"
Vòng Xoáy Tội Ác - Harry Dolan full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vòng Xoáy Tội Ác - Harry Dolan full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
VÒNG XOÁY TỘI ÁC Nguyên tác: Bad Things Happen —★—
Tác giả: Harry Dolan
Người dịch: Ngô Thế Vinh Bách Việt phát hành
NXB Lao Động 7/2016
ebook©vctvegroup
05-04-2018
GIỚI THIỆU
M
ột âm mưu có lẽ sẽ không bao giờ được tiết lộ, một tội ác tưởng như sẽ bị chôn vùi mãi mãi nếu như không có sự xuất hiện của người đàn ông đó - David Loogan một người sống khá kín đáo và dường như anh không muốn ai biết đến sự tồn tại cũng như danh tính thật của mình. Một ngày, tình cờ anh đọc được câu chuyện trên tờ tạp chí của tòa soạn Gray Streets, sau đó anh quyết định sáng tác truyện trinh thám và gửi đến tòa soạn. Vài tuần trôi qua, anh được chủ tòa soạn là Tom Kristoll nhận vào làm biên tập viên. Sau một thời gian quen biết và trở thành bạn thân của nhau, Loogan đã giúp Kristoll che giấu một tội ác. Họ tưởng rằng mọi chuyện sẽ dừng lại ở đó, nhưng vài ngày sau, tại tòa soạn, người ta phát hiện Tom đã chết, xác bị ném qua cửa sổ từ tầng sáu. Những ngày sau đó, liên tiếp xảy ra các vụ sát hại, nạn nhân là người quen của Tom và có liên quan tới công việc biên tập tại tòa soạn.
Liệu tội ác mà Loogan cùng Tom cố che giấu có phải nguyên nhân gây ra cái chết của Tom cùng những người khác? Và thân phận thật sự của Loogan là gì?
Vòng Xoáy Tội Ác (Bad Things Happen) là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Dolan trong series trinh thám David Loogan. Câu
chuyện xoay quanh những con người làm việc ở tòa soạn Gray Streets và David Loogan một người đàn ông bí ẩn nhân chứng sống cho một tội ác, những bí mật ẩn sau nó tưởng chừng sẽ không bao giờ được tiết lộ. Như một vòng xoáy đầy rẫy những âm mưu, không có lối thoát. Mở đầu với một câu dẫn tuy đơn giản nhưng đầy bí ẩn: “Chiếc xẻng cần đạt một số yêu cầu nhất định”. Điều bí ẩn ở đây là chiếc xẻng có thể được dùng cho việc khác ngoài công dụng làm vườn. Đó là điều tồi tệ đầu tiên xảy ra, như một sự khởi đầu cho những tội ác liên tiếp sau đó.
Elizabeth Waishkey là một trong những thám tử điều tra vụ án. Điều làm cô băn khoăn không chỉ là những… quanh các vụ án mạng mà còn cả người đàn ông mang tên David Loogan. Người luôn khiến cô phải đặt ra rất nhiều câu hỏi về quá khứ của anh ta, thân phận thật sự mà anh ta đang che giấu. Nhưng không chỉ chú ý Loogan, tất cả những người ở tòa soạn Gray Streets đều có bí mật của họ. Khi các vụ án mạng xảy ra, mọi nghi vấn đều đổ dồn lên Loogan, anh vừa là nhân chứng, vừa là nghi phạm. Liệu Loogan có phải là nạn nhân kế tiếp hay Elizabeth sẽ tìm ra thủ phạm và thân phận thật sự của Loogan trước khi điều đó xảy ra?
1
C
hiếc xẻng cần đạt một số yêu cầu nhất định: mũi nhọn, cán ngắn để tiện sử dụng trong không gian hẹp. Anh tìm thấy đúng thứ mình cần ở siêu thị tại khu bán đồ làm vườn. Anh xếp gọn chiếc xẻng vào xe đẩy và khoan thai đi giữa các kệ hàng lấy thêm vài món đồ nữa: mấy cục pin, một túi đất trồng cây, một can thuốc diệt cỏ. Tiếp đó là hai đôi găng tay lao động bằng da. Ở quầy thực phẩm, anh mua bốn chiếc sandwich bọc màng nhựa và một chai nước.
Các quầy thanh toán đều đông nghẹt người. Anh đứng xếp hàng dưới ánh đèn neon nhấp nháy và cân nhắc hình thức thanh toán. Trong ví anh có một thẻ tín dụng mang tên David Loogan. Không phải tên khai sinh, nhưng giờ đó là cái tên anh sử dụng. Anh sẽ không dùng tấm thẻ tín dụng này. Anh nhẩm tính trong đầu và quyết định sẽ thanh toán bằng tiền mặt.
Hàng người nhích dần lên phía trước, anh tin rằng mình sẽ ra khỏi đây thật nhanh và dễ dàng, nhưng anh đã lầm. Người thu ngân muốn tán gẫu một chút.
“Hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi,” cô ta nói.
“Không chắc đâu.”
Cô ta cao, vòng hông nở nang, toát lên vẻ hấp dẫn mặc dù ánh đèn lạnh lẽo làm nổi bật những nếp nhăn quanh mắt và miệng. “Nhìn anh quen lắm,” cô nói.
Người đàn ông với cái tên David Loogan không muốn mình trở nên quen thuộc với bất kì ai. Anh muốn mình phải thật mờ nhạt, không có gì đáng nhớ cả.
“Có lẽ tôi đã từng gặp anh mua hàng ở đây rồi,” cô thu ngân gợi ý.
“Chắc thế rồi,” anh nở một nụ cười xã giao.
Anh bận bịu bày các món đồ lên quầy thanh toán. Cô thu ngân cầm chĩa mũi xẻng lên trời để quét mã in ở cán cầm. “Chắc hẳn anh là một thợ làm vườn,” cô nói.
Đáng ra anh có thể đồng ý và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đó, nhưng anh lại thấy bối rối. Anh định nói “Tôi là một biên tập viên” nhưng lập tức ngừng lại. Không thể nói sự thật được. Anh sử dụng ngay lời nói dối đầu tiên xuất hiện trong đầu:
“Tôi là nghệ sĩ tung hứng,” anh nói.
Đó là một sai lầm. Cô cảm thấy anh thật quyến rũ. Cô mỉm cười, đặt chiếc xẻng xuống cuối quầy thu ngân và với lấy túi đất một cách chậm rãi.
“Chắc là anh phải giỏi lắm,” cô nói nhẹ nhàng, “Tôi chưa từng thấy ai tung hứng xẻng xúc đất bao giờ. Nhưng thế này sao đủ được nhỉ? Anh phải dùng đến ba cái xẻng chứ?” Nào thì quyến rũ, anh nói:
“Tôi có sẵn ba cái xẻng rồi. Ai cũng tung được ba cái. Nhưng ai tung hứng được bốn cái mới thật là giỏi.”
“Thế thì hẳn là đặc biệt lắm,” cô nói, “Anh làm việc ở đâu? Tiệc cho thiếu nhi à?”
Anh chờ vài giây và trả lời bằng giọng nghiêm túc nhất có thể: “Tiệc ngoài vườn.”
“Chà. Thế thì anh có chắc chúng ta chưa gặp nhau bao giờ không?”
Rõ ràng cô ta đang tán tỉnh mình, Loogan thầm nghĩ. Anh nhìn ngón tay khi cô quét mã của chiếc sandwich. Một chiếc nhẫn cưới.
“Tôi thề là đã từng gặp anh rồi,” cô nói, “có khi chúng ta từng học cùng một trường cũng nên.”
“Tôi chưa từng đến trường,” anh đáp, “Tất cả những gì tôi biết về môn tung hứng đều nhờ tự học.”
“Nghiêm túc đấy. Tôi tin là chúng ta từng học cùng trường trung học.”
“Tôi đâu có học trung học ở đây.”
“Ừ thì tôi cũng thế,” cô nói, “Mà cũng lâu lắm rồi. Nhưng anh khiến tôi nhớ đến một người bạn trai học cùng lớp. Để tôi nhớ xem tên anh ta là gì nào.”
Cô cho găng tay và pin vào cùng một túi, thuốc diệt cỏ thì để vào túi khác.
“Dennis,” cô thốt lên, mắt ngước nhìn anh, “hay là Daniel nhỉ?”
David Loogan cầm lấy cái xẻng trên mặt quầy và tưởng tượng ra cảnh mình đâm lưỡi xẻng vào cổ người thu ngân. “Ted,” anh nói với cô, “Tên tôi là Ted Carmady.”
Cô mỉm cười lắc đầu: “Anh chắc không?”
“Chắc chắn.”
“Thế tôi đoán sai bét còn gì,” cô bỏ qua với một cái nhún vai. Anh để chiếc xẻng vào xe đẩy trong khi người thu ngân tính tiền. Anh chắc rằng cô không còn hứng thú gì nữa, nhưng cô lại nguệch ngoạc gì đó trên tờ hóa đơn trước khi đưa cho anh. Khi đi ra anh liếc nhìn mảnh giấy và đọc tên cô (Allison) cùng với số điện thoại trên đó trước khi kín đáo vò nát nó.
Ở bãi đỗ xe, Loogan chỉnh lại cổ chiếc áo da màu đen và nhìn đồng hồ. Chín giờ rưỡi tối thứ Tư của một ngày tháng Mười. Trời mưa nhỏ và những chiếc xe đậu trong bãi sáng lên dưới ánh đèn vàng.
Ánh đèn làm anh yên tâm. Anh không sợ bóng tối, nhưng lại thường cảm thấy khó chịu khi đi ra ngoài sau khi mặt trời lặn. Các bãi đỗ xe làm anh căng thẳng. Những tiếng bước chân vọng từ bãi đỗ xe vào ban đêm cũng đủ làm tim anh đập thình thịch.
Loogan bước chậm rãi giữa những hàng ô tô, tay đẩy chiếc xe hàng. Anh cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy một bóng người đang tiến về phía mình. Đó là một gã đàn ông gầy gò với khuôn mặt hốc hác và đôi mắt sâu. Hắn mặc một chiếc áo khoác có mũ trùm đầu, quần rách ở đầu gối. Tay phải đút trong túi áo.
Loogan chợt nghe thấy tiếng ù phát ra từ những chiếc đèn, tiếng bánh xe của cái xe đẩy. Mày ổn mà, anh tự nhủ. Sẽ không có chuyện gì đâu.
Khi người đó tới gần, hắn bỏ tay khỏi túi áo khoác. Loogan nhìn thấy ánh phản chiếu. Bằng kim loại, anh nghĩ. Một lưỡi dao. Theo phản xạ anh với tay định chộp lấy cổ tay hắn nhưng
dừng lại kịp lúc. Gã đàn ông gầy gò nhảy lùi lại và chạy vụt qua, nắm chặt trước ngực một chiếc điện thoại màu xám bạc. Hắn lẩm bẩm gì đó mà Loogan không nghe được.
Sau khi hắn đi mất, chuyện dừng lại ở đó và Loogan tới chỗ đỗ xe của mình. Anh bỏ cái xẻng vào cốp xe cùng với túi đất và các món đồ còn lại. Anh đóng cốp và đẩy chiếc xe hàng tới một chỗ còn trống.
Tiếng ù của những chiếc đèn giờ đã ngừng. Mọi thứ trở lại bình thường. David Loogan chỉ là một người tới mua hàng như bao người khác. Chẳng ai có thể thấy điều gì bất thường cả. Anh mở cửa xe và trượt vào sau tay lái. Trông anh chẳng có vẻ gì giống một người đang sửa soạn đi đào huyệt mộ.
* * *
Người đàn ông tự xưng là David Loogan này đã tới sống ở Ann Arbor từ tháng Ba. Anh thuê một ngôi nhà nhỏ có sẵn đồ đạc ở mạn phía tây: một ngôi nhà khung gỗ mái nhọn với hành lang phía trước, sân nhỏ phía sau nhà có hàng rào mắt cáo bao quanh.
Anh la cà cả ngày quanh khu phố Liberty và State, đọc báo trong quán café, xem phim ở rạp Michigan. Anh quan sát đám sinh viên đại học đi và về, nghe lén họ tán gẫu với nhau. Anh không có vẻ lạc lõng giữa đám sinh viên: ở tuổi ba mươi tám, người ta có thể nhầm anh là một sinh viên lớn tuổi hoặc một giảng viên trẻ.
Ngôi nhà anh thuê nằm ở góc phố có hàng cây trồng thẳng tắp vốn thuộc về một giáo sư sử học hiện đang trong kì nghỉ phép để tập trung nghiên cứu ở nước ngoài. Khu vườn sau nhà bị bỏ hoang. Trong tháng Tư, David Loogan bỏ ra vài ngày thử trồng hoa ở đó. Anh mua hạt giống và gieo xuống đất. Sau đó anh tưới nước và chờ đợi. Chẳng có tiến triển gì cả.
Vào một buổi chiều tháng Năm, anh tìm thấy một tờ tạp chí truyện ngắn ai đó đã bỏ quên ở quán café. Nó có tên là Gray Streets. Anh gọi một cốc cappuchino, ngồi trên ghế nệm dày cộp rồi bắt đầu đọc mẩu chuyện về một người đàn ông bị khép tội giết người bởi một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn.
Ngày hôm sau, anh dọn đẹp lại văn phòng của vị giáo sư, bỏ đống sách vở khỏi mặt bàn. Anh mở máy tính và bắt đầu viết câu chuyện về một kẻ giết người mang chứng sợ những bãi đỗ xe. Anh mất ba ngày để hoàn thành bản nháp mà sau khi in ra và đọc qua một lần, anh xé nó làm đôi rồi tống vào sọt rác.
Bản thứ hai anh viết mất bốn ngày, và anh thấy cũng chỉ tạm chấp nhận được. Anh vứt xấp bản thảo trên bàn suốt một tuần. Một buổi tối anh nhét nó vào ngăn kéo và bắt đầu viết lại lần thứ ba. Mất vài đêm cặm cụi anh mới tìm được cốt truyện ưng ý. Kẻ giết người trở thành người hùng của cả câu chuyện khi cứu một cô gái từ tay nhân vật phản diện. Cao trào của câu chuyện diễn ra ở tầng trên cùng của một bãi đỗ xe. Loogan lưỡng lự có nên để cô gái ở lại với kẻ giết người sau khi được cứu không, nhưng sau cùng anh quyết định sẽ hay hơn nếu cuối cùng cô ta bỏ đi.
Khi đã nghĩ ra đoạn kết ưng ý, anh in một bản hoàn chỉnh có
tựa đề ở trang đầu nhưng không đề tên tác giả hoặc địa chỉ liên lạc. Sau đó anh xem tờ Gray Streets để tìm địa chỉ tòa soạn tạp chí. Nó nằm cách chỗ anh chừng vài phút đi xe, trên tầng sáu của một tòa nhà dưới phố. Anh đến đó và thấy cửa trước bị khóa vì là ngày thứ Bảy, nhưng anh tìm được lối đi cho nhân viên ở phía sau tấm cửa thép được chặn bằng một viên gạch. Một cầu thang bẩn thỉu dẫn tới tầng sáu. Anh đi qua văn phòng của một kế toán và một công ty làm phim tài liệu trước khi tới được nơi mình cần. Trên cửa kính mờ, dòng chữ màu đen được viết gọn gàng: Gray Streets.
Anh để bản thảo trong phong bì không đề tên. Nó quá dày để có thể nhét qua khe cửa dưới, nhưng phía trên có một ô cửa nhỏ. Anh luồn tập bản thảo qua đó và nghe thấy tiếng nó rơi trên sàn phía bên kia cánh cửa.
Những ngày sau đó, anh trở lại với nhịp sinh hoạt thường lệ, đi xem phim và la cà quán café. Một đêm khó ngủ, anh vào văn phòng của giáo sư và ngồi trước máy tính vừa đọc kĩ từng dòng vừa chỉnh sửa. Anh cắt bớt một số từ ngữ không cần thiết và cảm thấy câu văn mạnh mẽ hơn nhiều. Ngày hôm sau anh in một bản thảo mới và ghé qua tòa soạn sau giờ làm việc, leo lên chiếc cầu thang hẹp, luồn một phong bì nữa qua ô cửa.
Anh chắc rằng đây là lần cuối cùng. Anh giữ cho mình bận rộn bằng cách đi lượn khắp nơi: từ viện bảo tàng, triển lãm nghệ thuật cho tới công viên. Nhưng mọi chuyện chưa dừng ở đó. Trí nhớ của anh thật tinh tường, anh có thể nhớ được từng câu, từng đoạn văn; đến nỗi có thể viết lại chúng khi đi trên đường hoặc khi ngừng lại ngắm một bức tranh. Lại một đêm mất ngủ nữa trong văn phòng của giáo sư, anh ở trong đó một tiếng, rồi
ba tiếng, nghiền ngẫm từng từ, sửa từng dấu chấm dấu phẩy. Anh định sẽ để mặc nó trên ổ cứng máy tính. Hay in nó ra thì sao nhỉ?
Hai ngày sau, vào lúc chạng vạng tối, anh lại một lần nữa đứng ở hành lang đó, tập bản thảo bỏ trong phong bì kẹp dưới nách. Anh đứng trước cánh cửa có ô cửa mở phía trên, cố gắng nhìn qua lớp kính mờ. - Có lẽ đằng sau cánh cửa đó chẳng có ai cả, - anh thầm nghĩ. - Chỉ là một căn phòng trống, dưới sàn có hai cái phong bì bám đầy bụi. Và giờ thì lại thêm một cái thứ ba nữa.
