" Vòng Tròn Máu - Edgar Wallace & Anh Tuấn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vòng Tròn Máu - Edgar Wallace & Anh Tuấn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo MỞ ĐẦU CÁI ĐINH Có lẽ nếu ngày hai mươi chín tháng Chín không phải là sinh nhật của Monsieur Victor Pallion, thì sẽ không có vụ án Vòng Tròn Máu, hàng tá người đã chết hoàn toàn có thể vẫn còn sống, và Thalia Drummond chắc chắn sẽ không bị một viên thanh tra điềm tĩnh gọi là “một tên trộm và đồng bọn với đám ăn trộm”. Hôm đó Monsieur Pallion đã thiết đãi ba người phụ tá của mình tại quán Coq d’Or ở Toulouse, bữa tối diễn ra hết sức vui vẻ và thoải mái. Đến tận ba giờ sáng hôm sau, ông mới sực nhớ ra mình có mặt tại Toulouse là để thực hiện vụ hành quyết một tử tù người Anh tên là Lightman. “Các con của ta,” ông lè nhè nói, cố giữ vẻ nghiêm trang, “ba giờ rồi. Đã đến lúc dựng ‘phu nhân đỏ’ dậy rồi.” Thế là họ đứng dậy, đi tới trước nhà ngục, nơi chiếc xe đẩy chứa các phần của máy chém đã chờ sẵn ở đó từ nửa đêm, và lắp ráp vật khủng khiếp ấy một cách hết sức thành thạo, sau đó đặt lưỡi đao vào rãnh. Nhưng kể cả những kỹ năng chuẩn chỉnh nhất cũng chẳng thể đọ nổi với món rượu mạnh của miền Nam nước Pháp, và khi họ thử đao, nó đã không rơi một cách chuẩn xác. “Để đó cho ta.” Monsieur Pallion nói và đóng một cái đinh vào phần khung, tại đúng chỗ mà đáng lẽ ra nó không nên được đóng vào. Và khi ông còn đang dở tay thì đám hiến binh đã tràn vào. Bốn giờ sau (khi đã có đủ ánh sáng để một nhiếp ảnh gia bạo gan chụp được tấm hình cận mặt của gã tử tù), họ bắt đầu giải hắn ra… “Can đảm đấy!” Pallion lẩm bẩm. “Cút xuống địa ngục đi!” Hắn gào lên, bị trói chặt trên một tấm phản. Monsieur Pallion kéo cần gạt và lưỡi đao rơi xuống đúng đến chỗ cái đinh. Ba lần ông thử và cả ba lần ông đều thất bại, khiến đám đông phẫn nộ phá vỡ hàng rào của quân đội, và người ta buộc phải áp tải gã tử tù trở lại nhà ngục. Mười một năm sau, cái đinh ấy sẽ khiến vô số người mất mạng. 1 THU NẠP Vào giờ đó, hầu hết các công dân lương thiện của thành phố đều đã chuẩn bị tắt đèn đi ngủ. Trên những ô cửa sổ của các dinh thự lớn cổ kính hắt ra ánh đèn, soi rọi những cành cây khẳng khiu trụi lá đang oằn mình lắc lư dưới sự xô đẩy của cơn gió lớn. Một luồng gió lạnh buốt quét qua mặt sông, mang theo hơi lạnh len lỏi vào từng ngõ phố. Một người đàn ông đang run rẩy dạo bước bên hàng lan can sắt, dù đã mặc quần áo ấm kín người, vì kẻ lạ mặt đã chọn điểm hẹn ở đúng nơi phải hứng chịu toàn bộ trận bão. Những mảnh còn sót lại của một mùa thu đã chết cuộn xoáy thành những vòng tròn dưới chân ông, những cành nhỏ và lá rơi xuống từ những cành dài khẳng khiu vươn ra trên đầu ông, và ông nhìn một cách ghen tị vào những tia sáng vui tươi tỏa ra từ một căn nhà mà, nếu ông gõ cửa, có lẽ ông sẽ nhận được một sự chào đón nồng nhiệt. Chiếc đồng hồ gần đó vang lên hồi chuông báo mười một giờ, và tiếng chuông cuối cùng vẫn còn chưa tắt hẳn thì một chiếc xe nhẹ nhàng phóng tới sát cạnh ông. Hai chiếc đèn pha phía trước rất mờ. Bên trong xe đóng kín không hề có ánh đèn. Sau một thoáng lưỡng lự, người đàn ông đang đứng đợi tới gần chiếc xe, mở cửa và bước vào. Ông chỉ thấy hình dáng mờ mờ của gã tài xế ở ghế trước, và cảm thấy tim mình đang đập thình thịch khi nhận ra rằng quyết định vừa rồi có thể hết sức nghiêm trọng. Chiếc xe vẫn đứng yên, và gã tài xế vẫn không cử động. Sự im lặng tuyệt đối kéo dài một lúc, cho đến khi người hành khách phá vỡ nó. “Giờ sao?” Ông hỏi, giọng lo lắng pha chút khó chịu. “Ông đã quyết định chưa?” Gã tài xế hỏi. “Chưa quyết định mà giờ tao ở đây à?” Người hành khách cáu bẳn. “Mày nghĩ tao tới đây chỉ vì tò mò chắc? Mày muốn gì ở tao? Nói đi, và tao sẽ cho mày biết tao muốn gì ở mày.” “Tôi biết ông muốn gì ở tôi.” Gã tài xế đáp. Giọng của hắn nghèn nghẹt và không rõ tiếng, như thể nói qua một lớp màng. Khi đôi mắt của người mới đến trở nên quen dần với bóng tối, ông nhận ra những đường nét mơ hồ của một chiếc mũ trùm bằng lụa đen phủ kín đầu của gã tài xế. “Ông đang đứng bên bờ vực phá sản.” Gã tài xế tiếp tục. “Ông đã sử dụng số tiền không thuộc về mình, và hẳn là ông đang nghĩ đến việc tự tử, và suy nghĩ này nảy ra không phải chỉ vì ông sắp phá sản. Ông có một kẻ thù, kẻ đã phát hiện ra sự bất tín của ông, và điều đó có thể sẽ khiến ông phải rơi vào vòng lao lý. Ba ngày trước ông đã nhận được một loại độc dược cực kỳ nguy hiểm, không thể mua được ở bất cứ cửa hàng dược phẩm nào, từ một người bạn là nhân viên nhà máy sản xuất hóa chất. Ông đã dành cả tuần để nghiên cứu về các chất độc và tác dụng của chúng, và trừ khi có một phép màu nào đó xuất hiện cứu rỗi cuộc đời ông, còn không thì ông dự định sẽ làm thế, sẽ chấm dứt cuộc đời mình vào thứ Bảy hoặc Chủ nhật. Tôi thì tôi nghĩ là Chủ nhật.” Hắn nghe thấy tiếng người ngồi sau thở hổn hển, liền cười khẽ. “Giờ thì, thưa ông, gã tài xế nói, “ông đã sẵn sàng làm việc cho tôi rồi chứ?” “Ông muốn tôi làm gì đây?” Người ngồi phía sau run rẩy đáp. “Điều duy nhất tôi yêu cầu là ông phải thực hiện theo đúng các chỉ dẫn của tôi. Tôi đảm bảo rằng ông sẽ không gặp phải bất cứ sự nguy hiểm nào, và ông sẽ được trả công xứng đáng. Tôi đã chuẩn bị sẵn ở đây cho ông một số tiền rất lớn, đủ để giải quyết tất cả những sự lo lắng hiện thời của ông. Đổi lại tôi muốn ông đưa số tiền đó vào lưu thông, thực hiện các giao dịch cần thiết, che đậy dấu vết của các hóa đơn và chứng từ ngân hàng đã bị bọn cảnh sát nắm được; xử lý các phiếu nợ mà tôi không thể tự xử lý, nói chung là trở thành người đại diện cho tôi…,” hắn ngừng một chút rồi nhấn mạnh, “và trả những khoản mà tôi yêu cầu.” Người đàn ông ngồi sau hắn yên lặng một lúc, rồi đột ngột hỏi, “Vòng Tròn Máu là gì?” “Ông.” Câu trả lời khiến ông sững sờ. “Tôi ư?” Ông thở hổn hển. “Giờ ông thuộc về Vòng Tròn Máu.” Người kia cẩn trọng đáp. “Ông có hàng trăm chiến hữu, tất cả đều không và sẽ không hề biết ông là ai.” “Còn ông?” “Tôi biết tất cả bọn họ.” Gã tài xế nói. “Ông đồng ý chứ?” “Tôi đồng ý.” Người kia đáp sau một thoáng ngập ngừng. Gã tài xế quay nửa người lại trên ghế và giơ tay lên. “Cầm lấy nó,” Hắn nói. Nó là một chiếc phong bì lớn, dày cộm, và thành viên mới nhất của Vòng Tròn Máu nhanh chóng bỏ nó vào trong túi. “Và giờ thì ra ngoài.” Gã tài xế nói cộc lốc, và người kia làm theo không chút thắc mắc. Ông sập cửa và đi ngang qua ghế lái. Ông vẫn tò mò về danh tính của hắn, và bởi sự an toàn của mình, nên ông muốn biết kẻ đang lái xe là ai. “Đừng có châm thuốc ở đây,” gã tài xế nói, “kẻo tôi sẽ cho rằng châm thuốc chỉ là cái cớ để ông có thể quẹt diêm. Và hãy nhớ này, ông bạn, những kẻ biết tôi đều đã mang theo điều chúng biết xuống địa ngục rồi.” Trước khi người kia có thể trả lời, chiếc xe đã lăn bánh và người đàn ông với chiếc phong bì đứng nhìn theo chiếc đèn hậu đỏ cho đến khi nó vụt quá khỏi tầm mắt. Ông run lẩy bẩy từ đầu đến chân, và khi ông châm lửa điếu xì gà trên môi, ánh lửa từ que diêm cũng trở nên run rẩy lập lòe. “Thế là xong.” Ông khàn giọng nói, rồi băng qua đường và biến mất trong một lối rẽ. Ông gần như đã khuất dạng thì một bóng người chợt hiện ra từ khung cửa của một căn nhà tối om và lén lút theo sau ông. Đó là một gã đàn ông cao lớn, nhưng lại di chuyển chậm chạp do mắc chứng khó thở bẩm sinh. Gã đi theo ông khoảng một trăm bước thì mới chợt nhớ ra mình vẫn đang cầm chiếc ống nhòm hàng hải trên tay, và có thể dùng nó để dễ dàng quan sát mọi thứ. Khi gã ra được đến phố chính thì con mồi đã hoàn toàn biến mất. Gã có vẻ như đã lường trước chuyện đó và không hề tỏ ra bối rối. Gã biết phải tìm ông ở đâu. Nhưng kẻ trong xe là ai? Gã đã nhìn thấy biển số và có thể tìm ra chủ nhân của nó vào sáng mai. Felix Marl nở một nụ cười thỏa mãn. Nếu gã biết được nội dung của cuộc nói chuyện mà mình vừa mới quan sát, hẳn gã sẽ không thể vui vẻ như vậy được nữa. Những người đàn ông mạnh mẽ hơn gã rất nhiều cũng đã từng phải run sợ trước sự đe dọa của Vòng Tròn Máu. 2 NGƯỜI KHÔNG CHỊU TRẢ TIỀN Philip Bassard đã trả tiền và vẫn còn sống, bởi rõ ràng Vòng Tròn Máu đã giữ lời; Jacques Rizzi, chủ ngân hàng, cũng đã trả tiền, nhưng là trong tình trạng hoảng loạn, và điều đó đã khiến cho trái tim yếu ớt của ông không chịu nổi và ngừng đập sau đó một tuần. Benson, luật sư của hãng xe lửa, đã tỏ vẻ coi thường lời đe dọa và sau đó được tìm thấy đã chết trong toa riêng của mình. Derrick Yale, với khả năng đặc biệt của mình, đã tóm được gã da màu, kẻ đã lẻn vào toa riêng của ông Benson và giết chết ông ta trước khi ném cái xác qua cửa sổ. Hắn đã bị treo cổ, vậy nhưng vẫn không hề khai ra danh tính của kẻ đã thuê hắn làm việc đó. Đám cảnh sát có thể chế nhạo năng lực tâm linh của Yale - mà đúng là họ đã làm vậy thật - nhưng chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, ông đã dẫn họ tới trước cửa ngôi nhà của tên tội phạm tại Yareside. Trong cơn bối rối và hoảng hốt, hắn đã nhanh chóng thú nhận tội ác của mình. Sau thảm kịch đó, rất nhiều người đã đồng ý trả tiền mà không báo lại với cảnh sát, bởi vậy suốt một thời gian dài báo chí không còn nhắc gì tới cái tên Vòng Tròn Máu nữa. Và rồi một buổi sáng, nó xuất hiện trên bàn ăn của James Beardmore; một chiếc phong bì vuông chứa một tấm thiệp, trên đó in dấu hiệu của Vòng Tròn Máu. “Con vẫn thường thích thú những sự kiện giật gân nhỉ, Jack… đọc cái này xem.” James Stamford Beardmore ném lời nhắn qua bên kia bàn cho con trai và chuẩn bị mở lá thư tiếp theo trong chồng thư xếp cạnh đĩa của mình. Jack cúi xuống nhặt lá thư dưới sàn, nơi nó vừa rơi xuống, và khẽ cau mày khi xem xét nó. Đó là một tấm thiệp hết sức bình thường, chỉ có điều không ghi địa chỉ người nhận. Một vòng tròn lớn đỏ sẫm như máu tiếp xúc với cả bốn cạnh của nó, có vẻ như được đóng bằng một con dấu cao su, bởi màu mực không được đều. Ở giữa vòng tròn, được viết bằng chữ in hoa, là những dòng chữ: Một trăm nghìn đô la chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng tài sản của ông. Ông sẽ đưa nó cho người được tôi cử đến sau khi tờ Tribune số ra trong vòng hai mươi tư giờ tới đăng tải một quảng cáo ghi rõ thời gian và địa điểm. Đây là lời cảnh báo cuối cùng. Không hề có chữ ký trên đó. “Sao hả?” Ông già Jim Beardmore ngước nhìn con trai qua cặp kính và đôi mắt ông như đang mỉm cười. “Vòng Tròn Máu!” Cậu con trai hổn hển. Jim Beardmore cười lớn trước sự hốt hoảng của cậu. “Ờ, Vòng Tròn Máu… Cha đã nhận được bốn bức như thế này rồi!” Cậu trai trẻ nhìn ông chằm chằm. “Bốn ư?” Cậu lặp lại. “Lạy Chúa trên cao! Có phải đó là lý do mà Yale ở đây với chúng ta không?” Jim Beardmore mỉm cười. “Đó cũng là một lý do,” ông nói. “Tất nhiên con biết ông ấy là thám tử, nhưng con không nghĩ là…” “Đừng lo về cái vòng tròn đáng nguyền rủa đó.” Cha cậu thốt lên đầy sốt ruột. “Cha không sợ chúng. Froyant thì ngược lại, hẳn là đang chết khiếp. Và cha không hề ngạc nhiên. Hồi trước ông ấy và cha có vài kẻ thù.” James Beardmore, với khuôn mặt khắc khổ và bộ râu rậm màu xám, vẫn thường bị nhầm là ông của chàng thanh niên đẹp trai kia. Gia sản mà Beardmore có được hôm nay đã phải đánh đổi bằng biết bao mồ hôi nước mắt. Nó được xây nên từ mảnh vụn của những giấc mơ và bắt đầu trong sự nghèo túng, nguy hiểm và khổ đau của cuộc đời một gã săn vàng. Ông đã bị Thần Chết bám theo trên vùng đồng bằng khô cạn tại Kalahari, đã nạo bùn tìm kiếm những viên kim cương ảo mộng dưới lòng sông Vale; người đàn ông đã từng phải đối mặt với quá nhiều hiểm nguy trong cuộc sống thực ấy rõ ràng chẳng coi lời đe dọa của Vòng Tròn Máu ra gì. Lúc này ông cảm thấy hết sức lo lắng, nhưng không phải cho mình, mà là cho cậu con trai. “Cha hoàn toàn tin tưởng vào con, Jack”, ông nói, “vậy nên đừng cảm thấy tổn thương vì những lời cha sắp nói đây. Cha chưa bao giờ can thiệp vào cuộc sống riêng hay thắc mắc về các quyết định của con… nhưng… con có thấy là gần đây mình đã hành xử hơi thiếu khôn ngoan không?” Jack hiểu ngay. “Cha đang nói đến cô Drummond, phải không ạ?” Ông già gật đầu. “Cô ấy là thư ký của Froyant.” Người trẻ hơn nói. “Cha biết cô ấy là thư ký của Froyant,” người kia tiếp lời, “và không phải vì thế mà cô ấy không tốt. Nhưng vấn đề là, Jack ạ, con có biết thêm gì về cô ấy hay không?” Chàng thanh niên trẻ gấp khăn ăn lại một cách cẩn thận. Khuôn mặt cậu đỏ bừng còn quai hàm thì khẽ nghiến lại, và điều đó khiến Jim cảm thấy thích thú. “Con thích cô ấy. Cô ấy là bạn con. Con chưa từng thổ lộ tình cảm với cô ấy, nếu đó là những gì cha muốn nói, và con nghĩ rằng nếu con làm như vậy thì tình bạn của chúng con sẽ hoàn toàn chấm dứt.” Jim gật đầu. Ông đã nói hết tất cả những gì cần phải nói và giờ ông cầm một chiếc phong bì dày cộm lên, nhìn nó với ánh mắt đầy tò mò. Jack thấy những con tem của Pháp trên đó và cậu tự hỏi không biết ai là người đã gửi nó. Ông già xé phong bì và rút ra một xấp thư, trong đó có một chiếc phong bì được niêm phong cẩn thận. Ông đọc cái tên viết trên đó và khịt mũi một cái. “Hừ!” Ông kêu lên một tiếng rồi quẳng luôn chiếc phòng bì xuống, không buồn mở ra. Ông liếc qua phần còn lại của chồng thư, rồi quay lại nhìn con trai mình. “Đừng bao giờ tin tưởng bất cứ ai, đàn ông cũng như đàn bà, nếu như con chưa thấy được phần tồi tệ nhất của họ,” ông nói. “Hôm nay cha sẽ tiếp một vị khách, một nhân vật đáng kính trong xã hội. Quá khứ của ông ta cũng đen như chiếc mũ của cha vậy, nhưng chúng ta vẫn giữ quan hệ làm ăn… bởi cha đã thấy phần tồi tệ nhất của ông ta!” Jack cười. Cuộc trò chuyện của họ bị một vị khách làm gián đoạn. “Chào ông, Yale. Ông ngủ ngon chứ?” Ông già hỏi. “Gọi thêm cà phê đi, Jack.” Chuyến viếng thăm của Derrick Yale khiến Jack Beardmore cảm thấy hết sức hài lòng. Cậu đang ở độ tuổi lãng mạn bay bổng và việc quen biết một thám tử, kể cả một thám tử bình thường nhất đi chăng nữa cũng có thể mang lại cho cậu một niềm vui đặc biệt. Nhưng sự hấp dẫn mà Yale tỏa ra lại là một sức hấp dẫn có chút gì đó siêu thực. Người đàn ông này có những phẩm chất khác thường, có phần dị biệt, và chính điều đó đã khiến ông trở thành độc nhất. Gương mặt với những đường nét tinh tế, đôi mắt nghiêm nghị đầy bí ẩn, những ngón tay dài đầy nhạy cảm, tất cả đã góp phần tạo nên sự độc nhất của ông. “Tôi không bao giờ ngủ.” Ông nói với vẻ hài hước trong lúc rút chiếc khăn ăn. Ông cầm chiếc vòng bạc cố định khăn ăn lên bằng hai đầu ngón tay,mân mê nó trong thoáng chốc. Điều đó dường như khiến Jack Beardmore cảm thấy thích thú, và cậu chẳng hề có ý định che giấu điều đó. “Sao vậy?” Ông già cất tiếng hỏi. “Người cuối cùng chạm vào chiếc vòng này mới nhận được một tin rất xấu… một người có họ hàng gần với người đó đang ốm rất nặng.” Ông Beardmore gật đầu. “Jane Higgins là cô hầu đã dọn bàn hôm nay,” ông nói. “Sáng nay, cô ấy mới nhận được một bức thư thông báo rằng mẹ cô ấy đang hấp hối.” Jack giật nảy mình. “Ông có thể cảm thấy điều đó chỉ nhờ chiếc vòng cố định khăn ăn ư?” Cậu kinh ngạc hỏi. “Làm sao mà ông biết được điều đó vậy, ông Yale?” Derrick Yale lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ cố gắng tìm hiểu điều đó,” ông bình thản nói. “Tất cả những gì tôi biết là ngay khoảnh khắc tôi chạm vào chiếc vòng, trong tôi đột nhiên trào lên một cảm giác đau khổ sâu sắc. Khá là dị, phải vậy không?” “Nhưng làm sao ông biết về mẹ cô ấy?” “Tôi đã tìm ra nó, bằng một cách nào đó,” ông cộc cằn đáp, “tất cả là nhờ suy luận. Có tin gì mới không, thưa ngài Beardmore?” Jim đưa cho ông tấm thiệp mới nhận được sáng nay thay cho câu trả lời. Yale đọc lời nhắn, rồi đặt nó trên lòng bàn tay trắng bóc của mình. “Được một gã thủy thủ chuyển tới,” ông nói, “kẻ đó từng ngồi tù và gần đây mới mất một khoản tiền lớn.” Jim Beardmore cười. “Vậy hẳn là hắn muốn tôi bù cho hắn khoản đó rồi.” Ông nói rồi đứng dậy khỏi bàn. “Ông có cho rằng lời nhắn này là một mối đe dọa nghiêm trọng không?” “Tôi cho rằng nó hết sức nghiêm trọng,” Yale bình tĩnh đáp. “Vậy nên tôi cảnh báo ngài đừng rời khỏi căn nhà này nếu như không có người của tôi đi cùng. Vòng Tròn Máu,” ông tiếp tục, khoát tay ngăn cản ông Beardmore đang nóng nảy chực lên tiếng phản đối, “có thể là một đám thích hư trương thanh thế, nhưng chắc chắn là những người thừa kế của ông sẽ chẳng vui vẻ gì khi thấy ông qua đời trong một thảm kịch đâu.” Jim Beardmore im lặng một thoáng, và cậu con trai nhìn ông bằng ánh mắt lo lắng. “Hay là cha trốn ra nước ngoài?” Cậu đề nghị, và điều đó đã khiến ông già nổi cơn tam bành. “Ra nước ngoài cái con khỉ!” Ông gầm lên. “Chạy trốn khỏi cái lũ Bàn Tay Đen hàng nhái đó sao? Để ta xem chúng có thể…!” Ông không nói hết câu, nhưng họ đều đoán được ý ông là gì. 3 CÔ NÀNG LẠNH LÙNG Jack Beardmore cảm thấy lòng mình nặng trĩu khi cậu tản bộ trên bãi cỏ vào buổi sáng hôm ấy. Đôi chân, theo bản năng, đưa cậu hướng tới thung lũng nhỏ cách nhà khoảng một dặm; giữa thung lũng là một hàng rào ngăn cách phần đất của Beardmore và Froyant. Sáng hôm đó trời rất đẹp. Cơn bão mang theo mưa gió càn quét khắp vùng đêm hôm trước đã tan đi, mặt đất giờ đang tắm mình dưới ánh mặt trời. Phía xa, khuất sau những rặng cây che phủ đỉnh đồi Penton, cậu trông thấy thấp thoáng dinh thự màu trắng đồ sộ của Harvey Froyant. Cậu tự hỏi: Liệu cô ấy có sẵn lòng đi ra ngoài, khi mà mặt đất thì đầy bùn lầy còn cỏ thì sũng nước sau cơn mưa như thế này không? Cậu dừng lại bên một cây du lớn mọc cạnh thung lũng và hướng ánh mắt lo lắng về phía hàng rào xiêu vẹo, nơi có một căn nhà nhỏ do những chủ nhân cũ của Tower House dựng lên làm nơi hóng mát ngày hè. Harvey Froyant, vốn luôn căm ghét nỗi cô đơn, chắc chắn sẽ không bao giờ phạm tội phung phí vô độ như vậy. Cậu chẳng trông thấy ai, và điều đó khiến trái tim cậu chùng xuống. Mất mười phút đi bộ và cậu đã tới bên cái lỗ cậu đục trên hàng rào, rồi chui qua đó. Cô gái đang ngồi trong căn nhà nhỏ hẳn đã nghe thấy tiếng thở dài nhẹ nhõm của cậu. Cô quay đầu lại, thoáng chút lưỡng lự rồi đứng dậy. Trông cô rất đẹp, tất nhiên rồi, với mái tóc vàng óng ả và làn da mịn màng không tì vết, nhưng trong mắt cô chẳng có lấy một tia vui mừng, khi cô từ từ bước về phía cậu. “Chào buổi sáng.” Cô lạnh lùng nói. “Chào buổi sáng, Thalia.” Cậu đáp, giọng run run, và lông mày cô nhíu lại. “Tôi không thích thế này chút nào.” Cô nói, và cậu biết rằng cô thực sự có ý như vậy. Thái độ của cô khiến cậu thực sự cảm thấy bối rối và lo lắng, bởi thường ngày cô là một người vui vẻ và đầy sức sống. Có lần, cậu đã hết sức ngạc nhiên khi trông thấy cô đuổi theo một con thỏ rừng, và cậu đã đứng lặng đó, say sưa ngắm nhìn hình ảnh của nữ thần Diana đang mỉm cười, sải đôi chân bé nhỏ băng qua cánh đồng, rượt theo con thú đang sợ hãi. Cậu cũng từng được nghe cô hát, được nghe niềm vui sống ẩn trong giọng hát của cô, và cũng từng thấy cô chán nản và u sầu đến mức cậu ngỡ như cô bị bệnh. “Tại sao lúc nào cô cũng dè dặt và câu nệ với tôi như vậy chứ?” Cậu càu nhàu. Một nụ cười thoáng qua trên môi cô. “Bởi vì tôi đã đọc những cuốn sách,” cô trịnh trọng nói, “mà trong đó, mấy cô thư ký nghèo không dè dặt và câu nệ với những cậu ấm nhà triệu phú đều có kết cục chẳng tốt đẹp gì!” Cô quá thẳng thắn, và điều đó khiến người đối thoại với cô trở nên lúng túng. “Thêm vào đó,” cô nói, “chẳng có lý do gì mà tôi lại không dè dặt và câu nệ cả. Đó là thái độ ứng xử bình thường khi tiếp xúc với người khác, trừ khi đó là một người hết sức thân thiết với mình, và tôi với cậu thì có vẻ như không thuộc trường hợp đó.” Cô nói điều đó với giọng hết sức bình thản, và điều đó khiến mặt cậu đỏ lựng. Cậu cảm thấy mình thật ngu ngốc và tự nguyền rủa bản thân vì đã khơi gợi để cô thốt ra những lời tàn nhẫn đó. “Tôi sẽ nói với cậu một điều, cậu Beardmore,” cô nói, vẫn giữ chất giọng bình thản, “một điều mà có lẽ cậu vẫn hiểu. Khi một chàng trai và một cô gái cùng bị ném vào sa mạc, sẽ là hết sức tự nhiên khi mà chàng trai cho rằng người kia là cô gái duy nhất trên đời. Toàn bộ tâm trí của chàng sẽ dành cho nàng, và rồi mỗi ngày trôi qua, hình ảnh của nàng trong mắt chàng sẽ càng trở nên tuyệt vời hơn. Tôi đã đọc rất nhiều câu chuyện, đã xem rất nhiều bộ phim có nội dung như vậy, và tôi hoàn toàn thấu hiểu điều đó. Giờ cậu đang ở trong sa mạc - cậu đã sống tại nơi này quá lâu, và những thứ duy nhất mà cậu từng thấy là thỏ, chim và Thalia Drummond. Cậu nên trở về thành phố và giao du với những người thuộc tầng lớp của cậu.” Cô gật đầu chào cậu rồi quay lưng bỏ đi, bởi cô đã liếc thấy ông chủ của mình đang đứng đằng xa quan sát họ, và rõ ràng là ông ta đang không vui vẻ gì. “Tôi tưởng rằng cô đang phải tính toán các khoản địa tô chứ, cô Drummond?” Ông ta cộc cằn nói. Đó là một người đàn ông gầy gò cỡ ngoài năm mươi tuổi, lạnh lùng, sắc sảo và bị hói từ khi còn trẻ. Ông ta thường khiến người đối diện hết sức khó chịu khi cứ phô ra mấy chiếc răng cửa dài ngoẵng vàng ệch và nhăn mặt cau có lúc đặt câu hỏi, như thể đối với ông ta thì mọi câu trả lời đều chỉ là những lời ngụy biện. “Chúc cậu Beardmore buổi sáng tốt lành.” Ông ta miễn cưỡng buông một lời chào, rồi lại quay mặt về phía thư ký của mình ngay lập tức. “Tôi không muốn thấy cô lãng phí thời gian thế này đâu, cô Drummond.” “Tôi không hề lãng phí thời gian của ngài cũng như của tôi, thưa ngài Froyant.” Cô bình tĩnh đáp. “Tôi đã hoàn thành công việc tính toán cả rồi… Nó đây!” Cô vỗ vỗ vào chiếc túi đựng tài liệu bằng da mòn vẹt đang kẹp dưới nách. “Cô có thể làm việc đó trong thư viện của tôi,” ông ta càu nhàu, “chứ không cần phải đi ra chỗ đồng không mông quạnh thế này.” Ông ta dừng lại, xoa chiếc mũi dài của mình và liếc một lượt từ cô gái đến chàng trai trẻ đang đứng lặng thinh ở đó. “Được rồi, vậy là ổn. Tôi đang định đến gặp cha cậu đây, cậu Beardmore. Có lẽ chúng ta có thể đi cùng nhau chăng?” Thalia đã bước về phía Tower House, và chẳng còn lý do gì để Jack nán lại nữa. “Đừng lãng phí thời gian của cô ấy nữa, cậu Beardmore, đừng!” Froyant nói với giọng cáu kỉnh. “Cậu không thể tưởng tượng nổi cô ấy bận rộn thế nào đâu, và tôi cá là cha cậu cũng không thích chuyện này chút nào.” Jack suýt chút nữa đã thốt ra một câu thô tục, nhưng cậu kịp kìm lại. Bình thường cậu vốn đã không ưa Harvey Froyant, và giờ thì cậu cảm thấy cực kỳ căm ghét ông ta, căm ghét sự độc đoán mà ông ta áp đặt lên cô ấy. “Những cô gái như vậy…,” Froyant tiếp tục nói và quay đầu bước dọc theo hàng rào, hướng về phía cánh cổng nằm ở cuối thung lũng. “Những cô gái như vậy…,” ông ta đột ngột dừng lại và nhìn chằm chằm về phía trước. “Thằng chết bằm nào đã khoét một lỗ trên hàng rào thế kia?” Ông ta hỏi và giơ gậy lên chỉ về hướng đó. “Tôi làm đấy.” Jack thô lỗ nói. “Đây là hàng rào chung của chúng ta, và làm thế sẽ bớt được nửa dặm đường… Đi thôi nào, ông Froyant.” Harvey Froyant không nói một lời nào, chỉ thận trọng cúi xuống và đi qua hàng rào. Họ chậm rãi leo lên sườn đồi, tới chỗ cây du lớn mà Jack vừa mới đứng bên trước đó. Harvey Froyant tiếp tục giữ im lặng. Ông ta là một người hết sức câu nệ phép tắc, miễn là chúng mang lại lợi ích cho bản thân. Khi họ sắp lên gần đỉnh, đột nhiên Froyant cảm thấy tay mình bị siết chặt từ phía sau, ông ta quay lại và thấy Jack Beardmore đang nhìn chằm chằm vào một cái cây gần đó. Froyant nhìn theo hướng ánh mắt của cậu và giật mình bước lùi lại một bước, mặt xám ngoét không còn giọt máu. Trên thân cây là một vòng tròn lớn màu đỏ sẫm được vẽ một cách vội vã, nước sơn vẫn chưa kịp khô. 4 FELIX MARL Jack Beardmore đảo mắt tìm kiếm xung quanh. Người duy nhất xuất hiện trong tầm mắt của cậu là một gã đàn ông tay xách túi đang đi xa dần. Jack hét lên và gã quay đầu lại. “Ông là ai?” Jack hỏi. “Ông đang làm cái gì ở đây?” Người lạ mặt là một gã cao lớn vạm vỡ, và có vẻ như việc phải đi bộ suốt một quãng đường dài đã khiến gã cảm thấy hơi khó thở. Phải mất một lúc gã mới lên tiếng trả lời. “Tên tôi là Marl,” gã nói, “Felix Marl. Có lẽ cậu đã từng nghe đến tên tôi. Tôi đoán mình đang tiếp chuyện với cậu Beardmore, phải vậy không?” “Phải, chính là tôi.” Jack nói. “Ông đang làm cái gì ở đây?” Cậu hỏi lại lần nữa. “Mấy người ở chỗ nhà ga nói với tôi rằng đây là đường tắt, nhưng xem ra nó cũng chẳng tắt hơn được là bao.” Marl vừa nói vừa thở dốc. “Tôi đang trên đường tới gặp cha cậu.” “Ông có tới gần cái cây kia không?” Jack hỏi, và Marl lườm cậu. “Tôi tới gần cái cây đó để làm gì cơ chứ?” Gã bực bội đáp. “Tôi đã nói với cậu là tôi băng thẳng qua cánh đồng rồi cơ mà.” Harvey Froyant cũng vừa tới, và ông ta nhận ra người lạ mặt ngay lập tức. “Đây là Marl, tôi biết ông ấy. Marl, ông có thấy ai đến gần cái cây đằng kia không?” Gã đàn ông lắc đầu. Rõ ràng là gã chẳng biết gì về cái cây cũng như điều bí mật của nó. “Tôi còn chẳng biết là ở đó có một cái cây nữa kia,” gã nói. “Chuyện… chuyện gì đang xảy ra vậy?” “Không có gì.” Froyant lạnh lùng đáp. Rồi họ lên đường hướng về phía dinh thự của nhà Beardmore, Jack xách hộ túi cho vị khách. Cậu không có thiện cảm lắm với gã đàn ông to lớn này. Cách nói năng thô lỗ và thái độ suồng sã của gã khiến Jack không khỏi tự hỏi rằng liệu gã và cha cậu có quan hệ thế nào. Họ đã đến rất gần dinh thự thì đột nhiên, chẳng vì lý do gì cả, gã Marl to lớn kia bỗng phát ra một tiếng kêu ré lên sợ hãi và bước lùi lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, gã đang hết sức sợ hãi. Điều đó được thể hiện rõ ràng qua đôi gò má tái nhợt và đôi môi run rẩy của gã đàn ông, cả người gã lúc này không khác gì chiếc lá trong cơn gió lớn. Jack nhìn gã bằng ánh mắt kinh ngạc, và ngay cả Froyant cũng cảm thấy hết sức bối rối. “Chuyện quái gì đang xảy ra với ông thế, Marl?” Ông ta cáu kỉnh hỏi. Thần kinh của ông ta vốn đang căng thẳng tột độ, và chứng kiến nỗi kinh hoàng lộ ra mặt của gã đàn ông vạm vỡ này giống như một giọt nước làm tràn ly, khiến ông ta không thể chịu đựng thêm được nữa. “Không… không có gì.” Marl lẩm bẩm khe khẽ. “Tôi vừa…” “Vừa uống rượu, hẳn là vậy rồi.” Froyant khinh khỉnh nói. Sau khi đã đưa họ vào nhà, Jack lập tức đi tìm Derrick Yale. Cậu thấy viên thám tử đang ngồi trên một chiếc ghế tựa lớn cạnh bụi cây, đầu gục xuống ngực và tay khoanh lại - tư thế quen thuộc của ông. Yale ngẩng đầu lên khi nghe thấy tiếng bước chân của chàng trai trẻ. “Tôi khá chắc chắn rằng,” ông nói, trước cả khi Jack quyết định đặt câu hỏi, rồi khi thấy vẻ sửng sốt trên gương mặt cậu, ông cười rộ lên, “cậu đến để hỏi xem điều gì đã khiến Marl hoảng hốt đến vậy, phải không?” “Tôi thực sự đã định làm thế.” Jack cười. “Ông thật quá sức phi thường, ông Yale ạ! Ông có thấy ông ta đã khiếp đảm đến mức nào không?” Derrick Yale gật đầu. “Tôi đã thấy ông ta từ trước khi ông ta bị như vậy kia,” ông nói. “Cậu có thể trông thấy con đường băng qua cánh đồng từ chỗ này. Ông ta khiến tôi nhớ đến một người,” ông cau mày và chậm rãi nói, “nhưng dù có cố đến mấy tôi cũng không thể nhớ ra đó là ai. Ông ta có thường xuyên lui tới không? Cha cậu nói với tôi rằng có người sắp đến, và tôi đoán rằng đó có lẽ là ông ta.” Jack lắc đầu. “Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy ông ta,” cậu nói. “Giờ thì tôi nhớ rồi, cha tôi và ông Froyant có quan hệ làm ăn với một người tên là Marl… cha đã từng nhắc đến cái tên đó. Tôi nghĩ rằng ông ta là người kinh doanh bất động sản. Thời gian này cha khá là có hứng thú với đất đai. À mà, tôi đã trông thấy dấu hiệu của Vòng Tròn Máu.” Cậu nói thêm, và miêu tả hình vẽ mới được sơn trên thân cây du. Ngay lập tức, Yale không còn nghĩ gì đến người tên Marl nữa. “Nó không có ở đó khi tôi xuống thung lũng,” Jack nói. “Tôi có thể thề như vậy. Nó hẳn phải được sơn lúc tôi đang nói chuyện với… với một người bạn. Từ chỗ hàng rào không thể trông thấy cái cây được, và ai đó hoàn toàn có thể vẽ vòng tròn lên đó mà không bị trông thấy. Nó có nghĩa là sao, hả ông Yale?” “Nó có nghĩa là rắc rối.” Yale chỉ nói có vậy. Ông đột ngột đứng dậy và chậm rãi sải bước trên con đường lát đá, còn Jack, sau khi đã chờ đợi một lúc, quyết định cứ để cho ông chìm đắm trong trầm tư mặc tưởng. Cùng lúc đó, Felix Marl đang thể hiện mình là một bên thứ ba khá vô dụng trong cuộc thảo luận về việc mua bán đất đai. Marl, như Jack đã nói, là một người kinh doanh bất động sản, và sáng hôm đó, gã mang đến một đề xuất cực kỳ hứa hẹn, chỉ có điều lại không thể giải thích nó cho rõ ràng. “Tôi rất xin lỗi, thưa các ngài.” Gã nói, và đưa bàn tay run rẩy lên che môi lần thứ tư. “Lúc sáng tôi đã phải trải qua một cú sốc khá nặng.” “Có chuyện gì vậy?” Marl không thể trả lời được câu hỏi đó. Gã chỉ có thể lắc đầu đầy bất lực. “Lúc này tôi không thể nào bình tĩnh mà thảo luận chuyện mua bán được.” Gã nói. “Chúng ta sẽ phải dời nó sang ngày mai.” “Tôi phải mất công đến tận đây chỉ để nghe những lời vô nghĩa đó thôi sao?” Froyant gầm gừ. “Tôi muốn một cuộc trao đổi nghiêm túc, và ông Beardmore đây cũng vậy.” Jim Beardmore, người chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện công việc sẽ được giải quyết ngay lập tức hay là vào tuần sau, chỉ cười. “Tôi không biết việc này quan trọng đến vậy cơ đấy,” ông nói. “Nếu như Marl đang cảm thấy khó chịu trong người, vậy thì có lẽ chúng ta không nên làm phiền ông ấy thêm nữa. Có lẽ tối nay ông nên nghỉ lại đây, được chứ, Marl?” “Không, không, không.” Gã gần như hét lên. “Không, tôi sẽ không ở lại đây đâu, xin ngài thứ lỗi… Tôi thực sự không muốn ở lại đây chút nào.” “Tùy ông thôi.” Jim Beardmore thờ ơ đáp và xếp lại đống giấy tờ mà ông chuẩn bị ký. Khi ra đến sảnh, họ thấy Jack đang ở đó. Beardmore ra lệnh cho tài xế riêng đưa vị khách ra ga, và tại đó Marl đã hành xử hết sức lạ lùng. Gã gửi túi xách của mình về thành phố, nhưng bản thân thì xuống ngay ở ga tiếp theo, và với một người rất ghét đi bộ - hay đúng hơn là bất cứ hoạt động thể chất nào - thì việc quyết định cuốc bộ chín dặm đường từ nhà ga đến dinh thự Beardmore đòi hỏi phải có một quyết tâm phi thường. Và thậm chí gã còn không thèm chọn đường tắt. Khi trời chập choạng tối, Marl mới đến được rặng cây nằm sát phần đất của nhà Beardmore. Gã ngồi xuống, mệt rã rời và đầy bụi bặm, nhưng vẫn rất kiên định với mục tiêu ban đầu. Gã chờ đến khi màn đêm đã buông xuống hoàn toàn, và trong khi chờ đợi, gã cẩn thận kiểm tra lại khẩu súng lục tự động đã lấy ra khỏi túi xách khi còn ở trên tàu. 5 CÔ NÀNG CHẠY TRỐN “Cha thật không thể hiểu nổi, tại sao người đó lại không trở lại đây vào sáng nay cơ chứ?” Jim Beardmore nói với một cái nhíu mày. “Ai cơ ạ?” Jack lơ đãng hỏi. “Cha đang nói về Marl.” “Có phải đó là quý ông cao lớn mà tôi đã gặp hôm qua không?” Derrick Yale hỏi. Họ đang đứng trên sân thượng của ngôi nhà và độ cao của nó giúp họ có được tầm nhìn bao quát khắp xung quanh. Chuyến tàu buổi sáng đã đến và rồi lại đi. Họ có thể trông thấy vệt khói trắng mà nó bỏ lại trước khi biến mất vào trong ngọn đồi cách đó chín dặm. “Phải. Tốt hơn là tôi nên gọi cho Froyant và bảo ông ấy không cần phải đến nữa.” Jim Beardmore đưa tay xoa xoa cằm lởm chởm đầy râu. “Marl thực sự khiến tôi cảm thấy bối rối. Tôi tin rằng ông ta là một người thông minh, và tôi cũng biết rằng ông ta là một tên trộm đã hoàn lương… ít ra thì tôi nghĩ là ông ta đã hoàn lương rồi. Jack, hôm qua điều gì đã khiến ông ta suy sụp đến thế? Lúc đặt chân vào thư viện trông ông ta như chết rồi vậy.” “Con chịu, không sao hiểu nổi.” Jack đáp. “Con nghĩ ông ta bị yếu tim hay gì đó đại loại thế. Ông ta có nói với con rằng ông ta vẫn thường bị như vậy.” Ông già Beardmore cười khẽ và trở vào trong nhà, sau đó quay lại với một cây gậy trên tay. “Jack, cha đi dạo một lúc đây. Không, con không cần phải đi cùng đâu. Có vài điều mà tôi muốn tự mình suy nghĩ, và tôi hứa với ông, Yale ạ, rằng tôi sẽ không rời khỏi khu vườn đâu, dù tôi vẫn nghĩ rằng ông đã đánh giá lũ ác ôn này quá cao rồi.” Yale lắc đầu. “Thế còn dấu hiệu được vẽ trên cây thì sao?” Ông hỏi. Jim Beardmore khịt mũi đầy khinh bỉ. “Muốn lấy được một trăm ngàn từ tay tôi thì chúng cần phải làm tốt hơn thế,” ông nói. Ông vẫy tay chào họ khi bước xuống những bậc thang lát đá rộng, và họ đứng đó nhìn ông chậm chạp rảo bước ra phía vườn. “Ông có cho rằng cha tôi đang gặp nguy hiểm không?” Jack hỏi. Yale, đang dõi mắt trông theo hình bóng xa dần, lập tức quay đầu lại. “Nguy hiểm ư?” Ông nhắc lại và trả lời sau một giây do dự, “Có, tôi tin rằng cha cậu đang gặp phải một mối nguy hiểm thực sự, và nó sẽ đến chỉ trong nay mai thôi.” Jack dõi ánh mắt bối rối theo hướng của hình bóng đang dần biến mất. “Tôi hy vọng rằng ông đã nhầm.” Cậu nói. “Cha tôi có vẻ không coi đó là vấn đề gì quá nghiêm trọng, hoàn toàn khác hẳn với ông.” “Đó là bởi vì cha cậu chưa từng phải trải qua chuyện gì tương tự,” viên thám tử nói, “nhưng tôi biết rằng ông ấy đã đến gặp Chánh thanh tra Parr, và ngài thanh tra cũng cho rằng đây là một sự đe dọa nghiêm trọng.” Jack cười thầm, dù rằng trong thâm tâm cậu đang hết sức sợ hãi. “Làm thế nào mà con sư tử và con cừu lại hòa hợp được với nhau như thế?” Cậu hỏi. “Tôi tưởng là mấy ông cán bộ nhà nước ấy không ưa gì những người làm tư như ông chứ, ông Yale?” “Tôi ngưỡng mộ Parr.” Yale chậm rãi nói. “Ông ấy làm việc chậm mà chắc. Tôi được nghe kể rằng ông ấy là một trong những người tận tâm nhất trong Sở cảnh sát, và ông ấy đã bị đối xử không ra gì sau thất bại trong việc ngăn chặn âm mưu gần nhất của Vòng Tròn Máu. Người ta đã nói thẳng với ông ấy là nếu không thể triệt hạ được băng đảng này thì ông ấy sẽ buộc phải từ chức.” Trong khi họ đang nói thì ông Beardmore đã hoàn toàn khuất dạng đằng sau cánh rừng nhỏ u sầu ảm đạm nằm bên rìa của khu đất. “Tôi đã làm việc cùng ông ấy trong vụ giết người gần nhất của Vòng Tròn Máu,” Derrick Yale tiếp tục nói, “và ông ấy khiến cho tôi…” Ông dừng lại, và hai người đàn ông nhìn thẳng vào mắt nhau. Âm thanh đó không thể là thứ gì khác được, đó là một tiếng súng ở rất gần, và nó phát ra từ phía khu rừng. Theo bản năng, Jack lập tức nhảy qua lan can và vội vã lao thẳng qua thảm cỏ. Derrick Yale bám theo ngay đằng sau cậu. Họ tìm thấy Jim Beardmore đang nằm sấp cách bìa rừng khoảng hai mươi bước chân, và có vẻ như ông đã chết. Trong lúc Jack vẫn đang nhìn chằm chằm vào thi thể của cha mình bằng cặp mắt hoảng loạn thì ở đầu bên kia của cánh rừng, một cô gái dừng lại chốc lát để chùi thứ gì đó màu đỏ đang dính trên tay vào đám cỏ, rồi lập tức lao vào bóng tối, dọc theo hàng rào đánh dấu phần đất của nhà Froyant. Thalia Drummond không ngoái đầu nhìn lại dù chỉ một lần, cho tới khi cô chạy đến bên căn nhà nhỏ dùng làm nơi hóng mát mùa hè. Gương mặt méo mó và trắng bệch, cô thở hổn hển khi dừng lại chốc lát trước cửa và ngoái đầu nhìn về phía cánh rừng. Cô liếc nhìn xung quanh thật nhanh và bước vào nhà, khuỵu đầu gối xuống, đôi tay đang run rẩy một miếng gạch ở dưới nền lên. Một hốc đen lộ ra. Thêm vài giây lưỡng lự, rồi cô ném xuống đó khẩu súng mà nãy giờ cô vẫn cầm trên tay và đặt viên gạch lại như cũ. 6 THALIA DRUMMOND LÀ KẺ TRỘM! Ngài Cảnh sát trưởng nhìn vào mẩu báo được cắt ra đặt trước mặt và giật giật bộ ria xám của mình. Thanh tra Parr đã quá quen thuộc với hành động ấy, chỉ đứng đó nhìn một cách hết sức dửng dưng. Đó là một người đàn ông thấp, đậm người, thiếu chiều cao đến mức người ta không khỏi thắc mắc làm thế nào ông lại có thể được nhận vào ngành cảnh sát, nơi vốn áp dụng những tiêu chuẩn hết sức khắt khe. Ông khoảng gần năm mươi tuổi, nhưng trên gương mặt lớn đỏ rực vẫn chưa hề xuất hiện dù chỉ một nếp nhăn. Gương mặt ấy không hề có dấu hiệu nào của trí tuệ hay sự tao nhã. Đôi mắt tròn, lúc nào cũng nhìn người khác chằm chằm một cách vô hồn khiến ông trông càng trì độn hơn nữa. Thêm vào đó là một chiếc mũi bự, hai gò má dày, chiếc cằm hai ngấn và mái đầu hói một nửa, tất cả đã tạo cho ông một vẻ ngoài hết sức gây mất thiện cảm. Ngài Cảnh sát trưởng cầm mẩu báo được cắt rời lên. “Nghe này.” Ông ta nói cụt ngủn, rồi bắt đầu đọc. Đó là một bài xã luận của tờ Morning Monitor, và nó được viết bằng một giọng văn đầy tính công kích. “Lần thứ hai trong năm, cả đất nước lại được một phen kinh hoàng và phẫn nộ trước vụ ám sát một nhân vật nổi tiếng. Tội ác của Vòng Tròn Máu sẽ không được nêu chi tiết ở đây, các bạn có thể tìm đọc thông tin đầy đủ ở những trang sau. Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng, chúng tôi chắc chắn đều cảm thấy hết sức thất vọng trước sự bất lực hoàn toàn của lực lượng cảnh sát trong việc đối phó với băng nhóm tội phạm này. Thanh tra Parr, người đã dành suốt một năm qua để theo dấu đám sát nhân tống tiền, đã chẳng thể cung cấp cho chúng ta được bất cứ thứ gì ngoài những lời hứa hẹn có lẽ sẽ chẳng bao giờ trở thành sự thực. Rõ ràng là ngành cảnh sát cần một cuộc đại tu toàn diện, cần những dòng máu mới, và chúng tôi hy vọng những người đang nắm trong tay vận mệnh của đất nước sẽ không lưỡng lự khi phải đưa ra những thay đổi lớn nhưng hết sức cần thiết vào lúc này.” “Chà”, Đại tá Morton lẩm bẩm, “ông nghĩ sao về chuyện này hả, Parr?” Parr chỉ đứng đó xoa cằm, không nói gì. “James Beardmore bị sát hại sau khi những lời cảnh báo đã được gửi tới cho cảnh sát.” Ngài Cảnh sát trưởng từ tốn nói. “Ông ấy bị bắn ngay gần nhà mình, và tên sát nhân giờ vẫn chưa bị bắt. Đây đã là lần thứ hai xảy ra một chuyện nghiêm trọng thế này rồi, Parr ạ, và tôi nói thẳng luôn là tôi đang định làm theo lời khuyên của tờ báo đó.” Ông ta gõ nhẹ lên mẩu báo một cách đầy ẩn ý. “Lần trước ông đã nhường hết công trạng trong việc tóm được kẻ giết người cho Yale. Vậy tôi đoán là lần này ông cũng đã đi gặp ông ta rồi?” Viên thanh tra gật đầu. “Và ông ta nói sao?” Parr nhịp nhịp chân đầy lúng túng. “Ông ta nói với tôi hàng loạt những lời vô nghĩa về một gã bí ẩn bị đau răng.” “Làm sao ông ta biết được điều đó?” Ngài Cảnh sát trưởng lập tức hỏi. “Từ một vỏ đạn ông ấy nhặt được dưới đất.” Viên thanh tra nói. “Tôi không tài nào hiểu được thứ năng lực tâm linh này…” Ngài Cảnh sát trưởng thả người xuống ghế và thở dài. “Tôi không nghĩ là ông hiểu được bất cứ điều gì hữu ích cho quá trình điều tra, Parr ạ,” ông ta nói. “Và đừng có chế nhạo Yale. Ông ta có những khả năng hết sức dị thường. Việc ông không hiểu cũng chẳng hề làm giảm giá trị của chúng đi chút nào đâu.” “Phải chăng ngài định nói rằng,” Parr nói, có vẻ như đang bị kích động, “việc một người đàn ông có thể cầm một viên đạn trong tay rồi sau đó miêu tả lại chính xác đặc điểm cũng như suy nghĩ của người cuối cùng cầm nó là chuyện bình thường hay sao? Ôi trời, chuyện đó thật ngớ ngẩn!” “Chẳng có gì ngớ ngẩn ở đây cả!” Ngài Cảnh sát trưởng khẽ nói. “Ngành tâm linh học đã được nghiên cứu suốt nhiều năm nay rồi. Một số người có những giác quan cực kỳ nhạy bén và có thể tiết lộ cho chúng ta những điều đáng chú ý. Yale là một trong số đó.” “Ông ta đã ở đó khi vụ giết người xảy ra,” Parr đáp lại. “Ông ta đứng cạnh cậu con trai nhà Beardmore, cách đó không đến một trăm mét, vậy mà chẳng thể tóm được hung thủ.” Ngài Cảnh sát trưởng gật đầu. “Ông cũng vậy thôi.” Ông ta nói. “Một năm trước ông đã nói với tôi về kế hoạch giăng bẫy Vòng Tròn Máu, và tôi đã đồng ý. Tôi nghĩ là cả hai chúng ta đã kỳ vọng quá nhiều vào kế hoạch đó. Ông cần phải thử những cách khác. Tôi không muốn nói điều đó, nhưng đó là sự thực.” Parr yên lặng một hồi, rồi trong sự ngạc nhiên của ngài Cảnh sát trưởng, ông kéo ghế đến sát bàn và ngồi xuống mà chưa hề được mời. “Ngài Đại tá”, ông nói, “tôi cần phải nói với ngài điều này.” Lúc này trông ông hết sức nghiêm túc, khác hẳn ngày thường, điều đó khiến cho ngài Cảnh sát trưởng nhìn ông bằng ánh mắt đầy ngạc