức khỏe của tôi – và mọi thứ khác trong cuộc đời tôi. Những tin đồn này sẽ rất công kích, ngớ ngẩn và ngấm ngầm. Nhưng trái ngược với những tin đồn dồn dập được giới truyền thông cánh hữu bịa ra và lan truyền, sức khỏe của tôi rất tốt. Tôi đã hồi phục hoàn toàn từ lần ngất xỉu cuối năm 2012. Và cả thế giới có thể thấy rằng tôi không có vấn đề gì trong việc theo sát lịch di chuyển hành xác đó. Tôi ngưỡng mộ những người như Diana Nyad, vì chị đã trở thành người đầu tiên bơi từ Cuba đến bang Florida mà không phải ngồi trong lồng cá mập ở tuổi 64. Khi đến được bờ, chị đã đưa ra ba lời khuyên: Không bao giờ bỏ cuộc. Bạn không bao giờ quá già để theo đuổi ước mơ của mình. Và dù bơi lội có vẻ giống như một môn thể thao độc lập, thì đó cũng là công sức của cả một tập thể. Đây là những lời vàng để noi theo! Dù vậy, đó có phải là thứ tôi muốn dành thời gian của mình bây giờ không? Liệu tôi có thật sự muốn đặt mình trở lại cơn nước sôi lửa bỏng của chính trị quốc gia nhiều năm ròng rã, đầu tiên là trong chiến dịch và rồi, hy vọng là, ở Nhà Trắng hay không? Vài người bạn thân thiết nhất của tôi – gồm cả các cố vấn lâu đời và cũng là cựu chánh văn phòng ở Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao, Maggie Williams và Cheryl Mills – nói với tôi rằng tôi có điên mới ra tranh cử. Nhiều người khác ở vào vị trí của tôi đã bỏ qua cơ hội tranh cử: tất cả mọi người từ Đại tướng Colin Powell, đến Mike Bloomberg, đến Thống đốc bang New York Mario Cuomo. Mario đã tiến rất gần đến chuyện tranh cử, có cả một phi cơ đang chờ sẵn trên đường băng để chở anh đến New Hampshire và cuối cùng anh quyết định “không”. Vậy thì vì sao tôi lại ra tranh cử? Tôi tranh cử vì khi bạn đã xóa đi những lý do tủn mủn và không mấy-tủn-mủn để không tham gia tranh cử – tất cả những chuyện đau đầu, tất cả những trở ngại – thì điều còn lại quan trọng đến nỗi không thể bỏ qua. Đó là cơ hội để làm điều tốt nhất mà tôi có thể làm. Chỉ một ngày trong Nhà Trắng, bạn có thể hoàn thành nhiều việc cho nhiều người hơn là dành hằng tháng ở bất cứ nơi nào khác. Chúng tôi phải xây dựng một nền kinh tế phù hợp cho tất cả mọi người và một xã hội tôn trọng tất cả mọi người. Chúng tôi phải đương đầu với những nguy cơ an ninh quốc gia nghiêm trọng. Những vấn đề này lúc nào cũng ngự trị trong đầu tôi, và tất cả điều này đòi hỏi một Tổng thống mạnh mẽ và đủ năng lực. Tôi biết tôi sẽ cố gắng hết sức mình trong từng phút giây. Một khi tôi bắt đầu nghĩ theo hướng đó thì tôi không thể nào ngừng được. Trước chuyện này, người cho tôi cơ hội đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao một lần nữa lại đóng vai trò quyết định. Một tháng sau khi tôi rời khỏi Bộ Ngoại giao vào năm 2013, Barack và Michelle mời Bill và tôi tham dự một bữa tối riêng tư ở Nhà Trắng. Bốn người chúng tôi nói về mấy đứa con và kinh nghiệm nuôi dạy chúng trong cái bể cá Nhà Trắng này. Chúng tôi bàn luận về cuộc sống sau Phòng Bầu dục. Barack và Michelle nói về việc có lẽ một ngày nào đó sẽ dời đến New York như chúng tôi đã làm. Viễn cảnh đó vẫn còn rất xa vời. Tất cả chúng tôi đều đặt nhiều hy vọng lớn lao vào nhiệm kỳ thứ hai của Barack. Vẫn còn nhiều chuyện chưa giải quyết xong, cả ở nhà và trên trường thế giới. Rồi chúng tôi dành hàng giờ để nói chuyện đến khuya trong đêm đó. Nếu (trở lại những ngày dầu sôi lửa bỏng của năm 2008) bất cứ ai trong chúng tôi có thể mơ hồ nghĩ đến bữa tối đó, thì hẳn là không ai trong chúng tôi tin được điều này. Năm sau đó, Tổng thống và tôi vẫn liên lạc thường xuyên với nhau. Anh mời tôi đến dùng bữa trưa mùa hè năm đó, và hai người chúng tôi ngồi ở hiên ngoài Phòng Bầu dục ăn cơm jambalaya1. Tôi nghĩ anh chỉ đang ghen tị một chút với sự tự do tôi mới tìm được, và điều này cũng gợi nhắc rằng vị trí này bộn bề tới cỡ nào. Chúng tôi ăn trưa lần nữa vào mùa xuân tiếp theo. Thi thoảng Tổng thống và tôi nói về công việc, đặc biệt là những thử thách về chính sách đối ngoại anh đang đối mặt trong nhiệm kỳ thứ hai. Nhưng dần dần, từ năm 2013 bước sang năm 2014, những cuộc chuyện trò của chúng tôi cũng chuyển hướng sang đề tài chính trị thường xuyên hơn. 1 Cơm nấu với giăm-bông, xúc xích gà, tôm hoặc sò cùng với rau. Tổng thống Obama nhận thức được những thách thức mà đảng Dân chủ đang đối mặt. Anh không bao giờ xem việc được tái bầu cử là điều hiển nhiên, và trong khi đây là một chiến thắng vang dội trong năm 2012 (kiểu vang dội liên quan đến chính trị), anh biết rằng di sản của mình sẽ phụ thuộc phần lớn vào chiến thắng của đảng Dân chủ vào năm 2016. Anh nói rõ ràng rằng anh tin tôi là cơ hội tốt nhất của đảng chúng tôi để vào Nhà Trắng và làm tiếp những công việc này, và anh muốn tôi nhanh chóng chuẩn bị ra tranh cử. Tôi biết Tổng thống Obama rất đề cao Phó Tổng thống Joe Biden, và cũng thân cận với một số ứng viên tiềm năng khác, nên lá phiếu tín nhiệm của anh mang ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Chúng tôi có những khác biệt trong phong cách lẫn nền tảng, nhưng tựu trung, chúng tôi đều có cùng những giá trị và các chính sách mục tiêu. Chúng tôi đều thấy mình là những nhà tiến bộ thực tế đang cố gắng đẩy quốc gia tiến lên phía trước, trước sự chống đối không ngừng nghỉ từ đảng Cộng hòa khi đảng này có nhiều nhà lãnh đạo từ nhóm thủ cựu của phong trào Tiệc Trà1 và phục tùng cho những tỷ phú chống lưng phía sau. Tôi hiểu sự hối thúc của Tổng thống về nhiều vấn đề đang gặp nhiều rủi ro trong năm 2016, nhưng tôi vẫn không hoàn toàn tin rằng tranh cử là quyết định đúng đắn. 1 Phong trào chính trị phân quyền tại Mỹ, nổi bật chủ yếu vì giảm nợ công quốc gia và ngân sách liên bang bằng cách giảm chi phí và thuế má. Phong trào này được xem như sự hòa trộn của chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa tự do cá nhân và chủ nghĩa dân túy. Phong trào đã tổ chức các cuộc biểu tình và ủng hộ các ứng viên chính trị kể từ năm 2009. Như những gì tôi đã nhận ra khi anh khăng khăng muốn tôi làm Ngoại trưởng và rõ ràng là anh sẽ không chấp nhận một lời từ chối, Tổng thống Obama là một người giỏi thuyết phục và rất kiên cường. Vào mùa hè năm 2013, David Plouffe, cựu quản lý chiến dịch của Obama, người đã tạo ra thất bại của tôi vào năm 2008, đề nghị hỗ trợ và tư vấn cho tôi khi tôi đang lên kế hoạch cho những bước tiếp theo sau khi rời Bộ Ngoại giao. Tôi mời anh đến nhà tôi ở Washington và nhanh chóng nhận ra vì sao Tổng thống dựa vào anh nhiều như vậy. Rõ ràng là Plouffe hiểu công việc của mình. Chúng tôi gặp lại vào tháng 9 năm 2014, anh đến nhà tôi một lần nữa để trình bày về cách xây dựng một chiến dịch tranh cử Tổng thống giành được thắng lợi. Anh trình bày chi tiết về chiến thuật, dữ liệu, nhân sự và thời gian. Tôi chăm chú lắng nghe, quyết tâm rằng nếu tôi thật sự nhảy vào cuộc đua, tôi sẽ tránh những sai lầm đã gây rắc rối cho tôi lần trước. Plouffe nhấn mạnh rằng thời gian là điều quan trọng, nhấn mạnh rằng chỉ còn hai năm nữa là đến kỳ bầu cử. Thực tế, anh nói rằng tôi đã trễ rồi và khẩn khoản giục tôi phải bắt đầu. Anh đã đúng. Đối với tôi, các chiến dịch chính trị luôn là điều phải vượt qua để có thể cầm quyền, và đó là một phần thưởng thật sự. Tôi không phải là một chính trị gia xuất chúng bẩm sinh. Tôi tốt hơn những gì người khác công nhận, nhưng đúng là tôi luôn cảm thấy thoải mái khi nói về người khác hơn là nói về bản thân mình. Điều này giúp tôi trở thành một Đệ Nhất Phu nhân, người đại diện, và viên chức chính trị mẫn cán, nhưng khi trở thành một ứng cử viên, tôi phải điều chỉnh lại. Ban đầu, tôi phải chủ động cố gắng sử dụng từ “tôi” nhiều hơn. May là tôi thích gặp gỡ mọi người, thích lắng nghe, học hỏi, xây dựng các mối quan hệ, hoạch định chính sách và cố gắng giúp xử lý vấn đề. Tôi hẳn sẽ thích gặp tất cả 320 triệu người Mỹ cùng một lúc. Nhưng đó không phải là cách một chiến dịch diễn ra. Cuối cùng, tôi trở lại với phần quan trọng nhất đối với mình. Những người theo hội Giám lý1 như chúng tôi được dạy phải “làm tất cả điều tốt mà bạn có thể làm được”. Tôi biết rằng nếu tôi tranh cử và đắc cử, tôi có thể làm rất nhiều điều tốt và giúp rất nhiều người. 1 Một giáo hội thuộc Cộng đồng Kháng Cách (Protestant); giáo lý của hội Giám lý đơn giản, chú trọng đến sự thành tâm khi thờ phụng chúa Giêsu. Liệu điều này có làm tôi tham vọng quá không? Tôi đoán là có. Nhưng không phải theo cái cách xấu xa mà nhiều người ám chỉ. Tôi không muốn trở thành Tổng thống chỉ bởi vì tôi đam mê quyền lực. Tôi chỉ muốn có quyền lực để làm những gì tôi có thể để giúp giải quyết các vấn đề và chuẩn bị quốc gia cho tương lai. Bất cứ ai nghĩ rằng anh ấy hay cô ấy nên trở thành Tổng thống cũng thật bạo gan, nhưng tôi tin tôi có thể trở thành Tổng thống. Tôi bắt đầu gọi điện cho các chuyên gia chính sách, đọc những tập hồ sơ dày đầy thông tin, và lên danh sách các vấn đề cần phải suy nghĩ kỹ. Tôi trở nên phấn khởi khi nghĩ về tất cả những cách mà chúng tôi có thể làm để giúp nền kinh tế mạnh hơn, công bằng hơn, cải thiện chính sách chăm sóc sức khỏe và tăng độ phủ trên truyền thông, điều chỉnh sao cho chi phí đại học phù hợp hơn và các chương trình đào tạo nghề hiệu quả hơn, cũng như đương đầu với những thử thách lớn như biến đổi khí hậu và nạn khủng bố. Đó thật sự là những chuyện rất thú vị. Tôi nói chuyện với John Podesta, một người bạn lâu năm đã đảm nhiệm chức Chánh văn phòng ở Nhà Trắng trong nhiệm kỳ của Bill và cũng là một chuyên gia tham mưu hàng đầu cho Tổng thống Obama. Nếu tôi ra tranh cử lần nữa, tôi sẽ cần sự giúp đỡ của John. Anh hứa rằng nếu tôi tranh cử, anh sẽ rời Nhà Trắng và trở thành chủ tịch cho chiến dịch của tôi. Anh nghĩ chúng tôi có thể hợp thành một đội tuyệt vời rất nhanh chóng. Một đội tràn đầy nhiệt huyết với tên gọi “Sẵn sàng vì Hillary” (“Ready for Hillary”) đã sẵn sàng kêu gọi sự ủng hộ. Tất cả những điều này giúp tôi cực kỳ vững tin. Tôi nghĩ lại điều đã làm tôi tranh cử vào Thượng viện lần đầu tiên. Lúc đó là cuối những năm 90 