" Vụ Án Mạng Giám Mục - S. S. Van Dine & Nhã Nhã (dịch) & Tào Huỳnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vụ Án Mạng Giám Mục - S. S. Van Dine & Nhã Nhã (dịch) & Tào Huỳnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo TÁC GIẢ S. S. Van Dine là bút danh của Willard Hungtington Wright (15/10/1888 - 11/04/1939), một nhà phê bình nghệ thuật và cũng là một nhà văn người Mỹ. Ông tạo ra thám tử hư cấu rất nổi tiếng là Philo Vance, xuất hiện trong cuốn sách đầu tiên vào năm 1926, sau đó là trong các bộ phim và trên đài phát thanh. Willard Hungtington Wright là con trai của Archibald Davenport Wright và Annie Van Vranken Wright. Ông sinh ngày 15 tháng Mười năm 1888, tại Charlottesville, Virginia. Em trai ông, Stanton Macdonald-Wright (1890 - 1973), một nghệ sĩ trừu tượng nổi tiếng của Mỹ, có vẽ một bức tranh chân dung ông bằng sơn dầu vào khoảng năm 1913 -1914. Năm 1907, Wright kết hôn với Katharine Belle Boynton tại Seattle, Washington. Ông kết hôn lần thứ hai vào năm 1930 với Eleanor Rulapaugh, được biết đến dưới cái tên Claire De Lisle, một họa sĩ tranh chân dung. Wright, một nhà văn chủ yếu tự học, đã theo học trường St. Vincent College, Pomona College và đại học Havard nhưng không hoàn tất. Ông cũng học nghệ thuật ở Munich và Paris, chính việc học ở đây đã dẫn dắt ông tới công việc liên quan đến văn học và phê bình nghệ thuật cho tờ Los Angeles Times. Wright là một người ủng hộ chủ nghĩa tự nhiên của Theodore Dreiser. Ông đã viết tiểu thuyết “The Man of Promise” và một số truyện ngắn theo thể loại này. Khi là biên tập viên cho tạp chí văn học The Smart Set, từ năm 1912 - 1914, ông đã cho xuất bản một số tiểu thuyết hiện thực của các tác giả khác. Ông bị sa thải khỏi vị trí đó khi chủ sở hữu bảo thủ của tạp chí cảm thấy rằng Wright đã cố tình khiêu khích độc giả trung lưu của họ với sự hứng thú của ông về những tác phẩm hư cấu trái với thông lệ và bị cho là khiêu dâm. Trong thời gian hai năm đó, Wright đã xuất bản truyện ngắn của Gabriele D’Annunzio, Floyd Dell, Ford Madox Ford, D.H. Lawrence và George Moore; một vở kịch của Joseph Conrad; và những bài thơ của Ezra Pound và William Butler Yeats. Ông xuất bản cuốn “What Nietzsche Taught” vào năm 1915. Trong cuốn sách này, ông cung cấp thông tin và những lời nhận xét trong các cuốn sách của Nietzsche, cũng như trích dẫn từ mỗi cuốn sách. Năm 1917, ông đã xuất bản Misinforming a Nation, một lời phê bình gay gắt về sự thiếu chính xác và định kiến tiếng Anh của bách khoa toàn thư Britannica tái bản lần thứ 11. Wright tiếp tục sự nghiệp trong vai trò một nhà phê bình và nhà báo cho đến năm 1923, khi sức khỏe ông trở nên yếu đi do làm việc quá sức, nhưng thật ra là do nghiện thuốc (theo “Tiểu sử bút danh S. S. Van Dine” của John Loughery). Bác sĩ đã khuyên ông nên nghỉ ngơi (được cho là do bệnh tim, nhưng thật ra là do nghiện cocaine, một loại ma túy chiết xuất từ lá coca) trong hơn hai năm. Thất vọng và chán nản, ông bắt đầu sưu tập và đọc hàng trăm tác phẩm về tội phạm và điều tra. Wright cũng quyết định thử sức mình với tiểu thuyết trinh thám và tham khảo ý kiến của Maxwell Perkins, biên tập viên Scribner nổi tiếng mà ông quen tại Đại học Harvard. Năm 1926, cuốn sách đầu tiên về Philo Vance, The Benson Murder Case, được xuất bản dưới bút danh “S. S. Van Dine”. Wright lấy bút danh từ chữ viết tắt của từ “steamship” và cái tên Van Dine, mà theo ông nói là một cái tên cổ trong gia đình. Tuy nhiên, theo như lời Loughery, “không ai có cái tên Van Dine trong cây gia phả”. Ông tiếp tục viết thêm 11 tiểu thuyết trinh thám, và những quyển sách đầu tiên về vị thám tử nghiệp dư trong tầng lớp thượng lưu, Philo Vance (người có tình yêu về mỹ học giống Wright), trở nên nổi tiếng tới nỗi lần đâu tiên trong đời Wright trở nên giàu có, nhưng niềm vui không trọn vẹn. Số phận của ông đã được báo trước một cách kỳ lạ ở Stanford West, người anh hùng trong cuốn tiểu thuyết của ông, nổi tiếng do từ bỏ công việc không được ưa chuộng trong khi tìm kiếm “một nền móng vững chắc của văn minh và tầng lớp quý tộc” và trở thành một tiểu thuyết gia thành công. Tiêu đề của một bài báo ông viết ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của mình, “Tôi từng là một nhà trí thức và bây giờ hãy nhìn tôi đi”, phản ánh cả niềm tin và sự hối tiếc của ông về việc ông không được coi trọng như là một nhà văn hàng đầu. Những cuốn sách sau này của ông đã ít nổi tiếng hơn vì sở thích của công chúng trong việc đọc các tiểu thuyết hư cấu bí ẩn đã thay đổi. Wright, người có tính cách giống với Vance, là một người điệu bộ và ham mê nghệ thuật, hiểu biết về nghệ thuật, âm nhạc và phê bình. Ông sống trong một căn hộ đắt đỏ, với niềm yêu thích trang phục và thức ăn đắt tiền, và sưu tập các tác phẩm nghệ thuật. Wright mất vào ngày 11 tháng Tư năm 1939, ở thành phố New York, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết “The Grade Allen Murder Case” và để lại một tiểu thuyết ngắn được dự định dựng thành phim cho Sonja Henje, và được xuất bản sau khi ông mất dưới tên “The Winter Murder Case”. Series về thám tử Philo Vance gồm 12 tác phẩm: The Benson Murder Case (1926) The Canary Murder Case (1927) The Greene Murder Case (1928) The Bishop Murder Case (1928) The Scarab Murder Case (1929) The Kennel Murder Case (1933) The Dragon Murder Case (1934) The Casino Murder Case (1934) The Garden Murder Case (1935) The Kidnap Murder Case (1936) The Grade Allen Murder Case (1938) The Winter Murder Case (1939) Cùng với sự thành công trong vai trò một nhà văn viết tiểu thuyết hư cấu, những dòng giới thiệu và ghi chú của Wright trong tuyển tập “The world’s great detective stories” (Những truyện trinh thám hay trên thế giới - 1928) rất quan trọng trong lịch sử nghiên cứu phê bình về tiểu thuyết trinh thám. Ông cũng đã viết một bài báo có tựa đề “Twenty rules for writing detective stories” (Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám) vào năm 1928 được đăng trên tạp chí The American. Nó thường xuyên được tái bản và thường được đối chiếu với “Ten commandments of detective fiction” (Mười điều răn về truyện trinh thám - 1929) của Ronald Arbuthnott Knox (1888 - 1957), một linh mục, nhà thần học và tác giả truyện trinh thám người Anh. Wright cũng viết một series truyện ngắn cho hãng phim Warner Brothers vào đầu thập niên 1930. Những câu chuyện này đã được sử dụng trong một series gồm 12 phim ngắn, với độ dài khoảng 20 phút mỗi tập, được phát hành vào năm 1931 -1932: The Clyde Mystery (tháng 09/1931) The Wall Street Mystery (11/1931) The Week End Mystery (12/1931) The Symphony Murder Mystery (01/1932), The Studio Murder Mystery (02/1932) The Skull Murder Mystery (03/1932) The Cole Case (The Cole Murder Case) (04/1932) Murder in the Pullman (05/1932) The Side Show Mystery (06/1932) The Campus Mystery (07/1932) The Crane Poison Case (07/1932) The Trans-Atlantic Murder Mystery (08/1932) Trong số đó, The Skull Murder Mystery cho thấy việc xây dựng tình tiết kịch bản mạnh mẽ của Wright. Nó cũng nổi tiếng về cách đối xử không phân biệt chủng tộc đối với những nhân vật người Trung Quốc, một điều khá bất thường vào thời điểm đó. Theo như được biết, không có kịch bản nào của ông được xuất bản thành sách và dường như không có bản thảo nào tồn tại đến ngày nay. Những phim ngắn cực kỳ phổ biến vào thời điểm đó và Hollywood đã làm hàng trăm phim như thế trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, trừ một số phim hài câm, hầu hết những bộ phim này đều bị lãng quên và không được liệt kê trong các cuốn sách tham khảo về phim ảnh. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM Philo Vance: thám tử. Currie: người hầu của Vance. Van Dine: luật sư, người kể chuyện, đi cùng với Philo Vance trong các cuộc điều tra và sau đó kể lại cho độc giả. John F.-X. Markham: công tố viên quận New York. Swacker: thư ký của công tố viên quận. Ernest Heath: trung sĩ của Cục Hình sự. Giáo sư Bertrand Dillard: nhà vật lý nổi tiếng. Belle Dillard: cháu gái giáo sư Bertrand Dillard. Sigurd Arnesson: giáo sư toán học, con trai nuôi của giáo sư Bertrand Dillard. Pyne: quản gia nhà Dillard. Beedle: đâu bếp nhà Dillard. Adolph Drukker: nhà khoa học và tác giả. Bà Drukker: mẹ của Adolph Drukker. Grete Menzel: đầu bếp nhà Drukker. John Pardee: nhà toán học và chuyên gia cờ vua. Joseph Cochrane Robin: nhà vô địch bắn cung. Raymond Sperling: kỹ sư. John E. sprigg: sinh viên đại học Columbia. Whitney Barstead: bác sĩ, nhà thần kinh học xuất sắc. Quinan: phóng viên của báo World. Madeleine Moffat: cô bé hay đến chơi ở nhà Drukker. O’Brien: chánh thanh tra của Sở Cảnh sát thành phố New York. William M. Moran: sĩ quan chỉ huy của Cục Điều tra. Pitts: đại úy của Cục Hình sự. Guilfoyle: thám tử của Cục Hình sự. Snitkin: thám tử của Cục Hình sự. Hennessey: thám tử của Cục Hình sự. Emery: thám tử của Cục Hình sự. Burke: thám tử của Cục Hình sự. Dubois: đại úy, chuyên gia về dấu vân tay. Emanuel Doremus: bác sĩ, chuyên gia giám định pháp y. CHƯƠNG 1 “AI GIẾT CHIM CỔ ĐỎ?” (Thứ Bảy, 2 tháng Tư; trưa) Trong tất cả vụ án hình sự mà Philo Vance tham gia với tư cách là một nhân viên điều tra không chính thức thì vụ án độc ác nhất, kỳ lạ nhất, có vẻ khó hiểu nhất và chắc chắn kinh khủng nhất phải là vụ án tiếp theo vụ giết những người nhà Greene*. Bữa tiệc khủng khiếp tại lâu đài cổ nhà Greene đi đến hồi kết gây kinh hoàng vào tháng Mười hai; và sau ngày lễ Giáng sinh, Vance bay đến Thụy Sĩ để xem Thế vận hội Mùa đông*. Về lại New York vào cuối tháng Hai, anh dấn thân ngay vào công việc văn chương mà anh đã ấp ủ từ lâu - bản dịch thô những đoạn tác phẩm chính của Menander* được tìm thấy trên giấy cói Ai Cập trong những năm đầu của thế kỷ này; và trong vòng hơn một tháng anh đã tận tụy với công việc thầm lặng đó. Anh có hoàn thành bản dịch này không, hay thậm chí công sức của anh có bị gián đoạn không, tôi không biết rõ; bởi vì Vance là một con người có niềm say mê các nền văn hóa, trong người anh tinh thần nghiên cứu và phiêu lưu trí óc lúc nào cũng tương phản với sự vất vả cần thiết và sự sáng tạo trong học thuật. Tôi nhớ một năm trước đây khi anh bắt đầu viết về cuộc đời của sử gia Xenophon* - kết quả của lòng nhiệt huyết được thừa hưởng từ những ngày học đại học của anh khi lần đầu tiên đọc Anabasis* và Memorabilia* - và nhanh chóng mất hứng thú khi đọc đến cuộc hành quân lịch sử do Xenophon chỉ huy mười ngàn quân trở về biển. Tuy nhiên, sự thật là công trình dịch các tác phẩm của Menander mà Vance đang làm đã bị gián đoạn một cách đột ngột vào đầu tháng Tư; và hàng tuần liền anh bị cuốn hút vào một vụ án hình sự bí ẩn khiến cả đất nước ở trong trạng thái bị kích động khủng khiếp. Cuộc điều tra tội phạm mới này, trong đó anh giữ vai trò như một amicus curiae* cho John F.-X. Markham, công tố viên quận New York, được biết đến với tên gọi là “Vụ án mạng Giám Mục” sau đó. Cái tên này - kết quả của xu hướng báo chí thích gắn tên gọi vào mỗi cause célèbre* - theo một nghĩa nào đó, đã được đặt sai. Không hề có liên quan đến Giám mục nào trong tội ác ma quái khiến cho cả cộng đồng phải tìm đọc “Đồng dao Mẹ Ngỗng”* với sự sợ hãi khủng khiếp* ; và không có một vị Giám mục nào, theo tôi biết, có liên quan ở mức nhỏ nhất đến những sự kiện ghê gớm đó để có cách gọi như vậy. Nhưng, đồng thời, cái từ “Giám Mục” vẫn phù hợp, bởi vì nó là một bí danh được kẻ sát nhân sử dụng cho mục đích tàn bạo nhất. Chính cái tên này đã tình cờ dẫn dắt Vance đến sự thật gần như không thể tin nổi và kết thúc một trong những tội ác liên hoàn kinh khủng nhất trong lịch sử ngành cảnh sát. Chuỗi sự kiện kỳ quái và có vẻ như không liên quan với nhau tạo nên vụ án mạng Giám Mục và đẩy lùi tất cả suy nghĩ về Menander và những bài thơ một câu của Hy Lạp ra khỏi tâm trí Vance, bắt đầu vào buổi sáng ngày 2 tháng Tư, chưa đầy năm tháng kể từ sau vụ xả súng kép giết chết Julia và Ada Greene. Hôm ấy là một trong những ngày xuân ấm áp hiếm hoi thỉnh thoảng New York có được vào đầu tháng Tư; và lúc ấy Vance đang ăn sáng trong khu vườn nhỏ nằm trên sân thượng căn hộ của mình ở đường số 38 Đông. Trời gần trưa - Vance làm việc và đọc sách đến rất khuya, và thức dậy muộn - mặt trời rọi nắng xuống bầu trời trong xanh, bao trùm thành phố với một vẻ ngoài thờ ơ. Vance nằm dài trên chiếc ghế bành, bữa sárig được đặt trên chiếc bàn bên cạnh, ngắm nhìn xuống hàng cây cao ở sân sau với ánh mắt chua chát và hối tiếc. Tôi biết anh đang nghĩ gì. Thói quen của anh vào mỗi mùa xuân chính là đi Pháp; và đã từ lâu anh nghĩ, cũng như George Moore*, rằng Paris và tháng Năm là một. Nhưng cuộc di cư ồ ạt hậu chiến tranh của những người Mỹ mới phất sang Paris đã làm hỏng niềm vui của anh trong chuyến du hành hàng năm này; và mới chỉ một ngày trước thôi, anh báo cho tôi biết rằng chúng tôi phải ở lại New York đến mùa hè. Nhiều năm qua tôi đã là bạn và là cố vấn pháp luật của Vance - như một người hợp tác và quản lý sổ sách. Tôi đã bỏ việc ở văn phòng luật sư của cha tôi, Davis & Van Dine, để dồn hết tâm huyết cho niềm đam mê của anh - một vị trí mà tôi nhận ra thoải mái hơn hẳn việc làm luật sư bình thường trong một văn phòng ngột ngạt - và dù chỗ ở của tôi nằm trong một khách sạn ở West Side, tôi dành phần lớn thời gian của mình ở căn hộ của Vance. Sáng hôm đó tôi đến sớm, trước cả lúc Vance thức dậy, và sau khi đã xem qua các sổ sách của tháng, tôi ngồi hút tẩu thuốc một cách lơ đãng trong khi anh dùng điểm tâm. “Anh biết không, Van,” anh nói với tôi, bằng giọng lè nhè không cảm xúc; “cái viễn cảnh về mùa xuân và mùa thu ở New York đều không hào hứng hay lãng mạn gì cả. Nó sẽ cực kỳ buồn tẻ. Nhưng nó sẽ ít phiền phức hơn việc đi lại ở châu Âu với đám du khách tầm thường chen lấn nhau… Điều đó thật phiền não.” Anh không tài nào ngờ được những tuần tiếp theo sau đó mang lại cho anh điều gì. Anh biết tôi ngờ vực cả cái viễn cảnh mùa xuân thời tiền chiến ở Paris sẽ mang anh đi; vì trí óc vô độ của anh chẳng khác gì một vấn đề phức tạp; thậm chí lúc anh nói với tôi vào sáng hôm đó rằng các vị thần điều khiển số phận của anh đang chuẩn bị một câu đố kỳ lạ và quyến rũ cho anh - một câu đố làm khuấy động cả đất nước và thêm một chương mới tồi tệ vào biên niên sử của tội ác. Vance vừa mới rót thêm cốc cà phê thứ hai thì Currie, ông quản gia người Anh già nua và cũng là người giúp việc, xuất hiện tại cánh cửa kiểu Pháp cùng với chiếc điện thoại. “Là anh Markham, thưa anh,” ông ta nói một cách xin lỗi. “Vì nghe giọng anh ta có vẻ khá vội vã, nên tôi tự cho phép mình báo với anh ta rằng anh có ở nhà.” Ông ta