Đột nhiên cánh cửa bật mở.
Người đàn ông mở cửa mặc một bộ đồ màu xanh đậm với sơ mi xanh da trời và ca vát lụa. Anh ta dừng lại để đội mũ, một chiếc mũ phớt màu đen có dải băng cùng màu với bộ quần áo. Người đó bỏ mũ xuống và mở rộng cửa khi nhìn thấy Loogan với chiếc phong bì.
“Là anh đó à,” người đó nói, “vào đây đi.”
Anh ta lẩn vào bóng tối của căn phòng và vài giây sau đèn bật sáng ở văn phòng phía trong. Đứng ở khung cửa được thắp sáng, người đó cầm mũ vẫy Loogan lại gần.
Loogan toan bước tới.
“Tôi không thể ở lại được,” anh nói.
“Sao thế?”
Biết trả lời thế nào đây. Câu trả lời trong tâm trí anh - bởi vì trời sắp tối - sẽ có vẻ thật kì quặc.
“Không có chuyện tôi ra lôi cậu vào đây đâu,” người đàn ông bận đồ xanh nói.
Giọng nói của anh ta có một vẻ trang trọng kì cục, y như giọng diễn viên đọc lời thoại. Anh ta ra hiệu cho Loogan ngồi xuống ghế và đi ra sau bàn giấy. Giữa đống giấy tờ trên mặt bàn, Loogan nhìn thấy hai phong bì của mình, cả hai đều có vết mở ở bên cạnh.
“Tôi đã chờ anh đến,” người đàn ông mặc đồ xanh nói, “Thông minh lắm, cậu không đề tên. Điều đó làm tôi chú ý.” Anh ta quẳng chiếc mũ vào khay đựng giấy. Loogan không nói một lời.
“Lần này cũng lại là truyện đó à, hay là một tác phẩm khác?” Nhìn xuống chiếc phong bì để trên đùi, Loogan nói, “Vẫn là nó. Tôi đã chỉnh sửa thêm một chút.”
“Cậu cứ cẩn thận đấy. Nếu truyện này hay hơn nữa, tôi không thể xuất bản được.” Anh ta ngồi xuống ghế sau bàn giấy. “Lí do tôi chờ cậu ở đây là: Tôi muốn dành cho cậu một lời đề nghị. Tôi muốn cậu làm việc cho tôi.”
Thật là bất ngờ. Loogan cau mày.
“Tôi không phải là nhà văn.”
“Tôi không cần thêm nhà văn nữa. Giờ tôi có cả đám nhà văn ngồi nguệch ngoạc trong văn phòng này, toàn một lũ vô tích sự. Không, người tôi cần là một biên tập viên.”
Loogan nhấp nhổm trên ghế.
“Tôi không nghĩ là mình đủ khả năng. Tôi chưa học qua nghề này bao giờ.”
“Làm gì có ai được học nghề này từ trước đâu,” anh ta nói. “Người ta không học cái này ở trường. Chẳng có ai dự định làm
nghề biên tập. Nó là một chuyện gì đó xảy đến với anh, kiểu như bệnh vàng da hoặc ngã xuống giếng vậy.”
Người đó chỉ tay vào tập phong bì của Loogan:
“Tôi thích những gì mà cậu đã làm. Mỗi bản thảo đều có sự cải tiến rõ rệt. Vấn đề là, cậu có làm được thế với tác phẩm của người khác hay không?”
Loogan nhìn ra cửa sổ, bên ngoài là một màu tối sẫm. - Chẳng có vấn đề gì, - anh nghĩ. - Mình có thể từ chối lúc nào cũng được.
“Coi như tôi làm được đi,” anh tự nghe thấy tiếng mình nói, “nhưng giờ tôi không cần tìm việc làm. Tôi không biết mình sẽ cảm thấy sao khi phải tới văn phòng làm việc mỗi buổi sáng.”
Người đàn ông bận đồ xanh ngồi ngả người trên ghế. “Cậu không phải đến đây đâu. Cậu có thể làm ở nhà, cũng chẳng cần làm việc theo lịch. Chỉ cần cậu làm một thứ thôi.” “Gì vậy?”
“Nói cho tôi biết tên cậu.”
Một phút ngập ngừng. Sau đó:
“David Loogan.”
“Tom Kristoll.”
2
T
om Kristoll sở hữu một căn nhà trên sườn đồi có rừng cây bao phủ nhìn ra sông Huron. Đó là một sự kết hợp đồ sộ giữa những dầm gỗ lớn và cửa kính rộng. Mái nhà ốp đá đen, sân trong cũng lát đá. Một cầu thang rộng cũng bằng đá dẫn tới bể bơi.
Vào những kì nghỉ cuối tuần của mùa hè, Kristoll tổ chức tiệc cho nhân viên và các cây viết của tạp chí Gray Streets. Lần đầu được mời, Loogan đã định sẽ không đến, nhưng Kristoll đích thân gọi cho anh vào đầu giờ chiều. Họ đã chuẩn bị đủ thứ cho buổi tiệc nướng ngoài trời, chỉ thiếu mỗi nước sốt, liệu anh có thể tiện đường mua giúp không? Loogan đành miễn cưỡng đồng ý. Anh tới bữa tiệc và bắt gặp Kristoll bận đồ trắng từ đầu đến chân đang chỉ đạo việc chuẩn bị vỉ nướng. Vợ Kristoll càu nhàu vì anh ta bắt cả khách khứa làm việc. Cô ta tiếp đón Loogan, dẫn anh đi thăm một vòng ngôi nhà rồi giới thiệu anh với một loạt văn sĩ và thực tập sinh.
“Đây là David Loogan,” cô nói với họ, “biên tập viên mới của Tom.”
Laura Kristoll mặc một chiếc áo cánh màu xanh da trời và
quần lửng. Cô gái với mái tóc vàng óng mượt này có bằng nghiên cứu về văn học Anh, môn mà hiện giờ cô đang giảng dạy ở trường đại học. Phần lớn thực tập sinh ở đó là sinh viên của cô. Cô đảm bảo Loogan lúc nào cũng có đủ đồ uống. Cô đưa anh khăn tắm và đồ bơi để dùng nếu anh muốn ra bể bơi. Khi anh lang thang về phía bìa rừng để lánh khỏi đám đông, cô cũng để anh được tự nhiên.
Sau đó, khi anh sửa soạn ra về, cô đến gần anh và nói nhỏ: “David, hình như tối nay anh không được thoải mái cho lắm.”
“Có đấy chứ,” anh nói với cô.
“Thế thì anh sẽ quay lại đây chứ?”
“Đương nhiên rồi,” anh nói, mặc dù trong thâm tâm anh chẳng có ý định đó.
Suốt mùa hè, Loogan nhận một loạt dự án biên tập từ Tom Kristoll. Anh làm việc với nhiều tác phẩm cùng một lúc và chẳng bao lâu sau, những tập bản thảo đã chất ngập cả ngôi nhà. Trên từng trang giấy đều có những phần chỉnh sửa được anh ghi bằng nét chữ ngay ngắn rõ ràng.
Vào một buổi tối của tháng Bảy, Kristoll gọi điện mời Loogan đi uống rượu. Loogan lái xe tới một quán ăn dưới phố. Người phục vụ dẫn anh tới một quầy nhỏ lát gỗ màu sẫm, được chiếu sáng bằng duy nhất một bóng đèn treo trên giá bằng thép. Kristoll gọi cho anh một ly rượu Scotch.
“Thế mà cứ tưởng cậu sẽ không chịu đến cơ đấy,” Kristoll nói. “Tôi định sẽ phải tới lôi cậu ra đây. Kế hoạch, lời thoại đã sẵn sàng hết rồi: ‘Khi tôi mời cậu một ly, cậu phải uống cạn mà
tận hưởng’. Tôi định nói thế đấy.”
Loogan giả bộ thư giãn. Anh ngồi xoay ngang, quay lưng về phía tường, chân trái gập lại còn chân phải duỗi thẳng dọc theo nệm ghế.
“Cậu kín tiếng lắm,” Kristoll nói, “nhưng tôi cũng thích kiểu người kín tiếng không kém gì những loại người khác. Tôi không bắt cậu tiết lộ bí mật của mình đâu.”
“Tôi chẳng có bí mật nào hết, Tom à. Anh có thể hỏi tôi bất cứ chuyện gì.”
“Vậy thì, cậu từ đầu tới?”
“Portland.”
“Cậu chuyển tới Ann Arbor được bao lâu rồi?”
“Bốn tháng.”
“Câu làm gì trước khi tới chỗ tôi.”
“Ý anh là công việc à?”
“Đúng thế.”
“Tôi làm việc ở gánh xiếc.”
“Liệu tôi có phải cho cậu biết là ở Ann Arbor này chẳng có gánh xiếc nào hết?”
“Không phải ở Ann Arbor đâu,” Loogan nói, “đấy là trước khi tôi chuyển đến đây.”
“Vậy là cậu trốn khỏi gánh xiếc và tới Ann Arbor?” “Cũng gần như vậy.”
“Nhiều người đi theo hướng ngược lại cơ đấy. Cậu làm gì ở gánh xiếc?”
“Tôi là nghệ sĩ tung hứng.”
“Chúng ta có nên nói tiếp về chủ đề này không nhỉ?” Kristoll hỏi.
“Gọi bồi bàn đi Tom. Bảo cô ấy mang đến vài cái bánh mỳ nữa. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy.”
“À còn về quê nhà của cậu, Portland ấy. Nó nằm ở bang Oregon hay Maine?”
“Anh thích chỗ nào hơn?”
Kristoll bật cười và cầm lấy cốc. Loogan với tay lên trên, đầu ngón tay đung đưa nhè nhẹ chụp đèn bằng thép. Một lúc sau, người hầu bàn đem tới một lượt rượu mới và họ tán gẫu về những chuyện khác: chất lượng các cây viết của tờ Gray Streets, về các nhà văn nói chung, cái nóng mùa hè ở Michigan.
Đó là một buổi nói chuyện dễ chịu và vào những buổi tối sau đó, họ tiếp tục tán gẫu với nhau ở cùng một quầy rượu hoặc trong văn phòng của Kristoll. Một lần, Kristoll bất chợt tới viếng thăm nhà Loogan.
“Cậu mà không cho tôi vào nhà thì cũng bằng đuổi tôi xuống địa ngục, David à!” Kristoll nói.
“Không đâu. Mời anh vào,” Loogan đáp.
Kristoll xem xét đồ đạc trong phòng khách, mặt đá lò sưởi. Anh ta thực sự ngưỡng mộ những bức tranh và họa tiết treo trên tường.
“Chúng không phải của tôi đâu,” Loogan nói.
“Dĩ nhiên rồi.”
Khác với Loogan, Kristoll chẳng giấu giếm gì khi nói về bản
thân mình. Anh ta lớn lên trong khu ngoại ô trung lưu ở Detroit, chuyển đến Ann Arbor để học trường Đại học Michigan. Anh ta gặp vợ mình ở đó và cùng với một nhóm bạn nhỏ sáng lập nên tạp chí Gray Streets một tòa soạn sinh viên. Tạp chí tương đối thành công trong bốn năm, cho tới khi Kristoll và vợ chuyển tới bang khác học cao học. Khi Laura Kristoll trở về Ann Arbor dạy ở trường đại học, Tom Kristoll bắt đầu tìm cách phục hưng tòa soạn, dần dần giành nó khỏi tay đám sinh viên.
Những năm sau đó, số lượng phát hành của tạp chí đã tăng lên đáng kể, và sự phát triển của mạng Internet đem đến đối tượng độc giả mới. Kristoll tự tay thiết kế trang web Gray Streets như một phương tiện để phát hành lại những tác phẩm từ các số báo cũ giờ không còn được in nữa. Các blogger khám phá ra trang web và bắt đầu viết bài đánh giá. Trong các bài viết của tạp chí, việc phát hành trên mạng cũng được nhắc đến. Kết quả là còn nhiều người đọc tạp chí Gray Streets trên mạng hơn cả đọc bản in trên giấy.
“Tôi sẽ tiết lộ cho cậu một bí mật,” một buổi tối Kristoll nói với Loogan. Anh ta để cửa sổ mở, chân gác lên ngưỡng cửa, một chai rượu đặt trên bàn. “Ngày xưa khi tôi và Laura còn học đại học, phần lớn các truyện chúng tôi xuất bản đều do sinh viên viết ra. Chúng tôi cũng tự viết vài tác phẩm và phát hành với bút danh bí mật. Nhưng khi bắt đầu xây dựng website, tôi bỏ hết đống truyện đó. Chỉ những truyện hay nhất mới được đăng tải. Chẳng có truyện nào do tôi viết. Tôi đủ sáng suốt để biết rằng chúng không thuộc về nơi đó. Cậu có biết chuyện đó đã biến tôi thành cái gì không?”
Loogan không lường trước câu hỏi này.
“Gì vậy?”
“Một biên tập viên. Không ai học để trở thành biên tập viên cả, nhưng giờ thì tôi và cậu, chúng ta đều đang làm công việc đó.” Kristoll cầm lấy cốc trên mặt bàn và giữ nó trên đùi. “Giờ thì tôi lúc nào cũng say khướt. Thứ lỗi cho tôi nhé. Rượu Scotch mà.”
“Tôi thấy anh uống vào ít hơn nói ra đấy,” Loogan nói. “Nói hay lắm, tôi nhận ra đấy… tôi là biên tập mà.” Cơn gió từ ngoài cửa sổ cuốn bay một lá thư xuống sàn. Khi Loogan với tay để nhặt nó, Kristoll ngăn lại.
“Cậu về đi, David,” anh ta nói nhẹ nhàng. “Mặt trời lặn rồi. Vào mùa này trong năm mặt trời chiếu sáng cả ngày, nhưng giờ cũng tối rồi.”
“Anh không về nhà à?”
“Tôi sẽ ở đây một lúc nữa. Tắt hộ tôi đèn ngoài đó nhé. Chúc cậu buổi tối tốt lành.”
Loogan bước trên tấm thảm ở văn phòng phía ngoài nên không gây tiếng động. Anh dừng lại ở ngưỡng cửa để nhấn công tắc đèn. Quay lại phía sau, anh thấy Kristoll ngồi xoay nghiêng về phía mình, đầu ngả ra sau, hai mắt nhắm lại. Cửa văn phòng đóng khung anh ta trong đó như một bức hình đen trắng: tóc đen cắt ngắn, áo sơ mi trắng toát, bàn làm việc xám đen.
Chiếc đèn bàn chiếu lập lòe trên miệng ly rượu. Ánh sáng khiến da mặt anh ta đượm một màu trắng nhợt. Nó tạo nên cảm giác thư thái và bình thản ở anh ta mà Loogan chưa từng nhìn thấy.
Loogan không thể quên sự bình thản đó, cả sự nhẹ nhàng, thân thiện trong giọng nói của Kristoll khi anh ta bảo anh nên về nhà. Anh rồi sẽ nhớ cả hai điều này khi bắt đầu ngủ với Vợ Kristoll.
* * *
Cuối tháng Tám, trong viện bảo tàng, Loogan đứng xem bức ảnh cận cảnh một chiếc lá. Chiếc lá tươi, xanh nằm giữa cát và đá, vài hạt cát nhỏ bám trên bề mặt. Loogan đi về phía bên phải và nhìn thấy hàng loạt bức ảnh nhỏ hơn: những chiếc lá khô dần mục nát thành cát bụi. Khi khô héo trên lá có những vết rạn, những đường rãnh màu đen len lỏi khắp nơi như những đường gân.
Nghe thấy ai đó gọi tên mình, anh quay lại và bắt gặp Laura Kristoll.
“Toàn là lá thôi,” cô nói. “Còn hai phòng giống thế này nữa. Để em chỉ cho anh xem.”
Những bữa tiệc ở nhà Kristoll nối tiếp nhau suốt mùa hè, Loogan đến dự một vài buổi trong số đó. Anh chỉ nói chuyện với Laura vài lần nhưng giờ có vẻ cô rất thoải mái cầm tay anh dẫn đi khắp phòng trưng bày. Đúng như cô nói, toàn là ảnh chụp lá cây: lá sau mưa, lá dưới đáy suối, lá trên đường quê. Cả những chiếc lá bị lửa đốt cháy đen. Một chiếc lá úa được chụp cận cảnh, nhìn mỏng manh và khô héo như thể sắp tan thành bụi. Cô nắm cánh tay anh một cách tự nhiên khi cả hai đứng trước tấm ảnh
cuối cùng này. Một lúc sau, anh nói với cô anh có việc cần phải đi. Tay cô trượt xuống dọc theo cánh tay, tới cổ tay và sau cùng là bàn tay anh. Ngón tay hai người đan chặt vào nhau. “Được thôi anh,” cô nói.
Cô gọi cho anh vào tuần sau đó. Lần này là một triển lãm ảnh khác, tại phòng trưng bày ở trung tâm thành phố. “Nhiếp ảnh gia cũng là người ở thành phố này,” cô nói với anh. ”Anh ta làm gì đó với giấy và kính vỡ. Nhưng em hi vọng sẽ có ảnh chụp lá cây.”
Họ đến đó ngay ngày hôm sau. Gần như chẳng có ai ở đây và họ có thể đi dạo thật thoải mái. Với Loogan, có vẻ phần lớn các bức ảnh được chụp bằng cách lôi hết đồ sứ trong tủ ra và ném vào cửa kính. Nhưng Laura thì sung sướng khi tìm thấy một tấm ảnh những cánh hoa và kính vỡ trộn lẫn với những mảnh giấy được xé thành hình lá cây. Cô mua ngay bức ảnh và thương lượng với người chủ phòng trưng bày để chuyển nó về nhà sau buổi triển lãm.
