"
Vụ Án Phim Trường - Arthur B. Reeve & Nguyễn Thành Long (dịch) mượn full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vụ Án Phim Trường - Arthur B. Reeve & Nguyễn Thành Long (dịch) mượn full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
VỤ ÁN PHIM TRƯỜNG —★—
Tác giả: Arthur B. Reeve
Dịch giả: Nguyễn Thành Long
NXB Văn Học & Cổ Nguyệt Books – 2019 Nguồn: VCTVEGROUP
Mục Lục
CHƯƠNG 1- TỘI ÁC TRƯỚC ỐNG KÍNH
CHƯƠNG 2 - VẾT XƯỚC TÍ HON
CHƯƠNG 3 - ĐỘNG CƠ NHẬP NHẰNG
CHƯƠNG 4 - KỊCH BẢN CHẾT NGƯỜI
CHƯƠNG 5 - MÊ TRẬN TÌNH CẢM
CHƯƠNG 6 - MANH MỐI ĐẦU TIÊN
CHƯƠNG 7 - ENID FAYE
CHƯƠNG 8 - LAWRENCE MILLARD
CHƯƠNG 9 - BÓNG TỐI SÁNG TRẮNG
CHƯƠNG 10 - NGHIÊN CỨU HÓA HỌC
CHƯƠNG 11 - ĐI TẮT CHẶN ĐƯỜNG
CHƯƠNG 12 - EMERY PHELPS
CHƯƠNG 13 - MARILYN LORING
CHƯƠNG 14 - MỘT MANH MỐI MỚI
CHƯƠNG 15 - TÔI ĐÓNG VAI MỘT THÁM TỬ CHƯƠNG 16 - ENID HỖ TRỢ
CHƯƠNG 17 - LỜI KHẨN CẦU
CHƯƠNG 18 - CHẤT KHÁNG NỌC ĐỘC
CHƯƠNG 19 - LUẨN QUẨN VÒNG QUANH CHƯƠNG 20 - PHÂN CẢNH BUỔI TIỆC
CHƯƠNG 21 - MERLE SHIRLEY PHẢN ỨNG THÁI QUÁ CHƯƠNG 22 - PHẦN THÂN LY
CHƯƠNG 23 - CHẤT ĐỘC BOTULIN
CHƯƠNG 24 - HIỂM HỌA TÀNG HÌNH
CHƯƠNG 25 - THUỐC GÂY NGỨA
CHƯƠNG 26 - MỘT HỘP THUỐC LÁ
CHƯƠNG 27 - VỤ CHÁY PHIM
CHƯƠNG 28 - QUẢ BOM PHOSPHO
CHƯƠNG 29 - BẰNG CHỨNG HIỂN VI
CHƯƠNG 30 - PHÂN CẢNH PHÒNG KHIÊU VŨ
CHƯƠNG 31 - PHYSOSTIGMIN
CHƯƠNG 32 - BẰNG CHỨNG TỪ MÁY QUAY
CHƯƠNG 1
TỘI ÁC TRƯỚC ỐNG KÍNH
“M
áy quay!"
Tôi và Kennedy đã được ủy viên công tố quận Mackay khẩn cấp triệu tập từ phòng thí nghiệm trong thành phố của anh, và bấy giờ đang đứng bên trong thư viện sang trọng, trang hoàng lộng lẫy tại biệt thự của Emery Phelps. Ông này là một giám đốc ngân hàng, ngự tại Tarrytown.
"Máy quay! Hai người biết câu hiệu lệnh đạo diễn hay dùng khi đã sẵn sàng quay một cảnh trong phim không? Chà, ngay khi câu lệnh ấy được đưa ra và trợ lý quay phim thứ nhất và thứ hai bắt đầu bấm máy thì cô ấy sụm người xuống, ngã lăn ra sàn nhà, bất tỉnh!"
Vừa nhiệt tình, vừa phấn khích, Mackay phô toàn bộ tài năng diễn xuất của một công tố viên danh tiếng khi đứng trước bồi thẩm đoàn ra để tái hiện vụ án của mình cho chúng tôi.
"Đó là chỗ cô ấy ngã xuống. Họ khiêng cô ấy ra chỗ chiếc đi - văng này, sau đó cho gọi bác sĩ Blake đến, nhung ông ta chẳng tài nào cứu chữa được cô ấy. Thế là cô ấy chết - giống như những gì hai người đang thấy đây. Blake thấy chuyện này nghiêm trọng và đáng ngại đến mức ông ta khuyên nên tiến hành điều tra ngay lập tức. Đó là lý do tôi cho gọi hai người đến cấp bách như vậy."
Trước mặt chúng tôi là thi thể của cô gái ấy. Ngay cả khi nằm chết im lìm, cô vẫn xinh đẹp vô cùng. Mớ tóc vàng rối bù của cô càng làm tôn lên những đường nét mềm mại trên gương mặt cô. Cặp mắt xanh xám to tròn tuyệt diệu cùng với tài nghệ thể hiện những nét biểu cảm tinh tế hiếm hơi trời ban của cô nhắm nghiền, nhưng những sợi lông mi cong dài vẫn còn quết lên mắt cô, và thật khó mà tin được cô không chỉ đang đơn thuần nằm ngủ.
Thật khó lòng hình dung nổi rằng Stella Lamar, thần tượng của màn bạc, người được hàng triệu khán giả ái mộ, lại có thể bị tước đoạt khỏi cái thế giới hết lòng tôn thờ cô.
Tôi hết sức đồng cảm với anh ủy viên công tố quận. Anh ta mang vóc dáng nhỏ thó, mập mạp, thuộc kiểu người rất hay đề cao tầm quan trọng của bản thân. Và thế nên, đúng với bản chất của mình, anh ta thất kinh tột độ trước một vụ án trọng đại đến nhường này. Chẳng khác nào một vị hoàng thân ghé thăm tự nhiên lại lăn đùng ra chết bên trong khu vực thuộc phạm vi thẩm quyền của anh ta
Tôi nghi là ngay cả vụ ám sát McKinley hay Lincoln cũng sẽ chẳng tài nào làm anh ta rối trí đến cỡ ấy, bởi vì nếu một sự kiện như vậy xảy ra thì anh ta sẽ nhận được sự hậu thuẫn của toàn bộ chính phủ liên bang. Chắc chắn một điều là danh tiếng của Stella Lamar vang lừng khắp toàn đất nước, và thậm chí ngay cả trong số các tổng thống của chúng ta cũng ít người sánh bằng. Cái chết bất thình lình của cô là một bi kịch quốc gia.
Có vẻ Mackay đã nhờ vả Kennedy ngay khi anh ta biết về danh tính của Stella, ngay khi anh ta nhận ra có điều gì đáng ngờ về các hoàn cảnh xoay quanh sự việc. Lúc nói chuyện trên điện thoại, anh chàng nhỏ con ấy gần như chẳng thốt ra được câu nào mạch lạc cả. Anh ta đã từng được nghe kể về thành tích của Kennedy và cực kỳ muốn được anh giúp cho một tay, bất kể mức giá có như thế nào.
Tất cả những gì chúng tôi biết lúc bắt chuyến tàu tại sân ga New York Central là Stella khi ấy đang thủ vai trong một bộ phim mang tên "Nỗi kinh hoàng Màu đen", với nhà sản xuất là tập đoàn Manton Pictures, và cô đã bất thình lình lăn đùng ra chết ngay giữa lúc bấm máy quay một cảnh bên trong thư viện tại nhà riêng của Emery Phelps.
Tôi vô cùng phấn khởi trước việc được đi cùng Kennedy giải quyết vụ việc này. Chẳng phải là cái kết đầy bi thảm của một ngôi sao điện ảnh từng đóng trong những bộ phim tôi mê mẩn không khiến tôi cảm thấy hãi hùng đâu. Nguyên do là bởi riêng lần này thì tôi tin Kennedy đã đụng phải một tình huống đặc biệt, và các kiến thức về sự đời của anh sẽ không đủ để tiến hành phân tích các dữ kiện có liên quan như thường lệ.
"Walter," anh thốt lên lúc tôi xộc vào trong phòng thí nghiệm sau khi nhận được một bức thông điệp khẩn, "tôi sẽ cần anh giúp như thế này. Anh biết đủ thứ về phim ảnh, thế nên... nếu anh gọi điện luôn cho biên tập viên tin địa phương của mình và đề nghị với ông ta để anh điều tra một vụ việc cho tờ Star, chúng ta sẽ vừa kịp bắt một chuyến tàu trên phố 125th."
Vốn đã bao lâu nay bị hớp hồn bởi lĩnh vực điện ảnh, tôi luôn để tâm chú ý đến những nhân vật vai vế trong thế giới ấy và các hoạt động của họ. Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên Stella Lamar xuất hiện trên màn bạc, từ thời còn hãng General Film, thời phim ảnh sẽ hoặc là phim mua bản quyền hoặc là phim độc lập, thời chỉ có duy nhất hai công ty cho ra lò được những bộ phim đáng xem, thời bất cứ thứ gì có thời lượng dài hơn một cuộn phim sẽ cực kỳ hiếm hơi, chẳng hạn như những bộ phim nghệ thuật nhập khẩu từ Pháp để trình chiếu theo chương trình phim mua bản quyền. Trong cái thời ấy, Stella nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Cặp mắt lớn u sầu của cô đã khiến trái tim nhiều người trong số chúng ta phải đập lệch nhịp.
Thế rồi Lloyd Manton xuất hiện. Ông ta là quản lý hiện tại của cô, đồng thời là người đầu tiên thuộc một kiểu mẫu doanh nhân mới, vừa đặt chân vào lĩnh vực phim ảnh. Manton về cơ bản là một nhà quảng bá. Những người đi trước ông ta chỉ đơn thuần được sự phát triển của ngành nghệ thuật mới này tóm tay dắt đến thành công. Chẳng hạn như Pop Belman già chỉ là một bác sĩ nhãn khoa hạng xoàng, cho thuê và bán máy chiếu hình đôi để kiếm thêm thu nhập. Chỉ nhờ may mắn thuần túy mà lão nhận ra được tiềm năng phát minh mới của Edison. Trước khi hãng General Film giải thể, lão trở thành một triệu phú nứt đố đổ vách. Và cũng trong giai đoạn ấy, lão đã cho cả đất nước được một tràng cười nắc nẻ khi đánh điện tín đến cho William Shakespeare, địa chỉ đề là London, đề nghị được nắm giữ quyền chuyển thể điện ảnh đối với mọi vở kịch từng được ông viết.
Manton đại diện cho giai đoạn thứ hai trong giới tài chính phim ảnh. Continent Films, tập đoàn đầu tiên của ông ta, là một công ty đầu cơ chứng khoán. Nắm bắt được danh tiếng đình đám của Stella Lamar, ông ta đã ngon ngọt câu cô khỏi khu trường quay cũ tại Flatbush, nơi các bộ phim thành công ban đầu của cô được ghi hình. Nhờ sức mạnh nhiệm màu mà cái tên cô sở hữu, ông ta đã bán được hàng ngàn cổ phần cho công chúng, mặc dù bấy giờ họ đã phát ngấy với những câu chuyện về lượng tiền tài kếch xù mà lĩnh vực phim ảnh có thể mang lại. Khi phần lớn chỗ tiền kiếm được đã bị tiêu hết, khi mức định giá của Continent tụt xuống chỉ còn một phần cực nhỏ, hợp đồng của Stella chuyển sang được ký riêng với Manton trên tư cách cá nhân. Tập đoàn Manton Pictures được thành lập để trục lợi từ cô. Cổ phiếu của công ty này không được bán cho các nhà đầu tư bên ngoài.
Danh tiếng của Stella chẳng bị phương thức kinh doanh của quản lý của mình khiến cho bị sứt mẻ chút nào. Ít nhất thì trong mảng đoán định thị hiếu công chúng, Manton cũng đã thể hiện được rằng mình là người có khả năng nhìn xa trông rộng hiếm thấy. Bên cạnh một vài lần sản xuất các phiên bản chuyển thể của những vở kịch được yêu thích sẵn, thường là các vở kinh điển, với sự hậu thuẫn của các nhà sản xuất sân khấu, Continent Films còn là công ty đầu tiên sản xuất phim năm cuộn *. Vì là một thành viên của hãng Continent, Stella là ngôi sao phim dài đầu tiên. Nhờ đồng hành cùng hãng phim Manton
Pictures, cô chưa bao giờ phải nhượng lại ngôi vị độc tôn của mình cho ai cả.
Ngoài ra, bằng cách nào đó, cô không vướng phải bất kỳ bê bối gì. Tất nhiên, những người nắm rõ các tin đồn nội bộ của làng điện ảnh như tôi không hề bị ảo tưởng gì hết. Mối quan hệ giữa Stella và Manton là một bí mật mà ai cũng biết. Ấy nhưng vì tôn thờ cô một cách mù quáng, những khán giả hâm mộ lại cứ tin cô là con người y hệt như trên màn ảnh. Đối với họ, vẻ thơ ngây to tròn và u sầu bên trong cặp mắt lớn của cô không thể nào là giả dối được. Họ coi vẻ chất phác của những đường cong trên miệng cô là bằng chứng cho thấy đây là một con người với nét cá tính ngay thẳng và rất thùy mị.
Ngay cả vụ ly dị của cô cũng có lợi chứ không gây thiệt hại gì cho cô. Tôi thấy nực cười ở chỗ cô lại là người đâm đơn thay vì chồng mình, và lại còn đâm đơn ở New York nữa, nơi người ta chỉ cho phép nếu xảy ra ngoại tình. Lời khai của vụ án đã bị niêm kín, thế nên không ai biết cô đã nói ai là người thông dâm. Hồi chuyện ấy xảy ra, tôi có tự hỏi không biết họ đã chèn ép Millard kiểu gì để ngăn anh ta đâm đơn phản tố. Chắc hẳn anh ta sẽ đủ sức chứng minh được các tin đồn xoay quanh việc cô và Lloyd Manton có dan díu với nhau.
Lawrence Millard, nhà văn, nhà soạn kịch và cuối cùng là nhà biên kịch, cũng đã góp phần tạo dựng nên sự thành công của vợ mình. Công lao của anh ta cũng ngang ngửa Manton, chỉ có điều không được ấn tượng bằng. Chính Millard là người đã viết kịch bản cho bộ phim Continent thành công đầu tiên của
cô, đồng thời còn phát triển thể loại cốt truyện đặc biệt, phù hợp nhất với cô ngay từ những ngày đầu, những tháng ngày của các thước phim một cuộn và hãng General Film.
Trong giới làm phim, ai cũng biết rằng nếu một nữ diễn viên đã ăn ảnh trong ống kính thì ngay cả khi chỉ là một nghệ sĩ hạng trung, cô ta vẫn có thể được biến thành một ngôi sao. Thứ duy nhất cô ta cần chỉ là một hay hai hay ba câu chuyện tử tế. Và ngược lại, một ngôi sao sẽ có thể bị hủy hoại nếu dính phải một chuỗi những bộ phim kịch bản dở tệ hay bị sản xuất không ra gì. Những người không tôn thờ cô đến mờ cả mắt chỉ trích cô rất nặng nề vì đã gạt bỏ đi chồng mình khi đang ở đỉnh cao danh vọng. Công chúng thì thể hiện sự đồng cảm mình dành cho cô thông qua việc ồ ạt quan tâm lại về cô. Lượng vé tại các rạp chiếu phim mỗi khi các phim của cô được trình chiếu chắc sẽ khiến cho cả Manton lẫn Stella vui mừng lắm.
Trong lúc Kennedy và tôi ngồi chung một ghế trên tàu, và anh để mặc cho tôi suy ngẫm một mình, tôi tự hỏi liệu có bất kỳ mối liên hệ nào giữa tấn thảm kịch và vụ ly dị ấy không. Tôi biết sắc lệnh của tòa án vẫn chưa được chốt hẳn. Có khả năng nào Millard rốt cuộc không muốn đầu hàng cô không? Liệu có khả năng anh ta thà cố tình xuống tay giết người còn hơn là để cho cô được tự do không? Tôi buộc phải từ bỏ dòng suy nghĩ ấy, bởi vì nó không giải thích được nguyên nhân hồi trước anh ta không bào chữa khi bị cô kiện hay tiến hành phản tố.
Thế rồi tâm trí tôi rời bỏ thế giới của Kennedy, rời bỏ công việc giải quyết bí ẩn, và quay trở về với thế giới của mình, về với
giá trị tin tức cái chết của cô và các sự kiện diễn ra sau đó. Vẫn như thường lệ, tờ Star hết sức sẵn lòng giao cho tôi phụ trách các vụ việc liên quan đến Craig Kennedy. Chắc chắn là nhờ cú điện thoại cho biên tập viên tin địa phương của tôi, thông báo đầu tiên mà bất cứ tờ báo New York nào nhận được về cái chết của Stella, mấy dòng tít giật gân và một số báo phụ trội đã được đem in.
Chỉ nghĩ đến mức độ quan tâm đối với chuyện đời tư của giới diễn viên điện ảnh và kịch nghệ sân khấu là tôi đã thấy ghê tởm rồi.
Có những ngôi sao chẳng bị ai bàn ra tán vào gì hết, ngay cả trong giới hay dựng chuyện bê bối nơi phim trường. Rất nhiều người, cả nam lẫn nữ, chuyên tâm làm việc một cách rất đúng mực và nghiêm túc, chẳng để tâm đến gì ngoài thành công của mình và theo đuổi những vui thú bình dị. Trên thực tế, lúc ngồi trên tàu, tôi nhận ra rằng đây có lẽ là lần đầu tiên Craig Kennedy được nhờ giải quyết một vụ án thuộc lĩnh vực phim ảnh. Hồi trước chẳng vụ nào dính dáng gì đến nó hết, kể cả chỉ hơi chút liên quan. Tôi biết anh sẽ phải đối mặt với một mớ bòng bong những câu chuyện phiếm, từ tất cả mọi người, về tất cả mọi người, và hầu hết đều vô căn cứ. Tôi hy vọng anh sẽ không mắc phải sai lầm phổ thông là coi mọi diễn viên điện ảnh đều xấu xa, mọi trường quay đều là những ổ đồi bại. Vì lẽ đó, tôi lấy làm mừng là mình đã có thể đi cùng anh.