và đảng Dân chủ ở New York hối thúc tôi chạy đua, nhưng tôi cứ lần lữa mãi. Chưa có Đệ Nhất Phu nhân nào làm bất cứ điều gì tương tự trước đây. Và tôi không tham gia chạy đua công chức kể từ khi tôi là chủ tịch chi bộ sinh viên ở Đại học Wellesley. Một ngày nọ, tôi ghé thăm một ngôi trường ở New York với ngôi sao tennis Billie Jen King để tham gia quảng bá cho một bộ phim đặc biệt của HBO về phụ nữ trong làng thể thao. Lơ lửng trên đầu chúng tôi là một biểu ngữ lớn ghi tựa đề của bộ phim, Dám tranh đua (Dare to Compete). Trước khi tôi phát biểu, cô đội trưởng mười bảy tuổi của đội bóng rổ trường trung học giới thiệu tôi. Cô bé là Sofia Totti. Khi chúng tôi bắt tay, cô bé cúi xuống và thì thầm vào tai tôi: “Dám tranh đua, thưa bà Clinton. Dám tranh đua”. Có điều gì đó chợt lóe lên. Nhiều năm nay, tôi thường khuyến khích những phụ nữ trẻ hãy bước lên, tham gia, dấn thân vào những gì mình tin tưởng. Sao tôi lại không sẵn sàng làm điều tương tự chứ? Mười lăm năm sau, tôi hỏi chính mình câu hỏi tương tự. Việc tôi tuyên bố “Tôi sẽ tranh cử!” cũng chẳng phải là một chuyện quá đột ngột. Bill và tôi khép lại năm 2014 với một chuyến đi đến căn nhà tuyệt đẹp của bạn chúng tôi là Oscar và Annette de la Renta ở Cộng hòa Dominica. Chúng tôi bơi lội, thưởng thức thức ăn ngon, chơi bài, và nghĩ về tương lai. Khi trở về, tôi đã sẵn sàng để tham gia tranh cử. Tranh luận gay cấn nhất là làm sao để nói to lên: Tôi tin rằng cả Bill và Barack đều đúng khi họ nói rằng tôi sẽ là một Tổng thống tốt hơn bất cứ ai ngoài kia. Tôi còn nghĩ rằng tôi sẽ thắng nữa. Tôi biết rằng đảng Cộng hòa đã đi xa khỏi cái cốt lõi của nền chính trị Mỹ hơn nhiều so với đảng Dân chủ, như một nhà khoa học chính trị trung lập đã nghiên cứu. Nhưng tôi cho rằng nước Mỹ vẫn còn là một nước khá nhạy cảm. Các thế hệ trước đối mặt với những khủng hoảng tồi tệ hơn bất cứ điều gì chúng tôi đã thấy, từ Nội chiến đến Đại khủng hoảng, từ Thế chiến thứ hai đến Chiến tranh lạnh, và họ đã phản hồi bằng cách bầu chọn ra những người lãnh đạo tài năng và khôn ngoan. Rất hiếm khi người Mỹ bị những điều cực đoan lôi kéo hay bị cuốn theo những hệ tư tưởng, dù có thì cũng không quá lâu. Cả hai đảng quan trọng, mặc cho những điều điên khùng trong tiến trình đề cử, hầu như luôn chọn ra được những ứng viên sáng giá nhất. Trước năm 2016, chúng tôi sẽ không bao giờ bầu cho một Tổng thống không tuân theo những tiêu chuẩn căn bản của nền dân chủ và sự mực thước. Nếu tôi là ứng viên sáng giá nhất, có những ý tưởng tốt về tương lai, giữ vững phong độ trên đường đua và trong những cuộc tranh luận, và chứng tỏ được năng lực làm được mọi chuyện với cả đảng Cộng hòa và Dân chủ, thì hoàn toàn có lý để tin tôi có thể được bầu và có thể cầm quyền một cách hiệu quả. Đó là lý do tôi tranh cử. Có nhiều điều tôi hối tiếc trong chiến dịch năm 2016, nhưng quyết định tranh cử không nằm trong số đó. Tôi bắt đầu chương này với vài dòng từ bài thơ East Coker của T.S. Eliot mà tôi rất thích: Chỉ còn một cuộc chiến để khôi phục những gì đã mất Tìm thấy và lạc mất lần nữa và lần nữa: và giờ, trong những điều kiện Dường như không thuận lợi. Nhưng có thể không chỉ là được hay mất. Chúng ta chỉ việc cố gắng. Những thứ còn lại không phải là chuyện của chúng ta. Lần đầu tiên tôi đọc những dòng thơ này, tôi là cô gái tuổi teen ở Park Ridge, Illinois, nó đánh trúng vào tâm khảm của tôi, có lẽ là ở một nơi khuất kín với những ký ức xa xưa về những con người bất khuất xứ Wales và những người thợ mỏ người Anh ẩn sau những câu chuyện từ thời thơ ấu thiếu thốn và bị bỏ rơi của mẹ tôi mà tôi chỉ mới hiểu một nửa. “Chỉ còn cách cố gắng”. Tôi đọc lại bài thơ vài năm sau đó, năm 1969, khi các bạn học ở Wellesley muốn tôi phát biểu trong buổi lễ tốt nghiệp. Nhiều người chúng tôi cảm thấy chán chường và thất vọng vì cuộc chiến ở Việt Nam và tình trạng phân biệt chủng tộc ở Mỹ, cuộc ám sát Tiến sĩ Martin Luther King Jr. và Robert F. Kennedy, và vì biểu hiện bất lực trong việc thay đổi vận mệnh đất nước. Tôi diễn giải lại khổ thơ tiếng Anh tinh tế của Eliot theo kiểu của miền Trung Tây Mỹ: “Chỉ còn cách cố gắng”, tôi nói với bạn bè mình, “lần nữa và lần nữa và lần nữa; để giành lấy những gì chúng ta đã mất trước kia”. Kể từ đó, gần 50 năm nay, những dòng thơ này trở thành câu chú của tôi và gia đình tôi, dù thành hay bại, điều quan trọng là “phải cố gắng hết sức”. Dù bạn đang cố giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử hay thông qua một điều luật có thể giúp hàng triệu người, xây dựng tình bằng hữu hay cứu một cuộc hôn nhân, bạn sẽ không bao giờ biết chắc mình sẽ thành công. Nhưng bạn phải cố gắng. Lần nữa và lần nữa và lần nữa. Tôi muốn mình được dùng cho đến sức cùng lực kiệt khi chết đi, vì tôi càng làm việc chăm chỉ bao nhiêu thì tôi càng sống nhiều bấy nhiêu. Cuộc sống không phải là “ngọn nến cùn”. Nó là một ngọn đuốc sáng rực rỡ mà tôi được cầm trong một khắc; và tôi muốn làm nó bừng cháy rực rỡ hết mức có