Sau khi rời phòng triển lãm, cô dẫn Loogan tới một tiệm sách cũ. Họ dành cả tiếng đồng hồ lựa chọn sách. Sau đó cô gợi ý cả hai đi uống cà phê và ăn trưa cùng nhau. Cô không nói lời nào khi lái xe đưa anh về nhà. Chiếc xe lăn bánh chậm rãi dưới ánh mặt trời và bóng những hàng cây trên phố. Cô dừng xe bên đường, nhìn qua cửa sổ phía bên anh về phía ngôi nhà.
“David,” cô nói, “em có thể vào thăm nhà anh được chứ?” Cô đi sát phía sau anh, bàn tay ấn chặt giữa hai bả vai khi anh mở khóa cửa. Cô dừng lại một chút trong bếp để xem qua bản thảo anh để trên mặt quầy. Sau khi đi qua một hành lang có mái
cong, cô nhìn quanh phòng khách. Trên bàn uống trà còn có nhiều bản thảo hơn cả trong bếp, nhưng cô không xem cái nào trong số chúng. Quay sang phía anh, cô lướt nhẹ ngón tay lên cổ anh và nói:
“Em sẽ quay lại ngay.”
Cô tự tìm được phòng tắm phía cuối hàng lang nối với phòng khách. Loogan thì đi xung quanh để đóng rèm cửa. Anh rà soát một lượt bộ sưu tập đĩa CD của vị giáo sư, nhận ra chúng nghèo nàn một cách khủng khiếp. Anh đành mở tạm một kênh radio ở Detroit chuyên phát nhạc jazz không lời. Khi Laura quay lại phòng khách, cô đã bỏ lại túi xách. Mái tóc vốn được bới cao giờ buông trên hai vai. Đôi môi cô tươi tắn hơn. Thêm hai cúc của chiếc áo cánh cũng được mở, để lộ làn da rám nắng điểm chút tàn nhang. Hơi thở của cô phảng phất hương bạc hà khi cô đứng thật sát khuôn mặt anh, bàn tay luồn ra sau gáy.
Anh hôn cô cuồng nhiệt. Đứng, ngồi, và sau cùng cả hai nằm dài trên ghế sofa, cơ thể cô ép chặt lấy anh. Họ từ từ cởi đồ, thật chậm rãi. Khi cô trút bỏ chiếc váy ngắn, anh nhận ra cô đã bỏ lại đồ lót trong túi xách. Trên một xấp nệm ghế sofa trải xuống sàn, họ làm tình với nhau. Sau đó, họ lên trên gác, ngủ giữa những tấm ga trải giường mát mẻ của vị giáo sư sử học. Khi Loogan tỉnh giấc, trời đã tối và anh chỉ còn lại một mình. Theo phản xạ anh với lấy chiếc đồng hồ đeo tay thường đặt trên bàn ngủ cạnh giường. Hóa ra anh đã vứt nó trên sàn phòng khách. Xuống dưới nhà, anh nhận thấy nệm ghế sofa đã được đặt lại ngay ngắn. Quần áo anh được treo trên ghế, đồng hồ đeo tay trên mặt lò sưởi. Thế mà đã hơn chín giờ tối.
Chuông điện thoại reo khi anh đang mặc quần áo, anh nhấc
máy, tiếng Laura ở đầu đây bên kia: “Anh thật là đáng gờm.” “Đúng đấy, khi nào anh đi tất,”[1] anh đáp.
“Anh ngủ say quá. Nhìn cái cách anh ngủ đúng là một kì quan. Em chẳng dám đánh thức anh nữa.”
“Ngủ là một trong những biệt tài của anh mà.”
“Em chỉ muốn gọi để cho anh biết mọi chuyện đều rất tuyệt vời, không có gì phải lo ngại cả. Anh cũng chẳng phải người hay lo lắng mấy chuyện này phải không David?”
“Không đâu.”
“Nhưng em muốn mình thống nhất với nhau vài điều. Để biết trả lời thế nào khi có ai đó hỏi tới chuyện này. Em sẽ cố gắng nói sát với sự thực hết mức có thể: chúng mình tới phòng triển lãm, tiệm sách và đi ăn trưa. Sau đó chúng ta chia tay luôn.”
“Được đấy.”
“Nói như vậy thì hơn là em chẳng biết anh, chưa gặp anh, thậm chí cũng chưa nghe nói tới anh bao giờ.”
“Hẳn là thế rồi.”
“Vậy thì ổn rồi,” cô nói. “Em phải đi đây. Mình nói chuyện sau nhé.”
“Được thôi.”
“Tạm biệt anh, David.”
“Tạm biệt em.”
Hai ngày sau, Loogan gặp Tom Kristoll vào buổi tối. Anh e rằng sẽ cảm thấy kì quặc, nhưng cuối cùng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Hai người ngồi uống rượu Scotch trong văn phòng của Kristoll sau giờ làm việc. Họ tán gẫu một chút về những tập bản
thảo. Sau đó Kristoll kể về chuyến du ngoạn châu Âu của anh ta cùng với gia đình khi còn là một thiếu niên.
Cái tên Laura chỉ được nhắc tới có một lần.
“Tôi đang tìm hiểu thêm về cậu đấy, David ạ,” Kristoll nói. “Giờ tôi sẽ lật tẩy hết các bí mật của cậu.”
“Thật à?” Loogan hỏi.
“Laura kể hết với tôi rồi. Cậu thích dành thời gian đến xem triển lãm, và có sở thích rất tinh tế về nhiếp ảnh. Thêm hai chi tiết thú vị nữa trong hồ sơ của David Loogan.”
Loogan và Laura gặp nhau đều đặn các tuần sau đó. Thường thường cô tới nhà anh. Chỉ một lần họ gặp nhau ở khách sạn, lần khác ở văn phòng trường đại học nơi cô làm việc.
Cô gần như chẳng bao giờ nói về chồng mình hay phàn nàn về cuộc sống gia đình không hạnh phúc hoặc những thói quen của anh ta. Loogan thì lắng nghe chăm chú, cố gắng không bỏ sót một lời chê bai nào dù là nhỏ nhất. Anh tự nhủ mình sẽ chấm dứt mối quan hệ này ngay lập tức nếu nhận ra cô có dã tâm nào đó. Nhưng mỗi khi cô nói về chồng mình, những sự việc thường liên quan tới chính Loogan. Cô thường kể lại những gì Kristoll đã nói: những lời khen ngợi Loogan hoặc một câu bình luận vu vơ.
Một buổi chiều, cô đứng trần truồng trước cửa sổ phòng ngủ của Loogan, mắt nhìn xuống sân.
“Tom cho rằng anh đang che giấu vài bí mật đen tối nào đó,” cô nói. “Anh là một người có quá khứ phức tạp. Chồng em còn tin rằng anh đã từng có thời gian ngồi tù nữa.”
Cô nói điều đó một cách đơn giản, suồng sả. Loogan nằm trên
giường, ngước mắt nhìn cô:
“Thế à?”
“Đúng vậy đấy. Tom tôn trọng những người là tội phạm. Tờ Gray Streets được phát miễn phí cho thư viện của nhiều nhà tù. Anh ta còn cho xuất bản vài truyện do tù nhân viết.”
“Vậy thì chồng em đoán anh làm gì để phải ngồi tù?” Cô rời khỏi cửa sổ và tiến về phía giường, kéo chăn rồi trèo vào nằm cạnh anh.
“Ồ không có gì ghê gớm đâu,” cô nói. “Có lẽ là tội phạm có học thức. Kiểu như lừa đảo, tham ô hay kí séc khống. Anh đã từng lừa đảo ai chưa?”
“Anh chưa từng phải vào tù mà.”
“Em cũng đoán là không phải,” cô nói, ngón tay vuốt dọc theo xương quai xanh của anh. “Nếu anh mà có ngồi tù thì cũng phải là vì một hành động bạo lực nào đó. Một tội ác gây ra trong cơn thịnh nộ. Bao giờ chúng cũng được thực hiện bởi những con người vốn rất trầm lặng.”
“Thật à?”
“Nếu họ có phỏng vấn hàng xóm của anh trên truyền hình, hẳn là tất cả đều sẽ nói: Anh ấy là người cực kì tử tế, chẳng gây rắc rối cho ai bao giờ.”
Anh nhắm mắt, miệng cười nhạt.
“Thế em sẽ nói sao?”
Môi cô lướt trên má anh.
“Em sẽ kể với họ rằng ngay từ đầu em đã biết anh là người vô cùng nguy hiểm.”
Vài tuần nữa trôi qua - tháng Chín, rồi bắt đầu tháng Mười. Một ngày của Loogan lúc nào cũng xoay quanh Laura Kristoll, Tom Kristoll và tờ Gray Streets. Thế rồi vào một buổi tối thứ Tư, chuông điện thoại reo vang khi anh đang ngồi trong bếp với tập bản thảo đặt trên bàn trước mặt. Người gọi điện là Tom Kristoll, băn khoăn không biết liệu Loogan có thể giúp được không. Anh ta cần một chiếc xẻng xúc đất.
3
H
àng cây uốn cong dọc theo con đường. Đâu đó phía sau những hàng cây này là dòng sông Huron tối đen. Loogan phóng xe ở tốc độ tối đa được phép, đèn pha rọi sáng những thân cây và cành lá. Mưa rơi nhẹ trên kính chắn gió. Anh giảm tốc, tìm ra lối rẽ và lái xe chầm chậm trên đoạn đường dài dẫn vào nhà. Ánh trăng chiếu lên mái nhà lát đá. Hai tia sáng nhỏ lọt ra từ hai cửa sổ được che rèm ở tầng trệt. Ngoài ra tất cả đều tối đen.
Loogan tắt động cơ, ra khỏi xe và đi theo con đường lát đá tới ngôi nhà. Anh bỏ lại những món đồ đã mua trong xe: chiếc xẻng, mấy gói đồ ăn. Cửa trước bật mở khi anh tới nơi. Tom Kristoll dẫn anh vào nhà.
“Hơn mười giờ đêm rồi,” Kristoll nói, “Tôi chưa từng gặp cậu khuya thế này. Tôi bán tín bán nghi việc cậu sẽ nhấc máy khi tôi gọi, kiểu như cứ sau một giờ nhất định nào đó trong ngày là cậu không còn tồn tại trên đời nữa”.
“Thì tôi đã đến rồi đây,” Loogan đáp.
“Tôi nói nhảm đấy. Đừng để bụng. Cảm ơn vì cậu đã tới. Cậu muốn uống gì không? Không à? Tôi thì lại muốn, vừa mới tợp
một ly xong. Nhưng thôi, uống một ly là đủ rồi.”
Họ đi vào phòng khách. Trên tay vịn ghế sofa có một chiếc ly rỗng. Những dầm gỗ chăng ngang phía trên, ánh sáng từ chiếc đèn bàn in bóng của chúng lên trần. Sàn nhà được lát đá, trong góc có một lò sưởi kiểu cổ với ngọn lửa cháy phía sau cánh cửa sắt.
Chân đi bít tất, Kristoll đi qua đi lại trong phòng. Anh ta mặc quần âu màu xám tro với đường kẻ nhạt. Áo sơ mi trắng thì nhàu nhĩ và bỏ thõng ra ngoài quần. Một chút râu mọc lởm chởm dọc theo quai hàm khiến khuôn mặt anh ta có vẻ phờ phạc.
“Có lẽ anh nên ngồi xuống,” Loogan nói.
Kristoll đứng khựng lại. Dường như chợt ý thức được vẻ bề ngoài của mình, anh ta cho áo vào trong quần, sau đó vuốt mặt bằng hai bàn tay.
“Không có thời gian đâu David.”
“Được rồi. Vậy thì chỉ cho tôi xem cái đó đi.”
Kristoll dẫn Loogan qua hành lang tối đen. Họ đến ngưỡng cửa phòng làm việc và Kristoll với tay vào trong để tìm công tắc đèn.
Loogan đã từng nhìn thấy căn phòng này. Trong bóng tối, anh hình dung về nó: ở cuối phòng có một bàn làm việc và ghế dựa, phía sau bàn là ba cửa sổ mái cong, kệ sách kê dọc tường hai bên, bốn ghế nệm được đặt đối diện nhau tạo thành một hình vuông hoàn hảo trong khoảng trống giữa căn phòng.
Đèn bật sáng. Kristoll lùi lại phía sau. Vật đầu tiên Loogan nhìn thấy là một trong những chiếc ghế đã bị lật để trên sàn.
Vật thứ hai là một xác người.
“Có vài điều tôi cần phải hỏi anh,” Loogan nói.
Anh đứng nhìn cái xác, hai tay đút túi. Kristoll thì đứng ở ngưỡng cửa.
“Hỏi đi,” Kristoll nói.
“Cái gì hiển nhiên thì hỏi trước, anh chắc chắn là hắn chết rồi chứ?”
“Hẳn rồi.”
“Nếu không thì sẽ rất rắc rối đấy.”
“Ngừng thở, không có nhịp tim. Hắn chết thật rồi.” Người đó thực sự có vẻ như đã chết. Anh ta nằm ngửa, mặt nghiêng sang bên trái. Đôi mắt mở to, trợn trừng. Bên thái dương đẫm máu. Tay trái duỗi thẳng, bàn tay mở; tay phải dọc theo thân người. Những ngón tay trắng nhợt chạm vào mặt sàn lát gỗ màu sẫm. Chân trái co, chân phải duỗi. Chỉ còn thiếu mỗi công đoạn kẻ vạch phấn xung quanh xác chết nữa thôi. “Anh không biết hắn là ai phải không?” Loogan nói. “Trước đây anh chưa từng gặp hắn.”
“Chưa bao giờ.”
“Vậy hắn đột nhập vào đây. Hẳn là một tên trộm.” “Thực ra hắn chưa phá hoại thứ gì cả. Cửa ngoài sân không khóa. Nhưng đúng vậy, tôi đoán hắn là một tên trộm.” Có lẽ là một tên trộm thật, Loogan nghĩ thầm. Hắn khoảng hơn ba mươi tuổi một chút, cơ thể săn chắc, mái tóc mỏng màu vàng. Khuôn mặt được cạo râu gọn gàng. Hắn mặc áo cao cổ màu đen đúng kiểu dân trộm cắp, quần kaki màu sẫm và giày
nâu. Trên cổ tay trái hắn có hình xăm: một họa tiết gồm những vòng tròn đan vào nhau.
“Hắn tới đây bằng cách nào vậy?” Loogan hỏi.
“Hắn đi ô tô,” Kristoll đáp.
“Tôi có thấy chiếc xe nào đâu.”
“Hắn đỗ xe bên đường dưới sườn đồi. Tôi đã đưa nó vào garage.”
Loogan đi nửa vòng quanh xác chết.
“Anh có chắc là muốn… làm việc này không?”
“Không thể để hắn ở đó như thế được,” Kristoll nói. “Cũng chưa quá muộn để gọi cảnh sát. Tự vệ chính đáng mà.” “Đương nhiên là thế.”
“Cảnh sát sẽ muốn biết tại sao anh không gọi điện thông báo ngay,” Loogan nói. “Hẳn là biết phải trả lời sao rồi: do bị kích động mạnh. Cũng hợp lý đấy chứ.”
“Tôi không chắc mình muốn đánh liều là cảnh sát có thể hiểu được,” Kristoll nói khẽ. Anh ta nghiêng người dựa trên khung cửa, mắt nhìn xuống sàn.
“Kể với tôi chuyện gì xảy ra đi,” Loogan nói. “Lúc đó anh ngồi ở bàn làm việc à?”
“Đúng thế. Tôi nghe có tiếng động ở lối vào.”
“Và thế là anh đứng dậy.”
“Phải. Hắn nhìn thấy tôi. Có lẽ hắn không nhận ra có người còn ở trong nhà. Hắn lao thẳng vào tôi.”
“Sau đó anh đánh hắn à? Bằng gì thế?”
Kristoll chỉ tay vào chai rượu Scotch Glenfiddich còn gần đầy trên một chiếc bàn thấp đặt giữa hai chiếc ghế.
“Cái này ở đâu ra?” Loogan hỏi.
“Từ bàn làm việc. Tôi cầm theo nó.”
“Anh nghe thấy có kẻ rình mò. Thế là anh cầm theo vũ khí. Vậy anh đánh hắn mấy lần?”
“Hai lần. Có thể là hơn. Tôi cũng không chắc.”
Loogan bỏ tay phải khỏi túi quần và xoa đằng sau gáy. “Sẽ tốt hơn nếu anh nhớ rõ điều đó… ” Anh nói, “và nếu như có nhân chứng nào khác nữa.”
“Tôi ở đây một mình,” Kristoll nói, “Laura đi vắng suốt cả buổi tối.”
“Đi đâu?”
Kristoll nhìn về phía cửa trước. “Cô ấy đến văn phòng ở trường Đại học. Tối nay cô ấy phải chấm bài.”
“Liệu mấy giờ thì cô ấy về?”
“Tôi không rõ,” Kristoll nói. “Đấy cũng là một trong những lí do khiến ta không thể trì hoãn được nữa. Tôi muốn hắn ta biến khỏi đây trước khi cô ấy về.”
Anh ta bước vào phòng, ánh đèn trên trần nhà in một đường sắc nét trên quai hàm.
“Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi, David. Nếu tôi báo cảnh sát, nhẹ nhàng lắm thì chuyện này cũng lên báo trên trang nhất. Rồi người ta sẽ bàn tán về nó. Tôi sẽ phải giải thích với tất cả những người mình biết. Chỉ nghĩ đến đã thấy khủng khiếp rồi. Mọi người sẽ nghĩ sao về tôi sau chuyện này? Mà đó vẫn còn là tình
huống dễ chịu nhất đấy nhé.”
Anh ta liếc nhìn cái xác.
“Trường hợp xấu nhất là đám cảnh sát sẽ nghi ngờ. Có thể hắn chưa có tiền án tiền sự gì, lại còn đi làm tình nguyện ở nhà thờ, có một tuổi thơ bi kịch hay những chuyện khốn kiếp đại loại thế. Ai đó ở phòng công tố quyết định phải đưa chuyện này ra ban hội thẩm. Rồi thì hai trong số ba người trong bồi thẩm đoàn không ưa vẻ mặt tôi. Tôi phải dành cả năm trời làm việc với luật sư và ngồi ở tòa án. Tôi không tưởng tượng nổi chuyện mười hai con người có trí tuệ phát triển bình thường nhất trí khép tội mình, nhưng ai mà biết được.”
Kristoll nghỉ một chút, đôi mắt sáng rực lên dưới hàng lông mày. Sau đó anh ta nói tiếp: “Hắn chẳng là gì với tôi cả. Đáng ra tên khốn này đừng có bước chân vào đây thì hơn. Tôi không hối tiếc những gì mình đã làm. Hắn không đáng để tôi tiêu tốn một phút nào. Giờ tôi định sẽ lái xe ra một bãi đất trống đâu đó, đào lỗ bỏ hắn xuống, và sau đó quên hẳn mình đã từng nhìn thấy hắn.”
Anh ta hướng cái nhìn của mình từ Loogan tới một dãy sách trên kệ dọc theo tường.
“Nãy giờ tôi thuyết giáo thế đủ rồi,” anh ta nói. “Nghe này, David. Cậu có thể rời khỏi đây nếu muốn. Đáng ra tôi không nên gọi cậu tới. Tôi sẽ tự giải quyết chuyện này. Cậu không phải nhúng tay vào đâu.”
“Nhưng giờ tôi đã tham gia vào chuyện này rồi.”
“Tôi đòi hỏi ở cậu nhiều quá.”
“Anh đã nhờ tôi giúp rồi.”
“Giờ nhận ra vẫn còn kịp mà.”
“Đó chính là điều mà nãy giờ tôi cố nói cho anh hiểu,” Loogan nói. ”Tôi vẫn tin rằng anh sẽ không gặp phải chuyện gì nếu nhờ tới cảnh sát. Nhưng nếu anh đã quyết vậy thì tôi sẽ giúp.”
Kristoll im lặng. Đôi vai anh ta vốn nãy giờ so lại giờ mới thả lỏng ra thoải mái.
“Cảm ơn David.”
Thái độ của Tom Kristoll thay đổi hẳn. Giờ anh ta thoải mái đứng dựa cánh tay vào lưng ghế, tay áo của chiếc sơ mi trắng đã được xắn lên.
“Tôi dám chắc là cậu vừa mới đi mua sắm,” anh ta nói với Loogan. “Cậu mua được chiếc xẻng tốt chứ?”
“Phải.”
“Tôi có ba chiếc xẻng khác ở trong garage, nhưng tất cả đều có cán đâm dài tới năm feet[2]. Chúng vô dụng trong… không gian hẹp.”
“Vậy thì cái xẻng mới mua dùng được đấy.”
“Chúng ta có lẽ sẽ bị phồng rộp cả tay lên trước khi xong việc. Đáng ra tôi phải nhắc cậu mua găng tay.”
“Tôi mua rồi,” Loogan nói. “Cả nước uống và bánh sandwich nữa. Ngoài ra tôi cũng mua một ít đất trồng cây và một can thuốc diệt cỏ.”
“Để làm gì thế?”
“Ngụy trang thôi. Người thu ngân ở đó đã rất tò mò muốn biết liệu tôi có phải thợ làm vườn không.”
“Gọi cậu tới đây quả là quyết định sáng suốt,” Kristoll cười
khẩy.
“Rồi sẽ biết,” Loogan nói. “Giờ chúng ta phải tính kế hoạch giải quyết chuyện này. Ban nãy anh nói tới một bãi đất trống, nhưng tôi không đồng tình lắm. Như vậy quá lộ liễu. Một khu đất có rừng bao phủ thì tốt hơn.”
“Quanh đây làm gì có chỗ nào như vậy.”
“Đúng thế. Có lẽ là ở đâu đó bên kia thành phố. Phải suy nghĩ cẩn thận mới được. Nhưng trước hết, anh phải làm một việc cho tôi đã.”
Kristoll lộ rõ vẻ bối rối. Loogan chạm vào cổ tay áo của chiếc sơ mi anh ta đang mặc.
“Anh cần phải thay quần áo.”
Những chiếc rèm trong phòng làm việc đã được đóng, nhưng sau khi Kristoll rời khỏi đó, Loogan bật đèn bàn bên cạnh một trong những chiếc ghế và tắt đèn trên trần nhà. Anh đưa bóng đèn tới gần cái xác và quỳ xuống bằng một chân. Anh vỗ nhẹ vào túi quần túi áo người đó, chỉ toàn tiền xu, không thấy chiếc chìa khóa nào có lẽ Kristoll đã lấy chúng để dời xe ô tô của hắn. Anh lật nghiêng cái xác một chút để có thể kiểm tra túi sau. Trong đó, anh tìm được một chiếc khăn mùi soa nhưng không thấy ví. Theo phản xạ anh giơ mu bàn tay tới gần mũi và miệng của người đó. Không thấy hơi thở. Anh đặt hai ngón tay lên khuỷu tay hắn. Da thịt không ấm cũng không lạnh. Đương nhiên là không thấy mạch đập. Anh cẩn trọng nhấc tay phải hắn lên và nhìn vào các đầu ngón tay. Bên dưới những móng tay có màu đỏ. Anh đặt lại tay xác chết xuống sàn và đứng dậy. Anh chợt nhận ra mình đang run rẩy và tim đập liên hồi.
Anh nhìn kĩ lại xác chết một lần nữa hòng tìm ra những điểm đáng chú ý khác. Chiếc tất của hắn đã bị tuột ra ở cẳng chân phải, một chút da trắng lộ ra dưới gấu quần. Loogan quỳ xuống và nhấc gấu quần lên. Có một đường hằn trên da vòng quanh cổ chân người đó, so với dấu vết thường thấy do một chiếc tất tạo ra thì nó quá sâu và sắc nét.
Loogan đứng dậy. Anh nghe thấy tiếng chân trên cầu thang. Kristoll đã đổi sang một đôi giày đi bộ. Anh ta xuất hiện ở cửa phòng làm việc trong trang phục quần jeans, áo sơ mi kẻ không cài khuy, một chiếc áo phông trắng ở trong và áo khoác jeans bên ngoài.
“Tôi tìm được một chỗ rồi,” anh ta nói.
4
X
e ô tô của tên trộm là một chiếc Honda Civic có cửa sau. Tấm chắn bùn bị gỉ còn kính chắn gió bị nứt, nhưng giảm xóc vẫn tốt và động cơ chạy êm. Loogan lái xe theo hướng đông nam về phía thành phố, chạy dọc đường bờ sông. Cơn mưa đã tạnh hẳn.
Anh tới ngoài rìa thành phố, qua cầu và đi theo hướng đông bắc. Các biển hiệu dần xuất hiện quanh anh: khu mua sắm, trạm xăng. Anh thầm nghĩ mình vẫn có thể thay đổi ý định. Anh chẳng nợ nần gì Tom Kristoll. Anh có thể đơn giản dừng xe ở bất kì bãi đỗ nào, vứt chiếc xe ở đó, tìm một bốt điện thoại công cộng, gọi taxi về ngôi nhà của vị giáo sư sử học, lấy tất cả những món đồ cần thiết, đi một taxi khác ra sân bay, lên chuyến bay đầu tiên rời khỏi đó. Tới sáng, anh đã ở một thành phố khác rồi.
Anh vẫn tiếp tục lái xe, bỏ lại những biển hiệu phía sau. Anh đi chậm dần theo hướng bắc, mắt tìm khoảng trống giữa những hàng cây. Có hai cột gỗ, ở giữa là lối đi trải sỏi. Đi thêm một đoạn, lối đi dần mở rộng tới một bãi trống. Những tấm gỗ đóng đường tàu đánh dấu ranh giới bãi đất.
Anh tắt máy, tắt đèn pha. Đống đồ đạc ở cạnh anh trên ghế
trước, cái xẻng và một chiếc cào anh lấy từ garage của Kristoll nằm trên ghế sau. Anh mở một chai nước, uống một nửa trong khi vẫn ngồi trong xe. Anh nhận thấy cửa bên cạnh chưa chốt bèn lơ đãng đưa tay khóa nó lại. Chợt anh cảm thấy mình thật ngu ngốc.
Anh ra khỏi xe và chờ đợi trong bóng tối, uống nước, làm quen với việc chỉ có một mình nơi này, sẽ không có ai xông tới chỗ anh từ phía đám cây hay ngoài rìa bãi đất.
Mặt trăng rọi sáng trên cao, chưa tròn hẳn. Anh đợi một chút cho mắt quen với bóng tối và nhìn thấy phía bên phải có một con đường dẫn vào trong rừng. Một biển báo cắm ở đầu đường trong bóng tối anh không đọc được, nhưng anh biết trên đó viết gì: Công viên Marshall.
Mười phút sau, anh nghe thấy tiếng một chiếc xe khác. Cặp đèn pha nảy lên trên con đường trải sỏi và cuối cùng một xe Ford đậu bên cạnh chiếc Civic.
Tom Kristoll bước dứt khoát. Những viên sỏi vỡ vụn dưới giày anh ta khi Tom đi tới chỗ Loogan đang đứng. “Chỗ này ổn đấy,” Kristoll nói. “Tôi đã đúng phải không nào? Ở phía đường chẳng nhìn thấy gì đâu.”
“Đúng là không thấy.”
“Vào giờ này cũng chẳng còn ai quanh đây nữa.” Anh ta nhấn một nút trên đồng hồ đeo tay và mặt anh ta sáng lên trong bóng tối. “Xin lỗi vì tôi đến muộn. Tôi vừa định đi bỗng nhớ ra khi Laura về sẽ thấy ngôi nhà trống không và xe anh nằm ở lối vào. Thế nên tôi viết vội một mảnh giấy báo với cô ấy tôi và cậu đang đi xem phim, sau đó có thể đi uống một chút. Không phải là lời
nói dối đáng tin nhất, nhưng biết làm sao được.” Kristoll khóa xe, họ lấy chiếc xẻng và cào rồi đi theo con đường nhỏ. Kristoll chiếu đèn pin trên mặt đường phía trước. Khi đi hết con đường, họ đâm xuyên qua rừng khoảng hai mươi hoặc ba mươi yard[3] tới một bãi trống. Lá khô và cành cây phủ kín mặt đất. Họ bỏ lại dụng cụ ở đó và đi ngược lại con đường, sau đó xếp một cành cây gãy để đánh dấu lối vào. Họ đã lôi xác tên trộm ra khỏi phòng bằng một chiếc giường gấp lấy từ tầng hầm nhà Kristoll thay cho giường có xe đẩy. Sau đó, họ lại dùng nó để chuyển cái xác từ cốp chiếc Ford của Kristoll lên trên đồi tới bãi trống. Đó là một việc khó khăn, nhưng họ có đủ thời gian. Kristoll đã trùm kín đầu và thân trên tên trộm bằng túi nylon. Nó sáng lên yếu ớt dưới ánh trăng. Họ đặt chiếc giường gấp ở rìa phía xa của bãi trống, giữa hai cây bu lô. Loogan giữ áo khoác và đặt nó xuống đất. Kristoll thì đã nhặt chiếc cào lên rồi bắt đầu quét lá và cành cây khỏi bãi trống.
Ánh trăng len lỏi rọi qua các ngọn cây. Những ngôi sao dần hiện rõ hơn. David Loogan ngồi trên một đám rêu, tựa lưng vào một thân cây uống những giọt cuối cùng trong chai nước mang theo. Anh căng tai lên chú ý xem có tiếng nói, tiếng bước chân hoặc tiếng động cơ ô tô hay không. Rốt cục anh chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng thở của Kristoll, tiếng lưỡi xẻng đâm xuống mặt đất.
Mọi việc tiến triển thuận lợi. Thoạt đầu Kristoll bắt tay vào việc trước, đánh dấu một hình chữ nhật trên mặt đất, dùng xẻng xúc từng đống đất lớn đổ sang bên cạnh. Sau đó, hai người
làm thay phiên nhau, đổ đất sang cùng một bên miệng hố, cào bớt khi đống đất quá cao. Chiếc đèn pin của Kristoll được buộc trên một cành cây bằng khăn mùi soa rọi sáng khung cảnh bên dưới. Huyệt mộ ngày càng sâu thêm, đến nỗi giờ chỉ còn đầu và vai của Kristoll nhô lên khỏi mặt đất.
Loogan đứng dậy và đi găng tay. Cả cánh tay anh bê bết bùn đất. Đất lẫn cả vào tóc, và quần áo anh cũng nhuốm màu đất. Kristoll đã cởi bỏ chiếc áo khoác jeans, chiếc áo phông trắng giờ đã chuyển hẳn thành màu đen.
Loogan tiến tới phía bên rìa hố và Kristoll ngước nhìn lên. “Nghỉ ngơi chút đi, David,” anh ta nói. “Tôi còn làm được vài phút nữa.”
Nhưng Loogan lắc đầu và Kristoll đành chịu thua. Họ đổi chỗ cho nhau: Loogan ngồi trên miệng hố, trượt xuống và dùng tay đỡ chân cho Kristoll leo lên.
“Sắp xong rồi,” Kristoll nói. “Sâu thêm một foot rưỡi nữa.” Mọi chuyện lại tiếp tục. Họ đổi chỗ lần nữa. Sau cùng Kristoll ném chiếc xẻng qua miệng hố, tuyên bố công việc đã hoàn tất. Loogan giúp anh ta trèo ra khỏi đó.
Họ tới chỗ chiếc giường xếp, mang nó tới rìa hố. Không nói với nhau lời nào, họ cùng ngừng lại và đứng im lặng một phút bên xác tên trộm. Thế rồi, vì chẳng có cách nào trang trọng hơn để làm việc này, họ kéo lê chiếc giường xếp tới bên miệng hố, nhấc một bên khung giường lên và để cái xác vào trong.
“Có gì đó không ổn,” Loogan nói.
Kristoll đã nhặt chiếc giường xếp lên và bắt đầu lấp cái hố. “Sao thế?,” anh ta hỏi.
“Mọi chuyện diễn ra thuận lợi quá,” Loogan đáp. “Hai người đi chôn một xác chết trong rừng và thành công mỹ mãn. Không căng thẳng tí nào. Anh hiểu ý tôi chứ?”
“Không hiểu lắm.”
“Nếu đây mà là một truyện để đăng trên tờ Gray Streets thì anh đã thẳng tay loại bỏ nó rồi.”
Kristoll mỉm cười. Anh ta chậm rãi lôi chiếc giường gấp trên mặt đất.
“Nếu đây là một truyện để đăng trên tờ Gray Streets,” anh ta nói, “tôi sẽ bị nổ lốp xe giữa đường. Một tay cảnh sát tốt bụng sẽ ló mặt ra ngay khi tôi đỗ xe bên lề đường. Đây mà là truyện trên Gray Streets thì sẽ có cả một cô gái tóc vàng bí ẩn nữa, có lẽ cô ta sẽ phang tôi một cú vào đầu và đẩy tôi lăn xuống cầu thang.”
Kristoll chĩa tay cầm của chiếc giường xếp vào xác tên trộm. “Nếu đây mà là truyện đăng trên Gray Streets, hắn chỉ giả vờ chết thôi. Cậu và hắn ở cùng một phe và tất cả mục đích của chuyện này là dụ tôi vào rừng và khiến tôi tự đào huyệt chôn mình,” anh ta thoải mái dang rộng hai tay. “Nếu cậu định giết tôi, cứ dùng cái xẻng. Tôi chỉ cần không đâm vào mặt.” Loogan lắc đầu.
“Tôi chẳng còn đủ sức đâu. Nhưng anh nói đúng ý tôi đấy. Nếu đây mà là truyện hư cấu, mọi thứ sẽ kịch tính hơn thế này nhiều. Nhưng chúng ta đã bỏ sót gì nhỉ? Thử xem lại kế hoạch nhé. Chúng ta chôn cái xác trong rừng, thu gom dụng cụ, nhặt hết mấy chai nước rỗng không để lại dấu vết. Khi tới chỗ xe dưới chân đồi, chúng ta lau rửa một chút, thay quần áo. Tôi lái xe của tên trộm, anh theo sát phía sau. Rồi chúng ta đi tới một khu bất
hảo, vứt cái xe lại đó trên phố. Vậy là xong. Cái xác, chiếc ô tô đều đã được phi tang, Còn thiếu gì vậy nhỉ?”
Kristoll nắm cán cầm của chiếc giường xếp, đặt nó đứng thẳng. Anh ta tì cằm lên mu bàn tay. “Cậu tỏ ra vụng về,” anh ta nói. “Cậu quên lau dấu vết trên bánh lái. Vậy là cậu đã để lại dấu vân tay.”
“Được đấy. Tôi sẽ nhớ lau bánh lái. Còn gì nữa không?” Kristoll dường như suy nghĩ về câu hỏi này một lúc, sau đó nhún vai.