Khi đến Tarrytown, dòng suy tư của tôi chấm dứt, và của Kennedy cũng vậy - bất kể chúng có là gì. Đích thân Mackay đến
đón chúng tôi tại sân ga. Sau khi nói mấy câu nhằm che đậy sự lo lắng của mình, anh ta nhanh chóng đưa chúng tôi tới ngôi nhà.
Lúc chúng tôi gần đến noi, Kennedy nhanh chóng ghi nhận cảnh quan xung quanh, vị trí của bản thân ngôi nhà, địa hình khu đất. Cả bốn bên đều có một bãi cỏ trải rộng, không bị cây cỏ hay bụi rậm gì chen ngang - một vùng không gian hết sức rộng rãi, rất hợp với chồng đá hoa cương xám sắp đặt ngổn ngang nhưng vô cùng nghệ thuật được trưng bày tại đó. Con đường và các khu đất liền kề bị che khuất bởi các bụi cây dày, vô phương nhìn thấu, một vành đai rừng thu nhỏ bao quanh khu nhà. Có một nhà để xe, một khoanh đất lùi, cùng với vài sân quần vợt và một sân tập gôn xanh mướt. Một nhà nghỉ mát được xây ngay giữa một khu vườn ở góc xa, soi bóng xuống mặt một hồ bơi lấp lánh.
Khi chúng tôi đỗ lại dưới cổng xe ra vào, Emery Phelps, ông giám đốc ngân hàng, ra đón chúng tôi. Có thể đây chỉ là do tôi tưởng tượng ra, nhưng như tôi nhận thấy thì phong thái của ông ta mang vẻ hiềm khích cố kìm nén, như thể ông ta cảm thấy bực mình khi bị Kennedy và tôi đến quấy rầy, thế nhưng bất lực không thể làm gì được. Trái ngược với cách hành xử của ông ta là sự thân tình của Lloyd Manton, bấy giờ đang đứng ngay phía bên trong cửa. Màn chào đón của Manton nồng nhiệt chẳng khác nào một đứa trẻ con, đến mức tôi nhận thấy mặt Kennedy lộ vẻ ngờ vực.
Các thành viên khác của công ty tụ tập bên trong phòng khách, nơi chúng tôi phải băng qua để vào trong thư viện. Tận dụng cơ hội nhỏ nhoi ấy, tôi quan sát họ dưới ánh đèn tù mù. Mackay ra dấu gọi một người đàn ông đang đứng bên cửa sổ lại, và giới thiệu cho Kennedy biết ông ta là bác sĩ Blake. Thế rồi chúng tôi bước vào căn phòng dài lót ván ốp, hiện trường tấn thảm kịch.
Tôi đứng đó, choáng váng cả người. Hình hài bất động của Stella Lamar nằm lăn lóc trước mặt tôi như đang diễn cảnh quay cận góc đáng thương cuối cùng. Mặc dù đã đồng hành cùng với Kennedy được rất lâu, cảm giác trang nghiêm u uẩn vẫn cứ dấy lên trong lòng tôi mỗi khi tôi đặt chân vào một căn phòng chứa đựng bi kịch. Cảm giác ấy trỗi dậy đặc biệt mạnh mẽ trong vụ án này. Cái chết của một người đàn ông đã là bi thương lắm rồi, nhưng chẳng thứ gì gây rúng động tâm hồn hơn cái chết bất chợt và tàn khốc của một người phụ nữ xinh đẹp - ngoại trừ cái chết của một đứa trẻ.
Tôi nhớ lại một hình ảnh về Stella mình từng được thấy trong bộ phim mới nhất của cô. Màng khẩu độ mở ra, chiếu cảnh cô nhận được một hộp socola do người yêu mình gửi, và vui vẻ cho con chó collie xinh đẹp của mình là "Laddie" ăn một mẩu, trong lúc nó nô giỡn trên một chiếc trường kỷ và yêu quý quấn cô đến gần ngạt thở. Nét hoạt bát và kiều diễm trong khung cảnh ấy tương phản một cách buồn thảm với những gì đang nằm trước mặt tôi.
Bây giờ, khi quan sát cẩn thận hơn, tôi có thể nhận thấy gương mặt tròn đầy, trơn cong của cô đã méo xẹo lại, hoặc vì đau đớn hoặc vì sợ hãi - hoặc có thể là cả hai. Ngay cả bên dưới lớp phấn trang điểm, ta vẫn có thể thấy mặt cô nổi đốm loang lổ và sưng phù lên. Ngoài ra, các thớ cơ đã bị vặn xoắn lại, cặp mắt trông như lồi lên dưới mí, và da cô nhuộm một màu xanh xanh. Rõ ràng cái chết của cô diễn ra rất chóng vánh, nhưng không phải là không đau đớn.
"Kể cả điều tra viên cũng chưa động chạm gì đến thi thể," Mackay nhanh chóng giải thích với Kennedy. "Các diễn viên, các nhân viên quay phim, tất cả đều đã bị đuổi ra khỏi phòng ngay khi bác sĩ Blake tin chắc rằng ẩn đằng sau cái chết của cô ấy là một nguyên nhân phi tự nhiên. Ông Phelps gọi điện cho tôi, và khi đến nơi thì tôi ra lệnh đóng hết cửa ra vào và cửa sổ lại, cắt cử các phụ tá của mình đứng canh gác để ngăn không cho ai động chạm vào bất cứ thứ gì bên trong căn phòng, ra lệnh rằng tất cả mọi người sẽ phải bị giữ lại, sau đó liên hệ với anh nhanh hết mức tôi có thể."
Kennedy quay sang phía anh ta. Nghe tông điệu là sẽ nhận thấy câu khen ngợi của anh được nói rất thực tâm. "Mackay à, tôi rất mừng là mình được gọi đến bởi một người đủ hiểu biết để đảm bảo bằng chứng không bị hủy hoại. Anh nhận ra rằng chưa biết chừng manh mối duy nhất của một vụ sát hại sẽ có khả năng là một tấm thảm hơi bị xộc xệch đi. Thật là... thật là rất hiếm!"
Anh ủy viên công tố quận nhỏ thó mỉm cười rạng rỡ. Nếu khi ấy mà phải bước đi thì chắc hẳn anh ta sẽ có dáng điệu rất khệnh khạng. Tôi mỉm cười bởi vì tôi muốn Kennedy một lần nữa phô ra cái kỹ năng kỳ diệu của mình trong việc lần tìm thủ phạm đứng đằng sau một tội ác. Tôi không hề muốn để xảy ra bất cứ chuyện gì gây cản trở cho anh.
CHƯƠNG 2
VẾT XƯỚC TÍ HON
T
rước khi tự mình tiến hành khám nghiệm thi thể, Kennedy quay sang phía bác sĩ Blake. "Ông cho tôi biết mình phát hiện được những gì khi ông đến đây đi," anh ra lệnh. Ông bác sĩ là một người đàn ông cao bất thường, tóc xám màu sắt, lộ rõ vẻ lành nghề. Ông đã chữa trị cho hầu hết các gia đình khá giả sống tại và xung quanh Tarrytown. Rõ ràng là sự liên đới không thể tránh khỏi của ông đối với vụ việc này khiến cho ông hết sức bực bội.
"Lúc bấy giờ, cô ấy vẫn còn sống," ông trầm ngâm đáp, "mặc dù hít thở nhọc nhằn. Gần như tất cả mọi người đều đã túm tụm lại xung quanh cô ấy, thế nên cô ấy chẳng nhận được nhiều dưỡng khí, và bản thân căn phòng cũng đã sẵn ngột ngạt vì mớ đèn đuốc họ dùng để quay cảnh đó. Họ bảo với tôi là cô ấy ngã lăn ra ngất và họ không thể khiến cô ấy hồi tỉnh được, nhưng mới đầu tôi không nghĩ đây là chuyện nghiêm trọng. Tôi cứ tưởng là có thể cái nóng..."
"Ông chẳng thấy hành động hay cách ứng xử của bất cứ ai bên trong căn phòng," Kennedy ngắt lời, "có gì đáng ngờ ư?" "Không, khi mới bước vào, tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì bất thường cả. Tôi bảo họ cho tất cả mọi người sang căn phòng kế bên, ngoại trừ Manton và Phelps, và mở tung toàn bộ cửa nẻo ra
để lấy không khí cho cô ấy. Thế rồi lúc tiến hành khám nghiệm, tôi phát hiện ra đây có vẻ là một cơn tê liệt cả về cơ bắp lẫn thần kinh. Khi ấy bệnh tình đã diễn tiến quá nặng rồi. Lúc bị tôi chạm vào, cô ấy mở mắt ra, nhưng cô ấy không tài nào nói nổi. Cô ấy hít thở khó nhọc, và nhịp tim cô yếu đi nhanh đến mức tôi chẳng có thời gian triển khai biện pháp hồi sức."
"Theo ông nguyên nhân gây tử vong là gì?"
"Tính đến nay thì tôi không thể đưa ra lời giải thích thỏa đáng nào hết." Ông bác sĩ nhún vai rất khẽ. "Đó là lý do tôi khuyên nên tiến hành điều tra ngay lập tức. Tôi không muốn viết giấy chứng tử."
"Ông không có giả thuyết nào ư?"
"Chẳng có dấu hiệu gì để tôi chẩn đoán là cô ấy chết vì bất cứ chứng bệnh nội tạng tự nhiên nào hết. Tuy nhiên, sự tình lại cho thấy điều ngược lại. Tôi khó có thể khẳng định được rằng cô ấy chết vì tê liệt cơ quan hô hấp hay tim. Nếu mà là do thuốc độc... Ôi, như tôi thấy thì toàn bộ vụ việc này bí hiểm vô cùng. Tôi chẳng thể nhận diện được một cách chắc chắn đây là thứ gì dựa trên các triệu chứng của nó cả."
Kennedy cúi người xuống, kiểm tra sơ lược cô gái. Tôi nhận thấy có một mùi hương phảng phất nào đó đã lọt vào lỗ mũi anh, bởi lẽ anh đứng im như vậy một lúc, hít thở theo phản xạ, mắt đầy vẻ đăm chiêu. Thế rồi anh lại chỗ cửa sổ, kéo mỗi bức màn lên một vài phân, nhưng nó không có vẻ gì là đã mang lại cho anh lời giải thích mình mong muốn.
Bên trong căn phòng là các đèn hồ quang di động, dùng để dựng cảnh trong một không gian trong nhà thực sự. Dây nối của chúng dẫn vào các hộp nối nặng nề được cách điện, nằm cuối hai sợi dây cáp sân khấu cứng còng màu đen. Gần cửa, các mạch điện được nối hết vào với nhau, và một dây dẫn hai chiều lớn duy nhất thò ra từ đó, chạy dọc mặt sàn gỗ cứng bóng lộn, chắc sẽ nối vào mạch trong nhà thông qua một hộp cầu chì để có được đủ cường độ điện. Mắt Kennedy nhanh chóng lần theo sợi dây. Thế rồi anh ra dấu nhờ tôi giúp đẩy một chiếc cột đèn nặng, và chỉnh lại mui che để toàn bộ ánh đèn được chiếu lên người Stella. Sau khi chiếc đèn đã vào đúng vị trí, anh bấm công tắc. Và dưới ánh sáng nhấp nháy ngập tràn, anh quỳ sụp gối xuống, lấy một chiếc kính lúp bỏ túi độ phóng đại lớn từ trong áo gile của mình ra và bắt đầu khám nghiệm da cô, từng phân một.
Khi ngắm cô nằm dưới ánh điện sáng loáng, tôi có được một cái nhìn mới về vẻ đẹp của ngôi sao điện ảnh này. Đặc biệt, tôi để ý thấy lượng son phấn nhỏ cô sử dụng và độ săn chắc tự nhiên của thịt da cô. Cô mặc một chiếc váy dạ tiệc thời trang, không quá trang trọng, làm từ chất vải satin thêu, phía trước và sau lưng xẻ xuống khá thấp. Tay váy thì làm từ một thứ chất liệu như vải the, phủ chưa được nửa đường đến cùi chỏ cô. Thật tình mà nói, đây cứ như thể váy không tay vậy.
Với chiếc kính của mình, Kennedy quan sát các đường nét của cô một cách tỉ mẩn vô cùng. Tôi thấy anh vén tóc cô ra sau, và rồi anh rẽ nó ra, khám nghiệm da đầu cô, và tôi băn khoăn
không hiểu anh đang lùng tìm manh mối tí hon nào. Tuy nhiên, tôi đã thấm bài học không bao giờ nên hỏi han gì anh trong lúc anh đang làm việc.
Với một con mắt dán chặt vào lăng kính, anh dò xét khắp xung quanh cổ cô, và xuống khắp phần cổ họng và ngực cô, phần không được lớp lụa váy của cô bao bọc. Với sự trợ giúp của Mackay, anh lật người cô lại để khám nghiệm sau lưng cô. Sau đó, anh lật thi thể về vị trí gốc của nó và bắt đầu xem xét hai cánh tay. Bất thình lình, có thứ gì đó ở mạn trong cánh tay phải của cô lọt vào mắt anh. Anh làu bàu một tiếng đầy vẻ thỏa mãn, vươn thẳng người dậy, kéo công tắc đèn, và rồi dụi mắt. Chúng bấy giờ đang ứa hết nước ra.
"Có phát hiện thấy gì không, anh Kennedy?", có vẻ bác sĩ Blake hiểu được phần nào mục đích cuộc khám nghiệm ấy. Kennedy không đáp, chắc do còn đang mê mải với các giả thuyết tôi có thể thấy đang hình thành bên trong tâm trí của anh.
Thư viện là một căn phòng khổng lồ, chiều cao lớn hơn chiều rộng. Ở một bên đầu là cặp cửa sổ kiểu Pháp rộng, nhìn ra phía khu vườn và nhà nghỉ mát. Cửa dẫn vào hành lang và phòng khách rất to, với các tấm trượt nặng cùng với rèm che đắt tiền làm từ vải nhung, có màu gần như màu gỗ. Nằm ở giữa cửa và cửa sổ, trong phần tường bên gần phía đầu đối diện, là một lò sưởi đá tráng lệ với những khúc củi cháy đen, chứng tỏ nó thường xuyên được sử dụng. Chiếc đi văng nơi Stella nằm đã được kéo lùi lại khỏi vị trí trước lò sưởi thường lệ của mình,
cùng với một chiếc bàn khổng lồ làm từ gỗ hồ đào chạm trổ. Hai bức tường còn lại là một chuỗi những kệ tủ cao chạm trần và chật ních sách.
Có hai chiếc máy quay vẫn còn được dựng, hướng về phía cửa sổ và cửa ra vào để vừa lấy được cảnh lò sưởi, vừa quay được cảnh rộng bên trong căn phòng. Chân giá đỡ của chúng xếp lồng vào với nhau, chắc vẫn được để im, hệt như lúc Stella ngã gục. Tôi chạm vào tay cầm của một máy, hiệu Bell & Howell, và thấy rằng nó đã được bắt ren, và cuộn phim chưa bị ai động vào. Mấy ngọn đèn đặt lệch nhau và lùi ra sau vùng thu hình của máy quay, được bố trí sao cho ánh sáng tập trung hết vào khung cảnh hành động. Có bốn cây đèn hồ quang và hai dãy đèn di động nhỏ, và trong đó thì hai dãy đèn được dùng để loại bỏ các bóng đen sắc nét, giúp cho hình ảnh được đều nhau hơn. Còn có cả các tấm khuếch sáng làm từ vải trắng dãn căng trên khung. Chúng phản chiếu ánh sáng lên mặt của các diễn viên, làm dịu đi các đường nét phần mặt dưới, và đặc biệt là tăng thêm độ hấp dẫn cho phụ nữ.
Tôi biết được tất cả những điều đó nhờ những chuyến ghé thăm một trường quay với biên tập viên phim kịch của tờ Ital. Tôi rất nóng lòng muốn được truyền đạt kiến thức của mình cho Kennedy. Tuy nhiên, thay vì cho tôi cơ hội ấy, anh bất chợt quay sang Mackay.
"Gọi ông thợ điện vào đi," anh ra lệnh. "Giữ tất cả mọi người khác ở ngoài cho đến khi tôi sẵn sàng thẩm vấn họ."
Trong lúc anh ủy viên công tố quận vội vã tiến về phía cánh cửa trượt, nơi một trong các phụ tá nghiệp dư đã bị anh ta ép phải giúp mình đang đứng canh gác bên mạn xa, Kennedy đẩy chân chiếc đèn mình vừa dùng về lại chỗ cũ, không cần ai hỗ trợ cả. Tôi để ý thấy bác sĩ Blake phần nào ngần ngừ quan tâm, bất chấp bộ dạng chuyên nghiệp của mình. Riêng tôi thì chắc chắn đang cực kỳ tò mò, muốn biết Kennedy đã phát hiện ra những gì.
Ông thợ điện, một con người da dẻ nhăn nheo, đã bao năm lăn lộn tại các trường quay, với một cái đầu hói bóng loáng trông khá lố bịch, bước vào với dáng điệu như thể ông ta những tưởng mình sẽ lập tức bị bắt chịu trách nhiệm cho cái chết của ngôi sao điện ảnh kia.
"Tôi chẳng biết gì hết," ông ta nói luôn, khi chưa một ai kịp hỏi han câu nào. "Tôi ở bên ngoài lúc họ la hét, thật đấy! Tôi khi ấy đang kiểm tra xem dây dẫn có bị nóng không, và tôi nghe thấy bọn họ bảo tắt đèn đi, và..."
"Bật hết đèn đóm của ông lên..." Kennedy nói xẵng giọng một cách bất thường, mặc dù rõ ràng là anh không chút nghi ngờ người đàn ông này, và rồi anh bổ sung thêm, "... y hệt như hồi trước đi."
