"
Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 - Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 - Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Outlander
Vòng Tròn Đá Thiêng 1 —★—
Tác giả: Diana Gabaldon
Người dịch: Khánh Vân
Phát hành: AMun
Nhà xuất bản Thanh Niên 2017
ebook©vctvegroup
Dành để tưởng niệm mẹ tôi - Jacqueline Sykes Gabaldon, người đã dạy tôi tập đọc.
Lúc nào chẳng có người biến mất. Bạn cứ thử hỏi bất kì viên cảnh sát nào xem. Hoặc tốt hơn là hỏi một tay nhà báo ấy. Những vụ mất tích vốn là chuyện cơm bữa đối với cánh nhà báo mà.
Những cô gái trẻ bỏ nhà ra đi. Những đứa bé bị lạc cha mẹ và không bao giờ còn được nhìn thấy nữa. Những bà nội trợ đã chịu đựng hết nổi, cầm theo số tiền chợ và bắt một chiếc taxi đến nhà ga. Các nhà tư bản tài chính quốc tế thay tên đổi họ và biến mất trong làn khói của những điếu xì gà nhập khẩu.
Nhiều người mất tích cuối cùng vẫn sẽ được tìm thấy, hoặc còn sống, hoặc đã chết. Suy cho cùng, những vụ biến mất đều có lời giải thích. Thường là vậy.
PHẦN MỘT
INVERNESS, NĂM 1945[1]
1
Một sự khởi đầu mới
Đ
ây không phải là nơi có thể xảy ra những vụ mất tích, ít nhất khi mới thoạt nhìn. Căn nhà nghỉ của bà Baird cũng giống hệt cả ngàn căn nhà nghỉ khác trên vùng cao nguyên Scotland vào năm 1945: sạch sẽ, yên tĩnh, giấy dán tường có họa tiết hoa cỏ bàng bạc, sàn nhà sáng bóng như gương và trong phòng tắm có một cái thùng đun nước nóng tự động được vận hành bằng tiền xu. Bà Baird có dáng người mập lùn, tính tình thoải mái, bà chẳng cất một lời phản đối khi Frank bày la liệt khắp căn phòng khách nhỏ xíu dán giấy hình hoa hồng của bà hàng tá sách báo mà anh vẫn luôn mang theo trong những chuyến du hành.
Đang đi ra ngoài thì tôi gặp bà Baird ở tiền sảnh. Bà giơ bàn tay múp míp níu cánh tay tôi và vỗ vỗ vào tóc tôi.
“Trời ơi, chị Randall, chị không thể ra đường trong bộ dạng thế này! Đây, để tôi dém chỗ này lại giúp chị. Đó! Khá hơn rồi đó. Chị biết không, cô em họ của tôi vừa khoe với tôi kiểu tóc uốn mới, rất đẹp và giữ nếp; có lẽ lần sau chị nên thử kiểu đó.”
Tôi không nỡ nói với bà rằng những lọn tóc xoăn màu nâu nhạt bất trị của tôi hoàn toàn là sản phẩm của tạo hóa chứ không phải là sai sót của công nghệ uốn tóc. Những lọn tóc dợn sóng sít sao của bà may mắn không bướng bỉnh như vậy
“Vâng, tôi sẽ thử, bà Baird,” tôi nói dối. “Tôi đang định xuống làng để gặp Frank. Chúng tôi sẽ trở về để dùng bữa trà.” Tôi lỉnh ra ngoài cửa và đi xuôi theo con đường nhỏ trước khi bà có thể phát hiện thêm bất cứ khuyết điểm nào khác ở ngoại hình “vô kỷ luật” của tôi. Sau bốn năm làm y tá cho Quân đội Hoàng gia, tôi đang tận hưởng khoảng thời gian được giải thoát khỏi những bộ đồng phục và chế độ phân phối bằng cách tự cho phép mình thoải mái mặc những chiếc váy cotton in hoa rực rỡ, dù chúng hoàn toàn không phù hợp để đi bộ qua những bãi thạch nam.
Ban đầu tôi cũng không có ý định đi lại nhiều, chỉ mơ tưởng đến những buổi sáng được ngủ nướng và các buổi chiều dài nằm lười trên giường với Frank. Tuy nhiên, ai mà giữ được tâm trạng lãng mạn khi bà Baird cứ cần mẫn hút bụi ngay bên ngoài cửa phòng cơ chứ!
“Đó hẳn là tấm thảm bẩn thỉu nhất vùng cao nguyên Scotland,” Frank đã nhận xét vào một buổi sáng khi chúng tôi nằm trên giường, nghe tiếng máy hút bụi ro ro ầm ĩ ngoài hành lang.
“Gần bẩn thỉu bằng đầu óc bà chủ nhà nghỉ của chúng ta,” tôi đồng tình. “Đáng lẽ chúng ta nên tới Brighton.” Chúng tôi đã chọn (nghỉ ngơi ở vùng cao nguyên này trước khi Frank nhậm chức giáo sư lịch sử tại Đại học Oxford, với lý do là Scotland phần nào ít bị bàn tay kinh hoàng của chiến tranh chạm đến hơn so với những vùng còn lại của Anh, và không mấy bị ảnh hưởng bởi những trò vui điên cuồng thời hậu chiến đã tiêm nhiễm các địa điểm du lịch nổi tiếng.
Và dù không ai bảo ai nhưng tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều cảm thấy đây là nơi rất có ý nghĩa để vun đắp cho cuộc hôn nhân của chúng tôi; chúng tôi đã kết hôn và có một chuyến trăng mật hai ngày ở vùng cao nguyên này ngay trước khi chiến tranh nổ ra bảy năm trước. Chúng tôi nghĩ đây là một nơi ẩn náu yên bình để khám phá lại nhau mà không nhận ra rằng, trong khi golf và câu cá là những môn thể thao ngoài trời phổ biến nhất ở Scotland thì ngồi lê đôi mách chính là trò tiêu khiển trong nhà phổ biến nhất. Và ở cái xứ sở lắm mưa nhiều gió như thế này, người ta dành rất nhiều thời gian ở trong nhà.
“Anh định đi đâu vậy?” Tôi hỏi, khi Frank hất chân xuống giường. “Anh không muốn bà lão đáng mến đó thất vọng,” anh trả lời. Sau đó, ngồi trên mép chiếc giường cũ kĩ, anh nhẹ nhàng nhún lên
nhún xuống, phát ra tiếng cọt cà cọt kẹt đều đặn chói tai. Tiếng máy hút bụi ngoài hành lang đột ngột dừng lại. Sau một hai phút nhún lên nhún xuống, anh rên to một tiếng khoa trương và ngã ngửa ra sau khiến những chiếc lò xo kêu tưng tưng phản đối. Tôi úp mặt vào gối cười khúc khích để không làm ảnh hưởng tới sự im lặng đến nghẹt thở ở bên ngoài.
Frank nhướng lông mày với tôi. “Em phải rên rỉ kích động chứ không phải cười khúc khích như vậy,” anh thì thầm nhắc nhở. “Bà ấy sẽ nghĩ anh không phải là một người tình giỏi mất.”
“Anh sẽ phải làm thế lâu hơn, nếu anh trông chờ những tiếng rên rỉ cuồng dại,” tôi đáp. “Hai phút thì chỉ xứng đáng nhận được một tiếng cười khúc khích thôi.”
“Cô nàng vô tâm này. Anh đến đây để nghỉ ngơi, em nhớ chứ?” “Đồ lười nhác. Anh sẽ không bao giờ tạo được nhánh tiếp theo cho cái cây gia phả trừ phi anh tỏ ra siêng năng hơn chút.”
Niềm đam mê của Frank đối với gia phả cũng là một lý do khiến chúng tôi chọn vùng cao nguyên này. Dựa vào một trong những mảnh giấy cũ kĩ dơ dáy mà anh mang đi hết chỗ này đến chỗ nọ, một vị tổ tiên phiền phức của anh có liên quan đến một chuyện gì đó ở vùng này vào giữa thế kỷ mười tám - hay mười bảy thì phải?
“Nếu anh trở thành một cái gốc cụt ngủn trên cây gia phả thì chắc chắn lỗi là ở bà chủ nhà nghỉ không biết mệt mỏi của chúng ta ngoài kia. Suy cho cùng, chúng ta cưới nhau đã gần tám năm rồi. Nhóc Frank Con sẽ là đứa con hợp pháp mà không cần phải hoài thai trước mặt một nhân chứng.”
“Nếu nó được hoài thai,” tôi bi quan nói. Chúng tôi đã lại thất vọng về chuyện này vào tuần lễ trước khi đi nghỉ.
“Với bầu không khí trong lành khiến người ta khỏe khoắn và chế độ ăn lành mạnh này ư? Làm sao chúng ta có thể không làm được chứ?” Bữa tối hôm qua là cá trích rán. Bữa trưa là cá trích giấm. Và mùi hăng nồng đang lùa lên cầu thang báo cho chúng tôi biết rõ rằng bữa sáng hôm nay sẽ là cá trích muối hun khói.
“Trừ phi anh muốn biểu diễn lại để khai sáng cho bà Baird,” tôi đề nghị, “anh nên mặc quần áo vào đi! Chẳng phải anh có cuộc hẹn với mục sư vào lúc mười giờ sao?” Tiến sĩ thần học Reginald Wakefield, mục sư của giáo xứ địa phương, định cho Frank xem một vài cuốn sổ rửa tội cực kỳ thú vị, chưa kể cái viễn cảnh rực rỡ là ông có thể đã khai quật được vài bản báo cáo mục nát liên quan đến quân đội hoặc thứ gì đó có nhắc đến vị tổ tiên khét tiếng này.
“Mà ông cụ cố cố cố cố đó của anh tên là gì nhỉ?” Tôi hỏi. “Người đã quanh quẩn ở đây vào thời điểm xảy ra một trong các cuộc nổi dậy ấy? Em không tài nào nhớ nổi tên cụ là Willy hay Walter.”
“Thực ra, cụ tên là Jonathan.” Frank tỏ ra bình thản trước sự thờ ơ của tôi với lịch sử gia đình anh, nhưng vẫn luôn canh chừng, sẵn sàng nắm bắt biểu lộ nhỏ nhất của lòng hiếu kỳ trong tôi để lấy cớ kể cho tôi nghe mọi sự kiện được biết đến từ trước tới nay về các vị tổ tiên của dòng họ Randall và những mối quan hệ của họ. Khi anh cài cúc áo, đôi mắt anh ánh lên vẻ nhiệt thành của một giảng viên đầy tâm huyết.
“Jonathan Wolverton Randall - Wolverton là tên người chú của mẹ cụ, một hiệp sĩ nhỏ ở Sussex. Tuy nhiên, cụ được biết đến với cái biệt danh khá bảnh là Jack Hắc Ám mà cụ có được trong quân đội, có lẽ trong thời gian cụ đóng quân ở đây.” Tôi nằm úp mặt xuống giường và giả bộ ngáy. Lờ tôi đi, Frank tiếp tục bài giảng uyên thâm của mình.
“Cụ mua được bằng phong cấp sĩ quan vào giữa thập kỷ 30 - tức thập niên 1730 - và trở thành một đại úy kỵ binh. Căn cứ vào những lá thư cũ mà chị họ May gửi cho anh, con đường binh nghiệp của cụ khá hanh thông. Đó là sự lựa chọn tốt cho người con trai thứ hai trong gia đình; em trai cụ cũng theo truyền thông, trở thành một cha phó, nhưng anh chưa tìm hiểu được nhiều về cụ ấy. Dù sao đi nữa, Jack Randall được Công tước Sandringham đánh giá rất cao vì những hoạt động của cụ trước và trong năm 45 - năm xảy ra cuộc nổi dậy Jacobite[2] lần thứ hai,” anh nhấn mạnh để giải thích cho khán giả ngu dốt của anh, tức là tôi. “Em biết Hoàng tử Charlie Xinh đẹp[3] và đồng bọn của ông ta chứ?”
“Em hoàn toàn không chắc là người Scot nhận thức được họ đã thua trong cuộc nổi dậy đó,” tôi ngắt lời, ngồi dậy và cố gắng “khuất phục” mái tóc. “Em đã nghe rõ mồn một tay phục vụ quầy ở quán rượu tối qua gọi chúng ta là Sassenach.”
“Ồ, thì có làm sao chứ?” Frank điềm tĩnh nói. “Suy cho cùng, nó chỉ có nghĩa là “người Anh” thôi mà, hoặc tệ lắm thì, “kẻ ngoại tộc”, và chúng ta đúng là thế còn gì.”
“Em hiểu nó có nghĩa là gì. Em chỉ cảm thấy khó chịu vì giọng điệu của hắn.”
Frank lục tìm thắt lưng trong ngăn kéo tủ com-mốt. “Hắn bực mình vì anh đã nói với hắn là bia ở quán hắn nhẹ quá. Anh nói bia cao nguyên đích thực khi ủ phải bỏ thêm một cái giày cũ vào và sản phẩm cuối cùng phải được lọc qua một chiếc quần lót sờn rách.”
“À, đó là lý do khiến số tiền trên hóa đơn lại cao như vậy.” “Chà, anh đã nói một cách tế nhị hơn thế, nhưng trong tiếng Gaelic[4] không có từ riêng để gọi “quần lót”.”
Tôi thò tay lấy một cái quần lót của mình, tò mò. “Tại sao lại không có? Người Gael cổ không mặc quần lót à?”
Frank liếc nhìn tôi với ánh mắt ranh mãnh. “Em chưa bao giờ nghe bài hát cổ nói về việc đàn ông Scot mặc gì dưới váy của họ sao?” “Chắc không phải là loại váy lót dài đến gối dành cho đàn ông,” tôi đùa bỡn. “Có lẽ em sẽ đi ra ngoài để kiếm một người đàn ông bản xứ mặc váy và hỏi anh ta trong lúc anh nhảy cẫng lên vì vui sướng với các mục sư.” “Chà, cố gắng đừng để bị bắt nhé, Claire. Hiệu trưởng trường St. Giles sẽ không thích điều đó chút nào đâu.”
•••
Tuy nhiên, chẳng có người nào mặc váy truyền thống lảng vảng quanh quảng trường thị trấn hay lui tới những cửa hàng xung quanh. Nhưng ở đó có một cơ số người khác đang đi mua sắm, chủ yếu là các bà nội trợ kiểu như bà Baird. Họ là những kẻ nhiều chuyện, thích ngồi lê đôi mách, và sự hiện diện của những thân hình chắc nịch, mặc váy áo hoa hòe hoa sói của họ khiến các cửa hàng trở nên ấm cúng; một điểm tựa để chống lại màn sương giá lạnh lẽo của không khí ngoài trời buổi sáng.
Vì không có nhà riêng nên tôi chẳng cần phải mua gì mấy, nhưng tôi thích xem lướt qua những giá đồ mới được bổ sung, thuần túy vì niềm vui nhìn thấy vô số thứ được bày bán trở lại. Cái chế độ phân phối đã kéo dài quá lâu, thời ấy, những thứ căn bản như xà phòng và trứng còn thiếu thốn, nói gì đến những món xa xỉ phẩm như nước hoa cologne L’Heure Bleu.
Ánh mắt tôi nán lại trên một ô kính bày những món đồ dùng trong gia đình - khăn thêu dùng để trải bàn trà, ấm ủ nóng trà, bình nước, ly cốc, một chồng khay nướng bánh bằng thiếc có kiểu dáng khá giản dị và một bộ gồm ba chiếc bình hoa.
Trong đời tôi chưa bao giờ có một chiếc bình hoa. Hồi chiến tranh, đương nhiên tôi sống trong những khu dành cho y tá, đầu tiên là ở bệnh viện Pembroke, sau đó là bệnh viện dã chiến ở Pháp. Nhưng kể cả trước ẳ
đó, chúng tôi chẳng sống ở nơi nào đủ lâu để có cớ mua một vật như thế. Nếu tôi có một cái bình hoa, tôi nghĩ bác Lamb sẽ nhét vào trong đó những mảnh gốm trước cả khi tôi có thể mang một bó hoa cúc lại gần nó.
Tên bác là Quentin Lambert Beauchamp. Đối với sinh viên khảo cổ và bạn bè của bác, bác chỉ đơn giản là “Q”. Đối với giới học giả mà bác là một phần trong đó, bác được gọi là “Tiến sĩ Beauchamp”. Còn với tôi, bác luôn luôn là bác Lamb.
Bác là anh trai duy nhất của cha tôi và là người thân duy nhất còn sống của tôi lúc bấy giờ, vậy nên tôi đã được giao cho bác nuôi nấng khi cha mẹ tôi mất trong một vụ tai nạn xe hơi hồi tôi lên năm tuổi. Lúc đó, bác đang sửa soạn đến Trung Đông nhưng đã hoãn lại để lo liệu tang ma, xử lý tài sản của cha mẹ tôi và đăng ký cho tôi vào học ở một trường nội trú dành cho nữ sinh. Nhưng tôi đã dứt khoát từ chối.
Vốn ghét các cuộc xung đột cá nhân dù thuộc bất kỳ dạng nào nên khi đối mặt với viễn cảnh phải cạy những ngón tay mũm mĩm của tôi ra khỏi tay cầm ở cửa xe và lôi tôi lên những bậc thang của trường học, bác đã thở dài bực bội, rồi cuối cùng nhún vai và ném lý trí của mình ra ngoài cửa sổ cùng với cái mũ rơm hình tròn mới mua của tôi.
“Thứ chết tiệt,” bác lẩm bẩm, nhìn nó vui vẻ lăn tròn qua gương chiếu hậu khi chúng tôi phóng xe đi. “Dù sao đi nữa, ta luôn ghét phụ nữ đội mũ.” Bác liếc nhìn tôi, ánh mắt dữ tợn.
“Có một điều này,” bác nói bằng giọng đáng sợ. “Cháu không được lấy những bức tượng tùy táng xứ Ba Tư của ta để chơi búp bê. Cháu có thể đụng vào bất cứ thứ gì khác, trừ chúng. Rõ chưa?”
Tôi gật đầu bằng lòng. Từ đó tôi đã đi với bác đến Trung Đông, Nam Mỹ và hàng tá địa điểm nghiên cứu trên khắp thế giới, học đọc và viết từ những bản nháp của các bài báo, đào nhà xí, đun nước và làm vô số việc khác không phù hợp với một quý cô danh giá - cho đến khi tôi gặp sử gia điển trai có mái tóc sẫm màu tới hỏi bác Lamb về một vấn đề của triết học Pháp vì nó liên quan đến tôn giáo Ai Cập.
Ngay cả khi đã kết hôn, Frank và tôi vẫn sống cuộc sống nay đây mai đó của một giảng viên trẻ, tham dự hết hội thảo này đến hội thảo khác tại lục địa[5] và ở trong những căn hộ tạm thời, cho đến khi chiến tranh nổ ra đẩy anh vào quân ngũ và đến đơn vị tình báo ở MI6[6], còn tôi thì được đào
tạo làm y tá. Dù chúng tôi đã kết hôn gần tám năm nhưng căn nhà mới ở Oxford mà chúng tôi sắp dọn đến mới là tổ ấm thực sự đầu tiên của chúng tôi.
Kẹp chặt chiếc túi xách dưới cánh tay, tôi bước vào cửa hàng và mua bộ bình hoa đó.
•••
Tôi gặp Frank ở điểm giao nhau giữa phố High và đường Gereside, rồi chúng tôi cùng nhau đi về. Anh nhướng mày trước những món đồ tôi mua. “Bình hoa à?” Anh mỉm cười. “Tuyệt đấy! Có lẽ từ giờ em sẽ ngừng kẹp hoa vào trong những cuốn sách của anh.”
“Chúng không phải hoa, chúng là các mẫu vật. Chính anh khuyên em nghiên cứu về thực vật cho đỡ buồn vì bây giờ em không còn làm y tá nữa rồi còn gì,” tôi nhắc anh.
“Đúng vậy.” Anh gật đầu, cười. “Nhưng lúc ấy anh chưa nhận ra là mình sẽ bị những mẩu hoa cỏ rơi vào lòng mỗi lần mở một cuốn sách tham khảo. Cái thứ màu nâu khô giòn gớm ghiếc mà em nhét vào sách của Tuscum và Banks là gì vậy?”
“Cỏ giám mục[7]. Chữa bệnh trĩ rất hiệu quả.”
“Em đang chuẩn bị trước cho tuổi già sắp tới của anh đấy à? Chà, em thật chu đáo, Claire ạ!”
Chúng tôi vừa cười vừa đẩy cổng vào sân và Frank đứng lại để nhường tôi bước lên những bậc thềm hẹp trước cửa nhà.
Thình lình anh nắm lấy cánh tay tôi. “Cẩn thận! Em không muốn giẫm lên nó đâu.”
Tôi rón rén nhón chân bước qua một vết màu nâu đỏ lớn ở bậc thềm trên cùng.
“Lạ quá,” tôi nói. “Sáng nào em cũng thấy bà Baird kỳ cọ các bậc thềm mà. Anh nghĩ đó có thể là gì?”
Frank cúi xuống bậc thềm, hít ngửi kĩ càng.
“Anh có thể nói ngay rằng đó là máu.”
ẳ
“Máu ư?” Tôi lùi lại một bước. “Của ai?” Tôi căng thẳng liếc nhìn vào trong nhà. “Anh có nghĩ bà Baird bị tai nạn gì đó không?” Tôi không thể tưởng tượng nổi bà chủ nhà nghỉ ưa sạch sẽ của chúng tôi lại để mặc những vết máu khô in dấu trên bậc thềm nhà trừ phi đã có một tai họa nào đó xảy ra, và trong một thoáng tôi tự hỏi liệu có tên sát nhân điên rồ nào đang cầm rìu ẩn náu trong phòng khách, thậm chí đang sắp sửa nhảy bổ vào chúng tôi với một tiếng hét inh tai buốt lạnh sống lưng không?
Frank lắc đầu. Anh kiễng chân nhòm qua hàng rào để nhìn sang khu vườn bên cạnh.
“Anh không nghĩ vậy. Trên thềm nhà Collins cũng có một vết tương tự như thế.”
“Thật sao?” Tôi tiến lại gần Frank hơn, vừa để ngó qua hàng rào vừa để có chỗ dựa tinh thần. Ở vùng cao nguyên khó có thể xuất hiện một gã giết người hàng loạt, nhưng nghĩ lại thì mấy kẻ điên rồ đó có bao giờ dựa theo tiêu chí logic nào để lựa chọn địa điểm gây án đâu chứ. “Ghê quá,” tôi nhận xét. Chẳng có dấu hiệu gì của sự sống ở nhà bên cạnh. “Theo anh thì đã xảy ra chuyện gì?”
Frank nhíu mày ngẫm nghĩ rồi vỗ tay đánh bốp vào ống quần khi chợt nghĩ ra điều gì đó.
“Anh nghĩ là anh biết rồi! Đợi ở đây một lát nhé!” Anh lao như tên bắn ra khỏi cổng và bước hối hả trên đường, để mặc tôi đứng chết trân như bị mắc cạn trên rìa bậc thềm.
Chẳng mấy chốc anh quay lại, tươi cười rạng rỡ vì đã chứng thực được suy đoán của mình.
“Đúng như vậy, hẳn thế! Mọi ngôi nhà trong dãy này đều có thứ đó.” “Có cái gì cơ? Dấu hiệu có một kẻ tâm thần giết người vừa ghé qua à?” Tôi nói hơi xẵng vì vẫn còn căng thẳng về chuyện đột ngột bị bỏ lại làm bạn với một vết máu lớn.
Frank bật cười. “Không, đó là một nghi lễ hiến tế. Thú vị thật!” Anh quỳ xuống, chống hai tay trên cỏ, chăm chú săm soi vết máu. Chuyện này nghe cũng chẳng khá hơn một tên sát nhân tâm thần. Tôi ngồi xổm xuống bên cạnh anh, chun mũi trước thứ mùi tanh tưởi bốc lên.
Vẫn chưa đến giờ hoạt động của lũ ruồi, nhưng đã có một vài con ruồi nhuế mập mạp của vùng cao nguyên lờ đờ bay vòng quanh vết máu. “‘Nghi lễ hiến tế là thế nào?” Tôi hỏi. “Bà Baird là người chăm đi lễ nhà thờ, và tất cả những người xung quanh đây cũng thế. Đây không phải là ngọn đồi của các tín đồ Druid[8] hay thứ gì đó tương tự, anh biết đấy.” Anh đứng dậy, phủi phủi những mẩu cỏ vương trên quần. “Em chỉ biết một mà không biết hai, cưng ạ,” anh nói. “Chẳng có nơi nào trên trái đất mà sự mê tín và ma thuật lại hòa quyện với cuộc sống đời thường hơn là vùng cao nguyên Scotland này đâu. Dù có chăm đi lễ nhà thờ thì bà Baird vẫn tin vào cha ông mình, và tất cả những người xung quanh đây cũng vậy.” Anh chĩa ngón chân cái được cắt tỉa gọn gàng vào vết máu. “Đây là máu của một con gà trống đen,” anh giải thích, vẻ mặt hài lòng. “Em thấy đấy, những ngôi nhà ở đây đều còn mới. Chúng là nhà tiền chế.” Tôi lạnh lùng nhìn anh. “Nếu anh tưởng rằng chỉ cần nói như thế là đã giải thích được mọi chuyện thì mong anh hãy nghĩ lại. Những ngôi nhà này mới hay cũ thì có gì khác biệt chứ? Và mọi người đang ở nơi quái quỷ nào vậy?”
“Chắc là ở quán rượu. Chúng ta thử tới đó xem sao nhé?” Anh nắm lấy cánh tay tôi, đẩy tôi ra khỏi cổng và chúng tôi đi xuôi theo đường Gereside. “Vào thời xưa,” anh vừa đi vừa giải thích, “và ngay cả thời điểm cách đây không lâu lắm, khi xây một căn nhà, người ta có tục lệ giết một con vật và chôn dưới móng nhà, để xoa dịu những linh hồn đất. Em biết đấy: “Kẻ nào đào móng dựng nền thì con đầu lòng của nó phải chết; kẻ nào dựng cống xây tường thì con út của nó phải mạng vong[9].” Xa xưa như những ngọn đồi này vậy.”