nhiên. “Việc tóm cổ đám Vòng Tròn Máu này chẳng khó khăn chút nào. Tôi có thể tóm cổ từng đứa một, và tôi chắc chắn sẽ làm được điều đó, chỉ cần ngài cho tôi thêm thời gian. Nhưng trục bánh xe mới là nơi mà tôi đang hướng đến. Nếu tôi có thể tóm được trục thì đám nan hoa chỉ còn là đồ bỏ đi. Và để làm được điều đó thì ngài cần phải cung cấp cho tôi thêm một số quyền hạn so với hiện nay.” “Thêm một số quyền hạn?” Ngài Cảnh sát trưởng hỏi với vẻ ngơ ngác. “Ý ông là sao?” “Tôi sẽ giải thích.” Parr chậm chạp nói, và những lời giải thích của ông đã khiến ngài Cảnh sát trưởng phải trầm tư suy ngẫm. Sau khi rời khỏi Sở, Parr lập tức gọi tới một văn phòng ở trung tâm thành phố. Trên tầng ba, trong một căn phòng nhỏ, chỉ được phân biệt với những căn phòng khác nhờ bảng tên gắn trên cửa, Derrick Yale đang đợi ông. Sự tương phản giữa hai người đàn ông này lớn tới mức không thể diễn tả bằng lời. Yale - một người mơ mộng, nhạy cảm và dễ xúc động; và Parr - rắn rỏi, mạnh mẽ, nhưng lại thiếu đầu óc. “Cuộc nói chuyện của ông thế nào, Parr?” “Chẳng tốt đẹp gì.” Parr rầu rĩ nói. “Tôi cho rằng ngài Cảnh sát trưởng cảm thấy hết sức không hài lòng về tôi. Ông có phát hiện ra điều gì mới không?” “Tôi đã tìm ra gã đàn ông bị đau răng của chúng ta.” Một câu trả lời quá bất ngờ. “Tên hắn là Sibly; hắn là một thủy thủ, và đã có người thấy hắn lảng vảng gần căn nhà sau hôm xảy ra vụ án. Hôm qua,” Yale cầm một bức điện tín lên, “hắn đã bị bắt vì tội say rượu và quấy rối trật tự công cộng. Khi lục soát người hắn, cảnh sát đã tìm thấy một khẩu súng lục tự động, mà theo ý tôi thì chính là hung khí gây ra vụ án mạng. Hẳn ông vẫn nhớ viên đạn đã lấy mạng ngài Beardmore tội nghiệp, nó chắc chắn đã được bắn ra từ một khẩu súng tự động.” Parr há hốc miệng nhìn ông trong sự ngạc nhiên tột độ. “Làm sao ông tìm ra được?” Derrick Yale chỉ cười nhẹ. “Hẳn là ông không đặt nhiều niềm tin vào các suy luận của tôi.” Ông nói với ánh mắt đầy thích thú. “Nhưng khi tôi cầm viên đạn trong tay tôi đã trông thấy hắn, cũng rõ ràng như tôi đang trông thấy ông vậy. Tôi đã cử một nhân viên của mình xuống đó tìm hiểu, và đây là kết quả nhận được.” Ông giơ bức điện tín ra. Parr đứng lặng thinh, khuôn mặt trở nên cực kỳ cau có khiến cho những đường nét hiếm hoi có thể gọi là đẹp của ông hoàn toàn biến mất. “Vậy là người ta đã tóm được hắn.” Ông khẽ nói. “Giờ tôi tự hỏi có phải hắn đã viết cái này không?” Ông lấy cuốn sổ ghi chép và Derrick Yale thấy ông rút từ đó ra một mảnh giấy cháy dở, bởi các cạnh của nó đều có màu đen. Yale thò tay ra đón lấy mảnh giấy. “Ông tìm thấy nó ở đâu?” Ông hỏi. “Tôi đã sục sạo trong đống tro ở nhà Beardmore và tìm thấy nó vào hôm qua.” Parr trả lời. Trên mảnh giấy là những chữ cái to đùng nguệch ngoạc: Mình ông mình tôi Khu B Hối lộ “Mình ông… mình tôi…” Yale đọc, “Khu B… Hối lộ?” Ông lắc đầu. “Nghe như tiếng Hy Lạp vậy.” Ông đặt lá thư trên lòng bàn tay rồi lắc đầu. “Tôi chẳng cảm nhận được gì hết,” ông nói. “Hẳn là lửa đã làm mất hào quang của nó rồi.” Parr cẩn thận bọc mảnh giấy lại rồi cho nó vào trong ví. “Còn một điều nữa mà tôi cần phải nói với ông,” ông nói. “Có một gã đi giày mũi nhọn và hút xì gà đã ở trong rừng. Tôi đã tìm thấy tro xì gà trong một cái lỗ nhỏ và dấu giày của hắn ở chỗ bụi hoa.” “Gần căn nhà sao?” Derrick Yale hỏi, hơi có chút hoảng hốt. Người đàn ông rắn rỏi gật đầu. “Giả thuyết của tôi là,” ông nói, “có ai đó muốn cảnh báo ngài Beardmore, người đó đã viết lá thư và gửi nó đến nhà khi trời tối. Hẳn là ông già đã nhận được nó, bởi chính ông ấy đã đốt nó. Tôi tìm thấy mẩu giấy ở nơi mà đám gia nhân thường mang tro đi đổ.” Có một tiếng gõ nhẹ vang lên từ phía cửa. “Jack Beardmore.” Yale thì thầm. Nhìn Jack Beardmore, ta có thể thấy rõ rằng cậu vừa trải qua một giai đoạn cực kỳ đau khổ. Cậu gật đầu chào Parr rồi đi thẳng tới chỗ Yale, tay chìa ra. “Không có tin gì mới, phải vậy không?” Cậu hỏi, rồi quay sang người còn lại. “Hôm qua ông đã tới nhà tôi, ông Parr. Ông có tìm được gì không?” “Không có gì đáng kể hết.” Parr đáp. “Tôi vừa đến gặp Froyant, ông ấy đang ở trong thành phố.” Jack nói. “Chuyến viếng thăm chẳng thu được kết quả gì, bởi thần kinh của ông ấy đang ở trong tình trạng hết sức căng thẳng.” Cậu không hề nhắc tới chuyện mình thất vọng khi không được gặp Thalia Drummond, nhưng một trong hai người đàn ông đã đoán ra điều đó. Derrick Yale kể cho cậu nghe về vụ bắt giữ mới được thực hiện. “Tôi không muốn cậu đặt quá nhiều kỳ vọng vào chuyện đó,” ông nói, “kể cả khi đó đúng là kẻ đã nổ súng thì hắn cũng chẳng là gì ngoài một tên thủ hạ. Chúng ta chắc sẽ được nghe một câu chuyện y hệt trước đây, rằng hắn đang gặp phải một tình huống hết sức khó khăn và rằng thủ lĩnh của Vòng Tròn Máu đã buộc hắn phải làm việc đó. Chúng ta vẫn còn cách cái đích cuối cùng một đoạn rất xa.” Họ cùng nhau bước ra khỏi văn phòng dưới ánh nắng dịu dàng của trời thu. Jack có hẹn với vị luật sư quản lý các vấn đề liên quan đến bất động sản của cha mình, vậy nên cậu đi cùng hai người kia ra nhà ga, nơi họ đang chuẩn bị bắt chuyến tàu tới thị trấn nơi kẻ giết người đang bị giam giữ. Họ đang đi qua một trong những tuyến phố đông đúc nhất thì Jack chợt buột miệng thốt lên một tiếng kêu. Ở phía bên kia đường là một cửa hiệu cầm đồ lớn, và một cô gái vừa bước ra từ lối đi dành riêng cho những người đang cần một khoản vay tạm thời. “Chà, tôi thật quá may mắn!” Chất giọng vô cảm của Parr cất lên. “Tôi đã không gặp cô ta hai năm nay rồi!” Jack mở to mắt nhìn ông. “Không gặp cô ấy đã hai năm.” Cậu từ tốn nói. “Ông đang nói đến cô gái kia à?” Parr gật đầu. “Tôi đang nói đến Thalia Drummond,” ông điềm tĩnh nói, “kẻ trộm và là đồng bọn với đám ăn trộm!” 7 BỨC TƯỢNG BỊ ĐÁNH CẮP Jack cảm thấy hết sức choáng váng vì những gì mình vừa được nghe. Cậu đứng đó bất động và không nói nên lời. Trong lúc đó, cô gái, không hề biết rằng mình đang bị quan sát, vẫy một chiếc taxi và đi mất. “Không hiểu cô ta làm cái quái gì ở trong đó nữa?” Parr nói. “Kẻ trộm và là đồng bọn với đám ăn trộm.” Jack lặp lại như một cái máy. “Lạy Chúa lòng lành! Ông đang định đi đâu vậy?” Cậu lên tiếng hỏi khi thấy viên thanh tra đã đặt một chân xuống lòng đường. “Tôi muốn tìm hiểu xem cô ta đã làm gì trong tiệm cầm đồ đó.” Parr đáp. “Có thể cô ấy đến đó vì thiếu tiền. Thiếu tiền đâu phải là tội chứ?” Jack lập tức nhận ra lời biện hộ của mình yếu ớt đến đâu ngay khi vừa lên tiếng. Thalia Drummond là một tên trộm! Điều đó không đúng, không thể nào như vậy được! Vậy nhưng chân cậu vẫn tự động bước theo viên thanh tra băng qua đường, theo ông đi xuống hành lang tối om để vào trong và xuất hiện tại phòng điều hành đúng lúc người thư ký mang ra món đồ mà cô gái kia vừa thế chấp. Đó là một bức tượng Phật nhỏ bằng vàng. “Tôi đã nghĩ rằng chuyện này thật kỳ quặc.” Người quản lý nói, sau khi Parr đã tự giới thiệu. “Cô ta chỉ muốn có mười bảng, trong khi giá trị thực của bức tượng lên đến cả trăm bảng.” “Cô ta có đưa ra lời giải thích nào không?” Derrick Yale hỏi, sau khi đã yên lặng lắng nghe từ nãy tới giờ. “Cô ta nói rằng mình đang thiếu tiền, rằng cha cô ta có cả đống đồ quý hiếm như vậy và cô ta chỉ muốn đem cầm chúng với một cái giá nhỏ để sau này ông ấy có thể chuộc lại được.” “Cô ta có để lại địa chỉ không? Cô ta nói tên mình là gì?” “Thalia Drummond,” người thư ký nói, “số 29, Park Gate.” Derrick Yale thốt lên một câu cảm thán. “Trời, đó chẳng phải là địa chỉ của ngài Froyant sao?” Jack biết quá rõ rằng đó đúng là địa chỉ của lão Harvey Froyant bủn xỉn, và cậu cảm thấy cực kỳ buồn bã khi nhớ ra rằng Froyant có sở thích sưu tầm những tác phẩm nghệ thuật phương Đông. Viên thanh tra thanh toán cho bức tượng rồi nhét nó vào trong túi. “Chúng ta sẽ cùng nhau đến gặp ngài Froyant,” ông nói. “Vì Chúa, làm ơn đừng gây khó dễ cho cô ấy.” Jack nài nỉ một cách tuyệt vọng. “Có thể đó chỉ là một phút yếu lòng mà thôi… Chuyện này hoàn toàn có thể thu xếp được bằng tiền, và tôi sẵn lòng chi trả khoản đó.” Derrick Yale nhìn chàng trai trẻ bằng ánh mắt nghiêm nghị, thấu hiểu. “Cậu biết cô Drummond ư?” Jack gật đầu. Cậu đang quá bối rối để có thể nói nên lời; giờ cậu chỉ muốn bỏ chạy và trốn vào một góc nào đó. “Không thể như vậy được.” Thanh tra Parr nói đầy cương quyết. Lúc này ông đã trở lại là một sĩ quan cảnh sát nghiêm khắc. “Tôi sẽ đến gặp ngài Froyant và tìm hiểu xem liệu bức tượng này có được đem đi cầm với sự cho phép của ngài ấy hay không.” “Thế thì ông tự đi một mình đi.” Jack phẫn nộ nói. Cậu không muốn trở thành nhân chứng quan sát một cô gái rơi vào cảnh nhục nhã. Điều đó thật độc ác. Parr đúng là một con quái vật, cậu nói với Yale khi chỉ còn hai người với nhau. “Cô ấy sẽ không bao giờ thực hiện một hành vi trộm cắp và lừa đảo ngu xuẩn như vậy! Ước gì tôi đã không khiến ông ta chú ý đến cô ấy!” “Ông ấy đã nhìn thấy cô ta trước.” Yale nói và đặt tay lên vai chàng trai trẻ. “Jack, tôi nghĩ là cậu đang hơi căng thẳng đấy. Tại sao cậu lại quan tâm đến cô Drummond như vậy? Ồ, tất nhiên rồi,” ông bất ngờ thốt lên, “là do cậu đã gặp cô ấy quá nhiều. Gia đình cậu và Froyant, mảnh đất của hai bên nằm cạnh nhau, phải vậy không?” Jack gật đầu. “Nếu ông ta chỉ dành cho Vòng Tròn Máu một nửa sự tập trung mà ông ta dùng để săn đuổi cô gái tội nghiệp đó,” cậu cay đắng nói, “có lẽ người cha tội nghiệp của tôi giờ vẫn còn sống.” Derrick Yale đã làm tất cả những gì có thể để xoa dịu cậu. Ông đưa cậu trở lại văn phòng của mình và cố gắng hướng suy nghĩ của cậu sang các chủ đề dễ chịu hơn. Họ ở đó khoảng mười lăm phút thì có tiếng chuông điện thoại reo lên. Người ở đầu dây bên kia không ai khác ngoài Parr. “Sao rồi?” Yale hỏi. “Tôi đã bắt được Thalia Drummond, và tôi sẽ đưa cô ta ra xét xử vào sáng mai.” Câu trả lời đầy lạc quan. Yale nhẹ nhàng đặt máy xuống và quay sang phía chàng trai trẻ. “Cô ấy đã bị bắt ư?” Jack hỏi. Yale gật đầu. Khuôn mặt của Jack Beardmore trở nên trắng bệch. “Cậu thấy không, Jack,” Yale bình tĩnh nói, “cả cậu lẫn ngài Froyant đều đã bị lừa dối. Cô ta là một tên trộm.” “Dù cô ấy có trộm cắp hay giết người,” Jack quả quyết nói, “thì tôi vẫn yêu cô ấy.” 8 LỜI TỐ CÁO Ꮯuộc nói chuyện giữa Parr và Harvey Froyant kết thúc khá chóng vánh. Khuôn mặt người đàn ông gầy gò trở nên tái nhợt ngay khi vừa nhìn thấy viên thanh tra. Ông ta biết mặt Parr và họ đã từng nói chuyện với nhau khi ông điều tra về thảm kịch đã xảy đến với ngài Beardmore. “Chà, chà,” ông ta run rẩy hỏi, “có chuyện gì vậy? Chẳng lẽ lũ quỷ sứ đó lại tiếp tục hành động?” “Không tệ đến vậy đâu, thưa ngài.” Parr nói. “Tôi chỉ đến để hỏi ngài vài câu thôi. Ngài đã nhận Thalia Drummond vào làm được bao lâu rồi?” “Cô ta làm thư ký cho tôi được ba tháng rồi.” Froyant nói đầy nghi ngờ. “Có chuyện gì vậy?” “Ngài đã trả cô ta bao nhiêu?” Parr hỏi. Con số mà Froyant đưa ra thật quá sức ít ỏi, và ông ta phải lập tức lên tiếng thanh minh cho nó. “Ở đây cô ta được bao ăn ở, ông biết đấy, và buổi tối thì được nghỉ làm.” Ông ta nói, cố gắng biện minh cho đồng lương chết đói mà mình chi trả. “Gần đây cô ta có biểu hiện thiếu tiền không?” Froyant nhìn ông chằm chằm. “Tại sao… à, có. Hôm qua cô ta có hỏi tôi rằng liệu có thể ứng trước cho cô ta năm bảng được không.” Ông ta nói. “Cô ta nói rằng mình đang có việc phải cần tiền gấp. Tất nhiên là tôi không đồng ý. Tôi không muốn phải trả tiền cho những công việc chưa hoàn thành.” Froyant nói đầy vẻ triết lý. “Đó là nguyên nhân gây ra nghèo đói…” “Tôi biết rằng ngài sở hữu một số lượng lớn cổ vật, thưa ngài Froyant, và nhiều món trong đó rất có giá trị. Gần đây ngài có bị mất món nào không?” Froyant nhảy dựng lên. Lời gợi ý về vụ cướp là quá đủ để khiến tâm trí ông ta trở nên hoảng loạn. Không nói một lời, ông ta vội vã rời khỏi căn phòng và trở lại sau đó ba phút, đôi mắt như lồi ra khỏi tròng. “Bức tượng Phật của tôi!” Ông ta thở hổn hển. “Nó đáng giá cả trăm bảng! Sáng nay nó vẫn còn ở đó…” “Gọi cô Drummond đến đây.” Viên thanh tra nói ngắn gọn. Thalia đã đến. Cô ta lạnh lùng, bình tĩnh đứng cạnh bàn làm việc của ông chủ, tay chắp sau lưng, lén lút liếc nhìn viên thanh tra. Cuộc nói chuyện sau đó diễn ra rất nhanh, và với Froyant mà nói thì, rất đau đớn. Gương mặt cô gái hoàn toàn không biểu lộ chút cảm xúc gì, cho dù hẳn là cô ta đã biết, qua ánh mắt sắc lạnh của Froyant, rằng vụ trộm đã bị phát hiện. Trong một khoảnh khắc, ông ta cảm thấy thật khó để có thể nói được một câu trọn vẹn. “Cô… cô đã ăn cắp của tôi.” Froyant thốt lên. Giọng ông ta lúc này nghe giống như tiếng rít. Sự tức giận của ông ta được thể hiện qua cách bàn tay run rẩy đưa lên. “Cô… cô là đồ ăn cắp!” “Tôi đã đề nghị ông cho tôi tiền,” cô ta lạnh lùng nói. “Nếu ông không phải là một lão già keo kiệt khốn kiếp thì hẳn là tôi đã không phải làm chuyện này rồi.” “Cô… Cô…” Froyant lắp bắp, rồi rùng mình một cái. “Tôi tố cáo cô ta, thưa thanh tra. Tôi tố cáo cô ta tội ăn trộm. Cô sẽ phải vào tù vì chuyện này. Nhớ lời tôi đấy, cô gái trẻ. Khoan… khoan.” Ông ta giơ tay lên. “Tôi còn phải kiểm tra lại xem có thứ gì bị mất nữa không.” “Ông không cần phải phí sức vậy đâu.” Cô ta nói, khi Froyant đang định rời khỏi căn phòng. “Bức