Trong lúc ông thợ điện đi từ cột đèn này sang cột đèn nọ với vẻ bực dọc, các đèn hồ quang phát ra tiếng lách tách, bị lớp tường bao của căn phòng khiến cho nghe gần điếc cả tai, và rất nhiều khói trắng mỏng. Nhưng một lát sau, góc thư viện dùng làm bối cảnh quay đã được chiếu rọi rực rỡ, sáng chói. Tôi cảm
thấy như thể vừa được đưa vào một trong các trường quay lớn bên trong thành phố.
"Đây là phần phòng lớn nhất họ sử dụng à?" Kennedy hỏi. "Ông có cho chỗ đèn của mình lùi lại xa hơn không?" "Đây là cách bài trí rộng nhất rồi, thưa anh!", ông ta đáp. "Có phải tất cả các cảnh có mặt cô Lamar trước khi cô ấy chết đều được quay trong góc phòng này không?" "Vâng, thưa anh!"
"Và đây là cách ông rọi đèn cho bối cảnh lúc cô ấy ngã lăn ra bất tỉnh?"
"Vâng, thưa anh! Tôi tắt đèn và... và họ nhấc cô ta lên và đặt cô ta ngay chỗ đang nằm bây giờ đó, thưa anh!"
Kennedy không chút quan tâm đến dữ kiện cuối cùng kia. Thực tình mà nói, tôi còn không nghĩ anh đã nghe thấy nó. Anh ngay lập tức bò hẳn xuống, bắt đầu tiến hành khảo xét sàn nhà và thảm một cách chi li, tỉ mẩn chẳng kém gì lúc khám nghiệm thi thể của Stella. Theo bản năng, tôi bước lùi ra sau, tránh đường cho anh, tương tự như bác sĩ Blake và Mackay. Tôi để ý thấy ông thợ điện giờ có vẻ đã hiểu nguyên nhân mình được gọi vào trong này, mặc dù ban đầu chắc hẳn lời gọi ấy đã làm ông ta hồn vía lên mây. Ông ta quay sang chăm chút chỗ đèn của mình, vỗ lên một ống đèn chịu nhiệt. Trông vào đây, ta sẽ ngỡ tưởng một cảnh phụ nào đó của câu chuyện đang được ghi hình. Thật khó để nhận ra rằng đây không phải là một cảnh trong phim, mà đây là Craig Kennedy, người tôi vẫn hay coi là
nhà sáng lập ra trường phái vận dụng khoa học trong giới thám tử hiện đại, đang sục sạo môi trường kỳ lạ này hòng tìm ra manh mối của một vụ án mạng thật sự, bí ẩn đến mức ngay cả nguyên nhân tử vong cũng chưa được xác định.
Tôi hy vọng sẽ được chứng kiến Craig phô diễn khối óc thông minh kiệt xuất của mình, hệt như trong biết bao nhiêu vụ án từng được anh lưu tâm đến. Tôi phần nào mong đợi sẽ thấy anh đứng dậy khỏi sàn nhà với một thứ tí hon gì đó nắm trong tay, một vật thể đã bị tất cả những người khác bỏ sót, một bằng chứng hữu hình cho phép lập tức bắt giữ thủ phạm của vụ án. Tôi không hề nghi ngờ gì chuyện Stella Lamar đã chết dưới bàn tay một kẻ xấu, và thế là tôi nôn nóng đợi Kennedy tìm kiếm xong.
Nhưng rốt cuộc, đây sẽ không phải là một trong những vụ án được anh giải quyết dứt điểm với chỉ một vài tiếng lao tâm khổ tứ ngắn ngủi. Anh săm soi mọi phân sàn nhà trong phạm vi khu vực được chiếu sáng. Thế rồi anh hướng sự chú ý của mình về phía các bức tường và chỗ bàn ghế và phần còn lại của căn phòng một cách chiếu lệ hơn, nhưng không kém phần lành nghề. Nguyên mười lăm phút trôi qua, nhưng căn cứ vào nét mặt của anh, tôi biết anh đã chẳng phát hiện ra gì hết. Mồ hôi mồ kê mướt mải vì hơi nhiệt của các ngọn đèn hồ quang, nhưng dẫu sao vẫn mừng vì đã có luồng ánh sáng chói lòa ấy trợ lực, anh ra dấu bảo ông thợ điện tắt chúng đi và ra khỏi căn phòng.
"Có phát hiện thấy gì không, anh Kennedy?", ông bác sĩ hỏi thêm lần nữa.
Kennedy ra dấu gọi tất cả chúng tôi đến bên cạnh cô nữ diễn viên xấu số. Anh nhấc bên tay phải của cô lên, tìm đúng điểm ban nãy đã khiến mình phát ra tiếng làu bàu, sau đó đưa chiếc kính lúp bỏ túi của mình cho bác sĩ Blake. Chốc sau, một tiếng huýt sáo khẽ vang lên từ môi ông bác sĩ.
Tiếp theo là đến lượt của tôi. Lúc cúi người xuống, tôi phát hiện ra rằng lẫn trên hương nước hoa hàng ngoại thoang thoảng cô xức lên người là một mùi thối rữa lạ thường. Đó chính là mùi đã lọt vào lỗ mũi của Kennedy. Thế rồi với chiếc kính, tôi có thể nhìn thấy bên trên cánh tay cô là một vệt xước nhỏ bé vô cùng, và cuối vệt là một lỗ chích gần như tàng hình, trông như thể gây ra bởi một mũi kim khâu rất sắc hay đầu một kim tiêm cực kỳ mảnh mai. Lúc ngả người ra sau, tôi lại liếc nhìn mặt cô, gương mặt ban nãy tôi đã nhận định là trông loang lổ và sưng phồng lên bên dưới lớp trang điểm. Lại một lần nữa, tôi tin rằng các cơ mặt bị vặn xoắn lại, cặp mắt hơi lồi ra, và da cô mang một sắc xanh xanh giống như mắc cơn tím hay ngạt thở. Có thể khi ấy chỉ là do tôi tưởng tượng ra thôi, nhưng giờ thì tôi đã biết chắc chắn rằng nét biểu cảm của cô thể hiện sự đau đớn hay sợ hãi hay cả hai.
Khi mới nhìn thấy cô, tôi không tài nào gạt bỏ được những ấn tượng mình mang trong óc suốt bao năm qua. Trước mặt tôi là thân xác một thời còn sống của Stella Lamar, người tôi đã mơ được gặp mặt nhưng chưa bao giờ được trông thấy ngoài đời. Tôi không đủ sức nhìn xuyên thấu nét quyến rũ của cô. Nhưng với Kennedy thì anh ngay lập tức phát hiện ra dấu hiệu của sự
đầu độc. Bác sĩ Blake lúc trước chỉ đơn thuần tìm kiếm dấu tích của các loại thuốc thông thường, hay các chứng bệnh phổ thông có thể gây tử vong đột ngột. Tôi nhớ lại xyanua. Tôi nghĩ đến nhựa độc cura, hay còn gọi là woorali, thứ chất độc dùng để bôi lên tên bắn ở Nam Mỹ mà Kennedy đã từng có lần chạm trán. Phải chăng Stella đã bị tiêm một thứ chất mới và khác thường nào đó?
Mackay liếc nhìn lên sau khi săm soi cái vết trên tay. "Đấy là một vết xước nhỏ tí tẹo!", anh ta thốt lên.
Kennedy mỉm cười. "Nhưng mà, Mackay à, chắc nó chính là nguyên nhân cái chết của cô ấy đấy."
"Làm sao lại như vậy được?"
"Đó... đó chính là vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta. Khi chúng ta đã biết được cụ thể cô ta quệt tay xước như thế nào, hay bị cào xước kiểu gì...", Kennedy đi đi lại lại phía trước lò sưởi. Thế rồi anh lần lượt nhìn thẳng vào từng người một trong chúng tôi, bất chợt nghiêm giọng lại. "Không được hở ra một lời nào về những gì tôi đã phát hiện ra đâu đấy nhé," anh cảnh báo.
CHƯƠNG 3
ĐỘNG CƠ NHẬP NHẰNG
“A
nh có muốn thẩm vấn mọi người luôn không?" Mackay hỏi.
Kennedy lưỡng lự. "Đầu tiên, tôi muốn các bằng chứng liên quan trực tiếp đến cái chết của cô ấy được đảm bảo. Anh thu xếp gói ghém hết toàn bộ chỗ quần áo cô ấy đang mặc và những bộ đồ cô ấy mang theo, sau đó gửi chúng đến phòng thí nghiệm của tôi, cùng với các mẫu chất dịch cơ thể của cô ấy ngay khi điều tra viên có thể cấp chúng cho anh được không?"
Mackay gật đầu. Anh ta lấy làm hài lòng với việc này. Đây có vẻ là một hành động cụ thể, hứa hẹn sẽ mang lại một kết quả cụ thể.
Kennedy lại liếc nhìn xung quanh với vẻ trầm ngâm. Tôi biết rằng vết xước đang khiến anh thấy quan ngại. "Cô ấy thay quần áo ngoài này à?", anh hỏi.
Anh ủy viên công tố quận hớn hở. "Cô ấy thay đồ trong một căn phòng nhỏ ngay cạnh phòng khách. Tôi đã cho một người đứng canh và đóng kín cửa lại. Chưa thứ gì bị làm xáo trộn cả."
Không cần đợi Kennedy nói thêm gì nữa, anh ta dẫn đường đi luôn, cảm thấy tự hào vì đã một lần nữa chứng minh được tài nhìn xa trông rộng của mình.
Lúc chúng tôi rời thư viện và bước vào phòng khách, một bầu không khí im lặng trông thấy bao trùm lên tất cả. Túm tụm trong này là nhóm các thành viên khác của đoàn làm phim, được hãng đưa đến đây. Họ là một nhóm nhỏ những người chẳng có điểm gì chung ngoài đáp ứng được những yêu cầu hết sức chuyên biệt của môn nghệ thuật mới mang tên điện ảnh, một tập hợp những nhân vật đã bị ép phải đợi trong suốt quãng thời gian Kennedy với tôi đi từ New York đến đây, và giờ lại buộc phải đợi tiếp cho đến khi anh đã sẵn sàng thẩm vấn họ.
Tôi nhìn thấy ông thợ điện trong căn phòng tù mù, và đứng cùng với ông ta là những nhân viên kỹ thuật khác, hỗ trợ thực hiện các cảnh quay bên trong thư viện. Tôi đoán kia là các nhân viên quay phim, một cậu phụ trách đạo cụ, và một trợ lý đạo diễn. Người được nhắc đến cuối cùng trong số các nhân vật bên trong căn phòng khổng lồ đó dửng dưng đến mức vẫn dồn được tâm trí vào suy tính công việc của mình. Tôi thấy anh ta đang lần giở một xấp kịch bản, hay cụ thể hơn là bản thảo chi tiết của câu chuyện, hí hoáy ghi chú vào trong một cuốn sách nhỏ gì đó. Chính nhờ hành động ấy mà tôi chỉ cần liếc qua là đã biết luôn danh tính của anh ta rồi.
Trong một góc khác là các diễn viên chính, hai người đàn ông và một cô gái hãy còn nguyên lớp trang điểm trên mặt, và đứng cùng với họ là ông đạo diễn, và Manton và Phelps. Đứng tách khỏi tất cả những người khác là hai diễn viên phụ với mức thù lao năm đô một ngày, một ông quản gia và một cô hầu gái, cũng vẫn mang trang điểm. Đấy là một kiểu tẩy chay thường
gặp tại các trường quay. Lạ lùng một điều là tổng số nhân chứng trực tiếp trong tấn thảm kịch bằng đúng mười ba, và tôi tự hỏi không biết liệu họ đã để ý thấy điều đó chưa.
Bác sĩ Blake quay sang Kennedy ngay khi chúng tôi rời thư viện.
"Anh có thực sự cần tôi ở lại lâu hơn nữa không?", ông hỏi. Ông nói với giọng hối lỗi, nhưng nghe rõ là đang rất sốt ruột. "Tính đến nay tôi đã phải lờ đi mấy cuộc gọi hết sức quan trọng rồi."
Cả Kennedy và Mackay cùng vội vã cam đoan với ông bác sĩ rằng họ đánh giá cao sự hợp tác của ông, và họ sẽ cố gắng không để danh tiếng ông bị ảnh hưởng và tránh gây bất tiện cho ông hết mức có thể. Thế rồi cả ba người chúng tôi nhanh chân bước vào trong căn phòng nhỏ đã được biến thành phòng thay đồ cho Stella sử dụng.
Trong này có đủ loại dấu hiệu đậm chất phụ nữ, những tiểu tiết mà một người đàn bà có thể mang lại cho ngay cả những góc không gian nhỏ nhất dù chỉ sử dụng nó trong một vài khoảnh khắc ngắn ngủi. Nơi đây là một hốc tường tí hon, được hai tấm rèm lụa dày ngăn cách khỏi phần còn lại của phòng khách. Bấy giờ chúng đang được kéo lại và ghim vào với nhau để đảm bảo cô được kín đáo. Cánh cửa sổ duy nhất gắn trên cao và được lắp kính pha chì, nhưng nó đã được mở ra, cho phép đón lấy lượng ánh sáng tối đa. Túi du lịch của Stella nằm mở toang, với nhiều món vật dụng của cô nằm rải rác lộn xộn, trông thật hấp dẫn. Bộ vét cô mặc lúc đi đến Tarrytown bị quăng vắt
vẻo trên lưng một chiếc ghế. Gương của cô được đính một cách không thương tiếc lên một bức rèm thêu Đông phương rất đẹp với một chiếc ghim cài mũ dài. Phấn bị vãi lên tấm bọc đi văng, cũng làm từ vải Đông phương, và hộp phấn má nhỏ của cô nằm úp mặt xuống sàn nhà.
Lúc chúng tôi kéo hai tấm rèm ra, tôi ngửi thấy mùi thứ nước hoa hãy còn lưu trên quần áo của cô, bấy giờ đang nằm trong thư viện phía bên kia căn phòng này. Trong lúc Mackay cũng hít ngửi, Kennedy mỉm cười.
"Rose Jacqueminot của hãng Coty," anh bình phẩm. Với sự quyết đoán rất nhanh nhẹn và thuần thục của mình, Kennedy kiểm tra căn phòng thay đồ tạm bợ. Có vẻ anh đã chốt lại rằng cô gái không bị tấn công lén ở đây, mặc dù tôi nghi là ngay từ đầu anh đã không coi trọng giả thuyết ấy rồi. Trong mấy năm quen biết Kennedy, kể từ lần đầu tiên chúng tôi thân nhau trong giai đoạn học đại học, tôi đã ngộ ra rằng lý do duy nhất khiến anh gặt hái được thành công trên cương vị một thám tử trường phái chuyên khoa học là nhờ sự tỉ mỉ khi làm việc của anh. Được quan sát anh luôn là một vui thú, ngay cả khi anh thực hiện những công đoạn khám xét sơ bộ nhàm chán trong một vụ án khó hiểu như thế này. Mackay có vẻ cũng bằng lòng với việc đóng vai khán giả.
Kennedy lục lọi những món đồ hết sức riêng tư trong túi du lịch của cô với tác phong sắc sảo, lãnh đạm trứ danh của mình. Thế rồi anh tìm thấy chiếc túi xách đính hột cườm của cô và tiếp tục lục lọi bên trong. Bất chợt anh dừng lại, mở một mẩu
giấy ghi chú ra, và chúng tôi cùng tụ lại xung quanh anh để đọc nó:
STELLA THÂN MẾN CỦA ANH: Có một điều rất quan trọng cần nói với em. Trưa thứ Ba em đi ăn tại phòng trà P. G. nhé? LARRY.
"Thứ Ba..." Kennedy lẩm bẩm. "Trong khi hôm nay là thứ Hai. Ai... không biết ai là Larry nhỉ?"
Tôi vội vã trả lời câu hỏi ấy cho anh. Đây là cơ hội đầu tiên để tôi phô ra các kiến thức về giới diễn viên điện ảnh của mình. "Larry... đó là Lawrence, Lawrence Millard!" Tôi thốt lên. Thế rồi tôi kể tiếp cho anh nghe những gì mình biết về vụ ly dị và các tình tiết xoay quanh đời tư của Stella. "Trông... trông đây thì có vẻ là," tôi kết luận lại, "họ cuối cùng cũng sắp giải quyết được những bất đồng của mình rồi."
Kennedy gật đầu. Tuy nhiên, tôi có thể thấy rằng anh thầm tự nhắc nhở bản thân phải thẩm vấn chồng cũ của cô gái. Bất thình lình một dòng suy nghĩ khác nảy ra trong đầu tôi, và tôi trở nên hăm hở. Đấy là một lời giải thích khả dĩ cho bí mật này.
"Tôi bảo này, Craig," tôi dợm nói. "Giả sử Millard muốn làm lành còn cô ấy thì không. Giả sử cô ấy từ chối nhìn mặt hay gặp gỡ anh ta. Giả sử trong cơn ghen tuông, anh ta..."
"Không, Walter à!" Kennedy chặn họng tôi với một nụ cười. "Đây không phải là một vụ án mạng bốc đồng bình thường. Vụ án này được suy tính rất kỹ lưỡng và thực hiện hết sức thiện
nghệ. Có đến cả ngàn giám định pháp y thì cũng chẳng có lấy một người phát hiện ra vết xước tí hon ấy. Có thể sẽ rất khó xác định ra nguyên nhân tử vong chính xác. Jameson thân mến à, đây...", anh nói theo kiểu bỡn cợt đầy mỉa mai, "... là một tội ác đậm chất khoa học."
"Nhưng Millard..."
"Tất nhiên! Bất cứ ai cũng có thể là thủ phạm. Nhưng anh đã bảo với tôi rằng Millard không phản đối đơn ly dị của cô ấy, trong khi anh ta lại có thể rất dễ dàng đâm một đơn phản tố, bởi tất cả mọi người biết về mối quan hệ của cô ấy với Manton. Điều đó vô tình cho thấy rằng anh ta không có ác ý gì. Và giờ thì chúng ta lại tìm thấy mẩu giấy này do anh ta gửi, và ít nhất thì giọng điệu của nó nghe cũng thân thiện..."