“Còn khẩu súng thì sao?” Loogan hỏi.
Chiếc đèn pin được chiếu vào huyệt mộ, nhưng dưới ánh sáng của nó Loogan có thể thấy rõ mặt Kristoll. Khuôn mặt anh ta tối sầm lại trong giây lát và rồi sức sống lại trở lại trên đó. Đầu tiên là ở mắt, đôi mắt của một người đang toan tính. Một nụ cười thoáng xuất hiện trên mép Kristoll.
“Cậu đã chờ mãi để hỏi tôi câu đó đúng không? Kiên nhẫn ghê nhỉ.”
Loogan im lặng.
“Làm thế nào cậu biết về khẩu súng?” Kristoll hỏi. Câu hỏi đó lơ lửng trong không khí bên trên bãi đất. Ở bên cạnh, cành cây treo chiếc đèn pin đung đưa nhè nhẹ. Bóng ánh sáng hình tròn đảo trên mặt đất.
“Tên trộm có một vết ở cẳng chân,” Loogan nói. “Đó là dấu vết của chiếc đai đeo bằng da.”
“Cậu là thám tử à?” Kristoll cười nhẹ.
“Không. Tôi chỉ đọc rất nhiều truyện. Người ta thường hay
đeo gì ở cẳng chân? Hẳn là bao súng. Trong bao súng thì có gì nhỉ?”
“Hiển nhiên rồi.”
“Vậy hắn có một khẩu súng,” Loogan nói, “Thật là một sự thật thú vị. Thêm nữa: anh đã lấy khẩu súng đó. Tôi có thể nghĩ ra hai lý do cho việc này. Thứ nhất, anh cảm thấy bị đe dọa. Nhà anh bị đột nhập. Anh lập kế hoạch ra ngoài vào ban đêm để phi tang một cái xác. Khi đó một khẩu súng sẽ giúp anh cảm thấy yên tâm hơn nhiều”.
Loogan nhìn kĩ khuôn mặt Kristoll trong ánh sáng tù mù. “Còn lí do thứ hai,” Loogan nói, “tốt hơn là không nên nói ra. Anh không muốn nghe đâu.”
“Cứ nói đi.”
“Không sao đâu, Tom. Anh có thể giữ những bí mật của mình.”
“Nghe có vẻ cậu đã biết hết rồi. Cứ nói đi.”
“Được thôi,” Loogan nói. “Anh lấy khẩu súng vì nó gây bất lợi cho anh. Câu chuyện của anh đã vô lí sẵn rồi, khẩu súng khiến nó thật tức cười. Một tên trộm đột nhập vào nhà anh, có lẽ là để ăn cướp. Nếu hắn thực sự là trộm, hắn phải nhận ra ngay có ai đó đang ở trong nhà. Nếu hắn đã mang súng, đáng ra hắn phải cầm nó ở tay cho tới khi chắc chắn trong nhà không có ai. Nhưng đằng này lại không. Nếu hắn cầm súng, anh không giết nổi hắn bằng một chai Scotch đâu.”
Loogan chuyển cái nhìn từ Kristoll sang phía ngôi mộ. “Như thế có nghĩa là anh biết hắn. Hắn không phải là một tên trộm. Anh đã để hắn vào nhà. Hắn cảm thấy an toàn nên không
cần cầm súng. Cứ để nó trong bao đeo ở cẳng chân là ổn. Đó là câu chuyện hợp lý duy nhất. Cũng vì lí do đó chúng ta phải đem hắn đi chôn. Nếu hắn là một kẻ lạ mặt, chúng ta hoàn toàn có thể vứt xác hắn ở đâu đó. Người ta tìm ra hắn thì cũng có sao đâu. Chẳng ai nghi ngờ anh cả. Nhưng anh phải chôn hắn đi, vì anh có quen biết hắn.”
Kristoll hít một hơi thật sâu.
“Tôi sẽ nói cho cậu biết hắn là ai, nếu cậu muốn biết.” “Anh không cần phải kể cho tôi,” Loogan nói. “Nhưng anh cần nghĩ tới khẩu súng. Đó là súng của hắn. Có thể người ta sẽ dò ra khẩu súng này thuộc về hắn. Nếu anh giữ nó, điều đó có thể khiến anh liên quan tới hắn.”
“Cậu nói đúng, David. Tôi sẽ thủ tiêu nó.”
“Làm ngay đi. Anh cầm theo nó tới đây phải không? Nếu phải đoán, tôi cho rằng anh đang đeo ở cẳng chân.”
Kristoll để mặc chiếc giường xếp đổ xuống đất và bước chân phải lên. Anh ta kéo ống quần jeans, thoạt đầu để lộ ra trong ánh đèn pin một bao đeo súng bằng da màu nâu, sau đó là một báng súng lục mạ kền. Kristoll quỳ một chân xuống và cởi dây đeo, sau đó đứng thẳng lên và rút súng ra. Anh ta giao lại nó cho Loogan.
“Rõ là loại súng cỡ nhỏ,” Kristoll nói, tay ước lượng cân nặng của nó, “tôi đoán có lẽ là cỡ hai mươi hai hoặc ba mươi hai. Đáng ra tôi phải biết nhiều hơn về súng ống mới phải.”
Loogan lau bao súng bằng áo sơ mi và thả nó xuống huyệt mộ. “Tôi không biết nó có được nạp đạn hay không,” Kristoll nói, “hay thậm chí cả cách kiểm tra cái đó. Tôi cho rằng nó có nạp
đạn.”
“Có một nút ở bên cạnh để mở chốt,” Loogan nói. “Nhưng súng có nạp đạn hay không chẳng quan trọng, trừ khi anh định sử dụng nó. Quanh đây chẳng có ai ngoài chúng ta. Anh định bắn tôi à?”
Bàn tay Kristoll nắm lại quanh báng súng. Anh ta chĩa súng xuống mặt đất.
“Tôi không đủ sức.”
“Vậy thì lau nó đi và vứt xuống dưới đó,” Loogan nói. “Hãy hoàn thành nốt công việc quái quỷ này và biến khỏi đây thôi.”
5
“C
ó một thứ cậu đã đoán sai, David à. Hắn thực sự là một tên trộm. Tôi không nói dối chuyện đó đâu.”
Họ đang đi về phía Tây trên chiếc xe của Tom Kristoll. Kristoll ngồi sau bánh lái, bận áo phông Và quần jeans mới; Loogan ngồi cạnh anh ta trong bộ đồ đi mượn dùng để tập chạy màu xám. Họ đã bỏ lại chiếc xe Civic màu xanh da trời trên phố trước một căn hộ bỏ hoang.
“Tên hắn là Michael Beccanti,” Kristoll nói. “Tôi gặp hắn ba năm trước. Nói ‘gặp’ cũng chưa chính xác lắm, chúng tôi chỉ viết thư cho nhau thôi. Hắn đọc một mẩu chuyện trên tờ Gray Streets, thấy thích nó và viết thư cho tôi về chuyện đó. Tôi hồi âm một cách lịch sự. Sau đó hắn gửi tôi một truyện. Nó đầy rẫy lỗi chính tả, được viết tay trên giấy màu vàng. Tuy thế ý tưởng cũng khá ổn: nếu tôi nhớ không nhầm, một câu chuyện về sự trả thù. Một tay buôn ma túy giết vợ của một người đàn ông, sau đó người này gây nên một cuộc chiến giữa tay buôn ma túy và một trong những đối thủ của hắn. Tôi đã làm việc với hắn về truyện này, cùng nhau sửa lại sao cho hay hơn. Sau đó tôi cho đăng lên tạp chí. Hắn viết thêm vài truyện nữa. Chúng đều phải chỉnh sửa rất nhiều, nhưng hắn có dư thời gian để viết lại. Lúc đó hắn
đang ngồi tù. Họ tóm được hắn sau một loạt những vụ đột nhập và ăn trộm. Theo lời hắn kể, hắn cũng khá giỏi làm chuyện đó. Hắn sẽ hành động vào những đêm trời nóng, khi mọi người để cửa sổ mở, và chui qua rèm cửa vào nhà. Lúc đó có ai ở nhà hay không chẳng quan trọng hắn làm mọi thứ rất nhẹ nhàng nhanh gọn. Cuối cùng một đêm nọ, có người tỉnh giấc khi hắn đang hành sự - một tay rắn mặt hình như theo tôi nhớ làm nghề lái xe chở rác và rón rén tới bên Beccanti với cây gậy bóng chày trong tay. Thế là cảnh sát tóm được hắn. Trước đó hắn chưa từng bị bắt, vậy nên lần này hắn tin tưởng mình sẽ được lãnh án treo. Nhưng cảnh sát đã biết tất cả về hắn. Hóa ra lần nào hắn cũng cắt rèm cửa theo cùng một cách một nhát phía trên, một nhát phía dưới, rồi một nhát chéo tạo thành một hình giống như chữ Z. Thế nên họ có cả một chồng hồ sơ dày cộp: Ba mươi mốt vụ đột nhập. Họ thậm chí còn đặt biệt danh cho hắn là Zorro.”
Kristoll nhìn thẳng khi nói. Loogan quan sát anh ta từ ghế bên cạnh.
“Hắn được tha khỏi trại tù Jackson năm ngoái, quay trở lại Ann Arbor. Hắn gọi điện cho tôi, rất trịnh trọng, và hỏi liệu có thể gặp tôi được không. Vậy là chúng tôi đi ăn trưa cùng nhau. Hắn kể việc thích nghi trở lại với cuộc sống bình thường khó khăn như thế nào. Cảnh sát quản thúc tìm được cho hắn ở đâu đó công việc xếp hàng lên kệ mà hắn thấy căm ghét. Tôi đoán hắn muốn mình giúp tìm kiếm công việc khác khả dĩ hơn. Tôi khá quý hắn, nhưng không thể nhận hắn về làm được mà cũng chẳng biết giới thiệu hắn cho ai cả. Hắn cũng không đòi hỏi gì nữa. Sau đó thỉnh thoảng tôi gặp lại hắn. Một lần hắn đến văn phòng tôi với một tác phẩm mới. Tôi trả tiền cho hắn, mặc dù
không cho đăng lên tạp chí.
“Một buổi tối hắn tới nhà tôi. Hắn thấy có lỗi khi phải làm phiền tôi ở nhà, nhưng có việc rất quan trọng cần bàn với tôi. Vậy là tôi cho hắn vào nhà, tôi thấy cũng chẳng có dấu hiệu gì nguy hiểm. Chúng tôi vào phòng làm việc và hắn bắt đầu kể về một người phụ nữ hắn đã gặp. Hắn kể vòng vo một lúc, cuối cùng mới nói hắn đã làm cô ta có thai. Giờ phải trả tiền thuốc thang. Hắn cần tiền: Năm nghìn đô la. Tôi không biết làm cách nào mà hắn tính ra con số đó. Tôi chỉ nghĩ hắn nói vậy để làm sao xin được nhiều tiền nhất có thể. Thế nên tôi nói rằng hiện tôi không có đủ năm nghìn đô la giúp hắn. Hắn mỉm cười, như thể thực sự ngạc nhiên. Chẳng nhẽ một người sống trong ngôi nhà như vậy, bên cạnh bờ sông lại không có đủ năm nghìn đô la hay sao?
“Sự thật là căn nhà đó đã được thế chấp, và phần lớn thu nhập từ tờ Gray Streets được đầu tư lại ngay vào tòa soạn. Laura kiếm được nhiều hơn từ công việc của cô ấy ở trường đại học so với lợi nhuận thực tôi kiếm được từ tòa báo. Thế nên tôi không thể giúp hắn. Tôi đành nói thẳng cho hắn hiểu rằng chẳng thể lấy đâu ra tới năm nghìn đô la được. Hắn chẳng tỏ ra sốt ruột, cũng không hề lên giọng, tuy nhiên vẫn chưa chịu thua. Hắn nói sau này sẽ trả lại khoản đó nếu tôi cho hắn vay. Tôi từ chối. Tôi nói hắn có thể tìm tới Quỹ Phúc lợi chung Medicaid. Nhưng lúc đó tôi nhận thấy có vẻ tất cả những gì hắn kể với mình đều là dối trá. Hắn không cần tiền thuốc thang gì cả. Cuối cùng tôi nói thẳng: ‘Thực ra chẳng có cô gái nào, phải không?’ Thái độ hắn thay đổi hẳn. Hắn cười lớn. Đó là một tràng cười ngắn, một phút mất kiểm soát. Hắn nhanh chóng dập tắt nó và sau đó
không nói thêm lời nào, như thể hắn quyết định thời gian nói chuyện đã kết thúc. Lúc đó hắn ngồi trên ghế trong phòng làm việc, và tôi ngồi đối diện hắn. Hắn cúi xuống và bắt đầu kéo ống quần. Tôi nhìn thấy cái bao da, một vật gì đó bằng kim loại. Tâm trí tôi tự xâu chuỗi các chi tiết. Bao súng. Súng. Chai rượu nằm trên bàn bên cạnh tôi khi hắn vào tôi đã mời hắn một ly. Thế rồi tôi đứng dậy. Hắn đang lần mò gì đó nơi cẳng chân, tôi đoán khẩu súng đã bị mắc vào đâu đó. Chai rượu đã nằm trong tay tôi. Tôi đưa tay ra sau lấy đà, phang mạnh vào đầu hắn. Tôi cứ tưởng cái chai sẽ vỡ, nhưng không. Khi đó tôi cầm cái chai, nhìn vào nhãn hiệu lộn ngược một cách kinh ngạc.
“Hắn ngã xuống sàn, chống bằng tay và đầu gối. Khẩu súng nằm dưới tay hắn. Nó không chĩa vào tôi. Nhưng điều đó không quan trọng. Tôi không biết cậu đã từng đối mặt với chuyện gì tương tự thế này chưa, David à. Một cảm giác thật nguyên sơ chiếm lấy tôi. Giờ sau khi mọi chuyện kết thúc, tôi mới nghĩ liệu lúc đó hắn định sẽ làm gì. Hắn muốn dọa tôi bằng khẩu súng. Hắn không muốn giết tôi. Có lẽ nện hắn một đòn là đủ, có thể tôi nên đá văng khẩu súng ra xa. Tôi chẳng biết nữa. Tôi căm ghét chính mình vì đã để hắn vào nhà, căm ghét hắn đã làm tôi sợ hãi. Tôi muốn hắn phải chết. Tôi vung cái chai ra sau lần nữa, rồi giáng xuống. Lần này cú đánh chỉ sượt qua khiến tôi không hài lòng. Lần kế tiếp tôi cẩn trọng hơn. Tôi nhắm thẳng thái dương hắn và ra đòn bằng cả thân người. Tôi cảm thấy cái chai đi trúng đích. Hắn gục xuống. Tôi nhặt khẩu súng lên, cầm nó đứng bên cạnh hắn. Không thấy hắn cựa quậy gì. Một lúc sau tôi dùng chân lay lay và sau đó lật hắn nằm ngửa. Tôi làm các động tác kiểm tra mạch đập, nhưng thực ra tôi biết hắn đã
chết.”
Kristoll không nói gì nữa. Họ đã đi qua thành phố và giờ đang lái xe dọc theo bờ sông về phía bắc và tây bắc. Gió cuốn bay những chiếc lá trên các cành cây bên đường. Loogan ngả đầu vào cửa kính ô tô và nhắm nghiền mắt.
“Sao mà im lặng thế,” một lúc sau, Kristoll nói, “Cậu đang nghĩ gì vậy?”
“Tôi chỉ đang rà soát lại câu chuyện của anh thôi,” Loogan mở mắt trả lời. “Cũng không tệ. Nếu anh thấy như vậy là ổn thì tôi cũng thế.”
“Rất vui vì được nghe điều đó.”
“Rất thuyết phục, tôi đã thử đoán xem bao nhiêu phần trong đó là sự thật. Tôi muốn tin rằng ít nhất những gì anh kể cũng gần với sự thật hơn một chút.”
Móng tay Kristoll cạy trên bánh lái. Anh ta gạt bụi trên hàng đồng hồ.
“Tôi cũng muốn có thể kể cho cậu sự thực, David à.” “Tôi tin là anh muốn thế,” Loogan nói, ngồi thẳng dậy. “Có lẽ không nên nói tới chuyện đó nữa. Giờ muộn rồi và cả hai chúng ta đều mệt mỏi. Ý tôi là, cũng giống như tôi đã nói lúc nãy, anh có thể giữ những bí mật của mình.”
Cực kì cẩn trọng, Kristoll vòng xe quanh một đường lượn. “Tôi rất cảm kích vì điều đó, David. Ước gì mọi chuyện khác đi nhưng mà… tôi cũng có những lí do của riêng mình.” “Đương nhiên. Tôi không cần biết chúng là gì. Một người chết trong nhà anh, đó quả là một gánh nặng mà anh phải chịu
đựng. Những chi tiết cụ thể chẳng quan trọng. Nó là một gánh nặng, thậm chí ngay cả lúc trên móng tay hắn có máu và vài mảnh da trong khi anh chẳng có vết xước nào trên người, thậm chí hắn đánh nhau với ai khác chứ không phải anh, hay thậm chí cả khi anh không giết hắn.”
* * *
Ngày hôm sau Loogan tỉnh giấc lúc hai giờ chiều. Anh cảm thấy đau lưng khi ngồi trên giường, đau chân khi bước xuống cầu thang, đau vai khi rót nước vào cốc và với tay lấy thuốc giảm đau trong kệ tủ bếp trên cao.