thể trước khi trao lại cho thế hệ tương lai. —George Bernard Shaw Bắt đầu B ạn có thể nói rằng chiến dịch tranh cử Tổng thống của tôi bắt đầu bằng một đoạn video ngắn đăng trên mạng vào tháng 4 năm 2015, quay cảnh bên ngoài nhà tôi ở Chappaqua. Hoặc bạn cũng có thể nói nó bắt đầu bằng bài diễn văn tuyên bố chính thức tháng 6 năm đó ở Đảo Roosevelt, New York. Nhưng tôi nghĩ, nó bắt đầu bằng thứ gì đó bình thường hơn rất nhiều: như một tô burrito1 ở tiệm Chipotle chẳng hạn. 1 Một món ăn Mexico, gồm thịt gà với các loại rau củ như bơ, dưa leo cắt hạt lựu, trộn với sốt. Nếu bạn tự hỏi tôi đang nói về điều gì thì có lẽ bạn không có thú vui đọc báo mạng hay xem tin trên truyền hình cáp. Đó là ngày 13 tháng 4 năm 2015 ở Maumee, bang Ohio. Chipotle là điểm dừng trong chuyến hành trình của tôi từ New York đến Iowa, nơi diễn ra kỳ bỏ phiếu kín đầu tiên của cả nước. Đó là một chuyến đi mà chúng tôi không muốn gây sự chú ý. Không báo giới, không đám đông. Chỉ có tôi, vài nhân viên, và nhân viên Sở Mật vụ. Chúng tôi túm tụm trong một chiếc xe tải nhỏ màu đen được tôi gọi là Scooby vì nó làm tôi nhớ đến Cổ máy Bí ẩn trong bộ phim hoạt hình Scooby-Doo (chiếc xe của chúng tôi ít mang vẻ phiêu lưu hơn nhưng chúng tôi vẫn rất yêu quý nó) và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm. Tôi có hàng mớ ghi chép để đọc và một danh sách dài những cuộc gọi phải thực hiện. Tôi còn tra Google mọi trạm NPR1 từ Weschester đến Des Moines nữa chứ – có nhiều thứ phải chuẩn bị cho một chuyến đi dài. 1 Viết tắt của “National Public Radio” – Đài phát thanh Quốc gia, kênh thông tin quan trọng của đại đa số người Mỹ. Ở Ở Maumee, chúng tôi dừng xe trong bãi đậu của một trung tâm mua sắm gần đại lộ để ăn trưa. Tôi gọi một tô burrito gà với một bên là món guacamole2. Nick Merrill, thư ký báo chí hành trình, trêu tôi vì món này được đựng trong một cái tách nhỏ và tôi dùng muỗng để múc, thay vì xúc bằng khoai tây chiên. Không ai trong nhà hàng nghĩ rằng việc tôi ở đây là điều gì đó ghê gớm. Sự thật là không ai nhận ra tôi. Thật tốt làm sao! 2 Một món ăn Tây Ban Nha gồm bơ nghiền với hành tây, cà chua, ớt… Nhưng khi mấy phóng viên nhận ra, họ hành xử như thế một chiếc UFO đã đáp xuống Ohio và một người hành tinh vừa mới bước vào một quán Chipotle. CNN phát những đoạn băng đầy hột mưa từ camera an ninh của nhà hàng, và trông như chúng tôi đang cướp nhà băng. Tờ New York Times thì làm một bài phân tích và kết luận rằng bữa ăn của tôi nhiều dinh dưỡng hơn bình quân các món ăn được kêu ở Chipotle, ít calories, ít chất béo bão hòa, và nhiều kẽm hơn. (Tờ Times đã ở chỗ này, họ rõ ràng là ăn điểm hơn so với CNN). Tất cả những chuyện này khá là ngớ ngẩn. Diễn giải lại theo cách của người xưa thì đôi khi “mèo vẫn hoàn mèo”3 thôi. 3 Nguyên tác: a burrito bowl is just a burrito bowl. Không lâu sau đó, tôi trở lại Iowa, bang này đã trao cho tôi một vị trí khiêm tốn – xếp thứ ba chung cuộc vào năm 2008. Như tất cả các cuộc hành trình khác, tôi muốn chuyến viếng thăm đầu tiên này đi đúng trọng tâm. Tôi sẽ lắng nghe nhiều hơn và nói ít hơn, theo cách tôi bắt đầu trong chiến dịch đầu tiên chạy đua vào Thượng viện ở New York. Giám đốc chiến dịch mới của tôi tại bang này – Matt Paul, người am hiểu Iowa từ trong ra ngoài sau nhiều năm làm việc cho Thống đốc Tom Vilsack và Thượng nghị sĩ Tom Harkin – cũng đồng tình. Người Iowa muốn tìm hiểu về ứng viên của họ chứ không chỉ nghe họ phát biểu. Đó cũng chính là điều tôi muốn làm. Khi Donald Trump bắt đầu chiến dịch, ông ta có vẻ tự tin rằng mình có mọi câu trả lời. Ông ta không có hệ tư tưởng cốt lõi ngoại trừ cái bản ngã cao ngất trời của mình, mà điều này sẽ chặn đứng mọi hy vọng học hỏi hay phát triển. Vì thế, ông ta không cần phải lắng nghe bất kỳ ai ngoài bản thân mình. Tôi tiếp cận mọi việc theo cách khác. Sau bốn năm bôn ba khắp thế giới trong vai trò Ngoại trưởng, tôi muốn kết nối lại với những vấn đề đã làm cho những gia đình người Mỹ thao thức trong đêm và trực tiếp lắng nghe những hy vọng của họ cho tương lai. Tôi có hệ ý tưởng cốt lõi và nhiều nguyên tắc nhưng vẫn muốn nghe cử tri nói để có thể vạch ra những kế hoạch mới phù hợp với những gì thật sự xảy ra trong đời sống của họ và ở đất nước này. Một trong những người đầu tiên tôi gặp ở New Hampshire đã đưa ra một tình huống. Pam là một bà ngoại ở độ tuổi 50, tóc bạc và có dáng vẻ của một người đang mang nhiều trách nhiệm trên đôi vai. Chị là nhân viên của một công ty gia đình chuyên kinh doanh nội thất đã hoạt động được 111 năm mà tôi ghé qua ở Keene. Chúng tôi đang nói về cách giúp những doanh nghiệp nhỏ phát triển, nhưng Pam bận tâm về một thách thức khác. Con gái chị bị phụ thuộc vào thuốc giảm đau sau khi sinh một bé trai, điều này khiến cô ấy phải đấu tranh suốt thời gian dài để cai thuốc. Cuối cùng Sở Trẻ em và Gia đình bắt đầu gọi cho Pam, cảnh báo rằng cháu ngoại chị có thể sẽ phải vào trung tâm bảo trợ trẻ em. Vì thế chị và chồng mình, John, nhận