Tôi nhún vai. Đó chính là cái ngõ cụt mà các dòng suy nghĩ của tôi đã đâm phải lúc chúng tôi ngồi trên chuyến tàu đi ra đây.
"Giờ mà đã bắt đầu kết tội người nào đó rồi thì hãy còn là quá sớm," Kennedy bổ sung thêm trong lúc chúng tôi băng qua phòng khách và quay trở về thư viện. Thế rồi anh quay sang Mackay. "Anh có lượm lặt được bất cứ dữ kiện gì về đời tư của cô Lamar không?", anh hỏi. "Bất cứ điều gì có khả năng là động cơ, để tôi có thể tiếp cận vụ này từ cả hai hướng?"
"Theo quan điểm của tôi," anh chàng ủy viên công tố quận nhỏ thó đáp lời, "thì toàn bộ vụ việc này có động cơ nhập nhằng lắm. Tôi... tôi không có kiếm để bổ đôi cái nút thắt Gordias *
này, thế nên là...", anh ta nói với giọng nhã nhặn,"... tôi mời anh đến đây."
"Anh nói động cơ nhập nhằng là ý thế nào vậy?" Kennedy ngó lơ lời khen của anh ta.
"Thì đấy!" Mackay chỉ về phía tôi. "Anh Jameson đã giải thích về vụ ly dị của cô ấy. Không ai hay biết cô ấy nêu tên ai là người thông dâm. Người phụ nữ dính líu đến vụ việc ấy là một người vô danh tính, mặc dù có thể điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì hết. Rồi thì ta có Lloyd Manton và mấy tin đồn đại về chuyện ông ta có dan díu với cô Lamar. Ai đó đã bảo với một người của tôi rằng đó chính là nguyên nhân vợ Manton bỏ ông ta."
"Anh đã thẩm vấn Manton chưa?"
"Chưa, tôi tin rằng mình cần phải nhường hết tất cả lại cho anh. Tôi sợ rằng mình sẽ khiến cho họ trở nên đề phòng." "Tốt!" Kennedy cảm thấy hài lòng. "Anh còn biết được điều gì khác nữa không?"
"Cái anh phụ tá này của tôi biết được hết tất cả những điều này nhờ tán chuyện với cái cô đóng vai hầu gái, thế nên chưa biết chừng chúng không đáng tin cậy. Nhưng giới diễn viên người ta rỉ tai nhau rằng Werner, ông đạo diễn, cũng đang qua lại với Stella, và Merle Shirley, diễn viên đóng vai phản diện, dạo gần đây rất hay thấy cặp kè cùng với cô ấy. Thế là Jack Gordon, nam diễn viên chính, người sẽ cưới cô ấy ngay khi tòa chốt sắc lệnh, cảm thấy ghen tuông. Ngoài ra, cô Loring, người đóng vai cô gái lăng loàn trong câu chuyện đồng thời đã đính
hôn với Shirley, thậm chí còn thù ghét cô gái quá cố hơn cả Gordon, chồng chưa cưới của cô Lamar.
Thế tức là có tám người với động cơ gây án khả dĩ. Khi tìm hiểu được đến đó thì tôi bỏ cuộc. Thực tình mà nói...", Mackay bất chợt hạ giọng xuống, "... tôi không thích thái độ của Emery Phelps. Anh biết đấy, đây là nhà của ông ta, và chính ông này còn là nhà đầu tư của hãng phim Manton Pictures, ấy thế mà hình như giữa Manton và ông ta đang có xích mích ngầm. Tôi... tôi muốn ông ta dẫn tôi đi xem cách bài trí đồ đạc bên trong thư viện, nhưng ông ta không chịu bước vào trong căn phòng ấy. Ông ta nói là mình không muốn phải nhìn cô Lamar. Có... có điều gì đó... và, tôi cũng chẳng biết nữa. Nếu ông ta mà có dính líu theo kiểu nào đó... thì sẽ là chín người."
"Anh nghĩ là cô Lamar và Phelps..."
Mackay lắc đầu. "Tôi không biết."
Kennedy quay sang phía tôi, vẻ mặt trông hết sức nghiêm trọng. "Đây có phải là cái kiểu của những người trong thế giới điện ảnh không, Walter?", anh hỏi. "Đây là chuyện thường diễn ra hay... hay là một ngoại lệ?"
Mặt tôi đỏ bừng lên. "Đây chắc chắn là một ngoại lệ," tôi khăng khăng. "Dân làm phim cũng giống như những người khác, có người này người kia. Chắc ba phần tư những chuyện này chỉ là ngồi lê đôi mách mà thôi."
"Tôi hy vọng thế." Anh đứng thẳng người dậy. "Điều duy nhất ta cần phải làm là lần theo từng người một trong đám bọn họ và gỡ rối hết tất cả những thông tin mâu thuẫn. Có vẻ sẽ có rất
nhiều manh mối sai lệch, thế nên chúng ta sẽ phải hết sức cẩn thận và cân nhắc thật kỹ lưỡng. Tôi nghĩ mình sẽ lần lượt thẩm vấn từng người một - ngay ở đây."
Anh bước lại chỗ chiếc lò sưởi, chỉ dừng lại một thoáng để liếc nhìn thi thể của Stella. Thế rồi anh kéo rèm xuống phân nửa, để cho căn phòng trông ảm đạm và ghê rợn. Anh kéo một cái ghế ra, căn chỉnh sao cho trong quá trình hỏi cung, những người khác nhau ngồi vào ghế sẽ không thể không nhìn thấy người phụ nữ đã chết. Sau khi hoàn tất công việc bố trí đồ đạc của mình, anh quay sang anh ủy viên công tố quận.
"Trước tiên là Manton," anh ra lệnh.
Chỉ trong tích tắc, tôi luận ngay ra đòn tâm lý anh sử dụng - phòng thư viện giờ đã trở nên tối tăm, thi thể xinh đẹp vẫn còn nằm nguyên trên chiếc đi văng, sự xuất hiện lặng lẽ và nhanh chóng của chúng tôi. Nếu những người kia mà có giấu giếm điều gì có thể khai thác được, chắc chắn nó sẽ bị lộ ra trong bối cảnh này.
CHƯƠNG 4
KỊCH BẢN CHẾT NGƯỜI
T
ôi không thực sự có cơ hội quan sát Manton lúc ông ta ra đón khi chúng tôi đến đây, và tại thời điểm ấy thì cả Kennedy lẫn tôi đều không hề hay biết vấn đề mình phải đương đầu sẽ ra làm sao. Giờ thì tôi cảm thấy rằng mình đã sẵn sàng nắm bắt mọi động cơ gây án khả dĩ. Tôi đã sẵn sàng tinh thần nghi ngờ bất cứ ai trong số chín người đã được Mackay liệt kê hay toàn bộ bọn họ. Đó là những gì tôi tin mình có thể làm được, và ít nhất thì tôi cũng dám khẳng định rằng đây là một trong
những bài toán hóc búa nhất từng được đặt ra cho Craig. Ấy nhưng tôi tin chắc rằng anh sẽ giải được nó. Tôi hết sức nôn nóng chờ đợi kết quả cuộc thẩm vấn Lloyd Manton của anh. Nhà sản xuất kiêm nhà quảng bá ấy là một người phong thái đĩnh đạc, tuổi gần trung niên. Ông ta tạo ra ấn tượng mình sở hữu một thể lực tốt, có tướng song thịt da không bị nhão nhoẹt. Đặc biệt, tôi để ý thấy dáng hình vuông vức, phóng khoáng của đầu ông ta, thể hiện sự thông minh của con người này. Ngoài ra, tôi còn thấy mắt ông ta có nét rất thú vị, sâu thẳm và mang màu nâu xám sẫm ấm áp, trông như thể ẩn chứa một sự chân thành rất căn bản. Tôi tin cặp mắt ấy giúp cho người đàn ông này trở nên gần như không thể nào cưỡng lại được mỗi khi thực hiện một thương vụ.
Như nhận định của cá nhân tôi, nơi duy nhất bộc lộ nét yếu đuối của con người này là miệng và cằm của ông ta, cùng với vẻ bồn chồn của cặp tay. Đôi bàn tay ông ta vuông vắn, trông rất thực dụng, nhưng trái ngược với nó lại là những ngón tay hơi thon nhỏ, nét đặc trưng của một người mơ mộng. Miệng ông ta nhìn hết sức khêu gợi với cặp môi căng dày, và thỉnh thoảng nó lại giật một cú rất khẽ, gần như không tài nào thấy nổi, như thể để lộ ra một thoáng cảm xúc hay nỗi sợ trên gương mặt bình thản lão luyện đầy vẻ chăm chú của mình. Cằm ông ta trông thật dịu dàng, khiến nét biểu cảm của ông ta mềm bớt ra, đồng thời cho thấy rằng cảm xúc của ông ta sẽ lấn át bản chất toan tính lạnh lùng toát lên từ cặp mắt và hàng lông mày khá đậm phía trên của ông ta.
Lúc bước vào trong căn phòng, ngồi xuống chiếc ghế Kennedy chỉ định, ông ta trông có vẻ bình tĩnh tuyệt đối. Khi liếc mắt về phía thân xác vô hồn của Stella, ông ta bộc lộ rất rõ khả năng giữ sự tự chủ sắt đá. Phải đến trong lúc Kennedy tiến hành thẩm vấn, tôi mới dần dần nhận biết được những dấu hiệu vụn vặt thể hiện con người thật ẩn giấu bên dưới mà mình đã nhắc đến, từng chút, từng chút một.
"Hãy cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra đi." Kennedy bắt đầu hỏi.
"À thì...", Manton đáp rất nhanh, nhưng rồi ông ta dừng lại và hành xử như thể đang lựa chọn từng từ một cách cẩn trọng, như thể ông ta đang sắp xếp từng câu sao cho sẽ không gây hiểu
nhầm, không tạo ra ấn tượng sai lệch nào hết. Kennedy hết sức hài lòng.
"Trong phân cảnh chúng tôi quay lúc ấy," ông ta nói tiếp, "Stella ngồi xổm xuống sàn nhà, cúi xuống chỗ bố mình, bấy giờ vừa mới bị sát hại. Cô ấy đang khóc. Đèn đuốc sẽ bất thình lình bật lên. Người hùng trẻ tuổi sẽ xộc vào bối cảnh và cô ấy sẽ nhìn thấy anh ta và hoảng sợ hét lên. Phần đầu tiên diễn ra suôn sẻ. Nhưng khi đèn được bật, thay vì ngước lên nhìn và hét to, Stella lại co rúm người và ngã gục lên Werner, diễn viên đóng vai ông bố. Tôi quát bảo cho dừng máy quay và lao vào đó. Chúng tôi đỡ và đặt cô ấy lên chiếc đi văng. Ai đó đi gọi ông bác sĩ, nhưng cô ấy chết mà chẳng nói được một lời nào. Tôi... tôi chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra cả. Mới đầu tôi cứ tưởng là do vấn đề tim mạch gì đó."
"Cô ấy có vấn đề về tim mạch sao?"
"Không, ý tôi là... không có vấn đề gì tôi biết cả."
Kennedy lưỡng lự. "Tại sao ông lại quay ở tận nơi này?" Tôi nhấp nhổm muốn trả lời thay cho Manton. Tôi biết rằng đã có thời, nhiều bối cảnh trong nhà rất đẹp thực sự được bấm máy quay ở bên trong các ngôi nhà để tiết kiệm chi phí. Tôi lấy làm tiếc là Kennedy lại mất công suy diễn dựa trên một dữ kiện mà tôi cứ tưởng là ai cũng biết, không cần giải thích làm gì. Tuy nhiên, câu trả lời của Manton khiến tôi hết sức ngạc nhiên. "Ông Phelps đề nghị chúng tôi sử dụng thư viện của mình trong phim."
"Chẳng phải về lâu về dài thì dựng lại nó trong trường quay sẽ dễ dàng và rẻ hơn sao?"
Manton liếc lên nhìn Kennedy, hẳn đang nghĩ tương tự như tôi. Phải chăng lưu trữ bên trong kho thông tin cả phổ thông lẫn lạ thường của Kennedy cũng là chút ít kiến thức về phim ảnh?
"Vâng," nhà sản xuất đáp. "Làm thế sẽ đỡ công phải đi ra đây, đỡ mất thời gian, đỡ lằng nhà lằng nhằng... ôi, nếu đem ra so sánh theo tiền mặt, kể cả nếu tính gộp chi phí vận hành và mọi thứ khác vào, thì xây dựng một bối cảnh như thế này cũng rẻ như bèo với mức giá ngày nay thôi mà."
"Ông có biết lý do vì sao ông Phelps muốn vậy không?" Manton nhún vai. "Chỉ là ông ta thích như vậy thôi, và chúng tôi phải chiều ý."
"Ông Phelps quan tâm đến công ty của ông à?"
"Vâng. Gần đây ông ta mua hết toàn bộ cổ phiếu ngoại trừ chỗ tôi sở hữu. Riêng về mặt tài chính thì ông ta nắm quyền kiểm soát tuyệt đối."
"Nội dung câu chuyện ông đang quay là gì? Ý tôi là, tôi muốn hiểu thật chính xác những tình tiết diễn ra trong các cảnh ông quay ngày hôm nay. Tôi cần phải biết tất cả mọi người đáng nhẽ phải hành xử ra sao, và trên thực tế thì họ đã làm gì. Tôi phải nắm được mọi tiểu tiết. Ông hiểu ý tôi chứ?"
Miệng của Manton tự nhiên đanh lại, cho thấy rằng nó ẩn chứa một sự kiên định ngầm. Ông ta liếc nhìn xung quanh căn phòng, thế rồi đứng dậy, đi ra đầu bên kia của chiếc bàn dài, và
quay trở lại cùng với một xấp bản thảo dày, đóng bìa cứng ở một bên. "Đây là kịch bản, bản ghi chi tiết mọi hành động trong các phân cảnh," ông ta giải thích.
Khi Kennedy đón lấy xấp kịch bản, Manton mở nó ra và lật qua mấy trang bảng biểu và danh sách, mục lục bối cảnh và các địa điểm ngoài trời, các nhân vật và các diễn viên phụ, các bộ trang phục, cũng như các chi tiết kỹ thuật khác. "Các phân cảnh chúng tôi quay ở đây," ông ta nói tiếp, "là phần mở đầu của câu chuyện. Chúng tôi chừa chúng lại cho đến tận bây giờ bởi vì sẽ cần phải đi một chuyến rất lâu ra Tarrytown, và bởi vì chúng tôi sẽ có thể rời trường quay trong lúc người ta dựng hai cảnh lớn nhất, một buổi tiệc và một phòng khiêu vũ. Chúng sẽ cần toàn bộ diện tích sàn của trường quay." Ông ta lật qua hai hay ba trang gì đó, thế rồi đưa tay chỉ. "Chúng tôi đã quay được đến phân cảnh thứ mười ba; từ phân cảnh thứ nhất cho đến thứ mười ba, theo trình tự giống như thế này đây. Vào... vào đúng phân cảnh thứ mười ba xui xẻo thì cô ấy...", là do tôi tưởng tượng ra hay ông ta quả thực vừa run lẩy bẩy, dù chỉ trong một thoáng thôi nhỉ? "... thì cô ấy chết."
Kennedy bắt đầu đọc kịch bản. Tôi vội đến bên anh, liếc nhìn qua vai anh.
NỖI KINH HOÀNG MÀU ĐEN
VỚI SỰ THAM GIA CỦA STELLA LAMAR
PHÂN CẢNH 1
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Đây là một bối cảnh thư viện hiện đại, sang trọng với một chiếc bàn dài nằm chính giữa căn
phòng, sách đặt khắp xung quanh các bên tường, cửa sổ kiểu Pháp phía cuối phòng, và một lối ra vào dẫn qua một hành lang phía bên tay phải, xuyên qua một cặp rèm treo. Ghi chú: E. P. muốn chúng ta sử dụng thư viện của mình tại Tarrytown.
HÀNH ĐỘNG: Chậm rãi mở màng khẩu độ quay bối cảnh tối tăm, với một ánh đèn tròn chiếu tường và hai cánh cửa sổ kiểu Pháp phía đằng sau. Trong quá trình màng khẩu độ được chậm rãi mở ra, ánh đèn biến mất, khiến cho bối cảnh trở nên tối om,
và rồi lại sáng lên cho đến khi màng khẩu độ mở hết ra, và chúng ta phát hiện ra rằng ánh sáng ấy được chiếu từ ngọn đèn pin của một tên trộm, men sát những bức tường thư viện. Khi màng khẩu độ đã được mở to hết mức, chúng ta cũng sẽ phát hiện thấy một lằn ánh sáng yếu ớt chiếu qua cặp rèm treo dẫn ra hành lang bên ngoài, bấy giờ đang gần khép kín. Tia sáng ấy chiếu dọc sàn nhà, dừng lại bên bàn thư viện, chỉ đủ soi tỏ rìa mép của nó, nhưng không để lộ ra thứ gì khác bên trong căn phòng. Ánh đèn rọi trong tay một bóng người đen ngòm chiếu vơ vẩn trên tường và rồi ra đến hai bức rèm treo. Trong lúc nó đang dừng lại ở đó, cặp rèm treo lay động và trên mép tấm lụa xuất hiện những ngón tay của một cô gái. Một cánh tay trần và xinh đẹp thọc qua tấm rèm treo, sâu gần đến vai, và nó bắt đầu đẩy rèm sang bên, đồng thời với lên trên để tẽ chúng ra ở chỗ móc treo.
PHÂN CẢNH 2
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Cận cảnh rèm treo.