tượng Phật là thứ duy nhất mà tôi lấy, và dù sao thì nó cũng thật xấu xí.” “Đưa chìa khóa của cô đây!” Ông ta gầm lên giận dữ. “Chỉ cần nghĩ đến việc cô đã đọc các giấy tờ làm ăn của tôi là đã muốn phát điên lên rồi!” “Tôi mới mở một lá thư mà hẳn là sẽ khiến ngài cảm thấy không dễ chịu lắm đâu, thưa ngài Froyant.” Cô ta thản nhiên nói, và lúc này Froyant mới thấy thứ mà cô ta đang cầm trên tay. Cô ta đưa chiếc phong bì cho Froyant, và ông ta nhìn chết trân vào dấu hiệu của Vòng Tròn Máu. Những dòng chữ viết trên đó như đang mờ dần đi. Ông ta thả rơi tấm thiệp và đổ sập xuống ghế. 9 THALIA TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA Viên thẩm phán là một người tốt bụng, và rõ ràng lúc này ông đang cảm thấy hết sức không thoải mái. Ông ta đưa mắt nhìn từ thanh tra Parr vô cảm - người lúc này đang đứng trên bục nhân chứng, tới cô gái đang ở trước vành móng ngựa - lúc này cô ta cũng bình tĩnh và lạnh lùng không khác gì viên cảnh sát. Gương mặt của cô ta lúc bình thường vốn đã cực kỳ cuốn hút, thì nay dưới sự trơ trọi buồn tẻ của tòa án, lại càng trở nên xinh đẹp và hút hồn người đối diện hơn. Viện thẩm phán liếc nhìn tờ cáo trạng trước mặt. Cô ta hai mươi mốt tuổi, hiện đang làm thư ký. Viên thẩm phán, từng phải đối mặt với quá nhiều cú sốc trong cuộc đời, đã trở nên trơ lì trước cả những sự kiện bất thường nhất, giờ chỉ còn biết lắc đầu trong tuyệt vọng. “Trước đây người phụ nữ này đã từng có tiền án chưa?” Ông ta hỏi, đồng thời cảm thấy hết sức vô lý khi phải gọi nữ phạm nhân trẻ nhỏ bé này là người phụ nữ.” “Cô ta đã bị theo dõi một thời gian, thưa quý tòa, nhưng cô ta chưa từng bị kết án.” Viện thẩm phán liếc nhìn cô gái qua cặp kính. “Tôi thật không thể nào hiểu nổi, tại sao một người như cô lại để mình rơi vào tình cảnh tồi tệ như thế này,” ông ta nói. “Một quý cô có học thức lại bị kết án vì đã ăn cắp vài bảng, dù cho vật cô đã lấy trộm đáng giá hơn thế rất nhiều. Điều đó lại càng thể hiện sự xấu xa của cô. Chúng ta có thể lý giải hành động của cô là do sự cám dỗ quá lớn. Có thể là cô đang có nhu cầu rất cấp bách về tiền, nhưng điều đó cũng không thể bao biện cho hành vi của cô. Bởi cô chưa từng có tiền án nên tôi sẽ cho phép cô được hưởng án treo và phải có mặt tại tòa bất cứ khi nào nhận được lệnh triệu tập. Tôi thực sự hy vọng cô sẽ sống một cuộc đời trung thực và không phải trải qua chuyện này thêm một lần nào nữa.” Cô gái hơi cúi đầu và ra ngoài, đi thẳng đến phòng an ninh. Vụ án tiếp theo được triệu tập. Harvey Froyant cũng đứng dậy và rời khỏi phòng xử án cùng lúc. Ông ta là một người giàu có, và với ông ta thì tiền là tất cả. Ông ta là loại người sẽ đếm số tiền trong túi của mình trước khi đi ngủ, và vì nó ông ta sẵn sàng đứng nhìn mẹ mình bị bắt. Hành vi phạm tội của Thalia Drummond càng trở nên ghê tởm hơn trong mắt ông ta, bởi hành động cuối cùng của cô ta trước khi bị bắt lại là đưa cho ông ta lời cảnh báo của Vòng Tròn Máu, khiến ông ta bị sốc đến mức vẫn chưa hồi phục lại hoàn toàn. Froyant là một người cao, gầy với cái lưng hơi còng. Thái độ của ông ta với thế giới luôn là sự ngờ vực, và đến lúc đó thì nó đã chuyển thành sự phẫn nộ, vì ông ta luôn tin rằng tài sản của mình là bất khả xâm phạm. Ông ta bày tỏ sự thất vọng của mình với Parr, giờ vẫn đang đi theo ông ta ra khỏi tòa án, về việc cô ta đã không bị tống vào tù. “Một ả đàn bà như vậy thực sự là mối nguy hiểm với xã hội.” Ông ta phàn nàn với chất giọng chói tai, gắt gỏng. “Làm sao tôi biết được rằng liệu cô ta có cùng một phe với đám khốn kiếp đang đe dọa mình hay không? Chúng đòi tận bốn mươi ngàn bảng! Bốn mươi ngàn bảng!” Ông ta rên rỉ những lời cuối cùng. “Trách nhiệm của ông là bảo đảm rằng tôi không bị tổn hại gì! Hiểu rồi chứ… đó là trách nhiệm của ông!” “Tôi hiểu mà.” Parr nói, giọng mệt mỏi. “Còn với cô ta mà nói thì, tôi cho rằng cô ta còn chưa từng nghe đến Vòng Tròn Máu nữa kia. Cô ta vẫn còn quá trẻ.” “Trẻ!” Người đàn ông gầy gò gầm gừ. “Đó chính là lúc nên trừng phạt chúng, không phải sao? Bắt giữ và trừng phạt chúng từ khi còn trẻ, và chúng ta có thể biến chúng thành những công dân có ích cho xã hội!” “Tôi cho rằng ngài đã đúng.” Parr đồng ý, kèm theo một tiếng thở dài, rồi tiếp đó là một câu rất mập mờ. “Trẻ con là một trách nhiệm lớn lao.” Froyant lẩm bẩm điều gì đó rồi bỏ đi mà không thèm cúi chào, vội vã bước qua cánh cửa của tòa án và bước vào chiếc xe đang chờ ông ta trước cổng. Viên thanh tra nhìn ông ta bỏ đi với một nụ cười nhẹ, rồi quay lại và bắt gặp ánh mắt của một chàng trai trẻ đang đứng đợi trước cửa văn phòng. “Chào buổi sáng, cậu Beardmore.” Ông mở lời. “Cậu đang đợi để được gặp cô ta phải không?” “Phải. Họ còn giữ cô ấy bao lâu nữa?” Jack lo lắng hỏi. Parr nhìn cậu với ánh mắt lạnh lùng, rồi khịt mũi một cái. “Xin thứ lỗi cho tôi khi phải nói điều này, thưa cậu Beardmore,” ông bình thản nói, “nhưng có vẻ cậu đang quá quan tâm đến cô Drummond, và điều đó không tốt cho cậu chút nào đâu.” “Ý ông là sao?” Jack khẽ hỏi. “Toàn bộ chuyện này là một âm mưu. Lão quái vật Froyant…” Viên thanh tra lắc đầu. “Cô Drummond đã thừa nhận rằng chính cô ta đã lấy cắp bức tượng,” ông nói. “Thêm vào đó, chúng ta đều đã nhìn thấy cô ta bước ra khỏi hiệu cầm đồ. Chẳng còn nghi ngờ gì về chuyện đó nữa.” “Cô ấy chỉ thú nhận vì cô ấy có mục đích đặc biệt gì đó khi làm vậy.” Jack nói một cách dữ dội. “Ông thực sự nghĩ cô ấy là loại người có thể trộm cắp sao? Mà tại sao cô ấy phải làm vậy chứ? Tôi có thể cho cô ấy bất cứ thứ gì cô ấy muốn…” Đột nhiên cậu trở nên do dự. “Phải có lý do gì đó,” giọng cậu càng trở nên nhỏ hơn, “lý do gì đó mà tôi không hiểu, và chắc chắn là ông cũng không, thưa ông thanh tra.” Đúng lúc đó, cánh cửa mở ra và cô gái xuất hiện. Cô ta dừng lại ngay khi trông thấy Jack, và khuôn mặt tái nhợt của cô ta bỗng hơi ửng hồng. “Cậu có đến tòa không?” Cô ta hỏi nhanh. Cậu gật, và Thalia lắc đầu. “Lẽ ra cậu không nên tới đó.” Cô ta nói có phần gay gắt. “Làm sao cậu biết được? Ai đã nói với cậu?” Dường như cô ta chẳng hề để tâm đến sự xuất hiện của viên thanh tra, và lần đầu tiên kể từ khi bị bắt, cô ta mới bộc lộ một chút cảm xúc. Gương mặt cô ta trở lại như cũ, và giọng cô ta hơi run lên khi nói tiếp. “Tôi rất không muốn cậu biết chuyện này, cậu Beardmore, và tôi càng không muốn cậu tới đây.” “Nhưng chuyện không phải như vậy.” Cậu ngắt lời. “Không phải sao, Thalia? Đó là một âm mưu, không phải sao? Một âm mưu để hủy hoại thanh danh của cô?” Giọng cậu như van nài, nhưng cô ta chỉ lắc đầu. “Chẳng có âm mưu nào hết.” Cô ta khẽ nói. “Tôi đã ăn trộm của ngài Froyant.” “Nhưng tại sao, tại sao?” Cậu tuyệt vọng thốt lên. “Tại sao cô lại…” “Tôi sợ rằng mình không thể cho cậu biết lý do,” cô ta nói với nụ cười lấp ló nơi khóe miệng, “ngoài việc tôi đang rất cần tiền. Không phải đó là một lý do hết sức hợp lý và đầy đủ sao?” “Tôi sẽ không bao giờ tin,” gương mặt của Jack trở nên căng thẳng và đôi mắt xám của cậu nhìn cô ta chằm chằm, “chắc chắn cô không phải loại người sẽ thực hiện những hành vi ăn cắp vặt như vậy.” Cô ta nhìn cậu một lúc lâu, rồi hướng ánh mắt sang phía viên thanh tra. “Có lẽ ông có thể thuyết phục được cậu Beardmore đây,” cô ta nói. “Tôi e rằng tôi không thể làm được chuyện đó.” “Cô định đi đâu vậy?” Cậu hỏi, ngay khi cô ta vừa gật đầu chào và bỏ đi. “Tôi sẽ về nhà.” Cô ta đáp. “Làm ơn đừng đi theo tôi, thưa cậu Beardmore.” “Nhưng cô làm gì có nhà để về chứ?” “Tôi vẫn có một chỗ để ở.” Cô ta nói, có chút nóng nảy. “Vậy thì tôi sẽ đi cùng cô.” Cậu bướng bỉnh đáp. Cô ta không phản đối nữa, và họ cùng nhau rời khỏi tòa án, hòa vào đường phố nhộn nhịp. Không một lời nào được nói ra cho đến khi họ tới cổng ga tàu điện ngầm. “Giờ thì tôi phải về nhà.” Cô ta nói với giọng nhẹ nhàng hơn. “Nhưng cô định làm gì?” Cậu thắc mắc. “Làm sao cô có thể kiếm sống với bản án khủng khiếp đó treo lơ lửng trên đầu?” “Nó khủng khiếp đến vậy sao?” Cô ta lạnh lùng hỏi. Cô ta vừa bước vào nhà ga thì bất chợt cậu nắm lấy tay cô ta và kéo giật lại một cách thô bạo. “Giờ nghe tôi nói này, Thalia.” Cậu dằn mạnh từng tiếng. “Tôi chưa từng nói ra điều này, nhưng hẳn là em cũng đoán được. Tôi yêu em và muốn cưới em làm vợ. Tôi sẽ không cho phép em rời khỏi cuộc đời tôi đâu. Em không hiểu ư? Tôi không tin em là kẻ cắp và…” Cô ta nhẹ nhàng gỡ tay cậu ra. “Thưa cậu Beardmore,” cô ta hạ giọng, “cậu đúng là đồ anh hùng rơm ngu xuẩn! Cậu vừa nói với tôi điều cậu không cho phép, và giờ thì tôi xin nói với cậu rằng tôi sẽ không cho phép cậu tự hủy hoại đời mình bởi sự si mê mà cậu dành cho một tên trộm bị kết án! Cậu chẳng biết gì về tôi hết, ngoài việc tôi là một cô nàng trông có vẻ tử tế mà cậu tình cờ gặp ở nơi thôn dã, và bổn phận của tôi là trở thành mẹ hoặc bà cô già của cậu.” Có một tia tinh nghịch lóe lên trong mắt khi cô ta đưa tay ra nắm lấy bàn tay cậu. “Một ngày nào đó có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau, đến lúc đó thì hy vọng cái thứ tình cảm lãng mạn này đã hoàn toàn tan biến. Tạm biệt.” Cô ta đã biến mất sau quầy bán vé trước khi cậu có thể cất nên lời. 10 LỜI KÊU GỌI CỦA VÒNG TRÒN MÁU Thalia Drummond quay lại căn phòng mà cô ta từng sống trước khi trở thành thư ký chính thức cho Harvey Froyant, và rõ ràng là tin tức về hành động xấu xa của cô ta đã tới đây trước, xét ngay từ sự chào đón lạnh nhạt mà bà chủ nhà mập mạp. Nếu không phải vì cô ta vẫn đóng tiền thuê nhà đầy đủ trong thời gian sống tại nhà Froyant, thì hẳn là bà sẽ không để cô ta vào. Đó là một căn phòng nhỏ, chỉ có chút đồ đạc. Cô ta bước vào trong và đóng cửa lại, chẳng hề bận tâm tới gương mặt nhăn nhó và sự tiếp đón lạnh nhạt của bà chủ nhà. Cô ta đã trải qua một tuần bị tạm giam hết sức khó chịu, quần áo dường như đang tỏa ra thứ mùi ẩm mốc của trại giam Holloway. Dù vậy, Holloway cũng có những ưu điểm so với căn hộ số 14 đường Lexington. Đó là nó có một hệ thống phòng tắm đáng ngưỡng mộ, thứ mà bất cứ cô gái nào hẳn cũng cảm thấy biết ơn khi họ cần thay đồ. Có quá nhiều thứ đang xuất hiện trong đầu cô ta lúc này. Harvey Froyant… Jack Beardmore… Cô ta cau mày, như thể suy nghĩ đó khiến cô ta cảm thấy khó chịu, rồi cố gạt bỏ cậu ra khỏi tâm trí. Cần phải trở lại với Froyant. Cô ta khá là căm ghét ông ta. Cô ta khinh thường ông ta. Quãng thời gian phải ở trong nhà ông ta là quãng thời gian tồi tệ nhất trong cuộc đời cô ta. Khi dùng bữa cùng các gia nhân khác, cô ta nhận ra rằng từng mẩu vụn trong số đồ ăn đều đã được một người đàn ông vẫn thường tự hào về những tờ séc bảy chữ số của mình, cân đong đo đếm chi li. “Ít ra thì ông ta cũng không tỏ tình với mình.” Cô ta tự nhủ và mỉm cười. Cô ta không thể tưởng tượng ra việc Harvey Froyant tỏ tình với một ai đó. Cô ta nhớ lại những ngày phải cầm quyển sổ theo dõi lẽo đẽo đi theo ông ta trong căn nhà rộng lớn, trong khi ông ta tập trung tìm kiếm những dấu vết chểnh mảng của các gia nhân. Ông ta di ngón tay trên từng ngăn kệ bóng loáng trong thư viện để tìm bụi, lật từng góc thảm, kiểm tra và đếm từng món đồ dùng bằng bạc. Mỗi tuần ông ta đều xuống hầm rượu và đo từng chiếc ly trên bàn, đếm từng cái chai và thậm chí là cả nút bần. Ông ta thường tự hào rằng mình có thể khẳng định được ngay, nếu trong vườn bị thiếu dù chỉ một bông hoa. Ông ta vẫn thường gửi hoa ra chợ bán, cùng với các loại rau và trái cây khác được trồng trong vườn. Thật vô phúc cho thợ làm vườn nào lỡ dại hái trộm dù chỉ một quả táo, bởi Harvey Froyant có một bản năng kỳ lạ luôn dẫn ông ta đến đúng cái cây vừa bị hái. Cô ta nhếch mép mỉm cười khi nhớ lại những chuyện đó. Sau khi đã thay đồ xong, cô ta đi ra ngoài, khóa cửa lại sau lưng. Bà chủ nhà đứng quan sát cô ta bước xuống phố, rồi gật đầu một cách đáng ngại. “Khách trọ của bà quay lại rồi đấy à?” Người hàng xóm hỏi. “Phải, cô ta đã quay lại.” Người phụ nữ cay nghiệt đáp. “Một cô gái tử tế… tôi đã tưởng là vậy! Đây là lần đầu tiên có một tên trộm trong nhà tôi, và cũng là lần cuối cùng. Tối nay tôi sẽ báo cho cô ta biết.” Không hề biết tới những lời xì xầm sau lưng mình, Thalia lên chuyến xe bus đi về phía thành phố. Cô ta xuống ở đường Fleet, bước vào tòa nhà văn phòng lớn của một tờ báo nổi tiếng. Cô ta lấy một mẫu quảng cáo trên bàn, nhìn vào tờ giấy trắng một lúc rồi đặt bút viết: THƯ KÝ. Một cô gái trẻ đến từ vùng Thuộc địa mong muốn một công việc thư ký. Ưu tiên công việc toàn thời gian. Yêu cầu tiền lương thấp. Tốc ký và đánh máy. Cô chừa lại một khoảng trống để ghi địa chỉ, rồi đưa tờ quảng cáo qua quầy tiếp tân và trả tiền. Cô ta trở lại đường Lexington vào giờ uống trà, và bà chủ nhà mang lên cho cô ta một tách trên chiếc khay bị móp. “Nghe này, cô Drummond.” Con người đáng kính đó lên tiếng. “Tôi có chuyện cần thông báo với cô.” “Cứ nói đi.” Cô gái hờ hững đáp. “Tôi sẽ cần căn phòng của cô vào tuần tới.” Thalia từ từ quay lại. “Điều đó nghĩa là tôi phải rời đi?” “Phải, là vậy đấy. Tôi không thể chứa chấp những người như cô trong căn nhà đàng hoàng thế này. Cô thực sự đã khiến tôi kinh ngạc, bởi tôi luôn nghĩ rằng cô là một quý cô trẻ đáng mến.” “Cứ tiếp tục nghĩ vậy đi.” Thalia lạnh lùng nói. “Tôi còn trẻ, và tôi là một quý cô.” Nhưng bà chủ nhà mập mạp không hề có ý định để cô ta cắt ngang bản cáo trạng đã được tập dượt cẩn thận của mình. “Một quý cô tử tế như cô,” bà nói, “lại mang đến tiếng xấu cho căn nhà này. Cô đã ở tù một tuần. Có lẽ cô nghĩ rằng tôi không biết, nhưng tôi đã đọc điều đó trên báo.” “Hẳn là vậy rồi.” Cô gái thản nhiên đáp. “Được thôi, bà Boled. Tuần sau tôi sẽ rời đi.” “Và tôi còn muốn nói rằng…” “Cứ đứng ngoài đó mà nói.” Thalia nói và đóng sầm cửa lại trước khuôn mặt giận dữ của bà chủ nhà. Ngoài kia trời đang tối dần. Cô ta thắp một ngọn đèn dầu và dự định sẽ dành cả tối nay để chăm sóc móng tay, nhưng đến chín giờ thì bắt buộc phải dừng lại vì có thư tới. Cô ta có thể nghe thấy tiếng lạch cạch ở cửa và tiếng bước chân nặng nề của bà chủ nhà trên cầu thang. “Có thư gửi cho cô này.” Người phụ nữ gọi. Thalia mở cửa và đón lấy chiếc phong bì từ tay bà chủ nhà. “Tốt hơn cô nên nói với bạn mình rằng cô sắp có địa chỉ mới đi.” Bà nói, giọng điệu đầy vẻ háo hức muốn chọc tức cô ta. “Tôi còn chưa nói với bạn mình rằng tôi sống trong một nơi tồi tệ như thế này nữa cơ.” Thalia thản nhiên nói và khóa cửa trước khi bà chủ nhà có thể nghĩ ra điều gì đó để đáp lại. Cô ta mỉm cười khi mang chiếc phong bì ra chỗ sáng. Địa chỉ trên đó được viết bằng chữ in. Cô ta lật ngược nó lại, quan sát dấu bưu điện trước khi mở và rút ra một tấm thiệp dày màu trắng. Ngay từ cái liếc nhìn đầu tiên, biểu cảm trên gương mặt cô ta đã thay đổi. Tấm thiệp có hình vuông, và ở giữa có một vòng tròn lớn màu đỏ sẫm. Trong vòng tròn là một thông điệp, vẫn được viết bằng chữ in: Chúng tôi cần cô. Hãy bước vào chiếc xe đậu trên quảng trường Steyne vào lúc mười giờ tối mai. Cô ta đặt tấm thiệp lên bàn và nhìn chằm chằm vào nó. Vòng Tròn Máu cần cô ta! Cô ta đã chờ đợi một lời kêu gọi như thế này, nhưng nó đến sớm hơn rất nhiều so với những gì cô ta dự đoán. 11 LỜI THÚ TỘI Vào vào lúc mười giờ kém ba phút tối hôm sau, một chiếc xe từ từ rẽ vào quảng trường Steyne và dừng lại ở góc đường Clarges. Vài phút sau, Thalia bước tới từ phía đầu kia của quảng trường. Cô ta mặc áo khoác dài màu đen và đội một chiếc mũ nhỏ, được cố định trên đầu nhờ tấm mạng che mặt dày buộc thắt nút dưới cằm. Cô ta mở cửa và bước vào trong xe mà không có lấy một giây lưỡng lự. Bên trong tối om, nhưng cô ta vẫn có thể trông thấy hình bóng mờ nhạt của gã tài xế. Gã không hề quay đầu lại, cũng không hề có ý định khởi động xe, dù cho cô ta cảm thấy động cơ vẫn đang hoạt động dưới chân mình. “Sáng hôm qua cô đã bị kết tội ăn cắp tại phiên tòa ở Marylebone.” Gã tài xế đi thẳng vào vấn đề. “Đến chiều cô đã cho đăng một quảng cáo, miêu tả mình là một người mới tới từ thuộc địa, đang muốn tìm một công việc mới, để cô có thể tiếp tục công việc ăn cắp vặt.” “Thú vị đấy,” Thalia nói, giọng không chút cảm xúc, “nhưng ông gọi tôi đến đây đâu phải chỉ để nói về quá khứ của tôi, phải không? Khi nhận được lá thư, tôi đoán rằng có lẽ ông xem tôi là một người có thể trở thành phụ tá đắc lực cho ông. Nhưng vẫn có một điều tôi muốn hỏi ông.” “Tôi sẽ trả lời, nếu tôi có thể làm vậy.” Câu trả lời đầy lấp lửng. “Giả như là,” Thalia nói, khẽ mỉm cười trong bóng tối, tôi đã liên lạc với cảnh sát và đưa thanh tra Parr cùng ông Yale thông minh đến đây thì sao?” “Thì bây giờ xác của cô đã nằm trên vỉa hè rồi.” Gã tài xế lạnh lùng tuyên bố. “Cô Drummond, tôi sẽ cho cô một công việc thú vị và dễ dàng kiếm tiền. Tôi chẳng quan tâm nếu cô dành thời gian rảnh rỗi để thỏa mãn sở thích kỳ quặc của cô, nhưng công việc chính của cô sẽ là phục vụ tôi. Cô hiểu chưa?” Cô ta gật đầu, rồi nhận ra rằng gã không thể trông thấy. “Vâng.” “Cô sẽ được trả công xứng đáng cho mọi điều cô làm; tôi lúc nào cũng sẵn sàng đưa tay giúp đỡ cô… hoặc trừng phạt nếu cô có ý định phản bội.” Gã nói thêm. “Cô hiểu rồi chứ?” “Hoàn toàn hiểu.” Cô ta trả lời. “Công việc của cô hết sức đơn giản.” Gã tài xế ẩn danh nói tiếp. “Ngày mai cô hãy đến xin việc ở ngân hàng Brabazon. Brabazon đang cần một thư ký.” “Nhưng liệu ông ấy có thuê tôi không?” Cô ta ngắt lời. “Liệu tôi có nên dùng tên giả không?” “Cứ dùng tên của cô.” Gã sốt ruột đáp. “Đừng ngắt lời tôi. Tôi sẽ trả cô hai trăm bảng cho vụ này. Tiền đây.” Gã đẩy hai tờ giấy qua vai và cô ta đón lấy chúng. Tay cô ta vô tình chạm vào vai gã, và cô ta cảm nhận được có gì đó cứng rắn bên dưới tấm áo khoác lông mềm. “Một chiếc áo chống đạn.” Cô ta tự nhủ, rồi lên tiếng. “Tôi sẽ nói với ông Brabazon thế nào về quá khứ của mình?” “Không cần phải nói hay làm gì cả. Cô sẽ liên tục nhận được những chỉ dẫn. Vậy thôi.” Gã nói ngắn gọn. Vài phút sau, Thalia Drummond đã ngồi trên một chiếc taxi trở về đường Lexington. Đằng sau cô ta, cách một quãng là một chiếc taxi khác. Nó luôn chạy chậm lại mỗi khi xe của cô ta chậm lại, nhưng không bao giờ vượt lên, kể cả khi cô ta xuống xe ở góc phố nơi căn hộ của cô ta tọa lạc. Và khi cô ta xoay chiếc chìa khóa ngoài, thanh tra Parr chỉ đứng cách cô ta khoảng hơn chục bước chân. Chẳng biết cô ta có nhận ra mình đang bị theo dõi hay không, nhưng cô ta chẳng hề bộc lộ bất cứ dấu hiệu gì. Parr đứng quan sát ngôi nhà một lúc từ phía bên kia đường, cho đến khi thấy ánh sáng phát ra từ khung cửa sổ ở tầng trên thì ông mới quay lại và bước về phía chiếc taxi vừa đưa ông đi một quãng khá xa. Ông vừa mới mở cửa chiếc taxi định bước vào thì chợt có một bóng người lướt qua ông trên lối đi bộ. Dù cho người đó di chuyển hết sức vội vã và còn dựng đứng cổ áo, nhưng thanh tra Parr nhận ra ngay đó là ai. “Flush.” Ông lớn tiếng gọi, và người đàn ông quay phắt lại. Đó là một người đàn ông da màu nhỏ bé, rắn rỏi với gương mặt gầy gò, và hàm gã như rớt ra ngay khi gã nhìn thấy viên thanh tra. “Ôi… ôi, ông Parr.” Gã lên tiếng với vẻ vui mừng giả tạo. “Ai mà ngờ rằng sẽ được gặp lại ông ở xó xỉnh này chứ?” “Tôi có chút chuyện cần nói với anh, Flush. Anh đi dạo với tôi một lát nhé?” Rõ ràng là có gì đó bất thường ở lời mời đó, và đây cũng không phải lần đầu tiên Flush được nghe nó. “Ông không nắm trong tay điều gì đó có thể chống lại tôi đấy chứ, ông Parr?” Gã hỏi to. “Không hề.” Parr khẳng định. “Hơn nữa, giờ anh ngay thẳng rồi mà. Tôi nhớ là anh đã nói với tôi như vậy vào ngày anh ra tù.” “Đúng vậy.” Flush Barnet nói, thở phào nhẹ nhõm. “Ngay thẳng, tay làm hàm nhai và chuẩn bị lấy vợ.” “Vậy mà không báo cho tôi biết!” Parr nói với vẻ ngạc nhiên hết sức giả tạo. “Vậy là Bella hay Milly?” “Là Milly.” Flush đáp, thầm nguyền rủa trí nhớ xuất chúng của viên thanh tra. “Cô ấy cũng nghiêm chỉnh rồi. Giờ cô ấy làm việc ở một cửa hàng.” “Chính xác hơn là ở ngân hàng Brabazon.” Viên thanh tra nói rồi quay người lại, như thể có điều gì đó đã thu hút sự chú ý của ông. “Tôi tự hỏi,” ông lẩm bẩm, “tôi tự hỏi không biết có thật vậy không?” “Milly ấy mà, cô ấy là một người phụ nữ đứng đắn.” Flush vội vàng phân bua. “Tuyệt đối ngay thẳng, không bao giờ ăn cắp một chiếc đồng hồ, dù cho cả tính mạng của cô ấy phụ thuộc vào nó. Tôi không muốn ông nghĩ xấu về cô ấy, ông Parr, bởi vì cô ấy không hề như vậy. Chúng tôi đều đang sống một cuộc sống lương thiện.” Khuôn mặt nghiêm nghị của Parr nhăn lại trong một nụ cười. “Đó quả là một tin tuyệt vời đấy, Flush. Tôi có thể tìm Milly ở đâu?” “Cô ấy thuê phòng trong dãy nhà trọ bên kia sông.” Flush miễn cưỡng đáp. “Ông không định bới lại chuyện cũ đấy chứ, ông Parr?” “Lạy Chúa trên cao.” Parr nói như một con chiên ngoan đạo. “Không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô ấy thôi. Có lẽ vậy…,” ông do dự, “dù sao thì, đâu rồi sẽ có đó. Gặp anh ở đây đúng là ý trời, Flush ạ.” Flush hoàn toàn không đồng ý với điều đó, dù cho gã vẫn tỏ ra đồng tình với viên thanh tra. * “Hóa ra là vậy.” Thanh tra Parr tự nhủ, nhưng ông không hề bộc lộ bản tính đa nghi của mình, kể cả khi ông gặp Derrick Yale ở câu lạc bộ nửa tiếng sau. Và còn một điều lạ lùng nữa, đó là dù họ đã thảo luận rất kỹ về mọi vấn đề liên quan tới Vòng Tròn Máu, nhưng Parr lại không một lần nhắc đến cái tên Thalia Drummond, dù rằng hẳn ông đã đoán ra mọi chuyện. Sáng sớm ngày hôm sau, hai người đàn ông cùng nhau đi tới một thị trấn nhỏ, nơi Ambrose Sibly, một thủy thủ lành nghề, đang bị giam giữ với tội danh giết người. Bởi Jack Beardmore nhất mực yêu cầu nên cậu được phép đi cùng họ, dù cho cậu không được phép có mặt khi hai người tiến hành thẩm vấn gã đàn ông u sầu bị buộc tội giết cha cậu. Sibly là một gã đàn ông cao lớn, vạm vỡ, râu ria lởm chởm, mang trong mình hai dòng máu Scotland và Thụy Điển. Hắn không biết chữ và trước đây đã từng dính líu tới pháp luật. Đó là những gì Parr phát hiện ra khi tra cứu dấu vân tay của hắn. Ban đầu hắn không chịu nhận tội, nhưng nhờ kỹ năng thẩm vấn chéo điêu luyện của Derrick Yale, hơn là nỗ lực của thanh tra Parr, hắn đành phải cúi đầu. “Phải, chính tôi đã làm chuyện đó.” Cuối cùng hắn thú nhận. Họ đang ngồi trong phòng giam cùng với một chuyên viên tốc ký được chỉ định để ghi lại những lời khai của hắn. “Các ông đã bắt được tôi, nhưng chỉ là bởi vì lúc đó tôi đang say xỉn mà thôi. Và đằng nào thì tôi cũng thú nhận rồi, vậy thì xin nói luôn là chính tôi đã giết Harry Hobbs. Hắn và tôi cũng nằm trong số thủy thủ đoàn của tàu Oritianga năm 1912… dù sao thì, tôi cũng chỉ có thể bị treo cổ một lần thôi! Tôi đã giết hắn và quẳng xác qua thành tàu, tất cả chỉ vì một ả đàn bà mà chúng tôi gặp ở Newport News, nước Mỹ. Tôi sẽ kể cho các ông nghe chuyện đã xảy ra thế nào. Tôi bị lỡ tàu khoảng một tháng trước và bị kẹt lại trong nhà trọ thủy thủ tại Wapping. Tôi đã bị đuổi ra khỏi đó vì say rượu, sau đó còn bị bắt và trải qua bảy ngày trong tù. Nếu mấy lão già ngu ngốc ấy xử tôi ở đó một tháng thì giờ hẳn là tôi đã không ngồi đây. Một đêm sau khi ra tù, tôi đi qua khu East End, đau khổ và đói khát, cố gắng tìm kiếm vận may. Và tệ hơn nữa là tôi còn đang bị đau răng…” Parr đưa mắt nhìn Derrick Yale, và Yale khẽ mỉm cười. “Tôi đang đi dọc theo lề đường, cố tìm kiếm một đầu mẩu thuốc lá và trong đầu không nghĩ gì khác ngoài chuyện tìm gì đó bỏ vào bụng cũng như một nơi để trú chân. Trời bắt đầu mưa, và ngay khi tôi vừa nghĩ rằng mình sẽ lại phải trải qua một đêm nữa trên đường phố, thì chợt có một giọng nói vang lên, ngay sát bên tai tôi, ‘Vào đi.’ Tôi nhìn xung quanh. Một chiếc ô tô đang đậu bên vệ đường. Tôi không thể tin vào tai mình. Thế là người đàn ông trong xe nhắc lại, ‘Vào đi. Tôi nói anh đấy!’ và hắn gọi tên tôi. Chúng tôi lái đi được một đoạn mà hắn chẳng hề lên tiếng, và tôi để ý thấy rằng hắn cố ý tránh xa những con đường được chiếu sáng. Một lúc sau, hắn dừng xe và bắt đầu kể chi tiết về tôi. Tôi không thể diễn tả được lúc đó mình ngạc nhiên đến mức nào. Hắn biết tất cả về quá khứ của tôi. Hắn thậm chí còn biết về Harry Hobbs - tôi từng phải ra tòa vì vụ đó, nhưng được xử trắng án. Rồi hắn hỏi tôi có muốn kiếm một trăm bảng không. Tôi nói có, thế là hắn liền kể cho tôi nghe rằng có một lão trọc phú già sống ở ngoại ô đã gây hại cho hắn rất nhiều, và giờ hắn muốn lão ta biến mất. Tôi đã lưỡng lự không muốn nhận công việc đó, nhưng hắn đã nói với tôi một tràng về việc hắn có thể khiến tôi bị treo cổ vì vụ giết Hobbs như thế nào, và rằng việc đó hết sức an toàn, rằng hắn sẽ bố trí cho tôi một chiếc xe đạp để tôi có thể tẩu thoát. Cuối cùng, tôi đồng ý. Một tuần sau, hắn đến đón tôi như đã thỏa thuận trước tại quảng trường Steyne, rồi đưa cho tôi những chỉ dẫn cuối cùng. Tôi xuống chỗ của lão già Beardmore khi trời tối và trốn trong rừng. Hắn nói với tôi rằng lão Beardmore có thói quen đi bộ qua đó vào mỗi buổi sáng, và tôi có thể thoải mái ngủ suốt đêm. Vậy nhưng tôi mới ở trong rừng chưa được một giờ thì đã bị một phen hoảng hồn. Tôi nghe thấy tiếng ai đó di chuyển. Tôi nghĩ đó hẳn là người gác rừng. Đó là một gã cao lớn, và tôi chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng của hắn. Và chuyện chỉ có vậy thôi. Sáng hôm sau, lão già đi vào rừng và tôi đã bắn lão ta. Tôi cũng chẳng nhớ nhiều về việc đó, bởi khi đó tôi đang say, tôi đã mang theo một chai whisky vào rừng. Nhưng tôi vẫn đủ tỉnh táo để leo lên chiếc xe đạp và rời khỏi đó. Nếu không phải vì say xỉn thì hẳn là giờ tôi đã không ở đây rồi.” “Và đó là tất cả ư?” Parr hỏi, khi bản ghi khẩu cung được đọc lại và hắn vẽ một dấu thập ngoằn ngoèo vào chỗ chữ ký. “Đó là tất cả, thưa sếp.” Gã thủy thủ đáp. “Và anh không biết ai là người đã thuê mình ư?” “Không một chút nào.” Người kia vui vẻ nói. “À, có điều này. Tôi có thể nói với các ông rằng,” hắn nói sau một quãng tạm ngưng, “hắn cứ liên tục nhắc đi nhắc lại một từ mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tôi không được giáo dục tử tế, nhưng tôi nhận thấy rằng vài người thường thích nói một số từ nào đó. Chúng tôi từng có một lão thuyền trưởng lúc nào cũng nói ‘bệnh hoạn’.” “Từ đó là gì?” Parr hỏi. Gã đàn ông gãi đầu. “Tôi sẽ cố nhớ ra và báo với các ông sau.” Hắn nói, và họ để mặc hắn ngồi đó nghĩ ngợi. Dù sao thì việc đó cũng chẳng gây hại gì. Bốn giờ sau, cai ngục mang đồ ăn tới cho Ambrose Sibly. Hắn vẫn nằm trên giường, và viên cai ngục lắc mạnh vai hắn. “Dậy đi.” Ông ta nói, nhưng Ambrose Sibly không bao giờ tỉnh dậy được nữa. Hắn đã