cắm chiếc điện thoại vào đế, và đặt nó lên chiếc bàn ăn sáng. “Làm đúng lắm, Currie,” Vance thì thầm, cầm điện thoại lên. “Bất cứ thứ gì để phá bỏ sự đơn điệu chán ngắt này.” Tiếp đó anh nói chuyện với Markham. “Này, ông bạn già, có bao giờ anh ngủ không? Tôi đang dùng omelette aux fines herbes*. Anh có muốn ăn cùng không? Hay là anh chỉ đang muốn nghe giọng nói của tôi…?” Bỗng nhiên anh ngừng lại, và vẻ đùa cợt trên gương mặt gầy guộc của anh biến mất. Vance là mẫu người Bắc Âu điển hình, với gương mặt dài và góc cạnh; cặp mắt xám, nằm xa nhau; chiếc mũi cao; và cằm thẳng hình trái xoan. Miệng anh rõ nét trên khuôn mặt nhưng nó lại mang vẻ chua cay độc địa, đậm chất Địa Trung Hải hơn Bắc Âu. Gương mặt anh cứng cáp và cuốn hút, cũng không hẳn là đẹp trai. Đó là một gương mặt của một người trầm tư và sống ẩn dật; và trông có vẻ mỉa mai - cẩn trọng và nội tâm - đóng vai trò như một tấm rào chắn ngăn cách anh và bạn bè của mình. Dù anh có bản tính trầm tư và kiên trì rèn luyện bản thân để kiềm chế cảm xúc của mình, tôi để ý được, lúc anh lắng nghe Markham nói qua điện thoại vào sáng hôm đó, anh không thể hoàn toàn che giấu được niềm hứng thú của mình dành cho thứ anh được kể. Lông mày hơi nhíu lại; và ánh mắt của anh cũng phản chiếu lại sự sửng sốt trong lòng. Thỉnh thoảng anh thốt lên “Kinh ngạc thật!” hay “Trời ạ!” hay “Cực kỳ khác thường!” - những câu chêm vào yêu thích nhất của anh - và sau vài phút anh nói với Markham, sự hào hứng tò mò biểu hiện trong cử chỉ của anh. “Bằng mọi giá!” Anh nói. “Tôi không nên bỏ lỡ nó vì những vở hài kịch bị thất lạc của Menander… Nghe có vẻ điên rồ… Tôi sẽ đi thay đồ ngay lập tức… Au revoi*.” Đặt ống nghe xuống, anh gọi Currie. “Bộ vét màu xám,” anh yêu cầu. “Cà vạt tối, và nón Homburg* màu đen của tôi.” Rồi anh quay lại món trứng chiên với mối bận tâm. Sau một lúc lâu anh nhìn tôi một cách thách đố. “Anh biết gì về môn bắn cung, Van?” Anh hỏi. Tôi không biết gì về môn này cả, chỉ biết là nó bao gồm việc bắn mũi tên vào mục tiêu, và tôi cũng thú nhận bấy nhiêu đó. “Anh không thú vị gì cả, anh biết không?” Anh lười biếng châm lửa một điếu thuốc Régie. “Tuy nhiên, chúng ta có chút liên quan đến bắn cung, có vẻ như vậy. Bản thân tôi không dẫn đầu trong môn này, nhưng tôi cũng đã thử nghịch với cây cung ở Oxford. Nó không phải là thú tiêu khiển hào hứng cho lắm - chán hơn golf nhiều và rất phức tạp.” Anh mơ mộng hút thuốc. “Này, Van; lấy giúp tôi quyển sách về bắn cung của tiến sĩ Elmer ở thư phòng - có một chương khá hay.”* Tôi mang quyển sách đến, và anh chìm đắm vào nó gần nửa tiếng đồng hồ, đọc đi đọc lại những chương liên quan đến bắn cung, các giải đấu và các trận thi đấu, và rà soát bảng phân loại điểm số cao nhất của Mỹ. Anh ngồi ngay ngắn trên ghế khá lâu. Hiển nhiên là anh đã tìm ra thứ gì đó khiến anh chú ý và điều đó đã kích hoạt tâm trí nhạy cảm của anh phải hoạt động. “Khá điên rồ đây, Van,” anh bình luận, ánh mắt nhìn vào hư không. “Một thảm kịch thời trung cổ ở thành phố New York hiện đại! Chúng ta không mang những đôi ủng và áo khoác da nữa, ấy vậy mà - trời ơi!” Anh đột nhiên ngồi thẳng dậy. “Không… không! Thật vô lý. Tôi đã để sự điên rồ từ tin tức của Markham ảnh hưởng đến mình…” Anh uống thêm cà phê, nhưng sắc mặt của anh nói cho tôi biết rằng anh không thể giải thoát bản thân mình ra khỏi cái ý tưởng đã chiếm lấy anh. “Thêm một việc nữa, Van,” lúc lâu sau anh nói. “Lấy giúp tôi quyển từ điển tiếng Đức và tuyển tập ‘Home book of verse’ của Burton E. Stevenson* đi.” Khi tôi đã đem số sách đến, anh tìm một từ trong từ điển xong đẩy quyển sách ra xa. “Không may là chỉ có vậy, dù tôi đã biết rõ từ lâu.” Sau đó anh quay sang phần tuyển tập khổng lồ của Stevenson bao gồm những bài hát ru và đồng dao. Vài phút sau anh cũng đóng cuốn sách đó lại và duỗi người trên ghế, nhả một làn khói thuốc dài ra mái hiên trên đầu. “Không thể như vậy được,” anh phản đối, như thể phản đối chính mình. “Nó quá kỳ quái, quá hung bạo, quá méo mó. Một câu chuyện cổ tích đẫm máu, một thế giới kỳ dị, một sự sai trái của tất cả lý lẽ… Không thể tưởng tượng được, phi lý, như yêu thuật và những phép màu ma quái. Nó hết sức điên loạn.” Anh liếc nhìn đồng hồ, đứng dậy, đi vào nhà, bỏ mặc tôi suy đoán mơ hồ về nguyên nhân gây ra sự xáo trộn hiếm thấy ở anh. Một quyển sách chuyên luận về bắn cung, một cuốn từ điển tiếng Đức, một tuyển tập đồng dao dành cho trẻ con, và những câu nói khó hiểu của Vance về sự điên rồ và kỳ dị - những thứ này có thể có mối liên hệ khả thi gì đây? Tôi thử tìm ra một mẫu số chung nhỏ nhất, nhưng không chút thành công. Và việc tôi thất bại thì cũng chả có gì là đáng ngạc nhiên. Ngay cả sự thật, khi nó xuất hiện vài tuần sau với một loạt bằng chứng không thể chối cãi, dường như quá khó tin và quá xấu xa mà đầu óc của một người bình thường có thể chấp nhận được. Vance nhanh chóng phá vỡ suy đoán vô ích của tôi. Anh ăn mặc để ra ngoài, và có vẻ sốt ruột với sự đến trễ của Markham. “Anh biết không, tôi muốn thứ gì đó làm tôi hứng thú - một vụ án cực kỳ thú vị, ví dụ như vậy,” anh bình luận; “nhưng - trời ạ! - tôi không hẳn mong chờ một cơn ác mộng. Nếu tôi không quen thân với Markham thì tôi sẽ nghĩ ngờ anh ta đang đùa cợt.” Khi Markham bước vào khu vườn trên sân thượng vài phút sau, quá rõ ràng rằng anh ta vô cùng nghiêm túc. Biểu cảm của anh ta vừa u sầu vừa lo âu, và lời chào thân mật thường thấy ở anh ta chỉ còn là câu chào xã giao ngắn gọn. Markham và Vance là bạn thân của nhau được 15 năm. Dù bản chất thì hoàn toàn tươmg phản - một người thì cứng rắn, cộc cằn, thẳng thắn và gần như nghiêm nghị đến chán ngắt; người kia thì lại thất thường, hoài nghi, hòa nhã và không quan tâm đến những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống - họ vẫn tìm thấy sức hút từ sự bổ trợ nhau như là nền tảng của một tình bằng hữu bền bỉ và không thể tách rời. Trong một năm bốn tháng Markham làm công tố viên quận New York, anh ta thường gặp Vance bàn bạc các vấn đề quan trọng, và mỗi lần như vậy Vance luôn chứng minh được sự tin tưởng dành cho anh là hoàn toàn đúng chỗ. Thật vậy, Vance đóng góp gần như toàn bộ công lao phá nhiều vụ án xảy ra trong khoảng bốn năm đương nhiệm của Markham. Kiến thức của anh về bản chất con người, những am hiểu về văn hóa, tư duy logic sắc sảo và tài đánh hơi sự thật bị che giấu bên dưới những vẻ ngoài giả tạo, tất cả đều thích hợp để anh làm công việc của một thám tử điều tra tội phạm - một công việc mà anh làm không chính thức liên quan đến những vụ án do Markham đảm trách. Vụ án đầu tiên của Vance, không thể quên được, là vụ án mạng Alvin Benson*, và nếu không có sự tham gia của anh vào vụ án đó thì tôi nghi rằng sự thật còn lâu mới được đưa ra ánh sáng. Tiếp theo là vụ án tai tiếng về việc bóp cổ Margaret Odell* - một vụ giết người bí ẩn mà phương pháp điều tra thông thường của cảnh sát chắc chắn sẽ thất bại. Và năm ngoái, vụ án mạng Greene kinh hoàng (mà tôi đã nhắc đến) không chắc gì sẽ thành công nếu Vance không ra tay phá hỏng ý định cuối cùng của chúng. Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi Markham tìm đến Vance ngay từ đầu vụ án mạng Giám Mục. Càng lúc tôi càng để ý thấy anh ta dựa dẫm vào sự giúp đỡ của người khác trong việc điều tra tội phạm của anh ta; và trong trường hợp hiện tại, đặc biệt thuận lợi khi anh ta tìm đến Vance, để thông qua kiến thức chuyên sâu của Vance về những biểu hiện tâm lý khác thường của đầu óc con người, có thể phát hiện ra những âm mưu điên rồ, xấu xa và tìm ra được thủ phạm. “Toàn bộ chuyện này có thể là tình trạng lộn xộn rối beng,” Markham nói, mà không có sự quả quyết. “Nhưng tôi nghĩ có lẽ anh muốn đi cùng…” “Ồ. Đúng đấy!” Vance mỉm cười chế nhạo Markham. “Ngồi xuống một lát và kể mạch lạc câu chuyện đi. Xác chết không chạy đi đâu được đâu. Và tốt nhất là nên sắp xếp các sự kiện của chúng ta theo thứ tự nào đó trước khi chúng ta xem xét hiện trường. - Chẳng hạn như, những người đầu tiên liên quan là ai? Và tại sao Văn phòng Công tố quận lại đưa ra phán đoán rằng đây là một vụ giết người chỉ trong vòng một giờ sau khi nạn nhân chết? Những thứ mà anh kể cho tôi nghe từ đầu đến giờ quá đỗi vô lý.” Markham phiền muộn ngồi xuống mép ghế và vân vê điếu xì gà. “Thật chết tiệt, Vance! Đừng bắt đầu với thái độ ‘Những bí ẩn của Udolpho’*. Tội ác - nếu đây là một tội ác - có vẻ đủ rõ ràng rồi. Đây là phương thức giết người không bình thường, tôi công nhận; nhưng chắc chắn nó không vô lý. Gần đây môn bắn cung trở nên được yêu thích. Cung và tên đang được sử dụng hầu như khắp các thành phố và trường đại học ở Mỹ.” “Cứ cho là vậy. Nhưng đã lâu lắm rồi chúng mới được dùng để giết người có tên là Robin.” Markham nheo mắt lại, và anh ta nhìn Vance dò xét. “Ý tưởng đó cũng nảy ra trong anh, phải không?” “Nảy ra trong tôi ư? Nó nhảy vào đầu tôi ngay lúc anh nhắc đến tên của nạn nhân.” Vance hút bập bập điếu thuốc. “‘Ai giết Chim Cổ Đỏ?’* Và bằng một cây cung và mũi tên!… Kỳ lạ làm sao bài đồng dao biết lúc còn nhỏ cứ lởn vởn trong đầu tôi. - Nhân tiện, tên của anh Robin xấu số này là gì vậy?” “Joseph, hình như vậy.” “Không sáng sủa hơn và cũng không gợi ý được gì… Có tên đệm không?” “Xem này, Vance!” Markham cáu kỉnh đứng dậy. “Tên đệm của người bị sát hại thì có liên quan gì đến vụ án chứ?” “Tôi không say đâu. Chỉ là chúng ta đang phát điên thì tại sao không điên đến cùng luôn. Một chút tỉnh táo ở đây cũng không mang lại giá trị gì.” Anh rung chuông gọi Currie và bảo ông ta đi lấy quyển danh bạ điện thoại. Markham phản đối, nhưng Vance giả vờ không nghe thấy; và khi quyển danh bạ được mang đến anh lật tìm trên các trang một lát. “Có phải nạn nhân sống ở đường Riverside Drive* không?” Cuối cùng anh hỏi, giữ ngón tay trên một cái tên được tìm thấy. “Tôi nghĩ là vậy.” “Chà, chà.” Vance đóng quyển danh bạ lại, và dán đôi mắt giễu cợt mang vẻ đắc thắng vào vị công tố viên. “Markham,” anh chậm rãi nói, “chỉ có một Joseph Robin được liệt kê trong cuốn danh bạ điện thoại. Anh ta sống ở đường Riverside Drive, và tên đệm của anh ta là… Cochrane!” “Chuyện quái này là sao?” Giọng nói của Markham gần như dữ tợn. “Cứ cho tên anh ta là Cochrane đi: anh có nghiêm túc không khi gợi ý rằng thông tin này có liên quan đến việc anh ta bị giết?” “Ôi trời ơi, ông bạn già, tôi không gợi ý gì cả.” Vance hơi nhún vai. “Tôi chỉ đang ghi nhận, cứ coi như là, một vài sự kiện liên quan đến vụ án. Vấn đề hiện tại chính là: một anh Joseph Cochrane Robin - tức là: Chim Cổ Đỏ - đã bị giết bằng cung tên. - Ngay cả điều đó cũng không khiến bộ óc pháp luật của anh thấy quá đỗi lạ lùng sao?” “Không!” Markham thốt ra lời phủ định. “Cái tên của người chết cũng chỉ bình thường thôi; và cũng ngạc nhiên là không có thêm người bị giết hoặc bị thương với trò bắn cung đang phổ biến trở lại trên khắp cả nước. Hơn nữa, hoàn toàn có khả năng cái chết của Robin là kết quả của một vụ tai nạn.” “Ôi trời ạ!” Vance lắc đầu trách móc. “Lập luận đó, cho dù có đúng đi nữa, thì cũng không giúp ích được cho tình huống này là bao nhiêu. Nó chỉ khiến vụ việc trở nên kỳ quặc hơn thôi. Trong số hàng ngàn cung thủ ở tiểu bang này, người có tên giống Chim Cổ Đỏ lại tình cờ bị giết bởi một mũi tên! Giả thuyết như vậy sẽ dẫn chúng ta đến thuyết thông linh, quỷ thần học và tương tự. Dù sao đi nữa, anh có tin vào những loài ma quái, những thứ giở trò đùa ác quỷ lên loài người hay không?” “Tôi phải là một nhà thần thoại học thì mới được công nhận sự ngẫu nhiên sao?” Markham cáu gắt hỏi lại. “Ông bạn ơi! Cánh tay của sự ngẫu nhiên không vươn xa đến vô tận được đâu. Dù sao thì cũng có quy luật của xác suất, dựa trên các công thức toán học xác định. Sẽ khiến tôi buồn nếu nghĩ rằng những người như Laplace*, Czuber* và von Kries* đã sống một cách vô ích. - Tuy nhiên, tình huống hiện tại thậm chí còn phức tạp hơn anh nghĩ. Ví dụ như anh từng nói trên điện thoại rằng người cuối cùng được biết là đã ở cùng Robin trước khi anh ta chết có tên là Sperling.” “Và ý nghĩa bí mật gì nằm trong sự kiện đó?” “Có lẽ anh biết Sperling trong tiếng Đức có nghĩa là gì,” Vance nhẹ nhàng gợi ý. “Tôi có học trung học,” Markham vặn lại. Sau đó anh ta trợn mắt, và cả người anh ta trở nên căng thẳng. Vance đẩy cuốn từ điển tiếng Đức về phía anh ta. “Dù sao thì cũng tra từ đó đi. Chúng ta nên kỹ lưỡng một chút. Bản thân tôi đã tra cứu rồi. Tôi sợ trí tưởng tượng đang đùa giỡn với mình, và tôi muốn được nhìn thấy từ đó trên giấy trắng mực đen.” Markham im lặng mở cuốn từ điển ra, và để con mắt của mình chạy dọc xuống trang giấy. Sau khi nhìn chằm chằm vào từ đó một lúc lâu anh ta cố gắng đứng dậy một cách gượng gạo, cứ như đang chống lại một câu thần chú. Khi anh ta lên tiếng, giọng của anh ta khá ngang ngược. “Sperling có nghĩa là ‘chim sẻ.’ Cậu học sinh nào cũng biết. Vậy thì sao?” “Ồ, chắc chắn rồi.” Vance uể oải châm một điếu thuốc khác. “Và bất cứ cậu học sinh nào cũng biết bài đồng dao cổ có tên ‘Cái chết và việc mai táng Chim Cổ Đỏ,’ như thế nào?” Anh giễu cợt nhìn Markham, đang đứng bất động nhìn những tia nắng mùa xuân. “Vì anh giả vờ không biết bài đồng dao tuổi thơ kinh điển đó nên cho phép tôi đọc đoạn đầu nhé.” Một cơn ớn lạnh, như sự có mặt của ma quỷ vô hình nào đó, quét qua tôi khi Vance lặp lại những câu quen thuộc ngày xưa: “Ai giết Chim Cổ Đỏ? ‘Chính ta,’ chim sẻ nói, ‘Bằng cung và tên thôi, Ta giết Chim Cổ Đỏ.”’ CHƯƠNG 2 TRÊN BÃI TẬP BẮN CUNG (Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 12.30 p.m.) Markham chậm rãi đưa mắt về phía Vance. “Điên rồ!” Anh ta nhận xét, giống như một người phải đối mặt cùng lúc với một thứ vừa đáng sợ vừa không thể giải thích được. “Chà, chà!” Vance nhẹ nhàng xua tay. “Đó là việc đạo ý tưởng. Tôi đã nói về nó ngay từ đầu rồi.” (Anh đã cố gắng vượt qua những cảm giác lúng túng của mình bằng một phong thái nhanh nhẹn.) “Và giờ đây nên có một người tình để khóc thương vì sự ra đi của anh Robin. Anh nhớ lại đi, có lẽ, là đoạn thơ: “Ai là chủ lễ tang? ‘Chính tôi,’ bồ câu nói, Tiếc tình yêu mất rồi; Tôi làm chủ lễ tang.’” Markham hơi ngớ ra, và những ngón tay của anh ta gõ lên bàn theo một nhịp điệu kỳ lạ. “Trời ơi, Vance! Có một cô gái trong vụ án này. Và có khả năng sự ghen tuông là nguyên nhân của chuyện này.” “Bây giờ, cứ cho là như thế! Tôi nghĩ chuyện này sẽ phát triển thành một dạng tableau-vivant* dành cho những đứa trẻ mẫu giáo, phải không? Nhưng điều đó sẽ làm cho công việc của chúng ta dễ dàng hơn. Tất cả những gì chúng ta phải làm là tìm một con ruồi.” “Một con ruồi ư?” “Musca domestica*, nói một cách thông thái… Ông bạn Markham ơi, anh quên rồi sao?