Mặc dù đã tắm đêm hôm qua, anh lại tắm thêm lần nữa, và thay đồ. Lúc ba giờ, anh lái xe tới khu kí túc xá của trường Đại học. Anh để xe ở một nơi chẳng liên quan, sau đó đi ngang qua sân trường. Mặt trời đã lặn. Anh ngồi trên ghế băng nhìn ra giảng đường Angell. Đám sinh viên đi ngang qua anh trên vỉa hè, chuyền tay nhau một bao thuốc lá. Lúc ba giờ hai mươi phút, Laura Kristoll bước xuống những bậc thang của giảng đường Angell. Đi bên cô là hai sinh viên, một cô gái với mái tóc hung cùng một chàng trai có chòm râu và ria mép đen, đầu cạo trọc. Loogan nhận ra đã gặp họ tại các buổi tiệc trong ngôi nhà bên bờ sông Huron.
Loogan đứng lên khỏi ghế và Laura nhìn thấy anh. Cô nói gì đó với hai sinh viên và sau đó ai đi đường nấy. Cô gái có mái tóc hung ngoái nhìn Loogan rồi nói gì đó với cậu sinh viên đầu trọc.
Laura Kristoll mặc một chiếc áo khoác len dài và quàng khăn lụa. Mái tóc vàng của cô buông trên nền lụa. Loogan đứng nguyên chỗ ghế băng và đợi cô đi tới chỗ mình.
“Chào anh, David,” cô nói, “Theo em được biết anh và Tom đi vào thành phố đêm qua.”
“Đúng vậy.”
“Đi xem phim và sau đó uống rượu,” cô nói. “Em đoán rằng các anh uống rượu là chính phải không? Tom ngủ say như một chú gấu cả buổi sáng.”
“Anh cũng vậy.”
“Anh cũng thế, nhưng không phải như gấu. Anh ngủ hẳn là nhìn rất đẹp. Sau đó anh tỉnh giấc và tới đây,” đó là một câu nói bình thường nhưng đôi mắt cô lại khiến nó trở thành một câu hỏi.
“Anh cần gặp em,” Loogan nói nhỏ. “Anh hi vọng là chúng ta… đủ kín đáo.”
“Đừng nói vậy,” cô nói. “Anh thì lúc nào chẳng kín đáo.” “Anh cần nói chuyện với em vài phút,” anh làm giọng tinh quái, “chúng mình có thể vào văn phòng em được không?” “Anh ngọt ngào lắm, David. Nhưng giờ em có một buổi họp.” “Đến muộn một chút cũng được mà. Vào văn phòng đi. Anh cần gặp em một lát.”
Cô do dự một chút, sau đó quay đi không nói một lời và bước lên những bậc thang của giảng đường Angell. Anh theo cô tới văn phòng trên tầng hai. Cô khóa trái cửa và ung dung đóng rèm cửa sổ. Cô cởi áo khoác và bỏ nó trên ghế. Thế rồi cô xoay
người và ép chặt cơ thể mình vào anh. Anh hôn mãnh liệt lên môi, lên cổ cô. Anh xé rách chiếc khăn lụa; các ngón tay lần cởi cúc áo của cô. Tay phải anh vuốt ve khắp bụng cô, tay trái thì đặt trên cổ.
Cô bật ra một tiếng thở dài.
“Em thực sự không có thời gian, David. Người ta đang chờ em kìa.”
“Anh chỉ muốn ngắm nhìn em thôi,” anh nói. “Sau đó em có thể đi.”
Anh kéo chiếc áo xuống dọc theo hai cánh tay cô, mở cúc áo lót cô và cởi ra theo cùng một cách. Anh nâng hai cánh tay cô sao cho chúng song song với nền nhà, sau đó dùng ngón tay trỏ vẽ một đường từ cổ tay cô tới bả vai, rồi một đường thẳng giữa sống lưng. Anh xoay người cô lại đối diện mình và vẽ một đường nữa từ đám tàn nhang trên cổ cô tới giữa hai bầu ngực.
“Đó là tất cả những gì anh muốn,” anh nói.
Cô ngả người trên bàn, cặp mắt xanh nhìn thẳng vào mắt anh.
“Em thật hoàn hảo,” anh nói. “Làn da không chút tì vết.” Cô với tay cầm lấy cổ áo anh và kéo anh lại gần. Anh cảm thấy làn môi cô trên cổ mình, nghe thấy lời thì thầm của cô: “Nguy hiểm.”
* * *
Một tuần liền Loogan không gặp lại Tom Kristoll. Họ gặp
nhau tối nay. Loogan dành cả buổi chiều trong thành phố để xem hai bộ phim nước ngoài mà anh chẳng thể diễn tả nổi cốt truyện. Hôm qua, anh lái xe tới Toledo để xem một triển lãm về lịch sử nghề làm thuỷ tinh. Hôm trước nữa, anh đi xem một vở kịch ở Chicago và nghe một buổi hòa nhạc ở Detroit.
Giờ anh đang ngồi trên xích đu nơi hành lang ngôi nhà thuê của mình, ngắm mưa rơi từ bầu trời màu xám lạnh lẽo. Anh cầm bút ở tay, một cuốn sổ mở rộng đặt trên đùi. Anh đang ghi lại những gì đã choán lấy tâm trí anh khi ở Toledo, Chicago và Detroit.
Một người được Tom Kristoll nhận dạng là Michael Beccanti đã bị giết đêm ngày mùng Bảy tháng Mười trong văn phòng ở nhà của Tom bên sông Huron.
Người chết có một khẩu súng đeo ở cẳng chân - tại sao vậy? Có dấu máu và da dưới móng tay của hắn, chứng tỏ đã có một cuộc xô xát với kẻ giết người. Nhiều khả năng hắn đã cào xước mặt, cổ, cánh tay hay bàn tay của kẻ giết người. Tom không có bất kì vết xước nào ở những chỗ đó.
Laura Kristoll không có vết xước nào trên cơ thể, ngoài ra ít có khả năng, mặc dù chuyện này vẫn có thể xảy ra, cô ta đủ mạnh để giết một người đàn ông bằng một chai Scotch.
Nếu cả Tom lẫn Laura đều không giết Beccanti, hẳn là hắn đã bị giết bởi một người khác. Người đó đã rời đi ngay sau khi xong việc. Hắn không ở lại giúp phi tang xác nạn nhân, tại sao?
Có thể Tom đã nói dối về nhân thân của người chết. Có thể hắn không phải Michael Beccanti. Thậm chí có khả năng chẳng ai là Michael Beccanti trong chuyện này cả.
Mưa rơi trên lan can hành lang, lên mũi chiếc giày Loogan đang mang.
Người chết, dù đó là ai, đã bị giết ở nhà Kristoll. Kẻ giết người nhiều khả năng có quan hệ với Tom và Laura Kristoll. Loogan ngừng lại. Anh có biết ai có quan hệ với Tom và Laura không? Có rất nhiều thực tập sinh và các cây viết của tạp chí Gray Streets. Một vài người bạn anh đã gặp ở những bữa tiệc mùa hè, hiển nhiên là họ có cha mẹ, anh chị em nhưng anh chưa bao giờ gặp những người đó.
Anh sẽ chỉ dùng những gì mình biết thôi vậy. Anh viết tiêu đề NHÀ VĂN và dưới đó liệt kê vài người có tác phẩm mà anh đã biên tập. Không có ai sống quanh khu này. Nhưng có hai cây viết người bản địa anh đã gặp ở nhà Kristoll: một người cao với cái tên kì quặc Nathan Hideaway. Một phụ nữ có tên Bridget gì đó viết sách về một quý cô thám tử cùng chú chó. Anh thêm tên họ vào danh sách. Bên dưới một tiêu đề khác - THỰC TẬP SINH - anh viết: Cô gái tóc hung - Valerie? Cậu sinh viên có chòm râu dê và đầu cạo trọc. Mình thực sự phải học cách nhớ tên mọi người.
Ở phía cuối trang, anh viết thêm: Tôi gần như chẳng biết gì về Tom và Laura Kristoll.
Loogan ngẩng lên và thấy một chiếc xe đỗ ở góc phố chiếc Ford của Tom Kristoll. Kristoll, khoác áo mưa và đội mũ phớt, rảo bước trên lối đi và leo lên cầu thang. Anh ta kẹp dưới cánh tay một gói dẹt hình chữ nhật quấn trong giấy màu nâu.
“Cậu đang làm gì thế?” Anh ta hỏi.
Loogan gấp cuốn sổ và đặt nó trên ghế xích đu.
“Liệt kê vài ý tưởng cho một tác phẩm mà tôi sẽ chẳng bao giờ
viết.”
“Tôi không thích nghe điều đó đâu,” Kristoll nói. “Nếu cậu nghĩ ra ý tưởng gì, cần phải bắt đầu viết ngay. Nếu cậu gặp khó khăn, tôi có thể xem qua.”
“Còn sớm quá, Tom à!” Loogan nói và đứng dậy. “Chúng ta vào nhà đi.”
“Tôi không ở đây lâu được,” Kristoll nói. Anh ta cúi đầu và từng dòng nước mưa chảy trên vành chiếc mũ phớt. “Tôi chưa cảm ơn cậu vì những việc đêm hôm trước. Tôi nghĩ nên tặng cậu một món quà thì hay hơn. Những lúc khác thì có lẽ tôi đã mời cậu một chai Scotch. Nhưng tôi biết lần này thì không nên. Nó sẽ có một ý nghĩa thật kì quặc. Vậy nên tôi sẽ tặng cậu cái này.”
Anh ta đưa gói quà cho Loogan. Lớp giấy bọc màu nâu lấm tấm nước mưa. Loogan xé rách lớp giấy và thấy bên trong là một bức ảnh được đóng khung chụp những mảnh kính vỡ, những cánh hoa và những mảnh giấy xé thành hình lá cây. Đó chính là bức ảnh Laura đã mua vào ngày họ tới phòng triển lãm.
“Laura đã chọn tấm ảnh này,” Kristoll nói. “Tôi đã bảo cô ấy mình muốn mua quà tặng cậu. Đương nhiên cô ấy không biết lí do, nhưng cô ấy tin rằng cậu sẽ thích nó. Không biết cậu sẽ treo nó ở đâu. Tôi thấy nó hơi nhỏ để treo trên lò sưởi. Trong phòng làm việc của cậu thì sao nhỉ? Cậu có thích nó không?”
“Thật tuyệt vời,” Loogan đáp.
6
A
nh nhận được một cuộc gọi từ Tom Kristoll vào thứ Sáu tuần sau đó. Khi đó anh đang nằm sấp trên thảm phòng khách, những trang bản thảo mở rộng trước mặt. Anh đang gặp khó khăn ở một đoạn hội thoại anh viết đi viết lại tới lần thứ bảy trên một tờ nháp màu vàng thì chuông điện thoại reo. Bị sao nhãng khỏi công việc, tới hồi chuông thứ năm anh mới nhấc máy.
“Tôi tưởng cậu không định trả lời điện thoại cơ đấy,” Kristoll nói. “Cậu đang suy tính gì thế?”
“Thử nghĩ xem liệu một kẻ tống tiền sẽ nói gì với một tay rửa tiền,” Loogan đáp.
“Tôi hiểu rồi… lại là truyện mới đó à?”
“Truyện mới nào?”
“Chính là tác phẩm mới mà cậu ngồi viết ý tưởng hôm trước ấy.”
“Không phải đâu. Đây là truyện của người khác. Công việc của tôi là thế mà, chỉnh sửa lại tác phẩm của các cây viết khác. Trong lúc này, có người đang trả tiền để tôi làm biên tập đấy.” “Chuyện này dễ thôi,” Kristoll nói. “Có khi tôi nên sa thải
cậu.”
“Anh gọi tới đây để sa thải tôi à?”
“Không, nhưng có lẽ đó là điều tốt nhất mà tôi có thể giúp cậu. Sau này cậu định làm gì?”
“Còn tùy tôi bị sa thải khi nào. Anh đang làm gì vậy?” Kristoll ngập ngừng một chút trước khi trả lời với giọng trầm tư. “Liệt kê vài ý tưởng cho một tác phẩm mà tôi sẽ chẳng bao giờ viết,” anh ta trả lời. “Đúng như lời cậu nói phải không?” Một phút ngập ngừng nữa. “Chỉ khác là có lẽ tôi sẽ kể chuyện đó.”
“Ý anh là gì?” Loogan hỏi.
“Có lẽ đêm hôm trước tôi đã có một quyết định sai lầm.” “Đêm nào vậy?”
“Đừng giả vờ ngây ngô nữa,” Kristoll nói. “Nghe này, hay cậu qua đây đi, lên thẳng văn phòng. Chúng ta sẽ uống một chút và có thể tôi sẽ tiết lộ cho cậu biết.”
“Được rồi.”
“Cậu nói ‘được rồi’ cứ như không ấy. Cậu không bắt buộc phải tới đây mà. Tôi đã đòi hỏi ở cậu quá nhiều rồi. Giờ từ chối một lần cũng chẳng sao.”
“Tôi đã đồng ý rồi mà,” Loogan nói. “Mấy giờ thì tôi qua được?”
“Tầm bảy giờ nhé.”
Câu chuyện về kẻ tống tiền và tay rửa tiền đã choán hết tâm trí Loogan cả buổi chiều. Những chỗ chỉnh sửa của anh lấp đầy khoảng trống giữa các dòng chữ in. Lúc năm rưỡi chiều, anh
đứng giữa phòng khách. Những trang bản thảo nằm vương vãi dưới chân tất cả là hai mươi tư trang. Chữ viết tay của anh trên đó cũng đẹp và ngay ngắn y như chữ in, nếu nhìn từ trên cao không ai có thể phân biệt được.
Anh đứng như vậy lâu hơn so với ý định ban đầu. Anh đang chuẩn bị quỳ xuống sàn để vơ những trang bản thảo lại thì nghe thấy tiếng gõ cửa. Nhìn ra cửa sổ, anh thấy Laura đang đứng ngoài hành lang. Cô mỉm cười và gõ ngón tay lên cửa kính.
Anh đón cô ở cửa bếp, giúp cô cởi áo khoác và một phút sau cô đã ở trong phòng khách, mắt nhìn xuống đống bản thảo trên sàn.
“Từ trước đến giờ em vẫn băn khoăn không biết sẽ như thế nào nếu bất ngờ gặp khi anh chưa kịp chuẩn bị,” cô nói. “Em vẫn luôn nghĩ rằng anh khác với tất cả mọi người. Em chẳng tưởng tượng nổi hình ảnh anh làm những việc lặt vặt hàng ngày kiểu như tưới cây hay đi đổ rác, hoặc là ngồi ở bàn làm việc chỉnh sửa một câu chuyện bằng bút chì. Hóa ra em đoán đúng anh đâu có dùng bút chì. Anh chỉ nhìn chằm chằm vào tờ bản thảo tới khi những dòng chữ này tự hiện ra trên mặt giấy.”
Cô cởi giày và quỳ một chân xuống, nhặt một tờ bản thảo lên đọc, hai cẳng chân lồ lộ dưới chiếc váy. Loogan bật một chiếc đèn bàn, ánh đèn nhuộm bạc lớp lụa trên váy cô, dát vàng trên tóc cô. Cô đọc hết veo sáu trang và có lẽ định xem hết tất cả đống bản thảo đó nếu không bị ai làm phiền, Loogan nghĩ thầm.
“Anh sẽ đưa em một bản sao nhé,” anh nói.
Cô nhặt nốt trang thứ bảy, thứ tám và đọc lướt qua chúng. “Hay quá. Hay quá mức cho phép luôn,” cô đứng lên và đưa
tập bản thảo tới gần ánh đèn. “Anh hẳn đã phải tốn rất nhiều công sức.”
“Không khó lắm đâu,” anh nói. “Nhất là khi anh chỉ có mỗi việc ngồi nhìn chằm chằm vào trang giấy thôi.”
“Đôi khi em nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu chỉnh sửa một chút,” cô nói. “Anh nhìn thấy ngay những chỗ chưa ổn và sửa lại. Sau đó anh gửi nó lại cho tác giả và anh ta chẳng cãi lại nổi câu nào, ít ra nếu anh ta là người biết điều.”
Cô đặt tám trang bản thảo lên mặt lò sưởi và ngồi xuống ghế sofa.
“Em tự hỏi không biết Tom đã nhận ra thuê anh làm việc là một quyết định sáng suốt nhường nào,” cô nói.
Loogan không nói gì cả. Anh ngắm nhìn khi cô vỗ nhẹ chiếc gối đặt bên cạnh.
“Ngồi đây với em đi, David,” cô nói. “Em chẳng đến đây để nói về chuyện biên tập đâu. Em chỉ đến xem anh đã làm gì với món quà của em thôi.” Cô đưa mắt về phía tấm ảnh chụp kính vỡ, cánh hoa và lá cây bằng giấy được đóng khung treo trên lò sưởi. “Treo chỗ đó không hợp lắm, nhưng em vẫn thích nó. Em chẳng nhớ nổi trước đây anh treo gì ở đó nữa.”
“Một bức tranh xấu xí vẽ hình tàu biển,” Loogan trả lời. “Đúng rồi. Thế này đẹp hơn hẳn. Lúc đó em không chắc anh có thích không. Tom muốn mua tặng anh một món quà, mà em lại đã muốn tặng chính anh món quà này rồi. Anh không giận đấy chứ?”
“Không đâu.”