Tôi rùng mình trước lời trích dẫn ấy. “Vậy thì em cho rằng họ khá hiện đại và sáng trí khi sử dụng máu gà để thay thế. Ý anh là, vì các ngôi nhà được xây dựng trong thời gian gần đây nên chẳng có gì được chôn bên dưới chúng và các cư dân ở đây đang sửa chữa thiếu sót đó?”
“Chính xác.” Frank vỗ vỗ vào lưng tôi, có vẻ hài lòng với sự tiến bộ này. “Theo lời mục sư thì nhiều người dân địa phương nghĩ rằng chiến tranh nổ ra một phần là do người ta quay lưng với cội nguồn và lơ là sự phòng ngừa, chẳng hạn như chôn một vật hiến tế dưới móng nhà hay đốt xương cá trên nền lò sưởi - dĩ nhiên là trừ cá tuyết chấm đen,” anh nói
thêm, vui vẻ chuyển chủ đề. “Em không bao giờ được đốt xương cá tuyết chấm đen, em biết chứ? Nếu không, em sẽ không bao giờ bắt được một con cá tuyết chấm đen nào khác nữa. Thay vào đó, em phải chôn xương của nó.”
“Em sẽ ghi nhớ điều này,” tôi nói. “Giờ thì hãy cho em biết phải làm gì để không bao giờ còn nhìn thấy một con cá trích nào khác nữa, em sẽ làm theo ngay tức khắc.”
Anh lắc đầu, chìm vào một ô trí nhớ. Đây là khoảng thời gian xuất thần ngắn ngủi khi anh hoàn toàn cắt đứt với thế giới xung quanh, mải miết khơi lên kiến thức từ tất cả các nguồn của nó.
“Về cá trích thì anh không biết,” anh lơ đãng nói. “Nhưng đối với lũ chuột thì em treo những bó cỏ rung xung quanh - “Treo cỏ rung trong nhà/ Lũ chuột sẽ tránh xa”. Còn về những cái xác dưới móng nhà - đó là nguyên nhân xuất hiện nhiều hồn ma ở trong vùng. Em có biết Mountgerald, ngôi nhà lớn ở cuối phố High không? Ở đó có một hồn ma, một người thợ xây bị giết làm vật hiến tế chôn dưới móng. Chuyện xảy ra vào một thời điểm nào đó ở thế kỷ mười tám; cũng mới đây thôi,” anh trầm ngâm nói thêm.
“Chuyện kể rằng, theo lệnh của chủ nhà, người ta xây một bức tường lên trước, rồi từ trên đỉnh tường thả một tảng đá xuống một người thợ xây ở bên dưới - có lẽ là một kẻ đáng ghét được nhắm sẵn làm vật hiến tế - sau đó chôn hắn dưới hầm và xây tiếp phần còn lại của ngôi nhà trên thi thể hắn. Hắn đã ám cái hầm nơi hắn bị giết, ngoại trừ vào ngày giỗ của hắn và bốn ngày lễ cổ.”
“Ngày lễ cổ?”
“Những ngày lễ từ xa xưa,” anh giải thích, vẫn còn chìm đắm vào những ghi chép trong đầu. “Đêm Giao thừa Hogmanay, ngày Hạ chí, lễ Beltane[10] và ngày lễ các thánh. Theo những gì chúng ta biết thì người Druid, người Beaker[11] và người Pict cổ[12] đều tổ chức những lễ hội mặt trời và lễ hội lửa. Các hồn ma được tự do trong những ngày thiêng liêng đó và có thể đi lang thang để làm điều tốt hay xấu tùy ý.” Anh xoa xoa cằm vẻ trầm tư. “Sắp đến lễ Beltane rồi, gần ngày Xuân phân. Lần sau, khi đi qua nghĩa địa của nhà thờ, em nhớ cẩn thận trông chừng nhé!” Anh nháy mắt, và tôi nhận ra trạng thái xuất thần đã chấm dứt.
Tôi cười. “Ở vùng này có nhiều hồn ma nổi tiếng lắm à?”
Anh nhún vai. “Không biết nữa. Khi nào gặp mục sư chúng ta sẽ hỏi ông ấy, được không?”
Thật ra, chỉ một lát sau chúng tôi đã gặp mục sư. Ông cũng có mặt ở quán rượu cùng với hầu hết dân làng, đang uống mừng lễ hiến tế cho những ngôi nhà.
Ông có vẻ khá bối rối khi bị bắt gặp đang dung túng cho những hành động ngoại giáo, nhưng rồi lập tức giải thích rằng đó chỉ là sự tuân thủ màu sắc lịch sử của địa phương, giống như việc đeo cỏ ba lá lên người[13] vậy.
“Thực sự thú vị, anh chị biết đấy,” ông giãi bày và tôi thầm thở dài khi nhận ra “tiếng gọi bầy” của giới học giả, một âm thanh dễ nhận biết như tiếng kêu tu-huýt của con chim hét. Nghe thấy tiếng gọi của người bạn tri âm, Frank lập tức ngồi xuống, tham gia vào “điệu vũ sóng đôi của học thuật”, và họ mau chóng chìm đắm vào việc so sánh nguyên mẫu và sự tương đồng giữa những điều mê tín cổ xưa với những tôn giáo hiện đại. Tôi nhún vai, luồn lách qua đám đông tới quầy bar rồi mang về hai ly brandy pha soda lớn.
Kinh nghiệm cho tôi biết khó mà làm Frank phân tâm trong những cuộc thảo luận kiểu này, do đó tôi chỉ đơn giản cầm tay anh lên, chụm những ngón tay anh quanh chân ly rượu rồi để mặc anh.
Tôi tìm thấy bà Baird trên một cái ghế băng gần cửa sổ, bà đang vui vẻ uống bia đắng với một ông lão mà bà giới thiệu với tôi là ông Crook. “Đây là người mà tôi đã kể với chị đây, chị Randall,” bà nói, đôi mắt ngời sáng vì sự kích thích của chất cồn và bầu không khí náo nhiệt. “Ông ấy hiểu biết về mọi loài thực vật.”
“Chị Randall đây rất quan tâm đến cây cỏ,” bà tiết lộ với người bạn, ông ta nghiêng đầu nửa như lịch sự, nửa như nghễnh ngãng. “Chị ấy thường ép chúng trong những cuốn sách.”
“Chị làm thế thật sao?” Ông Crook hỏi, một bên lông mày chối xể bạc trắng nhướng lên hứng thú. “Tôi có vài cái khuôn ép hoa cỏ thực thụ. Thằng cháu tôi đã mang cho tôi khi nó về đây nghỉ hè. Tôi không nỡ nói với nó rằng tôi không bao giờ dùng mấy thứ ấy. Thường thì cây cỏ được treo lên hoặc phơi khô trên một cái phên rồi bỏ vào túi vải sa hoặc một cái lọ, tôi không thể nghĩ ra lý do tại sao chị lại ép dẹt chúng.”
“Chà, có thể là để ngắm nhìn thôi,” bà Baird tử tế xen vào. “Chị Randall đã làm được vài mẫu ép rất xinh xắn từ những bông cẩm quỳ và violet mà ông có thể đóng khung và treo lên tường.”
“Ừmmmmm.” Khuôn mặt nhăn nheo của ông Crook tuy vẫn còn chút ngờ vực nhưng có vẻ chấp nhận lời gợi ý này. “Chà, chị có thể lấy mấy cái khuôn ép hoa cỏ đó nếu chúng có tí hữu ích nào với chị. Tôi không muốn vứt chúng đi, nhưng quả thực tôi chẳng cần đến chúng làm gì cả.”
Tôi khẳng định với ông Crook rằng tôi rất vui lòng được sử dụng những cái khuôn ép hoa cỏ đó, và còn vui lòng hơn nếu ông chỉ cho tôi chỗ có thể tìm thấy vài loài thực vật hiếm có ở vùng này. Ông nhìn tôi trong một thoáng với ánh mắt sắc bén, đầu nghiêng sang một bên giống như một con chim cắt già, nhưng cuối cùng ông cũng có vẻ tin rằng tôi thật sự hứng thú và chúng tôi hẹn nhau sáng hôm sau sẽ đi tham quan các loài cây bụi trong vùng. Tôi biết ngày mai Frank định tới tòa thị chính của Inverness để tra cứu vài tư liệu, và tôi lấy làm mừng vì có một cái cớ để không phải đi cùng anh. Theo như những gì tôi biết thì tư liệu nào cũng giống tư liệu nào mà thôi.
Một lát sau, Frank tách khỏi mục sư và chúng tôi cùng bà Baird đi về nhà. Tôi ngần ngại không dám nhắc đến vết máu gà trên bậc thềm, nhưng Frank thì không dè dặt như thế, anh háo hức hỏi bà về phong tục đó.
“Chắc là nó khá lâu đời rồi nhỉ?” Anh hỏi, cầm một cái que quét dọc theo những vạt cỏ dại ven đường. Đám rau muối và ỷ lăng đã trổ bông, những nụ đậu chổi cũng đang căng phồng; chỉ một tuần nữa thôi là chúng sẽ bung nở.
“Ồ, đúng vậy.” Bà Baird núng nính bước nhanh, chẳng hề thua kém những đôi chân trẻ trung hơn của chúng tôi. “Lâu đến nỗi chẳng ai biết là có từ lúc nào nữa, anh Randall ạ. Thậm chí còn trước cả thời của những người khổng lồ.”
“Người khổng lồ?” Tôi hỏi.
“Đúng vậy. Fionn và tộc người Feinn[14].”
“Đó là những câu chuyện dân gian của người Gael[15],” Frank say sưa nói. “Họ là những vị anh hùng. Có lẽ có nguồn gốc từ Bắc Âu. Từ đây đến vùng duyên hải phía tây chịu rất nhiều ảnh hưởng của người Bắc Âu. Em
biết không, vài địa danh được đặt tên bằng tiếng Bắc Âu chứ hoàn toàn không phải là tiếng Gaelic.”
Tôi đảo mắt khi cảm nhận được rằng anh lại sắp sửa bộc phát, nhưng bà Baird mỉm cười đôn hậu và khuyến khích anh, nói rằng đúng vậy, bà đã tới miền Bắc và thấy hai tảng đá Anh Em, và nó thuộc về người Bắc Âu, không phải sao?
“Người Bắc Âu đã xuống vùng duyên hải đó hàng trăm lần trong khoảng thời gian từ năm 500 đến năm 1300,” Frank nói, ánh mắt mơ màng nhìn về phía chân trời, như thể đang nhìn những con thuyền rồng trong đám mây băng qua. “Đó là người Viking[16], em biết đấy. Và họ mang theo rất nhiều chuyện thần thoại của dân tộc mình. Đây là một xứ sở phù hợp với những câu chuyện thần thoại. Mọi thứ dường như đều nảy mầm bén rễ ở đây.”
Tôi có thể tin được điều này. Ánh chiều chạng vạng đã bắt đầu buông phủ và một cơn bão cũng sắp nổi lên. Trong ánh sáng huyền ảo bên dưới những đám mây, ngay cả những ngôi nhà hoàn toàn hiện đại dọc đường cũng có vẻ cổ xưa và đáng sợ như phiến đá Pictish[17] đã bị mưa gió bào mòn nằm cách đây khoảng ba mét, canh gác cho ngã tư mà nó đã đánh dấu cả ngàn năm. Có vẻ đêm nay nên ở trong nhà với những cánh cửa chớp được cài chặt.
Tuy nhiên, thay vì ngồi trong căn phòng khách ấm cúng của bà Baird để giải trí bằng những hình ảnh của cảng Perth trên máy chiếu, Frank lại giữ lời hẹn uống rượu sherry với ông Bainbridge, một luật sư hứng thú với những tư liệu lịch sử địa phương, vẫn còn nhớ cuộc gặp gỡ gần đây nhất với ông Bainbridge, tôi lựa chọn ở nhà với cảng Perth.
“Cố về trước khi bão nổi nhé,” tôi nói, hôn tạm biệt Frank. “Và gửi lời hỏi thăm ông Bainbridge giúp em.”
“Ừm. Dĩ nhiên rồi.” Lẩn tránh ánh mắt tôi, Frank mặc áo khoác, lấy cái ô treo trên giá cạnh cửa và rời đi.
Sau khi Frank đã đi khỏi, tôi đóng cửa nhưng không cài chốt để lát lúc về anh có thể tự mở cửa vào. Tôi thơ thẩn quay lại phòng khách, chắc mẩm Frank sẽ vờ như mình không có vợ - và hẳn là ông Bainbridge sẽ vui vẻ hùa theo. Nhưng tôi không thể trách anh vì điều đó.
Ban đầu, chuyến viếng thăm ông Bainbridge của chúng tôi vào buổi chiều hôm qua diễn ra khá suôn sẻ. Tôi đã nghiêm trang, quý phái, thông minh, khiêm tốn, chỉnh tề và kín đáo - tất cả những gì mà người vợ hoàn hảo của một giáo sư đại học nên có. Cho đến khi ông Bainbridge mời chúng tôi uống trà.
Tôi lật bàn tay phải lại, rầu rĩ săm soi vết phồng rộp to tướng là chạy dọc bên dưới bốn ngón tay. Suy cho cùng, tôi nào có lỗi gì khi ông Bainbridge - một người góa vợ - dùng một cái ấm trà bằng thiếc rẻ tiền thay vì một cái ấm sành sứ đúng điệu cơ chứ. Đã thế để tỏ ra lịch sự, ông ta còn nhờ tôi rót trà. Mà miếng giẻ lót ông ta đưa cho tôi lại có một chỗ bị sờn đến mức mỏng tang khiến cho cái tay cầm nóng bỏng của ấm trà truyền thẳng nhiệt lượng vào tay tôi khi tôi nhấc nó lên.
Không, tôi quyết định rằng tôi chẳng có lỗi gì cả. Trong hoàn cảnh ấy thì đánh rơi ấm trà là một phản ứng hoàn toàn bình thường. Đánh rơi nó vào lòng ông Bainbridge cũng chỉ là một rủi ro ngoài ý muốn; cái ấm phải có chỗ mà rơi xuống chứ! Chính cái từ “Quý sứ chết tiệt!” buột ra khỏi miệng tôi với âm lượng át cả tiếng hét chói tai của ông Bainbridge mới là thứ khiến Frank trừng mắt nhìn tôi qua những chiếc bánh nướng thơm phức.
Khi đã hoàn hồn sau cú sốc, ông Bainbridge tỏ ra khá lịch sự. Ông cuống quýt cả lên vì bàn tay tôi và lờ đi những nỗ lực xin lỗi của Frank về lời ăn tiếng nói không được nhã nhặn của tôi với lời giải thích là tôi đã làm việc ở một bệnh viện dã chiến hơn hai năm. “Tôi e là vợ tôi đã nhặt nhạnh một vài… ờ… từ ngữ “màu mè” từ lính Mỹ,” Frank nói, với một nụ cười căng thẳng.
“Đúng thế,” tôi nghiến răng nói khi quấn một cái khăn sũng nước quanh bàn tay. “Đàn ông có xu hướng rất “màu mè” khi ta gắp mảnh đạn ra khỏi người họ.”
Ông Bainbridge khéo léo lái cuộc trò chuyện sang chủ đề lịch sử vô hại bằng cách nói rằng ông đã luôn hứng thú với biến thể qua các thời kỳ của thứ được coi là những lời cảm thán báng bổ. Như từ “Gorblimey[18]”, chẳng hạn, là một biến thể gần đây của “God blind me[19].”
“Vâng, dĩ nhiên rồi,” Frank nói, đón nhận sự chuyển hướng đó với lòng biết ơn. “Anh không dùng đường đâu, cảm ơn em, Claire. Còn từ
“Gadzooks[20]” thì sao nhỉ? Đương nhiên “gad” thì rõ quá rồi, nhưng “zook” thì…”
“Chà, anh biết đấy,” ông luật sư xen ngang, “đôi lúc tôi nghĩ nó có thể là sự biến đổi của một từ cổ của người Scot là “yeuk”, có nghĩa là: “gây ngứa ngáy”. Nghe cũng có lý, đúng không?”
Frank gật đầu, khiến cho phần tóc mái trông chẳng hợp với một học giả rơi xuống trán. Anh vô thức hất nó lên. “Sự tiến hóa của những lời cảm thán báng bổ thật thú vị,” anh nói.
“Vâng, và nó vẫn còn tiếp diễn,” tôi nói, cẩn thận dùng kẹp gắp một viên đường lên.
“Ồ?” Ông Bainbridge lịch sự nói. “Phải chăng cô đã gặp vài biến thể thú vị trong… ờ… trải nghiệm thời chiến của cô?”
“Ồ vâng,” tôi nói. “Tôi học được từ một người Mỹ một từ mà tôi rất thích. Anh ta tên là Williamson, người New York, tôi tin là vậy. Anh ta nói từ đó mỗi lần tôi thay băng cho anh ta.”
“Nó là gì?”
“Jesus H. Roosevelt Christ,” tôi nói và thả tọt viên đường vào tách cà phê của Frank.
•••
Sau cuộc trò chuyện yên bình và không phải là không thú vị với bà Baird, tôi leo lên gác để sửa soạn một chút trước khi Frank về. Tôi biết anh chỉ có thể uống tối đa hai cốc sherry, vì vậy chắc hẳn anh sẽ về sớm. Gió đang nổi lên, không khí trong phòng ngủ đầy tĩnh điện. Khi tôi chải đầu, những lọn tóc xoăn kêu lách tách và xoắn thành những mớ rối nùi. Tôi quyết định tối nay chẳng việc gì phải hành hạ mái tóc mình bằng hàng trăm nhát lược. Thay vào đó, tôi chuyển sang đánh răng. Những lọn tóc vô tổ chức dính chặt vào má tôi, bướng bỉnh bám chắc khi tôi cố vén chúng lên.
Trong bình chẳng còn tí nước nào; Frank đã dùng hết lúc sửa soạn chỉnh tề để tới gặp ông Bainbridge, và tôi đã chẳng buồn hứng lại từ vòi nước trong nhà tắm. Tôi cầm lọ L’Heure Bleu lên và dốc một lượng lớn vào lòng bàn tay. Xoa mạnh hai bàn tay vào nhau trước khi mùi của nó bay
mất, tôi nhanh chóng vuốt nó lên tóc. Tiếp đó, tôi dốc một ít nữa lên cái lược và chải những lọn tóc xoăn ra sau tai.
Chà. Khá hơn rồi đấy, tôi nghĩ, quay đầu sang bên này bên kia để kiểm tra thành quả qua cái gương lốm đốm. Hơi ẩm đã xua tan điện tích trong tóc tôi, khiên nó bồng lên thành những lọn sóng nặng nề, sáng bóng quanh mặt tôi. Và chất cồn đang bốc hơi để lại một mùi rất dễ chịu. Hẳn là Frank sẽ thích. Anh vốn chuộng L’Heure Bleu mà.
Bỗng một tia chớp lóe lên, kèm theo tiếng sấm nổ, và tất cả những ngọn đèn vụt tắt. Tôi lẩm bẩm chửi thề, mò mẫm trong các ngăn kéo. Tôi đã nhìn thấy nến và diêm ở đâu đó. Trên vùng cao nguyên này rất hay mất điện nên nến là một vật trang bị cần thiết cho tất cả các phòng của nhà nghỉ và khách sạn. Tôi đã thấy chúng ở cả những khách sạn sang trọng nhất, nơi chúng được tẩm mùi hương kim ngân và được đặt trong những giá nến bằng kính mờ với những miếng thủy tinh trang trí đẹp lung linh. Nến ở nhà bà Baird thì thiết thực hơn - chúng là loại nến trơn màu trắng - nhưng rất nhiều, kèm theo ba bao diêm. Tôi cũng không có ý định kén cá chọn canh vào một thời điểm như thế này.
Tôi cắm một ngọn nến vào cái giá bằng gốm màu xanh trên bàn trang điểm nhờ ánh sáng lóe lên của tia chớp tiếp theo, rồi đi quanh phòng, thắp sáng những ngọn nến khác cho đến khi cả căn phòng ngập tràn ánh sáng dìu dịu, lung linh. Lãng mạn quá, tôi nghĩ, và nhanh trí tắt công tắc đèn, để nếu có điện đột ngột trở lại vào một khoảnh khắc không thích hợp thì cũng sẽ không hủy hoại tâm trạng của tôi.
Những ngọn nến cháy chưa quá một phân thì cánh cửa bật mở và Frank ùa vào. Nói là anh “ùa vào” cũng không ngoa, vì luồng gió theo anh lên gác đã làm tắt ba ngọn nến.
Cánh cửa sau lưng anh đóng sầm lại khiến hai ngọn nến nữa bị tắt, và anh nhìn chằm chằm vào bóng tối ảm đạm bất chợt ập đến, lùa bàn tay vào mái tóc rối bời. Tôi đứng dậy để thắp lại nến, khẽ trách anh vì cái lỗi vào phòng đột ngột vừa rồi. Chỉ đến khi đã thắp nến xong và quay lại để hỏi anh có muốn uống một ly rượu không, tôi mới thấy mặt anh trắng bệch, đầy vẻ hoang mang.
“Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi. “Anh vừa nhìn thấy ma à?”
“Chà,” anh chậm rãi nói, “anh hoàn toàn không chắc đó có phải là ma không nữa.” Anh lơ đãng nhấc cái lược của tôi lên để chải tóc. Khi mùi L’Heure Bleu bất ngờ xộc vào mũi, anh chun mũi và đặt nó xuống, thay thế nó bằng cái lược bỏ túi của mình.
Tôi liếc ra ngoài cửa sổ, nơi những cành du đang oằn mình quất qua quất lại như những thanh đập lúa. Một cánh cửa chớp lỏng lẻo đang đập uỳnh uỳnh ở đâu đó phía bên kia ngôi nhà, và tôi chợt nghĩ có lẽ chúng tôi nên đóng cửa sổ lại, mặc dù cảnh huyên náo bên ngoài khá thú vị.
“Dông gió thế này sao gặp ma được chứ,” tôi nói. “Chẳng phải chúng thích những buổi tối yên tĩnh, mù sương trong nghĩa địa sao?” Frank cười, có chút ngại ngùng. “Chà, chắc là vì những câu chuyện của Bainbridge, cộng thêm việc anh uống hơi quá chén. Có vẻ như chẳng có chuyện gì cả.”
Giờ thì tôi đâm ra tò mò. “Chính xác thì anh đã nhìn thấy gì vậy?” Tôi hỏi, ngồi xuống chiếc ghế trước bàn trang điểm, nhướng mày về hướng chai whisky, và Frank lập tức đi tới rót hai ly.
“Ờ, thực ra chỉ là một người đàn ông thôi,” anh bắt đầu kể, rót cho mình một jigger[21] và rót cho tôi hai jigger. “Anh ta đứng ngay trên con đường bên ngoài ngôi nhà này.”
“Cái gì cơ, ngay bên ngoài ngôi nhà này á?” Tôi cười phá lên. “Vậy thì đó hẳn là một hồn ma rồi; em chẳng thể tưởng tượng nổi có người sống nào lại đứng đó vào một đêm mưa gió như thế này.”
Frank nghiêng bình nước định rót vào ly của anh, rồi nhìn tôi với ánh mắt trách móc khi không thấy giọt nào chảy ra.
“Đừng có nhìn em như vậy,” tôi nói. “Anh đã dùng hết nước còn gì. Nhưng em không ngại uống rượu nguyên chất đâu.” Tôi nhấp một ngụm để minh họa.
Trông Frank như muốn chạy ào xuống phòng tắm để lấy nước nhưng anh đành từ bỏ ý định đó và tiếp tục câu chuyện của mình, cẩn trọng nhấp rượu như thể ly của anh chứa acid sulfuric chứ không phải là loại whisky mạch nha đơn cất Glenfiddich ngon nhất vậy.
“Anh ta đứng bên cạnh hàng rào ở mép vườn phía bên này. Anh nghĩ là,” - anh ngập ngừng, nhìn xuống ly rượu trong tay mình. - “Anh nghĩ anh
ta đang nhìn lên cửa sổ phòng em.”
“Cửa sổ phòng em á? Kỳ thế!” Tôi không nén nổi khẽ rùng mình, và đi chốt cánh cửa chớp lại, mặc dù có làm thế thì cũng đã muộn. Frank vừa nói vừa dõi theo tôi:
“Phải đấy, chính anh cũng có thể nhìn thấy em khi đứng ở dưới đó. Lúc ấy, em đang chải đầu và chửi thề vì tóc em cứ dựng đứng lên.” “Thế thì có lẽ hắn ta cười to lắm nhỉ,” tôi ngoa ngoắt nói. Frank lắc đầu, mỉm cười và vuốt tóc tôi.
“Không, anh ta không cười. Trái lại, anh ta có vẻ cực kỳ buồn bã. Thực ra, anh cũng không nhìn rõ mặt anh ta; chỉ là dáng đứng của anh ta toát lên điều đó. Anh tiến lại sau lưng anh ta, và khi anh ta không cử động, anh đã lịch sự hỏi rằng liệu anh có thể giúp gì không. Ban đầu, anh ta làm như không nghe thấy lời anh, và anh nghĩ có lẽ anh ta không nghe thấy thật vì tiếng gió rít, vì vậy anh bèn hỏi lại và vươn tay ra vỗ vai anh ta. Nhưng anh còn chưa chạm được vào người anh ta thì anh ta đột nhiên quay ngoắt lại, lướt qua anh rồi vội vàng rời đi.”
“Nghe qua thì anh ta có vẻ hơi bất lịch sự, nhưng không có gì là giống ma cả,” tôi nhận xét, uống cạn ly rượu. “Trông anh ta thế nào?” “Một gã to con,” Frank nói, cau mày hồi tưởng lại. “Và là người Scot, mặc nguyên bộ y phục truyền thống, từ chiếc túi da to đeo trước váy đến chiếc ghim cài hình hươu chạy trên áo choàng len. Anh định hỏi anh ta kiếm được nó từ đâu nhưng anh ta đã đi mất trước khi anh kịp mở miệng.” Tôi đi tới tủ com-mốt và rót một ly rượu nữa. “Chà, vẻ ngoài của anh ta không phải là quá bất thường ở vùng này, đúng không nào? Thi thoảng em vẫn nhìn thấy những người đàn ông trong làng ăn mặc như thế.” “Khôôông…” Giọng Frank đầy vẻ nghi ngại. “Không, điều kỳ quặc không nằm ở y phục của anh ta. Khi anh ta lướt qua anh, anh tin chắc là anh ta ở gần anh đến mức anh phải cảm nhận được anh ta sượt qua tay áo anh - nhưng anh lại không cảm thấy gì cả. Anh kinh ngạc đến nỗi quay người lại và dõi theo anh ta. Anh ta đi dọc theo đường Gereside, nhưng khi gần tới góc đường thì anh ta… biến mất. Đó là lúc anh bắt đầu cảm thấy lạnh toát sống lưng.”