HÀNH ĐỘNG: Nhân vật nữ chính của chúng ta tẽ cặp rèm treo sang hai bên và đứng trong ánh đèn, lộ rõ toàn thân. Khi ấy cô mặc váy dạ tiệc, và quanh cổ cô là một mặt dây chuyền khác thường, gắn trang sức lấp lánh. Cô rú lên và bước lùi lại, khép hai tấm rèm treo vào. Ánh đèn rụt ra khỏi cặp rèm, khiến chúng chìm trong bóng tối.
PHÂN CẢNH 3
ĐỊA ĐIỂM: Hành lang, nhà Remsen. Cận cảnh rèm treo dẫn vào thư viện. Hành lang này được thắp sáng trưng. HÀNH ĐỘNG: Cô gái giữ kín cặp rèm treo, gào lên gọi người đến.
PHÂN CẢNH 4
ĐỊA ĐIỀM: Chân cầu thang, nhà Remsen.
HÀNH ĐỘNG: Ta thấy ông quản gia và cô hầu gái đang nói chuyện. Họ nghe được tiếng hét của cô gái và bắt đầu chạy đến. PHÂN CẢNH 5
ĐỊA ĐIỂM: Hành lang, nhà Remsen. Cận cảnh rèm treo. HÀNH ĐỘNG: Cô gái nghe thấy tiếng người đang chạy đến và liếc sang bên, thể hiện mình đã nhìn thấy ông quản gia và cô hầu gái. Cô vẫn tiếp tục bám lấy cặp rèm khép kín. PHÂN CẢNH 6
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Quay toàn cảnh.
HÀNH ĐỘNG: Kẻ vô danh kia buông rơi cây đèn xuống sàn nhà, và đầu tiên chúng ta thấy chân hắn chắn ngang luồng sáng
trên sàn nhà. Thế rồi cây đèn lăn đi, chiếu rọi cơ thể của một ông già, trông như dân triệu phú người Mỹ, nằm gục trên bàn. Cuối cùng nó lăn thêm xa hơn một chút và dừng lại, chiếu các tia sáng của mình vào trong lò sưởi.
PHÂN CẢNH 7
ĐỊA ĐIỀM: Hành lang Remsen, bên ngoài thư viện. HÀNH ĐỘNG: Cô gái tỏ thái độ quyết tâm. Với một động tác tay rất nhanh, cô kéo tung hai tấm rèm treo ra và lao vào bên trong. Rèm treo khép lại phía đằng sau cô. Ông quản gia và cô hầu gái chạy đến nơi và nhìn ngó quanh quất.
PHÂN CẢNH 8
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Quay toàn cảnh.
HÀNH ĐỘNG: Chiếu cảnh ngọn đèn đang rọi sáng vào trong lò sưởi, và cô gái mau chóng bước vào trong tia chiếu của nó. Cô chúi xuống vùng sáng, để lộ mặt mình và nhặt cây đèn lên. Cô chiếu nó khắp xung quanh căn phòng, khựng lại khi nó chiếu vào cặp cửa sổ kiểu Pháp và soi tỏ kẻ sát nhân, bấy giờ đang trên đường bỏ chạy ra ngoài một ban công nằm ở cảnh nền. Khi tia sáng chiếu đến chỗ kẻ sát nhân, hắn chậm rãi quay mặt lại.
PHÂN CẢNH 9
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Cận cảnh cửa sổ kiểu Pháp. HÀNH ĐỘNG: Kẻ đột nhập, hiện đã được quay cận cảnh, dừng lại trong lúc chuẩn bị khép cửa sổ vào và từ tốn chớp mắt trong luồng ánh sáng, sau đó cười phá lên và đóng hẳn hai cánh cửa sổ kiểu Pháp lại.
PHÂN CẢNH 10
ĐỊA ĐIỂM: Hành lang, nhà Remsen. Cận cảnh rèm treo dẫn vào thư viện.
HÀNH ĐỘNG: Ông quản gia và cô hầu gái nhìn quanh đầy vẻ tuyệt vọng. Một chàng trai trẻ tuổi, phiên bản đối nghịch của nhân vật trong phân cảnh trước nhìn vào trong ánh đèn soi vào cặp cửa sổ kiểu Pháp, ra chỗ ông quản gia và yêu cầu được biết chuyện gì vừa mới xảy ra. Ông quản gia vội vã giải thích rằng ông ta nghe thấy tiếng cô chủ mình kêu cứu. Chàng trai trẻ tuổi bước đến chỗ bộ rèm treo và dừng lại.
PHÂN CẢNH 11
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Quay toàn cảnh.
HÀNH ĐỘNG: Cô gái dùng cây đèn pin chiếu khắp căn phòng và xuống dưới sàn nhà, lần đầu tiên nhìn thấy thi thể của ông triệu phú người Mỹ.
PHÂN CẢNH 12
ĐỊA ĐIỂM: Bên ngoài nhà Remsen. Phủ màu đêm. HÀNH ĐỘNG: Kẻ sát nhân leo xuống một cây cột ở hiên trên nhà và nhảy xuống dưới đất, phóng vọt qua bãi cỏ, biến mất khỏi khung hình.
PHÂN CẢNH 13
ĐỊA ĐIỂM: Thư viện Remsen. Quay toàn cảnh.
HÀNH ĐỘNG: Cây đèn pin chiếu lên sàn nhà, để lộ cảnh cô gái khóc bên thi thể ông triệu phú và cố gắng làm cho ông ta hồi tỉnh. Cô gào thét và kêu khóc. Cặp rèm treo tẽ đôi ra, và từ hành
lang sáng ánh đèn, chúng ta thấy anh chàng trẻ tuổi, ông quản gia và cô hầu gái cùng bước vào. Chàng trai trẻ tuổi bật đèn lên và toàn bộ căn phòng hiện ra. Cả ba cùng kêu lên vì kinh hoàng. Chàng trai trẻ tuổi liếc nhìn xung quanh, sau đó lao về phía cặp cửa sổ kiểu Pháp mở hờ, rút ra một khẩu súng lục. Lúc nhìn thấy anh ta, cô gái lại hét toáng lên và tỏ vẻ kinh hãi.
Sau khi đọc xong phân cảnh thứ mười ba, Kennedy gập bìa lại và đưa tập kịch bản cho tôi. Thế rồi anh một lần nữa thẩm vấn Manton.
"Chiếc mặt dây chuyền cô ấy đeo quanh cổ ra sao rồi? Trong kịch bản, cô Lamar phải có một mặt dây chuyền khác thường đeo trên cổ. Cô ấy có đeo đâu."
"À phải rồi!" Nhà quảng bá ngẫm nghĩ một lúc. "Ông bác sĩ đã cởi bỏ nó và đưa nó cho Bernie, cậu phụ trách đạo cụ, lúc ấy đang hỗ trợ ông thợ điện."
"Cậu ta có ở bên ngoài không?"
"Có."
"Giờ cố nhớ lại nhé, ông Manton." Kennedy rướn người tới trước, thái độ rất nghiêm trang. "Trong quá trình quay phân cảnh thứ mười ba kia, ai là người đã tiến sát đến bên cô Lamar? Ai là người ở đủ gần để có thể gây thương tích cho cô ấy, hay giả sử là khiến cho cô hít phải thứ hơi độc khó phát hiện nào đó?"
"Anh tin là...", Manton dợm hỏi ngược lại Kennedy, nhưng không được anh tỏ vẻ khuyến khích gì hết. "Gordon, nam diễn viên chính, có chạy qua bối cảnh," ông ta đáp sau khi dừng một
lúc, "nhưng không lại gần cô ấy lắm. Werner đóng vai ông triệu phú chết dưới chân cô ấy."
"Werner là ai thế?"
"Ông ấy là đạo diễn của tôi. Bởi vì đó là một vai rất nhỏ, ông ấy đích thân đóng. Ông ta chỉ đóng trong hai hay ba phân cảnh đoạn đầu, và tôi thì có mặt ở đây để trực máy quay."
Trong lúc Kennedy thẩm vấn Manton, tôi đọc lướt qua kịch bản của bộ phim. Tôi dính dáng đến lĩnh vực phim ảnh chủ yếu vì từng ba lần tìm cách bán kịch bản do chính mình viết cho các bên sản xuất. Lẽ đương nhiên tôi không thành công. Thế là riêng trong mảng này, tôi giống như hàng trăm ngàn người khác. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng mình có thể viết được ít nhất một bộ phim. Và như vậy, mặc dù đã được tham quan các trường quay và gặp một vài diễn viên, đây là lần đầu tiên tôi có cơ hội đọc một bản thảo được dựng thành phim. Tôi tận dụng khoảnh khắc Kennedy còn đang mải nghĩ để quay sang hỏi Manton.
"Ai là người viết kịch bản này vậy, ông Manton?" Tôi hỏi. "Millard! Lawrence Millard."
"Millard ư?" Kennedy và tôi đồng thời thốt lên.
"Tất nhiên rồi! Millard vẫn còn bị hợp đồng ràng buộc, và anh ta là người duy nhất có thể viết được kịch bản cho Stella. Chúng tôi... chúng tôi đã thử thuê người khác, nhưng tất cả bọn họ đều chẳng làm ăn ra gì."
"Millard có ở đây không?"
Manton phá ra cười. Nghe tiếng cười ấy cứ lạc lõng bên trong căn phòng nơi vẫn đang có một xác chết bầu bạn với chúng tôi. "Cho một nhà văn đến nơi quay bộ phim của anh ta, để anh ta có thể quấy rầy đạo diễn và đòi thay đổi mọi thứ ư? Biến! Khi kịch bản được viết xong thì anh ta cũng đã xong việc. Có tên xuất hiện trên màn ảnh là anh ta đã may mắn lắm rồi. Cốt truyện không là gì hết, mà chỉ đạo quay phim thế nào mới quan trọng. Có điều là anh sẽ cần một ý tưởng hay để làm điểm khởi đầu, và một kịch bản tạm ổn để phát triển các cảnh của mình. Mà thôi..." Ông ta tỉnh táo lại một chút, có thể vì đã nhận ra rằng mình đang quá mải mê phản đối chuyện cho nhà văn đến phim trường. "Millard và Stella không còn nhìn mặt nhau được nữa. Anh biết đấy, cô ấy đã ly dị anh ta rồi."
"Ông có biết nhiều về chuyện đời tư của cô Lamar không?" "À thì...", mắt Manton nhìn xuống sàn nhà một thoáng "... Cũng giống như tất cả những người khác trong làng phim ảnh, Stella phải chịu rất nhiều lời bàn ra tán vào. Đó là số phận của bất cứ cô gái nào đạt được danh vọng và..."
"Mối quan hệ giữa cô Lamar và bản thân ông thì như thế nào?" Kennedy ngắt ngang.
"Anh nói thế là có ý gì vậy?" Manton đỏ mặt lên rất nhanh. "Gần đây hai người không có rắc rối gì, không có bất đồng gì cả, đúng không?"
"Không. Chúng tôi rất thân thiết - tất nhiên là thân thiết theo kiểu những người đồng nghiệp với nhau - và tôi tin mình chưa
từng nói một lời không hay nào với cô ấy kể từ hồi tôi mới thành lập hãng phim Manton Pictures để biến cô ấy thành một ngôi sao."
"Ông chẳng biết gì về các khó khăn giữa cô ấy và chồng sao?" "Lẽ dĩ nhiên là không. Tôi hiếm khi gặp gỡ cô ấy ngoại trừ lúc ở trường quay, và trừ những dịp bắt buộc, chẳng hạn như một buổi tiệc chiếu phim ở đây, hay có thể là ở Boston hay Philadelphia hay thành phố nào đó gần đây, và tôi sẽ đưa cô ấy..."
Kennedy quay sang Mackay. "Anh thu xếp giữ những người tôi chưa thẩm vấn tách biệt khỏi những người tôi đã thẩm vấn rồi giúp tôi với nhé?"
Trong lúc anh ủy viên công tố quận gật đầu, Kennedy nhanh chóng bảo Manton ra ngoài. Thế rồi, ngay khi nhà quảng bá đã ra khỏi tầm tai, anh lại quay sang Mackay.
"Đưa cậu phụ trách đạo cụ Bernie vào đây đi, trước khi có ai kịp bảo cậu ta giấu hay tiêu hủy cái mặt dây chuyền ấy."
CHƯƠNG 5
MÊ TRẬN TÌNH CẢM
T
hanh niên Bernie này là người ngu xuẩn nhất tôi từng gặp. Cậu ta mang một đôi mắt hoảng hốt hơi mọng nước, cùng với cặp tai cao và mớ tóc có lẽ là màu đỏ bên dưới lớp bụi bặm bám đầy. Rõ ràng là cậu chàng đã được ông thợ điện dạy cách hành xử, bởi vì ngay lúc bước qua cửa là cậu ta đã bắt đầu
khẳng định sự vô tội của mình theo cách tương tự rồi. "Em không biết gì hết, thật sự chẳng biết gì đâu," cậu ta biện minh. "Em ở bên ngoài hành lang, thật đấy, và em không đặt chân vào trong phòng chút nào cả cho đến khi ông bác sĩ đến." "Tôi đoán là cậu còn mải kiểm tra xem dây cáp có bị nóng không," Kennedy nghiêm giọng đề xuất.
"Đúng thế, anh ạ! Bọn em khi ấy phải kiểm tra nó bởi vì nó được đặt trên sàn gỗ đánh véc ni, và bác quản gia có bảo là..." "Cái mặt dây chuyền đâu rồi?" Kennedy ngắt lời. "Cái mặt dây chuyền mà cô Lamar đeo trong mấy phân cảnh ấy." "À," cậu ta nói với vẻ khinh khỉnh, "cái thứ ấy!" Sau một hồi cố gắng, Bernie lôi nó ra từ sâu trong một bên túi, gỡ các góc sắc ra khỏi những đường chỉ rách và xơ của chiếc áo khoác. Tôi liếc nhìn nó lúc Kennedy lật đi lật lại nó trong tay, và thấy rằng đây rõ là một thứ đạo cụ biểu diễn, với những viên trang sức làm bằng thủy tinh thuộc loại rẻ tiền nhất. Vừa giấu đi
vẻ thất vọng của mình, Kennedy vừa bỏ nó vào trong túi của anh, rồi lại hỏi thanh niên Bernie đang sợ chết khiếp kia thêm câu nữa.
"Cậu có biết gì về cái chết của cô Lamar?"
"Không! Em không biết gì cả, thật đấy!"
"Được rồi!" Kennedy quay sang Mackay. "Cho ông đạo diễn Werner vào đi."
Tôi đã được nghe rất nhiều về Stanley Werner qua các bài phỏng vấn, phân tích, và các kiểu bài báo khác trong các tạp chí phim ảnh và chuyên mục điện ảnh của báo Chủ nhật. Giờ thì tôi thấy ông là một người rất dễ hồi hộp, bồn chồn đến mức ông dường như không tài nào ngồi im được một chỗ trên ghế hay giữ cho đôi tay của mình bất động được dù chỉ trong một giây. Mặc dù ông có vóc dáng tầm thước, trông khá là có da có thịt trên người, ấy nhưng dấu tích nghệ sĩ và bản chất sáng tạo vẫn hiện rõ trong những đường nghiêng tinh tế trên đầu ông và trong những ngón tay dài ngoẵng, thuôn dần thành các móng tay được cắt tỉa một cách hết sức chu đáo của ông. Kennedy có vẻ chú tâm đặc biệt đến cặp mắt sẫm màu, mềm mại, và xao động không ngừng của ông.
"Trong dàn diễn viên có những ai vậy, ông Werner? Họ đóng những vai gì, và chính xác thì mỗi người bọn họ làm gì tại thời điểm cô Lamar gục xuống?"
"Ờ thì...", mắt Werner liếc sang tôi, thế rồi sang Mackay, và phong thái của ông hơi mang một vẻ không thoải mái gì đó mà tôi vẫn chưa thể xác định được, "... Stella Lamar đóng vai Stella
Remsen, nhân vật nữ chính, và... ờm, tôi thấy đồng sự của anh có cầm kịch bản kìa..."
Ông dừng lại, liếc nhìn tôi thêm lần nữa. Khi thấy Kennedy lặng thinh, Werner nói tiếp, càng lúc càng trở nên lo lắng. "Jack Gordon đóng vai Jack Daring, nhân vật nam chính - anh chàng trẻ tuổi đẹp trai lao xuống cầu thang và gặp ông quản gia cùng cô hầu gái bên trong hành lang, ngay ngoài thư viện..."
"Chẳng phải gương mặt của anh ta còn đồng thời xuất hiện trong khung cửa sổ kiểu Pháp của thư viện ư?" Kennedy hỏi. "Chẳng hạn như anh ta cũng chính là kẻ giết hại ông bố ư?"
"Không!" Werner hơi mỉm cười, và tính cách con người này thoáng hiện ra, lấn át cơn lo lắng, và như tôi thấy thì đây là một hành động có tính toán, nhằm tạo sự tin tưởng. "Đó chính là bí ẩn mấu chốt đấy. Đây là một câu chuyện trinh thám. Mặc dù bây giờ cả hai vai đều do Jack đóng, đến đoạn sau chúng tôi sẽ có phụ đề giải thích rằng tên tội phạm, tức
'Nỗi kinh hoàng Màu đen', là một bậc thầy trong lĩnh vực khoa học mạo danh, và hắn thay đổi mặt mũi của đám tay sai của mình bằng phẫu thuật thẩm mỹ và các biện pháp khoa học tương tự, để cho bọn họ trông giống như những người hắn muốn quy cho nghi ngờ. Thế nên mặc dù Jack đóng vai ấy, kỳ thực kẻ giết ông Remsen già là một tòng phạm của 'Nỗi kinh hoàng Màu đen'."
Kennedy quay sang phía tôi. "Một ý tưởng áp dụng khoa học để gây án mới!", anh tỉnh khô bình phẩm. "Thử tưởng tượng nó mà áp dụng được thật xem!"