… Ai thấy anh chết rồi? Ruồi nói rằng ‘chính tôi, Với đôi mắt nhỏ nhoi; Tôi thấy anh chết rồi.’” “Hãy trở lại thực tế đi!” Markham gắt gỏng. “Đây không phải là trò chơi của trẻ con. Đây là việc vô cùng nghiêm túc.” Vance gật đầu một cách lơ đãng. “Trò chơi trẻ con đôi khi lại trở thành một công việc nghiêm túc nhất trong đời.” Lời nói của anh chứa đựng vẻ kỳ lạ, xa xăm. “Tôi không thích điều này - tôi hoàn toàn không thích nó. Có quá nhiều trẻ con trong đó - đứa trẻ được sinh ra già cỗi với tâm trí bệnh tật. Nó giống như một thứ ghê tởm nào đó.” Anh hút một hơi dài từ điếu thuốc, và làm một điệu bộ tỏ vẻ ác cảm. “Cho tôi thông tin chi tiết đi. Hãy tìm ra nơi mà chúng ta đang đứng trong cái vùng đất hỗn loạn này.” Markham ngồi xuống ghế. “Tôi không có nhiều thông tin lắm. Thực tế thì tôi đã nói với anh mọi thứ mà tôi biết về vụ này qua điện thoại rồi. Là giáo sư Dillard gọi cho tôi ngay trước khi tôi nói chuyện với anh…” “Dillard? Có phải là giáo sư Bertrand Dillard không?” “Ông ấy đấy. Thảm kịch xảy ra ngay tại nhà ông ấy. - Anh biết ông ấy sao?” “Cũng chẳng phải chuyện riêng tư gì cả. Tôi biết ông ấy cũng như giới khoa học biết về ông ấy thôi - một trong những nhà vật lý toán vĩ đại nhất. Hầu hết sách của ông ấy tôi đều có. - Sao ông ấy lại gọi cho anh vậy? “Tối quen biết ông ấy gần hai mươi năm. Tôi học toán với ông ấy ở Columbia, và sau đó làm một số công việc pháp lý cho ông. Khi thi thể của Robin được tìm thấy thì ông ấy gọi ngay cho tôi - khoảng 11 giờ rưỡi. Tôi đã gọi cho trung sĩ Heath ở Cục Hình sự và chuyển vụ này cho anh ta - và tôi đã nói với anh ta rằng tôi sẽ đến gặp anh ta sau. Rồi tôi gọi cho anh. Bây giờ trung sĩ và người của anh ta đang đợi tôi ở nhà của giáo sư Dillard.” “Tình hình trong nhà đó ra sao?” “Giáo sư, như anh biết, đã xin thôi việc từ khoảng mười năm trước. Kể từ đó, ông sống ở đường số 75 Tây*, gần đường Drive*. Ông ấy mang theo đứa con của em trai mình - một cô bé mười lăm tuổi. Giờ cô ấy chắc được hai mươi lăm rồi. Kế đến là người được ông bảo trợ, Sigurd Arnesson, người bạn cùng lớp với tôi ở trường đại học. Giáo sư nhận anh ta làm con nuôi từ lúc nhỏ. Hiện giờ Arnesson khoảng bổn mươi, là giảng viên toán tại Columbia. Anh ta rời Na Uy tới đất nước này khi mới lên ba, và 5 năm sau anh ta thành trẻ mồ côi. Anh ta có tố chất của một thiên tài về toán học, và giáo sư Dillard rõ ràng đã thấy rằng có thể đào tạo anh ta thành nhà vật lý học vĩ đại và đã nhận nuôi anh ta.” “Tôi có nghe về Arnesson,” Vance gật gù. “Gần đây anh ta đã công bố một số biến đổi của lý thuyết Mie* về điện động lực học của các vật di chuyển… Và chỉ có ba người này - giáo sư Dillard, Arnesson và cô cháu gái – sống ở đó à?” “Với hai người hầu. Giáo sư Dillard dường như có thu nhập rất cao. Tuy nhiên, họ sống không biệt lập lắm đâu. Ngôi nhà như là một cung điện dành cho các nhà toán học, và có vẻ là một cénacle* khá tuyệt vời. Ngoài ra, cô gái, người luôn tham gia các hoạt động thể thao ngoài trời, sở hữu cho riêng mình một xã hội nhỏ. Tôi đã ở ngôi nhà đó vài lần, và lúc nào nó cũng có khách - một sinh viên nghiêm túc hoặc hai nhà khoa học trừu tượng trong thư viện trên lầu, hoặc một vài người trẻ tuổi ồn ào ở phòng khách bên dưới.” “Còn Robin thì sao?” “Anh ta - một người đàn ông trung niên cởi mở có vài thành tích về bắn cung - thuộc về nhóm của Belle Dillard.” “Tôi biết mà. Tôi chỉ cần tìm cái tên này trong quyển sách nói về bắn cung. Một anh J. C. Robin dường như có thành tích cao trong một vài giải vô địch gần đây. Và tôi cũng ghi chú lại nữa, một anh Sperling đã từng là á quân trong vài giải đấu bắn cung lớn. - Vậy cô Dillard cũng là một cung thủ à?” “Đúng vậy, một người khá đam mê. Trong thực tế, cô ấy đã tổ chức câu lạc bộ bắn cung Riverside. Bãi tập luyện là ở nhà của Sperling tại Scarsdale; nhưng cô Dillard đã dựng một bãi tập bên cạnh sân nhà của vị giáo sư ở đường số 75. Đó là nơi Robin đã bị giết.” “À! Và, như anh nói, người cuối cùng gặp anh ta là Sperling. Con chim sẻ của chúng ta giờ đang ở đâu?” “Tôi không biết. Anh ta đã gặp Robin ngay trước khi thảm kịch xảy ra; nhưng khi cái xác được tìm thấy thì anh ta đã biến mất. Tôi nghĩ Heath sẽ có tin tức về điều đó.” “Và đâu đó cũng có thể có động cơ về sự ghen tuông mà anh đề cập đến chứ?” Mí mắt Vance rũ xuống lờ đờ, và anh hút thuốc một cách thong thả nhưng rõ ràng lại đang có sự cân nhắc - một dấu hiệu cho thấy sự quan tâm đặc biệt của anh về những điều được nghe kể. “Giáo sư Dillard có đề cập đến chuyện giữa cháu gái ông ấy và Robin; và khi tôi hỏi ông ấy Sperling là ai và tình hình của anh ta lúc ở nhà Dillard, ông ấy tâm sự là Sperling đã cầu hôn cô cháu gái. Tôi không nói việc này qua điện thoại, nhưng tôi nhận thấy Robin và Sperling là tình địch, và Robin có vẻ có lợi thế hơn hẳn. “Và vì thế chim sẻ đã giết Chim Cổ Đỏ.” Vance lắc đầu một cách ngờ vực. “Không thể nào. Chuyện này quá đơn giản; và điều đó không giải thích được cho vở kịch vô cùng hoàn hảo theo bài đồng dao Chim Cổ Đỏ. Phải là thứ gì đó thâm hiểm hơn - thứ gì đó đen tối và kinh khủng hơn - trong câu chuyện kỳ quặc này. - Nhân tiện, ai là người tìm thấy Robin?” “Là giáo sư Dillard. Ông ấy đứng trên ban công nhỏ phía sau nhà, và thấy Robin nằm ở bãi tập, với một mũi tên ngay tim. Ông ấy chạy xuống nhà ngay lập tức - với một ông lão bị gout* thì chuyện đó có vẻ rất khó khăn - và nhìn thấy anh ta đã chết, ông ấy liền gọi cho tôi. - Đó là toàn bộ những thông tin trước đó mà tôi có.” “Chưa có gì sáng tỏ cả, nhưng vẫn có một chút gợi ý.” Vance đứng lên. “Ông bạn Markham thân mến, hãy chuẩn bị cho một thứ khá kỳ lạ - và đáng ghê tởm. Chúng ta có thể loại trừ rằng đó là một tai nạn hay một sự trùng họp ngẫu nhiên. Trong khi sự thật là những mũi tên thông thường - được làm bằng gỗ mềm và gắn những cọc xiên nhỏ - có thể dễ dàng xuyên qua quần áo và đâm vào lồng ngực, ngay cả khi nó được bắn bởi một cây cung cỡ trung, sự thật là người có tên ‘Chim Sẻ’ có thể giết người có tên Cochrane Robin, bằng cây cung và mũi tên, loại trừ bất kỳ tình huống trùng hợp ngẫu nhiên nào. Thật vậy, sự kiện đáng kinh ngạc này đã chứng minh một cách chắc chắn rằng có một mục đích xảo quyệt, độc ác ẩn sau vụ án.” Anh bước về phía cửa. “Đi thôi, hãy tìm thêm điều gì đó ở thứ mà cảnh sát Áo gọi là situs criminis*.” Chúng tôi rời khỏi nhà ngay lập tức và lái xe lên phố bằng xe của Markham. Đến Công viên Trung tâm* ở đại lộ 5, đi vào đường băng ngang công viên rồi đi sang đường số 72, và sau vài phút đi vào đại lộ West End rồi rẽ vào đường số 75. Nhà của giáo sư Dillard - số 391 - ở phía bên phải chúng tôi, phía xa là dãy nhà nhìn ra sông. Giữa nó và đường Drive, là tòa nhà chung cư lớn mười lăm tầng chiếm toàn bộ góc đường. Ngôi nhà của vị giáo sư dường như nép mình, như thể để chống đỡ vậy, trong cái bóng của cấu trúc khổng lồ kia. Nhà của gia đình Dillard là ngôi nhà bằng đá màu xám hơi tối, và thuộc về thời kỳ mà nhà ở được xây dựng vì sự bền vững và tiện nghi. Khu đất có mặt tiền 35 foot*, và ngôi nhà rộng 25 foot*. 10 foot* còn lại của khu đất, tạo thành lối đi tách rời ngôi nhà với chung cư, được ngăn cách với đường bằng bức tường đá 10 foot với một cửa sắt lớn ở giữa. Ngôi nhà theo lối kiến trúc thuộc địa cải biên. Vài bậc tam cấp dẫn từ ngoài đường vào hiên nhà hẹp lát gạch được trang hoàng với bốn cây cột trắng kiểu Corinthian*. Ở tầng hai là hàng loạt cửa sổ hai cánh, được gắn những tấm kính chữ nhật, chạy theo chiều rộng toàn ngôi nhà. (Những điều này, sau đó tôi được biết, là những cửa sổ của thư viện.) Có gì đó ở nơi này rất yên tĩnh và rất cổ xưa: nó xuất hiện giống như bao thứ khác nhưng lại là hiện trường của một tội ác khủng khiếp. Hai xe cảnh sát đậu gần cửa ra vào khi chúng tôi đến, và có hàng tá người xem tò mò tụ tập trên đường. Một cảnh sát tuần tra uể oải tựa vào cột có những đường rãnh của hiên nhà, nhìn chằm chằm vào đám đông trước mặt anh ta với thái độ khinh khỉnh chán chường. Ông lão quản gia tiếp chúng tôi và dẫn chúng tôi vào phòng khách bên trái sảnh, nơi chúng tôi thấy trung sĩ Ernest Heath và hai người khác đến từ Cục Hình sự. Viên trung sĩ, đang đứng bên cạnh bàn trà hút thuốc, ngón tay cái móc vào áo gile, tiến về phía chúng tôi và thân thiện bắt tay Markham. “Tôi rất vui khi thấy anh ở đây,” anh ta nói; và cái nhìn lo lắng trong đôi mắt xanh lạnh lùng của anh ta dường như giảm đi chút ít. “Tôi đã chờ đợi anh. Có điều gì đó rất đáng ngờ về vụ này.” Anh ta bắt gặp cái nhìn của Vance, người nãy giờ vẫn ở bên cạnh làm nền, và nét mặt thô bè của anh ta nở nụ cười thân thiện. “Xin chào, anh Vance. Tôi đã có một ý nghĩ thầm kín là anh sẽ bị kéo vào vụ này. Anh đã làm gì trong suốt mấy tháng qua?” Tôi không thể so sánh biểu hiện thân thiện này của viên trung sĩ với thái độ thù hằn trong lần đầu tiên anh ta gặp Vance ở vụ Benson. Nhưng đó đã là quá khứ kể từ lần đầu họ chạm trán ở phòng khách trong vụ ám sát Alvin; giữa Heath và Vance đã có thêm sự gắn bó nhiệt tình, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và sự ngưỡng mộ thẳng thắn dành cho nhau. Vance đưa tay ra, và nở nụ cười ở khoé môi. “Sự thật là, trung sĩ à, tôi đã nỗ lực để tìm lại những vinh quang trong quá khứ của một người Athens tên là Menander, một đối thủ về kịch nghệ của Philemon*. Thật ngớ ngẩn, phải không?” Heath càu nhàu với vẻ khinh khỉnh. “Được quá, dù sao đi nữa, nếu anh có thể làm tốt việc đó như việc tìm ra thủ phạm, chắc hẳn anh sẽ đạt được thành công.” Đó là lời khen ngợi đầu tiên mà tôi nghe được từ miệng anh ta, và nó không chỉ chứng minh cho việc ngưỡng mộ của anh ta dành cho Vance, mà còn cho thấy những rắc rối và suy nghĩ bấp bênh của chính viên trung sĩ. Markham cảm nhận được sự bất an của viên trung sĩ, và hỏi một cách đột ngột: “Dường như có trở ngại trong vụ này?” “Tôi không biết là có trở ngại gì, thưa anh”, Heath đáp. “Có vẻ như chúng ta có một người đàn ông đã chết là điều rõ ràng rồi. Nhưng tôi không cảm thấy hài lòng, và - ôi, trời! - anh Markham ạ… nó thật bất thường, nó chẳng gợi lên ý gì cả.” “Tôi nghĩ là tôi hiểu điều anh muốn nói.” Markham nhìn viên trung sĩ với vẻ dò xét. “Anh có nghĩ theo hướng Sperling có tội không?” “Chắc chắn, anh ta có tội,” Heath quả quyết. “Nhưng đó không phải là điều làm tôi lo lắng. Để tôi nói cho anh biết sự thật, tôi không thích tên của gã sát nhân này - đặc biệt là khi hắn giết người bằng một cây cung và mũi tên…” Anh ta do dự, với chút ngại ngùng. “Anh không thấy kỳ quặc sao?” Markham bối rối gật đầu. “Tôi cũng hiểu điều anh nói, nhớ lại bài đồng dao xem,” anh ta nói và quay đi. Vance nhìn Heath bằng ánh mắt hài hước. “Bây giờ anh cứ xem anh Sperling như là một ‘con chim’, trung sĩ à. Cách gọi này là thích hợp nhất. Sperling, anh hiểu chứ, trong tiếng Đức có nghĩa là ‘chim sẻ’. Và đó là một con chim sẻ, anh hãy nhớ lại đi, kẻ đã giết Chim Cổ Đỏ bằng một mũi tên… Một tình huống hấp dẫn chứ - phải không?” Mắt của viên trung sĩ mở to, và miệng thì há hốc. Anh ta nhìn Vance chằm chằm với vẻ hoang mang gần như lố bịch. “Tôi đã nói là chuyện này thật đáng ngờ mà!” “Tôi muốn nói, đúng hơn là, nó thuộc về loài chim, anh không biết đấy thôi.” “Anh nói về những thứ mà không ai hiểu cả,” Heath hung hăng vặn lại. Đó là thói hiếu chiến của anh ta khi đối mặt với những điều không thể giải thích được. Markham đành phải xen vào. “Hãy thu thập những chi tiết của vụ án này, trung sĩ. Tôi lấy chúng còn anh hãy hỏi cung những người trong nhà.” “Chỉ là việc thông thường thôi, thưa anh.” Heath đặt chân vào góc bàn và châm lại điếu thuốc đã tắt. “Tôi đang đợi anh đến để anh quyết định. Tôi biết anh quen với quý ông cao tuổi ở tầng trên; nên tôi mới chỉ làm vài thủ tục nhỏ. Tôi đã để một người ở con hẻm trông chừng không cho ai chạm vào xác nạn nhân cho đến khi bác sĩ Doremus* đến, ông ấy sẽ đến ngay khi xong bữa trưa. Tôi đã gọi người đến lấy dấu vân tay trước khi rời khỏi văn phòng, và họ có thể bắt đầu công việc bất cứ lúc nào; mặc dù tôi không biết họ có giúp được gì không…” “Vậy còn cây cung đã bắn mũi tên?” Vance xen vào. “Đó là cái mà chúng ta phải đánh cuộc; nhưng ông lão Dillard nói rằng đã nhặt nó từ con hẻm và mang nó vào nhà. Ông ấy có lẽ đã chạm lên những dấu tay đã có.” “Anh có biết gì về Sperling không?” Markham hỏi. “Tôi đã có địa chỉ - anh ta sống trong một căn nhà ở ngoại ô gần Westchester - và đã cử hai người đưa anh ta đến đây ngay khi họ gặp anh ta. Sau đó tôi cũng đã nói chuyện với hai người giúp việc - là ông lão đã đưa anh vào đây, và con gái của ông ta, một người phụ nữ trung niên phụ trách nấu ăn. Nhưng chẳng ai trong số họ biết về điều gì cả, hoặc là họ đang giả vờ. Sau đó tôi định hỏi chuyện quý cô trẻ tuổi trong nhà.” Viên trung sĩ giơ tay lên trong điệu bộ cáu kỉnh thất vọng. “Nhưng cô ấy vừa mới bị tổn thương và đang khóc; nên tôi nghĩ tôi nên để vinh dự lấy lời khai của cô ấy cho các anh. Snitkin và Burke” - anh ta chỉ tay về phía hai vị thám tử đang đứng trước cửa sổ - “đã xuống tầng hầm, con hẻm và sân sau thử xem có nhặt nhạnh được thứ gì không, nhưng chẳng được gì cả. Và đó là tất cả những gì tôi nắm được. Ngay khi Doremus và người lấy dấu vân tay đến, và sau khi tôi có cụộc trao đổi riêng với Sperling thì tôi sẽ làm trái bóng lăn* và xử lý công việc. Vance thở dài. “Anh lạc quan thật đấy, trung sĩ à! Đừng thất vọng khi trái bóng của anh lại là một khối hộp không thể lăn được. Có gì đó quá đỗi kỳ quặc về bài đồng dao này; và, trừ phi tất cả các dấu hiệu này lừa tôi, anh sẽ được chơi trò bịt mắt bắt dê trong thời gian dài sắp tới.” “Thế sao?” Heath nhìn Vance bằng ánh mắt hoàn toàn chán nản. Đó là bằng chứng của việc anh ta không ít thì nhiều có cùng quan điểm đó. “Đừng để Vance làm anh nản chí, trung sĩ à,” Markham trấn tĩnh anh ta. “Anh ta đã để trí tưởng tượng bay xa quá.” Sau đó với cử chỉ sốt ruột anh ta quay về phía cửa. “Hãy nhìn qua hiện trường trước khi những người khác đến. Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với giáo sư Dillard và những người khác trong gia đình. Và, nhân tiện, trung sĩ, anh không nhắc đến anh Arnesson. Anh ta không có ở nhà sao?” “Anh ta đang ở trường đại học; nhưng hy vọng anh ta về sớm.” Markham gật đầu và đi theo viên trung sĩ vào sảnh chính. Khi chúng tôi đi qua lối đi có lót thảm đến phía sau, có tiếng ồn trên cầu thang, rõ ràng là giọng nói ngập ngừng của người phụ nữ phát ra từ khu vực hơi tối ở trên. “Có phải anh không, anh Markham? Bác tôi nói nhận ra được giọng của anh. Bác ấy đang đợi anh ở thư viện.” “Tôi sẽ gặp bác của cô trong lát nữa, cô Dillard.” Giọng của Markham ấm áp và đầy sự cảm thông. “Và hãy chờ cùng với ông ấy vì tôi cũng muốn được gặp cô.” Bằng tiếng ưng thuận thì thầm, cô gái biến mất ở đầu cầu thang. Chúng tôi đi đến cửa sau của sảnh. Phía xa là một hành lang hẹp có những bậc thang gỗ dẫn xuống tầng hầm. Chúng tôi bước vào một căn phòng rộng, trần thấp với cánh cửa dẫn thẳng tới khu vực phía tây của ngôi nhà. Cánh cửa khép hờ, và có một người từ Cục Hình sự được Heath phân công đang đứng canh cái xác. Căn phòng vốn từng là tầng hầm chứa đồ; nhưng nó đã được sửa đổi và trang trí lại, và giờ được sử dụng như phòng cho câu lạc bộ. Sàn xi măng được phủ bởi thảm sợi, và một bên tường được vẽ toàn cảnh các cung thủ qua các thời kỳ. Trên tấm bảng chữ nhật bên trái là một bức ảnh lớn về bắn cung với dòng chữ “Ayme for Finsburie Archers - London 1594”, với Bloody House Ridge ở một góc, Westminster Hall ở giữa, và Welsh Hall ở cận cảnh. Có một cây đàn piano và một máy hát ở trong phòng, có rất nhiều ghế mây thoải mái, một ghế dài, một cái bàn trà lớn bằng mây để bừa bộn đủ loại tạp chí thể thao; và một tủ sách nhỏ với đầy những tác phẩm liên quan đến môn bắn cung. Một vài bia tập bắn nằm ở một góc, những đĩa vàng và những vòng tròn đồng tâm nhiều màu tạo nên những mảng màu sắc rực rỡ dưới ánh mặt trời chiếu vào từ hai cửa sổ phía sau. Mảng tường gần cánh cửa được treo rất nhiều cung với kích thước và trọng lượng đa dạng; gần chúng là một tủ lớn khá cũ kỹ đựng các dụng cụ. Ở trên là một tủ treo nhỏ, rải rác những thứ linh tinh khác nhau và những dụng cụ, như bao cổ tay, găng tay bắn tên, những cây cọc, tiêu điểm và dây cung. Một tấm bảng lớn bằng gỗ sồi giữa cửa ra vào và cửa sổ phía tây trưng bày một trong những bộ sưu tập các mũi tên thú vị và đa dạng nhất mà tôi từng thấy. Tấm bảng thu hút sự chú ý của Vance một cách đặc biệt, điều chỉnh kính một mắt cẩn thận, anh đi chầm chậm quanh nó. “Những mũi tên săn bắn và chiến đấu,” Vance nhận xét. “Vô cùng hấp dẫn… A! Một trong những vật kỷ niệm đã biến mất. Bị lấy xuống một cách vội vàng. Chiếc đinh bằng đồng treo nó đã bị bẻ cong một cách tệ hại.” Trên sàn nhà có vài ống tên chứa đầy mũi tên. Anh cúi xuống và rút từng cái một, đưa cho Markham. “Những mũi tên yếu ớt này dường như không thể đâm xuyên ngực của con người được; nhưng những mũi tên kia hoàn toàn có thể bắn xuyên qua một con hươu cách đó tám mươi yard… Và tại sao mũi tên dùng để săn bắn không có trên bảng? Một điểm thú vị đây.” Markham nhăn mặt và mím môi lại; và tôi nhận ra rằng anh ta đang cố bám lấy tia hy vọng cuối cùng rằng bi kịch này chỉ là một tai nạn. Anh ta quăng mũi tên lên ghế một cách vô vọng, và đi ra ngoài. “Hãy đi xem xét thi thể và đầu đuôi vụ án,” anh ta nói một cách cộc cằn. Khi chúng tôi ra khỏi ánh nắng ấm áp của mùa xuân thì đó cũng là lúc tôi cảm nhận được sự cô lập. Chỗ đường hẹp lát gạch mà chúng tôi đang đứng giống như hẻm núi giữa những bức tường dốc bằng đá. Nó ở dưới khoảng 4 đến 5 foot* so với mặt đường, có vài bậc thang đi lên đến cánh cổng ở bức tường. Một khoảng trống, bức tường phía sau không có cửa sổ của tòa nhà chung cư đối diện rộng đến 150 foot* ; và chính ngôi nhà của gia đình Dillard, mặc dù chỉ cao bốn tầng, đã tương đương sáu tầng lầu tiêu chuẩn trong kiến trúc ngày nay. Mặc dù chúng tôi đang đứng ở trung tâm của New York, không ai có thể trông thấy chúng tôi trừ phi nhìn từ vài cửa sổ nhà Dillard và từ một cửa sổ lồi của căn nhà trên đường số 76, có sân sau tiếp giáp với đất của nhà Dillard. Căn nhà kia, chúng tôi sớm biết được, thuộc quyền sở hữu của bà Drukker, nó đóng vai trò quan trọng và bi thảm trong việc tìm ra hung thủ giết Robin. Những cây liễu cao giống như chiếc mặt nạ cho những cánh cửa sổ đằng sau; và chỉ có cửa sổ lồi ở mặt bên của ngôi nhà là không bị cản tầm nhìn về đường hẻm mà chúng tôi đang đứng. Tôi để ý rằng Vance đang nhìn lên cửa sổ lồi này, và khi anh nghiên cứu nó tôi thấy một tia hứng thú thoáng qua trên gương mặt anh. Phải đến buổi chiều tôi mới đoán được điều gì đã thu hút sự chú ý của anh. Bãi tập bắn cung được kéo dài từ bức tường của nhà Dillard trên đường số 75 cho đến bức tường của nhà Drukker ở đường số 76, nơi mà một bia bắn làm bằng những kiện cỏ khô được dựng thẳng đứng trên nền cát cạn. Khoảng cách giữa hai bức tường là 200 foot*, như sau đó tôi được biết, để có thể tạo nên một sân tập sáu mươi yard*, như vậy cho phép luyện tập mục tiêu cho tất cả cuộc thi bắn cung tiêu chuẩn, trừ York Round* dành cho nam. Lô đất cửa nhà Dillard sâu 135 foot*, độ sâu lô đất của nhà Drukker vì thế là 65 foot*. Một phần của hàng rào sắt cao chia sân sau làm hai đã được tháo dỡ, khoảng không được sử dụng làm bãi tập bắn cung. Tại nơi xa hơn của bãi tập, về phía tây của nhà Drukker, là một tòa nhà chung cư cao khác chiếm một góc của đường 76 và đường Riverside Drive. Ở giữa hai tòa nhà khổng lồ là một đường hẻm nhỏ, bãi tập kết thúc bằng một hàng rào gỗ cao với cửa nhỏ có khóa. Vì mục đích rõ ràng là tôi đang kết hợp các ghi chép về sơ đồ toàn cảnh; sự sắp đặt các chi tiết địa hình và kiến trúc ảnh hưởng rất quan trọng đến kết cục của vụ án. Tôi chú ý vào những điểm đặc biệt sau: - đầu tiên, câu chuyện về ban công tầng hai ở phía sau nhà Dillard, hướng ra bãi tập bắn cung; thứ hai, là cửa sổ lồi (ở tầng hai) của nhà Drukker, góc phía nam của nó nhìn được toàn cảnh bãi tập bắn cung phía đường số 75; và thứ ba, đường hẻm giữa hai tòa nhà chung cư, dẫn từ đường Riverside Drive đến sân sau nhà Dillard. Thi thể của Robin nằm gần như ngay bên ngoài cửa của phòng bắn cung. Cái xác nằm ngửa, cánh tay duỗi thẳng, chân hơi co lên, đầu hướng về phía đường 76 cuối bãi tập bắn cung. Robin là một người đàn ông khoảng 35 tuổi, với chiều cao trung bình, và hơi mập mạp. Có một vết phồng trên mặt anh ta, được cạo nhẵn trụi trừ phần ria mép màu vàng hoe. Anh ta mặc bộ đồ thể thao bằng nỉ mỏng màu xám nhạt, áo sơ mi màu xanh nhạt, và giày Oxford* nâu vàng với đế cao su dày. Nón mềm bằng nỉ, màu ngọc trai nằm gần chân anh ta. Cạnh cái xác là một vũng máu lớn đã đông lại có hình dạng như một bàn tay khổng lồ. Nhưng thứ giữ tất cả chúng tôi lại với sự mê hoặc đến kinh dị này là thân mũi tên đâm dọc từ bên ngực trái của người chết. Mũi tên nhô ra khoảng 20 inch*, và nơi mà nó đâm vào cơ thể là một vết xuất huyết lớn sẫm màu. Điều kỳ lạ của vụ án này càng phi lý hơn ở chỗ là những chiếc lông vũ đẹp đẽ được gắn trên mũi tên. Chúng được nhuộm bằng màu đỏ chói; và phần thân có hai sọc màu ngọc lam - giống như mũi tên trong những buổi lễ hội. Tôi có một cảm giác không thực về bi kịch này, giống như tôi vừa chứng kiến một cảnh trong vở kịch đồng quê dành cho trẻ con. Vance đứng nhìn xuống cái xác với đôi mắt khép hờ, tay để trong túi áo. Mặc cho thái độ uể oải bên ngoài của anh, tôi có thể nói rằng anh đang trong tình trạng báo động, và trí não của anh đang bận rộn để sắp xếp lại những yếu tố trong cảnh tượng trước mắt. “Dấu vết kỳ quặc của mũi tên,” anh nhận xét. “Được thiết kế cho một trận đấu lớn;… rõ ràng là thuộc về phòng trưng bày mà chúng ta vừa thấy. Và một phát bắn chuẩn - ngay vào điểm quan trọng, ở giữa xương sườn và không sai lệch chút nào. Thật phi thường!… Này, Markham à; với tài thiện xạ này thì đây không phải là con người nữa rồi. Một phát bắn may rủi có thể thực hiện được; nhưng kẻ sát nhân này không cho phép bất kỳ sự may rủi nào. Mũi tên dùng để săn bắn đầy uy lực này rõ ràng được lấy từ tấm bảng bên trong, cho thấy được âm mưu và sự sắp xếp…” Đột nhiên anh cúi xuống cái xác. “A! Thật thú vị. Khấc tên* đã bị hỏng, - tôi nghi ngờ việc nó đã giữ căng sợi dây cung.” Anh quay qua Heath. “Hãy cho tôi biết, trung sĩ: giáo sư Dillard tìm thấy cái cung ở đâu? - Không xa cửa sổ phòng câu lạc bộ, phải không?” Heath tỏ vẻ ngạc nhiên. “Ngay bên ngoài cửa sổ, thật vậy, anh Vance à. Hiện giờ, nó đang ở trên cây đàn piano, chờ người đến lấy dấu vân tay.” “Họ sẽ chỉ tìm thấy dấu tay của giáo sư thôi, tôi e là thế.” Vance mở cặp và lấy một điếu thuốc khác. “Và tôi tin rằng mũi tên đó chẳng có dấu vân tay nào cả.” Heath nhìn Vance một cách thắc mắc. “Điều gì khiến anh nghĩ rằng cái cung được tìm thấy gần cửa sổ, anh Vance?” Anh ta hỏi. “Đó có vẻ là nơi hợp lý, theo vị trí thi thể của anh Robin, anh biết đó.” “Bắn từ cự ly gần, anh nghĩ thế sao?” Vance lắc đầu. “Không, trung sĩ à. Tôi đang đề cập đến thực tế là chân của người chết hướng về phía cánh cửa tầng hầm, và rằng, mặc dù tay anh ta duỗi thẳng, chân co lên. Đây là cái mà anh cho rằng một người bị ngã khi bị bắn xuyên qua tim sao?” Heath cân nhắc vấn đề. “Khô-ông,” anh ta thừa nhận. “Anh ta giống như ngã quỵ xuống hơn; hoặc, nếu anh ta có ngã về phía sau, chân anh ta phải thẳng và tay rút vào.” “Đúng vậy. - Và hãy để ý cái nón của anh ta. Nếu anh ta ngã về phía sau thì nó sẽ ở đằng sau chứ không phải ở dưới chân.” “Xem này, Vance,” Markham đột ngột đề nghị, “cái gì đang ở trong đầu anh vậy?” “Chà, vô số thứ. Nhưng tất cả ý kiến hoàn toàn phi lý vì quý ông quá cố này không hề bị bắn bởi cung tên.” “Vậy thì tại sao, lạy Chúa…” “Đúng thế! Tại sao hiện trường được sắp đặt tỉ mỉ này lại hoàn toàn điên rồ? Ôi trời, Markham! Việc này thật rùng rợn.” Khi Vance vừa nói xong thì cánh cửa tầng hầm mở ra, và bác sĩ Doremus, được hướng dẫn bởi thám tử Burke, vui vẻ bước vào. Ông ấy vui vẻ chào chúng tôi và vẫy tay. Sau đó ông ấy nhìn Heath bằng con mắt khó chịu. “Trời ơi, trung sĩ!” Ông ta cằn nhằn, kéo nón xuống một cách ngang tàng. “Tôi chỉ dành ba tiếng để ăn; và anh luôn chọn ba tiếng này để làm phiền tôi với cái xác chết tiệt của anh. Anh đã làm hỏng việc tiêu hóa của tôi rồi.” Ông ta nhìn về phía viên trung sĩ một cách nóng nảy, và nhìn sang Robin, huýt sáo khẽ. “Trời ơi! Một sát nhân ưa thích cái đẹp mà anh đã chọn cho tôi đây sao!” Ông ta quỳ gối xuống và bắt đầu lướt những ngón tay điêu luyện trên cái xác. Markham đứng đó nhìn một lúc, nhưng rồi anh ta quay sang Heath. “Trung sĩ, trong khi bác sĩ kiểm tra thì tôi sẽ lên lầu và trò chuyện với giáo sư Dillard.” Sau đó anh ta nói với Doremus. “Hãy gặp tôi trước khi ông rời khỏi đây, bác sĩ.” “Ồ, chắc rồi.” Doremus không ngẩng đầu lên. Ông ta lật cái xác sang một bên, và xem xét bên ngoài hộp sọ. CHƯƠNG 3 LỜI TIÊN TRI ỨNG NGHIỆM (Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 1.30 p.m.) Khi chúng tôi đến sảnh chính, đại úy Dubois và thanh tra Bellamy, các chuyên gia về dấu vân tay của trụ sở cũng vừa mới đến. Thanh tra Snitkin, người đang chờ họ, lập tức dẫn họ đến cầu thang xuống tầng hầm, còn Markham, Vance và tôi thì đi lên tầng hai. Thư viện là một căn phòng rộng và sang trọng, ít nhất cũng sâu 20 foot*, chiếm hết bề rộng của ngôi nhà. Hai bên là những tủ sách lớn âm tường được xếp thành hàng cao đến trần nhà; và ở chính giữa bức tường phía tây nhô ra chiếc lò sưởi thời Napoleon I bằng đồng khổng lồ. Bên cạnh cửa là một cái tủ tinh tế thời Jacobean*, và đối diện, gần những cửa sổ nhìn ra đường số 75, là một chiếc bàn làm việc lớn được chạm khắc, ngổn ngang giấy tờ và sách vở. Có nhiều objets - d’art* thú vị trong căn phòng; và hai bản vẽ của Dürer* nhìn xuống tấm thảm bên cạnh lò sưởi. Tất cả ghế đều rộng rãi và được bọc da màu tối. Giáo sư Dillard ngồi trước bàn làm việc, một chân gác lên chiếc ghế nệm nhỏ; và ở bên góc gần cửa sổ, ngồi thu lu trên chiếc ghế bành, là cháu gái của ông ấy, một cô gái mạnh mẽ, trang phục nghiêm chỉnh với nét mặt nổi bật của một diễn viên cổ điển. Vị giáo sư già không đứng dậy chào chúng tôi, cũng không nói lời xin lỗi cho việc đó. Ông ấy có vẻ như đang lạm dụng sự hiểu biết của chúng tôi về căn bệnh của ông ấy. Màn giới thiệu cũng qua loa cho có lệ, dù Markham đã đưa ra lời giải thích ngắn gọn về sự có mặt của Vance và tôi ở đây. “Tôi rất tiếc, Markham,” vị giáo sư nói, khi chúng tôi đã tự ngồi xuống, “rằng một thảm kịch lại trở thành nguyên nhân cho cuộc gặp gỡ này; nhưng rất vui khi được gặp anh. Tôi chắc là anh muốn thẩm vấn tôi và Belle. Vậy, cứ hỏi những gì anh thấy cần đi.” Giáo sư Bertrand Dillard là một người đàn ông khoảng hơn sáu mươi tuổi, hơi khòm lưng vì cả đời dành cho nghiên cứu ít vận động: gương mặt nhẵn nhụi, có một cái đầu rộng và ngắn đặc trưng, điểm trên đó là mái tóc dày bạc trắng chải ngược. Đôi mắt ông ấy, tuy nhỏ, nhưng mãnh liệt và sắc sảo lạ thường; những nếp nhăn quanh miệng của ông ấy giữ lại biểu cảm nhăn nhó nghiêm trọng thường là do nhiều năm tập trung vào những vấn đề nan giải. Nét mặt ông là của người nghĩ ngợi xa xôi và nhà khoa học; và như thế giới đều biết, những giấc mơ điên rồ của người đàn ông này về không gian, thời gian và chuyển động đã được hiện thực hóa thành một nền tảng mới của giả thiết khoa học. Thậm chí bây giờ gương mặt của ông ấy vẫn phản chiếu lại sự trừu tượng nội tâm, cứ như cái chết của Robin chẳng khác gì một sự xâm phạm đến câu chuyện nội tâm của ông ấy. Markham lưỡng lự một lúc trước khi đáp lại. Sau đó anh ta nói với vẻ tôn trọng: “Có lẽ, thưa ông, ông cứ kể cho tôi những gì ông biết về thảm kịch này. Rồi tôi sẽ đặt ra những câu hỏi cần thiết.” Giáo sư Dillard với lấy chiếc tẩu bằng đá bọt cũ nằm trên cái bàn bên cạnh. Khi ông ấy nhét thuốc và châm lửa xong, ông chỉnh lại ghế ngồi cho thoải mái hơn. “Tôi đã kể cho anh nghe hầu như toàn bộ những gì tôi biết qua điện thoại rồi. Robin và Sperling đến đây vào khoảng 10 giờ sáng hôm nay để gặp Belle. Nhưng con bé đã đến sân chơi quần vợt, nên họ đợi ở phòng khách tầng dưới. Tôi nghe thấy họ nói chuyện với nhau ở đó gần nửa tiếng trước khi họ đến phòng câu lạc bộ dưới tầng hầm. Tôi ở lại đây đọc sách có lẽ được một tiếng, rồi sau đó, vì thấy ánh nắng có vẻ dễ chịu nên tôi quyết định ra ban công sau nhà. Tôi ở đó khoảng 5 phút, tôi nghĩ thế, lúc tôi vô tình nhìn xuống bãi tập bẳn cung; thì tôi cảm thấy kinh hoàng khi nhìn thấy Robin nằm ngửa mặt lên trời với phần thân của mũi tên nhô ra khỏi ngực anh ta. Tôi di chuyển xuống nhanh hết mức mà bệnh gout của tôi cho phép, nhưng ngay lúc đó tôi biết là chàng trai tội nghiệp ấy đã chết rồi; nên tôi lập tức gọi điện thoại cho anh. Lúc đó trong nhà không có ai ngoài lão Pyne - người quản gia - và tôi. Đầu bếp đã ra ngoài đi chợ; Arnesson đến trường đại học vào lúc 9 giờ sáng; và Belle vẫn còn ở sân quần vợt. Tôi bảo Pyne đi tìm Sperling, nhưng không thấy anh ta ở đâu cả; tôi quay lại thư viện để đợi anh đến. Khi người của anh đến thì Belle cũng vừa mới về, một lát sau đầu bếp cũng về đến. Arnesson sẽ về nhà sau 2 giờ chiều.” “Không có người nào khác ở đây sáng nay - không có người lạ hay khách khứa sao?” Vị giáo sư lắc đầu. “Có mỗi Drukker, - tôi nghĩ là anh có gặp anh ta ở đây một lần. Anh ta sống trong ngôi nhà đằng sau chúng tôi. Anh ta cũng thường ghé qua, tuy nhiên - chủ yếu là để gặp Arnesson: bọn họ có nhiều điểm chung. Anh ta có viết một quyển sách là ‘Đường vũ trụ trong thể liên tục đa chiều.’ Con người này cũng là một thiên tài theo cách của anh ta; có một bộ óc khoa học thật sự… Nhưng khi anh ta biết Arnesson đã ra ngoài, anh ta ngồi lại thảo luận với tôi một lát về chuyến thám hiểm Brazil của Hội thiên văn học Hoàng gia. Sau đó anh ta về nhà.” “Lúc đó là mấy giờ?” “Khoảng 9 giờ rưỡi. Lúc Robin và Sperling đến Drukker đã đi rồi.” “Có gì bất thường không, giáo sư Dillard,” Vance hỏi, “về việc anh Arnesson rời khỏi nhà vào sáng thứ Bảy?” Vị giáo sư già bất ngờ nhìn lên, và có một chút lưỡng lự trước khi ông ấy trả lời. “Cũng không hẳn bất thường; tuy nhiên nó thường ở nhà vào ngày thứ Bảy. Nhưng sáng nay nó có việc nghiên cứu quan trọng cần làm cho tôi ở thư viện khoa… Arnesson,” ông ấy nói thêm, “đang làm việc với tôi để cho ra một quyến sách sắp tới.”* Mọi người im lặng trong chốc lát; sau đó Markham lên tiếng. “Sáng nay ông có nói cả Robin và Sperling đều muốn cầu hôn cô Dillard…” “Kìa bác!” Cô gái ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế của mình và đưa ánh mắt giận dỗi, trách móc nhìn vị giáo sư già. “Không phải vậy đâu.” “Nhưng đó là sự thật cháu ạ.” Giọng nói của ông ấy trở nên trìu mến rõ ràng. “Thì đúng là thế - theo một cách nào đó,” cô ấy thừa nhận. “Nhưng không cần thiết phải nhắc đến điều đó. Bác biết đấy, cháu xem trọng họ, cũng như họ đối với cháu. Bọn cháu là bạn tốt của nhau - chỉ vậy thôi. Mới tối hôm qua, khi họ ở đây cùng nhau, cháu đã nói với họ - khá rõ ràng - rằng cháu sẽ không nghe bất cứ lời cầu hôn ngớ ngẩn nào từ miệng của họ nữa. Họ chỉ là bạn của cháu thôi… và giờ đây một trong hai người họ đã mất rồi… Tội nghiệp Chim Cổ Đỏ!” Cô ấy cố gắng đè nén cảm xúc. Vance nhướng mày lên và nghiêng mình về phía trước. “‘Chim Cổ Đỏ’?” “À, tất cả chúng tôi đều gọi anh ấy như vậy. Chúng tôi làm vậy là để chọc ghẹo anh ấy, bởi vì anh ấy không thích biệt danh đó.” “Cái biệt danh quen thuộc,” Vance nhận xét một cách đồng tình. “Và biệt danh đó cũng khá hay, phải không nào. Chú Chim Cổ Đỏ trong nguyên bản được ‘mọi loài chim bay lượn’ yêu mến, và tất cả chúng đều thương tiếc cho cái chết của chú.” Anh vừa nói vừa nhìn cô gái một cách chăm chú. “Tôi biết chứ,” cô ấy gật đầu. “ Tôi có kể cho anh ấy nghe điều đó một lần. Và mọi người cũng quý mến Joseph nữa. Anh không thể nào không quý mến anh ấy. Anh ấy rất… rất tốt bụng và tử tế.” Vance ngồi lại vào ghế của mình; và Markham tiếp tục việc điều tra. “Thưa giáo sư, ông có nói rằng ông đã nghe Robin và Sperling nói chuyện trong phòng khách. Ông có nghe được điều gì trong cuộc đối thoại của họ không?” Ông lão nhìn lướt sang cô cháu gái. “Câu hỏi đó có quan trọng không, Markham?” Ông ấy hỏi, sau một lúc lưỡng lự. “Có thể rất cần thiết, liên quan đến vụ án” “Có lẽ vậy.” Giáo sư trầm tư hút tẩu thuốc. “Mặt khác, nếu tôi trả lời thì tôi có thể gây ra ấn tượng sai lệch và gây ra sự bất công nghiêm trọng với người sống.” “Ông không thể tin tưởng tôi trong việc phán xét điều đó sao?” Giọng của Markham ngay lập tức trở nên nghiêm trọng và nài nỉ. Không gian lại chìm vào im lặng, nhưng bị cô gái phá vỡ. “Sao bác không nói cho anh Markham những gì đã nghe được? Nó có hại gì đâu?” “Bác chỉ nghĩ cho cháu thôi, Belle,” giáo sư nhẹ nhàng trả lời. “Nhưng có lẽ cháu nói đúng.” Ông ấy miễn cưỡng nhìn lên. “Markham, sự thật là Robin và Sperling đã cãi nhau về Belle. Tôi chỉ nghe thấy vài câu, nhưng tôi đoán rằng người này nghĩ người kia cạnh tranh không công bằng - giở trò ngáng đường nhau…” “Ôi! Họ không có ý đó đâu,” cô Dillard kịch liệt ngắt lời. “Họ lúc nào cũng chơi khăm nhau. Đúng là giữa họ có sự ganh tị; nhưng tôi không phải là nguyên nhân thật sự gây ra điều đó. Là thành tích bắn cung của họ mới đúng. Anh thấy đó, Raymond - anh Sperling - đã từng là một xạ thủ cừ hơn; nhưng đến năm ngoái Joseph đã đánh bại anh ấy ở vài buổi thi đấu, và vào giải đấu hàng năm mới đây của chúng tôi Joseph trở thành cung thủ vô địch của câu lạc bộ.” “Và có lẽ Sperling nghĩ rằng,” Markham thêm vào, “sự đánh giá của cô dành cho anh ta đã thấp xuống.” “Thật nực cười!” Cô gái vặn lại một cách nóng nảy. “Cháu à, bác nghĩ chúng ta có thể tin tưởng giao lại vấn đề này cho Markham xử lý,” giáo sư Dillard xoa dịu. Rồi nói với Markham: “Anh còn muốn hỏi gì nữa không?” “Tôi muốn biết tất cả những gì ông có thể nói cho tôi về Robin và Sperling - họ là ai; các mối quan hệ của họ; và ông quen biết họ đã bao lâu rồi.” “Tôi nghĩ Belle có thể giải thích rõ ràng hơn tôi. Cả hai chàng trai quen thân với con bé. Tôi chỉ thỉnh thoảng gặp gỡ họ thôi.” Markham quay sang nhìn cô gái mong đợi. “Tôi quen biết họ nhiều năm rồi,” cô ấy trả lời ngay. “Joseph lớn hơn Raymond tám hoặc mười tuổi và sống ở Anh cho đến tận 5 năm trước, khi cha và mẹ của anh ấy đều qua đời. Anh ấy đến nước Mỹ và sống tại căn hộ riêng trên đường Drive. Anh ấy có một số tiền lớn và sống thảnh thơi, chú tâm vào sở thích câu cá, săn bắn và những hoạt động ngoài trời khác. Anh ấy có một vài mối giao thiệp và là một người bạn vui vẻ, thoải mái luôn luôn đến góp mặt vào các bữa tối hoặc làm tay chơi bài bridge* thứ tư. Không có điểm gì thật sự nổi trội ở anh ấy cả - về mặt học thuật, anh biết đấy…” Cô ấy ngừng lại, như thể lời nhận xét của cô ấy không phải với người chết theo cách nào đó, và Markham, nhận ra cảm xúc của cô, chỉ hỏi đơn giản: “Còn Sperling?” “Anh ấy là con trai của một nhà sản xuất giàu có - hiện giờ đã về hưu. Họ sống ở Scarsdale trong một tòa dinh thự xinh đẹp, - câu lạc bộ bắn cung của chúng tôi có một bãi tập bắn thường xuyên ở đó, - và Raymond là kỹ sư tư vấn cho một vài công ty ở trung tâm thành phố; nhưng tôi nghĩ anh ấy đi làm chỉ là để làm cha mình hài lòng, vì một tuần anh ấy chỉ đến văn phòng hai hoặc ba ngày thôi. Anh ấy tốt nghiệp trường Đại học Kỹ thuật Boston, và tôi gặp anh ấy lần đầu khi anh ấy đang là sinh viên năm hai, về nhà trong kỳ nghỉ hè. Raymond sẽ không bao giờ gây ra chuyện động trời đâu, anh Markham; anh ấy đúng là tuýp thanh niên Mỹ trẻ tuổi tốt bụng - chân thành, vui nhộn, hơi nhút nhát và hoàn toàn thẳng thắn.” Rất dễ dàng hình dung ra cả Robin và Sperling từ lời miêu tả ngắn gọn của cô gái; và cũng khó khăn như thế trong việc liên kết họ với thảm kịch xấu xa đã đưa chúng tôi đến với ngôi nhà này. Markham ngồi nhíu mày suy nghĩ một lúc lâu. Cuối cùng anh ta ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào cô gái. “Cô Dillard, hãy nói tôi nghe thử: cô có giả thuyết hoặc lời giải thích nào có thể, theo mọi mặt, lý giải cho cái chết của anh Robin không?” “Không!” Một từ đơn giản bật ra khỏi miệng cô ấy. “Ai lại có thể muốn giết Chim Cổ Đỏ chứ? Anh ấy làm gì có kẻ thù. Toàn bộ chuyện này không thể tin được. Tôi không thể tin nó đã xảy ra cho đến khi tự tôi đến và… và tận mắt nhìn thấy. Thậm chí chuyện đó cũng không có vẻ là thật nữa.” “Tuy nhiên, cháu à,” giáo sư Dillard lên tiếng, “anh ta đã bị giết; cho nên phải có một chuyện gì đó trong đời anh ta mà cháu không biết hoặc không ngờ đến. Con người liên tục tìm ra được những ngôi sao mới mà các nhà thiên văn học thời xa xưa còn không tin là có tồn tại kia mà.” “Cháu không thể tin là Joseph có kẻ thù,” cô ấy đáp. “Cháu sẽ không tin đâu. Điều đó hoàn toàn vô lý.” “Cô nghĩ rằng,” Markham hỏi, “không chắc Sperling là người đã gây ra cái chết của Robin ư?” “Không chắc ư?” Ánh mắt của cô gái lóe lên. “Không thể nào mới đúng!” “Ấy vậy mà, cô biết đấy, cô Dillard,” - Vance nói bằng một giọng bình thường - “Sperling có nghĩa là ‘chim sẻ’.” Cô gái ngồi im bất động. Gương mặt cô chuyển sang tái nhợt và hai bàn tay siết chặt tay vịn ghế. Rồi từ từ, và như thể vô vùng khó khăn, cô ấy gật đầu, và ngực cô bắt đầu phập phồng cùng với nhịp thở gấp. Bỗng nhiên cô rùng mình và áp khăn tay lên mặt. “Tôi sợ lắm!” Cô thì thầm. Vance đứng dậy và đi đến chỗ cô ấy, chạm vào vai cô một cách an ủi. “Tại sao cô lại sợ?” Cô ấy ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt anh. Chúng có vẻ như đang trấn an cô, và cô nở một nụ cười gượng ép đáng thương. “Mới ngày hôm kia thôi,” cô ấy nói, bằng giọng căng thẳng, “tất cả chúng tôi đều ở bãi tập bắn cung dưới nhà; và Raymond vừa đang chuẩn bị bắn một lượt American Round*, thì Joseph mở cửa tầng hầm và đi ra bãi tập. Không có gì nguy hiểm cả, nhưng Sigurd - anh Arnesson, mọi người biết đó - đang ngồi trên ban công nhỏ sau nhà xem chúng tôi; và khi tôi kêu ‘Hi! Hi!’ chọc Joseph, Sigurd nhoài người ra và nói: ‘Anh không biết anh đang mạo hiểm như thế nào đâu, chàng trai ạ. Anh là một con Chim Cổ Đỏ và tay cung thủ kia là một con chim sẻ; và anh có nhớ chuyện gì đã xảy ra với con chim có cùng tên với anh khi một anh Chim Sẻ dùng cung và tên’ - hoặc đại loại như vậy. Lúc đó không ai để ý nhiều đến chuyện ấy. Nhưng giờ!…” Giọng cô ấy bỏ lửng thành tiếng lẩm bẩm sợ hãi. “Thôi nào, Belle; đừng như vậy.” Giáo sư Dillard an ủi, nhưng không phải là không khó chịu. “Đó chỉ đơn thuần là một trong những câu nói đùa không đúng lúc của Sigurd mà thôi. Cháu biết nó luôn luôn nhạo báng và giễu cợt sự thật mà: đó chỉ là cách giải tỏa sự chuyên tâm liên tục vào những thứ trừu tượng của nó.” “Cháu cũng nghĩ vậy,” cô gái trả lời. “Dĩ nhiên, đó chỉ là nói đùa thôi. Nhưng bây giờ nó có vẻ giống như lời tiên tri khủng khiếp. - Chỉ là,” cô nhanh chóng bổ sung, “Raymond không thể gây ra chuyện này.” Vừa lúc cô nói xong thì cánh cửa thư viện đột nhiên mở ra và một thân hình cao và hốc hác xuất hiện tại ngưỡng cửa. “Sigurd!” Tiếng kêu giật mình của Belle Dillard chứa đựng một sự khuây khỏa không thể chối cãi. Sigurd Arnesson, người được giáo sư Dillard bảo trợ và nhận làm con nuôi, là một người đàn ông có vẻ ngoài nổi bật - cao hơn 6 foot*, tóc dày và thẳng, với cái đầu, mới nhìn vào, có vẻ quá khổ so với thân hình. Mái tóc gần như màu vàng của anh ta bù xù, như của một cậu học sinh; anh có mũi khoằm; hàm thì gầy và khỏe. Dù anh ta chưa ở độ tuổi trên bốn mươi, nhưng trên mặt anh ta lại có nhiều nếp nhăn. Biểu cảm của anh ta nhăn nhó một cách mỉa mai; nhưng niềm say mê tri thức dữ dội thắp sáng đôi mắt xanh xám của anh ta đối chọi lại với bất cứ sự nông cạn nào của tạo hóa. Phản ứng ban đầu của tôi về nhân cách của anh ta là vừa thích vừa tôn trọng. Một người đàn ông có chiều sâu - những tiềm năng mạnh mẽ và những khả năng to lớn. Lúc anh ta tiến vào căn phòng chiều hôm đó, ánh mắt tìm kiếm của anh ta ghi nhận tất cả chúng tôi bằng một cái liếc nhanh và dò hỏi. Anh ta gật đầu nhát gừng với cô Dillard và rồi nhìn thẳng vị giáo sư già bằng dáng vẻ thích thú. “Làm ơn, chuyện gì đã xảy ra trong ngôi nhà ba chiều này vậy? Xe và người ở bên ngoài: một tên hộ vệ đứng ở cửa… và khi tôi cuối cùng cũng vượt qua được Cerberus* và được ông Pyne cho vào, hai người đàn ông mặc thường phục đẩy tôi đến đây mà không có chút lễ độ hoặc lời giải thích nào. Rất thú vị nhưng hỗn loạn… A! Có vẻ như tôi nhận ra ngài công tố viên đây. Chào buổi sáng - hay đúng hơn là, buổi chiều - anh Markham.” Trước khi Markham kịp đáp lại lời chào muộn màng này thì Belle Dillard đã lên tiếng. “Sigurd, làm ơn nghiêm túc đi. - Anh Robin đã bị giết rồi.” “Ý cô là ‘Chim Cổ Đỏ’. Chà, chà! Với cái tên như vậy thì anh chàng này còn trông đợi gì nữa?” Anh ta có vẻ hoàn toàn thản nhiên trước tin này. “Ai, hoặc cái gì, đã đưa anh ta trở về với cát bụi vậy?” “Về phần ai đã làm thì chúng tôi không biết.” Chính Markham là người trả lời, với giọng điệu trách móc sự không nghiêm túc của người kia. “Nhưng anh Robin đã bị giết bằng một mũi tên xuyên tim.” “Quá phù hợp.” Arnesson ngồi xuống tay vịn của một chiếc ghế và duỗi thẳng cặp chân dài ra. “Còn gì thích hợp hơn việc Chim Cổ Đỏ phải chết dưới mũi tên bắn ra từ cây cung của…” “Sigurd!” Belle Dillard cắt ngang lời anh ta. “Chẳng lẽ anh đùa chưa đủ về chuyện đó sao? Anh biết rõ rằng Raymond không làm điều đó.” “Dĩ nhiên rồi, em gái.” Người đàn ông nhìn sang cô một cách bâng khuâng. “Tôi vừa nghĩ đến vị tổ tiên nghiên cứu về loài chim của anh Rọbin.” Anh ta chầm chậm quay sang Markham. “Vậy đây là một vụ giết người bí ẩn thật rồi, có phải là - có một xác chết, những manh mối và tất cả là những cái bẫy? Tôi có thể nghe câu chuyện được chứ?” Markham kể sơ qua cho anh ta về tình hình, và anh ta lắng nghe với sự quan tâm chăm chú. Khi sự việc được kể xong, anh ta hỏi: “Không một cây cung nào được tìm thấy ở bãi tập à? “A!” Vance, lần đầu tiên kể từ lúc người đàn ông bước vào, thoát khỏi tình trạng thờ ơ của bản thân, và trả lời thay cho Markham. “Một câu hỏi thích hợp nhất đấy anh Arnesson. - Phải, một cây cung được tìm thấy ngay bên ngoài cửa sổ tầng hầm, cách cái xác chỉ 10 foot*.” “Điều đó đương nhiên đơn giản hóa được vấn đề,” Arnesson nói, có hơi thất vọng. “Bây giờ chỉ còn là chuyện lấy dấu vân tay thôi.” “Đáng tiếc là cây cung đã bị chạm qua,” Markham giải thích. “Giáo sư Dillard đã nhặt nó lên và đem vào trong nhà.” Arnesson tò mò quay sang ông lão. “Thưa thầy, động lực nào khiến thầy làm điều đó?” “Động lực thúc đẩy ư? Sigurd yêu quý à, ta không giải thích được cảm xúc của mình. Nhưng lúc đó ta chỉ biết rằng cây cung là một vật chứng quan trọng, và ta đã đặt nó dưới tầng hầm để giữ nó chờ cảnh sát đến.” Arnesson làm vẻ mặt nhăn nhó và nhướng một bên mắt lên một cách hài hước. “Nghe có vẻ giống như những người bạn phân tâm học của chúng ta gọi là một lời giải thích được che đậy. Con tự hỏi rằng thầy đang nghĩ gì trong đầu…” Có tiếng gõ cửa, và Burke ló đầu vào. “Bác sĩ Doremus đang đợi anh ở dưới lầu, thưa sếp. Ông ta đã kiểm tra xong rồi.” Markham đứng dậy và xin phép ra ngoài. “Ngay bây giờ tôi không làm phiền mọi người thêm nữa. Có một vài việc thủ tục cần phải làm. Nhưng tôi đề nghị mọi người tạm thời ở yên trên lầu. Tôi sẽ gặp lại mọi người trước khi tôi đi.” Doremus đang sốt ruột đung đưa trên những ngón chân của mình khi chúng tôi đến gặp ông ta trong phòng khách. “Không có gì phức tạp về ca này cả,” ông ta lên tiếng trước cả khi Markham kịp nói điều gì. “Anh bạn yêu thích thể thao của chúng ta bị giết bởi một mũi tên cực kỳ sắc nhọn đâm thẳng vào tim, xuyên qua khe giữa xương sườn thứ tư. Lực đâm rất mạnh. Bên ngoài lẫn bên trong đều bị xuất huyết nhiều. Anh ta chết được khoảng hai tiếng đồng hồ, tôi cho là vậy, có nghĩa là thời gian tử vong vào khoảng 11 giờ rưỡi. Tuy nhiên đấy mới chỉ là phỏng đoán thôi. Không có dấu hiệu nào của