“Có lẽ anh đã lơ đãng trong một thoáng, và anh ta chỉ bước vào trong bóng tối mà thôi,” tôi gợi ý. “Gần góc đường đó có rất nhiều cây mà.” “Anh có thể thề là anh không rời mắt khỏi anh ta một giấy nào,” Frank lẩm bẩm. Rồi anh thình lình ngẩng lên. “Anh biết rồi! Giờ thì anh nhớ ra tại sao mình lại nghĩ anh ta kỳ quặc rồi, dù lúc đó anh không nhận ra.” “Anh ta kỳ quặc ở điểm gì?” Tôi đang bắt đầu thấy ngán ngẩm với hồn ma này và muốn chuyển sang những vấn đề thú vị hơn, như lên giường chẳng hạn.
“Lúc ấy gió đang thổi dữ dội nhưng y phục của anh ta - váy và áo choàng len, em biết đấy - không lay động chút nào, chỉ khẽ đung đưa theo nhịp bước của anh ta lúc anh ta rời đi.”
Chúng tôi nhìn nhau. “Chà,” cuối cùng tôi nói, “rợn cả người.” Frank nhún vai và chợt mỉm cười, gạt chuyện này đi. “Ít ra trong lần tới gặp mục sư, anh cũng có chuyện để kể với ông ấy. Có thể đó là một hồn ma nổi tiếng trong vùng và mục sư sẽ kể cho anh nghe về lai lịch hãi hùng của nó.” Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Giờ thì đã đến lúc đi ngủ rồi.”
“Đúng vậy,” tôi lẩm bẩm.
Qua gương, tôi nhìn anh vừa cởi áo sơ mi vừa với lấy một cái mắc áo. Rồi anh đột nhiên ngừng lại khi đang cởi cái nút ở giữa.
“Em có nhiều bệnh nhân người Scot không, Claire?” Anh đột ngột hỏi. “Ở bệnh viện dã chiến hoặc ở Pembroke ấy?”
“Đương nhièn rồi,” tôi đáp, hơi khó hiểu. “Có vài người thuộc trung đoàn Seaforth và Cameron ở bệnh viện dã chiến tại Amiens, và sau đó một chút sau trận chiến ở Caen, bọn em có rất nhiều bệnh nhân thuộc trung đoàn Gordon. Hầu hết bọn họ đều đáng mến. Bình thường thì thật rắn rỏi, nhưng lại nhát như cáy trước mũi tiêm.” Tôi mỉm cười, nhớ lại một trường hợp đặc biệt.
“Có một người - một ông lão cộc cằn, là người thổi kèn túi của trung đoàn Seaforth số 3 - ông ta rất sợ tiêm, đặc biệt là ở hông. Ông ta sẽ cau có hàng tiếng đồng hồ trước khi để cho ai đó cầm kim tiêm tới gần mình, thậm chí khi đó ông ta còn cố nài xin bọn em tiêm cho ông ta vào cánh tay, mặc dù như thế có nghĩa là phải tiêm bắp.” Tôi cười phá lên khi nhớ về Hạ
sĩ Chisholm. “Ông ta nói với em rằng: “Nếu tôi phải giơ mông úp mặt thì tôi muốn có một cô ả nằm bên dưới tôi, chứ không phải là ở đằng sau, tay lăm lăm cái ghim cài mũ!”.
Frank mỉm cười, nhưng trông anh có vẻ không mấy thoải mái, như thường thấy mỗi lần anh nghe những câu chuyện chiến tranh kém tế nhị của tôi. “Đừng lo,” tôi trấn an anh khi nhìn thấy vẻ mặt ấy. “Em sẽ không kể câu chuyện đó vào bữa tiệc trà của các giảng viên đâu.”
Anh cười tươi hơn. Khi tôi ngồi xuống bàn trang điểm, anh tới đúng đằng sau tôi, hôn lên đỉnh đầu tôi.
“Đừng lo,” anh nói. “Các giảng viên khác sẽ mến em, bất luận em kể chuyện gì. Ưm. Tóc em thơm quá!”
“Anh thích không?”
Thay vì trả lời, hai tay anh trườn xuống từ trên vai tôi, ôm trọn bầu ngực tôi trong chiếc váy ngủ mỏng manh. Qua tấm gương, tôi có thể nhìn thấy cằm anh đang tựa trên đỉnh đầu tôi.
“Anh thích mọi thứ ở em,” anh khàn khàn nói. “Trông em thật tuyệt dưới ánh nến. Đôi mắt em giống như rượu sherry trong bình pha lê, và làn da em ánh lên như ngà vậy. Em đúng là một phù thủy ánh nến. Có lẽ anh nên gỡ hết đèn đi.”
“Thế thì làm sao mà đọc sách trên giường được,” tôi nói, tim bắt đầu đập thình thịch.
“Anh có thể nghĩ ra khối việc thú vị hơn để làm trên giường thay vì đọc sách,” anh thì thầm.
“Thật ư?” Tôi nói, đứng dậy và xoay người lại để vòng hai cánh tay quanh cổ anh. “Chẳng hạn như việc gì nào?”
•••
Một lúc sau, đang nằm âu yếm ôm nhau đằng sau cánh cửa chớp đã cài then, tôi ngẩng đầu lên khỏi bờ vai anh và nói: “Sao lúc nãy anh lại hỏi em chuyện đó? Chuyện em có bệnh nhân người Scot nào không ấy? Ý em là, hẳn anh phải biết là có chứ, ở những bệnh viện như thế có đủ hạng người mà.”
Anh trở mình, nhẹ nhàng vuốt ve sống lưng tôi.
“Ừm. Không có gì đâu. Chỉ là, khi anh nhìn thấy gã đàn ông ở ngoài kia, anh chợt nghĩ hắn có thể là… - anh ngập ngừng, siết chặt vòng ôm hơn một chút - “Ờ, em biết đây, hắn có thể là bệnh nhân cũ của em, có thể… có thể hắn nghe nói em đang ở đây nên tới thăm… đại loại thế.”
“Nếu vậy thì,” tôi lý luận, “tại sao anh ta không vào nhà để gặp em?” “Chà,” Giọng Frank rất thản nhiên, “có lẽ hắn không muốn chạm trán anh.”
Tôi chống một bên khuỷu tay, nhìn anh chằm chằm. Chúng tôi đã chừa lại một ngọn nến sáng nên tôi có thể nhìn rõ anh. Anh đã ngoảnh đầu đi và giả tảng nhìn về phía bức tranh bằng đá màu của Hoàng tử Charlie Xinh đẹp mà bà Baird cảm thấy là phù hợp để trang trí cho bức tường trong phòng chúng tôi.
Tôi nắm lấy cằm anh và xoay đầu anh đối diện với tôi. Anh mở to mắt, giả vờ kinh ngạc.
“Có phải anh đang ám chỉ rằng,” tôi hỏi, “người đàn ông mà anh nhìn thấy ở ngoài kia là một dạng, dạng…” tôi ngập ngừng, tìm từ ngữ thích hợp.
“Quan hệ bất chính?” Anh gợi ý giúp tôi.
“Đối tượng say nắng của em?” Tôi kết thúc câu.
“Không, không, chắc chắn là không,” anh nói mà chẳng có sức thuyết phục. Anh nhấc tay tôi ra khỏi mặt anh và cố gắng hôn tôi, nhưng giờ thì đến lượt tôi ngoảnh mặt đi. Anh đành phải ấn tôi nằm xuống bên cạnh anh.
“Chỉ là…” Anh bắt đầu. “Chà, em biết đấy, Claire, trong sáu năm trời. Chúng ta chỉ gặp nhau có ba lần, và lần cuối cùng thì gặp nhau đúng một ngày. Sẽ chẳng có gì lạ nếu… ý anh là, ai cũng biết là các bác sĩ và y tá đều phải chịu áp lực khủng khiếp trong những ca cấp cứu, và… chà, anh… chỉ là… chà, anh sẽ thông cảm, em biết đấy, nếu có xảy ra bất cứ chuyện gì, ờ, vì nhất thời…”
Tôi vùng ra khỏi vòng tay anh và đùng đùng xuống giường, ngắt ngang những lời nói rời rạc của anh.
“Anh nghĩ em đã phản bội anh sao?” Tôi hỏi. “Đúng không? Bởi vì nếu anh nghĩ như vậy, anh có thể rời khỏi căn phòng này ngay lập tức. Rời
khỏi ngôi nhà này luôn! Làm sao anh dám ám chỉ một điều như thế?” Tôi giận sôi máu, còn Frank thì ngồi dậy, vươn tay ra để cố xoa dịu tôi. “Đừng có chạm vào em!” Tôi gắt gỏng. “Anh nói đi, chỉ vì có một người đàn ông lạ mặt tình cờ nhìn lên cửa sổ phòng em mà anh nghĩ em có một mối tình ngoài luồng nóng bỏng với một trong những bệnh nhân của em, đúng không?”
Frank xuống giường và choàng tay quanh người tôi. Tôi đứng đờ ra như khúc gỗ[22], nhưng anh vẫn kiên trì vuốt tóc tôi và xoa vai tôi theo cái kiểu mà anh biết là tôi thích.
“Không phải, anh đâu có nghĩ như vậy,” anh quả quyết, rồi kéo tôi lại gần. Tôi hơi thả lỏng, nhưng chưa đủ để choàng tay ôm anh. Một lúc lâu sau, anh thì thầm vào tóc tôi: “Không, anh biết em sẽ không bao giờ làm một chuyện như thế. Anh chỉ muốn nói rằng cho dù em có làm… Claire, thì với anh cũng sẽ chẳng có gì khác biệt. Anh rất yêu em. Cho dù em có làm gì thì cũng không thể khiến anh ngừng yêu em.” Anh ôm trọn mặt tôi trong hai bàn tay, nhìn thẳng vào mắt tôi - vì chỉ hơn tôi có chục phân nên anh có thể làm thế không khó khăn gì - và khẽ khàng nói: “Tha thứ cho anh nhé?” Hơi thở anh thoang thoảng mùi Glenfiddich, ấm áp phả vào mặt tôi; đôi môi đầy đặn và mời gọi kề sát đến mức khiến tôi nao lòng.
Một ánh chớp nữa lóe lên báo hiệu cơn bão đã kéo đến, mưa rơi như trút xuống mái nhà lợp ngói đen.
Tôi chầm chậm choàng hai tay quanh eo anh.
“Lòng khoan dung không thể gượng ép mà có,” tôi trích dẫn. “Nó rơi xuống như giọt sương trên thiên đường[23]…”
Frank cười phá lên và ngước nhìn trần nhà; những vết ố chồng chất nhau trên đó báo trước điềm gở rằng chúng tôi sẽ không được ngủ khô ráo suốt đêm.
“Nếu đó là ví dụ tiêu biểu cho lòng khoan dung của em,” anh nói, “anh sẽ không muốn nhìn thấy sự báo thù của em đâu.” Tiếng sấm rền vang tựa tiếng súng cối như thể đáp lại lời anh, cả hai chúng tôi cùng bật cười, cảm thấy thoải mái trở lại.
Mãi đến lúc nghe tiếng thở sâu của anh vang lên đều đều bên tai, tôi mới bắt đầu băn khoăn. Như tôi đã nói, về phần tôi, chẳng có bằng cớ gì cho thấy tôi không chung thủy. Đó là về phần tôi. Nhưng, như anh đã nói đấy, sáu năm quả là một quãng thời gian dài đằng đẵng.
2
Những cột đá
S
áng hôm sau, ông Crook đến đón tôi vào đúng bảy giờ như đã hẹn. “Đi sớm thế này thì mới bắt gặp những giọt sương mai đọng trên những cây mao lương hoa vàng, đúng không?” Ông nói, nháy mắt vẻ ga lăng. Ông chở tôi trên cái xe mô tô cũ kĩ gần bằng tuổi đời của ông trong chuyến ngao du nhàn nhã về vùng đồng quê tĩnh mịch. Hai bên sườn cỗ xe đồ sộ cột chặt những cái khuôn ép hoa cỏ, trông như mấy thanh hãm xung trên một con tàu kéo. Sự tĩnh mịch càng trở nên nổi bật khi tiếng gầm như sấm rền của động cơ xe đột ngột tắt lịm. Tôi phát hiện ra ông lão quả thực rất rành về các loài hoa cỏ trong vùng. Ông không những biết tìm được chúng ở đâu mà còn nắm được dược tính và cách sơ chế chúng. Nuối tiếc vì không mang theo một cuốn sổ để ghi chép hết những điều ấy, tôi chỉ còn cách lắng nghe chăm chú giọng nói già nua khàn khàn của ông và cố gắng hết sức để ghi nhớ thông tin khi tôi xếp gọn ghẽ các mẫu vật vào những cái khuôn ép hoa cỏ nặng nề.
Chúng tôi dừng lại gần chân một ngọn đồi bằng phẳng đến kỳ lạ để ăn bữa trưa mà chúng tôi gói mang theo. Nơi này cũng xanh mướt với những vách đá và mỏm đá lởm chởm như hầu hết các ngọn đồi kế cận, nhưng nó cũng có một điểm khác biệt: có một con đường mòn dẫn lên sườn đồi và biến mất đột ngột đằng sau một mỏm đá hoa cương trồi lên.
“Trên kia có gì vậy?” Tôi hỏi, chỉ về phía ấy bằng bàn tay đang cầm cái bánh sandwich kẹp thịt xông khói. “Có vẻ khó mà picnic trên đó.” “À.” Ông Crook liếc nhìn ngọn đồi. “Đó là Craigh na Dun. Tôi cũng định dẫn chị lên đó sau khi chúng ta ăn xong.”
“Vậy ư? Nó có gì đặc biệt à?”
“Ồ, đúng vậy,” ông trả lời, nhưng từ chối mô tả chi tiết hơn, chỉ nói rằng khi nào thấy nó thì tôi sẽ hiểu.
Tôi có chút lo lắng ông lão không thể leo lên một con đường dốc như thế, nhưng những nỗi e ngại ấy đã bốc hơi khi tôi thấy mình thở hổn hển
đằng sau ông. Cuối cùng, ông Crook giơ bàn tay xương xẩu ra kéo tôi lên đỉnh đồi.
“Đây này.” Ông phẩy tay với vẻ sở hữu.
“Ồ, một vòng tròn đá!” Tôi thích thú reo lên. “Một vòng tròn đá thu nhỏ!”
Vì chiến tranh, đã vài năm rồi tôi chưa tới bình nguyên Salisbury, nhưng Frank và tôi đã từng đến tham quan Stonehenge[24] ngay sau khi chúng tôi kết hôn. Giống như những du khách đi lang thang giữa những cột đá khổng lồ, trầm trồ kính sợ, chúng tôi đã há hốc miệng sửng sốt trước hòn đá Bệ Thờ (“nơi các tín đồ Druid ngày xưa thực hiện những nghi lễ hiến tế người đáng sợ,” hướng dẫn viên người Cockney[25] có giọng nói oang oang đã giới thiệu như vậy với một đoàn du khách người Ý, và tất cả bọn họ đều chụp ảnh khối đá trông có vẻ khá bình thường ấy một cách nghiêm túc).
Vì Frank vốn mê mẩn sự chính xác - anh thường chỉnh lại những chiếc cà vạt trên mắc sao cho hai đầu của nó dài bằng nhau - nên chúng tôi đã đi bộ quanh vòng tròn, bước từng bước để đo khoảng cách giữa các hố Z và hố Y, và đếm các lanh-tô[26] trong vòng tròn Sa Thạch, vòng ngoài cùng của những cột đá khổng lồ.
Ba tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã biết có bao nhiêu hố Y và hố Z (nếu bạn quan tâm thì đó là năm mươi chín, nhưng tôi thì không), nhưng chẳng có được manh mối nào hơn về mục đích của kiến trúc này so với hàng tá nhà khảo cổ chuyên nghiệp và nghiệp dư đã bò lê bò toài khắp nơi đó trong suốt năm trăm năm qua.
Dĩ nhiên là không thiếu các giả thuyết. Cuộc sống giữa các học giả đã dạy tôi rằng một giả thuyết được trình bày tốt thường có sức thuyết phục hơn một sự thật được trình bày tồi.
Đền thờ. Nghĩa địa. Đài quan sát thiên văn. Nơi hành quyết (do đó mới có hòn đá có cái tên ghê rợn là “đá Sát Sinh” nằm về một phía, bị chìm một nửa trong cái hố của nó). Chợ trời. Tôi thích giả thuyết cuối cùng này, hình dung ra các bà nội trợ thời kỳ Cự Thạch đi đi lại lại giữa các lanh-tô, tay đeo giỏ, soi xét tỉ mỉ lớp men trên lô hàng cốc chén bằng đất sét đỏ nung mới nhất và ngờ vực lắng nghe những lời quảng cáo hùng hồn của đám thợ bánh cùng những tay bán dạo xẻng xương hươu và hạt hổ phách.
Điều duy nhất chống lại giả thuyết này là sự hiện diện của những thi thể bên dưới hòn đá Bệ Thờ và dấu tích của tro cốt trong các hố Z. Trừ phi đây là di thể bất hạnh của những lái buôn bị buộc tội cân điêu, chứ chôn người ở chợ thì có vẻ hơi mất vệ sinh.
Không có dấu vết gì của việc chôn cất trong vòng tròn đá mi ni trên đỉnh đồi này. Tôi gọi nó là “mi ni” chỉ vì nó nhỏ hơn Stonehenge, chứ mỗi cột đá vẫn cao gấp đôi người tôi, và đồ sộ tương xứng.
Tôi đã nghe một hướng dẫn viên khác ở Stonehenge nói rằng những vòng tròn đá này có ở khắp nơi trên nước Anh và châu Âu - một vài cái vẫn còn trong tình trạng tốt, những cái khác thì hư hỏng hơn, một vài cái lại hơi khác biệt về phương hướng hay hình dáng, nhưng tất cả đều không rõ mục đích và nguồn gốc.
Ông Crook mỉm cười hiền từ khi tôi đi thơ thẩn giữa những cột đá, thi thoảng dừng lại để nhẹ nhàng chạm vào một khối đá, như thể sợ để lại dấu vết trên những tảng đá mòn to lớn.
Vài cột đá có những vệt vằn lờ mờ. Các cột khác lại lốm đốm những hạt mica óng ánh vui mắt dưới vầng mặt trời buổi sáng. Tất cả bọn chúng đều khác biệt rõ rệt so với những hòn đá tự nhiên nhô lên giữa đám dương xỉ xung quanh. Bất kể là ai đã dựng lên những vòng tròn đá này, và với mục đích gì, thì họ cũng cho rằng nó quan trọng đến mức đáng để cất công khai thác, tạo hình và chuyên chở những khối đá đặc biệt tới đây. Tạo hình - bằng cách nào? Chuyên chở - ra sao, và từ khoảng cách xa xôi đến mức nào?
“Chồng tôi sẽ thích mê cho xem,” tôi nói với ông Crook, cảm ơn ông vì đã chỉ cho tôi nơi này và những loài hoa cỏ. “Tôi nhất định sẽ đưa anh ấy lên đây xem nó.” Tới đầu con đường mòn, ông lão xương xẩu lịch thiệp khuỳnh cánh tay ra. Tôi bám vào tay ông sau khi nhìn xuống con dốc dựng đứng và quyết định rằng dù tuổi đã cao, ông vẫn có đôi chân vững vàng hơn tôi.
•••
Chiều hôm đó, tôi nhún nhảy dọc theo con đường dẫn vào làng để tới nhà mục sư gọi Frank về. Tôi khoan khoái hít thở mùi hương hỗn hợp của vùng cao nguyên khắc nghiệt gồm thạch nam, xô thơm và đậu chổi, thi
thoảng còn quyện cả mùi khói và mùi cá trích rán khi tôi đi ngang qua những ngôi nhà lợp mái tranh nằm rải rác. Ngôi làng nằm nép mình bên một con dốc nhỏ dưới chân một trong những ngọn núi đá cao vút nhô lên từ các bãi hoang của vùng cao nguyên. Những túp nhà gần đường cái rất xinh đẹp. Sự phồn thịnh rực rỡ thời hậu chiến đã lan tỏa đến mức các ngôi nhà đều khoác một lớp sơn mới, ngay cả ngôi nhà lớn ít nhất cũng một trăm năm tuổi của mục sư cũng trưng lớp viền màu vàng tươi quanh những khung cửa sổ võng xuống.
Ra mở cửa là bà quản gia của mục sư, một phụ nữ cao ráo, mảnh khảnh với ba chuỗi ngọc trai nhân tạo đeo trên cổ. Sau khi nghe tôi tự giới thiệu, bà mời tôi vào nhà và dẫn tôi đi dọc theo một hành lang tối, dài và hẹp, hai bên là những bức vẽ bằng mực nâu đỏ khắc họa những người có thể là những nhân vật nổi tiếng vào thời kỳ của họ, hoặc những người họ hàng thân thích yêu quý của mục sư hiện tại, nhưng cũng có thể là thành viên của hoàng gia, từ những gì tôi thấy ở các đặc điểm của họ trong ánh sáng lờ mờ.
Trái ngược với khung cảnh tối tăm ấy, thư phòng của mục sư chói lòa ánh sáng từ các ô cửa sổ đồ sộ trổ từ trần xuống sàn trên cả một bức tường. Một giá vẽ gần lò sưởi, trên đó là một bức sơn dầu dang dở vẽ vách đá đen dưới bầu trời đêm, chỉ ra lý do vì sao lại có những ô cửa sổ mà hắn là mãi sau này mới được thêm vào ấy.
Frank và một người đàn ông mập lùn mặc áo cổ đứng của mục sư đang mải mê nghiên cứu một đống giấy rách nát trên bàn làm việc ở đầu đằng kia của căn phòng. Frank chỉ hơi ngước mắt nhìn tôi, còn mục sư thì lịch sự ngắt ngang những lời giải thích và vồn vã đi tới bắt tay tôi, khuôn mặt tròn trĩnh rạng ngời vui vẻ.
“Chị Randall!” Ông nói, nồng nhiệt lắc lắc tay tôi. “Rất vui được gặp lại chị. Chị đến vừa kịp lúc để nghe tin mới đấy!”
“Tin mới ạ?” Ném ánh mắt về đống giấy má bẩn thỉu ở trên bàn và kiểu chữ in của chúng, tôi đoán chừng cái tin này có từ khoảng năm 1750. Vậy thì không phải là tin sốt dẻo rồi.
“Phải. Chúng tôi đang lần theo dấu vết tổ tiên của chồng chị, Jack Randall, qua các báo cáo hỏa tốc của quân đội vào thời kỳ đó.” Mục sư ghé lại gần, nhếch miệng nói thầm như một tên gangster trong phim Mỹ. “Tôi
đã, ờ, “mượn” những bức thư gốc từ tủ hồ sơ của Hiệp Hội Lịch Sử trong vùng. Chị sẽ không nói với ai chứ?”
Tôi buồn cười, đồng ý sẽ không tiết lộ bí mật chết người này của ông, rồi nhìn quanh tìm một cái ghế thoải mái để ngồi và đón nhận những tiết lộ mới nhất từ thế kỷ mười tám. Chiếc ghế bành có lưng tựa cao ở gần cửa sổ nhất trông có vẻ thích hợp, nhưng khi tôi tới để xoay nó về phía chiếc bàn, tôi phát hiện ra nó đã bị chiếm giữ. Một cậu bé với mái tóc đen bóng bù xù đang nằm cuộn tròn trong lòng ghế, ngủ ngon lành.
“Roger!” Mục sư cũng ngạc nhiên như tôi khi ông tới giúp tôi. Cậu bé giật mình choàng tỉnh, ngồi phắt dậy, đôi mắt màu rêu mở to. “Con đang làm gì ở đây vậy hả, thằng quỷ nhỏ này?” Mục sư trìu mến quở trách. “Ồ, lại đọc họa báo rồi ngủ gật hả?” Ông nhặt những trang báo màu sắc sặc sỡ lên và đưa cho cậu bé. “Đi chỗ khác chơi ngay, Roger, cha có chuyện cần bàn với cô chú Randall. Ồ, đợi đã, cha quên chưa giới thiệu con - chị Randall, đây là con trai tôi, Roger.”
Tôi hơi kinh ngạc vì vẫn luôn nghĩ mục sư Wakefield chính là mẫu người độc thân “kinh niên” điển hình. Tuy nhiên, tôi vẫn cầm lấy bàn tay đang lịch sự chìa ra và lắc nó nồng nhiệt, kiềm chế thôi thúc chùi tay vào váy vì sự nhớp nháp dính phải từ tay cậu bé.
Mục sư Wakefield âu yếm nhìn theo sau khi cậu bé lỉnh về phía nhà bếp.
“Thực ra nó là con trai của cô cháu gái tôi,” ông tiết lộ. “Cha nó bị bắn chết trên eo biển Anh[27], còn mẹ nó thì bị giết ở Blitz, vì vậy tôi đã nhận nuôi nó.”
“Ngài thật tốt bụng,” tôi lẩm bẩm, nghĩ về bác Lamb. Bác cũng đã mất ở Blitz khi thính phòng trong Viện bảo tàng Anh nơi bác đang diễn thuyết bị trúng bom. Hiểu rõ bác nên tôi nghĩ cảm giác của bác lúc đó hẳn là thấy biết ơn vì khu trưng bày các món cổ vật Ba Tư ở ngay bên cạnh đã thoát nạn.
“Có gì đâu, có gì đâu.” Mục sư ngại ngùng xua tay. “Có con trẻ trong nhà cũng thích mà. Nào, chị ngồi đi!”
Frank cất tiếng trước cả khi tôi đặt túi xách xuống. “Đây quả là may mắn tuyệt vời nhất, Claire ạ,” anh tán tụng, lật giở đống giấy má quăn
queo. “Mục sư đã tìm được một loạt báo cáo hỏa tốc của quân đội có nhắc đến cụ Jonathan Randall.”
“Chà, phần lớn trong số đó là nói đến những việc làm của Đại úy Randall,” mục sư nhận xét, lấy vài tờ giấy từ tay Frank. “Ông ấy là chỉ huy của đơn vị đồn trú ở pháo đài William trong khoảng bốn năm, nhưng ông ấy có vẻ dành khá nhiều thời gian để quấy rối liên miên vùng đồng quê Scotland phía bên kia biên giới nhân danh nhà vua. Chỗ này” - ông cẩn thận tách ra một xấp giấy và đặt lên bàn - “là báo cáo về những vụ kiện Đại úy của các gia đình và địa chủ, bao gồm đủ thứ chuyện, từ việc binh lính của quân đồn trú cưỡng bức các cô hầu gái tới việc ăn cắp ngựa trắng trợn, chưa kể vô số vụ “lăng nhục” không được kể rõ chi tiết.”
Tôi lấy làm thích thú. “Hóa ra trong gia tộc của anh có một kẻ trộm ngựa nổi tiếng?” Tôi nói với Frank.
Anh thản nhiên nhún vai. “Cụ ấy có là người thế nào thì anh cũng chẳng thể làm được gì để thay đổi điều đó. Anh chỉ muốn tìm hiểu thôi. Những vụ kiện này cũng không phải là chuyện gì lạ lùng vào thời kỳ đó; bấy giờ chẳng mấy ai ở vùng cao nguyên ưa người Anh nói chung và quân đội Anh nói riêng. Điều kỳ quặc nằm ở chỗ dường như những vụ kiện ấy chẳng đi đến đâu, kể cả những vụ nghiêm trọng.”
Mục sư nói xen vào vì không thể giữ im lặng lâu hơn: “Đúng vậy. Mặc dù các sĩ quan thời đó không bị ràng buộc bởi những chuẩn mực giống như thời hiện đại; họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn trong những vấn đề nhỏ nhặt, nhưng điều này thì thật kỳ lạ. Những vụ kiện ấy không phải bị bác đi sau khi đã điều tra; mà là chúng không bao giờ được nhắc đến nữa. Anh biết tôi đang nghi ngờ điều gì, đúng không Randall? Cụ cố của anh hẳn phải có một người đỡ đầu. Một người có thể che chở, bảo vệ ông ấy thoát khỏi sự khiển trách của các thượng cấp.”
Frank gãi gãi đầu, nheo mắt nhìn những bức thư. “Có thể lắm. Đó phải là một người khá quyền lực. Có vị trí cao trong quân đội, hoặc thuộc giới quý tộc.”
“Đúng vậy, hoặc có thể…” Những giả thuyết của mục sư bị ngắt ngang khi bà quản gia Graham đột ngột xuất hiện.
“Tôi mang cho các vị ít đồ giải khát,” bà nói, và mục sư kịp thời cứu lấy những giấy tờ quý giá ngay trước khi bà đặt mạnh khay trà vào giữa
bàn. Đôi mắt sắc sảo của bà liếc nhìn tôi, đánh giá tay chân bứt rứt và đôi mắt đờ đẫn của tôi.
“Tôi chỉ mang hai tách vì tôi nghĩ có lẽ chị Randall sẽ muốn vào bếp với tôi. Tôi có một chút…” Không đợi bà dứt lời, tôi đã sốt sắng đứng bật dậy. Lúc đi qua cánh cửa lò xo[28] để vào phòng bếp, tôi lại tiếp tục nghe thấy những giả thuyết bùng nổ ở đằng sau.
Nước trà xanh ngắt, nóng hổi và thơm phức, với những mẩu lá trà xoay tròn trên mặt nước.
“Ưm,” tôi nói, đặt tách trà xuống. “Lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức trà Ô long đấy.”
Bà Graham gật đầu, cười tươi khi thấy tôi bày tỏ lòng yêu thích đối với món đồ giải khát của bà. Nhìn những chiếc bánh nướng phủ lớp kem bọc sữa dày và những miếng vải lót bằng đăng ten tự làm bên dưới những cái tách hình vỏ trứng, tôi biết bà đã chuẩn bị rất kỳ công.
“Vâng, hồi chiến tranh tôi không thể nào kiếm được nó. Nó là thứ thích hợp nhất để bói lá trà. Khoảng thời gian phải dùng trà Bá tước để thay thế thật khủng khiếp. Các lá trà rã quá nhanh, khiến tôi khó mà kết luận được gì.”
“Ồ, bà biết bói lá trà ư?” Tôi hỏi, cảm thấy tức cười. Với mái tóc ngắn dợn sóng màu xám sắt và ba chuỗi ngọc trai trên cổ, trông bà Graham chẳng giống chút nào với hình ảnh quen thuộc của một bà thầy bói Di gan. Ngụm trà bà nuốt chạy dọc theo cái cổ dài mảnh và biến mất bên dưới những hạt trai sáng bóng.
“Đương nhiên rồi, cưng ạ. Bà tôi đã dạy tôi, còn bà thì học từ bà của bà. Uống hết tách trà của chị đi, rồi tôi sẽ xem cho chị.”
Bà im lặng một lúc lâu, thi thoảng lại nghiêng cái tách về phía ánh sáng hoặc chầm chậm lăn nó giữa hai lòng bàn tay gầy để có một góc nhìn khác. Bà cẩn thận đặt cái tách xuống như thể sợ nó sẽ nổ tung trước mặt. Những nếp nhăn hai bên khóe miệng lõm sâu hơn, và lông mày bà nhíu chặt lại vẻ bối rối.
“Chà,” cuối cùng bà nói. “Đây là một trong những trường hợp lạ lùng nhất mà tôi từng thấy.”
“Ồ?” Tôi vẫn còn buồn cười nhưng bắt đầu cảm thấy tò mò. “Tôi sẽ gặp một người lạ cao ráo ngăm đen, hay sắp có một chuyến đi qua biển?” “Có thể thế.” Bà Graham đã nghe ra giọng điệu đùa bỡn của tôi và khẽ mỉm cười, bắt chước theo. “Cũng có thể không. Đó là điều kỳ quặc ở tách trà của chị đấy, cưng ạ. Tất cả mọi thứ đều mâu thuẫn. Có một lá trà cuộn lại tượng trưng cho một cuộc hành trình, nhưng nó lại bị một chiếc lá rách nằm chồng lên tượng trưng cho việc ở yên. Và chắc chắn là có những người lạ, đến vài người lận. Một trong số đó là chồng của chị, nếu tôi xem đúng.”
Cảm giác tức cười của tôi tiêu tan phần nào. Sau sáu năm xa cách và sáu tháng bên nhau, chồng tôi vẫn còn có chút gì đó giống như một người lạ. Nhưng tôi không hiểu làm thế nào mà một lá trà có thể biết được điều đó.
Trán bà Graham vẫn nhăn lại. “Cho tôi xem tay chị nào, cô bé,” bà nói. Bàn tay cầm lấy tay tôi thật xương xẩu, nhưng ấm áp đến kỳ lạ. Mái đầu hoa râm gọn gàng cúi xuống xem xét lòng bàn tay tôi phảng phất mùi oải hương. Bà nhìn chằm chằm một lúc lâu, thi thoảng lần ngón tay theo một đường chỉ tay, như thể đang dò một tấm bản đồ mà các nẻo đường đều biến mất trong những con suối cạn đầy cát hay những hoang mạc vắng lặng.
“Tình hình thế nào, bà Graham?” Tôi hỏi, cố duy trì bầu không khí nhẹ nhàng. “Hay là số mệnh của tôi kinh khủng đến nỗi không thể tiết lộ?” Bà Graham ngước đôi mắt nghi ngại lên nhìn tôi vẻ đăm chiêu, nhưng vẫn cầm tay tôi. Bà lắc đầu, mím môi.
“Ồ, không, cưng à. Vận mệnh của chị không nằm trong tay chị. Chỉ có mầm mống của nó thôi.” Đầu bà nghiêng sang một bên như một chú chim, tính toán cân nhắc. “Chị biết đấy, các đường chỉ tay thường biến đổi. Vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời, chúng có thể rất khác so với bây giờ.”
“Tôi không biết điều đó. Tôi cứ nghĩ ta sinh ra đã có chúng, và chúng sẽ mãi như vậy.” Tôi kìm lại thôi thúc muốn giật tay ra. “Vậy thì việc xem chỉ tay có ý nghĩa gì?” Tôi không muốn tỏ ra vô lễ, nhưng sự soi xét này khiến tôi cảm thấy hơi bất an, đặc biệt là sau vụ bói lá trà. Bà Graham chợt mỉm cười và gấp các ngón tay tôi lại.
“Chà, các đường chỉ tay của chị cho thấy chị là người thế nào, cưng ạ. Đó là lý do chúng biến đổi - hoặc nên biến đổi. Ở một vài người thì chúng không biến đổi chút nào; những người đó bất hạnh đến nỗi không bao giờ thay đổi chính bản thân họ, nhưng ít người như vậy lắm.” Bà siết chặt nắm tay tôi và vỗ vỗ nó. “Tôi nghĩ chị không thuộc số đó. Dẫu còn rất trẻ nhưng bàn tay chị đã có khá nhiều sự biến đổi. Hẳn là do chiến tranh,” bà nói, như thể tự nhủ với chính mình.
Tôi lại tò mò và vô thức mở lòng bàn tay ra.
“Vậy nhìn vào bàn tay tôi, bà thấy tôi là người thế nào?”
Bà Graham cau mày, nhưng không cầm tay tôi nữa.
“Tôi không thể nói rõ được. Điều đó thật kỳ lạ, vì hầu hết các bàn tay đều có sự tương đồng. Tôi không nói bàn tay nào cũng giống bàn tay nào, mà thường thì có những khuôn mẫu.” Bà chợt mỉm cười, nụ cười cuốn hút kỳ lạ, phô bày hàm răng giả trắng bóc.
“Các thầy bói làm việc như thế đấy. Hồi trước chiến tranh, tôi thường hành nghề xem bói vào dịp lễ của nhà thờ hằng năm; có lẽ từ giờ tôi sẽ lại tiếp tục làm việc đó. Có lần, có một cô gái đi vào trong lều. Lúc đó, tôi đội một chiếc khăn xếp đính lông công mượn của ông Donaldson và mặc “chiếc áo choàng phương Đông lộng lẫy” - chính là chiếc áo choàng ngủ của mục sư có hoa văn hình con công và vàng rực như mặt trời. Trong lúc vờ xem bàn tay của cô ta, tôi lén nhìn và thấy cổ áo cô ta trễ đến tận rốn. Cộng thêm mùi nước hoa rẻ tiền và đôi hoa tai dài đến tận vai, chẳng cần đến quả cầu thủy tinh tôi cũng có thể nói ngay rằng cô ta sẽ có con trước dịp lễ năm sau.” Bà Graham ngừng lại, đôi mắt xám ánh lên vẻ hóm hỉnh. “Nhưng nếu bàn tay mà chị đang cầm không đeo nhẫn, cần khéo léo tiên đoán rằng cô ta sẽ sớm kết hôn trước đã.”
Cả tôi và bà cùng cười phá lên. “Vậy là bà không hề nhìn vào bàn tay của họ à?” Tôi hỏi. “Trừ việc kiểm tra xem họ có đeo nhẫn không?” Bà tỏ vẻ kinh ngạc. “Ồ, dĩ nhiên là có chứ. Ta quan sát họ chỉ để biết trước được những gì ta sẽ nhìn thấy ở bàn tay của họ thôi. Thường là vậy.” Bà hất đầu về phía bàn tay đang xòe ra của tôi. “Nhưng tôi chưa từng nhìn thấy khuôn mẫu nào như vậy. Ngón tay cái lớn” - bà cúi xuống và nhẹ nhàng chạm vào nó - “không thay đổi gì nhiều. Có nghĩa chị là người cứng cỏi và có một ý chí không dễ dàng bị khuất phục.” Bà nháy mắt với tôi. ẳ
“Hẳn là chồng chị đã nói với chị như thế. Chỗ đó cũng vậy.” Bà chỉ vào gò thịt ở dưới ngón tay cái.
“Nó là gì vậy?”
“Nó được gọi là gò Kim Tinh.” Bà mím làn môi mỏng để tỏ vẻ nghiêm túc, nhưng khóe miệng vẫn không kìm được khẽ nhếch lên. “Với đàn ông, như thế có nghĩa là anh ta thích gái gú. Còn với phụ nữ, nó lại có ý nghĩa hơi khác. Nói một cách lịch sự, chồng chị không thích phải xa cái giường của chị.” Bà cất lên một tiếng cười khiếm nhã đáng kinh ngạc, khiến tôi hơi đỏ mặt.
Bà quản gia đứng tuổi lại chăm chú săm soi bàn tay tôi, ngón tay trỏ nhọn hoắt chỉ hết chỗ này đến chỗ nọ để nhấn mạnh lời mình. “Đường sinh mệnh rõ nét; chứng tỏ chị có sức khỏe tốt, và có thể sau này vẫn vậy. Nó bị đứt đoạn, nghĩa là cuộc đời chị có sự thay đổi lớn - chà, tất cả chúng ta đều như vậy, phải không nào? Nhưng đường sinh mệnh của chị bị chia nhỏ hơn tôi thường thấy; đến mức nát vụn cả ra. Còn đường hôn nhân của chị thì” - bà lại lắc đầu - “nó bị tách làm đôi; điều đó không có gì bất thường, có nghĩa là có hai cuộc hôn nhân…”
Phản ứng của tôi rất khẽ và được kìm lại ngay nhưng bà vẫn cảm nhận được và lập tức ngẩng đầu lên. Bà quả là một thầy bói tinh tường. Mái đầu hoa râm lắc lắc trấn an tôi.
“Không, không, cưng à. Không phải là sẽ có chuyện gì xảy ra với người đàn ông tuyệt vời của chị đâu. Chỉ là nếu có,” bà nhấn mạnh từ “nếu”, khẽ siết tay tôi, “chị sẽ không phải là người héo hon và lãng phí quãng đời còn lại của mình trong nỗi tiếc thương. Có nghĩa là, chị có thể yêu lại lần nữa nếu mất đi tình yêu đầu tiên.”
Bà nheo mắt nhìn sát vào lòng bàn tay tôi, nhẹ nhàng lướt móng tay nổi gờ, ngắn ngủn dọc theo đường hôn nhân sâu hoắm. “Nhưng phần lớn các đường bị tách đôi như thế đều là đường đứt đoạn - của chị thì lại phân nhánh.” Bà ngẩng lên với nụ cười hóm hỉnh. “Chị không phải là người phạm tội trùng hôn đấy chứ?”
Tôi lắc đầu và cười. “Không. Tôi làm gì có thời gian chứ?” Rồi tôi lật tay lại, giơ cạnh bàn tay ra.
“Tôi nghe nói những vết lằn nhỏ ở cạnh bàn tay sẽ cho ta biết ta có bao nhiêu đứa con, đúng không?” Tôi hy vọng giọng mình vẫn điềm tĩnh. Cạnh bàn tay tôi phẳng nhẵn đến mức đáng thất vọng.
Bà Graham phẩy tay gạt quan niệm này đi.
“Hừ! Sau khi chị có một, hai đứa con, những vết lằn đó có thể hiện ra. Giống như những nếp nhăn trên mặt vậy. Chúng chẳng chứng minh được điều gì cả.”
“Vậy ư?” Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút. Đúng lúc tôi đang định hỏi liệu những đường hằn sâu chạy ngang qua cổ tay tôi có ý nghĩa gì không (khuynh hướng tự tử chẳng hạn?) thì mục sư Wakefield bước vào, mang theo những tách trà rỗng. Ông đặt chúng xuống giá úp và bắt đầu lóng ngóng lục lọi tủ bát đĩa ầm ĩ cả lên, rõ ràng là muốn được giúp đỡ.
Bà Graham đứng bật dậy để bảo vệ căn bếp thiêng liêng của mình, khéo léo đẩy mục sư qua một bên rồi xếp bộ đồ uống trà vào một cái khay để mang lên thư phòng. Mục sư kéo tôi tránh đường.
“Sao chị không tới thư phòng để uống một tách trà nữa với tôi và chồng chị nhỉ, chị Randall? Chúng tôi vừa tìm ra một thứ rất đáng phấn khởi.”
Tôi có thể thấy rằng mặc dù ngoài mặt điềm tĩnh nhưng ông đang vỡ òa vì vui sướng bởi thứ gì đó mà họ đã phát hiện ra, giống như một cậu bé có một con cóc nhét trong túi áo vậy. Rõ ràng tôi sẽ phải tới thư phòng để đọc hóa đơn giặt là hoặc hóa đơn sửa giày của Đại úy Jonathan Randall hoặc bất cứ tài liệu nào hấp dẫn tương tự.
Frank đang mải miết với những tài liệu rách nát đến nỗi anh chẳng hề ngẩng lên khi tôi bước vào phòng. Anh miễn cưỡng trao chúng vào bàn tay mập mạp của mục sư Wakefield và tới đứng đằng sau ông, nhòm qua vai ông, tựa hồ không thể rời mắt khỏi chúng dù chỉ một giây.
“Xem nào.” Tôi lịch sự nói, lật giở những tờ giấy lem luốc. “Ừm, vâng, rất thú vị.” Thật ra, nét chữ này quá rườm rà, bay bướm và mờ đến nỗi rất khó để luận ra nó viết gì. Có một tờ giấy được bảo quản tốt hơn phần còn lại mang một biểu tượng gia huy ở trên đầu.
“Công tước xứ… Sandringham, đúng không?” Tôi hỏi, săm soi cái gia huy hình con báo ngẩng đầu đã bạc màu và phần chữ in bên dưới dễ đọc
hơn phần chữ viết tay.
“Đúng vậy,” mục sư nói, cười tươi hơn. “Một tước hiệu giờ đã không còn nữa, chị biết đấy.”
Tôi nào có biết, nhưng vẫn gật đầu ra vẻ thông hiểu, bởi tôi vốn chẳng lạ gì các sử gia lúc họ đang trong cơn phấn khích vì có một phát hiện mới. Ta hiếm khi phải làm gì khác ngoài việc gật đầu đều đặn và nói “Ồ, thật ư?” hoặc “Thú vị làm sao!” vào những lúc thích hợp.
Sau một hồi nhường qua nhường lại giữa Frank và mục sư, cuối cùng mục sư cũng giành được vinh dự kể cho tôi nghe về khám phá của họ. Dựa vào toàn bộ đống rác rưởi này, họ đã phát hiện ra cụ cố của Frank, Jack Randall Hắc Ám khét tiếng, không chỉ là một chiến binh dũng cảm của hoàng gia mà còn là một gián điệp bí mật và đáng tin cậy của Công tước Sandringham.
“Gần như là một kẻ gây kích động, đúng không Tiến sĩ Randall?” Mục sư lịch thiệp nhường lời cho Frank, anh liền chộp lấy cơ hội. “Vâng, đúng vậy. Đương nhiên là ngôn từ trong các lá thư được lựa chọn và sử dụng rất cẩn thận…” Anh nhẹ nhàng lật giở các trang bằng ngón trỏ đã được lau chùi sạch sẽ.
“Ồ, thật ư?” Tôi nói.
“Nhưng có thể thấy cụ Jonathan Randall đã được giao phó nhiệm vụ kích động tư tưởng ủng hộ phái Jacobite, nếu có, giữa các gia đình người Scot có tiếng tăm trong vùng. Mục đích của cụ là đưa ra ánh sáng bất cứ tòng nam tước hay thủ lĩnh thị tộc nào bí mật nung nấu cảm tình với phái Jacobite. Nhưng thật lạ lùng! Chẳng phải chính Sandringham bị nghi ngờ là một Jacobite đó sao?” Frank quay sang mục sư, cau mày thắc mắc. Cái trán hói nhẵn thín của mục sư cũng nhăn lại y hệt như thế.
“Chà, đúng vậy. Nhưng đợi đã, để tôi kiểm tra trong sách của Cameron xem sao” - ông đâm bổ tới giá sách chật kín những cuốn sách bọc da dê - “chắc chắn là ông ấy có nhắc tới Sandringham.”
“Thú vị làm sao,” tôi lẩm bẩm, chuyển sự chú ý sang tấm gỗ xốp khổng lồ che phủ cả một bức tường của thư phòng.
Nó kín đặc các loại giấy tờ như hóa đơn tiền gas, thư từ, thông báo từ Hội đồng Mục sư, các trang tiểu thuyết bị xé rời, các ghi chú viết tay của
chính mục sư, ngoài ra còn có những vật nhỏ như chìa khóa, nắp chai và phụ tùng ô tô. Tất cả bọn chúng đều được đính bằng đinh ghim hoặc treo bằng dây.
Tôi vẩn vơ xem lướt qua mớ hỗn độn đó, chỉ nghe câu được câu chăng cuộc tranh luận đang diễn ra sau lưng mình. (Họ đã quyết định rằng Công tước Sandringham có thể là một Jacobite.) Ánh mắt tôi dừng lại ở một bảng phả hệ được đính hết sức cẩn thận bằng bốn cái đinh ghim ở bốn góc. Trên đầu bảng là những cái tên từ đầu thế kỷ mười bảy. Nhưng thứ thu hút sự chú ý của tôi chính là cái tên ở cuối bảng: Roger W. (Mackenzie) Wakefield.
“Xin lỗi,” tôi nói, ngắt ngang cuộc tranh luận về việc con báo trong gia huy của công tước đang cầm một bông huệ tây hay một bông nghệ tây. “Đây có phải là bảng phả hệ của con trai ngài không?”
“Hử? Ồ, phải, phải đấy.” Mục sư vội vã đi tới, nở nụ cười rạng rỡ. Ông nhẹ nhàng gỡ bảng phả hệ xuống và đặt nó lên bàn, trước mặt tôi. “Tôi không muốn nó quên mất gia tộc của mình,” ông giải thích. “Đó là một dòng họ khá lâu đời, từ những năm 1600.” Ngón trỏ mập mạp của ông gần như cung kính lần theo các nhánh của bảng phả hệ. “Vì nó sống ở đây nên tôi cho nó mang họ của tôi, nhưng tôi không muốn nó quên mất gốc gác của mình.” Ông nhăn mặt ra chiều tiếc nuối. “Tôi e là dòng tộc tôi chẳng có gì đáng để khoe khoang. Chỉ toàn là mục sư với cha phó, thi thoảng có một người bán sách cho thêm đa dạng, và chỉ có thể truy nguyên đến năm 1762. Các ghi chép quá ít ỏi, chị biết đấy,” ông nói, lắc lắc đầu trước sự thờ ơ của tổ tiên mình.
Chúng tôi rời khỏi nhà mục sư vào lúc sẩm tối. Ông hứa hẹn sáng sớm mai sẽ mang những lá thư này vào thị trấn để sao lại. Suốt chặng đường về nhà bà Baird, Frank cứ vui vẻ thao thao bất tuyệt về các gián điệp và Jacobite. Tuy nhiên, cuối cùng anh cũng nhận thấy sự yên lặng ở tôi.
“Có chuyện gì thế, cưng?” Anh hỏi, lo lắng nắm lấy cánh tay tôi. “Em cảm thấy không khỏe à?” Giọng anh vừa lo lắng vừa hy vọng. “Không, em vẫn ổn. Em chỉ đang nghĩ…” Tôi ngập ngừng, bởi vì trước đây chúng tôi đã từng bàn về vấn đề này. “Em đang nghĩ về Roger…”
“Roger nào nhỉ?”
Tôi cất tiếng thở dài bực tức. “Frank, thật là! Anh… đãng trí thế! Roger, con trai của mục sư Wakefield ấy.”
“Ồ. Ừ, đúng rồi,” anh nói, vẫn còn có vẻ mơ hồ. “Thằng bé đáng yêu lắm. Nó làm sao?”
“Chà… chỉ là có nhiều đứa trẻ như thế. Những đứa trẻ mồ côi.” Anh nhìn tôi với ánh mắt sắc lẹm và lắc đầu.
“Không, Claire. Thật sự thì, anh cũng muốn, nhưng anh đã nói với em suy nghĩ của anh về chuyện nhận con nuôi rồi còn gì. Anh không thể có tình cảm với một đứa trẻ không phải… ờ, không phải máu mủ của mình. Anh biết như thế thật lố bịch và ích kỷ, nhưng anh thực sự có cảm giác như vậy. Có thể dần dà anh sẽ đổi ý, nhưng bây giờ thì…” Chúng tôi bước vài bước trong sự im lặng ngột ngạt. Chợt anh dừng lại và quay sang nắm lấy tay tôi.
“Claire,” anh khàn khàn nói, “anh muốn có đứa con của chúng ta. Em là điều quan trọng nhất với anh trên đời này. Hơn tất cả, anh muốn em được hạnh phúc, nhưng anh muốn… anh muốn giữ em cho riêng mình. Anh sợ một đứa trẻ từ bên ngoài đến, không có quan hệ ruột thịt gì với chúng ta sẽ giống như một kẻ phá đám, xâm nhập và làm đảo lộn tất cả, và anh không thích điều đó. Nhưng nếu anh có thể cho em một đứa con, nhìn thấy nó lớn lên trong em, nhìn thấy nó chào đời… vậy thì anh sẽ cảm thấy nó giống như… một phần cơ thể của em, có lẽ vậy. Và cả anh nữa. Một thành viên thực sự của gia đình.” Đôi mắt anh mở to, ánh lên vẻ van nài.
“Vâng, thôi được. Em hiểu.” Tôi muốn bỏ qua chủ đề này - vào lúc này. Nhưng khi tôi quay người định tiếp tục cất bước, anh liền ôm lấy tôi. “Claire. Anh yêu em.” Giọng anh đầy dịu dàng, và tôi ngả đầu vào chiếc áo khoác của anh, cảm nhận hơi ấm và sức mạnh của vòng tay anh. “Em cũng yêu anh.” Chúng tôi đứng ôm nhau một lúc, khẽ đu đưa trong cơn gió đang quét dọc con đường. Đột nhiên Frank khẽ nhích người ra, mỉm cười với tôi.
“Hơn nữa,” anh nhẹ nhàng nói, gạt mớ tóc lòa xòa trên mặt tôi, “chúng ta còn chưa bỏ cuộc, đúng không nào?”
Tôi mỉm cười đáp lại. “Đúng vậy.”
Anh cầm tay tôi khoác lên cánh tay anh, và chúng tôi hướng về phía ngôi nhà nghỉ của mình.
“Em sẵn sàng thử lại lần nữa chứ?”
“Vâng. Tại sao lại không nhỉ?” Chúng tôi lững thững trở lại đường Gereside. Mãi đến khi nhìn thấy Baragh Mhor, hòn đá Pictish ở góc đường, tôi mới nhớ tới những thứ cổ xưa.
“Em quên béng mất!” Tôi thốt lên. “Em muốn cho anh xem thứ này hay lắm.” Frank nhìn tôi, kéo tôi lại gần hơn và siết chặt tay tôi. “Anh cũng có thứ muốn cho em xem,” anh nói, cười toe. “Thứ đó của em để dành đến ngày mai đi!”
•••
Tuy nhiên, sáng hôm sau, chúng tôi còn bận làm chuyện khác. Tôi quên khuấy mất rằng chúng tôi đã lên kế hoạch dành một ngày để tới dạo chơi ở hồ Ness nằm trong thung lũng lớn.
Quãng đường khá dài nên chúng tôi phải đi từ sáng sớm, trước cả lúc bình minh ló dạng. Sau khi vội vội vàng vàng chạy tới chỗ chiếc xe đang đợi trong bầu không khí lạnh đến tê tái, cảm giác thật dễ chịu khi được nằm thư giãn bên dưới tấm chăn và cảm nhận sự ấm áp len trở lại chân tay mình. Cùng với nó là cơn buồn ngủ ập đến, và tôi thoải mái thiếp đi trên vai Frank. Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy là cái đầu của tài xế in bóng trên nền trời đỏ ửng.
Lúc chúng tôi tới nơi thì đã hơn chín giờ, và hướng dẫn viên mà Frank thuê đang đợi chúng tôi ở mép hồ với một cái xuồng nhỏ. “Thưa ngài, tôi nghĩ chúng ta nên đi thuyền xuôi theo bờ hồ để tới lâu đài Urquhart. Có lẽ chúng ta sẽ ăn trưa ở đó một lúc rồi tiếp tục lên đường.” Hướng dẫn viên của chúng tôi là một người đàn ông nhỏ thó có vẻ mặt nghiêm nghị, mặc áo sơ mi cotton bạc phếch và quần vải chéo. Sau khi xếp gọn cái giỏ đựng đồ picnic dưới ghế ngồi, anh ta đưa bàn tay chai sần ra đỡ tôi bước xuống thuyền.
Hôm ấy trời đẹp tuyệt, những rặng cây đang đâm chồi nảy lộc hai bên bờ dốc lờ mờ in bóng trên mặt hồ lăn tăn sóng gợn. Mặc dù có vẻ ngoài nghiêm nghị nhưng hướng dẫn viên của chúng tôi lại là người giàu kiến
thức và nói nhiều, vừa đi anh ta vừa chỉ cho chúng tôi xem những hòn đảo, lâu đài và các phế tích nằm ven cái hồ dài và hẹp.
“Đằng kia chính là lâu đài Urquhart.” Anh ta chỉ một bức tường đá phẳng nhẵn lấp ló sau những rặng cây. “Hay đúng hơn là những gì còn lại của nó. Nó đã bị các phù thủy ở thung lũng lớn nguyền rủa và phải chứng kiến hết bất hạnh này đến bất hạnh khác.”
Anh ta kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về Mary Grant, con gái của vị lãnh chúa ngự tại lâu đài Urquhart, và người tình của nàng, Donald Donn, cậu con trai thi sĩ của MacDonald xứ Bohuntin. Mặc dù họ bị ngăn cấm bởi cha nàng không chấp nhận thói quen của chàng là “nẫng” bất cứ con gia súc nào mà chàng bắt gặp (hướng dẫn viên quả quyết với chúng tôi đó là một “nghề” danh giá và lâu đời của vùng cao nguyên), nhưng họ vẫn lén lút gặp nhau. Nghe phong thanh được chuyện đó, cha nàng bèn nhử Donald tới một điểm hẹn giả và bắt giữ chàng. Bị xử tội chết, chàng đã cầu xin để mình bị chặt đầu như một quý ông thay vì bị treo cổ như một tên tội phạm xấu xa tàn ác. Yêu cầu ấy được chấp thuận, và chàng trai trẻ được dẫn đến chỗ hành hình, miệng lặp đi lặp lại: “Quỷ sứ sẽ đến bắt Lãnh chúa Grant, bởi Donald Donn không bị treo cổ.”[29] Và truyền thuyết kể rằng khi cái đầu đã lìa khỏi cổ của chàng lăn khỏi tấm gỗ kê, nó nói: “Mary, hãy nhặt đầu anh lên.”
Tôi rùng mình, và Frank choàng cánh tay ôm lấy tôi. “Có một mẩu thơ của Donald Donn vẫn còn lưu lại đến ngày nay,” anh khẽ nói. “Nó là thế này:
Ngài mai tôi sẽ ở trên một ngọn đồi, không còn đầu nữa.
Người có xót thương cho nàng trinh nữ u sầu của tôi không, Mary của tôi, có nước da trắng và cặp mắt dịu dàng?”
Tôi nắm lấy tay anh và khẽ siết nó.
Sau khi nghe hết câu chuyện này đến câu chuyện khác về sự phản bội, giết người và bạo lực, cái hồ bỗng trở nên đáng sợ như danh tiếng của nó. “Còn con quái vật thì sao?” Tôi hỏi, ngoảnh nhìn lòng hồ u ám. Nó có vẻ là nơi trú ẩn hoàn toàn lý tưởng cho con quái vật.
Hướng dẫn viên của chúng tôi nhún vai và khạc nhổ xuống mặt nước.
“Chà, rõ ràng cái hồ này rất kỳ quái. Có những câu chuyện kể rằng từng có một sinh vật già đời và độc ác sống trong lòng hồ. Người ta đã dâng các vật hiến tế cho nó - bò cái, thậm chí đôi khi là trẻ nhỏ, được bỏ trong những cái giỏ liễu gai và ném xuống nước.” Anh ta lại khạc nhổ. “Và một số người nói cái hồ này không có đáy - ở giữa lòng hồ có một cái hố sâu hơn bất cứ thứ gì khác ở Scotland. Tuy nhiên,” - đôi mắt đầy vết chân chim của hướng dẫn viên nheo lại - “mấy năm trước, có một gia đình từ Lancashire chuyển đến đây hớt hơ hớt hải chạy vào đồn cảnh sát ở Invermoriston, kêu lên thất thanh rằng họ đã nhìn thấy con quái vật rời khỏi mặt nước và trốn trong bãi dương xỉ diều hâu. Họ nói đó là một sinh vật gớm ghiếc, có bộ lông màu đỏ và những cái sừng đáng sợ. Nó đang nhai một thứ gì đó, máu từ miệng nhỏ xuống tong tỏng.” Anh ta giơ tay lên, ngăn chặn tiếng thét kinh hãi của tôi.
“Viên cảnh sát được cử đi xem xét tình hình khi quay lại đã nói, trừ việc máu nhỏ tong tỏng, họ đã miêu tả rất chính xác” - anh ta ngừng lại để gây kịch tính - “một con bò cao nguyên xinh đẹp đang nhai lại thức ăn trong bụi dương xỉ diều hâu!”
Chúng tôi đi được một nửa chiều dài của hồ thì lên bờ để ăn bữa trưa muộn. Xe ô tô đón chúng tôi ở đó và chở chúng tôi về qua thung lũng lớn. Trên đường đi chẳng thấy có gì đáng sợ, chỉ có một con cáo đỏ ngậm một sinh vật nhỏ mềm nhũn ở trong mồm. Nó giật mình ngẩng lên khi chúng tôi quẹo xe ở một khúc quành, rồi nhảy vọt vào lề đường và trèo lên bờ đê, nhanh như một cái bóng.
Trời đã tối mịt lúc chúng tôi lảo đảo bước trên con đường dẫn về căn nhà nghỉ của bà Baird, nhưng chúng tôi vẫn bám dính vào nhau trên bậc thềm và cười vui vẻ trước các sự kiện trong ngày khi Frank mò mẫm tìm chìa khóa.
Mãi đến lúc cởi đồ để đi ngủ, tôi mới nhớ ra và nhắc đến vòng tròn đá mi ni ở Craigh na Dun với Frank. Vẻ mệt mỏi của anh biến mất ngay lập tức.
“Thật à? Và em biết nó ở đâu ư? Tuyệt quá, Claire!” Anh cười rạng rỡ và bắt đầu lục lọi va li.
“Anh tìm gì thế?”
“Đồng hồ báo thức,” anh đáp, lôi nó ra.
“Để làm gì?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
“Anh muốn dậy kịp lúc để được nhìn thấy họ.”
“Ai cơ?”
“Các phù thủy.”
“Phù thủy á? Ai nói với anh là có phù thủy chứ?”
“Mục sư,” Frank trả lời, rõ ràng thích thú với lời nói đùa này. “Bà quản gia của ông ấy là một trong số đó.”
Tôi nghĩ về bà Graham đáng kính và cười khẩy. “Đừng có lố bịch thế!”
“Chà, thực ra thì không phải phù thủy. Đã từng có phù thủy trên khắp vùng Scotland trong hàng mấy trăm năm, nhưng đến thế kỷ mười tám họ đã bị thiêu sống hết rồi. Đám người này là tín đồ Druid, hoặc đại loại thế. Anh không nghĩ đó là một giáo phái tà đạo thờ ma quỷ. Nhưng mục sư nói rằng trong vùng vẫn có một nhóm người thực hiện các nghi lễ thờ cúng vào những ngày lễ mừng mặt trời. Ông ấy không thể quan tâm quá nhiều đến chuyện này vì địa vị của mình, em biết đấy, nhưng lòng hiếu kỳ khiến ông ấy không thể lờ nó đi hoàn toàn. Ông ấy không biết các nghi lễ được thực hiện ở đâu nhưng nếu có một vòng tròn đá ở gần đây thì hẳn là nơi đó.” Anh xoa xoa hai tay vào nhau vẻ háo hức. “May mắn làm sao!”
•••
Thức dậy khi trời còn tối mò để đi khám phá thì cũng vui đấy, nhưng làm thế trong hai ngày liên tiếp thì chẳng khác nào tự hành xác. Lần này cũng không có chiếc ô tô ấm áp với chăn và bình nước nóng. Tôi loạng choạng đi theo sau Frank lên đồi trong tình trạng ngái ngủ, thi thoảng lại vấp vào một hòn đá hoặc rễ cây. Trời lạnh căm căm và dày đặc sương mù, khiến tôi phải thọc sâu hai tay vào túi áo khoác len. Dấn bước cuối cùng lên đỉnh đồi, vòng tròn đá lập tức lờ mờ hiện ra trước mắt chúng tôi trong cảnh tranh tối tranh sáng. Frank đứng im như tượng, say mê ngắm nghía nó, trong khi tôi ngồi phịch xuống một tảng đá, thở hổn hển.
“Đẹp quá,” anh lẩm bẩm, rón rén tiến tới mép ngoài của vòng tròn, thân hình như một cái bóng của anh biến mất giữa những cái bóng lớn hơn của những tảng đá. Chúng thật đẹp nhưng cũng kỳ quái ghê gớm. Tôi rùng mình, không chỉ vì lạnh. Nếu người nào đó tạo ra vòng tròn này có ý định dọa dẫm kẻ khác thì họ đã làm được rồi đấy.
Một thoáng sau, Frank quay lại. “Chưa có ai ở đây cả,” anh chợt thì thầm từ phía sau, khiến tôi giật nẩy mình. “Đi nào, anh đã tìm ra một chỗ để chúng ta có thể núp vào mà quan sát.”
Lúc này, ánh sáng bắt đầu hiện lên ở đằng đông, nó mới chỉ là một vệt màu xám nhạt nơi chân trời, nhưng cũng đủ giúp tôi khỏi vấp ngã khi Frank dẫn tôi chui qua một khe hở mà anh tìm thấy giữa những bụi tống quán sủi gần đầu con đường mòn. Bên trong những lùm cây có một khoảng trống nhỏ xíu, hai chúng tôi phải nép sát vào nhau mới đủ chỗ, nhưng từ đây có thể nhìn rõ con đường mòn và phía trong của vòng tròn đá nằm cách chúng tôi không quá sáu mét. Tôi lại một lần nữa tự hỏi trong chiến tranh Frank đã làm loại công việc gì? Anh có vẻ rất rành việc di chuyển lặng lẽ trong bóng tối.
Vì đang ngái ngủ nên tôi chỉ muốn nằm cuộn mình dưới một bụi cây ấm áp và đánh một giấc, nhưng vì chẳng có chỗ để làm việc đó nên tôi đành tiếp tục đứng nhìn chăm chú con đường dốc để ngóng các tín đồ Druid đang trên đường đến. Lưng và chân tôi bắt đầu nhức mỏi, nhưng chắc cũng không còn lâu nữa; vệt sáng đằng đông đã chuyển sang màu hồng nhạt, chắc chỉ chưa đầy nửa tiếng nữa là bình minh sẽ lên.
Người đầu tiên đến một cách lặng lẽ gần như Frank. Chỉ có tiếng lạch cạch rất khẽ khi chân bà ta đá phải một viên sỏi gần đỉnh đồi, rồi mái đầu màu xám gọn gàng đột ngột nhô lên. Bà Graham. Vậy là đúng rồi! Bà quản gia của mục sư đang mặc váy vải tuýt và áo khoác len, tay kẹp một cái bọc màu trắng. Bà biến mất sau một cột đá, âm thầm như một bóng ma.
Chẳng mấy chốc những người còn lại cũng tới, đi một mình hoặc theo nhóm hai, ba người, cười khúc khích và thì thầm với nhau. Thế rồi con đường nhanh chóng trở lại im ắng sau khi họ đi vào vòng tròn.
Tôi nhận ra một vài người. Kia là bà Buchanan, giám đốc bưu điện của làng, mùi hương Evening in Paris đang nồng nàn tỏa ra từ mái tóc vàng hoe
mới uốn của bà. Tôi nén cười. Vậy ra đây chính là một tín đồ Druid thời hiện đại!
Cả thảy có mười lăm người, toàn là phụ nữ, trong độ tuổi từ bà Graham hơn sáu mươi đến một thiếu phụ trẻ chừng ngoài hai mươi mà hai hôm trước tôi đã nhìn thấy đẩy một cái xe nôi quanh các cửa hàng. Tất cả bọn họ đều ăn mặc phù hợp với việc đi bộ, dưới cánh tay ai nấy đều kẹp một bọc đồ. Họ chào hỏi nhau đôi ba câu rồi biến mất đằng sau những tảng đá hay những bụi cây, rồi quay trở lại với hai bàn tay không, trên người là bộ đồ màu trắng và cánh tay để trần. Khi một người đi lướt qua bụi cây chúng tôi đang nấp, tôi ngửi thấy mùi xà phòng giặt và nhận ra y phục của họ giống như những tấm chăn mỏng quấn quanh cơ thể và thắt lại ở vai.
Họ tụ lại bên ngoài vòng tròn đá, theo một hàng từ già đến trẻ, và đứng im lặng, chờ đợi. Ánh sáng từ đằng đông trở nên mạnh hơn. Khi vầng dương nhú lên trên đường chân trời, hàng người bắt đầu di chuyển chậm rãi giữa hai cột đá. Người đứng đầu dẫn họ đi thẳng vào tâm vòng tròn, rồi cứ thế đi vòng quanh, chậm rãi và nghiêm trang như những con thiên nga đang diễu hành.
Người đứng đầu đột ngột dừng lại, giơ hai tay lên và bước vào tâm vòng tròn. Ngẩng mặt về phía hai cột đá ở rìa phía đông, bà ta cất tiếng kêu gọi bằng giọng cao vút, tiếng nói không lớn lắm nhưng đủ rõ để khắp vòng tròn nghe thấy được. Trong màn sương mù tĩnh lặng, tiếng nói ấy trở nên vang vọng như thể nó phát ra từ khắp nơi, thậm chí từ chính bản thân những cột đá.
Các vũ công lặp lại lời bà. Bây giờ họ đã trở thành những vũ công. Họ không chạm vào nhau, mà chỉ giơ tay về phía nhau, nhún nhảy và đi vòng quanh. Đột nhiên vòng tròn tách làm đôi. Bảy vũ công di chuyển theo chiều kim đồng hồ. Những người khác di chuyển theo hướng ngược lại. Hai nửa vòng tròn đi qua nhau với tốc độ ngày càng tăng, thi thoảng hợp thành một vòng tròn trọn vẹn, thi thoảng lại tạo nên một hàng đôi. Và ở giữa, người dẫn đầu đứng im phăng phắc, vẫn tiếp tục cất giọng thê lương với âm vực cao vút bằng một thứ ngôn ngữ đã mất từ lâu.
Đáng lẽ tôi phải cảm thấy buồn cười vì trông họ thật ngớ ngẩn. Và có lẽ họ ngớ ngẩn thật. Một nhóm phụ nữ, trong đó có nhiều người to béo và chẳng hề nhanh nhẹn, quấn chăn và diễu hành theo vòng tròn trên đỉnh một
ngọn đồi. Nhưng tóc gáy tôi dựng đứng cả lên khi nghe thấy tiếng kêu của họ.
Họ dừng lại cùng một lúc, quay mặt về phía mặt trời mọc, đứng thành hai nửa vòng tròn, tạo ra một lối đi ở giữa. Khi mặt trời nhô hẳn lên khỏi đường chân trời, ánh sáng tràn qua khoảng trống giữa hai cột đá ở đằng đông, theo lối đi giữa hai nửa vòng tròn chiếu vào cột đá nứt đồ sộ ở phía đối diện.
Trong một thoáng, các vũ công đứng sững như hóa đá trong bóng tối hai bên luồng sáng. Thế rồi bà Graham nói gì đó bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ lúc nãy, nhưng lần này với giọng bình thường. Bà xoay người và bước đi dọc theo con đường ánh sáng, lưng ưỡn thẳng, những dợn tóc màu xám sắt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Các vũ công lục tục bước theo bà, không ai nói một lời. Từng người một đi qua khe nứt trên tảng đá chính và lặng lẽ biến mất.
Chúng tôi lom khom ẩn nấp trong bụi tống quán sủi cho đến khi những người phụ nữ, giờ đã cười nói bình thường, thay lại y phục cũ và đi thành nhóm xuống đồi, hướng về phía nhà mục sư để uống cà phê.
“Chúa ơi!” Tôi duỗi tay duỗi chân, cố gắng xua tan cơn tê mỏi ở chân và lưng. “Quả là một cảnh tượng đặc biệt, đúng không?”
“Tuyệt vời!” Frank tán tụng. “Anh sẽ không đánh đổi khoảnh khắc được chứng kiến cảnh tượng ấy vì bất cứ thứ gì trên đời này.” Anh trườn ra khỏi lùm cây như một con rắn, để mặc tôi tự gỡ mình ra trong khi anh bò quanh phía bên trong của vòng tròn, gí sát mũi xuống đất như một con chó săn.
“Anh đang tìm cái gì vậy?” Tôi hỏi, ngập ngừng bước vào vòng tròn đá, nhưng trời đang sáng rõ, và những cột đá, dù vẫn oai vệ, đã mất đi dáng vẻ hăm dọa đầy nguy hiểm như trong lúc bình minh.
“Các dấu vết,” anh đáp, bò loanh quanh, mắt dán chặt vào lớp đất cỏ mọc lún phún. “Làm sao họ biết phải bắt đầu và dừng lại ở đâu nhỉ?” “Câu hỏi hay đấy. Em chẳng thấy gì cả.” Nhưng khi quét ánh mắt trên mặt đất, tôi trông thấy một loài cây thú vị mọc gần chân một trong những cột đá cao. Cỏ lưu ly chăng? Không, có lẽ không phải; hoa của loài cây này có nhụy màu cam và cánh màu xanh sẫm. Trí tò mò bị khơi gợi, tôi dợm bước về phía nó. Vốn thính tai hơn tôi, Frank bỗng nhảy dựng lên và túm
lấy cánh tay tôi, kéo tôi ra khỏi vòng tròn ngay trước khi một trong những vũ công buổi sáng bước vào từ phía bên kia.
Đó là cô Grant, người phụ nữ mập lùn, chủ cửa hàng bánh kẹo ở phố High của thị trấn, một nghề có vẻ phù hợp với thân hình của cô ta. Cô ta nheo mắt săm soi khắp xung quanh, rồi mò mẫm tìm kính trong túi. Ấn kính lên mũi, cô ta lững thững đi quanh vòng tròn, cuối cùng chộp lấy cái kẹp tóc bị rơi, thứ đã khiến cô ta phải quay lại. Sau khi kẹp nó vào những lọn tóc dày dặn bóng mượt, cô ta có vẻ không vội quay về với công việc mà lại ngồi xuống một tảng đá, tựa vào một trong những cột đá khổng lồ với vẻ thoải mái và nhàn nhã châm một điếu thuốc.
Frank khẽ thở dài bực tức bên cạnh tôi. “Hừ,” anh nói, vẻ nhẫn nhịn, “chúng ta nên đi thôi. Cô ta có thể ngồi đó cả buổi sáng mất, cứ nhìn cái dáng vẻ kia thì biết. Dù sao đi nữa, anh cũng không thấy dấu vết rõ rệt nào.”
“Có lẽ chúng ta nên quay lại đây sau,” tôi gợi ý, vẫn còn tò mò về loài cây leo có hoa màu xanh.
“Ừ.” Nhưng rõ ràng anh đã mất hết hứng thú với vòng tròn đá mà chỉ đắm chìm vào những chi tiết của nghi lễ vừa rồi. Trên đường xuống đồi, anh hỏi tôi không ngừng, giục tôi nhớ lại càng chính xác càng tốt từng lời mà những người phụ nữ kia đã nói, và thời điểm diễn ra điệu nhảy.
“Bắc Âu,” cuối cùng anh nói với vẻ thỏa mãn. “Những từ cơ bản là ngôn ngữ Bắc Âu cổ, anh gần như chắc chắn đấy. Nhưng điệu nhảy,” anh lắc đầu, ngẫm nghĩ. “Không, điệu nhảy còn cổ xưa hơn nhiều. Không phải là người Viking không có những điệu nhảy vòng tròn,” anh nói, nhướng mày vẻ nghiêm nghị, như thể chính tôi đã nói là không có. “Nhưng cái kiểu di chuyển theo hai hàng đó, nó… hừm, nó giống như… chà, một vài mẫu hoa văn trên những món đồ gốm tráng men của người Beaker, khá giống như thế, nhưng mà… hừm.”
Anh lại rơi vào trạng thái xuất thần của một học giả, thi thoảng lẩm bẩm một mình. Trạng thái ấy chỉ bị phá vỡ khi anh bất ngờ vấp phải một thứ gì đó gần chân đồi. Anh giật mình hét to, khua loạn hai tay khi bị trượt chân và lăn lông lốc xuống khoảng một mét cuối cùng của con đường, ngã vào một lùm nga sâm.
Tôi lao như bay xuống đồi theo anh, nhưng lúc tôi tới chân đồi thì đã thấy anh ngồi dậy giữa những thân cây rung rinh.
“Anh không sao chứ?” Tôi hỏi, dù có thể thấy là anh vẫn ổn. “Chắc vậy.” Anh choáng váng đưa tay lên trán, vuốt lại tóc. “Anh bị vấp vào cái gì thế?”
Cái này.” Tôi giơ lên một hộp cá mòi bị một vị khách của buổi sớm vứt ở đó. “Một trong những mối đe dọa của nền văn minh.”
“A.” Anh đón lấy nó từ tay tôi, nhòm vào bên trong, rồi ném nó qua vai. “Tiếc là nó rỗng không. Anh thấy hơi đói. Chúng ta về xem bà Baird có gì cho bữa sáng muộn nhé?”
“Vâng,” tôi nói, vén nốt những sợi tóc còn lòa xòa trên trán anh. “Nhưng chúng ta cũng có thể biến nó thành bữa trưa sớm.” Ánh mắt tôi giao với mắt anh.
“À,” anh lại nói với tông giọng khác hẳn. Bàn tay anh chầm chậm lướt lên cánh tay và cần cổ tôi, ngón cái nhẹ nhàng mơn trớn thùy tai tôi. “Đúng là chúng ta có thể.”
“Nếu anh không quá đói,” tôi nói. Bàn tay kia của anh lần lên sau lưng tôi. Lòng bàn tay mở ra, nhẹ nhàng ấn tôi vào người anh, các ngón tay nhích xuống thấp dần, thấp dần. Miệng anh hé mở và hơi thở ấm áp của anh khẽ phả dọc theo cổ váy tôi.
Anh nhẹ nhàng đặt tôi xuống cỏ, những bông nga sâm mượt tựa lông tơ như đang bồng bềnh quanh đầu anh. Anh cúi xuống, dịu dàng hôn tôi, vừa hôn vừa cởi từng chiếc cúc váy với vẻ khiêu khích.
Bàn tay đang vuốt ve lưng tôi cứ trượt xuống thấp dần, thấp dần, rồi đột ngột dừng lại trong nỗi kinh ngạc. Nó lại lần mò một hồi nữa, rồi Frank ngẩng đầu lên và nhìn tôi, cười toe.
“Cái gì thế này?” Anh hỏi, nhái giọng một viên cảnh sát làng. “Hay đúng hơn là, sao lại không có gì?”
“Chỉ là chuẩn bị sẵn sàng thôi mà,” tôi nghiêm trang nói. “Các y tá được dạy rằng phải phòng trước những chuyện bất ngờ.” “Thực tình, Claire,” anh lẩm bẩm. “Em là người có đầu óc thực tế khủng khiếp nhất mà anh từng biết.”
•••
Vào buổi tối hôm đó, tôi đang ngồi trong phòng khách với một quyển sách lớn trải ra trên lòng thì Frank đi tới sau lưng.