"Vai 'Nỗi kinh hoàng Màu đen'," Werner nói tiếp, "do Merle Shirley đóng. Anh chắc đã nghe đến danh anh ta, ác nhân vĩ đại nhất từng xuất hiện trên màn bạc rồi chứ nhỉ? Rồi có Marilyn Loring, vào vai cô gái lăng loàn, cũng là một diễn viên giỏi. Cô ta đóng vai Zelda, con nuôi của ông Remsen già, và vấn đề đang đặt ra là Zelda hay Stella sẽ trở thành người thừa kế gia tộc Remsen. Bản thân Marilyn thì là một cô gái hết sức tử tế, nhưng, ôi trời ơi, người hâm mộ ghét cô ta lắm!" Ông đạo diễn cười. "Không câu chuyện nào Millard sáng tác ra lại hoàn chỉnh nếu thiếu vắng một cô gái lăng loàn, và Marilyn toàn đóng vai ấy. Cô ta làm việc cùng với hãng phim Manton Pictures đã được gần một năm rồi."
"Ông đích thân đóng vai ông triệu phú à?"
"Vâng, tôi đóng vai ông Remsen già."
Bất chợt, tôi lần đầu tiên nhận ra rằng Werner vẫn đang mặc bộ quần áo dạ tiệc để nhập vai. Chạy sọc trên mặt ông là những vệt chất trang điểm còn sót lại sau khi đã bị ông lấy khăn tay chùi mặt liên tục. Cổ áo của ông cũng đang nhoe nhoét. Tôi có thể hình dung ông đang cảm thấy khó chịu đến nhường nào.
"Ông có động gì đến Stella không?" Kennedy hỏi, sử dụng thuật ngữ mà dân sân khấu dùng để chỉ những hành động nhỏ trong quá trình diễn một phân cảnh. "Ông có cử động chút nào trong lúc cô ấy đang diễn vai của mình không?"
"Không, anh Kennedy à, tôi đóng vai 'xác chết' trong tất cả các phân cảnh ấy."
"Ông chỉ cho tôi xem ông nằm như thế nào với nhé." Werner tuân lệnh, nằm dài ra bên trên tấm thảm, tái thực hiện tư thế của mình, thậm chí còn chuẩn xác đến tận cách mình đặt bàn tay và cánh tay. Chán ngán thay, Kennedy ép tôi phải đóng vai Stella Lamar, thực hiện đủ kiểu tư thế của cô, và tôi tin chắc mình diễn rất lóng ngóng. Kennedy tỉ mẩn diễn ngược lại từ phân cảnh thứ mười ba cho đến phân cảnh thứ nhất, dựa trên kịch bản và các chi tiết khơi gợi ra được từ trong ký ức của Werner.
Tôi nhận ra mục đích của Kennedy gần như ngay lập tức. Anh đang cố gắng tái tạo khung cảnh đã được ghi hình để xác định xem chất độc bị tiêm vào người cô như thế nào. Tất nhiên anh không đả động gì đến vết xước tí hon kia, và Mackay với tôi cũng cẩn thận không để lộ cho Werner biết gì về nó hết. Tuy nhiên, ông đạo diễn có vẻ hết sức sẵn lòng hỗ trợ chúng tôi. Chắc chắn bây giờ tôi không còn cảm thấy nghi
ngờ gì ông nữa rồi. Về phần Kennedy thì mặt anh chẳng thể hiện bất cứ điều gì cả.
"Khi chỗ phim trong máy quay đã được rửa...", tôi chợt đề xuất với Kennedy.
Anh bảo tôi im lặng với chỉ một động tác. "Tôi chưa quên chuyện đó đâu, nhưng các phân cảnh sẽ chỉ được quay từ một góc độ duy nhất và trong một nơi tối tăm. Làm thế này thì tôi có thể xác định được nhiều thứ hơn."
Thế là tôi lại miễn cưỡng tiếp tục đóng giả ngôi sao bị sát hại, lòng dạ tiu nghỉu ít nhiều. Chẳng bao lâu sau, Kennedy đã hoàn tất quá trình tái tạo khung cảnh hành động của mình.
"Còn ai khác bước vào trong phân cảnh này ngoài Gordon không?", anh hỏi.
"Ông quản gia và cô hầu gái, sau khi đèn đóm được bật sáng lên."
"Tôi sẽ thẩm vấn các nhân viên quay phim," anh tuyên bố. "Họ là ai?"
"Harry Watkins chịu trách nhiệm chỉ đạo hình ảnh," Werner giải thích. "Anh ta còn là một người rất lành nghề nữa! Một trong những chuyên gia ánh sáng giỏi nhất nước. AI Penny điều khiển máy quay thứ hai."
"Tôi sẽ thẩm vấn Watkins trước tiên." Kennedy gật đầu ra hiệu cho Mackay đưa ông đạo diễn ra khỏi căn phòng. Cả Watkins lẫn Penny đều không thể bổ sung được thêm gì ngoài những điều Kennedy đã thu thập được từ Manton và Werner. Khi đã kiên nhẫn thẩm vấn nhân viên quay phim xong xuôi, anh cho gọi Watkins quay trở lại và yêu cầu cả hai người bọn họ đóng và niêm phong hộp phim lại dưới sự theo dõi của mình. Bên trong chúng là bản ghi hình ảnh của cả mười ba phân cảnh. Sau khi cho hai người kia lui ra, anh đưa hai chiếc hộp đen cho Mackay.
"Anh có thể thu xếp rửa và in chúng ra thật nhanh chóng, nhưng không bao giờ để lọt dù là âm bản hay dương bản ra khỏi
tầm mắt của mình được không?"
Mackay gật đầu. "Tôi quen chủ một film lab * tại Yonkers." "Tốt! Giờ cho nam diễn viên chính vào đây thôi."
Jack Gordon ngay lập tức tạo cho tôi ấn tượng rất xấu. Anh ta có nét gì đó mà tôi không biết tả bằng từ nào khác ngoài từ "bóng bẩy". Nhờ những kỹ năng lượm lặt được sau khi đã hợp tác với Kennedy suốt bấy lâu, tôi lập tức nhận thấy rằng anh ta đã lau chùi sạch lớp trang điểm trên mặt, và đã thay lên người một chiếc cổ áo trắng sạch sẽ. Bởi vì chất vải của những bộ đồ mặc khi lên hình phải được nhuộm thành màu nhờ nhờ để ngăn không cho màu trắng tinh tươm tạo thành quầng sáng lóa trên ảnh, chiếc cổ áo kia là một dấu hiệu không thể lẫn đi đâu được là anh ta đã chải chuốt lại một chút. Tôi biết rằng anh ta đã đính hôn với Stella. Cô đang nằm chết bên trong căn phòng này, trong một hoàn cảnh hết sức bí ẩn. Thật tình mà nói, gần như chắc chắn là cô đã bị sát hại. Nếu thật sự yêu thương cô, làm sao anh ta lại có thể nghĩ đến những chuyện như phấn trang điểm còn sót lại trên mặt mình, hay quần áo của mình cơ chứ?
Tôi phải thừa nhận rằng anh ta là một người điển trai. Anh ta có lẽ hơi thấp hơn chiều cao trung bình một chút, và dáng người rất thanh mảnh, đồng thời sở hữu thân hình rắn chắc của một vận động viên. Nhờ dáng hình đầu và sự cân xứng tuyệt đối giữa các đường nét khá đậm trên mặt, anh ta là mẫu người để lên phim lý tưởng, bất kể ở góc độ nào; trong những pha quay cận cảnh và tiền cảnh cũng như toàn cảnh. Trên thực tế, trong
những bộ phim anh ta đóng, có rất ít thứ bị lớp trang điểm giấu đi, chẳng hạn như sắc xám lạnh lùng trong đôi mắt và những nếp nhăn quanh miệng anh ta.
Đầu tiên Kennedy hỏi anh ta về các hành động anh ta thực hiện trong các phân cảnh khác nhau, sau đó hỏi anh ta có nhìn thấy hay để ý thấy bất cứ điều gì đáng ngờ trong quá trình quay các cảnh ấy, hay trong khoảng thời gian nghỉ giữa chúng không.
"Tôi đã phải thay đổi lớp trang điểm mấy lần, anh Kennedy à," anh ta đáp. "Có lúc tôi đóng vai Jack Daring, vai diễn bình thường của tôi, nhưng tôi cũng đóng vai tên tay sai trông giống như Daring. Lần nào tôi cũng phải ra ngoài bởi vì tôi phải trang điểm sao cho tên tay sai trông dữ dằn. Werner muốn đánh lừa khán giả một chút, nhưng ông ấy không muốn họ tin chắc chắn rằng tên tay sai là Daring, mà nếu cả hai cùng có kiểu trang điểm giống nhau thì sẽ bị như thế mất."
"Anh có bất kỳ cơ hội nào để nói chuyện với cô Lamar không?"
"Không hề. Werner thúc ép chúng tôi kinh lắm."
"Lúc phân cảnh được bắt đầu quay, cô ấy có hành xử như bình thường không?"
"Không, cô ấy trông có vẻ hơi mệt mỏi. Nhưng...", Gordon lưỡng lự, "... có điều gì đó đã khiến cho cô ấy phải lo nghĩ suốt cả ngày. Cô ấy gần như chẳng nói chuyện với tôi câu nào lúc ngồi trên xe đi ra đây. Lúc cô ấy vào quay thì tôi không thấy cách hành xử của cô ấy có gì khác biệt cả."
"Anh đã đính hôn với cô ấy, đúng không?"
"Vâng." Mắt Gordon vô tình nhìn về phía cái xác nằm trên chiếc đi văng trước mặt. Anh ta vội vã liếc đi chỗ khác, cắn môi dưới giữa răng.
"Hai người dạo này có gặp vấn đề gì không?"
"Không... ý tôi là, chẳng có vấn đề gì lớn cả."
"Nhưng hai người có cãi nhau hay hiểu lầm gì đó." Mặt của anh ta dần dần đỏ ửng lên. "Đầu tuần sau cô ấy sẽ có quyết định cuối cùng của tòa án. Tôi muốn khi đó cô ấy sẽ cưới tôi ngay lập tức. Cô ấy từ chối. Khi tôi trách móc cô ấy vì không chịu nghĩ đến mong muốn của tôi gì cả, cô ấy giả vờ làm mặt lạnh và bắt đầu đưa đẩy đủ kiểu với Merle Shirley." "Anh nói cô ấy chỉ giả vờ làm mặt lạnh thôi ư?"
Gordon lưỡng lự một vài giây. Thế rồi có vẻ sự tự phụ đã khiến lưỡi anh ta mềm ra. Anh ta muốn họ hiểu rằng mình nắm giữ tình yêu của Stella cho đến tận giây phút cuối cùng.
"Đêm qua," anh ta tự nguyện nói, "chúng tôi đã làm lành hẳn với nhau, và cô ấy đối xử với tôi một cách trìu mến như từ trước đến nay. Sáng hôm nay thì cô ấy làm mặt lạnh, nhưng tôi biết đó chỉ là giả vờ, và thế là tôi để cho cô ấy yên."
"Vậy là giữa hai người chẳng có vần đề gì to tát hết à?" Nam diễn viên chính nhìn thẳng vào mắt Kennedy. "Không hề!"
Kennedy quay sang Mackay. "Anh Shirley," anh ra lệnh.
Do tính toán sai, anh chàng ủy viên công tố quận nhỏ thó đã để cho anh diễn viên đóng vai phản diện bước vào trong căn phòng ngay trước khi Gordon rời đi. Họ giáp mặt nhau bên trong cặp rèm treo, vẻ thù địch, sự căm ghét không buồn giấu giếm giữa hai con người này chẳng thể nào lẫn vào đâu được. Cả Kennedy và tôi đều trông thấy ánh mắt liếc nhìn nhau của họ.
Thế rồi Merle Shirley tiến tới chỗ chiếc lò sưởi, ngồi xuống chiếc ghế được Kennedy chỉ.
"Tôi không có mặt trong bất cứ phân cảnh mở đầu nào hết," anh ta giải thích. "Tôi ở nguyên ngoài xe cho đến khi tôi hay tin có chuyện không ổn. Lúc ấy thì Stella đã chết rồi."
"Anh có biết gì về một trận cãi vã giữa cô Lamar và Gordon không?"
Shirley đứng dậy, siết chặt nắm tay lại. Suốt mấy giây liền, anh ta đứng nhìn thi thể ngôi sao điện ảnh kia với một vẻ mặt mà tôi không tài nào phân tích được. Tuy nhiên, khoảng lặng này cho tôi cơ hội nghiên cứu anh ta, và tôi để ý thấy rằng mặc dù những đường nét trên mặt trông thô hơn Gordon, đồng thời là một người to con hơn theo mọi khía cạnh, rất thích hợp đóng những vai phản diện, nhưng anh ta vẫn mang một vẻ tươi trẻ ngầm. Anh ta mặc quần áo theo phong cách rất thoáng, gợi lên chất miền Tây và những vùng trời quang đãng, trái ngược với vẻ tinh tế và may đo gọn gàng đậm chất đô thị của Gordon. Từng phân trên cơ thể anh ta đều toát lên dáng vẻ của một người đàn ông thực thụ, và một diễn viên tuyệt vời. Tôi biết như vậy. Ấy nhưng anh ta mang một nét gì đó non trẻ. Anh ta xem chừng
không phải hạng người có thể gây ra một tội ác như thế này, trừ khi gặp lúc giận dữ, hay bị chi phối bởi thứ tình cảm sâu thẳm ngầm nào đó.
Tôi không cách chi xác định được bây giờ anh ta đang giận dữ hay cảm thấy ghê tởm. Có thể là cả hai. Bất thình lình anh ta quay ngoắt về phía Kennedy. Giọng anh ta trầm xuống và chất chứa bao xúc cảm. Con người này chẳng có chút khả năng tự chủ sắt thép nào của Manton, tấm mặt nạ gian xảo Werner dùng để che giấu những suy nghĩ của mình, hay sự thẳng thắn đầy vẻ lãnh đạm, lạnh lùng của Gordon.
"Anh Kennedy," anh diễn viên thốt lên, "tôi là một kẻ khờ khạo, một kẻ khờ khạo!"
"Ý anh là sao?"
"Ý tôi là tôi đã để cho Stella phỉnh phờ lòng tự phụ của mình và dụ tôi tham gia một trò tán tỉnh chẳng có chút nghĩa lý gì đối với cô ấy. Chúa ơi!"
"Vậy tức là anh là người đã gây ra bất hòa giữa cô Lamar và Gordon sao?"
"Không hề!" Shirley phất tay một cái rất nhanh, rất kịch liệt, chỉ vào thi thể của ngôi sao màn bạc. Giờ thì tôi chẳng hiểu nổi anh ta đang diễn hay đang nói thật lòng. "Cô ấy là người gây ra tất cả!", anh ta thốt lên. "Cô ấy là người gây ra tất cả mọi thứ!"
"Cái chết của cô ấy..."
"Không!" Shirley bỗng dưng trấn tĩnh lại, như thể nãy giờ đã quên khuấy mất bí ẩn ấy. "Tôi không biết chút gì về chuyện đó
hết, và tôi cũng chẳng tài nào đoán nổi điều gì, trừ khi..." Nhưng anh ta quyết định giữ mồm giữ miệng hơn là nói ra một nghi ngờ vô căn cứ.
"Ý anh là gì vậy?" Kennedy nói sắc giọng, đầy vẻ nôn nóng. "Cô ấy biến tôi thành trò hề, và... và tôi lúc trước còn đính hôn với Marilyn Loring..."
"Lúc trước còn đính hôn ư? Thế là vụ đính hôn..." "Đêm qua Marilyn đã hủy hôn ước và dứt khoát không chịu nghe tôi phân trần, cho dù tôi đã tỉnh táo ra và nhận thấy mình xuẩn ngốc đến chừng nào."
"Quãng..." Kennedy lựa lời đặt câu hỏi của mình thật cẩn thận, "... quãng thời gian anh có tình cảm với cô Lamar kéo dài có lâu không?"
"Chỉ vài tuần thôi. Tôi... tôi đưa cô ấy đi ăn tối và đi xem phim và... và chỉ có vậy thôi."
"Tôi hiểu rồi!" Kennedy bước ra chỗ khác, gật đầu với Mackay.
"Tiếp theo anh sẽ thẩm vấn cô Loring chứ?", anh ủy viên công tố quận hỏi.
Kennedy gật đầu.
Marilyn Loring làm tôi rất bất ngờ. Cả trên màn ảnh lẫn ngoài đời thật, Stella Lamar đều là một người phụ nữ xinh đẹp. Trong phim, Marilyn cũng là một người có nhan sắc, xinh theo kiểu lạnh lùng, tàn nhẫn. Tuy nhiên, ngoài đời thật, cô là một người khác hẳn với những quan điểm tôi mang sẵn trong đầu.
Thứ nhất, cô không được hấp dẫn cho lắm ngoại trừ lúc mỉm cười. Những sắc màu trên người cô, mái tóc đỏ rực tự nhiên, làn da hơi lốm đốm và tái nhợt, khi lên hình trở thành mái tóc đen và làn da trắng như đá cẩm thạch khiến cô trở nên khác biệt. Nhưng như những gì tôi quan sát thấy ở cô lúc bấy giờ, trước khi cô trang điểm lên và trong lúc hãy còn mặc một chiếc váy hè vải phin ocgandi giản dị, cô trông như thể vừa mới từ ngoài đường chính của một thành phố miền Trung Tây nào đó bước vào trong căn phòng này. Khi ngồi xuống, cô mang vẻ nhút nhát, rụt rè. Lúc cô mỉm cười một cách tự nhiên, không phải giữ những đường nét hà khắc cho hợp với vai cô gái lăng loàn, có một lúm đồng tiền hơi hiện ra, và cô về cơ bản trông rất nữ tính. Mỗi khi trên mặt cô xuất hiện bất kỳ một nét cảm xúc hay tình cảm nào, sự nữ tính ấy lại hiện ra rất rõ rệt. Chẳng rõ cô mới mười bảy hay đã ba mươi bảy tuổi rồi nữa.