“Em thích ngắm nhìn nó và hồi tưởng lại ngày hôm đó,” cô
xoay người về phía Loogan, đặt một cánh tay trên lưng ghế, những ngón tay vuốt trên mái tóc. “Và ngay ở đây… ” Cô chẳng cần nói rõ chuyện gì đã xảy ra ở đây hôm đó. “Chúng ta bỏ mấy cái nệm này xuống sàn nhé,” có nói nhỏ. “Anh nhóm lò đi. Hôm đó mình không nhóm lửa nhưng vào hôm nay cũng được đấy.”
“Đó không phải ý hay đâu,” Loogan nói.
“Vậy thì không có cũng được.”
Anh im lặng. Cô rút tay lại, vuốt ve trước ngực áo. “Thì ra ban nãy anh nói vậy không phải là về chuyện nhóm lửa à?” Cô nói, mắt nhìn anh chăm chú. “Đáng ra em phải nhận ra chứ nhỉ. Anh đã không gần gũi với em hai tuần rồi.” Mặt Loogan lạnh tanh. Anh nhìn chăm chăm vào tấm ảnh treo trên lò sưởi. Một lúc sau, anh mới nói: “Thực ra, anh cũng rất quý anh ta.”
“Đúng là như thế mà,” cô nói khẽ. “Em biết là anh quý anh ấy. Nếu không thì giữa chúng mình chẳng có gì đâu. Anh mà ghét anh ấy, em chẳng còn coi anh ra gì luôn. Nhưng anh ấy giờ là bạn anh. Em phải biết từ trước chứ nhỉ: David Loogan là một người trung thành.”
Cô thở dài. “Anh và Tom giống như đôi bạn trong truyện thần thoại. Tên là gì ấy nhỉ?”
“Anh không biết.”
“Androcles,” cô nói, “Androcles và con sư tử,” cô ngừng lại để vuốt một lọn tóc ra sau tai. “Androcles là một nô lệ bỏ trốn đi lang thang trong rừng. Anh ta tìm được một con sử tử bị chảy máu ở chân. Nó đã giẫm phải một cái gai, và Androcles giúp nhổ nó ra.”
“Anh tưởng một chú chuột đã nhổ cái gai chứ nhỉ?” “Đó là truyện khác,” cô nói, “Androcles nhổ cái gai ra và con sư tử trở thành bạn anh. Nó đi săn mồi và đem thức ăn về cho anh. Sau đó cả hai bị bắt, Androcles bị kết án ném cho sư tử ăn thịt trong đấu trường. Nhưng thay vì xé xác Androcles, con sư tử quỳ dưới chân anh.”
Loogan ngả người trên ghế sofa.
“Thế thì trong truyện này anh là Androcles à?”
“Anh là con sư tử,” Laura nói. “Con sư tử có lòng biết ơn. Nó không chịu tấn công Androcles. Nó không thể làm tổn thương anh ta,” cô cười nhạt. ”Và nhất là nó cũng không ngủ với vợ của Androcles đâu.”
Cô nhích lại gần và ngả đầu trên vai anh. “Tội nghiệp anh, David. Anh sợ phải nói chuyện đó với em phải không? Anh lo rằng em sẽ khóc.”
“Anh tưởng rằng em sẽ thuyết phục anh đổi ý.”
“Em muốn làm cả hai thứ, nhưng thôi. Em sẽ đi nếu anh muốn.”
Anh choàng tay ôm lấy cô. “Em đừng đi.”
“Không đâu. Em chỉ muốn ngồi yên lặng ở đây với anh một chút. Được không anh?”
“Dĩ nhiên là được.”
* * *
Loogan tỉnh dậy trong bóng tối. Laura đứng bên anh. Anh chộp lấy cổ tay cô và ngồi bật dậy.
“Bình tĩnh nào. Em đây mà.”
“Tối quá,” anh nói.
“Em tắt đèn đi đấy. Em về đây,” cô đã mặc áo khoác. “Mấy giờ rồi?” Anh hỏi.
“Bảy giờ hai mươi phút. Có chuyện gì thế?”
“Anh quên mất. Tối nay anh phải tới gặp Tom,” Loogan đứng lên.
“Chải đầu đi đã. Anh trông cứ như vừa mới ngủ dậy ấy. Đừng nhăn mặt thế, David. Em có làm gì sai đâu.”
Cô hôn lên má anh rồi xoay người đi ra ngoài mà không nói thêm gì nữa.
Anh tới chỗ điện thoại và quay số văn phòng của Kristoll. Sau ba hồi chuông, anh nghe được giọng nói từ hộp thư thoại của anh ta. Anh để lại lời nhắn rằng mình đang trên đường tới đó.
Anh thay một chiếc áo mới, đánh răng và mặc áo khoác. Xe anh đang đỗ ngoài phố. Anh đi sang phía ghế lái và để ý ngay lốp xe. Cả hai lốp đều xịt. Ai đó đã vạch một từ tục tĩu lên lớp sơn cửa. Anh nhìn suốt dọc con phố, cảm thấy cơn giận sôi sục trong lòng. Anh chẳng thấy ai ngoài một bà già tóc bạc đang dắt chó đi dạo.
Đứng giữa tiết trời lạnh giá, anh suy nghĩ. Anh phải đem xe đi sửa, nhưng cái đó để sau cũng được. Hay anh có thể gọi taxi, nhưng việc này cũng mất thời gian. Từ đây tới tòa soạn Gray Streets chỉ có mười hai tòa nhà. Anh sẽ đi bộ đến đó.
Anh lấy găng tay để trong xe, nhìn quanh một lần cuối và đi về hướng đông. Anh đi dọc con phố, tránh những chỗ tối trên vỉa hè. Đi bộ nhanh như vậy khiến anh cảm thấy ấm lên một chút.
Tới gần khu phố chính, bắt đầu có ánh sáng từ các căn nhà, cống rãnh chất đầy lá cây, xe cộ cũng dày đặc hơn. Anh đi lên vỉa hè.
Khi tới gần Main Street, anh nghe thấy tiếng còi hụ. Phía trước, một chiếc xe cảnh sát lướt qua ngã tư, đèn xanh đỏ bật sáng, chiếc khác theo sát phía sau.
Loogan tới phố Main và đi về phía bắc. Những chiếc đèn nhấp nháy hiện ra phía xa, cách đó hai tòa nhà. Dòng xe cộ trườn về hướng bắc. Cửa các quán ăn đông nghẹt người. Một người đàn ông quấn khăn len dài đang thổi kèn saxophone, hộp đựng kèn để dưới chân trong có vài tờ tiền lẻ. Gần đó, một chú chó giống Scotland cột vào trụ nước cứu hỏa. Chỉ có chú chó và người thổi kèn là không nhìn về hướng bắc.
Một vài người từ quán ăn kéo về phía ánh đèn nhấp nháy. Loogan rảo bước. Hai chiếc xe cảnh sát anh bắt gặp đã tới hơi muộn. Ba chiếc khác đang đậu trên phố. Cảnh sát đứng điều khiển giao thông ở các ngã tư.
Những chiếc đèn xe cảnh sát vây quanh một căn nhà góc phố. Chính là căn nhà có văn phòng của tòa soạn Gray Streets. Một hàng rào thấp ngăn đám đông tới gần. Loogan lách qua đám đông. Một phụ nữ đang nghe điện thoại. Một người đàn ông đầu hói đeo kính không gọng. Người phụ nữ dập máy và gọi một số khác: “Cậu không tin nổi mình đang ở đây đâu,” cô ta
nói.
Loogan trèo qua hàng rào. Bên trong, một cái cây trồng trên vỉa hè. Bên cạnh nó là một ghế băng bằng sắt. Một chiếc giày đàn ông nằm dưới gầm ghế.
Đứng ở một đầu chiếc ghế là một dàn cảnh sát mặc quân phục. Bốn người trong số họ không đội mũ, chắp tay phía sau lưng. Mặt ai cũng lạnh tanh. Giữa đám cảnh sát và tòa nhà, một tấm ga được trải trên vỉa hè. Đội cảnh sát đối diện với đám đông, yên lặng đứng gác, nhưng sự có mặt của họ không che giấu nỗi hình dáng thứ đang nằm dưới tấm ga.
Loogan nghĩ mình nên hỏi tên của người đang nằm dưới tấm ga. Anh tin chắc mình sẽ không nhận được câu trả lời nào. Dù sao đó cũng chỉ là nghi thức thôi. Anh biết người đó. Nhìn lên trên, anh thấy tất cả các cửa sổ đều đóng, ngoại trừ tầng sáu.
7
E
lizabeth Waishkey gật đầu với người cảnh sát ở lối vào và đi vào trong. Văn phòng phía ngoài của tòa soạn Gray Streets không có ai. Không khí ở đó thật mát mẻ.
Cửa văn phòng Tom Kristoll mở rộng. Bên trong, Carter Shan đang chụp ảnh. Elizabeth ngừng lại một chút ở ngưỡng cửa. Cô là một người cao ráo với mái tóc đen nhánh. Cô ăn vận khiêm tốn: áo choàng nâu, áo vest và quần âu xám, áo cánh màu xanh nhạt. Món trang sức duy nhất là một chuỗi vòng cổ bằng thủy tinh.
Carter Shan quay lại và chĩa máy ảnh về phía cô. Anh ta không nhấn nút.
“Chụp rồi à?” Cô nói.
“Có mà nằm mơ, Lizzie ạ,” anh ta nói.
Elizabeth bước vào phòng. “Anh đoán là anh ta nhảy xuống phải không? Thế nên giờ mới phải chụp ảnh lại.” “Để cho chắc chắn thôi mà.”
“Những tấm ảnh này sẽ hữu dụng đây,” cô nói. “Chúng ta cần thu thập tất cả các chứng cứ, sau đó kiện hắn ra tòa vì tội tự sát.”
Cô đi ngang qua phòng tới chỗ cửa sổ mở và nhìn xuống. Đám đông đang tụ tập dưới phố. Người giám định pháp y đang quỳ bên cạnh xác chết, tấm ga bỏ sang một bên.
“Ai nghĩ ra ý tưởng tuyệt diệu về tấm ga đó thế?” “Không phải người của chúng ta đâu,” Shan nói. “Là người phụ nữ đã gọi điện báo cảnh sát, cô ta trùm xác anh ta bằng tấm chăn lấy trên xe ô tô của cô ta. Cô ấy đi cùng mấy đứa trẻ.” Elizabeth gật đầu và im lặng ngắm nhìn cảnh tượng bên dưới. Shan bỏ máy ảnh vào túi áo khoác.
“Được rồi, Lizzie,” anh ta nói. “Đừng ra vẻ bí hiểm thế. Sao cô lại không tin là anh ta tự nhảy xuống chứ?”
Cô rời xa cửa sổ.
“Chỉ là cảm giác thôi.”
“Tôi không tin là thế.”
“Gió Tây đem tin tức tới cho tôi.”
“Được thôi. Cứ giữ lấy cho cô đi.”
Cô xem xét căn phòng, từ những kệ sách, bàn làm việc tới giá treo quần áo cạnh cửa. Trên đó mắc một áo khoác dài và một mũ phớt màu đen. Cô nói: “Anh đã bao giờ tưởng tượng ra mình sẽ tự tử như thế nào chưa, Carter? Mà không. Thử hình dung anh có ý định tự sát, anh ngồi trong văn phòng của mình và quyết định giờ là lúc làm chuyện đó. Anh nhìn quanh, không thấy súng ống, dây thừng, chỉ có một ô cửa sổ. Liệu anh có nhảy ra ngoài không?”
“Đương nhiên.”
“Đúng đấy,” Elizabeth nói tiếp. “Đương nhiên là thế. Nhưng
không dễ nhảy qua cửa sổ này chút nào. Anh kéo khung kính lên mở ra lỗ cửa rộng, khoảng bao nhiêu nhỉ, chỉ tầm hai feet. Anh vẫn có thể chui vừa, nhưng sẽ rất khó khăn. Thế thì anh làm thế nào?”
Shan dò xét ô cửa sổ. “Tôi không biết. Lao đầu hoặc chân ra trước, đằng nào cũng vậy cả. Tôi chỉ muốn sao cho xong chuyện thôi.”
“Nhưng nếu thế anh có thực sự nhảy ra ngoài không?” Anh ta tỏ vẻ nghĩ ngợi. “Cô nói đúng. Có lẽ tôi sẽ hoãn việc đó lại, dành chút thời gian để suy nghĩ.” Anh ta cúi xuống mở ngăn kéo bàn làm việc. Trong đó có hai cái cốc và một chai rượu. “Khi đó tôi sẽ uống một chút.”
Elizabeth chạm tay lên chiếc vòng thuỷ tinh đeo trên cổ. “Đúng thế. Nếu anh là một người thèm rượu Scotch tới mức phải để một chai ở bàn làm việc, hẳn là anh sẽ làm một chén.” “Biết đâu anh ta đã uống rượu rồi đặt lại chai vào chỗ cũ?” “Cũng có thể. Eakins sẽ cho chúng ta biết điều đó.” Lillian Eakins là bác sĩ pháp y. “Vậy là anh uống rượu, mà cũng có thể không, và cửa sổ thì vẫn mở. Anh chưa trả lời câu hỏi ban nãy. Anh lao ra bằng cách nào?”
“Không lao đầu trước đâu,” Shan nói, “như vậy quá kinh khủng. Tôi sẽ lao chân ra trước. Tôi có thể ngồi trên bậu cửa sổ, chân bỏ thõng ra ngoài, sau đó ngả người ra sau và trượt ra. Không được, như vậy kì cục quá. Có lẽ tôi sẽ muốn leo ra ngoài gờ tường, đứng trên đó suy tư một chút. Nhưng làm gì có gờ tường nào ngoài đó.”
“Đúng là không có,” Elizabeth nói.
“Nếu anh ta muốn nhảy ra ngoài, chắc chắn anh ta sẽ không nhảy ra từ cửa sổ này. Anh ta sẽ chọn lấy cho mình một nơi có thể đứng đàng hoàng được.”
“Phải rồi.”
“Anh ta sẽ leo lên mái,” Shan nói.
“Nhưng cũng có thể anh ta không lên đó được. Biết đâu chẳng có lối nào lên mái. Cô cười à, lại ra vẻ bí ẩn rồi. Cô leo lên đó rồi đúng không?”
“Cầu thang ở mặt phía bắc tòa nhà dẫn lên tận trên mái,” Elizabeth nói. “Có một cánh cửa khóa, nhưng khóa đã hỏng rồi. Mọi người hay lên đó hút thuốc. Trên đó có một bờ tường thấp. Anh có thể leo lên đó lấy dũng khí. Nếu muốn nhảy, đó sẽ là nơi mà anh muốn leo lên.”
“Cứ cho là anh ta nhảy từ trên đó xuống,” Shan nói. “Anh ta quyết định sẽ nhảy xuống tự sát, mở cửa sổ, thấy rằng không nhảy ra được. Anh ta cứ để ngỏ cửa sổ như vậy mà leo lên mái.”
“Và nhảy xuống từ một điểm ngay phía trên cửa sổ phòng mình à?”
“Tại sao lại không chứ?” Shan hỏi.
“Anh chưa lên đó nên không biết thôi. Bờ tường mặt trước tòa nhà tạo thành một góc nhọn để trang trí. Bờ tường phía sau lại bằng phẳng, thuận lợi hơn rất nhiều,” Elizabeth ngừng lại và lắc đầu. “Anh ta không nhảy xuống từ trên mái đâu. Là qua cửa sổ này. Nhưng nếu tôi đoán không nhầm, anh ta đã bị đẩy xuống dưới. Có thể đã bị giết từ trước hoặc bất tỉnh. Hẳn là sẽ rất khó khăn để đưa được anh ta qua cửa sổ này nếu khi đó nạn nhân còn tỉnh táo mà chống cự. Hắn có thể đã đánh nạn nhân vào đầu
và hi vọng những tổn thương từ cú ngã sẽ che đi dấu vết đó. Nếu hắn may mắn, người ta có thể lầm tưởng đây là một vụ tự sát.” Hai người đứng im lặng. Những tiếng ồn ngoài phố vọng qua cửa sổ. Không khí mát mẻ giờ trở thành lạnh lẽo. Shan nói: “Anh ta là ai?”
Elizabeth nhìn lên. Trước đó cô đang nhìn chăm chú hai chiếc cốc trong ngăn kéo.
“Tôi cũng chỉ biết như anh thôi. Đó là người chịu trách nhiệm xuất bản cho tạp chí.”
“Kẻ giết người không phải Kristoll. Đấy là tôi mặc định kẻ giết người là đàn ông, vì một phụ nữ sẽ gặp rất nhiều khó khăn để đưa nạn nhân qua cửa sổ. Cô đã suy luận ra hết mánh lới của hắn, tôi đoán cô cũng có vài kẻ tình nghi rồi.”
“Không,” cô nói. “Tôi chưa làm được thế.”
“Tôi có thể cho cô biết vài thứ về hắn. Tôi đoán hắn là một người hâm mộ Shakespeare.” Shan chỉ vào một cuốn sách trên bàn. ”Đó là cuốn Tuyển tập Shakespeare, mở đúng cảnh cuối của vở Hamlet, đoạn mà tất cả mọi người chết hết. Trước khi cô tới đây, tôi phỏng đoán Kristoll đang đọc cuốn này trước khi nhảy xuống. Nhưng nếu anh ta bị giết hại, có thể kẻ giết người đã đặt cuốn sách ở đây, sau đó lật đến đúng trang này.”
Elizabeth nghiêng người xem cuốn sách. “Anh đã chụp ảnh lại chưa.”
“Được nửa tá rồi.”
“Cái bút ở đây. Anh chưa động vào nó chứ?”