Em đang làm gì đấy?” Anh hỏi, nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi. “Tìm kiếm loài cây đó,” tôi đáp, kẹp ngón tay vào giữa các trang sách để đánh dấu. “Loài cây mà em nhìn thấy chỗ vòng tròn đá. Nhìn này…” Tôi mở cuốn sách ra. “Nó có thể thuộc họ hoa chuông hoặc long đởm, lá thang, mồ hôi - em nghĩ có khả năng nhất là lưu ly - nhưng nó cũng có thể thuộc loài này, Anemone patens.” Tôi chỉ vào hình minh họa đầy màu sắc của một cây ngân liên hoa. “Em không nghĩ nó thuộc họ long đởm; cánh của nó không thực sự tròn, nhưng…”
“Chà, sao em không trở lại đó và hái nó nhỉ?” Anh gợi ý. “Có lẽ ông Crook sẽ cho em mượn “cỗ pháo nổ” cũ kĩ của ông ấy hoặc - không, anh có một ý hay hơn. Hãy mượn xe của bà Baird, như thế an toàn hơn. Từ đường cái tới chân đồi chỉ phải đi bộ một đoạn ngắn thôi mà.”
“Và rồi sau đó phải leo thêm một nghìn thước nữa,” tôi nói. “Tại sao anh lại hứng thú với loài cây đó như thế?” Tôi xoay người lại để ngước nhìn anh. Ánh đèn phòng khách viền quanh đầu anh một vành mỏng màu vàng kim, khiến anh trông giống như một vị thánh trong một bản in khắc thời Trung cổ.
“Thứ anh quan tâm không phải là loài cây đó. Nếu em định quay lại nơi ấy, anh muốn em xem qua một lượt bên ngoài vòng tròn đá luôn.” “Được thôi,” tôi đồng ý. “Để tìm cái gì vậy?”
“Dấu vết của lửa,” anh nói. “Tất cả các tài liệu anh đã đọc về lễ Beltane đều nhắc đến lửa trong các nghi lễ, nhưng những người phụ nữ chúng ta nhìn thấy sáng nay không hề dùng đến nó. Phải chăng họ đã đốt lửa vào đêm hôm trước, rồi sáng hôm sau mới quay lại để nhảy múa? Mặc dù theo lịch sử thì những người chăn bò mới có nhiệm vụ nhóm lửa. Chẳng hề có dấu vết của lửa bên trong vòng tròn đá.” Anh nói thêm. “Nhưng anh chưa kịp kiểm tra ở bên ngoài.”
“Được thôi,” tôi lặp lại và ngáp. Đây chính là tác hại của việc dậy sớm hai hôm liên tiếp. Tôi gấp sách lại và đứng dậy. “Miễn là em không phải dậy trước chín giờ.”
Thực tế thì gần mười một giờ tôi mới tới vòng tròn đá. Trời mưa lún phún khiến tôi ướt hết cả người vì không nghĩ tới chuyện mang theo áo mưa. Tôi kiểm tra nhanh bên ngoài vòng tròn, nhưng nếu ở đó từng có một ngọn lửa, hẳn là đã có người bỏ công bỏ sức xóa sạch mọi dấu vết rồi.
Loài cây tôi quan tâm thì dễ tìm hơn. Nó vẫn ở đúng chỗ tôi nhớ, gần chân cột đá cao nhất. Tôi cắt lấy vài cây và gói tạm vào chiếc khăn tay, định bụng sẽ cất nó cẩn thận hơn khi nào tôi về chỗ chiếc xe nhỏ xíu của bà Baird, vì tôi đã để lại những cái khuôn ép hoa cỏ nặng nề ở đó.
Cột đá cao nhất của vòng tròn bị nứt một đường thẳng đứng, chia cột đá thành hai nửa đồ sộ. Lạ một điều là hai nửa khối đá như bị kéo doãng ra. Mặc dù bề mặt của chúng khớp với nhau, nhưng chúng cách nhau một khoảng chừng hơn nửa mét.
Quanh quẩn đâu đây có tiếng vo vo trầm thấp. Tôi đoán trong khe nứt có thể có một tổ ong, nên chống tay lên cột đá để ngó vào. Cột đá rít lên.
Tôi lùi phắt lại, nhanh đến nỗi vấp phải một búi cỏ và ngã phịch xuống. Tôi nhìn chằm chằm vào cột đá, toát mồ hôi hột.
Tôi chưa bao giờ nghe thấy âm thanh nào như thế từ bất kỳ sinh vật sống nào. Chẳng có cách nào để miêu tả nó, chỉ biết nói rằng đó là tiếng rít có thể phát ra từ một tảng đá. Nó thật khủng khiếp.
Những cột đá khác bắt đầu rít lên. Có tiếng chiến trận cùng tiếng kêu rên của những người đàn ông đang hấp hối và những con ngựa bị kiệt sức. Tôi lắc đầu thật mạnh để xua tan âm thanh ấy, nhưng nó vẫn vang vọng. Tôi lảo đảo đứng dậy và loạng choạng đi về phía mép của vòng tròn. Những tiếng động vang lên khắp nơi, khiến răng tôi đau buốt và đầu tôi quay cuồng. Mắt tôi bắt đầu nhòa đi.
Tôi không biết liệu tôi chủ đích đi về phía khe nứt của cột đá chính hay màn âm thanh hỗn loạn đã đẩy tôi về phía đó.
Một lần, khi đang đi xe vào ban đêm, tôi đã ngủ thiếp đi vì bị tiếng động cơ rù rì và sự chuyển động êm ái ru vào một ảo giác lâng lâng đầy yên bình. Thế rồi người tài xế phóng xe lên một cây cầu quá nhanh nên bị mất lái, khiến tôi giật mình tỉnh dậy từ giấc mơ bồng bềnh, đối mặt với ánh đèn pha sáng lóa và cảm giác nôn nao kinh hoàng khi bị rơi xuống với
tốc độ cao. Sự chuyển biến đột ngột đó gần giống như cảm giác mà tôi đang trải qua lúc này, dù vẫn chưa thể mô tả trọn vẹn được. Có thể nói tầm nhìn của tôi co cụm lại thành một chấm đen duy nhất rồi biến mất, để lại một khoảng trống chói lòa. Có thể nói tôi cảm thấy mình như đang xoay tròn, hoặc bị lộn từ trong ra ngoài. Nhưng như thế vẫn chưa lột tả được hết cảm giác của tôi về sự vỡ vụn hoàn toàn, về việc bị ném rất mạnh vào một thứ gì đấy vô hình.
Thật ra thì chẳng có gì chuyển động, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì xảy ra, nhưng cảm giác sợ hãi quá mãnh liệt đến nỗi tôi chẳng còn biết mình là ai, là cái gì, hay đang ở đâu. Tôi đang ở trong tâm của sự hỗn loạn, cả sức mạnh trí óc lẫn sức mạnh cơ thể đều trở nên vô tác dụng.
Không phải là tôi bị mất ý thức, nhưng chắc chắn là tôi không nhận thức được về bản thân mình suốt một lúc lâu. Tôi “tỉnh lại” - nếu nói một cách chính xác - khi vấp phải một hòn đá gần chân đồi, rồi gần như trượt xuống cả mét dốc còn lại và ngã vào một búi cỏ dày.
Buồn nôn và chóng mặt, tôi bò tới một rặng sồi non và tựa vào một thân cây. Có tiếng la hét văng vẳng đâu đây, nhắc tôi nhớ đến những tiếng rít mà tôi đã nghe thấy và cảm thấy trong vòng tròn đá. Nhưng đây chỉ là âm thanh bình thường của một cuộc xung đột giữa người với người, và tôi quay về phía đó.
3
Người đàn ông trong rừng
T
ôi trông thấy ở phía xa xa có hai, ba người mặc váy kẻ ô đang chạy trối chết qua một khoảng đất trống nhỏ. Có tiếng “bùm bùm” vang lên mà tôi sửng sốt nhận ra là tiếng súng nổ.
Ngay sau đó là sự xuất hiện của năm, sáu người đàn ông mặc áo khoác đỏ và quần ống túm, tay vung vẩy những khẩu súng hỏa mai, khiến tôi chắc mẩm mình vẫn đang bị ảo giác. Tôi chớp chớp mắt và nhìn chằm chằm, rồi giơ hai ngón tay lên trước mặt. Tôi vẫn nhìn thấy đúng hai ngón tay, rõ ràng và chuẩn xác, vậy là tôi không bị hoa mắt. Tôi dè dặt hít ngửi không khí, cảm nhận mùi hăng hăng của cây cối mùa xuân và mùi cỏ ba lá nhàn nhạt tỏa ra từ một bụi cây gần chân tôi. Như vậy khứu giác của tôi không có vấn đề gì.
Tôi sờ lên đầu. Chẳng bị đau ở đâu cả. Vậy là đầu tôi không bị chấn động. Mạch đập hơi nhanh nhưng ổn định.
Tiếng hét phía xa đột ngột thay đổi. Có tiếng móng guốc nện rầm rầm trên mặt đất rồi vài con ngựa phi như bay về phía tôi, trên lưng là những người Scot mặc váy kẻ ô, đang hát kiểu yodel[30] bằng tiếng Gaelic. Tôi lập tức tránh sang một bên, phản ứng nhanh nhẹn ấy chứng minh rằng thân thể tôi không bị tổn hại gì.
Và rồi tôi chợt nghĩ ra, khi một gã áo đỏ bị một người Scot hạ đo ván đứng dậy dứ dứ nắm đấm về phía lũ ngựa. Đương nhiên rồi. Một bộ phim! Tôi lắc đầu trước sự chậm hiểu của mình. Họ đang quay một bộ phim cổ trang nào đó, vậy thôi. Dạng phim nói về Hoàng tử Xinh đẹp[31] trong bãi thạch nam, hẳn rồi!
Chà. Với một bộ phim có giá trị nghệ thuật như thế này, đoàn làm phim chắc chắn sẽ oán trách tôi vì đã đem một “hạt sạn” vào trong những cảnh quay của họ. Tôi quay trở vào rừng, định đi vòng quanh khoảng đất trống để ra đường cái nơi tôi đậu xe. Nhưng việc đi lại khó khăn hơn tôi tưởng. Khu rừng còn non, những bụi cây thấp ken dày cào rách váy áo tôi. Tôi
ẳ
phải hết sức cẩn thận khi đi qua những cây non khẳng khiu, vừa đi vừa gỡ các lớp váy bị mắc vào những bụi gai.
Nếu hắn là một con rắn, hẳn là tôi đã giẫm lên hắn. Hắn đứng im lìm giữa những cái cây non khiến bản thân hắn gần giống như một thân cây, và tôi không để ý cho đến khi hắn vươn tay tóm lấy cánh tay tôi.
Bàn tay còn lại bịt miệng tôi, lôi tôi về phía lùm sồi, khiến tôi hoảng loạn quẫy đạp loạn xạ. Kẻ bắt giữ tôi, dù hắn là ai, có vẻ không cao hơn tôi là mấy nhưng có cánh tay khỏe ghê gớm. Tôi ngửi thấy mùi hoa thoang thoảng, như là mùi nước hoa oải hương, và thứ gì đó nồng hơn, quyện lẫn với mùi mồ hôi đàn ông găn gắt. Nhưng khi những chiếc lá bật trở lại vị trí cũ khi chúng tôi đi qua, tôi nhận thấy nét quen thuộc ở bàn tay và cánh tay đang siết chặt eo tôi.
Tôi lắc đầu nguầy nguậy để giật ra khỏi bàn tay đang bịt miệng mình. “Frank!” Tôi hét to. “Anh đang làm trò quái quỷ gì vậy?” Tôi vừa nhẹ nhõm khi phát hiện ra anh ở đây vừa giận dữ trước trò đùa này. Vốn đang bối rối vì những gì vừa trải qua ở chỗ vòng tròn đá, tôi không có tâm trạng để chơi những trò cảm giác mạnh.
Hai bàn tay buông tôi ra, nhưng khi quay mặt lại, tôi lập tức cảm thấy có gì đó không đúng. Không chỉ là mùi nước hoa xa lạ, mà còn là thứ gì đó mơ hồ hơn. Tôi đứng im như tượng, tóc gáy dựng đứng.
“Anh không phải là Frank,” tôi lẩm bẩm.
“Đúng vậy,” hắn đồng ý, săm soi tôi với sự thích thú rõ rệt. “Một người bà con của tôi có tên như thế, nhưng tôi không nghĩ cô nhầm tôi với cậu ta, thưa cô. Chúng tôi không giống nhau lắm.”
Chẳng cần biết người bà con đó của hắn trông như thế nào, nhưng gã đàn ông này thì giống hệt Frank, như thể hắn là anh em ruột của Frank vậy. Hắn cũng có vóc dáng mảnh khảnh, khung xương nhỏ, khuôn mặt với những đường nét như được tạc, lông mày ngang, đôi mắt to màu hạt dẻ và mái tóc sẫm màu, uốn cong trước trán.
Nhưng tóc hắn để dài, được cột lại đằng sau bằng dây da, và làn da nâu sạm vì dãi dầu nắng gió suốt hàng tháng, mà không, phải đến hàng năm trời, chứ không phải là màu nâu vàng mà Frank có được trong chuyến đi nghỉ ở Scotland của chúng tôi.
“Vậy anh là ai?” Tôi hỏi, cảm thấy bất an. Mặc dù Frank có rất nhiều họ hàng và người quen, nhưng tôi nghĩ tôi biết tất cả bà con người Anh của anh. Trong số họ chẳng có ai trông giống người đàn ông này. Và nếu có bất cứ người họ hàng gần nào sống ở vùng cao nguyên thì Frank phải kể với tôi chứ? Không những thế, anh còn khăng khăng đến thăm họ, mang theo bảng phả hệ và những cuốn sổ tay, háo hức tìm hiểu bất cứ mẩu tin tức nhỏ nhoi nào về lịch sử gia đình có liên quan đến Jack Randall Hắc Ám nổi tiếng nữa kìa.
Người lạ nhướng mày trước câu hỏi của tôi.
“Tôi là ai ấy hả? Chính tôi mới là người nên hỏi câu đó, thưa cô, bởi tôi có nhiều lý do để hỏi hơn.” Đôi mắt hắn chầm chậm săm soi tôi từ đầu đến chân, sỗ sàng đánh giá chiếc váy cotton mỏng thêu hoa mẫu đơn mà tôi đang mặc, và nấn ná ở đôi chân tôi với vẻ thích thú kỳ quái. Tôi hoàn toàn chẳng hiểu nổi ánh mắt đó, nhưng nó khiến tôi vô cùng lo lắng, và tôi lùi lại một, hai bước, cho đến khi đột ngột khựng lại vì va vào một thân cây.
Cuối cùng gã đàn ông đó cũng dời mắt khỏi người tôi và quay sang bên cạnh. Như thể vừa thoát khỏi bàn tay kìm kẹp của hắn, tôi thở phào nhẹ nhõm, tới lúc đó mới nhận ra nãy giờ mình đã nín thở.
Hắn quay người để nhặt cái áo khoác vắt trên cành thấp nhất của một cây sồi non, phủi phủi mấy chiếc lá vương trên áo rồi mặc vào. Hẳn là tôi đã xuýt xoa kinh ngạc, bởi vì hắn lại ngước nhìn lên. Chiếc áo khoác có màu đỏ sẫm, đuôi dài và không có ve áo, dọc mặt trước là một hàng khuy khuyết thùa. Cổ tay áo lật ngược lên đúng mười lăm phân, để lộ lớp vải lót màu nâu sẫm, và một chùm tua rua màu vàng ánh lên từ một bên ngù vai. Đó là áo khoác của một kỵ binh châu Âu thế kỷ mười bảy, mười tám, dành cho sĩ quan. Rồi tôi chợt nghĩ ra - đương nhiên rồi, hắn là một diễn viên, cùng hội với đám người mà tôi đã nhìn thấy ở phía bên kia cánh rừng. Mặc dù thanh kiếm ngắn mà hắn bắt đầu cột lại trên người có vẻ thật hơn bất cứ đạo cụ nào mà tôi từng nhìn thấy.
Tôi ép mình vào thân cây đằng sau, sự rắn chắc của nó khiến tôi thấy vững tâm hơn. Tôi khoanh tay trước ngực vẻ phòng thủ.
“Anh là kẻ quái quỷ nào thế?” Tôi hỏi lại. Lần này thì đến chính tôi cũng phải sửng sốt vì giọng điệu gay gắt đáng sợ của mình.
Hắn làm như không nghe thấy, cứ nhẩn nha cài khuy áo. Chỉ khi đã xong việc, hắn mới lại nhìn tôi. Rồi hắn cúi đầu vẻ nhạo báng, tay đặt lên ngực chỗ trái tim.
“Thưa quý cô, tôi là Quý ngài Jonathan Randall, Đại úy của Đội Kỵ binh Hoàng gia Số tám. Sẵn sàng phục vụ quý cô.”
Tôi lập tức bỏ chạy, thở hồng hộc khi đâm bổ qua màn cây sồi và tống quán sủi, chẳng màng đến những bụi mâm xôi, tầm ma, đá sỏi, thân cây đổ, tất cả những gì trên đường đi. Tôi nghe thấy tiếng quát tháo đằng sau mình, nhưng quá kinh hoàng đến nỗi không xác định được nó phát ra từ đâu.
Tôi cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy, mặc kệ những cành cây chìa ra chắn lối cào xước mặt và hai cánh tay, mắt cá chân thì bị trẹo khi tôi giẫm vào những cái hố và vấp phải những hòn đá. Trong đầu tôi chẳng còn chỗ để chứa đựng bất cứ ý nghĩ sáng suốt nào; tôi chỉ muốn chạy thoát khỏi hắn.
Một vật nặng đập mạnh vào phần lưng dưới của tôi khiến tôi chúi về phía trước và ngã phịch xuống đất, đau đến nghẹt thở. Một đôi bàn tay xù xì lật ngửa tôi lại, và tôi thấy Đại úy Jonathan Randall đang quỳ bên cạnh tôi. Hắn thở hổn hển và đã làm mất thanh kiếm trong cuộc rượt đuổi. Trông hắn xộc xệch, bẩn thỉu và vô cùng bực bội.
“Cô bỏ chạy như thế là có ý gì?” Hắn hỏi. Một lọn tóc dày màu nâu sẫm rủ xuống cong cong trên trán, khiến hắn trông càng giống Frank hơn. Hắn cúi xuống, túm lấy hai cánh tay tôi. Vẫn còn thở hổn hển, tôi vùng vẫy giằng ra, nhưng lại làm hắn ngã chúi về phía tôi.
Hắn mất thăng bằng và nằm đè lên người tôi, khiến tôi nằm bẹp gí dưới đất. Đáng ngạc nhiên là điều này có vẻ khiến hắn hết bực bội. “Ồ, là như thế phải không?” Hắn nói, cười khùng khục. “Chà, ta rất sẵn lòng thỏa mãn cưng, nhưng không may là cưng lựa chọn thời điểm chẳng thích hợp chút nào.” Hắn ép chặt hông tôi xuống đất, và một viên đá nhỏ cắm sâu vào thắt lưng tôi đau điếng. Tôi vặn vẹo người để hẩy nó ra. Hông hắn đè nghiến hông tôi, và tay hắn ghim chặt vai tôi xuống đất. Tôi phẫn nộ mở miệng.
“Anh làm cái…” Tôi vừa cất tiếng thì hắn đã cúi đầu hôn tôi, ngắt ngang lời tôi. Lưỡi hắn thọc sâu vào miệng tôi sục sạo với sự suồng sã trơ
trẽn. Thế rồi hắn đột ngột rời ra hệt như lúc bắt đầu.
Hắn vỗ vỗ má tôi. “Khá lắm, cưng. Có lẽ để lần sau nhé, khi nào có thời gian rỗi, ta sẽ phục vụ cưng đàng hoàng hơn.”
Lúc này thì tôi đã lấy lại hơi sức. Tôi hét thẳng vào lỗ tai hắn, khiến hắn giật bắn mình như thể bị đâm một sợi dây kim loại nóng rực vào tai. Tôi lợi dụng thời cơ thúc mạnh đầu gối vào mạng sườn sơ hở của hắn, khiến hắn ngã sóng soài trên đống lá mủn.
Tôi lồm cồm bò dậy. Hắn lăn người lại một cách điệu nghệ và xông tới bên cạnh tôi. Tôi cuống cuồng liếc quanh, tìm một lối thoát, nhưng chúng tôi đang bị chặn lại ở chân một vách đá hoa cương cao chót vót nhô lên đột ngột từ mặt đất. Hắn bắt kịp tôi ở chỗ mặt đá lõm vào trong, tạo nên một cái hốc nông. Hắn chặn đứng lối vào, hai cánh tay dang rộng chống vào hai bên vách đá, khuôn mặt đen sạm điển trai mang vẻ giận dữ pha lẫn tò mò.
“Cô đang ở với ai vậy?” Hắn hỏi. “Frank, hắn là ai? Trong đám lính của tôi không có người nào tên như vậy. Hay đó là một người sống ở gần đây?” Hắn cười giễu cợt. “Trên người cô không có mùi phân, chứng tỏ cô không ở với một gã tá điền. Với lại, trông cô đắt đỏ hơn mức các nông dân trong vùng có thể chi trả.”
Tôi siết chặt nắm tay và nghiến răng. Chẳng hiểu thằng cha này đang nghĩ gì trong đầu nữa.
“Tôi không hiểu anh đang nói gì, vui lòng để tôi đi ngay lập tức!” Tôi nói, đổi sang tông giọng của một nữ y tá trưởng. Điều này thường có hiệu quả đối với những hộ lý cứng đầu và những thực tập sinh trẻ, nhưng có vẻ chỉ làm cho Đại úy Randall thêm thích thú. Tôi quyết tâm nén lại cảm giác sợ hãi và hoang mang đang nhộn nhạo trong lồng ngực như một đàn gà mái hoảng hốt.
Hắn chậm rãi lắc đầu, tỉ mỉ săm soi tôi lần nữa.
“Không phải bây giờ, cưng ạ. Tôi đang tự hỏi,” hắn nói, như đang chuyện trò, “tại sao một con điếm mặc váy lót ra đường lại đi giày? Và còn là một đôi giày khá tốt nữa chứ,” hắn nói thêm, liếc nhìn đôi giày lười màu nâu trơn của tôi.
“Một cái gì cơ?” Tôi hét lên.
Hắn hoàn toàn lờ tôi đi. Ánh mắt hắn đã trở lại mặt tôi. Hắn đột nhiên bước lên phía trước và nắm lấy cằm tôi. Tôi tóm lấy cổ tay hắn và giật ra. “Bỏ tay ra!” Nhưng những ngón tay hắn cứng như thép vậy. Chẳng thèm đếm xỉa đến nỗ lực tự giải thoát của tôi, hắn xoay mặt tôi sang bên này bên kia, để ánh chiều tà nhàn nhạt chiếu lên nó.
“Làn da của một quý cô,” hắn lẩm bẩm, ghé lại gần hít ngửi. “Và tóc cô có mùi nước hoa Pháp.” Rồi hắn thả tôi ra. Tôi phẫn nộ xoa xoa cằm, như để xóa đi sự đụng chạm mà tôi vẫn còn cảm thấy trên da mình.
“Những thứ khác cô có thể có được nhờ tiền của người bảo trợ,” hắn suy ngẫm, “nhưng cô cũng có lối nói năng của một quý cô.” “Cảm ơn nhiều!” Tôi gắt gỏng. “Tránh đường cho tôi. Chồng tôi đang đợi; nếu trong vòng mười phút nữa mà tôi không quay lại, anh ấy sẽ đi tìm đấy.”
“Ồ, chồng của cô á?” Vẻ ngưỡng mộ nhạo báng giảm đi phần nào, nhưng không hoàn toàn biến mất. “Và mong cô vui lòng cho biết chồng cô tên là gì vậy? Anh ta ở đâu? Và tại sao anh ta lại cho phép vợ mình đi lang thang một mình qua cánh rừng hoang vắng trong tình trạng hớ hênh như thế này?”
Tôi đang sắp phát điên vì cố gắng lý giải toàn bộ các sự kiện của buổi chiều nay, nhưng vẫn còn đủ lý trí để tự nhủ rằng nếu cho gã này biết Frank cùng họ với hắn thì chỉ tổ chuốc thêm nhiều rắc rối. Do đó, tôi không thèm trả lời mà cố gắng lách qua hắn. Hắn giơ cánh tay rắn chắc chắn đường và vươn bàn tay còn lại để chạm vào tôi.
Bỗng vù một tiếng, một cái bóng lao bổ xuống khiến Đại úy Randall ngã huỵch. Hắn nằm ngay dưới chân tôi, bị cả một khối đồ sộ trông như bọc giẻ rách bằng vải len kẻ ô đè lên. Từ cái khối đó, một nắm tay sạm nâu cứng như đá vung ra nện mạnh xuống. Nghe tiếng rắc vang lên là đủ biết cú đấm đã trúng vào xương. Đôi chân đi giày cao cổ màu nâu bóng loáng của Đại úy đang vùng vẫy đột nhiên khựng lại.
Tôi nhận thấy mình đang nhìn chòng chọc vào một cặp mắt đen sắc bén. Bàn tay gân guốc vừa tạm thời làm gã Đại úy bất tỉnh lập tức bám dính vào cánh tay tôi như một con sam.
“Ông là kẻ quái quỷ nào thế?” Tôi kinh ngạc hỏi. Người giải cứu tôi, nếu tôi có thể gọi như vậy, thấp hơn tôi khoảng chục phân và có vóc dáng gầy gò, nhưng đôi cánh tay trần lộ ra qua chiếc áo sơ mi tả tơi lại cuồn cuộn cơ bắp và thân hình ông ta có vẻ dẻo dai như lò xo đệm. Ông ta cũng chẳng đẹp trai chút nào, với khuôn mặt rỗ, cái trán thấp và cái hàm hẹp.
“Lối này.” Ông ta giật cánh tay tôi, và tôi ngoan ngoãn tuân theo vì vẫn còn đang ngơ ngẩn trước một loạt sự kiện vừa mới xảy ra. Người bạn đồng hành mới của tôi nhanh nhẹn len qua màn cây tống quán sủi, đột ngột rẽ ngoặt quanh một tảng đá lớn, và một con đường mòn thình lình xuất hiện. Bị đám kim tước và thạch nam che kín, lại ngoằn ngoèo uốn lượn nên chẳng bao giờ nhìn thấy được quá hai mét đường trước mặt, nhưng rõ ràng nó là một đường mòn dẫn lên đỉnh của một ngọn đồi.