Tôi ngạc nhiên khi thấy Kennedy không buồn đào xới thêm thông tin về những mối thù hằn cá nhân giữa những con người này. Có thể anh cảm thấy nó là một mê trận tình cảm quá lằng nhằng, không thể phân tách rạch ròi hẳn được trong cuộc điều tra sơ bộ này. Lúc phát hiện ra Marilyn đã theo dõi quá trình quay các phân cảnh kia, anh so sánh lời khai của cô với những gì mình đã biết sẵn. Thế rồi anh cho cô lui ra.
Bởi vì giờ đã nôn nóng muốn được triển khai thực hiện các phương pháp điều tra khác, anh cho gọi các nhân chứng khả dĩ còn sót lại của tấn thảm kịch và thẩm vấn họ rất chóng vánh. Họ bao gồm hai diễn viên phụ - ông quản gia và cô hầu gái, anh
trợ lý đạo diễn, những người hầu của Phelps, và bản thân Emery Phelps. Vì lý do bí hiểm nào đó, anh để chừa lại ông chủ ngôi nhà đến cuối cùng.
"Tại sao ông lại muốn quay các phân cảnh ấy ở tận đây?", anh hỏi.
"Bởi vì tôi muốn được thấy thư viện của mình xuất hiện trên phim."
"Ông có quan sát lúc họ quay các phân cảnh kia không?" "Có!"
"Ông miêu tả lại giúp tôi chuyện gì đã xảy ra nhé?" Mặt Phelps đỏ ửng lên. Ông ta cảm thấy khó chịu và không muốn phải hầu chuyện chúng tôi hơn mức cần thiết. Ông này có lẽ tầm bốn mươi tuổi, mang vẻ mập mạp phương phi thường hay đi kèm với sự thành đạt trong các thị trường tài chính, và đã quen với việc được người khác vâng lời hơn là chấp nhận tự vâng lời. Ông ta hiện vẫn chưa lập gia đình, và theo lời đồn của báo giới thì chỉ xây căn nhà này để trưng bày chứ hiếm khi sống trong nó.
"Chẳng phải đã có cả chục người miêu tả cho anh nghe rồi đó sao?", ông ta hỏi, giọng nghe bực bội thấy rõ.
Kennedy mỉm cười. "Ông có để ý thấy bất cứ điều gì khác thường, bất cứ điều gì có thể là manh mối tiết lộ cho ta biết nguyên cớ cô Lamar chết không?"
Thái độ của Phelps trở nên thù địch thấy rõ. "Nếu tôi hay nếu bất cứ ai trong số chúng tôi mà đã thấy một thứ như thế thì
chúng tôi sẽ chẳng việc gì phải cho gọi giáo sư Craig Kennedy hay...", ông ta quay sang phía tôi, "... đại diện của tờ New York Star đến đây cả."
Không chút nao núng, Kennedy bước đến bên cạnh Mackay. "Tôi sẽ giao phó cho anh trọng trách canh chừng ông Phelps và căn nhà của ông ta," anh hạ giọng nói.
Mackay mỉm cười nhăn nhở. Tôi nhận thấy rằng anh ủy viên công tố quận chẳng ưa thích gì ông chủ khu đất tại Tarrytown này cả.
Kennedy dẫn cả đoàn vào trong phòng khách. Ngay lập tức, những người anh đã thẩm vấn túm tụm hết lại, mỗi người bồn chồn theo một mức khác nhau. Bí ẩn đã được giải mã chưa?
Nhưng anh không chiều ý họ, mà lại tìm gặp một mình Manton. Ông ta bấy giờ có vẻ chỉ muốn mau mau chóng chóng rời khỏi nơi này.
"Millard đang ở đâu? Tôi muốn được nói chuyện với anh ta." "Tôi sẽ thử tìm anh ta cho anh. Hay là...", Manton nhìn đồng hồ của mình. "Tôi cần phải có mặt tại trường quay," ông ta giải thích. "Chắc mọi thứ đều đang trì trệ, và... và hay là anh và anh Jameson đi cùng xe với tôi đi. Chưa biết chừng Millard sẽ có ở đó."
Kennedy tươi tỉnh hẳn lên. "Tốt!" Thế rồi anh quay lại và thấy Mackay đang nhìn mình. "Giờ thì cho tất cả mọi người về đi," anh ra lệnh. "Đừng quên gửi cho tôi các mẫu dịch cơ thể và...", anh bổ sung thêm, "... anh nhớ canh chừng ngôi nhà nhé."
CHƯƠNG 6
MANH MỐI ĐẦU TIÊN
X
e của Manton là một chiếc limo đắt tiền, mã lực lớn, bên trong được trang bị đủ mọi thứ tiện nghi mà đến cả một nữ ca sĩ chính trong nhà hát opera cũng khó có thể tưởng tượng ra hết nổi. Nó được sơn vàng chóe, và hẳn sẽ thu hút hết mọi sự chú ý ngay cả khi đi trên các tuyến đường quen thuộc của mình. Nó rất hợp với tính cách chủ nhân của nó, bởi lẽ chúng tôi phát hiện ra rằng Manton chẳng bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để tự quảng bá bản thân cả.
Ngồi phía ghế sau cùng với chúng tôi là Werner, trong khi các thành viên khác của công ty thì vẫn bị bỏ lại ở đấy, và sẽ quay trở về thành phố bằng hai chiếc xe của trường quay mà hồi sáng đã đưa họ ra đây. Tuy nhiên, ông đạo diễn có vẻ mải mê chìm đắm trong các tâm tư của riêng mình. Ông không tham gia vào cuộc trò chuyện, không mảy may quan tâm gì đến chúng tôi trong suốt toàn bộ hành trình.
Manton có vẻ bận tâm đến những vấn đề nảy sinh từ cái chết của Stella hơn là bản thân tấn thảm kịch. Biên tập viên phim kịch của tờ Star đã có lần bình phẩm với tôi rằng chín mươi phần trăm bản chất của cái ông làm quảng bá này là "ba xạo",
và chỉ có mười phần trăm tài năng. Tôi nhận thấy ước lượng như vậy là không được công bằng cho lắm. Bất chấp cái trò tự
lăng xê bản thân và tính cách khá khó chịu của mình, Manton là một giám đốc điều hành rất tài ba trong một ngành chẳng mấy ai có năng lực và quy củ làm việc cả.
"Ngay từ đầu cái bộ phim này đã gặp toàn xui xẻo rồi," ông ta bất chợt thốt lên. "Chúng tôi đã bị ám quẻ nặng. Chắc chắn đã có kẻ nào đó ếm bùa nguyền rủa chúng tôi."
Tôi để ý thấy Kennedy lắng nghe, nghiên cứu người đàn ông này một cách rất thận trọng từ bên khóe mắt, nhưng không chủ động mồi chài cho ông ta nói gì hết.
"Đầu tiên là cần phải sửa lại kịch bản, và Millard thì cứ lề mà lề mề. Thế rồi chúng tôi nhận được quá nhiều âm bản bị ố trong máy đục lỗ, một chuyện mà họa có ngàn năm cũng chẳng ai gặp lần nào. Nhưng nó lại xảy ra đúng lúc chúng tôi cho người ra khe nước Delaware. Chúng tôi lập tức phí nguyên mười ngày tráng phim. Chẳng nhân viên quay phim nào phát hiện ra vết ố ấy lúc họ kiểm tra thử, bởi lẽ nó nằm ở ngay khúc giữa hai cuộn phim. Thế là phải làm lại từ đầu tất cả mọi thứ.
Và còn các tai nạn nữa chứ! Chúng tôi đã cẩn thận ghi hình tòng phạm chính của 'Nỗi kinh hoàng Màu đen', một tay gù nhỏ con với gương mặt đủ khiến cho ta phải lạnh sống lưng. Sau khi chúng tôi đã cho quay hắn trong tầm một nửa các phân cảnh hành động, hắn lăn ra ốm và chết vì cúm. Đầu tiên chúng tôi đợi vài ngày; thế rồi chúng tôi phải quay hết lại từ đầu.
Lượng tiền công chúng tôi phải trả cho bộ phim này cao chót vót. Đối với một người đã có hợp đồng từ lâu như Stella, mức thù lao ba ngàn một tuần của cô ấy là rất rẻ mạt, nhưng vẫn là rất
nhiều tiền bị đem đốt. Giai đoạn hai tuần cô ấy bị ốm khiến chúng tôi bị thiệt mất sáu ngàn đô tiền lương, và có cả nửa tuần chúng tôi không thể làm được việc gì vì thiếu cô ấy. Gordon và Shirley và Marilyn Loring ngốn hết một ngàn bảy trăm đô một tuần tất cả. Lương ông đạo diễn chỉ thấp hơn ba con người kia có đúng hai trăm đô. Tính tổng thể, 'Nỗi kinh hoàng Màu đen' đã khiến chúng tôi bị vượt mức kinh phí ước lượng ban đầu một trăm ngàn đô rồi.
Và bây giờ..." tôi thấy Manton như rên rỉ hẳn ra miệng, "... vì Stella Lamar đã chết... cho tôi xin lỗi vì nhìn nhận vấn đề như thế này, nhưng, xét cho cùng, đây là công việc kinh doanh, và tôi là giám đốc đứng đầu công ty... bây giờ chúng tôi phải đi tìm một ngôi sao mới, ở đâu thì có Chúa mới biết, và chúng tôi phải quay lại mọi cảnh có sự xuất hiện của Stella. Chừng ấy... chừng ấy là đủ để làm hãng phim Manton Pictures phá sản vĩnh viễn."
"Chẳng nhẽ ông không thể thay đổi cốt truyện theo kiểu nào đó để những đoạn phim cô ấy đã ghi hình không bị mất giá trị sao?" Kennedy hỏi.
"Không thể nào! Chúng tôi đã có thông báo phát hành, và buộc phải đâm đầu theo lao thôi. May mắn thay, một vài bối cảnh công phu nhất chưa được khởi quay."
Chiếc xe đỗ két lại rất điệu nghệ trước trường quay Manton, một khối công trình bê tông cốt thép rộng mênh mang ngự tại vùng thượng Bronx. Thế rồi, đáp lại tiếng còi xe của chúng tôi, một cửa đôi lớn mở ra, cho chúng tôi đi qua tòa nhà, vào trong
một khu sân trong rộng lớn, vây quanh bởi đủ khu nhà khác nhau.
Tại đây, chẳng có dấu hiệu gì cho thấy ngôi sao chủ chốt của công ty vừa mới qua đời trong một hoàn cảnh hết sức bí ẩn và đáng ngờ. Có thể nếu quen với sự tất bật thường lệ của nơi này, tôi sẽ nhận ra một sự khác biệt nào đó. Quả thật là tôi đã để ý thấy rải rác đó đây có mấy nhóm người đang bàn tán về tấn thảm kịch, nhưng tất cả mọi thứ đều bị lu mờ đi mất trước phân cảnh dưới nước đang được quay bên trong sân cho một bộ phim khác nào đó của hãng Manton. Khoảng không gian chật chội xung quanh bể bê tông ấy nhộn nhịp toàn người là người, một đám đông các diễn viên phụ và nhân viên hậu đài và đủ kiểu nhân viên khác. Kennedy và tôi bị cảnh tượng ấy hút mắt một hồi. Tôi lấy làm mừng khi Manton dẫn cả đoàn đi qua một hành lang dài, vào trong tòa văn phòng tương đối im lặng. Bên trong phòng tiếp tân, mọi thứ yên tĩnh thấy rõ.
"Millard có đây không?", ông ta hỏi cậu thanh niên ngồi ở bàn thông tin.
"Không, thưa ông," cậu ta lễ phép đáp. "Anh ấy có ở đây sáng hôm nay và một lúc ngày hôm qua."
"Anh thấy không!" Manton giận dữ nói với Kennedy. "Đây là một trong những thứ chúng tôi buộc phải chấp nhận trong cái ngành này. Tôi cho Millard một văn phòng nhưng anh ta cứ thích một mình một kiểu. Tính khí dân làm nghệ thuật nó thế đấy. Nếu tôi can thiệp vào thì anh ta sẽ nói mình không thể viết được và không cho ra bản thảo nào hết. Bình thường thì anh ta
không bao giờ thèm làm việc tại trường quay. Nhưng...", ông ta nói với vẻ triết lý, "... nhìn chung thì tôi biết phải tìm anh ta ở đâu. Anh ta chủ yếu viết lách bên trong phòng của mình tại trung tâm thành phố; nói rằng sự xô bồ của Broadway mang lại nhiều cảm hứng hơn là miền hoang dã của Bronx. Tôi sẽ gọi điện cho anh ta."
Chúng tôi theo chân nhà quảng bá leo cầu thang lên tầng hai, đồng thời cũng là tầng trên cùng. Tại đây, một hành lang dẫn vào đủ loại văn phòng quản lý. Cứ cách một đoạn là lại có một cửa sổ nhìn xuống dưới sân và khung cảnh hỗn độn lúc bấy giờ.
Werner ban nãy đã vào trong tòa nhà trước chúng tôi, và giờ ông lại xuất hiện. Trong lúc Manton vội vã vào trong văn phòng của mình để dùng điện thoại, ông đạo diễn quay sang phía Kennedy, chỉ vào khung cửa kế bên.
"Đây là văn phòng của tôi," ông giải thích. "Một bên của nó thông với văn phòng của Manton qua phòng tiếp tân của ông ta. Bên cạnh chỉ đạo Stella Lamar diễn xuất, tôi còn là người quản lý công việc sản xuất phim nói chung, và tuyển diễn viên chủ yếu là do tôi phụ trách."
Kennedy bước vào sau Werner với vẻ hứng thú, và tôi bám theo bọn họ. Cửa dẫn vào phòng tiếp tân được để mở, và bên kia là cửa dẫn vào phòng của Manton. Tôi có thể thấy nhà quảng bá đang ở bên bàn làm việc của mình, ống nghe áp bên tai, và mặt mang vẻ nôn nóng. Bên trong phòng tiếp tân là một cô gái khá xinh xắn, trẻ tuổi, và như tôi cảm nhận thì thuộc kiểu người đầu
óc nông cạn, đang bận bịu gõ chiếc máy đánh chữ lạch cạch. Cô ta đứng dậy và đóng cửa phòng lại phía Manton, để không làm phiền đến ông ta.
"Văn phòng kế bên ở mạn này là văn phòng của Millard," Werner tự nói. "Anh ta là biên kịch viên duy nhất có văn phòng bên trong tòa nhà này."
"Manton còn có các biên kịch viên khác nữa, phải không?" Kennedy hỏi.
"Vâng, ban biên soạn kịch bản nằm trên tầng ba tòa nhà phía bên kia sân, bên trên phòng thí nghiệm và phòng biên tập phim."
"Còn ai khác ở bên trong tòa nhà này nữa không?" "Trên tầng này có sáu phòng," Werner đáp. "Phòng của Manton, phòng chờ, phòng của tôi, phòng của Millard, và phòng của hai đạo diễn khác. Bên dưới là phòng tiếp tân chung, phòng thu ngân, phòng kế toán và phòng tốc ký."
Trong lúc Manton chắc còn đang loay hoay nối máy, và lúc Kennedy tiếp tục hỏi han Werner về cách bày bố của các tầng khác nhau trong các tòa nhà khác nhau quanh sân, những điều tôi chẳng thấy có gì thú vị cả, tôi quyết định tự mình đi ngó nghiêng xung quanh một chút. Tôi vẫn rất muốn sử dụng lượng kiến thức về lĩnh vực điện ảnh chuyên sâu hơn của mình để thực sự hỗ trợ được Kennedy một lần.
Sau khi bước ra ngoài hành lang, tôi lại chỗ cửa phòng của Millard. Thất vọng làm sao, nó đã bị khóa. Khi tiếp tục bước dọc
hành lang, tôi lén liếc vào trong phòng của hai ông đạo diễn nhưng chẳng thấy gì khơi dậy sự nghi ngờ hay đáng để mình phải đi vào cả. Qua chỗ hai căn phòng ấy, tôi thấy có một nhà vệ sinh. Đột nhiên nhận ra trên đường từ Tarrytown đến đây, bụi bặm đã bám đầy lên người mình như thế nào, tôi bước vào để rửa ráy ít nhất hai tay và mặt mũi. Thôi thúc ấy của tôi là cả một may mắn trời ban.
Trong trường hợp của Manton, lượng tiền kiếm được từ phim ảnh đã giúp ông ta trang bị được các vật dụng sang trọng cho mọi phòng ban tại trường quay của mình. Tôi đã để ý thấy nội thất bên trong các văn phòng sang trọng chẳng kém gì một ngân hàng hay tổ chức lớn nào đó tại trung tâm thành phố. Giờ đây, bên trong nhà vệ sinh sạch bóng với những viên gạch lát trắng và các món đồ hết sức hiện đại, tôi thấy một ngăn kệ chứa đầy khăn lạnh chất lượng thượng hạng, mặc dù thời nay người ta đã chuyển sang dùng giấy hết.
Trong lúc vặn nước vào bồn, thứ nước vừa tuôn ra khỏi vòi đã nóng luôn, tôi để ý thấy một chiếc khăn tắm dính đầy những đốm vàng lạ thường, thò ra một nửa từ giỏ mây bên dưới kệ. Ngay lập tức máu nghi ngờ của tôi trỗi dậy. Tôi thận trọng nhặt nó lên. Khi nhìn gần, tôi nhận ra rằng các đốm ấy là chất trang điểm màu vàng tươi, nhưng cũng có mấy đốm kiểu khác. Tôi không dừng lại để nghĩ về chuyện trong bối cảnh hiện thời thì khó có khả năng mình phát hiện ra được một manh mối thực sự nào, nhưng lát sau Kennedy sẽ phân tích. Tôi vội vã gập chiếc
khăn tắm lại và mau mau chóng chóng quay trở lại chỗ anh để đưa nó cho anh xem.
Tôi thấy anh đang đứng cùng với Werner, chờ đợi kết quả từ sự nỗ lực tìm kiếm Millard của Manton. Gần như đúng lúc tôi nhập bọn lại với hai người kia, một cậu thanh niên đến gọi Werner ra chỗ trường quay trên sân. Kennedy và tôi chỉ còn có một mình. Tôi cho anh xem chiếc khăn tắm.