“Trời, tin tưởng tôi chút chứ, Lizzie.”
“Nó được đặt theo một cách thật đặc biệt ngay dưới một dòng chữ.”
Shan gật đầu. “Tôi cũng thấy thế. Là một câu nói của Horatio. ‘Tôi mang linh hồn La Mã cổ đại đậm nét hơn cả Đan Mạch’. Tôi đã đọc đoạn này ở trường. Tôi tin mình biết nó có nghĩa gì.”
Elizabeth đứng dậy và vuốt gọn những lọn tóc lòa xòa trước mắt.
“Chúng ta phải coi đây là thư tuyệt mệnh.”
Cảnh sát trưởng Owen McCaleb của đội cảnh sát Ann Arbor là một người đàn ông năm mươi tư tuổi, cứng cỏi và điển trai. Ông ta có một túi gậy đánh golf trong góc văn phòng, nhưng chưa ai từng thấy ông đi chơi golf bao giờ. Nhưng mọi người đều từng nhìn thấy ông tập chạy. Ông là kiểu người luôn vận động. Đứng ở ngã tư chờ đèn đỏ để qua đường, bao giờ ông cũng phải đi lại tại chỗ một chút. Ngay cả khi ở trong nhà, ông ta cũng không bao giờ ngồi yên một chỗ. Đôi khi, lúc nói chuyện với cấp dưới, ông ta cũng nhún nhảy.
Giờ ông ta đang nhún nhảy đúng như thế khi Elizabeth Waishkey và Carter Shan đưa ông tới hiện trường nơi văn phòng của Kristoll. Shan đã tường trình tới đoạn về vở Hamlet. “Trong vở kịch, Hamlet sắp chết,” anh ta nói.
“Tôi biết rồi,” McCaleb đáp.
“Người chủ của Hamlet đã bày sẵn âm mưu để giết cháu mình. Nhà vua sắp xếp để Laertes quyết đấu với Hamlet. Hắn đưa cho Laertes một thanh gươm có tẩm thuốc độc. Nhưng trong trường hợp không đâm chết được Hamlet, nhà vua đã có sẵn kế hoạch dự phòng - hắn mời Hamlet một cốc rượu pha
thuốc độc.”
“Không cần quan trọng chi tiết quá đâu,” Elizabeth nói. “Vậy là Laertes đâm Hamlet bằng thanh gươm có thuốc độc. Nhưng Hamlet cũng đâm chết Laertes. Mẹ Hamlet uống cốc rượu, không biết nó có độc. Sau đó Hamlet đâm chết nhà vua… ”
“Đã bảo không cần chú ý đến tiểu tiết mà,” Elizabeth nói. “Kết cục là Hamlet hấp hối. Anh ta hỏi Horatio… ” “Horatio là bạn anh ta,” Shan giảng giải.
“Anh ta muốn Horatio sau này sẽ là người kể lại câu chuyện về mình,” Elizabeth nói… “Nhưng Horatio cầm lấy cốc rượu độc và nói: ‘Tôi mang linh hồn La Mã cổ đại đậm nét hơn cả Đan Mạch’.”
“Anh ta không phải người La Mã theo nghĩa đen mà là người Đan Mạch,” Shan nói, “Hamlet cũng thế. Tất cả các nhân vật đều là người Đan Mạch cả.”
“Đó là một cách để tỏ ý anh ta muốn tự sát,” Elizabeth nói. “Đây là chuyện về lòng trung thành. Khi một quý tộc La Mã bị giết hại, đôi khi tùy tùng của ông ta cũng tự sát theo. Đó là một cử chỉ danh dự. Horatio có lòng trung thành tương tự như vậy đối với Hamlet.”
Owen McCaleb gật đầu: “Thế là anh ta cũng tự sát luôn à?” “Anh ta đang định làm thế thì Hamlet ngăn lại. Nhưng ý nghĩa của dòng này là thế. Đó là cách mà Horatio thể hiện ý định muốn tự sát của mình.”
“Vậy cuốn sách mở trên bàn có thể được coi là một lá thư tuyệt mệnh,” McCaleb nói, đi đi lại lại trong phòng. “Nhưng hai
người không tin Kristoll tự sát. Vậy hiện giờ chúng ta có một vụ giết người được dàn xếp cho giống một vụ tự sát, một tên giết người biết trích dẫn kịch Shakespeare.”
McCaleb đi tới ngưỡng cửa và quay lại. “Nạn nhân là người phát hành tạp chí văn học. Một người, theo tôi phỏng đoán, quen biết một lô người đủ trình độ trích dẫn kịch Shakespeare. Người này sống ở Ann Arbor, một thành phố mà nếu bạn vào quán gọi một ly mocha latte, một người từng đọc Hamlet sẽ bưng nó đến cho bạn,” đột nhiên ông ta ngừng lại. “Thôi không nên suy đoán quá nhiều. Eakins khám nghiệm tử thi chưa?”
“Rồi,” Elizabeth đáp.
“Để xem giải phẫu tử thi sẽ tiết lộ những gì,” McCaleb nói. “Trong khi đó, văn phòng của Kristoll cần được niêm phong. Không ai được hé răng với đám phóng viên. Tôi đã nghe được một người đưa tin từ tờ News. Cô ta muốn biết liệu có thư tuyệt mệnh không. Hãy giữ kín giả thiết về Shakespeare cho riêng chúng ta thôi.”
* * *
Về tới nhà, Elizabeth trút bỏ áo khoác, súng và điện thoại đi động. Cô đun nước và pha một cốc trà thảo dược. Cô đem nó tới phòng khách, nơi tivi đang được bật khe khẽ. Con gái cô, Sarah, nằm ngủ trên ghế. Đó là một cô bé mười lăm tuổi gầy nhẳng với mái tóc đen nhánh giống hệt mẹ mình. Nhìn cô bé ngủ y như trong một bức tranh, nằm nghiêng hai bàn tay áp vào nhau đặt
dưới má.
Elizabeth đặt cốc lên bàn và tắt tivi. Cô định với tay lấy chăn đắp cho con thì cô bé tỉnh giấc.
“Đáng ra con phải nằm trên giường chứ,” Elizabeth nói. “Con chờ mẹ về.”
Elizabeth ngồi xuống một đầu của chiếc ghế, Sarah nằm ngửa lại và gác chân trên đùi mẹ.
“Con đang xem tin tức,” cô bé nói. “Họ đang đưa tin về một người đàn ông ngã khỏi cửa sổ. Vì thế mà mẹ về muộn phải không?”
“Đúng đấy.”
“Ông ta ngã từ tận tầng sáu. Hẳn là kinh khủng lắm.” “Con phải đi ngủ đi.”
“Cảnh sát có vẻ bí mật lắm. Họ không chịu ra khỏi đó và xác nhận ông ta đã nhảy khỏi tòa nhà.”
“Họ cũng chẳng biết rõ. Làm gì có nhân chứng đâu,” ngừng lại một chút, Elizabeth uống một hớp trà.
“Ném ra ngoài,” Sarah nói. “Đó là cách mà mẹ thường nói khi ai đó bị đẩy ra khỏi cửa sổ.”
“Cũng chưa chắc là ông ta bị ném khỏi cửa sổ nữa.” “Nhưng cũng có thể mà. Mẹ nghĩ sao?”
“Mẹ sẽ nói cho con biết, nhưng phải hứa không được tiết lộ cho phóng viên.”
“Con hứa đấy.”
“Có khả năng Tom Kristoll đã bị ném khỏi cửa sổ.”
“Mẹ có nghi ngờ ai không?”
“Còn sớm quá.”
“Vợ ông ta thì sao nhỉ? Ông ta có vợ không?”
“Có đấy.”
“Mẹ đã nói chuyện với cô ta chưa?”
“Mẹ gặp cô ta tối nay rồi, chỉ một lát thôi,” Elizabeth nói. “Cô ta đến để nhận dạng nạn nhân.”
“Nhưng mẹ không hỏi cô ấy à?”
“Lúc đó thì không. Tâm trạng cô ấy không ổn định để có thể trả lời câu hỏi. Cô ấy cũng có cả luật sư theo cùng nữa.” “Thế thì còn đáng nghi gấp đôi.”
“Sao thế?”
“Cô ấy là vợ ông ta, nếu một người đàn ông bị giết, hẳn là người vợ bị nghi ngờ. Giờ cô ta còn thuê luật sư đi theo nữa.” “Mẹ không chắc cô ta thuê luật sư đó,” Elizabeth nói. “Bà Kristoll là giáo sư, có chồng là nhà xuất bản tạp chí. Nhiều người chẳng cần phải đi thuê luật sư đâu. Họ đã có sẵn rồi, y như kiểu có sẵn người dắt chó đi dạo hay kế toán vậy.” “Nhưng như vậy vẫn rất đáng nghi ngờ. Còn tệ hơn nữa nếu cô ta lang chạ đâu đó. Thế thì đáng nghi gấp ba. Cô ta có lăng nhăng ở đâu không?”
“Chuyện đó cần hỏi chính cô ta thì mới biết, nếu mẹ có thể lôi được cô ta khỏi tay gã luật sư.”
Elizabeth nhấm nháp cốc trà. Sarah đứng lên khỏi ghế và duỗi chân tay, cánh tay vươn lên trần nhà. - Nói gầy nhẳng cũng không chính xác lắm, - Elizabeth nghĩ thầm. - Phải là uyển
chuyển mới đúng.
“Dạo này con có chuyện tình nào không?” Cô hỏi. “Mẹ à,” cô bé nói, kéo dài giọng.
“Có hai lon soda trên quầy bếp cạnh bồn rửa,” Elizabeth nói. “Một lon Pepsi và một lon Mountain Dew. Billy Rydell thích uống Mountain Dew lắm đấy.”
“Con không liên quan gì tới Billy Rydell cả.”
“Billy Rydell mười sáu tuổi,” Elizabeth nói. “Cậu ta đang tuổi dậy thì. Nếu những ham muốn tình dục ở tuổi này là tội ác, mẹ phải tống cậu ta vào tù thôi.”
“Billy Rydell chỉ ở đây có hai mươi phút thôi. Chúng con bàn về một dự án ở trường. Sau đó cậu ta mời con đi xem phim.” “À!”
“Có một buổi biểu diễn vào chiều mai,” Sarah nói. “Con đã nói với cậu ấy phải xin phép mẹ đã. Con cũng nói có thể mẹ sẽ chở tụi mình tới đó. Cậu ta tái mặt. Con đoán chắc là sợ bị mẹ bắn đấy.”
“Cũng còn tùy. Để xem mẹ có lái xe chở các con tới đó được không. Ai mà biết được.”
“Còn tùy chuyện gì thế ạ?”
“Còn tùy liệu Tom Kristoll có bị đẩy ra khỏi cửa sổ không. Nếu thế, mẹ sẽ phải làm việc cả buổi chiều mất.”
Sarah về phòng vào khoảng một giờ. Elizabeth cũng về phòng muộn hơn một chút. Cô tắm rửa, gội đầu và sấy khô tóc, sau đó leo lên giường. Cô nhìn chăm chăm một chốc vào cửa sổ phòng ngủ. Suốt đêm, cô mơ thấy những phiên bản khác nhau của
cùng một giấc mơ. Lúc này, cửa sổ nằm ở văn phòng Tom Kristoll. Lúc khác, đó lại là cửa sổ phòng cô và một người đang trèo qua đó. Cô đoán đó là Kristoll, mặc dù trong mơ khuôn mặt anh ta ẩn trong bóng tối. Anh ta ra hiệu như thể muốn nói với cô điều gì đó, nhưng khi cô rời khỏi giường, anh ra lại trèo qua cửa sổ ra ngoài. Cô bước theo anh ta. Thoạt đầu, chân cô chạm mặt đất phía bên kia, và sau đó mặt đất biến mất. Cô choàng tỉnh, hai chân gập lại đúng như khi cô gặp phải những giấc mơ rơi xuống từ trên cao. Cô ngồi thẳng dậy và nhìn xung quanh. Ánh sáng màu xám. Đồng hồ bên giường cô hiện 7:40. Điện thoại của cô đang reo trên mặt bàn cạnh giường ngủ. Ở đầu dây bên kia là McCaleb.
“Tôi vừa nhận được tin từ Lillian Eakins,” ông ta nói. “Hiện chưa có công bố chính thức, nhưng tốt hơn cô nên đến đây đi. Cô nói đúng. Đó không phải là một vụ tự sát.”
8
“T
ôi biết cô định nói với tôi những gì.”
“Thật không?”
Ngôi nhà bên bờ sông Huron chật ních những người trẻ tuổi mang vẻ mặt nghiêm trang. Phần lớn bọn họ đều mặc đồ đen, nhưng cũng khó mà biết được đó là do xu thế thời trang hay do thương tiếc người chết. Laura Kristoll lúc nào cũng có luật sư hộ tống, một người đàn ông béo lùn có cặp môi mỏng và mái tóc dày bạc được chải ngược ra sau. Cô đã bỏ lại ông ta bên ngoài khi mời Elizabeth vào phòng làm việc của chồng mình.
“Tôi biết rõ Tom là người thế nào,” Laura nói. “Tôi không tin chuyện vớ vẩn là chẳng bao giờ có thể hoàn toàn thấu hiểu một ai đó. Cô đã lập gia đình chưa?”
“Đã từng,” Elizabeth nói.
“Tôi hiểu Tom. Tôi biết anh ấy không cảm thấy tuyệt vọng, tội lỗi hay bất cứ chuyện gì có thể dẫn đến tự tử. Vậy nên giờ cô tới đây để thông báo với tôi một kết luận tương tự?”
“Đúng thế,” Elizabeth nói. “Chúng tôi tin rằng chồng cô đã bị tấn công. Bác sĩ pháp y tìm được một vết thương không phải do cú ngã gây ra: một vết rạn ở phía sau đầu không rõ nguyên
nhân, dựa theo những gì chúng tôi biết về vị trí va chạm và tư thế của nạn nhân. Có máu tụ ở vết thương, chứng tỏ khi đó máu vẫn đang lưu thông, tim vẫn còn đập.”
“Và sau đó thì ngừng hẳn.” Laura nói.
“Không đâu. Chúng tôi cho rằng chồng cô đã bị đánh vào đầu, có thể tới vài lần trước khi rơi xuống.”
Laura Kristoll ngoảnh về phía cửa sổ. Mái tóc vàng của cô được cặp gọn gàng, nhưng vài lọn tóc buông xõa. Cô run rẩy và Elizabeth nhận thấy điều đó qua những lọn tóc.
Một giọt nước mắt lăn trên má Laura, cô đứng phắt dậy và đi ngang qua phòng. Trên bàn làm việc có một hộp giấy thấm. Elizabeth rất muốn để cô ta được yên tĩnh. Cô định ngoảnh mặt đi, cần phải sắt đá lắm mới có thể nhìn cảnh này. Laura lau nước mắt. Cố gắng lấy lại bình tĩnh, đầu cúi thấp, khuỷu tay gập lại, bàn tay đặt trên mặt bàn. Elizabeth không thấy có gì giả tạo trong những động tác đó. Sau đó, cô quay lại ghế ngồi.
“Tôi xin lỗi,” cô nói.
“Chẳng cần khách sáo vậy đâu.” Elizabeth gật đầu về phía cửa ra vào đang đóng kín. “Cô có muốn tôi gọi ai đó tới giúp không?”
“Không đâu. Cô đang muốn hỏi tôi nhiều điều,” Laura nói. “Cô muốn biết chồng tôi có kẻ thù nào không? Chẳng có ai hết. Tôi chẳng hiểu nổi tại sao có người lại muốn giết Tom.”
“Lúc đó anh ta có gặp phải vấn đề về tài chính không? Những khoản nợ lớn chẳng hạn.”
“Không. Tạp chí đang làm ăn rất phát đạt.”
Elizabeth hạ giọng.
“Thứ lỗi cho tôi phải hỏi câu này, nhưng anh ta có thói quen xấu nào không? Đánh bạc? Nghiện hút?”
“Anh ấy uống rượu, cũng khá nhiều. Thỉnh thoảng còn uống rất nhiều.”
“Anh ta có thường ở lại văn phòng muộn vào tối thứ Sáu không?”
“Anh ấy làm việc đúng giờ lắm.”
“Có ai khác vào được văn phòng không?”
“Có nhiều thực tập sinh tới đó trong và ngoài giờ làm việc,” Laura nói. “Một hoặc hai người có chìa khóa. Có một thư kí là Sandy Vogel. Nhưng năm giờ chiều là cô ấy về rồi.”
“Tôi cần nói chuyện với cô ta. Còn ai nữa không?” “Những người quét dọn. Sandy có thể cung cấp cho cô tên của họ. Và đương nhiên tôi cũng có một chìa.”
Elizabeth nhổm người trên ghế.
“Tôi phải hỏi cô điều này: Tối qua cô đã ở đâu?”
Laura nhìn xuống mu bàn tay mình.
“Cuối cùng cô cũng hỏi câu này.” Cô nói. “Rex có lẽ rất muốn có mặt ở đây khi tôi trả lời.”
Rex chính là ông luật sư béo lùn. Elizabeth chờ đợi câu trả lời. “Tôi ở nhà David Loogan,” Laura nói. “Một người bạn của hai chúng tôi. Anh ấy làm biên tập viên cho tạp chí.” “Cô có thể nói rõ hơn về mối quan hệ bạn bè với Loogan không?” Elizabeth hỏi
Laura cười yếu ớt.
“Thật là một cách hỏi khéo léo,” cô nói, “David Loogan và tôi
"""