Mãi đến khi chúng tôi thận trọng đi xuống phía bên kia của ngọn đồi, tôi mới lấy lại được hơi sức và can đảm để hỏi chúng tôi đang đi đâu. Chẳng nhận được câu trả lời nào từ người bạn đồng hành, tôi hỏi lại lớn hơn: “Chúng ta đang đi tới nơi khỉ ho cò gáy nào vậy?”
Ông ta đột ngột quay lại, khuôn mặt nhăn nhó và đẩy tôi ra khỏi đường. Khi tôi mở miệng phản đối, ông ta liền bịt miệng tôi và kéo tôi xuống đất, rồi nằm đè lên người tôi.
Không phải lại thế chứ! Tôi nghĩ, đang vùng vẫy dữ dội để thoát ra thì nghe thấy thứ mà ông ta đã nghe thấy nên lập tức nằm im phăng phắc. Những tiếng gọi nhau, kèm theo tiếng giậm chân và tiếng nước bắn tóe lên. Rõ ràng là giọng Anh. Tôi quẫy đạp dữ dội để giằng miệng ra, cắm phập hàm răng vào tay ông ta, và chỉ kịp cảm nhận rằng ông ta đã ăn bốc món cá trích dầm giấm trước khi thứ gì đó đập vào sau đầu tôi, rồi mọi thứ trước mắt trở nên tối sầm.
•••
Ngôi nhà bằng đá lờ mờ hiện ra qua màn sương đêm mù mịt. Những cánh cửa chớp được đóng chặt, chỉ để lọt ra một tia sáng. Vì không biết mình đã bất tỉnh bao lâu nên tôi không thể đoán được nơi này cách ngọn đồi Craigh na Dun hay thị trấn Inverness bao xa. Chúng tôi đang ở trên lưng ngựa, tôi ngồi phía trước kẻ bắt giữ tôi, hai tay bị trói vào núm yên
ngựa[32], nhưng vì chẳng có con đường lớn nào nên việc di chuyển vẫn khá chậm chạp.
Tôi nghĩ mình ngất đi không lâu; tôi không thấy có biểu hiện nào của sự chấn động não hay những hậu quả nghiêm trọng khác từ cú đánh kia, ngoại trừ một mảng đau ở sau gáy. Kẻ bắt giữ tôi, một người đàn ông kiệm lời, đã trả lời những câu hỏi, những yêu cầu và những lời chửi rủa gay gắt của tôi bằng duy nhất một âm thanh đặc trưng của người Scot mà nghe giống nhất với từ “Ừmmmmm.” Nếu tôi có chút nghi ngờ nào về quốc tịch của ông ta thì chỉ riêng âm thanh đó thôi cũng đủ để xóa tan nó.
Đôi mắt tôi dần thích nghi với ánh sáng lờ mờ ở bên ngoài khi con ngựa loạng choạng giẫm lên những hòn đá và những bụi kim tước, vì vậy tôi đã bị lóa mắt khi bước từ chỗ gần như là bóng tối vào nơi có ánh sáng chói lòa ở bên trong. Khi mắt đã bớt chói, tôi nhận thấy thực ra căn phòng chỉ được thắp sáng bởi một ngọn lửa trong lò sưởi, vài cây nến và một ngọn đèn dầu trông có vẻ cũ kĩ đến mức nguy hiểm.
“Anh mang theo thứ gì vậy, Murtagh?”
Gã đàn ông có bộ mặt giống như một con chồn tóm lấy cánh tay tôi và đẩy tôi tới chỗ ánh lửa.
“Nghe lối nói chuyện thì là một cô ả Sassenach, Dougal.” Trong phòng có mấy người đàn ông, tất cả đều nhìn tôi chằm chằm, vài kẻ tò mò, vài kẻ lộ vẻ dâm đãng thấy rõ. Váy của tôi bị rách lỗ chỗ từ lúc chiều, và tôi vội vàng đánh giá sự tổn hại. Nhìn xuống, tôi có thể thấy rõ đường cong của một bên ngực qua một vết rách, và tôi tin chắc mấy gã đàn ông đang tụ tập ở đây cũng có thế nhìn thấy nó. Nhận thấy rằng nếu cố gắng kéo các mép rách lại với nhau thì sẽ càng thu hút sự chú ý; tôi quyết định lựa chọn một khuôn mặt bất kỳ và táo bạo nhìn chằm chằm vào hắn, hy vọng làm hắn hoặc chính tôi sao nhãng.
“Ê, dù có là Sassenach hay không thì cũng là một người đẹp đấy,” gã đàn ông đó đang ngồi bên lò sưởi, trông có vẻ mỡ màng, béo tốt. Hắn đứng dậy, tiến về phía tôi mà không buồn đặt khoanh bánh mỳ đang cầm trên tay xuống. Hắn nâng cằm tôi lên bằng mu bàn tay, gạt tóc ra khỏi mặt tôi. Vài mẩu vụn bánh mỳ rơi xuống cổ váy tôi. Những kẻ khác xúm lại, trông như một khối áo choàng len kẻ ô râu ria xồm xoàm, sực nức mùi mồ hôi và rượu. Chỉ đến khi đó tôi mới nhận thấy chúng đều mặc váy - thật kỳ cục,
cho dù là ở vùng này của cao nguyên. Phải chăng tôi đã lạc vào cuộc họp mặt của một thị tộc hoặc một trung đoàn nào đó của Scotland? “Lại đây, cô gái!” Một gã đàn ông to lớn có bộ râu sẫm màu nãy giờ vẫn ngồi ở cái bàn bên cửa sổ vẫy tay ra hiệu cho tôi. Nhìn dáng chỉ huy của ông ta, có vẻ như ông ta là người đứng đầu nhóm người này. Đám đàn ông miễn cưỡng tách ra khi Murtagh kéo tôi về phía trước, rõ ràng chúng tôn trọng quyền của kẻ bắt giữ tôi.
Gã đàn ông râu sẫm săm soi tôi kĩ càng, gương mặt chẳng lộ chút biểu cảm. Trông ông ta cũng ưa nhìn đấy, và không phải là không thân thiện, nhưng giữa hai lông mày ông ta hiện lên những nếp hằn căng thẳng, đó không phải là gương mặt mà người ta muốn chạm trán.
“Tên cô là gì, cô gái?” Giọng ông ta thật nhẹ nhàng trái ngược với vóc dáng đồ sộ, không phải là chất giọng trầm đục mà tôi nghĩ sẽ phát ra từ bộ ngực vạm vỡ kia.
“Claire… Claire Beauchamp,” tôi nói, quyết định dùng tên từ thời con gái không chút đắn đo. Nếu đám người này định bắt cóc tống tiền, tôi không muốn giúp chúng bằng cách nêu ra cái tên có liên quan đến Frank. Và tôi cũng không muốn những gã đàn ông có vẻ dữ tợn này biết tôi là ai trước khi tôi tìm hiểu được chúng là ai. “Ông nghĩ ông đang…” Gã đàn ông râu sẫm chẳng thèm đoái hoài đến lời tôi, hết người này đến người khác đều tỏ thái độ như vậy khiến tôi bắt đầu thấy mệt mỏi.
“Beauchamp?” Đôi lông mày rậm nhướng lên, cả nhóm người xôn xao vì kinh ngạc. “Một cái họ của Pháp, đúng không?” Ông ta phát âm tên tôi bằng thứ tiếng Pháp chuẩn xác, dù tôi phát âm nó theo thứ tiếng Anh thông dụng là “Beecham.”
“Vâng, đúng thế,” tôi trả lời, có chút ngạc nhiên.
“Anh tìm thấy cô ả này ở đâu vậy?” Dougal quay sang hỏi Murtagh, người đang nốc rượu ừng ực từ một cái chai bẹt bằng da để tự làm mình tươi tỉnh lại.
Gã đàn ông nhỏ thó ngăm đen ấy nhún vai. “Ở chân đồi Craigh na Dun. Cô ta đang lời qua tiếng lại với một gã đại úy kỵ binh mà tôi tình cờ quen biết,” ông ta nói thêm, nhướng mày đầy ẩn ý. “Dường như họ đang tranh cãi xem liệu quý cô này có phải là một con điếm hay không.”
Dougal lại tỉ mỉ quan sát tôi, soi kĩ mọi chi tiết của chiếc váy cotton in hoa và đôi giày dã ngoại.
“Ta hiểu. Vậy quý cô đây nói thế nào”? Ông ta hỏi, nhấn mạnh từ “quý cô” với vẻ châm biếm khiến tôi chẳng thích thú gì. Tôi nhận thấy mặc dù giọng ông ta không nặng bằng giọng của gã đàn ông có tên Murtagh, nhưng ông ta phát âm từ “quý cô” nghe cứ như là “wí cô” vậy.
Murtagh có vẻ tức cười lắm; chí ít thì một bên khóe miệng mỏng tang của ông ta cũng vén lên. “Ả nói ả không phải. Viên đại úy có vẻ phân vân, nhưng vẫn muốn kiểm tra thử.”.
“Chúng ta cũng có thể kiểm tra.” Gã béo có bộ râu đen cười nhe nhởn, bước về phía tôi, hai tay kéo mạnh thắt lưng. Tôi vội lùi xa hết mức có thể, nhưng cũng chẳng được là bao vì không gian hạn hẹp của ngôi nhà.
“Đủ rồi, Rupert!” Dougal vẫn đang cau mày với tôi, nhưng giọng nói đầy uy lực của ông ta khiến Rupert lập tức dừng bước và tỏ vẻ thất vọng một cách khoa trương trông đến là khôi hài.
“Ta không tán thành việc cưỡng hiếp. Dù sao đi nữa, chúng ta cũng không có đủ thời gian để làm chuyện đó.” Tôi vui mừng khi nghe thấy chính sách này, nhưng vẫn hơi căng thẳng trước những ánh mắt dâm đãng hiện rõ trên một số gương mặt khác. Có cảm giác như tôi đang mặc đồ lót mà xuất hiện ở chốn công cộng vậy. Và dù tôi không biết băng cướp cao nguyên này là ai hay chúng đang mưu mô gì nhưng chúng có vẻ nguy hiểm khủng khiếp. Tôi cắn răng nén lại những câu nói ít nhiều thiếu suy nghĩ đang dâng lên trong lòng.
“Anh nghĩ sao, Murtagh?” Dougal hỏi kẻ bắt giữ tôi. “Ít nhất thì cô ta cũng tỏ ra không thích Rupert.”
“Điều đó chẳng chứng tỏ được gì,” một gã hói lùn tịt phản đối. “Anh ta không ngỏ ý cho cô ả tiền. Ngài không thể mong đợi một người phụ nữ chấp nhận một gã như Rupert khi mà anh ta không trả trước một khoản tiền lớn,” hắn nói thêm, khiến đám bạn cười hô hố. Nhưng Dougal đột nhiên ra hiệu cho mọi người im lặng và hất đầu về phía cửa. Gã hói vừa cười vừa ngoan ngoãn lướt ra ngoài bóng tối.
Murtagh không cười hùa theo đám người kia mà cau mày soi xét tôi. Rồi ông ta lắc lắc đầu, khiến cho phần tóc mái xõa trên trán lay động.
“Không,” ông ta nói chắc nịch. “Tôi không biết cô ta có thể là gì - hay là ai - nhưng tôi đánh cược cái áo sơ mi tốt nhất của tôi rằng cô ta không phải một con điếm.” (Tôi hy vọng chiếc áo đẹp nhất của ông ta không phải là cái áo ông ta đang mặc, vì trông nó chẳng đáng một xu.)
“Chà, anh thì biết rõ rồi, Murtagh, anh đã thấy quá nhiều ả điếm mà,” Rupert chế giễu, nhưng bị Dougal chặn lại.
“Chúng ta sẽ giải quyết chuyện này sau,” Dougal cộc cằn nói. “Tối nay chúng ta còn phải đi một chặng đường dài, trước hết phải làm gì đó cho Jamie đã; nó không thể cưỡi ngựa trong tình trạng thế kia.”
Tôi lùi vào bóng tối gần lò sưởi, hy vọng tránh được sự chú ý. Gã đàn ông tên Murtagh đã cởi trói cho tôi trước khi dẫn tôi vào đây. Có lẽ tôi sẽ lẻn được ra ngoài trong lúc họ bận tâm đến chuyện khác. Đám đàn ông đã quay sang một chàng trai trẻ đang ngồi khom người trên một cái ghế đẩu ở góc nhà. Anh ta chẳng hề ngẩng lên suốt từ lúc tôi xuất hiện và bị tra hỏi, đầu cứ gục xuống, tay ôm lấy bờ vai bên kia, khẽ đu đưa qua lại vì đau đớn.
Dougal nhẹ nhàng gạt bàn tay đó ra. Một gã kéo cái áo choàng len của chàng trai xuống, để lộ cái áo sơ mi vải lanh lấm lem bùn đất loang lổ máu. Một gã nhỏ thó có bộ ria dày cầm dao tiến tới đằng sau chàng trai, túm lấy cổ áo sơ mi, rạch một đường chéo qua ngực và dọc theo tay áo, khiến mảnh vải rơi xuống khỏi vai.
Tôi cất tiếng xuýt xoa kinh ngạc giống như vài gã khác. Vai anh ta có một vết thương nham nhở sâu hoắm, và máu đang chảy ròng ròng xuống ngực. Nhưng điều đáng kinh hãi hơn là cái khớp vai. Nó gồ lên đáng sợ và cánh tay bị lệch đến mức không thể tưởng tượng nổi.
Dougal càu nhàu. “Hừm. Trật khớp rồi, thằng quỷ tội nghiệp.” Chàng trai trẻ ngẩng lên lần đầu tiên. Mặc dù đang nhăn nhó vì đau và mang bộ râu đỏ lởm chởm, khuôn mặt anh ta vẫn rắn rỏi và vui vẻ.
“Một viên đạn hỏa mai hất cháu khỏi lưng ngựa, cháu giơ tay chống nên trọng lượng cả cơ thể mới dồn vào đấy, vậy là khục, nó thành ra thế này.”
“Đúng là nó đã bị trật khớp.” Gã đàn ông có ria mép - nghe giọng nói thì có vẻ là một người Scot có học - đang sờ nắn vai chàng trai, khiến anh ta nhăn mặt vì đau. “Vết thương không vấn đề gì, viên đạn đã xuyên thẳng
ra ngoài. Chỉ cần cầm máu thôi.” Ông ta nhấc một mảnh vải cáu bẩn trên bàn lên để thấm máu. “Nhưng tôi không biết phải làm gì với cánh tay bị trật khớp. Chúng ta sẽ cần một thầy thuốc để nắn lại nó. Cậu không thể cưỡi ngựa trong tình trạng đó, đúng không, Jamie?”
Đạn hỏa mai? Tôi ngây người nghĩ. Thầy thuốc?
Chàng trai trẻ lắc đầu, khuôn mặt trắng bệch. “Đến ngồi yên một chỗ còn đau nữa là. Tôi không thể cưỡi ngựa được.” Anh ta nhắm mắt lại và cắn chặt môi dưới.
Murtagh sốt ruột nói. “Chà, chúng ta không thể để cậu ấy ở lại, đúng không? Bọn lưng tôm[33] không giỏi lần theo dấu vết trong bóng tối, nhưng chúng sẽ tìm ra nơi này không sớm thì muộn, dù có đóng chặt cửa. Và với cái lỗ thủng to tướng trên người kia, Jamie khó có thể được coi là một nông dân vô tội.”
“Đừng lo hão,” Dougal nói ngắn gọn. “Ta không định để nó ở lại.” Gã đàn ông có ria thở dài. “Vậy thì chẳng còn cách nào. Chúng ta sẽ phải cố gắng nắn lại khớp. Murtagh, anh và Rupert giữ lấy cậu ta; tôi sẽ nắn thử.”
Tôi nhìn ông ta cầm cổ tay và khuỷu tay của chàng trai trẻ rồi vặn ngược nó lên mà thấy tội nghiệp. Góc độ không đúng; hẳn là chàng trai đau đớn lắm. Mồ hôi vã ra như tắm trên mặt nhưng anh ta chẳng kêu tiếng nào, chỉ khẽ rên rỉ. Rồi đột nhiên anh ta đổ nhào về đằng trước, nhờ những cánh tay đang giữ mới không bị ngã xuống sàn.
Một người mở nắp bình rượu và ấn vào môi anh ta. Mùi rượu mạnh nguyên chất nồng nặc phả tới chỗ tôi đứng. Chàng trai trẻ ho sặc sụa và bị nghẹn nhưng vẫn cố nuốt, những giọt chất lỏng màu hổ phách từ khóe miệng nhỏ xuống phần còn lại của cái áo sơ mi.
“Cậu đủ sức để thử một lần nữa chứ?” Gã để ria mép hỏi. “Có lẽ lần này nên để Rupert làm,” ông ta đề nghị, quay sang gã vô lại béo ú có bộ râu đen.
Rupert hào hứng bẻ khớp các ngón tay như thể sắp sửa ném một ngọn lao, rồi nhấc cổ tay chàng trai trẻ lên, rõ ràng định dùng sức để nắn lại khớp; cánh tay chàng trai trẻ sẽ bị bẻ gãy như một cái cán chổi mất.
“Đừng có làm liều như vậy!” Toàn bộ ý nghĩ bỏ trốn bị nhấn chìm trong nỗi phẫn nộ của một y tá nhà nghề, tôi bước về phía trước, chẳng thèm đoái hoài đến vẻ mặt sửng sốt của đám đàn ông quanh tôi.
“Cô có ý gì?” Gã để ria mép quát, rõ ràng bực tức vì sự can thiệp của tôi.
“Ý tôi là các ông sẽ bẻ gãy tay anh ta nếu làm như thế,” tôi gắt gỏng đốp lại. “Làm ơn tránh sang một bên.” Tôi huých Rupert lùi lại và cầm lấy cổ tay của bệnh nhân. Bệnh nhân cũng có vẻ ngạc nhiên như những người còn lại, nhưng không chống cự. Da anh ta rất ấm, nhưng không phải bị sốt.
“Phải đặt xương cánh tay vào đúng góc độ thì mới nắn được khớp,” tôi càu nhàu khi kéo cổ tay lên và xoay khuỷu tay vào trong. Chàng trai này khá đô con; cánh tay anh ta nặng như chì vậy.
“Đây là phần tệ nhất đây,” tôi cảnh báo bệnh nhân, cầm lấy khuỷu tay, sẵn sàng vặn nó về vị trí.
Miệng anh ta nhếch lên, không hẳn là một nụ cười. “Cũng chẳng thể đau hơn nhiều nữa. Cô cứ làm đi!” Lúc này thì đến lượt tôi toát mồ hôi. Bẻ lại khớp vai là việc khó khăn ngay cả trong điều kiện thuận lợi nhất. Huống hồ trước mặt tôi bây giờ lại là một người đàn ông to lớn đã di chuyển hàng tiếng đồng hồ kể từ lúc gặp nạn, các thớ cơ hiện sưng phồng chèn hết lên khớp. Vì vậy tôi thực sự phải dốc hết sức lực. Lò sưởi ở gần đến mức nguy hiểm; tôi hy vọng cả hai chúng tôi sẽ không ngã nhào vào đó.
Bỗng “cách!” một tiếng, cái khớp trở về đúng vị trí. Bệnh nhân có vẻ kinh ngạc. Anh ta ngờ vực giơ tay lên để kiểm tra.
“Nó không còn đau nữa!” Anh ta cười toe toét vì nhẹ nhõm và vui sướng, đám đàn ông xung quanh ồ lên tán thưởng.
“Rồi nó sẽ đau.” Tôi toát hết mồ hôi vì nỗ lực vừa rồi, nhưng rất tự đắc với kết quả này. “Trong mấy ngày tới, nó sẽ rất dễ bị tổn thương. Anh không được duỗi căng khớp trong ít nhất là hai, ba ngày; khi nào có thể cử động trở lại, trước hết anh phải giơ tay lên thật từ từ, nếu thấy đau thì dừng ngay, và phải chườm gạc ấm mỗi ngày.”
Trong lúc khuyên nhủ, tôi nhận ra rằng mặc dù bệnh nhân của tôi kính cẩn lắng nghe nhưng những người khác thì lại nhìn tôi với ánh mắt từ ngạc
nhiên đến nghi ngờ.
“Tôi là một y tá,” tôi giải thích, vẻ phòng thủ.
Cả Dougal và Rupert đều hướng ánh mắt xuống ngực tôi với vẻ thích thú đáng ghê tởm. Họ đưa mắt nhìn nhau rồi Dougal nhìn lên mặt tôi. “Tuy là một vú nuôi[34],” ông ta nhướng mày, nói, “cô cũng có tài trị thương đây. Cô có thể cầm máu vết thương của thằng bé để nó có thể ngồi trên lưng ngựa không?”
“Miễn là các ông có thứ gì đó để băng bó. Nhưng ông nói “vú nuôi” là có ý gì vậy? Và tại sao ông lại cho rằng tôi sẽ muốn giúp các ông nhỉ?” Dougal lờ tôi đi và quay sang nói với một người phụ nữ ngồi co ro trong góc nhà bằng thứ tiếng mà tôi lờ mờ nhận ra là tiếng Gaelic. Bị cả đống đàn ông vây quanh, ban nãy tôi đã không nhìn thấy cô ta. Cô ta mặc một cái váy dài tả tơi và áo vai bồng dài tay, bên ngoài còn khoác thêm một cái áo chẽn hay áo gi lê gì đó, trông đến là kỳ quặc. Cả mặt mũi lẫn người ngợm cô ta đều hết sức dơ dáy. Liếc nhìn quanh, tôi nhận thấy căn nhà không chỉ thiếu hệ thống điện mà còn thiếu cả hệ thống ống nước; có lẽ đó chính là nguyên nhân của sự dơ bẩn này.
Người phụ nữ khẽ nhún gối rồi sấp sấp ngửa ngửa đi vụt qua Rupert và Murtagh để tới chỗ cái rương gỗ được sơn màu mè bên cạnh lò sưởi. Sau một hồi đào bới lục lọi, cuối cùng cô ta cũng quay trở lại với một đống vải nhàu nát.
“Không, cái này không được đâu,” tôi nói, rón rén sờ vào chúng. “Vết thương cần được khử trùng rồi băng lại bằng vải sạch, nếu không có băng vô trùng.”
Những hàng lông mày xung quanh tôi đều nhướng lên. “Khử trùng ư?” Người đàn ông nhỏ thó dè dặt hỏi lại.
“Đúng vậy,” tôi khẳng định, nghĩ bụng giọng nói của ông ta nghe có vẻ có học mà sao ông ta lại ngờ nghệch thế. “Phải rửa sạch bụi đất và bôi lên vết thương một dung dịch có tác dụng ngăn chặn vi trùng và thúc đẩy vết thương mau lành.”
“Chẳng hạn như?”
“Chẳng hạn như iốt,” tôi nói. Thấy những khuôn mặt xung quanh vẫn còn ngơ ngác, tôi thử lại lần nữa. “Merthiolate? Acid carbolic loãng?” Tôi
gợi ý. “Hoặc thậm chí là cồn[35]?” Những gương mặt tỏ vẻ nhẹ nhõm. Cuối cùng thì tôi cũng tìm ra một từ mà họ có vẻ hiểu được. Murtagh dúi cái bình dẹt vào tay tôi. Tôi thở dài bực tức. Ai chả biết vùng cao nguyên còn hoang sơ lắm, nhưng đến mức này thì thật không thể tin nổi.
“Nghe này,” tôi nói, kiên nhẫn hết mức có thể. “Tại sao các ông không đưa anh ta vào thị trấn? Nó hẳn không ở xa đây lắm, ở đó chắc chắn sẽ có bác sĩ chăm sóc vết thương cho anh ta.”
Người phụ nữ trố mắt nhìn tôi. “Thị trấn nào cơ?”
Gã đàn ông to lớn tên Dougal chẳng thèm đếm xỉa đến cuộc bàn cãi này, ông ta thận trọng quan sát bóng tối bên ngoài qua mép tấm rèm cửa sổ, rồi buông rèm và lặng lẽ bước tới cửa ra vào. Cánh đàn ông trở nên im lặng khi ông ta biến mất vào màn đêm.
Lát sau, ông ta quay lại, mang theo gã hói và mùi thông hăng hắc lạnh lẽo, lắc đầu trước những ánh mắt dò hỏi của đám đàn ông. “Không có gì nguy hiểm. Chúng ta sẽ đi ngay trong lúc vẫn còn an toàn.”
Nhìn thấy tôi, ông ta dừng lại, ngẫm nghĩ trong một thoáng. Đột nhiên ông ta hất đầu về phía tôi, đưa ra quyết định.
“Cô ta sẽ đi với chúng ta,” ông ta nói, lục lọi đống vải trên bàn và nhấc lên một miếng vải tả tơi, trông như một cái khăn quàng cổ đã từng rất đẹp. Gã để ria có vẻ không muốn mang tôi theo.
“Tại sao ngài không để cô ta ở lại đây?”
Dougal nhìn ông ta với ánh mắt mất kiên nhẫn, nhưng để mặc cho Murtagh giải thích. “Cho dù lúc này lũ Áo đỏ[36] đang ở đâu, đến tảng sáng là chúng sẽ tới được đây, mà từ giờ tới lúc đó chẳng còn xa nữa đâu. Nếu người phụ nữ này là một gián điệp của quân Anh thì chúng ta không thể mạo hiểm để cô ta ở lại đây để nói cho chúng biết chúng ta đã đi hướng nào. Còn nếu cô ta không có mối liên hệ gì với chúng” - ông ta nhìn tôi với vẻ ngờ vực - “chúng ta không thể bỏ mặc một người phụ nữ mặc váy lót ở lại nơi này một mình.” Mặt ông ta ngời lên, vân vê lớp vải trên váy tôi. “Hơn nữa, có thể giữ cô ta để đòi tiền chuộc; tuy cô ta ăn mặc thiếu vải nhưng váy của cô ta là hàng tốt đấy.”