nuôi đứa bé và Pam lại quay về với vai trò là người chăm sóc chính mà chị nghĩ chị đã hoàn thành nhiều năm trước đó rồi. Pam không phải là kiểu người hay than vãn. Đây là nghĩa vụ của tình yêu và chị rất mừng là mình đã kịp thời cứu giúp, đặc biệt là bây giờ khi con gái chị đang được điều trị. Nhưng chị rất lo. Nhiều gia đình trong thị trấn đang đối mặt với những khó khăn tương tự. Ở New Hampshire, số người chết vì dùng thuốc quá liều còn nhiều hơn vì tai nạn giao thông. Số người đang tìm kiếm liệu trình điều trị nghiện ma túy đã tăng 90% trong thập niên qua. Đối với những loại thuốc được kê đơn thì con số này là 500%. Tôi biết một chút về điều này. Bill và tôi là bạn của ba gia đình đã mất những người con vẫn còn trong độ tuổi thiếu niên vì thuốc giảm đau opioid. (Đáng buồn là con số đã thành năm người). Một người là cậu thiếu niên nhiệt tình làm việc tại Bộ Ngoại giao trong khi còn đang học trường luật. Một người bạn của cậu cho cậu mấy viên thuốc, và sau khi uống thuốc rồi đi ngủ đêm đó, cậu không bao giờ thức dậy. Những người khác uống thuốc sau khi uống rượu, và tim họ ngừng đập. Sau những bi kịch đó, Quỹ Clinton đã hợp tác với Adapt Pharma để phát miễn phí naloxone – thuốc giải độc opioid – đến từng trường trung học và đại học ở Mỹ để giúp cứu sống nhiều mạng người bằng cách ngăn ngừa quá liều. Trong chuyến viếng thăm đầu tiên đến New Hampshire, trong một quán cà phê ở trung tâm của Keene, một vị bác sĩ về hưu cúi về trước và hỏi, “Tôi có thể làm gì trước đại dịch opioid và heroin?” Thật ớn lạnh khi nghe từ đó, đại dịch, nhưng đó là một từ chính xác. Vào năm 2015, hơn 33 ngàn người chết vì quá liều opioid. Nếu cộng thêm số người chết trong năm 2014, thì con số này còn nhiều hơn số người Mỹ chết trong Chiến tranh Việt Nam. Những biện pháp điều trị không thể tiếp cận dễ dàng. Nhiều bậc cha mẹ đang phải dành toàn bộ tiền tiết kiệm để chi trả chi phí điều trị. Một vài người đành gọi cảnh sát để khai báo về con mình bởi vì họ đã thử mọi cách khác rồi. Dù vậy, việc lạm dụng thuốc vẫn chưa nhận được sự chú ý của quốc gia, dù ở Washington hay trên các phương tiện truyền thông. Tôi đã không nghĩ đây là một vấn đề trong chiến dịch cho đến khi tôi bắt đầu lắng nghe những câu chuyện như chuyện của Pam ở Iowa và New Hampshire. Tôi triệu tập đội chính sách và bảo họ chúng ta phải nghĩ ra ngay một chiến thuật. Những cố vấn của tôi tỏa ra. Chúng tôi tổ chức những cuộc họp ngay tại các tòa thị chính và nghe nhiều câu chuyện hơn. Trong một cuộc gặp ở New Hampshire, một tư vấn viên về lạm dụng thuốc hỏi những người đã bị tác động của đại dịch này giơ tay lên. Gần như mọi cánh tay trong phòng đều đưa lên. Một phụ nữ đang được điều trị nói với tôi, “Chúng tôi không phải là những người xấu đang muốn hoàn lương. Chúng tôi là những người bệnh đang cố khỏe trở lại”. Để giúp chị và hàng triệu người khác làm điều đó, chúng tôi đã nghĩ ra một kế hoạch để gia tăng việc tiếp cận các phương pháp điều trị, tập huấn nâng cao cho các bác sĩ và dược sĩ kê đơn những loại thuốc bán theo toa, cải cách hệ thống pháp luật hình sự để thêm nhiều người nghiện ma túy phi bạo lực có thể vào trại cai nghiện thay vì phải vào tù, và đảm bảo rằng mỗi phản ứng viên ở Mỹ đều mang theo naloxone, một loại thuốc gần như là tiên dược vậy. Điều này trở thành kiểu mẫu cho cách chiến dịch của tôi được thực hiện trong những tháng đầu tiên đó. Mọi người kể cho tôi nghe hết câu chuyện này đến câu chuyện khác về những thách thức mà gia đình họ phải đối mặt: nợ sinh viên, tiền thuốc theo toa và tiền bảo hiểm quá cao, lương quá thấp nên không thể đáp ứng mức sống trung lưu. Tôi dùng những cuộc trò chuyện này để hướng dẫn cho việc lập nên các chính sách ở tổng hành dinh của chúng tôi tại Brooklyn. Tôi muốn bộ phận chính sách của mình phải mạnh mẽ, sáng tạo, siêng năng, và quan trọng hơn hết thảy, đáp ứng được những nhu cầu thiết thực nhất cho mọi người. Jake Sullivan, giám đốc hoạch định chính sách ở Bộ Ngoại giao; Ann O’Leary, một cố vấn lâu năm có cùng niềm say mê đối với các chính sách chăm sóc sức khỏe và trẻ em như tôi; và Maya Harris, một luật sư kỳ cựu về quyền công dân, đã xây dựng và dẫn dắt một đội ngũ tuyệt vời. Bạn có thể so sánh điều này với cách Trump đã làm. Khi đại dịch opioid cuối cùng cũng được giới truyền thông chú ý, ông ta nhảy bổ vào đó để làm mọi người tin rằng người Mỹ đang bại hoại. Nhưng một khi trở thành Tổng thống, ông ta quay lưng lại với những người đang cần giúp đỡ bằng cách tìm cách cắt giảm chi phí đầu tư vào việc điều trị. Báo giới thường có vẻ không mặn mà với những cuộc gặp gỡ bàn tròn nơi diễn ra những cuộc nói chuyện này. Giới phê bình coi đó là những trò được sắp đặt hoặc đã được kiểm soát chặt chẽ. Nhưng tôi không chán. Tôi muốn nói chuyện với mọi người chứ không phải nói cho họ nghe. Tôi còn học được rất nhiều điều. Theo tôi, đây là một ý nghĩa quan trọng của các cuộc tranh cử Tổng thống. Suốt nhiều tháng dài trong lần