sự chống trả - không có dấu vết nào trên quần áo hoặc vết trầy trên hai bàn tay của anh ta; Cái chết xảy đến bất thình lình mà anh ta không hề hay biết gì hết. Nhưng đầu anh ta bị u lên vì bị đập vào sàn xi măng gồ ghề khi ngã…” “Cái này thú vị lắm đây.” Giọng kéo dài của Vance làm gián đoạn phần báo cáo nửa chừng của vị giám định pháp y. “Đụng mạnh đến cỡ nào vậy bác sĩ?” Doremus chớp mắt và nhìn Vance với sự ngạc nhiên. “Mạnh đến mức làm nứt cả hộp sọ. Tất nhiên tôi không thể cảm nhận được; nhưng có một điểm tụ máu lớn ở vùng chẩm, máu khô nằm trong mũi và hai tai, độ mở đồng tử không bằng nhau, cho thấy hộp sọ bị nứt. Tôi sẽ biết rõ hơn sau khi mổ khám nghiệm tử thi.” Ông ta quay sang vị công tố viên. “Còn gì nữa không?” “Tôi nghĩ là hết rồi, bác sĩ. Chỉ là hãy đưa cho chúng tôi bản báo cáo khám nghiệm tử thi càng sớm càng tốt.” “Tối nay tôi sẽ đưa. Trung sĩ đã gọi xe rồi.” Bắt tay với tất cả chúng tôi xong, ông ta vội vã ra về. Heath bực bội đứng ở phía sau. “Điều đó chẳng giúp ích được gì cho chúng ta cả, thưa anh,” anh ta phàn nàn, nhai điếu xì gà một cách hằn học. “Đừng nản lòng, trung sĩ,” Vance quở trách. “Cú va đập sau đầu cũng đáng giá cho sự quan tâm sâu sắc nhất của anh đấy. Theo quan điểm của tôi nó không hoàn toàn do việc té ngã đâu.” Viên trung sĩ không hề bị ấn tượng bởi nhận xét này. “Hơn nữa, anh Markham à,” anh ta tiếp tục, “không hề có bất cứ dấu vân tay nào trên cây cung hoặc mũi tên cả. Dubois nói chúng trông cứ như đã bị lau chùi sạch sẽ. Cỏ một vài vết ở cuối cây cung, chỗ quý ông cao tuổi nhặt nó lên; nhưng không có dấu vân tay nào khác.” Markham hút thuốc một lúc lâu trong sự im lặng ảm đạm. “Thế còn tay cầm trên cánh cổng dẫn ra ngoài đường thì sao? Và cả trên tay nắm cửa đường hẻm giữa những tòa nhà chung cư nữa?” “Không có gì hết!” Heath khịt mũi tỏ vẻ chán nản. “Cả hai đều bằng sắt xù xì bị hoen gỉ không dính được dấu vân tay.” “Này, Markham à,” Vance nhận xét, “anh điều tra sai hướng rồi. Theo lẽ tự nhiên phải không có dấu vân tay mới đúng. Thật ra, anh biết đấy, một người không thế cẩn thận dàn dựng ra một vở kịch để rồi sau đó bỏ hết tất cả đạo cụ sân khấu lên trước mặt cho khán giả xem. Điều chúng ta cần phải tìm hiểu chính là tại sao ông bầu đặc biệt này lại quyết định theo đuổi những buổi diễn vớ vẩn như vậy.” “Không dễ như anh nói đâu, anh Vance,” Heath cay đắng cam chịu. “Tôi có nói là dễ sao? Không đâu, trung sĩ; nó cực kỳ khó khăn. Và nó còn tệ hơn cả khó khăn nữa: nó xảo quyệt, mờ mịt và… tàn ác.” CHƯƠNG 4 THÔNG ĐIỆP BÍ ẨN (Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 2 p.m.) Markham ngồi xuống trước bàn trà. “Cứ tin như thế đi, trung sĩ, bây giờ chúng ta kiểm tra hai người hầu.” Heath bước vào sảnh và lệnh cho người của anh ta đi. Vài phút sau, một người đàn ông cao và ủ rũ bước vào trong tư thế kính cẩn. “Đây là người quản gia, thưa anh”, viên trung sĩ giải thích. “Tên ông ấy là Pyne.” Markham chú ý đến vẻ ngoài của người đàn ông này. Ông ta có lẽ khoảng sáu mươi. Nét mặt của ông ta rõ ràng là bị bệnh to cực* ; và sự biến dạng này ảnh hưởng tới toàn bộ hình thể của ông ta. Hai bàn tay to, và những ngón chân thì thô kệch và dị dạng. Quần áo của ông ta, mặc dù thẳng thớm nhưng lại không hợp với ông ta cho lắm; và chiếc cổ áo của ông ta thì lại quá khổ. Đôi mắt ông ta có màu xám đậm, hàng lông mày dày, trông nhợt nhạt và bạc thếch, và miệng của ông ta chỉ là một khe hở trong cả gương mặt bị phù đầy ốm yếu. Mặc dù vẻ ngoài khiếm khuyết, tuy nhiên, ông ta tạo ấn tượng là một người có khả năng sắc sảo. “Vậy ông là quản gia của nhà Dillard,” Markham mơ màng. “Ông đã ở với gia đình này được bao lâu rồi, ông Pyne?” “Trên mười năm, thưa anh.” “Ông đã đến làm ở đây sau khi giáo sư Dillard xin thôi việc ở trường đại học?” “Tôi nghĩ là thế, thưa anh.” Giọng của ông ta trầm và ồm ồm. “Ông có biết gì về thảm kịch đã xảy ra vào sáng nay không?” Mặc dù Markham bất ngờ đặt câu hỏi, với hy vọng, theo tôi nghĩ, có nhiều thú nhận gây bất ngờ, nhưng Pyne đón nhận nó vô cùng thản nhiên. “Không có bất cứ điều gì, thưa anh. Tôi không biết bất cứ điều gì đã xảy ra cho đến khi giáo sư Dillard gọi tôi từ thư viện và yêu cầu tôi tìm anh Sperling.” “Sau đó ông ấy có nói với ông về thảm kịch đó?” “Ông ấy nói: ‘Robin đã bị giết rồi, và tôi muốn ông tìm Sperling cho tôi.’ - Đó là tất cả, thưa anh.” “Ông có chắc là ông ấy đã nói ‘bị giết’ chứ, ông Pyne?” Vance xen vào. Lúc đầu thì ông quản gia do dự, và một sự sắc sảo len lỏi trong ánh mắt của ông ta. “Có, thưa anh. Tôi chắc chắn ông ấy đã nói thế. ‘Bị giết’ là những gì ông ấy đã nói.” “Và ông đã thấy xác của anh Robin khi ông tìm kiếm?” Vance truy vấn, mắt anh vẫn đang lần theo thiết kế trên bức tường. Lại một khoảnh khắc do dự. “Vâng, thưa anh. Tôi mở cửa tầng hầm để tìm kiếm trong bãi tập bắn cung, và ở đó tôi thấy quý ông trẻ tuổi tội nghiệp…” “Một cú sốc lớn cho ông nhỉ, Pyne,” Vance lạnh nhạt quan sát. “Có phải ông, tình cờ thôi, đã chạm vào cái xác của quý ông trẻ tuổi tội nghiệp đó? - Hoặc vào mũi tên, có lẽ thế? - Hoặc cây cung?” Đôi mắt bạc thếch của Pyne sáng lên trong một khoảnh khắc. “Không… dĩ nhiên là không, thưa anh… Tại sao tôi lại làm thế, thưa anh?” “Tại sao ư?” Vance thở dài chán nản. “Nhưng ông thấy mũi tên chứ?” Người đàn ông nheo mắt lại, như để hình dung một cái gì đó. “Tôi không thể nói, thưa anh. Có lẽ có; có lẽ không. Tôi không nhớ.” Vance dường như đã mất hết hứng thú; và Markham tiếp tục thẩm vấn. “Tôi biết, ông Pyne, là anh Drukker đã ghé qua đây vào sáng nay lúc 9 giờ rưỡi. Ông có thấy anh ta không?” “Có, thưa anh. Anh ta luôn dùng cửa tầng hầm; và anh ta đã chào tôi khi anh ta đi qua phòng để thức ăn ở đầu cầu thang.” “Anh ta ra về như cách anh ta đến chứ?” “Tôi cho là như thế, thưa anh… mặc dù tôi ở trên lầu khi anh ta đi khỏi. Anh ta sống trong ngôi nhà ở phía sau… ” “Tôi biết.” Markham ngả người về phía trước. “Tôi đoán là ông đã gặp Robin và Sperling vào sáng nay.” “Vâng, thưa anh. Khoảng 10 giờ.” “Ông có thấy họ lần nữa, hoặc nghe được bất kỳ bình luận nào của họ khi họ ngồi chờ ở phòng khách không?” “Không, thưa anh. Phần lớn buổi sáng tôi bận trong phòng anh Arnesson.” “À!” Vance đưa mắt nhìn người đàn ông. “Nó ở cuối tầng hai, đúng chứ? - Căn phòng có ban công?” “Đúng, thưa anh.” “Thú vị thật… Và đó là ban công mà giáo sư Dillard lần đầu nhìn thấy thi thể của anh Robin. - Làm thế nào mà ông ấy vào phòng mà ông không biết chứ? Ông đã nói, tôi nghĩ, rằng lần đầu tiên ông biết về thảm kịch này là khi giáo sư gọi ông từ thư viện và bảo ông đi tìm anh Sperling.” Gương mặt của ông quản gia bỗng trắng bệch, và tôi để ý thấy những ngón tay của ông ta co lại một cách lo lắng. “Tôi có lẽ đã rời khỏi phòng anh Arnesson trong chốc lát,” ông ta nỗ lực giải thích. “Vâng… rất có thể là như thế. Thật vậy, thưa anh, tôi nhớ tôi đến phòng để đồ vải…” “Ồ, chắc là vậy.” Vance thờ ơ. Markham hút thuốc một lát, ánh mắt anh ta tập trung vào mặt bàn. “Còn có ai ghé nhà sáng nay không, ông Pyne?” Anh ta hỏi ngay sau đó. “Không ai cả, thưa anh.” “Và ông có đưa ra giả thuyết gì giải thích cho những việc đã xảy ra ở đây không?” Người đàn ông lắc đầu một cách nặng nề, đôi mắt ngấn nước nhìn xa xăm. “Không, thưa anh. Anh Robin dường như là một người đàn ông trẻ tuổi vui tính, dễ mến. Anh ta không phải loại người mà người khác muốn giết… Nếu ông hiểu những gì tôi nói.” Vance dò xét. “Tôi không thể nói rằng tôi, với tư cách cá nhân, hiểu chính xác những gì ông nói, Pyne. Làm thế nào mà ông biết đó không phải là một tai nạn?” “Tôi không biết, thưa anh,” ông ta bình thản trả lời. “Nhưng tôi biết một chút về bắn cung - nếu anh không phiền để tôi nói về nó - và tôi nhận ra ngay là anh Robin đã bị giết bằng một mũi tên dùng để đi săn.” “Ông rất tinh ý, Pyne,” Vance gật đầu. “Và khá chính xác.” Rõ ràng là không có thông tin gì từ ông quản gia cả, và Markham cho ông ấy rời khỏi ngay, đồng thời lệnh cho Heath đưa người đầu bếp đến. Khi cô ta bước vào tôi nhận ra ngay sự tương đồng giữa người cha và cô con gái. Một người phụ nữ nhếch nhác khoảng bốn mươi tuổi, cũng cao và gầy nhom, với khuôn mặt thon nhỏ và tay chân to lớn. Rõ ràng là hội chứng cường chức năng tuyến yên đã di truyền trong gia đình ông Pyne. Một vài câu hỏi thông tin sơ bộ cho thấy cô ta là một goá phụ, tên là Beedle, chồng cô ta chết 5 năm trước, và cô ta được ông Pyne giới thiệu với giáo sư Dillard. “Cô rời khỏi nhà vào lúc mấy giờ sáng nay, Beedle?” Markham hỏi cô ta. “Ngay sau 10 giờ rưỡi.” Cô ta có vẻ khó chịu và cảnh giác, và giọng nói thì như đang tự vệ. “Và mấy giờ cô trở về nhà?” “Khoảng 12 giờ rưỡi. Người đàn ông đó cho tôi vào” - cô ta nhìn Heath một cách ác cảm - “và đối xử với tôi giống như tôi là tội phạm vậy.” Heath cười nhăn nhở. “Thời gian thì chính xác, anh Markham. Cô ta chỉ tức tối vì tôi không cho cô ta đi xuống lầu.” Markham gật đầu không ý kiến. “Cô có biết bất cứ điều gì đã xảy ra ở đây vào sáng nay không?” Anh ta tiếp tục đặt câu hỏi, vẫn quan sát người phụ nữ này một cách tỉ mỉ. “Làm sao tôi biết được? Tôi đã ở chợ Jefferson.” “Cô có thấy anh Robin hay anh Sperling không?” “Họ đã xuống lầu tới phòng bắn cung qua khỏi nhà bếp một chút trước khi tôi ra ngoài.” “Cô có nghe lỏm được họ đã nói gì không?” “Tôi không nghe lén họ.” Markham nghiến răng một cách giận dữ và chuẩn bị đáp trả thì Vance nói chuyện với người phụ nữ này một cách khéo léo. “Ngài công tố viên đây nghĩ rằng có lẽ là do cửa đã để mở, và cô có thể đã nghe được cuộc trò chuyện của họ mặc dù cô không cố tình muốn nghe.” “Cửa có thể đã để mở, nhưng tôi không nghe được bất kỳ điều gì cả,” cô ta trả lời. “Vậy cô không thể cho chúng tôi biết nếu có bất kỳ ai khác nữa trong phòng bắn cung rồi.” Beedle nheo mắt lại và nhìn Vance đầy toan tính. “Có lẽ còn có ai khác nữa,” cô ta nói một cách chậm chạp. “Thật ra, tôi nghĩ tôi nghe có tiếng anh Drukker.” Giọng nói của cô ta pha lẫn sự cay độc, và nụ cười mỉa thoáng qua đôi môi mỏng của cô ta. “Anh ta ở đây để gặp anh Arnesson vào lúc sáng.” “Ồ, là anh ta, lúc đó?” Vance có vẻ ngạc nhiên với tin này. “Có lẽ cô đã thấy anh ta?”. “Tôi đã thấy anh ta vào nhà, nhưng tôi lại không thấy anh ta ra ngoài… dù sao thì, tôi không để ý lắm. Anh ta lẻn ra vào nhà bất cứ lúc nào có thể.” “Lẻn ư? Lạ thật!… Nhân tiện, cô đi ra chợ bằng cửa nào? “Cửa trước. Kể từ khi cô Belle làm phòng cho câu lạc bộ ở tầng hầm, tôi luôn sử dụng cửa trước.” “Vậy cô không vào phòng bắn cung sáng nay?” “Không.” Vance ngồi xuống ghế. “Cám ơn sự giúp đỡ của cô, Beedle. Hiện giờ, chúng tôi không còn gì để hỏi cô nữa. Khi người phụ nữ đi khỏi, Vance đứng lên đi tới cửa sổ. “Chúng ta quá để tâm vào những chi tiết không liên quan, Markham à,” anh nói. “Chúng ta sẽ không thể tìm ra được thông tin gì từ những người hầu ranh mãnh này và từ việc hỏi cung các thành viên trong gia đình. Có một bức tường tâm lý cần phải được dỡ bỏ trước khi chúng ta công kích chiến hào của kẻ địch. Mọi người trong gia đình có những riêng tư sợ lộ ra ngoài. Mỗi người trong bọn họ cho đến nay đã nói chuyện với chúng ta ít nhiều về những gì họ biết. Nản thật, nhưng đúng là thế. Không điều gì chúng ta biết được khớp với bất kỳ cái gì khác; và khi các sự kiện theo thời gian không ăn khớp với nhau, anh có thể chắc rằng các răng của các đầu mối đã bị bóp méo một cách cố tình. Tôi không tìm thấy một sự liên kết hợp lý nào trong toàn bộ câu chuyện mà chúng ta được nghe.” “Nhiều khả năng là các đầu mối bị giấu đi,” Markham lập luận; “và chúng ta sẽ không tìm ra chúng nếu chúng ta không tiếp tục hỏi cung họ.” “Anh quá tự tin rồi đấy.” Vance bước lại phía bàn trà. “Càng hỏi nhiều thì chúng ta càng đi xa điều chúng ta muốn hướng tới. Ngay cả giáo sư Dillard cũng không cung cấp cho chúng ta thông tin hoàn toàn trung thực. Ông ấy còn giữ lại một cái gì đó - điều mà ông ấy sẽ không nói. Tại sao ông ấy lại mang cây cung vào trong nhà? Arnesson đã thấy được điểm mấu chốt khi anh ta hỏi câu hỏi tương tự. Anh chàng khôn ngoan, Arnesson. - Kế đến là cô gái trẻ năng động của chúng ta. Cô ấy bị vướng vào một mớ lộn xộn, và đang nỗ lực để giải thoát chính mình và mọi người mà không làm tổn thương bất kỳ ai. Một mục đích đáng khen ngợi, nhưng không có lợi cho sự thật. - Ông Pyne cũng có ý như thế. Mặt nạ ủy mị của ông ta đã che khuất nhiều ý nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết được đầu óc ông ta đang nghĩ gì bằng cách hỏi cung ông ta. Có những điều rất kỳ quặc, như về công việc buổi sáng của ông ta. Ông ta nói mình đã ở trong phòng của Arnesson cả buổi sáng; nhưng rõ ràng là ông ta không biết giáo sư đang phơi nắng ngoài ban công ở phòng của Arnesson. Và cái cớ về tủ đựng đồ vải - quá không hợp lý. - Hơn nữa, Markham à, hãy thả tâm trí của anh theo lời khai của goá phụ Beedle. Cô ta không thích anh Drukker quá thoải mái này; và khi cô ta nhìn thấy một khả năng khiến anh ta dính líu tới vụ án, cô ta đã làm thế. Cô ta ‘nghĩ’ mình đã nghe giọng nói của anh ta ở phòng bắn cung. Nhưng có đúng như thế không? Ai biết được? Thật ra, có lẽ anh ta đã gặp phải điều khó chịu trên đường về nhà vì gặp Robin và Sperling sau đó… Đúng thế, đó là điều chúng ta phải điều tra. Thực ra, một cuộc trò chuyện lịch sự với anh Drukker chắc chắn biết được…” Có tiếng bước chân đi xuống cầu thang phía trước, và Arnesson xuất hiện ở lối đi của phòng khách. “Vậy, ai đã giết Chim Cổ Đỏ?” Anh ta hỏi, với một nụ cười nhăn nhở. Markham đứng dậy, bực mình, phản đối sự xâm phạm này; nhưng Arnesson giơ tay lên. “Một chút thôi, làm ơn đi. Tôi ở đây là muốn giúp đỡ với thành ý của mình cho mục đích tốt đẹp vì công lý, công lý của thế gian, tôi muốn các anh hiểu điều đó. Theo triết học, dĩ nhiên, chẳng có thứ gọi là công lý. Nếu công lý có thật thì tất cả chúng ta chỉ như những viên đá cuội trong lúp lều vũ trụ khổng lồ.” Anh ta ngồi xuống đối diện với Markham và cười giễu cợt. “Thật ra là, sự ra đi buồn bã và vội vàng của anh Robin thu hút được bản chất khoa học trong tôi. Nó tạo ra một vấn đề thú vị, có trật tự. Nó rõ ràng phảng phất hương vị của toán học - không có giới hạn không phân phối, anh hiểu mà; các hệ số đã biết với những ẩn số cần xác định. - À, tôi là thiên tài trong việc giải quyết nó đấy.” “Lời giải của anh là gì, Arnesson?” Markham biết và tôn trọng trí thông minh của người đàn ông này, và dường như đồng thời cảm nhận được mục đích nghiêm túc ẩn bên dưới thái độ giễu cợt khiếm nhã của anh ta. “À! Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa giải được phương trình này.” Arnesson lấy ra một cái tẩu thuốc cũ và sờ nó một cách nhẹ nhàng. “Nhưng tôi luôn muốn làm một công việc điều tra nho nhỏ trong một chừng mực có thể - sự hiếu kỳ thái quá và tính tò mò tự nhiên của các nhà vật lý, anh biết đấy. Và từ lâu tôi đã có một giả thuyết rằng khoa học về toán có thể được ứng dụng vào những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống của chúng ta trên hành tinh không mấy quan trọng này. Không có gì là không có quy luật trong vũ trụ này - trừ phi Eddington* nói đúng và không có quy luật nào cả - và tôi thấy không đủ lý do để cá tính và thái độ của tội phạm không thể được xác định như cách Le Verrier* tính toán khối lượng và lịch thiên văn của sao Hải Vương từ việc quan sát độ lệch trong quỹ đạo của sao Thiên Vương. Anh hãy nhớ cách, sau khi tính toán, ông ấy đã nói với Galle*, nhà thiên văn học Berlin, để tìm một hành tinh theo một kinh độ xác định trong hoàng đạo.” Arnesson dừng lại và nhồi thuốc vào tẩu. “Bây giờ, anh Markham à,” anh ta tiếp tục; và tôi cố gắng xem xét có đúng là người đàn ông này đang nghiêm túc, “tôi muốn nhân cơ hội này áp dụng vào mớ hỗn độn lố bịch này phương pháp trung bình cộng thuần túy được dùng bởi Le Verrier trong việc khám phá sao Hải Vương. Nhưng tôi phải có dữ liệu về sự xáo trộn trong quỹ đạo của sao Thiên Vương, có thể nói - đó là, tôi phải biết tất cả các thông số trong phương trình. Tiện thể tôi đến đây để hỏi xem các anh có tin tưởng tôi và cho tôi biết tất cả sự việc. Một kiểu hợp tác trí tuệ. Tôi sẽ tính bài toán này giúp anh theo hướng khoa học. Sẽ là một trò cừ khôi; và tình cờ tôi muốn chứng minh giả thuyết của mình rằng toán học là nền tảng cho mọi sự thật dù có xa khỏi sự trừu tượng trong sách vở.” Cuối cùng anh ta lấy tẩu thuốc và thả mình lên ghế. “Thỏa thuận như vậy chứ?” “Tôi bằng lòng nói tất cả những gì mà chúng tôi biết, Arnesson,” Markham trả lời sau một khoảng im lặng ngắn ngủi. “Nhưng tôi không thể hứa sẽ tiết lộ mọi thứ có thể phát sinh từ bây giờ trở đi. Nó có thể đi ngược lại với công lý và cản trở cuộc điều tra.” Vance đang ngồi với đôi mắt khép hờ, dường như chán ngán với lời yêu cầu lạ lùng của Arnesson; nhưng ngay lúc này anh quay sang Markham với sự hăng hái đáng kể. “Theo tôi, anh biết đấy; không có lý do gì mà chúng ta không cho Arnesson một cơ hội để phiên dịch tội ác này sang ngôn ngữ của toán học ứng dụng. Tôi chắc rằng anh ta sẽ thận trọng và chỉ sử dụng thông tin của chúng ta cho mục đích khoa học. Và - không một ai biết được, đúng không nào? - có thể chúng ta cần đến sự giúp đỡ chuyên gia của anh ta trước khi xong vụ này.” Markham hiểu Vance khá tỉnh táo để nhận ra rằng lời đề nghị của anh không hề thiếu suy nghĩ; và tôi không chút ngạc nhiên khi anh ta nhìn thẳng Arnesson và nói: “Được thôi. Chúng tôi sẽ đưa cho anh dữ liệu mà anh cần để thực hành công thức toán học của mình. Có điều gì đặc biệt anh muốn biết ngay bây giờ không?” “Ồ, không. Đến giờ tôi cũng đã biết những chi tiết giống như anh nói; và tôi sẽ ép Beedle và lão Pyne cộng tác khi các anh đi khỏi. Nhưng nếu tôi giải quyết vấn đề này và chỉ ra đúng kẻ phạm tội, đừng bỏ lơ sự phát hiện của tôi như Sir George Airy* đã làm với Adams* tội nghiệp khi Adams gởi những tính toán của mình về sao Hải Vương trước cả những công bố của Le Verrier…” Ngay lúc này cửa trước mở ra, và viên cảnh sát mặc đồng phục canh ở hành lang đi vào với một người lạ mặt. “Quý ông đây nói muốn gặp giáo sư,” anh ta thông báo với vẻ nghi ngờ; và quay lại người đàn ông, anh ta ra dấu về phía Markham bằng đầu. “Đó là công tố viên quận. Hãy trình bày với ông ấy vấn đề của ông.” Người mới đến có vẻ ngại ngùng. Ông ta mảnh khảnh, ăn mặc bảnh bao với một khí chất tao nhã. Về tuổi, tôi dự đoán, khoảng năm mươi, mặc dù ông ta có khuôn mặt trẻ hơn thế. Tóc của ông ta mỏng và hoa râm, mũi cao, cằm nhỏ nhưng không hề yếu ớt. Đôi mắt, nổi bật hơn nhờ vầng trán cao, là điểm thu hút của ông ta. Chúng là đôi mắt của thất vọng và bị vỡ mộng - nửa buồn phiền, nửa phẫn uất, giống như cuộc đời này đã lừa dối ông ta và để lại cho ông ta sự bất hạnh và cay đắng. Ông ta định nói với Markham thì bắt gặp ánh mắt của Arnesson. “Ồ, chào anh, Arnesson,” ông ta nói, sau một chút im lặng, với giọng hạ thấp. “Tôi mong rằng không có gì quá nghiêm trọng.” “Chỉ là một cái chết đơn thuần thôi, Pardee”, người đàn ông trả lời một cách lơ đãng. “Tục ngữ có câu ‘chuyện bé xé ra to’.” Markham thấy khó chịu khi bị xen ngang. “Tôi có thể giúp gì cho ông?” Anh ta hỏi. “Tôi mong rằng tôi đã không làm phiền.” người đàn ông xin lỗi. “Tôi là một người bạn của gia đình này, - tôi sống ở bên kia đường; và tôi thấy có gì đó bất thường đã xảy ra ở đây. Tôi có thể làm gì đó để giúp mọi người.” Arnesson cười khoái trá. “Pardee thân mến! Tại sao ngụy trang sự tò mò bẩm sinh của ông trong lễ phục hoa mỹ như vậy?” Pardee đỏ mặt. “Tôi bảo đảm với anh, Arnesson…” ông ta bắt đầu; nhưng Vance ngắt lời. “Ông Pardee, ông nói rằng mình sống ở đối diện. Có phải ông đã quan sát ngôi nhà này trong cả buổi sáng? “Hầu như không phải vậy, thưa anh. Tuy nhiên, tôi làm việc và hướng xuống đường số 75, và đúng thực là tôi ngồi ở cửa sổ gần cả buổi sáng. Nhưng tôi lại bận viết lách. Khi tôi trở lại làm việc sau bữa trưa thì tôi chú ý đến đám đông và nhiều xe cảnh sát cũng như những cảnh sát mặc đồng phục đứng trước cửa.” Vance nhìn vào khóe mắt ông ta. “Vậy ông có tình cờ nhìn thấy ai ra vào ngôi nhà này sáng nay không, ông Pardee?” Anh hỏi. Người đàn ông chậm rãi lắc đâu. “Không ai đặc biệt. Tôi để ý thấy hai chàng trai trẻ - những người bạn của cô Dillard - ghé thăm lúc 10 giờ; và tôi thấy Beedle ra ngoài với giỏ đi chợ. Nhưng đó là tất cả những gì tôi nhớ được.” “Ông có nhìn thấy ai trong số họ rời khỏi không?” “Tôi không nhớ.” Pardee cau mày. “Và dường như có một người trong số họ ra về bằng cổng ở bãi tập. Nhưng chỉ có cảm giác vậy thôi.” “Lúc đó là mấy giờ?” “Thực sự thì tôi cũng không chắc nữa. Có thế là một tiếng hoặc hơn kể từ khi anh ta đến. Tôi không thể nhớ cụ thể hơn.” “Ông nhớ rằng không có ai khác ra vào ngôi nhà này sáng nay sao?” “Tôi thấy cô Dillard quay về từ sân quần vợt khoảng 12 giờ rưỡi, lúc tôi mới gọi bữa trưa. Thực ra, cô ta đã vẫy cái vợt với tôi.” “Và không ai khác nữa?” “Tôi e là như vậy.” Có một sự tiếc nuối rõ ràng trong câu trả lời của ông ta. “Một trong những người thanh niên mà ông nhìn thấy đi vào đây đã bị sát hại,” Vance nói với ông ta. “Anh Robin - biệt danh Chim Cổ Đỏ,” Arnesson bổ sung, với cái nhăn mặt hài hước khiến tôi khó chịu. “Trời ơi! Thật là đáng buồn!” Pardee thực sự bị sốc. “Robin? Không phải anh ta là nhà vô địch bắn cung trong câu lạc bộ của Belle chứ?” “Thành tích của anh ta sẽ được ghi nhớ. - Đó là một người bạn.” “Tội nghiệp Belle!” Có gì đó trong tính cách của người đàn ông này khiến Vance để ý. “Tôi mong rằng cô ấy sẽ không suy sụp trước bi kịch này.” “Cô ấy bi kịch hóa nó, cũng tự nhiên thôi,” Arnesson quay lại. “Cảnh sát cũng vậy, đối với chuyện đó. Nghiêm trọng hóa vấn đề lên. Trái đất này được bao phủ bởi ‘carbohydrate hỗn tạp nhỏ bay lơ lửng’ - giống như Robin trong toàn thể loài người vậy.” Pardee cười với sự cảm thông buồn bã, - ông ta rõ ràng đã quá quen thuộc với những lời giễu cợt của Arnesson. Sau đó ông ta khẩn khoản hỏi Markham. “Tôi có được phép gặp cô Dillard và bác của cô ấỳ không?” “Tất nhiên là được rồi.” Vance đã trả lời trước khi Markham có thể đưa ra quyết định. “Ông sẽ tìm được họ ở thư viện, ông Pardee.” Người đàn ông rời khỏi phòng với tiếng thì thầm cảm ơn lịch sự. “Một người bạn lạ lùng,” Arnesson nhận xét, khi mà Pardee không còn nghe thấy nữa. “Không phải lo chuyện tiền bạc. Sống một cuộc đời nhàn hạ. Niềm đam mê duy nhất của ông ta là tìm ra lời giải trong các ván cờ vua…” “Cờ vua?” Vance ngước lên với vẻ hào hứng. “Liệu có phải ông ta là John Pardee, người phát minh ra thế cờ Pardee nổi tiếng?” “Đúng là thế.” Mặt Arnesson nhăn lại một cách khôi hài. “Tốn hai mươi năm để phát triển một thế tấn công mà nó chỉ là một phần nhỏ trong trò chơi. Viết một cuốn sách về nó. Sau đó đi truyền bá nó như tham gia một cuộc thập tự chính trước cổng Damascus*. Ông ta luôn là người bảo trợ lớn cho các giải cờ vua, góp mặt trong các giải đấu, và chạy hối hả vòng quanh thế giới để tham dự các giải đấu cờ vua khác nhau. Làm như vậy ông ta có thể thử thế cờ mới của mình. Nó đã khuấy động ở câu lạc bộ cờ vua Manhattan. Sau đó Pardee tội nghiệp đã tổ chức hàng loạt những trận đấu đỉnh cao. Tự trả tất cả các chi phí đắt đỏ. Nó tốn nhiều tiền bạc của ông ta. Và dĩ nhiên ông ta quy định rằng thế cờ Pardee được chơi độc quyền. Chà, chà, nó khá là buồn. Khi những người như tiến sĩ Lasker*, Capablanca*, Rubinstein* và Finn* tham gia để đánh bại nó, khiến nó đổ vỡ. Hầu như những người chơi sử dụng thế cờ đó đều thua. Nó bị loại bỏ - còn tệ hơn thế cờ Rice* xấu số. Đòn nặng nề cho Pardee. Điều này làm ông ta mất đi nhuệ khí. Khiến ông ta trở nên già nua. Ông ta trở nên tuyệt vọng.” “Tôi biết về lịch sử thế cờ này,” Vance lẩm bẩm, mắt anh trầm tư nhìn lên trần nhà. “Tôi đã từng chơi. Edward Lasker* đã dạy cho tôi…” Một cảnh sát mặc đồng phục lại xuất hiện ở cổng lối đi và vẫy tay ra hiệu với Heath. Viên trung sĩ đứng dậy với vẻ nhanh nhẹn - sự rẽ hướng sang cờ vua rõ ràng đã làm anh ta cảm thấy nhàm chán - và bước vào sảnh. Một lúc sau khi quay lại anh ta mang theo một tờ giấy nhỏ. “Có một chuyện hài hước, thưa anh,” anh ta nói, đưa nó cho Markham. “Mới đây, viên cảnh sát bên ngoài tình cờ thấy nó ló ra khỏi hộp thư, và có lẽ anh ta đã nhìn qua nó. Anh sẽ làm gì với nó, thưa anh?” Markham xem xét nó với vẻ sửng sốt khó hiểu, không nói một lời nào và đưa nó cho Vance. Tôi đứng dậy và nhìn qua vai anh. Tờ giấy có kích thước thông thường dùng cho máy đánh chữ, và được xếp cho vừa với hộp thư. Nó gồm vài dòng được đánh bằng máy đánh chữ với những kỷ tự kiểu élite* và ruy băng màu lam nhạt. Hàng đầu tiên viết: Joseph Cochrane Robin đã chết. Dòng thứ hai hỏi:. Ai giết Chim Cổ Đỏ? Bên dưới đánh máy: Sperling có nghĩa là chim sẻ. Và ở góc dưới bên phải - chỗ chữ ký - là hai từ, được viết hoa: GIÁM MỤC. CHƯƠNG 5 TIẾNG THÉT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ (Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 2.30 p.m.) Vance, sau khi nhìn sơ qua bức thông điệp kỳ lạ với chữ ký thậm chí còn kỳ lạ hơn, đưa tay lấy chiếc kính một mắt bằng sự đắn đo chậm chạp mà tôi biết đó là biểu hiện cho nỗi hứng thú đang bị đè nén. Điều chỉnh kính xong anh chăm chú săm soi mảnh giấy. Sau đó đưa nó cho Arnesson. “Đây là hệ số đáng giá cho phương trình của anh.” Đôi mắt anh giễu cợt nhìn người đàn ông. Arnesson nhìn chằm chằm vào bức thông điệp, và đặt nó lên bàn với vẻ mặt nhăn nhó. “Tôi tin là giới tăng lữ không liên quan đến vấn đề này. Họ nổi tiếng là phi khoa học. Không thể tấn công họ bằng toán học được. ‘Giám Mục’…,” anh ta ngẫm nghĩ. “Tôi không quen biết với bất kỳ vị nào trong giới tăng lữ cả. - Tôi nghĩ tôi sẽ loại bỏ câu khó hiểu này khi tính toán.” “Nếu anh làm vậy, anh Arnesson,” Vance nghiêm túc đáp lại, “phương trình của anh, tôi e rằng, sẽ vỡ ra thành từng mảnh. Bức thư bí ẩn kia đối với tôi lại khá ý nghĩa. Quả thực - nếu anh không ngại nghe ý kiến không chuyên - tôi tin nó chính là thứ mang tính toán học nhất từng xuất hiện cho đến tận bây giờ trong vụ án. Nó giải phóng tình hình ra khỏi tất cả sự may rủi hoặc ngẫu nhiên. Đó chính là g, có thể nói thế - hằng số hấp dẫn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ phương trình của chúng ta.” Heath đứng nhìn mảnh giấy đánh máy với vẻ cực kỳ phẫn nộ. “Tên quái gở nào đó đã viết cái này, anh Vance à,” anh ta tuyên bố. “Rõ ràng là một tên quái gở rồi, trung sĩ,” Vance đồng ý. “Nhưng đừng bỏ qua sự thật rằng tên quái gở đặc biệt này chắc hẳn biết nhiều chi tiết thú vị và riêng tư - cụ thể như, rằng tên đệm của anh Robin là Cochrane; rằng anh chàng bị giết bằng cung tên; và rằng anh Sperling cũng ở gần đó lúc Robin chết. Hơn nữa, tên quái gở biết nhiều thông tin này hẳn phải biết nhiều về án mạng này; bởi vì bức thông điệp rõ ràng được đánh máy và đặt vào hộp thư trước khi anh và người của mình đến hiện trường.” “Trừ phi,” Heath kiên quyết phản đối, “hắn là một trong số những kẻ đẫu đường xó chợ, biết được chuyện đã xảy ra và nhét mảnh giấy này vào thùng thư khi cảnh sát không chú ý.” “Sau khi chạy một mạch về nhà và cẩn thận đánh máy thông báo của hắn à?” Vance lắc đầu với nụ cười rầu rĩ. “Không đâu, trung sĩ à, tôi e là giả thuyết của anh không hợp lý.” “Vậy thì nó có ý nghĩa quỷ quái gì chứ?” Heath hung hăng gặn hỏi. “Tôi không biết.” Vance ngáp và đứng dậy. “Đi thôi, Markham, cùng đi nói chuyện một lát với anh Drukker mà Beedle ghét đi.” “Drukker!” Arnesson thốt lên, với sự ngạc nhiên đáng kể. “Anh ta có liên quan gì?” “Anh Drukker,” Markham giải thích, “đã đến đây sáng nay để gặp anh; và có khả năng anh ta đã gặp Robin và Sperling trước khi anh ta trở về nhà.” Anh ta lưỡng lự. “Anh có muốn đi cùng chúng tôi không?” “Không, cám ơn.” Arnesson gõ tàn thuốc trong tẩu và đứng lên. “Tôi còn một núi bài nộp trong lớp phải xem qua. - Tuy nhiên, có lẽ nên để Belle đi cùng. Quý bà Mae hơi dị thường một chút…” “Quý bà Mae?” “Tôi nhầm. Quên mất là các anh không biết bà ấy. Tất cả chúng tôi đều gọi bà ấy là quý bà Mae. Tên gọi lịch sự thôi. Làm vui lòng linh hồn già cỗi tội nghiệp ấy. Tôi đang nói đến mẹ của Drukker. Tính cách kỳ quặc.” Anh ta liên tục vỗ trán mình. “Dễ xúc động. À, hoàn toàn vô hại. Vẫn còn minh mẫn lắm, nhưng mù quáng, như vốn dĩ. Nghĩ rằng Drukker là quan trọng nhất trên đời. Bảo bọc anh ta cứ như anh ta còn là một đứa bé sơ sinh. Tình cảnh đau buồn… Đúng, các anh nên dẫn Belle theo thì tốt hơn. Quý bà Mae thích Belle lắm.” “Một lời đề xuất hay đấy, anh Arnesson,” Vance nói. “Anh sẽ đề nghị cô Dillard vui lòng đi cùng chúng tôi chứ?” “Ồ, tất nhiên rồi.” Arnesson nở một nụ cười tạm biệt đầy hàm ý - nụ cười có vẻ như vừa trịch thượng vừa châm biếm - và đi lên lầu. Một lúc sau cô Dillard đến gặp chúng tôi. “Sigurd nói với tôi là các anh muốn gặp Adolph. Anh ta dĩ nhiên sẽ không phiền; nhưng quý bà Mae tội nghiệp rất dễ xúc động ngay cả những việc cỏn con nhất…” “Chúng tôi sẽ không làm bà ấy xúc động đâu, tôi hy vọng vậy.” Vance nói trấn an. “Nhưng anh Drukker đã ở đây sáng nay, cô thấy đó; và người đầu bếp nói cô ta nghĩ mình nghe thấy anh ta nói chuyện với anh Robin và anh Sperling ở phòng bắn cung. Anh ta có thể sẽ giúp được chúng tôi.” “Tôi chắc là anh ta sẽ giúp nếu có thể,” cô gái trả lời với sự nhấn mạnh. “Nhưng xin hãy cẩn thận với quý bà Mae, được không?” Có dấu hiệu của sự nài nỉ và che chở trong giọng nói của cô ấy, và Vance chú ý đến cô ấy một cách hiếu kỳ. “Hãy kể cho chúng tôi điều gì đó về bà Drukker - hay quý bà Mae - trước khi chúng ta đến thăm bà ấy đi. Tại sao chúng tôi lại nên cẩn thận?” “Bà ấy có một cuộc đời bi thảm lắm,” cô gái giải thích. “Bà ấy từng là một ca sĩ xuất sắc – à, không phải là nghệ sĩ hạng hai đâu, mà là một giọng ca nữ chính trong các vở opera với sự nghiệp kỳ diệu trải ra trước mắt*. Bà kết hôn với một nhà phê bình hàng đầu của Vienna - Otto Drucker* - và bốn năm sau Adolph ra đời. Sau đó vào một ngày ở công viên giải trí Wiener Prater, khi đứa bé được hai tuổi, bà đã đánh rơi đứa bé; và từ đó về sau cuộc đời của bà hoàn toàn thay đổi. Xương sống của Adolph bị thương, và cậu bé trở thành người tàn tật. Quý bà Mae rất đau khổ. Bà ấy tự trách bản thân đã gây ra chấn thương của con trai, và từ bỏ sự nghiệp để dốc tâm chăm sóc cho cậu bé. Khi chồng bà mất một năm sau đó, bà mang Adolph đến Mỹ, nơi bà đã từng sống vào thời con gái, và mua ngôi nhà hiện giờ bà đang sống. Suốt cuộc đời của bà xoay quanh Adolph, anh ta lớn lên thành một người lưng gù. Bà đã hy sinh tất cả cho anh ta, và chăm sóc cho anh ta cứ như anh ta là một đứa bé…” Một chút gợn lướt qua gương mặt cô ấy. “Đôi khi tôi nghĩ - tất cả chúng tôi đều nghĩ - rằng bà ấy vẫn nghĩ anh ta chỉ là một đứa trẻ. Bà ấy đã trở nên - à, bệnh hoạn về điều đó. Nhưng đấy là bệnh tật ngọt ngào, khủng khiếp của một tình mẫu tử vĩ đại - một loại điên rồ trìu mến, bác tôi đã gọi nó như vậy. Trong vài tháng qua bà ấy càng lúc càng rất kỳ lạ - và dị thường. Tôi hay bắt gặp bà ấy ngâm nga những bài hát ru tiếng Đức xưa và những bài hát mẫu giáo, với hai tay khoanh trước ngực, cứ như - ôi, nó trông linh thiêng và khủng khiếp lắm! - cứ như bà ấy đang ẵm một đứa bé vậy… Và bà ấy trở nên vô cùng lo lắng cho Adolph. Bà ấy hận tất cả những người đàn ông khác. Mới tuần trước thôi, tôi có dẫn anh Sperling đến gặp bà ấy - chúng tôi thường ghé qua để thăm bà ẩy: bà ấy có vẻ rất cô đơn và bất hạnh - bà nhìn anh ấy chằm chằm và nói: ‘Sao anh cũng không phải là một người tàn tật vậy?’