Mới đầu anh cười phá lên, "Anh sẽ không bao giờ trở thành một thám tử được, Walter à," anh nhận định. "Đây chỉ đơn thuần là chất màu - nói chính xác là vàng thư hoàng. Với cả, anh nói cho tôi biết luôn đi...", giọng anh trở nên đầy mỉa mai,"... sao anh lại trông đợi sẽ tìm thấy manh mối cho một vụ án mạng diễn ra tại Tarrytown ở tại đây trong khi tất cả những người có mặt ở phim trường đều bị giữ lại ở đó và thẩm vấn, còn chúng ta là những người đầu tiên quay trở lại đây?
Như anh biết đấy, màu vàng khi lên hình sẽ trở thành màu trắng. Vàng thư hoàng chủ yếu được sử dụng làm chất trang điểm trong các trường quay thay cho trắng bởi vì nó không gây lóa ảnh, một hiện tượng dân làm phim rất kỵ. Màu trắng chói quá, và đôi khi các tia sáng nó phản chiếu sẽ khiến cho ảnh bị nhòe đi.
Lần tiếp theo chứng kiến người ta quay một phân cảnh, nếu để ý, anh sẽ thấy gương mặt của các diễn viên được nhuộm màu vàng. Ngay cả khăn trải bàn và khăn ăn và các kiểu váy vóc 'trắng' cũng thường xuyên mang một sắc vàng nhạt, mặc dù
xanh nhạt cũng sở hữu đặc tính quang học của trắng khi quay, và có lẽ giờ còn được sử dụng thường xuyên hơn vàng." Thế là tôi đã ăn một bài khiển trách ra trò. Trên thực tế, mặc dù không nói gì nhiều, tôi gần như đã quyết định sẽ để cho anh tự mình giải quyết vụ án này.
Kennedy nhìn thấy vẻ mặt tiu nghỉu của tôi và hiếu ra sự tình. Anh sắp sửa động viên tôi câu gì đó trong lúc đưa lại chiếc khăn tắm thì mắt anh nhìn xuống một đầu của nó, nơi bản thân tôi cũng đã để ý thấy.
Anh trấn tĩnh lại ngay lập tức và nghiên cứu các đốm màu khác. Thực tình mà nói, tôi không quan sát chúng kỹ cho lắm. Chúng là vệt ố rất mờ của một thứ chất màu vàng gì đó khác, một chất dịch đã khô đi và không rụng ra như chất trang điểm, đồng thời còn có cả vài đốm tròn nhỏ màu đỏ sẫm, gần như lẫn hẳn vào những nét bay bướm màu đỏ của dòng chữ "Tập đoàn Manton Pictures" trên chiếc khăn. Riêng mấy đốm đỏ ấy thì ban nãy tôi hoàn toàn không để ý thấy.
"Máu!" Kennedy thốt lên. Rồi sau đó là, "Nhìn đây này!" Vệt chất lỏng vàng nhạt kéo dài thành một vệt máu thanh mảnh. "Trông như thể đã có ai đó chùi một mũi kim lên trên này," anh lẩm bẩm, "và kẻ đó làm rất vội vã."
Tôi nhớ lại câu bình luận ban nãy của anh. Vụ án mạng diễn ra ở Tarrytown. Chúng tôi chỉ vừa mới đến đây.
"Liệu có ai đủ thời gian thực hiện chuyện này không?" Tôi hỏi.
"Kẻ sử dụng chiếc khăn tắm này đã chùi một cách vội vã," anh nhắc lại với giọng nghiêm túc. "Có thể đó chính là một kẻ không muốn để sót lại bất cứ manh mối nào tại nhà của Phelps. Xung quanh có quá nhiều người quan sát. Có vẻ đáng nhẽ ra, đánh liều chấp nhận rủi ro bị chúng ta tiến hành lục soát còn thượng sách hơn. Vì trên người cô Lamar không có bất cứ dấu hiệu của một vết thương nào, khả năng cao là cả Mackay lẫn tôi đều sẽ không khám xét tất cả mọi người. Đâu phải là chúng ta muốn tìm một khẩu súng lục, trong trường hợp cô ấy bị bắn, hay một con dao, trong trường hợp cô ấy bị đâm. Và...", anh không thể kiềm chế được ham muốn chọc ngoáy tôi thêm phát nữa, "... và việc chúng ta sẽ đi vào một nhà vệ sinh ở tận đây để tìm kiếm một chiếc khăn tắm thật sự là một ý tưởng chẳng ai nghĩ đến, ngoại trừ một nhà thám tử hết sức nghiệp dư và ngớ ngẩn. Đúng là chó ngáp phải ruồi, Walter ạ, đúng là chó ngáp phải ruồi."
Tôi ngó lơ phần châm chích trong câu bình phẩm của anh. "Ai có thể vào trong nhà vệ sinh trước tôi đây?" Tôi hỏi. Bất chợt anh vội vã băng qua phòng chờ và ra cửa văn phòng Manton, mở thẳng nó ra, không buồn giữ lễ. Manton đã bỏ đi đâu mất. Chúng tôi nhìn nhau. Tôi nhớ rằng Werner đã lên trên tầng trước chúng tôi. "Thế tức là Werner hay chính Manton," tôi thì thầm để cô gái ngồi ngay đằng sau chúng tôi không nghe thấy được.
Kennedy bước ra ngoài hành lang, và lại chỗ một cửa sổ nhìn xuống dưới sân. Một lát sau, anh đưa tay chỉ. Tôi nhận ra cả hai
chiếc xe đã chở cả đoàn đến nhà của Emery Phelps. Không có dấu hiệu gì cho thấy có chiếc nào chỉ vừa mới đến nơi cả, bởi lẽ đến cả anh tài xế cũng chẳng thấy bóng dáng đâu, có lẽ đã hòa lẫn vào trong đám đông túm tụm quanh cái bể trong góc sân.
"Họ hẳn đã đến ngay sau chúng ta," Kennedy nhận định. "Chúng ta còn đã để lãng phí mất mấy phút quý giá đứng ngắm nước ngắm nôi nữa chứ."
Đúng lúc ấy giọng của Werner vọng đến từ phòng tiếp tân bên dưới. Có khả năng ông sẽ lên trên này và gia nhập lại nhóm chúng tôi. Tôi nhớ rằng ông không hề thoải mái chút nào lúc bị Kennedy thẩm vấn tại Tarrytown. Ngoài ra, khi đến trường quay này, ông có vẻ muốn bám sát bước chúng tôi thấy rõ. Tôi cảm thấy một nỗi nghi ngờ dấy lên trong lòng mình.
"Nghe này, Craig," tôi hạ giọng lẩm bẩm. "Manton không có cơ hội nào để lén lút đi dọc hành lang sau khi cô kia đóng cửa lại, và..."
"Tại sao lại không!", anh ngắt ngang, phản bác lời tôi. "Chúng ta quay lưng lại cửa trong lúc nói chuyện với Werner." "Ừ thì, bất kể có là thế nào đi chăng nữa, ta cũng đã thu hẹp được đối tượng tình nghi xuống chỉ còn Manton và Werner, bởi lẽ nhà vệ sinh ấy chỉ dùng để phục vụ các văn phòng trên này..." "Suỵt!" Kennedy chặn họng tôi lại trong lúc Werner leo lên cầu thang. Anh quay sang ông đạo diễn với vẻ lãnh đạm giả vờ. "Mấy chiếc xe kia ở đó bao lâu rồi?", anh hỏi. "Tôi cứ tưởng chúng ta đến đây nhanh lắm cơ."
Werner mỉm cười. "Tôi đoán bọn họ đã phát ngấy Tarrytown rồi. Cả hai chiếc cùng lái vào trong sân trong lúc anh và anh Jameson và Manton còn đang mải đứng xem người ta vầy nước."
"Tôi hiểu rồi!" Kennedy đánh mắt liếc tôi một cái. "Các phòng thay đồ nằm ở đâu?", anh hỏi. Câu hỏi ấy được đưa ra rất ngẫu nhiên.
Werner chỉ về phía cuối hành lang, chỗ nhà vệ sinh. "Trong tòa nhà bên cạnh, trên tầng này - đó là phòng thay đồ của các diễn viên chính. Bố trí phòng kiểu này rất dở," ông nói thêm. "Đôi khi họ vào đây và dùng nhà vệ sinh của chúng tôi, bởi vì nó sang trọng hơn một chút và bởi vì nó giúp họ đỡ phải leo xuống cầu thang. Tin tôi đi, Manton già khó chịu với chuyện ấy lắm."
CHƯƠNG 7
ENID FAYE
Đ
ằng sau Werner là anh trợ lý đạo diễn. Lúc thẩm vấn mọi người trong thư viện của Phelps, tôi chẳng để ý đến anh ta mấy. Ngay cả bây giờ, anh ta vẫn mang lại cho tôi ấn tượng mình thuộc một kiểu người không phô trương rất hiếm gặp. Cho dù thường thì mẫu người này sẽ có thực tài và làm việc rất hiệu quả, họ lại không sở hữu bất cứ đặc điểm nổi bật nào. Họ có thể coi như một chủng người máy, không bị yêu hay ghét gì cả, không bao giờ chen vào việc của ai, ấy nhưng luôn có mặt mỗi khi cần.
"Đây là Carey Drexel, trợ lý của tôi," Werner nói, quên mất rằng Kennedy đã thẩm vấn anh ta tại Tarrytown, và thế tức là đã biết anh ta rồi. "Có vài người tôi bắt buộc phải đi gặp mặt, thế nên tôi có lẽ sẽ bận mất khoảng nửa giờ. Manton vẫn đang ở dưới tầng, cố gắng tìm Millard cho anh. Nhưng Carey thì sẽ sẵn sàng hỗ trợ anh, anh Kennedy à. Anh ta sẽ dẫn anh đi xem cách bố trí của trường quay và hợp tác với anh hết lòng nếu anh tin rằng có khả năng mình sẽ tìm thấy thứ gì đó giúp làm sáng tỏ cái chết của Stella tại đây."
Nếu Werner mà đúng là người đã dùng chiếc khăn tắm thì ông này thật đúng là một diễn viên tài ba và một ác nhân mặt lạnh như tiền. Tất nhiên là chưa một ai biết được rằng chúng tôi
đã phát hiện ra nó, nhưng chính kiểu chiếc khăn bị quăng vào trong giỏ một cách dửng dưng như vậy đã thể hiện sự táo tợn của thủ phạm. Đây không đơn thuần là do thói bất cẩn. Chẳng có tình tiết nào trong vụ án này bị thực hiện một cách cẩu thả hết.
Kennedy cảm ơn Werner và đề nghị được dẫn đi thăm các khu trường quay được sử dụng để ghi hình bộ phim "Nỗi kinh hoàng Màu đen". Carey dẫn đường, giải thích rằng thực chất có hai trường quay nằm ở hai bên đầu sân, tiếp nối với các tòa nhà khác ở cả hai bên đầu. Văn phòng và các phòng thay đồ và bộ phận phục trang và đạo cụ nằm ở bên nhìn ra phố. Các phòng thí nghiệm kỹ thuật và tất cả những ban bộ liên quan đến sản xuất phim đều nằm ở trong một tòa nhà cao bốn tầng phía đằng sau. Hầu hết các phim của Werner được sản xuất ở trường quay lớn, trải dài từ cuối hành lang nơi chúng tôi đứng cho đến các phòng thay đồ.
Tôi đã từng đặt chân đến các xưởng sản xuất phim, nhưng khi chúng tôi bước vào trong khu nhà trần kính khổng lồ bên kia dãy hành lang phòng thay đồ dài, tôi cảm thấy ấn tượng trước sự rộng lớn thực thụ của nơi đây. Nó tấp nập và náo nhiệt hơn tất cả những gì tôi từng tưởng tượng ra. Tuy nhiên, bởi vì tiết trời âm u cuối năm, mái trần kính đã bị sơn che hết đi. Trong các trường quay của Manton, soi sáng các sân diễn bây giờ là ánh sáng nhân tạo đồng đều, thế chỗ ánh nắng mặt trời thất thường và không đáng tin cậy.
Hai khu bối cảnh lớn từng được Manton nhắc đến, một phòng tiệc và một phòng khiêu vũ, đang được dựng lên cùng một lúc. Những người thợ mộc đang cầm cưa búa chú tâm làm việc. Đạo diễn kỹ thuật của Werner đang quát thét một nhóm nhân viên hậu đài, bấy giờ đang đặt một chiếc gương ngoại cỡ ở cuối phòng tiệc. Vật trang trí tài tình ấy sẽ giúp cho căn phòng trông dài ít nhất gấp đôi chiều dài thực tế của nó. Trong một góc, mấy anh thợ điện và một trợ lý quay phim đang thử nghiệm với một ụ đèn có dáng vẻ khác thường. Bên trong bối cảnh phòng khiêu vũ, nơi các tấm phẳng, hay các bức tường, đã được dựng lên, một ông nhân viên dán tường hờ hững đang bận bịu với mớ đồ nghề của mình, không hiểu sao trông cứ lạc lõng giữa khung cảnh hỗn loạn này.
Thật khó mà tin nổi rằng có bất cứ một tôn ti trật tự hay hệ thống tổ chức nào nằm sau khung cảnh hoạt động như mớ bòng bong ấy, và sự kiện khiến cho Carey Drexel buộc phải rời chỗ chúng tôi chỉ càng khiến tôi thêm băn khoăn, không tài nào hiểu nổi làm sao mà họ hoàn tất được việc gì cụ thể nữa.
"A, anh Carey!" Một trợ lý đạo diễn khác, hay có thể đây chỉ là một cậu phụ trách đạo cụ, hộc tốc chạy đến ngay khi vừa nhìn thấy Drexel. "Chị Miller đang lên cơn tam bành bởi vì cây đại dương cầm anh hứa sẽ kiếm cho chị ấy bây giờ vẫn chưa được gửi đến căn hộ của chị, và Bessie Terry thì đang khóc bù lu bù loa lên bởi vì chị ấy để con vẹt ở lại đây qua đêm theo đề xuất của anh, và đã có ai đó dạy con chim chửi thề." Nhân vật vừa mới chen ngang vào nhóm chúng tôi, một cậu thanh niên có lẽ
mới mười tám tuổi, nói với giọng nghiêm túc cực kỳ. "Lạy Chúa, anh Carey," cậu ta nói tiếp, "chỉ em cách làm con chim rú rít điếc tai của Bessie quên mấy từ đó đi đi, không là chúng ta sẽ chẳng quay nổi cảnh nào hôm nay đâu."
Carey Drexel nhìn Kennedy với vẻ bất lực.
Với tất cả những rắc rối như thế này, làm sao mà anh ta có thể dẫn chúng tôi đi thăm thú đây? Về sau chúng tôi được biết rằng một khi đã dấn sâu vào vào lĩnh vực làm phim, chuyện này sẽ chẳng có gì mới mẻ cả. Đạo cụ, hay công cụ phục vụ diễn xuất, đặc biệt là những sinh vật sống, gây náo loạn gần ngang ngửa với tính khí thất thường của các nam và nữ diễn viên. Đôi khi vấn đề chỉ là thứ nào sẽ gây ra chuyện lố bịch nhất.
Kennedy có vẻ đã hài lòng với chuyến tham quan sơ lược sân trường quay của mình.
"Chúng tôi có thể tự mình quay trở lại văn phòng của Manton," anh bảo với Drexel. "Chúng tôi sẽ tiếp tục đi vòng vòng quanh sân."
Anh trợ lý đạo diễn nhẹ cả người, chỉ về phía cửa tòa nhà sản xuất, tên gọi của tòa nhà cao bốn tầng phía đằng sau. Thế rồi anh ta vội vã bỏ đi cùng với cậu thanh niên kia, trông bản thân cũng có vẻ điềm tĩnh.
Lúc băng qua cánh cửa thoát hiểm thép nặng trịch, chúng tôi thấy mình đứng trong một hành lang dài khác, làm từ gạch chịu lửa và bê tông cốt thép. Chắc chắn một điều là không một nơi nào trong cơ xưởng của Manton có nguy cơ xảy ra hỏa hoạn
nghiêm trọng, bất chấp độ bén lửa cao của phim, của những bối cảnh quay mỏng manh, của gần như tất cả mọi thứ sử dụng trong quá trình sản xuất phim.
Ngay khi đặt chân vào trong tòa nhà này, tôi phát hiện ra một mùi hương lạ thường, và liền hăng hái hít ngửi. Nó gợi cho tôi nhớ lại mùi hạnh nhân cháy của xyanua. Liệu đây có phải là một manh mối nữa không?
Tôi quay sang phía Kennedy nhưng anh mỉm cười, đoán trước được tôi đang nghĩ gì.
"Dầu chuối đấy, Walter," anh giải thích với vẻ hơi ngạo mạn. "Tôi tin nó rất hay được sử dụng trong ngành này. Dù sao thì...", anh cười khúc khích, "... đừng trông đợi may rủi mang lại cả lố manh mối cho anh. Hôm nay anh làm được như vậy là đã tốt lắm rồi."
Chợt một tiếng vo vo vọng ra từ một cánh cửa để mở dọc hành lang hút lấy sự chú ý của chúng tôi, và chúng tôi dừng lại. Tôi đoán đây là một phòng biên tập phim. Trong này có một số bàn thép cùng với ghế thép cao. Kê sát tường là các tủ hồ sơ làm từ chất liệu tương tự. Mỗi bàn có hai thiết bị quấn với hai tay vặn, một ở bên tay phải người điều khiển và một ở bên tay trái anh ta để anh ta có thể cuốn hay tháo phim từ cuộn này sang cuộn khác, chuyền nó tới lui phía trước mắt mình.
Trực bên các bàn là những cô gái, ngoại trừ bàn gần hành lang nhất. Tại đó, một người đàn ông thỉnh thoảng lại dừng tay để quan sát một dải phim, hay cắt bỏ một phần, thả phần vứt đi vào trong một thùng rác chống cháy và nối hai đầu của dải
"""