chết cứng. Và trong chiếc bình thiếc vẫn còn một nửa đặt cạnh giường mà hắn đã dùng để thỏa mãn cơn khát, người ta tìm thấy lượng hidro xyanua đủ để giết chết năm mươi người. Nhưng có một thứ khiến thanh tra Parr quan tâm còn hơn chất độc kia, ấy là một mảnh giấy nhỏ có hình tròn màu đỏ thẫm nổi lềnh bềnh trên mặt nước. 12 ĐÔI GIÀY MŨI NHỌN Felix Marl đang ngồi sau cánh cửa khóa chặt trong phòng ngủ, và đang thực hiện một công việc khó chịu mà gã hết sức quen thuộc. Hai mươi lăm năm trước, khi vẫn đang thụ án tại một nhà tù lớn ở Toulouse, nước Pháp, gã đã làm việc trong xưởng giày, và xử lý các đôi giày là công việc thường ngày của gã. Đó là công việc của gã, sửa chữa, chứ không phải là phá hủy. Còn hôm nay, với một con dao sắc lẹm, gã đang cắt vụn một đôi giày mũi nhọn bằng da thật mà gã mới chỉ mang ba lần thành từng mảnh vụn, rồi đem tất cả chỗ da vụn đó quẳng vào lửa. Có những người có sức sống mãnh liệt và sức chịu đựng dai dẳng, và Felix Marl là một người như vậy, gã sẵn sàng lao thẳng vào những chốn kinh hoàng bất tận. Một tờ báo bằng cách nào đó đã có được thông tin về những dấu chân gần dinh thự Beardmore, và điều đó đã góp phần khiến gã đàn ông cao lớn này sợ đến cứng người. Gã đang ngồi đó, tay áo xắn cao, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt, vì ngọn lửa đã bùng lên quá to khiến căn phòng trở nên hết sức nóng bức. Mảnh vụn cuối cùng đã bị ném vào lửa. Gã ngồi đó, nhìn chúng bị thiêu rụi và ngọn lửa bùng lên, rồi bỏ con dao xuống, rửa tay và mở toang cửa sổ cho mùi khét của da cháy bay bớt. Mọi chuyện hẳn đã tốt hơn, gã nghĩ, nếu như gã làm theo dự định ban đầu, và gã tự nguyền rủa bản thân vì đã quá hèn nhát khi quyết định bỏ khẩu súng lại và mang theo một cây bút máy. Nhưng ít ra thì bây giờ gã cũng đã an toàn. Chẳng ai trông thấy gã rời khỏi chỗ đó. Với những kẻ như gã thì nỗi sợ mù quáng và lòng tự tin hão huyền thường đi đôi với nhau như một lẽ tự nhiên. Khi bước xuống cầu thang để tới thư viện nhỏ của mình, gã gần như đã quên bẵng mất rằng mình đang gặp nguy hiểm. Gã ngồi viết một bức thư giảng hòa dưới ánh nắng phai tàn cuối ngày, và nó, ít ra là gã nghĩ như vậy, sẽ mang tới cho gã sự an toàn. Liệu nó có được tìm thấy không? Thêm một lần nữa gã lại cảm thấy hoảng sợ. “Hừm!” Marl khịt mũi, loại bỏ mối nguy đó ra khỏi đầu. Gia nhân của gã bưng lên một khay trà và xếp chúng lên chiếc bàn nhỏ cạnh nơi gã đang ngồi. “Ngài sẽ tiếp ông ấy chứ, thưa ngài?” “Hả?” Marl hỏi, quay mặt lại. “Ông nào cơ?” “Tôi đã thưa với ngài rằng có một quý ông muốn được tiếp chuyện với ngài.” Giờ Marl mới nhớ ra rằng màn phá hủy đôi giày của gã vừa nãy đã bị một tiếng gõ cửa làm gián đoạn. “Ông ta là ai?” Gã hỏi. “Tôi đã đặt danh thiếp của ông ấy trên bàn, thưa ngài.” “Anh đã nói với ông ta là ta đang bận chưa?” “Rồi, thưa ngài, nhưng ông ấy nói rằng sẽ đợi cho tới khi ngài xuất hiện.” Anh ta đưa cho gã tấm danh thiếp và Marl đọc nó, ngay lập tức nhảy dựng lên, khuôn mặt biến sắc. “Thanh tra Parr.” Gã lắp bắp. “Ông ta muốn gì ở mình cơ chứ?” Gã đưa bàn tay run rẩy lên miệng. “Cho ông ta vào.” Gã gắng gượng lên tiếng. Gã chưa từng gặp thanh tra Parr, dù là chính thức hay xã giao, và khi trông thấy vóc dáng thấp bé của ông, gã lập tức bình tâm trở lại. Chẳng có chút đe dọa nào toát ra từ người đàn ông với gương mặt đỏ lựng này. “Mời ngồi, thưa thanh tra. Tôi xin lỗi, tôi đang bận chút việc khi ông đến.” Marl nói. Mỗi khi căng thẳng, giọng nói của gã lại trở nên cao vút như tiếng chim hót. Parr ngồi ở mép ghế bên cạnh, đặt chiếc mũ quả dưa lên đầu gối. “Tôi đã tưởng mình sẽ phải chờ rất lâu cơ, thưa ngài. Tôi đến gặp ngài hôm nay là để nói về vụ ám sát ông Beardmore.” Marl không nói gì. Gã nỗ lực giữ cho đôi môi khỏi run rẩy, cố gắng tạo ra một bầu không khí lịch thiệp giả tạo. “Hẳn là ngài biết ông Beardmore rất rõ?” “Cũng không hẳn.” Marl đáp. “Giữa chúng tôi chỉ đơn thuần là quan hệ làm ăn mà thôi.” “Gần đây ngài có gặp ông ấy không?” Marl lưỡng lự. Gã là kiểu người có thể dễ dàng nói dối, và có vẻ như bản năng của gã là nói ra những lời trái với sự thật. “Không.” Cuối cùng gã lên tiếng. “Tôi từng gặp ông ấy nhiều năm trước, nhưng đó là từ trước khi ông ấy để râu nữa kia.” “Ông Beardmore đang ở đâu khi ngài tới căn nhà ngày hôm đó?” Parr hỏi. “Ông ấy đang đứng trên sân thượng.” Marl trả lời, hơi to tiếng quá mức cần thiết. “Và ngài đã trông thấy ông ấy?” Marl gật đầu. “Họ nói với tôi, ngài Marl,” Parr tiếp tục, mắt nhìn xuống chiếc mũ, “rằng vì lý do nào đó ngài đã có một cơn hoảng sợ… Cậu Jack Beardmore đã nói rằng như thể ngài đã phải trải qua một nỗi kinh hoàng trong thoáng chốc. Nguyên nhân của nó là gì?” Marl nhún vai, cố gượng cười. “Tôi nhớ rằng mình đã nói đó là một cơn đau tim nhẹ. Tôi không quá xa lạ với chứng bệnh đó,” gã nói. Parr quay ngược chiếc mũ lại, nhìn vào bên trong, mắt không hề ngước lên khi ông hỏi, “Không phải là do trông thấy ông Beardmore đấy chứ?” “Tất nhiên là không.” Người kia phủ nhận ngay lập tức. “Tại sao tôi lại phải sợ ông Beardmore chứ? Tôi đã trao đổi thư từ với ông ấy rất nhiều, và tôi biết rằng ông ấy…” “Nhưng ngài không gặp ông ấy đã nhiều năm?” “Tôi không gặp ông ấy đã nhiều năm.” Marl cáu kỉnh xác nhận. “Và nguyên nhân khiến hôm đó ngài bị kích động là do một cơn đau tim?” Đôi mắt ông ngước lên lần đầu tiên và nhìn thẳng vào người đối diện. “Đúng như vậy.” Marl nói với giọng đầy chân thành. “Tôi hầu như đã quên mất căn bệnh nhỏ của mình cho tới khi được ông nhắc nhở.” “Còn một điểm nữa mà tôi muốn làm rõ.” Viên thanh tra nói. Sự chú ý của ông đã trở lại với chiếc mũ quyến rũ của mình, ông quay nó vòng vòng như một chiếc máy đánh kem. “Ngài đã mang một đôi giày mũi nhọn được đóng riêng khi đến dinh thự Beardmore, phải vậy không?” Marl cau mày. “Phải không nhỉ? Tôi quên mất rồi.” “Ngài có đi đâu quanh khu đất đó, ngoại trừ quãng đường từ nhà ga đến đó không?” “Không.” “Ngài đã không đi dạo quanh nhà để quan sát, ờ… kiến trúc của nó sao?” “Không. Tôi đã không làm thế. Tôi chỉ vào nhà vài phút rồi sau đó xin phép cáo lui luôn.” Parr hướng mắt lên trần nhà. “Có thể tôi đang đòi hỏi hơi quá,” ông lịch thiệp đề nghị, “nhưng liệu ngài có thể cho tôi xem qua đôi giày mà ngài đã mang vào hôm đó không?” “Chắc chắn rồi.” Marl nói, rồi ngay lập tức đứng lên. Gã rời khỏi phòng khoảng vài phút và trở lại với một đôi giày cao cổ được đặt đóng riêng. Viên thanh tra cầm đôi giày lên và chăm chú quan sát phần đế. “Chà,” ông nói, “tất nhiên đây không phải là đôi giày ngài đã mang vào hôm đó, bởi vì…,” ông dùng tay xoa nhẹ phần đế, “có bụi bám trên chúng, mà mặt đất thì đã ướt sũng cả tuần trước.” Trái tim của Marl như ngừng đập trong một khoảnh khắc. “Đó là đôi giày mà tôi đã mang.” Gã nói với giọng thách thức. “Thứ mà ông gọi là ‘bụi’ thực ra là bùn khô.” Parr nhìn vào các đầu ngón tay dính đầy bụi của mình, lắc đầu. “Tôi nghĩ là có gì đó nhầm lẫn ở đây, thưa ngài,” ông nhẹ nhàng nói, “đây là bụi phấn.” Ông đặt đôi giày xuống và ngẩng mặt lên. “Dù sao thì, cũng chẳng quan trọng lắm.” Parr nói. Ông đứng lên, ngắm nghía tấm thảm một lúc lâu, và điều đó đã khiến Marl, dù đang hết sức sợ hãi, cảm thấy mất bình tĩnh. “Tôi có thể giúp gì cho ông nữa không, ông thanh tra?” “Có.” Parr đáp. “Tôi muốn hỏi xin tên và địa chỉ người thợ may của ngài. Xin vui lòng ghi nó ra giúp tôi.” “Thợ may của tôi?” Marl trừng mắt nhìn vị khách. “Ông muốn cái quái gì ở thợ may của tôi?” Và rồi, với một nụ cười, “Chà, ông đúng là một người tò mò, thưa ông thanh tra, nhưng tôi sẵn sàng thỏa mãn nó giúp ông.” Gã bước đến bên bàn, rút ra một tờ giấy, viết lên đó một cái tên và một địa chỉ, chờ đến khi mực khô rồi đưa cho viên thanh tra. “Cảm ơn ngài.” Parr đút luôn tờ giấy vào túi mà không thèm liếc nhìn. “Rất xin lỗi vì đã làm phiền ngài, nhưng xin hãy hiểu rằng tất cả những người có mặt tại ngôi nhà đó trong vòng hai mươi tư giờ trước khi ông Beardmore bị sát hại đều phải được thẩm vấn. Vòng Tròn Máu…” “Vòng Tròn Máu!” Marl thở hổn hển. Viên thanh tra nhìn thẳng vào gã. “Ngài không biết rằng chính Vòng Tròn Máu là những kẻ phải chịu trách nhiệm cho vụ ám sát đó sao?” Thành thật mà nói thì đúng là Felix Marl chưa từng biết điều đó. Gã chỉ mới đọc một bài tường thuật ngắn nói rằng James Beardmore đã bị bắn chết, nhưng mối quan hệ giữa tên sát nhân với Vòng Tròn Máu thì chỉ được tiết lộ trong Monitor, một tờ báo mà Marl chẳng bao giờ đọc. Gã ngồi phịch xuống ghế, run cầm cập. “Vòng Tròn Máu.” Gã lẩm bẩm. “Lạy Chúa lòng lành… tôi chưa từng nghĩ…” Gã đột ngột im bặt. “Ngài chưa từng nghĩ gì cơ?” Parr nhẹ nhàng hỏi. “Vòng Tròn Máu.” Gã đàn ông cao lớn lại lẩm bẩm. “Tôi nghĩ đó chỉ là…” Gã không nói hết câu. Felix Marl vẫn tiếp tục ngồi co rúm trên ghế, đầu gục trong lòng bàn tay suốt một tiếng sau khi viên thanh tra đã đi khỏi. Vòng Tròn Máu! Đây là lần đầu tiên gã dính líu với đám tội phạm tống tiền đó, và điều này thực sự đã khiến mọi suy tính của gã bị đảo lộn. “Mình không thích điều này.” Gã lẩm bẩm, đau đớn đứng dậy và bật đèn soi sáng căn phòng tối om. “Đây sẽ là thứ giúp mình thoát khỏi chuyện này.” Gã dành cả đêm để kiểm tra lại số tài khoản ngân hàng của mình, và kết quả thu được khiến gã cảm thấy hài lòng. Mình có thể tiếp tục thêm chút nữa, gã nghĩ, và rồi… 13 MARL TIẾP TỤC THÊM CHÚT NỮA Gián điệp của Vòng Tròn Máu đã thu được thành công đáng kể. Cô ta đã được ngài Brabazon nhận mà không cần phỏng vấn lấy một câu. Rõ ràng là gã đàn ông ngồi trong xe có sức ảnh hưởng rất lớn. Còn một điều thậm chí còn bí ẩn hơn nữa, đó là ngày lại ngày trôi qua, cô ta vẫn chẳng nhận được chút tin tức nào từ kẻ bí ẩn đã giao cho cô ta công việc này. Cô ta đã nghĩ rằng gã sẽ tận dụng mình ngay lập tức, nhưng cô ta đã tới ngân hàng Brabazon (trước đây mang tên Seller) gần một tháng mà vẫn chưa hề thấy gã liên lạc. Nhưng rồi một ngày nó cũng tới. Cô ta thấy một lá thư trên bàn mình, với phần địa chỉ được in đậm. Chẳng hề có dấu hiệu của Vòng Tròn Máu trên bức thư, và nó đi thẳng luôn vào vấn đề: Hãy làm quen với Marl. Tìm hiểu xem hắn đã kiểm soát Brabazon bằng cách nào. Gửi cho tôi thông tin chi tiết về tài khoản của hắn và thông báo ngay nếu nó bị khóa. Đồng thời thông báo cho tôi nếu Parr và Derrick Yale đến ngân hàng. Gửi tin về Johnson, số 23, đường Mildred, London. Cô ta thực hiện chỉ thị này hết sức nghiêm túc, dù rằng phải vài ngày sau cô ta mới có cơ hội gặp Marl. Derrick Yale chỉ đến ngân hàng đúng một lần. Cô ta đã từng gặp ông trước đây, khi ông còn là khách của nhà Beardmore, và kể cả nếu không thì cô ta cũng sẽ nhận ra ông, bởi chân dung của viên thám tử nổi tiếng vẫn thường xuyên xuất hiện trên mặt báo. Cô ta không biết mục đích của ông khi tới đây là gì, nhưng khi lén nhìn từ trong văn phòng nhỏ mà cô ta độc chiếm nhờ việc là thư ký riêng của ông Brabazon, cô ta thấy ông trò chuyện với một nhân viên tại quầy giao dịch, và lập tức thông báo điều đó cho Vòng Tròn Máu. Nhưng thanh tra Parr thì không hề xuất hiện, và cô ta cũng không trông thấy Jack Beardmore. Cô ta không muốn nghĩ quá nhiều về Jack. Cậu không phải là một chủ đề dễ chịu. Mỗi khi căng thẳng, John Brabazon, ngài chủ tịch nghiêm khắc và uy quyền của ngân hàng Seller, lại thực hiện một thủ thuật nhỏ. Ông ta sẽ vuốt đôi bàn tay trắng trẻo vào phần tóc mọc xoăn và dày phía sau gáy của mình, dùng ngón trỏ xoắn một ngọn tóc trong giây lát rồi kéo nó lật lên trước cái trán nói của mình và để nó lòa xòa ở đó. Những lúc như vậy, với cái đầu cúi thấp và những ngón tay đặt trước trán, trông ông ta chẳng khác nào đang cầu nguyện. Người đang ngồi cùng ông ta trong văn phòng gọn gàng chẳng có đặc điểm nổi bật nào. Đó là một người đàn ông cao lớn, hít thở khó nhọc và thân hình phù nề, hậu quả của lối sống lười nhác và phóng túng. Gã ngồi yên không động đậy, hai tay khoanh lại trên tấm áo gi-lê ngoại cỡ. “Marl thân mến,” ông chủ ngân hàng nói với giọng nhẹ nhàng, có phần ve vuốt, “ông thử thách lòng kiên nhẫn của tôi hơi quá rồi đấy. Ông khiến ngân quỹ của tôi hao hụt bao lâu nay vậy là đủ rồi.” Gã cao lớn khẽ cười. “Tôi đã bảo đảm an toàn cho ông, Brab… một sự bảo đảm tuyệt đối, ông bạn già ạ. Ông đâu thể phủ nhận điều đó!” Mấy đầu ngón tay trắng trẻo của Brabazon liên tục gõ nhịp trên cạnh bàn. “Ông mang tới đây những đề án không tưởng, và đến giờ tôi vẫn đủ ngu ngốc để rót tiền vào đó.” Ông ta nói. “Cần phải chấm dứt sự điên rồ này ngay lập tức. Ông đâu có cần giúp đỡ! Tài khoản của ông chỉ tại ngân hàng này thôi đã là gần một trăm nghìn rồi!” Marl quay đầu nhìn ra cửa rồi rướn người về phía trước. “Tôi sẽ kể ông nghe một câu chuyện,” gã thì thầm, “câu chuyện về một gã nhân viên ngân hàng trẻ không một xu dính túi đã cưới góa phụ của chủ tịch ngân hàng Seller. Bà ta đủ tuổi để làm mẹ gã, và bà ta đột ngột qua đời… tại Thụy Sĩ. Bà ta đã ngã xuống một vách núi. Làm sao tôi biết điều đó ấy à? Không phải tôi đã chụp những bức ảnh tuyệt đẹp về vùng núi đó hay sao? Không phải tôi đã cho ông xem những bức ảnh đó hay sao, Brab? Ông có mặt trong những bức ảnh đó! Phải, ông có mặt trong đó, dù ông đã nói tại phiên tòa sơ thẩm là ông ở cách đó nhiều dặm!” Đôi mắt của