tranh cử thứ hai này, tôi nghĩ rất nhiều về kiểu chiến dịch mà tôi muốn thực hiện. Chắc chắn là tôi muốn khác với kiểu tôi đã thực hiện trong lần thất bại trước Barack Obama vào năm 2008. Tôi nghiên cứu những điều anh làm đúng và tôi làm sai. Có nhiều điều để học hơn sau năm 2012, khi Tổng thống thực hiện một chiến dịch mạnh mẽ giúp anh vượt qua đối thủ Mitt Romney trong kỳ tái ứng cử, với một khoảng cách lớn trong bối cảnh nền kinh tế khá ảm đạm. Hai chiến dịch của anh là hai trong những chiến dịch thành công nhất. Tôi cần phải chú ý nhiều. Chuyến đi đầu im hơi lặng tiếng tới Iowa đã đem lại những bài học mà tôi luôn ghi nhớ khi bắt đầu sắp xếp lại tổ chức của mình. Năm 2008, tôi bị chỉ trích vì đến Iowa như một bà hoàng, tổ chức những cuộc hội họp lớn và hành xử như thể chiến thắng là chuyện hiển nhiên. Tôi chưa bao giờ nghĩ đó là những mô tả đúng và công tâm về tôi hay về chiến dịch của tôi; chúng tôi tin rằng tôi có thể chiếm ưu thế trong một sân vận động đông đảo và nhiều người tài năng, nhưng chắc chắn chúng tôi không xem Iowa là điều hiển nhiên. Sự thật là chúng tôi nhận ra rằng đó không phải là cuộc đua đầu tiên lý tưởng cho tôi và chúng tôi đã dành toàn bộ năm 2007 để cố gắng tìm ra cách làm tốt nhất. Dù vậy, những lời chỉ trích vẫn còn, và tôi lưu tâm đến việc này. Lần này tôi quyết tâm tranh cử như một người lép vế và tránh mọi thể hiện quyền hành. Tôi còn muốn xây dựng chiến dịch dựa trên những điểm sáng của chiến dịch năm 2008 của mình, đặc biệt là tinh thần chiến đấu của những chiến dịch ở Ohio và Pennsylvania, nơi tôi thành công trong việc kết nối với những cử tri từ tầng lớp lao động, những người cảm thấy bị bỏ rơi trong nước Mỹ dưới thời George W. Bush. Tôi đã dàng tặng chiến thắng của mình trong cuộc bỏ phiếu phổ thông ở Ohio cho mọi người – “những người bị bỏ qua nhưng không chịu thất bại, cho những người vấp ngã nhưng đứng dậy trở lại, và cho những người đã làm việc chăm chỉ và không bao giờ bỏ cuộc”. Tôi muốn mang tinh thần đó đến với chiến dịch năm 2016, cùng với những bài học hay nhất tôi học từ các chiến thắng của Obama. Chúng tôi tìm giọng nói phù hợp trong video tuyên bố tranh cử của tôi. Nó thể hiện chuỗi những lời nói phấn khởi của người Mỹ về những thách thức mới mà họ đang đối mặt: hai anh em mở một doanh nghiệp nhỏ, một người mẹ chuẩn bị cho con gái trong ngày đầu tiên vào trường mẫu giáo, một sinh viên đại học nộp đơn xin việc làm đầu tiên, một cặp đôi đang kết hôn. Rồi tôi xuất hiện chóng vánh và nói rằng tôi tranh cử Tổng thống để giúp người Mỹ tiến lên và giữ thế thượng phong, và rằng tôi sẽ cố gắng hết sức để có được từng phiếu bầu. Chiến dịch này không phải về tôi hay về tham vọng của tôi. Đây là về bạn và những hoài bão của bạn. Còn có những bài học khác cần được áp dụng. Năm 2008, chiến dịch của Obama dẫn trước chúng tôi vì đã sử dụng những phân tích dữ liệu tiên tiến để lên mô hình cho những khu vực bầu cử, nhắm đúng vào các cử tri và kiểm tra các thông điệp. Nó tập trung hoàn toàn vào việc tổ chức tận gốc rễ và chiến thắng Cử tri đoàn, những người thật sự quyết định được kết quả đề cử. Nó còn xây dựng được một tổ chức chiến dịch “không kịch tuồng” để né tránh phần lớn những thiệt hại từ lủng củng nội bộ và rò rỉ thông tin. John Podesta và tôi nói chuyện với Tổng thống Obama và David Plouffe về cách xây dựng một đội ngũ có thể lặp lại những thành công đó. Plouffe là người rất hâm mộ Robby Mook và cuối cùng tôi chọn anh là người quản lý chiến dịch. Robby từng gây ấn tượng với David bằng cách giúp tôi chiến thắng được những điều không thể – và thắng anh ta – ở Nevada, Ohio và Indiana năm 2008. Ở cả ba bang này, anh triển khai những chương trình dữ dội và chiến đấu đến cùng để giành từng lá phiếu. Rồi anh đến quản lý cho một chiến dịch khó giành chiến thắng nhưng đã thành công cho Thống đốc bang Virginia. Robby đang trong thời kỳ sung sức – trẻ tuổi nhưng, như Plouffe, rất nguyên tắc và vững vàng, với một niềm đam mê đối với dữ liệu và có tài tổ chức. Huma Abedin, cố vấn đáng tin cậy và đáng giá của tôi nhiều năm nay sẽ là phó chủ tịch chiến dịch. Tổng thống Obama đã dành nhiều lời khen ngợi cho những chuyên gia thăm dò ý kiến Joel Benenson và John Anzalone, và chuyên gia khảo sát David Binder nên tôi thuê cả ba người này, cùng với đội phân tích dữ liệu kỳ cựu của Obama, Elan Kriegel. Navin Nayak tham gia vào tổ chức để kết nối tất cả những nhân tố khác biệt về nghiên cứu ý kiến này. Đây là cách để cho mọi việc đâu vào đó: chuyên gia thăm dò ý kiến thu thập ý kiến của một nhóm người ngẫu nhiên và hỏi ý kiến của họ về những ứng viên và các vấn đề; chuyên gia khảo sát tập hợp một nhóm người lại với nhau trong một phòng để thảo luận chuyên sâu trong hàng giờ; và những đội phân tích dữ liệu sẽ thực hiện nhiều cuộc gọi khảo sát, ngấu nghiến một lượng khổng lồ những dữ liệu chuyên sâu về nhân khẩu học, người tiêu dùng và các dữ liệu thăm dò ý kiến và đưa tất cả vào những mô hình