…” Cô gái dừng lại và tìm kiếm phản ứng trên gương mặt chúng tôi. “Giờ các anh đã hiểu tại sao tôi nhờ các anh phải cẩn thận chưa?… Quý bà Mae có thể sẽ nghĩ chúng ta đến để làm hại Adolph.” “Chúng tôi không cần thiết gây thêm khổ sở cho bà ấy đâu,” Vance bảo đảm với cô ấy bằng sự đồng cảm. Sau đó, khi chúng tôi di chuyển đến sảnh, anh hỏi cô ấy một câu khiến tôi nhớ ra việc xem xét nhiệt tình của anh về ngôi nhà của gia đình Drukker vào trưa nay. “Phòng của bà Drukker ở đâu?” Cô gái ném cho anh cái nhìn ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng trả lời: “Ở phía tây của ngôi nhà - cửa sổ lồi của căn phòng nhìn ra bãi tập bắn cung.” “À!” Vance lấy hộp thuốc lá của mình ra, và cẩn thận chọn một điếu Régie. “Bà ấy có ngồi bên cửa sổ này nhiều không?” “Nhiều lắm. Quý bà Mae luôn xem chúng tôi tập bắn cung - tại sao thì tôi không biết. Tôi chắc là nhìn thấy chúng tôi khiến bà đau lòng, bởi vì Adolph không đủ khỏe mạnh để bắn cung. Anh ấy đã thử vài lần, nhưng thấy mệt nên anh ấy đành phải từ bỏ.” “Bà ấy có thể xem mọi người luyện tập chỉ với một lý do là để nó hành hạ bà ấy - một kiểu tự trừng phạt, cô biết đó. Những tình cảnh đó rất đáng buồn.” Vance nói gần như với sự trìu mến - điều đó, với những người không biết rõ bản chất thật của anh, nghe hơi là lạ. “Có lẽ,” anh nói thêm, khi chúng tôi tiến vào bãi tập bắn cung thông qua cánh cửa tầng hầm, “tốt nhất là đầu tiên chúng ta gặp bà Drukker một lát. Điều đó sẽ có khuynh hướng làm giảm bớt bất cứ mối lo sự nào mà cuộc viếng thăm của chúng ta có thể gây ra cho bà ấy. Chúng ta có thể đến phòng của bà ấy mà không để anh Drukker biết không?” “Ồ, được chứ.” Cô gái hài lòng về ý tưởng này. “Chúng ta có thể đi vào bằng lối cửa sau. Phòng làm việc của Adolph, nơi anh ta viết lách, nằm ở mặt trước của ngôi nhà.” Chúng tôi thấy bà Drukker đang ngồi bên cửa sổ lồi trên một chiếc ghế dài kiểu xưa, dựa lên gối. Cô Dillard chào hỏi bà ấy một cách kính yêu và cúi xuống với sự quan tâm dịu dàng, hôn lên trán bà ấy. “Có chuyện khá tồi tệ đã xảy ra tại nhà của chúng cháu vào sáng nay, quý bà Mae ạ,” cô ấy nói; “và những quý ông đây muốn gặp bà. Cháu tình nguyện đưa họ đến đây. Bà không phiền chứ?” Gương mặt tái nhợt, bi thảm của bà Drukker quay ra cửa khi chúng tôi bước vào, nhưng giờ đây bà ấy nhìn chằm chằm chúng tôi với sự kinh hãi. Bà ấy là một người phụ nữ cao ráo, mảnh khảnh đến mức tiều tụy; và hai bàn tay của bà, đang để uốn cong hờ trên tay vịn của chiếc ghế, nổi gân và nhăn nheo như móng vuốt của người chim trong thần thoại. Gương mặt bà ấy, cũng gầy guộc và đầy vết hằn sâu; nhưng đó không phải là một gương mặt kém thu hút. Đôi mắt trong suốt và sống động, mũi thẳng và cao. Dù bà ấy chắc hẳn đã ngoài sáu mươi nhưng mái tóc thì vẫn còn dày và nâu. Suốt vài phút bà ấy không hề động đậy hay nói năng gì cả. Rồi hai bàn tay của bà từ từ nắm lại và đôi môi hé mở. “Các người muốn gì?” Bà ấy hỏi bằng giọng oang oang. “Bà Drukker,” - chính Vance là người trả lời - “như cô Dillard đã nói với bà, một thảm kịch đã xảy ra ở nhà bên vào sáng nay, và vì cửa sổ của bà là cái duy nhất nhìn thấy được bãi tập bắn cung, chúng tôi nghĩ có thể bà đã nhìn thấy gì đó sẽ giúp được chúng tôi trong việc điều tra của mình.” Sự cảnh giác của người phụ nữ giảm đi rõ rệt, nhưng một lúc lâu sau bà ấy mới lên tiếng. “Và chuyện gì đã xảy ra?” “Một anh tên Robin đã bị giết. - Có lẽ bà biết anh ta?” “Anh chàng bắn cung - cung thủ vô địch của Belle ư?… Đúng, tôi biết cậu ta. Một chàng trai khỏe mạnh có thể kéo căng dây cung mà không thấy mệt. - Ai đã giết cậu ta?” “Chúng tôi không biết.” Vance, mặc dù có vẻ lơ đãng, vẫn quan sát bà ấy một cách tinh tế. “Nhưng bởi vì anh ta bị giết ở bãi tập, trong tầm nhìn từ cửa sổ phòng bà, chúng tôi hy vọng bà có thể giúp được chúng tôi.” Mí mắt của bà Drukker chùng xuống một cách mưu mẹo, và bà ấy siết chặt hai bàn tay của mình theo kiểu cố ý hài lòng. “Các người chắc chắn rằng cậu ta bị giết ở bãi tập ư?” “Chúng tôi phát hiện ra anh ta ở bãi tập,” Vance trả lời nước đôi. “Tôi hiểu… Nhưng tôi có thể làm gì để giúp các người đây?” Bà ấy ngả lưng thư giãn. “Bà có để ý đến người nào ở bãi tập sáng nay không?” Vance hỏi. “Không!” Sự phủ nhận vừa nhanh vừa nhấn mạnh. “Tôi không thấy ai hết. Cả ngày hôm nay tôi không nhìn ra bãi tập.” Vance bắt gặp cái nhìn chằm chằm của người phụ nữ, và thở dài. “Đáng tiếc thật,” anh lẩm bẩm. “Nếu sáng nay bà có nhìn ra ngoài cửa sổ thì hoàn toàn có khả năng bà đã thấy thảm kịch rồi… Anh Robin bị giết bằng cung tên, và dường như không có động cơ nào cho hành động này cả.” “Anh biết cậu ta bị giết bằng cung tên ư?” Bà ấy hỏi, chút khí sắc nổi lên trên đôi má tái nhợt của bà. “Đó là báo cáo của bên giám định pháp y. Có một mũi tên đâm xuyên tim anh ta khi chúng tôi tìm thấy anh ta.” “Tất nhiên. Điều đó có vẻ hoàn toàn tự nhiên, phải không?… Một mũi tên xuyên qua tim Robin!” Bà ấy nói với thái độ mơ hồ, ánh mắt chứa đựng vẻ xa xăm, như bị thôi miên. Một sự im lặng căng thẳng, và Vance đi đến cửa sổ. “Bà có phiền nếu tôi nhìn ra ngoài không?” Bằng sự khó nhọc, người phụ nữ kéo bản thân mình trở lại từ suy tư xa vời nào đó. “Ồ, không đâu. Tuy nhiên, nó không nhìn được cảnh gì nhiều. Tôi có thế thấy hàng cây của đường số 76 về hướng bắc, và một phần sân nhà Dillard theo hướng nam. Nhưng bức tường gạch phía đối diện thật đáng chán. Trước khi tòa nhà chung cư này được xây lên thì tôi nhìn được cảnh đẹp của dòng sông.” Vance nhìn xuống bãi tập bắn cung một lúc. “Phải,” anh quan sát; “giá như bà ngồi ở cửa sổ vào sáng nay thì có lẽ bà đã thấy chuyện gì xảy ra rồi. Góc nhìn của bà xuống bãi tập và cửa tầng hầm nhà Dillard rất rõ ràng… Đáng tiêc quá.” Anh liếc nhìn đồng hồ của mình. “Con trai của bà có ở nhà không, bà Drukker?” “Con trai tôi! Đứa con yêu dấu của tôi! Các người muốn gì ở nó hả?” Giọng nói của bà ấy lên cao một cách đáng thương, và đôi mắt bà siết chặt lấy Vance với sự hận thù độc địa. “Không có gì quan trọng đâu,” anh nói trấn an. “Chỉ là, anh ta có thể đã nhìn thấy người nào đó ở bãi tập…” “Nó không nhìn thấy ai hết! Nó không thể thấy người nào được, bởi vì nó không có ở đây. Sáng sớm hôm nay nó đã đi ra ngoài và giờ vẫn chưa về.” Vance nhìn người phụ nữ với sự thươmg hại. “Anh ta ra ngoài cả buổi sáng? - Bà có biết anh ta ở đâu không?” “Tôi luôn luôn biết nó ở đâu.” Bà Drukker tự hào trả lời. “Chuyện gì nó cũng nói cho tôi biết.” “Và anh ta có nói cho bà biết sáng nay anh ta đi đâu chứ?” Vance nhẹ nhàng truy hỏi. “Tất nhiên. Nhưng giờ tôi quên mất rồi. Để tôi nghĩ xem…” Những ngón tay thon dài của bà ấy gõ trên tay vịn của chiếc ghế, và cặp mắt của bà liếc ngang liếc dọc một cách bất an. “Tôi nhớ không ra. Nhưng tôi sẽ hỏi nó ngay khi nó về nhà.” Cô Dillard càng lúc càng bối rối đứng nhìn người phụ nữ. “Nhưng quý bà Mae à, Adolph đã ở nhà của chúng cháu sáng nay. Anh ấy đến tìm Sigurd…” Bà Drukker nhổm dậy. “Không có chuyện đó!” Bà ấy ngắt lòi, gần như hằn học nhìn cô gái. “Adolph phải đi - xuống phố đâu đó. Nó không ở gần nhà của các người - tôi biết là không mà.” Đôi mắt bà ấy lóe lên và bà khiêu khích liếc nhìn Vance. Đó là một khoảnh khẳc lúng túng; nhưng chuyện xảy đến tiếp theo thậm chí còn khó khăn hơn. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, và đột nhiên hai cánh tay của bà Drukker vươn ra. “Con trai bé nhỏ của mẹ - con yêu!” Bà ấy kêu lên. “Đến đây nào, con yêu.” Nhưng người đàn ông ở cửa không hề tiến về phía trước. Anh ta đứng chớp cặp mắt nhỏ xíu nhìn chúng tôi, như một người thức dậy ở nơi xa lạ. Adolph Drukker cao khoảng 5 foot*. Anh ta có vẻ ngoài cục mịch điển hình của người gù. Hai chân anh ta mảnh khảnh, và thân mình lồi lên, biến dạng của anh ta có vẻ như bị phóng đại bởi cái đầu to lớn, giống như mái vòm. Nhưng có vẻ trí thức hiện trên gương mặt của người đàn ông này - một sức mạnh đam mê khủng khiếp gây chú ý đối với người khác. Giáo sư Dillard đã gọi anh ta là một thiên tài toán học; và không ai có thể nghi ngờ sự uyên bác đó*. “Tất cả mọi chuyện này là sao đây?” Anh ta hỏi bằng một giọng the thé run rẩy, nhìn sang phía cô Dillard. “Đây là những người bạn của cô à, Belle?” Cô gái định nói, nhưng Vance ra hiệu cho cô dừng lại. “Sự thật là, thưa anh Drukker,” anh buồn bã giải thích, “ở nhà bên đã xảy ra một thảm kịch. Đây là anh Markham, công tố viên quận, và trung sĩ Heath của Sở Cảnh sát; và theo lời thỉnh cầu của chúng tôi, cô Dillard đã dẫn chúng tôi đến đây, để chúng tôi có thể hỏi mẹ của anh rằng bà ấy có để ý thấy điều gì bất thường ở bãi tập bắn cung sáng nay hay không. Thảm kịch xảy ra ở ngay bên ngoài cánh cửa tầng hầm của nhà Dillard.” Drukker hất cằm về phía trước và nheo mắt lại. “Một thảm kịch à? Là thảm kịch gì?” “Một anh tên Robin đã bị giết - bằng cung tên.” Gương mặt của người đàn ông bắt đầu co giật ngắt quãng. “Robin đã bị giết? Bị giết ư?… Mấy giờ?” “Đâu đó giữa 11 và 12 giờ.” “Giữa 11 và 12 giờ?” Ánh mắt của Drukker nhanh chóng chuyển sang mẹ anh ta. Anh ta có vẻ như càng lúc càng bị kích động, và những ngón tay to bè khổng lồ của anh ta vò lấy lai chiếc áo khoác màu khói của mình. “Mẹ đã nhìn thấy gì?” Mắt anh ta lóe lên lúc anh ta nhìn người phụ nữ. “Ý con là gì hả con trai?” Câu đáp trả là một lời thì thầm hoang mang. Gương mặt Drukker trở nên đanh lại, và vẻ méo mó trên môi anh ta. “Ý con là vào khoảng giờ đó con có nghe một tiếng thét trong phòng này.” “Không phải! Không… không!” Bà ấy hít một hơi, và lắc đầu một cách nhát gừng. “Con nhầm rồi con trai. Sáng nay mẹ đâu có thét.” “Vậy thì ai đó đã thét.” Có một sự gay gắt lạnh lùng trong giọng nói của người đàn ông. Tiếp đó, sau một lúc dừng lại, anh ta nói thêm: “Sự thật là, con đã lên lầu sau khi nghe thấy tiếng thét, và lắng nghe ở cánh cửa này. Nhưng mẹ vừa đi vừa ngâm bài ‘Eia Popeia,’ nên con quay trở lại làm việc.” Bà Drukker đưa khăn tay lên mặt mình, và đôi mắt của bà ấy nhắm lại trong chốc lát. “Từ 11 đến 12 giờ con đang làm việc sao?” Giọng nói của bà ấy bây giờ reo lên với sự háo hức dịu dàng. “Nhưng mẹ đã gọi con mấy lần…” “Con có nghe. Nhưng con không trả lời. Con bận quá.” “Thì ra là vậy.” Bà ấy từ từ quay lại hướng cửa sổ. “Mẹ tưởng con đã đi ra ngoài. Không phải con đã nói vậy sao?” “Con đã nói là con sẽ sang nhà Dillard. Nhưng Sigurd không có ở đó, và con về đây không lâu trước 11 giờ.” “Mẹ không thấy con đi vào.” Sức lực của người phụ nữ đã cạn kiệt, và bà ấy bơ phờ nằm xuống, đôi mắt nhìn vào bức tường gạch trước mặt. “Và khi mẹ gọi mà con không trả lời nên mẹ tưởng con vẫn còn ở ngoài.” “Con rời nhà Dillard bằng cánh cổng trước, và đi dạo một vòng trong công viên.” Giọng của Drukker cáu kỉnh. “Sau đó con vào nhà bằng cửa trước.” “Và con nói là con đã nghe thấy mẹ thét… Nhưng sao mẹ lại thét hả con trai? Sáng nay lưng của mẹ đâu có đau.” Drukker cau mày, và đôi mắt nhỏ bé của anh ta hết nhìn Vance lại nhìn sang Markham. “Tôi nghe thấy ai đó thét - một người phụ nữ - trong căn phòng này,” anh ta cương quyết nhắc lại. “Khoảng 11 giờ rưỡi.” Sau đó anh ta ngồi thụp xuống ghế và đăm chiêu nhìn xuống sàn nhà. Cuộc trao đổi bằng lời khó hiểu giữa người mẹ và con trai đã làm mê hoặc tất cả chúng tôi. Dù Vance đứng trước một ấn phẩm xưa từ thế kỷ 18 ở gần cánh cửa, xem xét nó với vẻ chăm chú, nhưng tôi biết rằng không một lời nói hoặc sự thay đổi tông giọng nào anh bỏ sót. Bây giờ anh quay người và ra hiệu cho Markham đừng can thiệp, rồi tiến lại gần bà Drukker. “Chúng tôi rất xin lỗi, thưa bà, rằng chúng tôi đã làm phiền đến bà. Nếu được, mong bà hãy bỏ qua cho.” Anh cúi chào và quay sang cô Dillard. “Cô có phiền nếu dẫn chúng tôi về không? Hay chúng tôi tự tìm đường đi xuống?” “Để tôi đi cùng mọi người,” cô gái nói; và đến chỗ bà Drukker, cô vòng hai tay mình quanh bà ấy. “Cháu thật sự xin lỗi, quý bà Mae.” Lúc chúng tôi đi qua sảnh, Vance, cứ như mới đổi ý, dừng lại và ngoái đầu nhìn Drukker. “Tốt hơn là anh nên đi cùng chúng tôi, thưa anh,” anh nói, bằng giọng bình thường nhưng có vẻ nài nỉ. “Anh biết anh Robin, và có thể anh nảy ra ý gì đó.” “Đừng đi với họ, con ơi!” Bà Drukker kêu lên. Lúc này bà ấy đang nhổm dậy, gương mặt bà méo mó với nỗi thống khổ và sợ hãi. “Đừng đi! Họ là kẻ thù đấy. Họ muốn làm hại con…” Drukker đứng lên. “Sao con không nên đi với họ chứ?” Anh ta nóng nảy đáp lại. “Con muốn tìm ra vụ việc này. Có lẽ - như họ nói - con có thể giúp họ.” Và bằng cử chỉ nôn nóng, anh ta đi cùng chúng tôi. """