Brabazon dán chặt xuống bàn. Không có một chuyển động nào dù là nhỏ nhất trên gương mặt ông ta. “Thêm vào đó,” Marl nói bằng tông giọng bình thường, “ông có đủ khả năng để giải quyết chuyện này mà. Ông đang chuẩn bị kết hôn lần nữa… thêm một đám cưới vụ lợi nữa, không phải sao?” Ông chủ ngân hàng ngẩng đầu lên và cau mày nhìn vị khách. “Ý ông là sao?” Ông ta hỏi. Marl rõ ràng là hết sức thích thú. Gã vỗ đầu gối và cười sằng sặc. “Thế còn người mà ông gặp hôm trước ở quảng trường Steyne thì sao… người đã ngồi cùng ông trong ô tô ấy? Đừng có chối! Tôi đã thấy mà! Đúng là một chiếc xe nhỏ xinh đẹp!” Lúc này đây, lần đầu tiên Brabazon bộc lộ chút dấu hiệu cảm xúc. Gương mặt ông ta xám xịt và đôi mắt có vẻ như thụt sâu hơn vào trong hốc. “Tôi sẽ thu xếp khoản vay đó cho ông.” Ông ta nói. Marl chỉ vừa mới thể hiện sự hài lòng của mình thì tiếng gõ cửa vang lên. “Vào đi.” Brabazon nói. Cánh cửa mở ra, và người mới đến đã thu hút toàn bộ sự chú ý của vị khách. Cô gái mang theo một tờ giấy, rõ ràng là một lời nhắn qua điện thoại mới được ghi lại, và đặt nó trước mặt ông chủ của mình. “Trắng - vàng - đỏ.” Các giác quan của Marl nhanh chóng tiếp nhận những ấn tượng đầu tiên. Làn da trắng và mịn như kem, đôi môi đỏ như hoa anh túc, mái tóc vàng như lúa chín. Gã quan sát kỹ càng đường nét trên khuôn mặt cô, cảm thấy hơi khó chịu vì vẻ bướng bỉnh của chiếc cằm… Marl thích những người phụ nữ hiền lành, yếu đuối và ngoan ngoãn nằm trong vòng tay gã… Nhưng vẻ đẹp của khuôn miệng, chiếc mũi và hàng lông mày… Chúng khiến gã cảm thấy bối rối. Hơi thở của gã trở nên nhanh hơn, lớn hơn một chút, và khi cô ta rời đi sau một cuộc trao đổi ngắn, gã thở dài. “Thật đúng là một nữ hoàng!” Gã nói. “Tôi đã từng thấy cô ấy ở đâu đó rồi. Tên cô ấy là gì?” “Drummond… Thalia Drummond.” Brabazon nói, đôi mắt ông ta lạnh lùng nhìn gã đàn ông thô lỗ. “Thalia Drummond!” Marl chậm rãi nhắc lại. “Không phải cô ấy từng làm việc cho Froyant sao? Hãy ngọt ngào với cô ấy nhé, ông bạn!” Người đàn ông đang ngồi bên bàn viết nhìn chằm chằm vào người kia. “Tôi không có thói quen ‘ngọt ngào’ với các nhân viên của mình, Marl ạ.” Ông ta nói.“Thalia Drummond là một người rất được việc. Đó là tất cả những gì tôi yêu cầu.” Marl nặng nề đứng dậy, khẽ cười thầm. “Sáng mai tôi sẽ gặp ông để tiếp tục bàn về chuyện làm ăn” Gã nói. Gã cười nham nhở, nhưng Brabazon thì chẳng buồn nhếch môi. “Mười giờ rưỡi ngày mai.” Ông ta nói, tiễn vị khách ra cửa. “Hay ông muốn mười một giờ?” “Mười một giờ.” Người kia đáp. “Tạm biệt.” Ông chủ ngân hàng nói, nhưng không đưa tay ra. Ngay khi cánh cửa vừa đóng lại sau lưng vị khách, Brabazon lập tức khóa nó lại và trở về bàn của mình. Ông ta rút từ trong cuốn sổ nhỏ ra một tấm thiệp trắng trơn rồi nhúng bút vào mực đỏ và vẽ một vòng tròn nhỏ. Bên dưới nó, ông viết những dòng chữ: Felix Marl đã thấy cuộc nói chuyện của chúng ta ở quảng trường Steyne. Hắn sống ở số 79, khu Marisburg. Ông ta cho tấm thiệp vào trong phong bì và ghi địa chỉ: Ông Johnson, số 23, đường Mildred, London. 14 LỜI MỜI DÀNH CHO THALIA Marl đã đi khắp ngân hàng, liếc nhìn khắp hai dãy bàn mà không hề phát hiện ra gương mặt của cô gái mà gã đang tìm kiếm. Phía cuối quầy giao dịch là một văn phòng nhỏ, được ngăn cách với bên ngoài nhờ những ô cửa sổ bằng kính mờ. Cánh cửa chỉ khép hờ, gã có thể thấy thấp thoáng một bóng người và quyết định bước vào. Một cô gái ngồi bên máy đánh chữ đang nhìn gã đầy tò mò. Thalia Drummond ngước mắt lên khỏi bàn làm việc và trông thấy khuôn mặt đang nở nụ cười rộng ngoác của gã. “Đang bận sao, cô Drummond?” “Rất bận.” Cô ta đáp lại, không có vẻ gì khó chịu trước việc gã đã tự tiện bước vào. “Nơi này chẳng vui vẻ gì lắm, phải không?” Gã hỏi. “Không nhiều lắm.” Đôi mắt sẫm màu của cô ta đánh giá gã một lượt. “Vậy cô nghĩ sao về một bữa tối vào hôm nào đó và sau đó đi xem kịch?” Gã hỏi. Mắt cô ta lướt từ mái tóc nhuộm xuống đôi giày đánh bóng lộn của gã. “Ông đúng là một lão già tinh quái,” cô ta bình thản nói, “nhưng bữa tối là bữa ăn yêu thích của tôi.” Nụ cười của gã càng mở rộng hơn và ngọn lửa chiến thắng bùng lên trong đôi mắt nhạt màu. “Moulin Gris thì sao?” Gã nêu ra một cái tên, tin chắc rằng cô ta sẽ đồng ý. Nhưng đáp lại chỉ là đôi môi hơi cong lên. “Sao không phải là hàng cá ngoài chợ luôn đi?” Cô ta hỏi. “Không, hoặc là Ritz-Carlton, hoặc là khỏi đi đâu hết.” Marl kinh ngạc, nhưng hết sức hài lòng. “Em là một nàng công chúa,” gã cười rạng rỡ, “và em sẽ được phục vụ ở cấp độ hoàng gia! Tối nay thì sao?” Cô ta gật đầu, “Vậy thì hãy đến nhà tôi ở khu Marisburg, đường Bayswater. Bảy rưỡi. Em sẽ tìm thấy tên tôi trên cửa.” Gã ngừng lại, chờ đợi một lời từ chối, nhưng cô ta khiến gã kinh ngạc cực độ bằng cách gật đầu lần nữa. “Tạm biệt, em yêu.” Marl trơ tráo nói và đặt một nụ hôn lên những đầu ngón tay mập mạp của mình. “Đóng cửa lại.” Cô gái nói và trở lại với công việc. Cô ta lại bị làm phiền lần nữa. Lần này là một cô gái ưa nhìn, tay đeo găng dài bóng lộn. Đó là nhân viên đánh máy, và chị ta đã quan sát hành động của Marl từ nãy đến giờ với thái độ hết sức tò mò. Thalia đã ngả lưng trên ghế khi người mới đến cẩn thận đóng cửa sau lưng mình và ngồi xuống. “Chà, Macroy, cái quái gì thế?” Cô ta càu nhàu. Những từ ngữ ấy chẳng phù hợp với gương mặt thanh tú của cô ta chút nào, và cũng chẳng phải lần đầu tiên Milly Macroy phải nhìn cô ta bằng ánh mắt ngạc nhiên. “Lão già đó là ai vậy?” Chị ta hỏi. “Một người hâm mộ.” Thalia bình thản đáp. “Cô thu hút bọn họ thật đấy, nhóc.” Milly Macroy bình luận, giọng có chút ghen tị, sau đó là một thoáng ngập ngừng. “Sao chứ?” Thalia hỏi. “Chị đâu có đến đây để thảo luận về amour của tôi, phải không nào?” Milly lén nở một nụ cười. “Nếu amour trong tiếng Pháp nghĩa là mấy cậu trai, thì đúng vậy.” Chị ta nói. “Tôi đến đây để nói chuyện thẳng thắn với cô, cô Drummond.” “Nói chuyện thẳng thắn với tôi có nghĩa là phải hết sức thoải mái.” Thalia Drummond đáp. “Cô có nhớ số tiền đã được gửi bằng thư đảm bảo đến tập đoàn Sellinger thứ Sáu tuần trước không?” Thalia gật đầu. “Chà, vậy thì hẳn cô cũng biết người ta đã khẳng định rằng khi gói hàng đến nơi thì trong đó chỉ toàn giấy vụn?” “Thật vậy sao?” Thalia hỏi. “Ngài Brabazon chẳng nói gì với tôi về chuyện đó cả.” Và cô ta đáp lại ánh mắt dò xét của người kia không chút e dè. “Chính tay tôi đã bỏ số tiền đó vào phong bì,” Milly Macroy chậm rãi nói, “và cô đã kiểm tra nó. Chỉ có tôi và cô có liên quan trong chuyện này, cô Drummond ạ, một trong hai chúng ta đã lấy cắp số tiền. Và tôi thề rằng đó không phải là tôi.” “Vậy thì hẳn là tôi rồi.” Thalia nói với một nụ cười hồn nhiên. “Thật sự thì, chị Macroy ạ, đó là một lời cáo buộc hết sức nghiêm trọng dành cho một người phụ nữ ngây thơ trong sáng đấy.” Vẻ khâm phục trong đôi mắt Milly càng lúc càng tăng lên. “Cô đúng là đã mất hết lương tâm, đấy là nếu như cô đã từng có lương tâm!” Chị ta nói. “Giờ nghe này, nhóc, giờ là lúc lật bài rồi. Một tháng trước, ngay sau khi cô vừa đặt chân tới đây, một tờ một trăm bảng đã biến mất khỏi quầy ngoại hối.” “Thì sao?” Thalia hỏi ngay khi chị ta ngừng lời. “Thì, tôi tình cờ biết được rằng cô đã lấy chúng và đem đi đổi tại tiệm Bilbury’s trên phố Strand. Tôi có thể đọc cho cô nghe số hiệu của tờ bạc luôn, nếu cô muốn.” Thalia ngoảnh lại và nhìn thẳng vào người đối diện, cặp chân mày nhíu lại. “Nhìn xem chúng ta có gì ở đây kìa?” Cô ta thốt lên, đầy vẻ châm biếm. “Một nữ thám tử! Trời ơi, tôi thực sự không xong rồi!” Vẻ nhạo báng ngông cuồng của cô ta đã khiến Milly cực kỳ kinh ngạc. “Cô quả là có thần kinh thép!” Chị ta nói. Chị ta chồm tới trước và đặt tay lên cánh tay cô ta. “Vụ Sellinger này chắc chắn sẽ mang tới nhiều rắc rối, và cô sẽ cần thêm bạn bè.” “Vậy thì chị cũng vậy thôi.” Thalia lạnh lùng nói. “Chị cũng có liên quan tới số tiền.” “Còn cô thì đã đánh cắp nó.” Người kia đáp lại với vẻ hết sức chắc chắn. “Đừng để chúng ta phải tranh luận về nó thêm nữa, Drummond. Nếu chúng ta đoàn kết thì sẽ chẳng có rắc rối nào hết… Tôi có thể thề rằng phong bì đã được niêm phong ngay trước mặt tôi và số tiền vẫn nằm trong đó.” Có một tia sáng tinh nghịch nhảy nhót trong đôi mắt của Thalia Drummond, và cô ta cười thầm. “Được rồi,” cô ta nói. vai khẽ nhún lên. “Chuyện đó coi như xong. Giờ thì, bởi vì chị vừa mới giúp tôi, nên hẳn là chị sẽ yêu cầu tôi gì đó, phải không nào? Tôi sẽ nói cho chị nghe về số tiền. Tôi đã lấy nó, bởi nó cần thiết cho tôi. Tôi thường xuyên cần đến tiền, và dù sao thì dạo gần đây mấy vụ cướp bưu điện cũng xảy ra như cơm bữa ấy mà. Hôm trước báo còn đăng cả một bài luận dài về chủ đề đó. Giờ thì nói tiếp đi.” Milly Macroy, người chưa từng tiếp xúc với giới tội phạm, nhìn cô ta đầy sửng sốt. “Cô rất cứng rắn, được rồi,” chị ta gật đầu, nhưng cô phải bỏ thói ăn cắp vặt này đi, nếu không ắt sẽ có ngày cô làm hỏng việc lớn, và tôi không thể cứ đứng nhìn chuyện đó xảy ra. Nếu cô muốn có phần trong một miếng bánh lớn, cô phải tham gia cùng những người sẵn sàng làm việc lớn… Cô hiểu chứ?” “Tôi hiểu.” Thalia đáp. “Vậy chiến hữu của chị là ai?” Macroy không hiểu từ đó, nhưng vẫn trả lời, giọng hạ thấp. “Có một quý ông mà tôi quen…” “Gọi là ‘anh chàng’ thôi,” Thalia xẵng giọng. “Quý ông nghe cứ như giọng lưỡi của mấy lão thợ may vậy.” “Ờ thì, một anh chàng, nếu cô muốn.” Macroy kiên nhẫn nói. “Anh ấy là một người bạn của tôi. Anh ấy đã quan sát cô suốt vài tuần nay, và anh ấy cho rằng cô là kiểu phụ nữ thông minh, có thể kiếm được rất nhiều tiền mà chẳng hề sợ rắc rối. Tôi đã kể cho anh ấy nghe những chuyện khác, và anh ấy muốn gặp cô.” “Lại thêm một người hâm mộ nữa chăng?” Thalia hỏi, đôi lông mày hoàn hảo của cô ta nhướng lên, và mặt Macroy tối sầm lại. “Không có chuyện đó đâu, cô Drummond,” chị ta nói dứt khoát, “anh ấy và tôi, chúng tôi gần như đã… đính hôn.” “Chúa tha lỗi cho con,” Thalia thốt lên, “vì đã chen vào giữa hai trái tim đang say men tình ái.” “Cô không cần phải mỉa mai như vậy đâu.” Macroy nói, mặt vẫn còn ửng đỏ. “Và tôi cũng nói luôn là chẳng có chút lãng mạn nào trong chuyện này hết. Đây là việc làm ăn nghiêm túc, cô hiểu chứ?” Thalia nghịch nghịch con dao rọc giấy của mình. Rồi đột nhiên cô ta hỏi, “Giả như tôi không muốn gia nhập cùng chị thì sao?” Milly Macroy nhìn cô ta bằng ánh mắt đầy hoài nghi. “Hãy đến ăn tối cùng chúng tôi khi ngân hàng đóng cửa.” Chị ta nói. “Cứ liên tục là những lời mời ăn tối.” Thalia lẩm bẩm, và Milly Macroy lanh lợi ngay lập tức chộp lấy nó. “Lão già đó đã mời cô đi ăn tối, phải không?” Chị ta hỏi. “Chà, thật may mắn làm sao!” Chị ta huýt sáo và đôi mắt sáng lên. Chị ta định sẽ tiết lộ một điều bí mật, nhưng rồi lại đổi ý. “Lão ta kiếm được rất nhiều tiền từ việc cho vay lãi. Cưng à, tôi có thể thấy trước được việc cô sẽ đeo một sợi dây chuyền nạm kim cương trong một hoặc hai tuần tới!” Thalia ngồi thẳng dậy và cầm bút lên. “Đá quý là điểm yếu của tôi,” cô ta nói. “Được rồi, Macroy, gặp chị tối nay.” Rồi cô ta trở lại với công việc. Milly Macroy còn nấn ná thêm chút nữa. “Nghe này, cô sẽ không kể cho quý ông đó nghe chuyện tôi nói rằng chúng tôi đã đính hôn, phải không?” “Brab đang gọi.” Thalia nói, đứng dậy và cầm theo cuốn sổ ngay khi tiếng chuông vang lên. “Không, tôi sẽ không nói gì về chuyện… Dù sao thì tôi cũng ghét chuyện cổ tích lắm.” Macroy nhìn theo bóng dáng cô ta rời đi với vẻ mặt không lấy gì làm thân thiện cho lắm. Brabazon đang ngồi bên bàn làm việc khi cô ta bước vào, và ông ta trao cho cô ta một chiếc phong bì đã dán kín. “Đích thân gửi cái này đi.” Ông ta bảo. Thalia liếc nhìn địa chỉ và gật đầu, rồi trao cho Brabazon một ánh nhìn thích thú. Các thành viên của Vòng Tròn Máu quả thật đến từ đủ mọi tầng lớp và thành phần trong xã hội. 15 THALIA GIA NHẬP Thalia Drummond gần như là nhân viên cuối cùng rời khỏi ngân hàng vào tối hôm ấy, và cô ta đứng đó, trên bậc thềm, lơ đãng hết nhìn sang trái lại ngó sang phải trong lúc xỏ tay vào găng. Cô ta chẳng biểu lộ chút dấu hiệu nào, dù chỉ là một cái liếc mắt rằng cô ta đã phát hiện ra người đàn ông đang theo dõi mình từ phía bên kia con đường. Mắt cô ta sáng lên khi trông thấy Milly đang đứng đợi ở cách đó vài mét, và cô ta bước về phía ấy. “Cô chậm quá đấy, Drummond.” Macroy càu nhàu. “Cô không được phép để bạn tôi chờ đợi. Anh ấy không thích điều đó đâu.” “Anh ta sẽ phải làm quen với nó thôi.” Thalia nói. “Tôi không cần phải đúng giờ chỉ để làm vừa lòng đám đàn ông.” Cô ta bước đến bên cạnh Milly và họ đi bộ khoảng một trăm mét dọc theo con phố ồn ã, trước khi rẽ vào đường Reeder. Những nhà hàng nằm trên đường Reeder đều mang những cái tên khiến người ta liên tưởng tới sự vui tươi và hoành tráng của Paris. Moulin Gris là một tiệm ăn nhỏ sâu hun hút, nhưng với sự trợ giúp của những tấm gương được mạ vàng, nó vẫn toát lên vẻ sang trọng bất chấp không gian chật hẹp. Các bàn ăn đã được dọn sẵn cho bữa tối, nhưng chúng vẫn còn trống, bởi hai tiếng nữa mới đến giờ mở cửa, và với những ông chủ của Moulin Gris thì bữa trà chiều hoàn toàn không đáng bận tâm. Họ bước lên một cầu thang chật hẹp tới một phòng ăn trên tầng, và người đàn ông đang ngồi ở """