phức tạp để cố gắng dự đoán cách người ta sẽ bình bầu. Đây là những yếu tố chính của các chiến dịch hiện đại. Để giúp định hướng các thông điệp và tạo những mẩu quảng cáo, tôi thuê Jim Margolis, một nhân viên kỳ cựu của Obama và Mandy Grunwald, người đã đồng hành cùng tôi và Bill kể từ chiến dịch quốc gia đầu tiên của chúng tôi vào năm 1992. Họ làm việc với Oren Shur, giám đốc truyền thông trả phí, cùng một số đại lý quảng cáo sáng tạo và tài năng. Tôi nghĩ sự hợp tác giữa Jim và Mandy sẽ đại diện cho những điều tốt nhất của hai thế giới. Đó là cách tôi sẽ thực hiện trong tất cả những quyết định tuyển dụng nhân sự của mình: phối hợp những người tài năng nhất từ các chiến dịch của Obama với những chuyên gia hàng đầu mà tôi biết. Nhóm thứ hai bao gồm Dennis Cheng, người giúp gây quỹ hàng trăm triệu đô la cho chiến dịch tái cử ở Thượng viện vào năm 2006 và chiến dịch tranh cử Tổng thống vào năm 2008 của tôi. Sau này, anh còn giúp gây vốn cho Quỹ Clinton. Minyon Moore, một trong những nhân viên chính trị nhiều kinh nghiệm nhất của đảng Dân chủ và là một nhân viên kỳ cựu ở Nhà Trắng thời chồng tôi. Tiếp nữa là Jose Villarreal, nhà lãnh đạo kinh doanh đã làm việc cùng tôi ở Thượng viện, anh tham gia vào ban tổ chức với cương vị là thủ quỹ chiến dịch. Khi xây dựng đội ngũ cho mình, tôi tập trung vào hai lĩnh vực khó khăn: bằng cách nào để phá vỡ thế cân bằng đúng đắn với Tổng thống Obama và Nhà Trắng của anh, và – trống kèn gióng lên để nhấn mạnh – làm cách nào để cải thiện mối quan hệ giữa tôi với báo giới. Thách thức phá vỡ thế cân bằng với Tổng thống Obama không phải là chuyện gì cá nhân. Sau bốn năm làm việc trong Nội các của anh, chúng tôi rất quý trọng và tin tưởng nhau. Trên thế giới, số người hiểu được chuyện tranh cử Tổng thống hay đã từng sống trong Nhà Trắng không nhiều, nhưng chúng tôi có điểm chung này, và nhờ vậy, giữa chúng tôi có một mối liên kết đặc biệt. Khi cuối cùng anh cũng thông qua cải cách chăm sóc sức khỏe, điều tôi đã tranh đấu miệt mài và dai dẳng, tôi đã quá đỗi vui mừng và ôm lấy anh trước một cuộc họp ở Phòng Tình huống Nhà Trắng. Sau vòng tranh luận đầu tiên cam go với Mitt Romney vào năm 2012, tôi cố gắng làm anh vui với một bức ảnh đã xử lý bằng Photoshop hình chim Big Bird1 bị kẹt trong chiếc xe hơi của nhà Mitt. (Romney đã hứa hẹn về chuyện ngưng cấp vốn cho PBS2, và còn thực hiện một chuyến đi với con chó của mình ngồi trên nóc xe). 1 Nhân vật chính trong chương trình truyền hình thiếu nhi Sesame Street. 2 Viết tắt của “Public Broadcasting Service” – Dịch vụ Truyền thông Công cộng, mạng lưới có 349 đài truyền hình làm thành viên. “Hãy nhìn vào tấm hình dưới, mỉm cười, rồi mang nụ cười ấy theo mình”, tôi nói với Tổng thống. “Chúng ta sẽ xong chuyện này”, anh trả lời. “Hãy giúp tôi giữ cho thế giới đoàn kết với nhau thêm năm tuần nữa”. Giờ thì chúng tôi đổi chỗ cho nhau, tôi là ứng viên còn anh là người cổ vũ, giải quyết sự căng thẳng giữa việc kế thừa và thay đổi là thách thức đặt ra cho tôi. Một mặt, tôi tin tưởng sâu sắc vào những gì anh đạt được khi là Tổng thống và vô cùng mong muốn đảm bảo đảng Cộng hòa sẽ không thể xóa bỏ toàn bộ những điều này. Chúng tôi có thể mâu thuẫn với nhau trong một vài lĩnh vực, chẳng hạn như chuyện Syria, giao thương và cách làm thế nào để đối phó trước một nước Nga hung hãn, nhưng nhìn chung, tôi sẽ bảo vệ những thành tích của anh, cố gắng xây dựng dựa trên những thành tựu này, và lắng nghe những lời khuyên của anh. Thỉnh thoảng anh thường gọi điện và nói những suy nghĩ của mình về cuộc đua. “Đừng cố “trẻ trâu”, chị đã là một bà ngoại rồi” anh đùa. “Hãy là chính mình và cứ làm những gì chị đang làm”. Tôi rất tự hào khi có được sự hỗ trợ của Barack, và gần như mỗi ngày, tôi đều nói với khán giả cả nước rằng anh chưa được công nhận một cách xứng đáng vì đã hàn gắn đất nước sau cuộc khủng khoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng. Cùng lúc đó, ở Mỹ có nhiều vấn đề lớn vẫn cần phải giải quyết, và một phần công việc của tôi, ở vai trò một ứng cử viên, là phải thể hiện rõ tôi hiểu những vấn đề này và sẵn lòng đương đầu với chúng. Để làm điều này không tránh khỏi việc phải chỉ ra những lĩnh vực mà chính quyền Obama chưa làm được, dù cho kẻ tội đồ chính là đảng Cộng hòa. Hẳn đó là một hướng đi đúng đắn, nếu đó là Phó Tổng thống Biden hay bất cứ ai đang phục vụ trong chính quyền Obama. Nếu tôi không phá vỡ được thế cân bằng đích thực, tôi sẽ đương đầu với nguy cơ hoặc bị xem là không trung thành hoặc bị xem như một ứng viên cứng nhắc, ngại thay đổi, cả hai điều này đều chẳng tốt chút nào. Tại một trong những cuộc họp đầu tiên với đội ngũ mới của mình, trong căn phòng hội nghị ở tầng 29 của tòa nhà văn phòng gần trung tâm Manhattan, Joel Benenson trình bày các kết quả từ cuộc khảo sát ý kiến gần đây của anh. Anh nói rằng người Mỹ đang có hai “nỗi đau” chính có thể sẽ ảnh hưởng đến quan điểm của họ trong cuộc bầu cử: áp lực kinh tế và sự trì trệ chính trị. Hiển nhiên là nền kinh tế đang ở mức tốt hơn nhiều sau cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng thu nhập chưa tăng đối với hầu hết gia đình, nên mọi người vẫn còn cảm thấy sự tiến triển của nó mong manh và có thể lại sụp đổ bất cứ lúc nào. Và họ còn cho rằng sự trì trệ của Washington là nguyên nhân chính. Họ đúng. Tôi là người đầu tiên thấy được sự trì trệ đó và biết để phá vỡ nó sẽ khó như thế nào – dù cũng khá công bằng khi nói rằng tôi đánh giá thấp cách những đối thủ của mình vô cớ buộc tội tôi phải chịu trách nhiệm cho một hệ thống đổ vỡ. Tôi từng làm việc thành công với đảng Cộng hòa trong nhiều năm. Tôi sẽ lập kế hoạch cho những chiến dịch mạnh tay để cải cách tài chính, và điều này sẽ loại bỏ vài động cơ lợi ích đằng sau sự trì trệ. Và tôi tin chúng tôi có cơ hội để tạo nên sự tiến bộ. Vấn đề còn lại: làm thế nào để tìm ra cách thuyết phục nhất khi nói về nỗi đau người Mỹ đang chịu đựng và sự bất mãn với những gì đang xảy ra trong nước mà không lặp lại những lời chỉ trích mà đảng Cộng hòa nhắm vào chính quyền Obama, điều này sẽ chỉ tự hại mình và rõ ràng là sai lầm. Joel nói rằng tôi đang có một khởi đầu vững chắc. 55% cử tri ở những bang chiến lược dành nhiều thiện chí cho tôi, so với chỉ 41% ít thiện chí. Cử tri đánh giá cao việc tôi làm việc cho Obama sau khi thua anh vào năm 2008. Họ nghĩ rằng điều này thể hiện sự trung thành và lòng yêu nước. Họ còn nghĩ rằng tôi đã hoàn thành tốt cương vị Ngoại trưởng, và hầu hết đều tin tôi đã sẵn sàng cho chức vị Tổng thống. Nhưng dù tôi được công chúng chú ý suốt nhiều thập niên nay, họ biết rất ít về những điều tôi thực sự đã làm, nói chi đến lý do tôi làm nó. Điều này đặt ra thách thức nhưng cũng là một cơ hội. Tuy hầu như ai cũng biết tên tuổi của tôi nhưng tôi sẽ phải giới thiệu lại mình – không phải là một phần của Bill Clinton hay Barack Obama mà là một nhà lãnh đạo độc lập có những câu chuyện, những giá trị và tầm nhìn của riêng mình. Vẫn còn vài tín hiệu cảnh báo đáng lo ngại khác. Tỷ lệ ủng hộ tôi khá cao nhưng chỉ 44% cử tri cho rằng họ tin tưởng tôi là tiếng nói của họ ở Washington. Điều này cho chúng tôi biết rằng vài người tôn trọng tôi nhưng vẫn chưa chắc chắn những điều tôi đang làm là vì họ. Tôi quyết tâm thay đổi quan điểm này. Lý do tôi phụng sự cộng đồng là để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho trẻ em và các gia đình, và giờ việc của tôi là đảm bảo rằng mọi người hiểu được điều này. Chúng tôi còn cần phải làm một việc khác: tránh lặp lại những sai lầm trong quá khứ với những đơn vị báo chí chính trị. Nhiều năm qua, mối quan hệ của tôi với báo giới chính trị đã trở thành một vòng tròn luẩn quẩn. Họ càng bám theo tôi, tôi càng trở nên cảnh giác, và điều này chỉ làm họ chỉ trích tôi nhiều hơn. Tôi biết rằng nếu tôi muốn năm 2016 trở nên khác biệt, tôi phải cố gắng để thay đổi động lực và thiết lập một sự cho – nhận đầy tính xây dựng và cởi mở hơn. Cũng có vài tiền lệ. Là một Thượng nghị sĩ, đáng ngạc nhiên là tôi khá hòa hợp với những nhà báo bất chấp quy tắc ở New York. Và tôi còn vô cùng yêu thích đơn vị báo chí của Bộ Ngoại giao bao gồm phần lớn những nhà báo viết về chính sách đối ngoại nhiều năm qua. Chúng tôi nói chuyện dễ dàng, cùng đi với nhau, cùng tham quan Angkor Wat ở Cam-pu-chia, cùng ăn tối trong căn lều Bedouin ở Ả Rập Xê Út, cùng khiêu vũ ở Nam Phi và đã phiêu lưu khắp địa cầu. Hầu hết, họ đưa tin khá đúng về tôi, và khi tôi nghĩ rằng họ đưa tin chưa đúng, họ rất cởi mở trước những lời phê bình của tôi. Giờ tôi sẽ cố gắng thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp với những phóng viên chính trị đưa tin về chiến dịch. Tôi biết họ chịu rất nhiều áp lực để viết nên những câu chuyện thu được nhiều cú nhấp chuột và được tweet lại, và những câu chuyện tiêu cực sẽ dễ dàng kiếm tiền hơn. Vì thế, tôi trở nên hoài nghi. Tuy nhiên, cũng đáng để tôi thử một phen. Để giúp tôi làm điều này, tôi thuê Jennifer Palmieri, một chuyên gia kỳ cựu với những mối quan hệ báo chí vững chắc. Jennifer từng làm cho John Podesta trong Nhà Trắng thời Clinton và làm cho đầu não của phe Dân chủ – Trung tâm Vì sự tiến bộ của người Mỹ. Gần đây nhất, cô là Giám đốc Truyền thông cho Tổng thống Obama. Tổng thống Obama yêu quý Jennifer, và tôi cũng vậy. Tôi mời Kristina Schake – cựu trợ lý hàng đầu của Michelle Obama, và sau này là Christina Reynolds – người đã làm việc trong các chiến dịch của John Edwards và Obama – làm phó của Jennifer. Tham gia cùng họ là thư ký báo chí quốc gia Brian Fallon – tốt nghiệp trường truyền thông danh tiếng Chuck Schumer và là cựu phát ngôn viên của Bộ Tư pháp; Karen Finney, cựu dẫn chương trình MSNBC, người đầu tiên làm cho tôi ở Nhà Trắng. Khi Jennifer, Kristina và tôi ngồi xuống với nhau lần đầu tiên, tôi để hai thập kỷ đầy những phẫn nộ về cánh báo chí được đổ tràn ra. Thắt dây an toàn vào, tôi nói, đây sẽ là chuyến đi nhiều cam go. Nhưng tôi đã sẵn sàng thử bất """