“Vả lại,” Dougal ngắt ngang lời Murtagh, “với chút hiểu biết về y thuật, cô ta có thể có ích trên đường đi. Bây giờ chúng ta không có thời gian để chữa trị hẳn hoi cho Jamie. Ta e là cháu sẽ phải lên đường mà không được khử trùng,” ông ta vỗ vỗ vào lưng chàng trai trẻ. “Cháu có thể cưỡi ngựa bằng một tay không?”
“Được.”
“Tốt lắm. Đây,” ông ta nói, ném miếng vải nhờn bẩn cho tôi. “Mau băng bó vết thương cho nó. Chúng ta sẽ lên đường ngay bây giờ. Hai anh đi lấy ngựa đi,” ông ta quay sang nói với gã mặt chồn và gã béo Rupert. Tôi nhăn mặt ghê tởm khi lật miếng vải lại.
“Tôi không thể dùng thứ này,” tôi phàn nàn. “Nó bẩn quá!” Rõ ràng không hề thấy ông ta di chuyển, vậy mà chỉ trong nháy mắt, gã đàn ông to lớn đã nắm lấy vai tôi, đôi mắt sẫm màu của ông ta gí sát mắt tôi. “Làm đi,” ông ta nói.
Rồi ông ta đẩy tôi ra và sải bước tới cửa, biến mất sau hai gã tay sai. Tôi run rẩy bắt tay vào việc, nhưng lương tâm nghề nghiệp không cho phép tôi dùng chiếc khăn quàng cổ bẩn thỉu này để băng bó vết thương cho chàng trai trẻ. Tôi cố gắng chôn giấu nỗi bối rối và sợ hãi, cố gắng tìm kiếm thứ gì đó thích hợp hơn, và sau một hồi phí công lục lọi trong đống vải, cuối cùng tôi quyết định xé một mảnh vải bằng tơ nhân tạo từ váy lót của mình. Mặc dù không hẳn vô trùng nhưng nó vẫn là mảnh vải sạch sẽ nhất trong tầm tay tôi.
Chiếc áo sơ mi vải lanh mà bệnh nhân của tôi đang mặc đã cũ và rách bươm, nhưng nó vẫn dai đến đáng kinh ngạc. Đánh vật với nó một lúc, tôi mới xé được phần tay áo còn lại và biến nó thành một cái băng đeo. Tôi lùi lại để kiểm tra kết quả việc băng bó ngẫu hứng của mình và va phải gã đàn ông to lớn đã lặng lẽ bước vào từ lúc nào để theo dõi tình hình.
Ông ta tỏ vẻ tán thưởng “tác phẩm” của tôi. “Làm tốt lắm, cô gái. Đi nào, tất cả đã sẵn sàng rồi.”
Dougal đưa cho người phụ nữ kia một đồng tiền và lùa tôi ra khỏi nhà. Jamie lê bước theo sau, mặt vẫn còn hơi tái. Khi đứng dậy khỏi chiếc ghế đẩu thấp lè tè, hóa ra bệnh nhân của tôi rất cao; anh ta phải cao hơn Dougal đến vài phân dù Dougal vốn đã rất cao to rồi.
Gã Rupert râu đen và Murtagh đang giữ sáu con ngựa ở bên ngoài, thì thầm âu yếm với chúng bằng tiếng Gaelic trong bóng tối. Đêm nay không có trăng, nhưng những mảnh kim loại của bộ yên cương vẫn lấp lánh như thủy ngân dưới ánh sao. Tôi ngước lên và gần như há hốc miệng vì kinh ngạc; chưa bao giờ tôi được thấy bầu trời đêm nào rực rỡ như thế này. Liếc nhìn khu rừng xung quanh, tôi đã hiểu ra lý do. Vì không có ánh đèn điện của chốn thị thành che lấp bầu trời nên những vì sao ở đây mới giữ được quyền thống trị tuyệt đối trong đêm đen.
Và rồi tôi sững lại, cảm thấy lạnh toát. Chẳng có ánh đèn điện nào cả. “Thị trấn nào cơ?” Người phụ nữ ở trong nhà đã hỏi như vậy. Đã quen với việc cắt điện tạm thời và những cuộc không kích trong chiến tranh nên lúc đầu tôi cũng chẳng để ý lắm đến điều này. Nhưng đây là thời bình cơ mà, ánh đèn điện của Inverness phải lan tỏa đến hàng dặm mới phải chứ!
Đám đàn ông chỉ là những khối không rõ hình dạng trong bóng tối. Tôi định cố gắng lẻn vào trong những rặng cây, nhưng Dougal, rõ ràng đoán được suy nghĩ của tôi, tóm lấy khuỷu tay tôi và kéo tôi về phía lũ ngựa.
“Jamie, lên ngựa đi,” ông ta gọi. “Cô gái này sẽ cưỡi chung ngựa với cháu.” Ông ta siết chặt khuỷu tay tôi. “Cô có thể giữ dây cương nếu Jamie không thể điều khiển bằng một tay, nhưng nhớ bám sát những người còn lại. Nếu cô cố gắng làm gì khác, ta sẽ cắt cổ cô. Rõ chứ?”
Tôi gật đầu, cổ họng khô đến mức không thể trả lời được. Giọng ông ta nghe không đáng sợ lắm nhưng tôi tin vào từng lời ông ta nói. Tôi chẳng còn muốn “cố gắng làm gì khác” nữa rồi, vì thực ra tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Tôi không biết mình đang ở đâu, những người bạn đồng hành của tôi là ai, tại sao bọn tôi lại rời đi gấp gáp như thế và chúng tôi đang đi đâu, nhưng tôi không có bất cứ sự lựa chọn nào khác hợp lý hơn ngoài việc đi với họ. Tôi thấy lo cho Frank, hẳn là anh đã đi tìm tôi từ lâu rồi, nhưng bây giờ có vẻ không phải là lúc để nhắc đến anh.
Chắc là Dougal đã cảm nhận được cú gật đầu của tôi nên mới buông tay tôi ra và khom người bên cạnh tôi. Tôi cứ đứng ngẩn ra nhìn cho đến khi ông ta rít lên: “Chân của cô, cô gái! Đặt chân của cô lên đây! Chân trái ấy,” ông ta bực tức nói thêm. Tôi vội vàng bỏ bàn chân phải đặt nhầm chỗ của mình ra khỏi bàn tay ông ta và bước lên đó bằng chân trái. Ông ta vừa
khẽ càu nhàu vừa đẩy tôi lên ngồi trước mặt Jamie trên yên ngựa. Anh ta liền kéo sát tôi vào người bằng cánh tay lành lặn.
Dù ngại ngùng nhưng tôi thấy biết ơn vì hơi ấm tỏa ra từ chàng trai người Scot. Anh ta sực mùi khói gỗ, mùi máu và mùi đàn ông chưa tắm giặt, nhưng hơi lạnh ban đêm đang xuyên qua làn váy mỏng của tôi nên tôi rất sẵn lòng dựa vào người anh ta.
Trong không gian khẽ vang lên tiếng dây cương loảng xoảng, thế rồi chúng tôi khởi hành vào màn đêm đầy ánh sao. Đám đàn ông không trò chuyện gì, bầu không khí tràn ngập sự cảnh giác. Lũ ngựa phi nước kiệu ngay khi chúng tôi ra đến đường cái. Sự xóc nảy khiến tôi khó chịu đến mức chẳng buồn nói năng, kể cả có ai đó sẵn sàng lắng nghe.
Dù không thể sử dụng bàn tay phải nhưng người bạn đồng hành của tôi có vẻ chẳng lấy gì làm bất tiện. Đùi anh ta kề sát đùi tôi, thi thoảng lại nhúc nhích và ép chặt để điều khiển con ngựa. Tôi bám chắc mép cái yên ngắn để ngồi vững; trước đây tôi từng cưỡi ngựa rồi nhưng dù thế nào tôi cũng không phải là một kỵ sĩ chuyên nghiệp như anh chàng Jamie này.
Đi được một lúc, chúng tôi tới một giao lộ và dừng lại trong thoáng chốc để chờ gã hói và người chỉ huy thì thầm hội ý với nhau. Jamie thả cương con ngựa và mặc nó tha thẩn đi tới ven đường gặm cỏ, còn anh ta thì bắt đầu vặn vẹo đằng sau tôi.
“Cẩn thận!” Tôi nói. “Đừng vặn vẹo như thế, nếu không lớp băng quấn của anh sẽ bị tuột ra đấy! Anh đang làm cái gì vậy?” “Cởi áo choàng len để phủ lên người cô,” anh ta đáp. “Cô đang run lẩy bẩy kìa. Nhưng tôi không thể làm thế bằng một tay. Cô có thể cởi cái ghim cài giúp tôi không?”
Sau một hồi loay hoay, cuối cùng chúng tôi cũng cởi được chiếc áo choàng. Với một cú xoay khéo léo, anh ta biến nó thành một chiếc khăn lớn và choàng lên người cả hai chúng tôi, rồi dém hai đầu của nó xuống dưới mép yên ngựa, do đó chúng tôi đều được bao bọc trong lớp áo choàng ấm áp.
“Đó!” Anh ta nói. “Chúng tôi không muốn cô chết cóng trước khi tới nơi.”
“Cảm ơn anh,” tôi nói, biết ơn vì sự che chở ấy. “Nhưng chúng ta đang đi đâu vậy?”
Tôi không thể nhìn thấy mặt anh ta, chỉ thấy anh ta ngập ngừng một lúc.
Cuối cùng, anh ta cười khì. “Thú thực với cô, tôi cũng không rõ. Nhưng tôi nghĩ chúng ta sẽ biết được điều đó khi nào tới nơi, đúng không?”
•••
Vùng đồng quê mà chúng tôi đang băng qua có nét gì đó hơi quen thuộc. Chắc chắn là tôi biết khối đá lớn trông giống cái đuôi của một con gà trống kia!
“Khối đá Cocknammon!” Tôi thốt lên.
“Ừ, tôi cho là vậy,” người bạn đồng hành của tôi hoàn toàn dửng dưng trước sự phát hiện này.
“Chẳng phải người Anh dùng nó làm nơi để mai phục sao?” Tôi hỏi, cố gắng nhớ lại những chi tiết buồn thảm của lịch sử vùng này mà Frank đã dành hàng giờ để giải khuây cho tôi trong tuần qua. “Nếu có một toán quân Anh ở quanh đây…” Tôi ngập ngừng. Nếu có một toán quân Anh ở quanh đây, có lẽ tôi đã sai khi khơi lên sự chú ý về phía khối đá ấy. Tuy nhiên, nếu có quân mai phục thật, lính Anh sẽ khó mà phân biệt được tôi và người bạn đồng hành, vì cả hai chúng tôi đều được bao phủ chung trong một chiếc áo choàng len. Chợt nghĩ đến Đại úy Jonathan Randall, tôi bất giác rùng mình. Tất cả mọi thứ tôi đã thấy kể từ lúc bước qua khe nứt của cột đá trên đồi Craig na Dun đều dẫn đến cái kết luận hoàn toàn phi lý rằng người đàn ông mà tôi gặp trong rừng quả thực là cụ cố sáu đời của Frank. Tôi ngoan cố phủ nhận điều này, nhưng không thể nghĩ ra bất cứ kết luận nào khác khớp với các sự kiện đã xảy ra.
Ban đầu, tôi tưởng mình chỉ đang mơ một giấc mơ sống động hơn bình thường, nhưng nụ hôn suồng sã và thô bạo của Randall đã xóa tan ấn tượng đó. Tôi cũng không nghĩ mình đã mơ bị Murtagh đánh vào đầu; chỗ đau trên đầu tôi cũng như vết phồng rộp ở mặt trong của đùi do cọ vào yên ngựa hoàn toàn là thật. Và máu nữa chứ; phải, tôi đã quen với máu đến nỗi
từng mơ về nó. Nhưng tôi chưa bao giờ mơ thấy mùi máu; thứ mùi ấm áp giống như mùi đồng mà tôi vẫn đang ngửi thấy trên cơ thể người đàn ông ở đằng sau.
“Tắc.” Anh ta chặc lưỡi với con ngựa chúng tôi đang cưỡi và thúc nó đi lên bên cạnh con ngựa của người chỉ huy, khẽ nói mấy lời với cái bóng lực lưỡng đó bằng tiếng Gaelic. Lũ ngựa giảm tốc độ, chỉ còn rong ruổi từng bước.
Nhận được tín hiệu từ người chỉ huy, Jamie, Murtagh và gã hói nhỏ thó tụt lại đằng sau, trong khi hai người còn lại thúc ngựa phi nước đại về phía khối đá nằm chếch về phía bên phải ở đằng trước, cách chỗ chúng tôi một phần tư dặm. Vầng trăng bán nguyệt đã nhô lên, ánh trăng soi tỏ từng chiếc lá của những cây cẩm quỳ mọc ven đường, nhưng bóng tối trong những khe đá có thể che giấu bất cứ thứ gì.
Ngay khi hai bóng hình phi nước đại băng qua khối đá, một tia lửa lóe lên nơi họng súng hỏa mai chĩa ra từ một cái hốc. Một tiếng hét ghê rợn vang lên ngay đằng sau tôi, và con ngựa nhảy chồm về phía trước như thể bị đâm bằng một que nhọn sắc bén. Chúng tôi lao như bay qua bãi thạch nam hướng tới khối đá, Murtagh và người còn lại phóng bên cạnh, những tiếng hét dựng tóc gáy và những tiếng gầm xé toạc màn đêm.
Tôi cố sống cố chết bám chặt núm yên ngựa. Jamie đột nhiên ghì cương cạnh một bụi kim tước lớn, choàng tay quanh eo tôi và thô lỗ ném tôi xuống đó. Con ngựa quay ngoắt đi và tiếp tục phi hết tốc lực, vòng qua khối đá để tới mặt phía nam. Tôi có thể thấy Jamie cúi rạp người trên yên khi con ngựa biến mất đằng sau khối đá. Khi nó xuất hiện trở lại, vẫn đang phi nước đại, cái yên trống trơn.
Bề mặt của khối đá loang lổ bóng tối; tôi có thể nghe thấy những tiếng la hét và thi thoảng là tiếng súng hỏa mai, nhưng không thể nhận ra liệu những chuyển động mà tôi nhìn thấy là của con người hay chỉ là bóng của những cây sồi còi cọc nhô lên từ các kẽ đá.
Tôi chật vật gỡ mình ra khỏi bụi cây, nhặt những mẩu kim tước đầy gai bám trên váy và tóc. Liếm một vết xước trên bàn tay, tôi tự hỏi bây giờ mình nên làm gì. Đợi trận chiến kết thúc chăng? Nếu người Scot thắng, hoặc ít nhất là sống sót, họ chắc chắn sẽ quay lại tìm tôi. Nếu họ mất mạng, tôi có thể tiếp cận đám lính Anh, nhưng họ nhất định sẽ cho rằng vì
ẳ
tôi đi cùng những người Scot nên tôi ắt hẳn là đồng bọn của đám người đó. Dựa vào thái độ của cánh đàn ông trong ngôi nhà đá, rõ ràng mấy người họ đang mưu đồ một chuyện mà người Anh hoàn toàn không cho phép.
Tốt hơn hết là nên tránh cả đôi bên. Dù gì bây giờ cũng biết mình đang ở đâu, tôi có thể quay lại một thị trấn hay một ngôi làng mà tôi biết, cho dù có phải đi bộ hết cả quãng đường. Tôi quả quyết đi về phía đường cái, vấp vào vô số những tảng đá hoa cương, đám con cháu chết tiệt của khối đá Cocknammon.
Ánh trăng khiến tôi dễ lầm lẫn trong lúc đi bộ; mặc dù có thể thấy mọi chi tiết trên mặt đất nhưng tôi không thể phân biệt được độ nông sâu cao thấp của chúng; những loài cây mọc sát đất và những hòn đá lởm chởm trông cao như nhau, khiến tôi vụng về nhấc chân qua những chướng ngại vật không tồn tại và vấp vào những hòn đá nhô lên trên đường. Tôi bước đi nhanh hết mức có thể, lắng nghe xem có ai đuổi theo không.
Lúc tôi tới đường cái thì những âm thanh của trận chiến đã tắt. Tôi nhận ra đi trên đường thế này thì lộ liễu quá nhưng tôi cần phải bám theo nó nếu muốn tới được một thị trấn. Tôi không có khả năng xác định phương hướng trong bóng tối, và chưa bao giờ học được từ Frank ngón nghề định hướng nhờ những ngôi sao. Nghĩ về Frank khiến tôi muốn òa khóc, vì vậy tôi cố gắng làm mình sao nhãng bằng cách suy nghĩ rõ ràng về các sự kiện của buổi chiều nay.
Điều này có vẻ phi lý, nhưng mọi biểu hiện bên ngoài đều chỉ ra rằng tôi đang ở một nơi mà các phong tục và nền chính trị cuối thế kỷ mười tám vẫn ngự trị. Tôi sẽ nghĩ toàn bộ chuyện này chỉ là một cuộc trình diễn hóa trang nếu không có những vết thương của chàng trai trẻ mà họ gọi là Jamie. Đó quả thực là một vết thương do đạn của súng hỏa mai gây ra. Hành vi của đám đàn ông trong ngôi nhà đá cũng không giống như đang diễn kịch. Họ rất nghiêm túc, dao găm và kiếm của họ đều là đồ thật.
Lẽ nào đây là một khu vực biệt lập, hẻo lánh, nơi dân làng định kỳ tổ chức diễn lại một phần lịch sử của họ? Tôi đã nghe nói đến những câu chuyện như vậy ở Đức, dù ở Scotland thì chưa bao giờ. Ta cũng chưa bao giờ nghe nói các diễn viên bắn đạn thật vào nhau, đúng không? Phần trí óc sáng suốt đến mức khó chịu của tôi cười nhạo.
ẳ
Tôi ngoảnh nhìn khối đá để kiểm tra vị trí của mình, rồi nhìn thẳng về đường chân trời phía trước, và máu tôi như đông cứng lại. Ở đó chẳng có gì ngoài chóp nhọn của những cây thông đen sì dưới bức màn sao. Những ánh đèn điện của Inverness đâu cả rồi? Nếu đằng sau tôi là khối đá Cocknammon, vậy thì Inverness phải ở cách đây chưa đầy ba dặm về phía tây nam. Ở khoảng cách này, tôi phải nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của thị trấn tỏa lên nền trời chứ! Nếu nó có ở đó.
Tôi cáu kỉnh lắc lắc đầu, ôm chặt hai khuỷu tay trước cơn ớn lạnh. Ngay cả khi thoáng thừa nhận cái ý niệm hoàn toàn phi lý là tôi đang ở một thời đại khác thì Inverness cũng đã tồn tại khoảng sáu trăm năm rồi. Nó đang ở đó. Nhưng rõ ràng không có ánh đèn, chứng tỏ rằng ở đó không có đèn điện. Lại thêm một bằng chứng nữa, nếu tôi cần phải có. Nhưng bằng chứng cho cái gì cơ chứ?
Một hình dáng bất chợt bước ra từ trong bóng tôi khiến tôi suýt nữa đâm sầm vào. Nén lại tiếng thét, tôi quay đầu định bỏ chạy, nhưng một bàn tay to lớn đã tóm chặt lấy cánh tay tôi.
“Đừng sợ. Là tôi đây mà.”
“Là anh nên tôi mới sợ đấy,” tôi cấm cảu, mặc dù thực tế thì tôi thấy nhẹ nhõm khi đó là Jamie. Tôi không sợ anh ta bằng mấy người khác, dù trông anh ta cũng nguy hiểm chẳng kém gì bọn họ. Tuy nhiên, anh ta còn trẻ, thậm chí trẻ hơn cả tôi. Và tôi khó có thể sợ một người mà tôi vừa mới coi là bệnh nhân của mình.
“Tôi hy vọng anh đã không ngược đãi cái vai đó,” tôi khiển trách bằng giọng của một nữ y tá trưởng. Nếu giọng tôi đủ uy lực, có lẽ tôi sẽ thuyết phục được anh ta thả tôi đi.
“Cuộc náo loạn vừa rồi đã ảnh hưởng đến nó,” anh ta thừa nhận, xoa bóp bờ vai bằng bàn tay lành lặn.
Lúc đó, anh ta bước vào một vệt ánh trăng, và tôi thấy ngực áo anh ta ướt sũng máu. Chảy máu động mạch, tôi lập tức nghĩ; nhưng tại sao anh ta vẫn đứng được?
“Anh bị thương rồi kìa!” Tôi thốt lên. “Anh đã làm toác vết thương ở vai hay đó là vết thương mới vậy? Ngồi xuống cho tôi kiểm tra nào!” Tôi đẩy anh ta tới một đống đá mòn, nhanh chóng ôn lại các quy trình cấp cứu dã chiến. Chẳng có miếng vải nào trong tay ngoại trừ bộ đồ tôi đang mặc.
Tôi đang sờ vào cái váy lót đã bị xé rách lúc nãy, định xé thêm một mảnh nữa để cầm máu thì anh ta bật cười to.
“Không, đừng bận tâm. Đó không phải là máu của tôi. Dẫu có cũng không nhiều lắm đâu,” anh ta nói thêm, rón rén nhón lớp vải ướt sũng. Tôi nuốt khan, cảm thấy hơi nôn nao. “Ồ,” tôi yếu ớt nói. “Dougal và những người khác đang đợi bên đường. Đi thôi!” Anh ta nắm lấy cánh tay tôi, không phải vì lịch thiệp mà là để ép buộc tôi đi theo. Tôi đánh liều chùn chân lại.
“Không! Tôi không đi với anh đâu!”
Anh ta dừng bước, tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự kháng cự của tôi. “Cô phải đi.” Anh ta chẳng hề tức giận mà có vẻ hơi thích thú khi thấy tôi phản đối việc bị bắt cóc lần nữa.
“Nếu tôi không đi thì sao? Anh sẽ cắt cổ tôi ư?” Tôi hỏi dồn. Anh ta cân nhắc các lựa chọn và điềm tĩnh trả lời:
“Ồ, không. Trông cô không nặng gì. Nếu cô không đi, tôi sẽ vác cô trên vai. Cô có muốn tôi làm thế không?” Anh ta bước một bước về phía tôi, tôi vội vàng lùi lại. Tôi không nghi ngờ chút nào lời nói của anh ta, dù anh ta có bị thương hay không.
“Không! Anh không thể làm thế; anh sẽ lại làm tổn thương vai mình đấy.”
Những đường nét trên mặt anh ta không rõ ràng, nhưng hàm răng anh ta ánh lên dưới bóng trăng khi anh ta nhoẻn miệng cười.
“Vậy thì, vì cô không muốn tôi làm tổn thương chính mình, tôi cho là cô sẽ đi với tôi?” Tôi cố gắng tìm một câu trả lời nhưng không được. Anh ta lại nắm cánh tay tôi và dẫn tôi về phía đường cái.
Jamie giữ chặt cánh tay tôi, kéo tôi dậy mỗi lần tôi vấp vào những hòn đá và bụi cây. Anh ta bước đi như thể bãi đất hoang lởm chởm là một con đường lát gạch trong ánh sáng ban ngày rực rỡ. Hẳn là anh ta mang dòng máu của loài mèo, tôi chua chát nghĩ, thế nên anh ta mới có thể lén bám theo tôi trong bóng tối.
Đúng như anh ta nói, những người còn lại cùng với lũ ngựa đang đợi chúng tôi ở một chỗ không xa lắm; chẳng có người nào bị chết hay bị thương, vì họ đều có mặt đầy đủ. Vụng về trườn lên lưng ngựa, tôi ngồi ẳ
bịch xuống cái yên. Đầu tôi chẳng may đập vào cái vai bị thương của Jamie, khiến anh ta xuýt xoa.
Tôi cố tình mắng mỏ anh ta để che giấu nỗi căm phẫn khi bị bắt lại và sự áy náy vì đã làm anh ta bị đau.
“Đáng đời anh vì cái tội đánh đấm hùng hục và rượt đuổi nhau khắp vùng đất đá gồ ghề này. Tôi đã dặn anh không được cử động cái khớp đó rồi mà; bây giờ có lẽ bắp cơ của anh đã bị rách và bầm tím cũng chưa biết chừng.”
Anh ta có vẻ thích thú trước lời quở trách của tôi. “Ầy, tôi làm gì có nhiều lựa chọn. Nếu tôi không cử động cái vai này, tôi sẽ chẳng còn cử động được thứ gì khác nữa. Chỉ cần một tay tôi cũng có thể xử lý một tên Áo đỏ - thậm chí là hai tên,” anh ta nói, hơi khoác lác, “nhưng ba tên thì không thể.”
“Hơn nữa,” anh ta nói, kéo tôi sát vào cái áo sơ mi bê bết máu, “cô có thể chữa cho tôi khi chúng ta đến cái đích mà chúng ta đang hướng tới.” “Tự anh nghĩ vậy thôi,” tôi lạnh lùng nói, vặn vẹo người để tránh xa lớp vải nhơ nhớp. Anh ta chặc lưỡi giục ngựa, và chúng tôi lại lên đường. Đám đàn ông cực kỳ hưng phấn sau cuộc chiến, họ cứ cười đùa không ngớt. Đóng góp nhỏ nhoi của tôi trong việc phá vỡ trận mai phục được khen ngợi rất nhiều, và họ cụng bình rượu với nhau để uống mừng tôi. Tôi được mời uống nhưng từ chối ngay với cái cớ là trong trạng thái tỉnh táo tôi còn thấy khó mà ngồi vững trên lưng ngựa nữa là bị say. Từ cuộc bàn luận của đám đàn ông, tôi biết được toán phục kích vừa rồi là một đội tuần tra nhỏ khoảng mười người lính Anh, được trang bị súng hỏa mai và kiếm lưỡi cong.
Ai đó chuyển một cái bình dẹt cho Jamie, và tôi có thể ngửi thấy mùi rượu nóng hổi khi anh ta uống. Tôi chẳng khát chút nào, nhưng mùi mật ong phảng phất nhắc tôi nhớ rằng bụng tôi đang đói meo. Dạ dày tôi phát ra một tiếng ùng ục to tướng đáng xấu hổ, phản đối sự lơ là của tôi với nó.
“Ê, này, Jamie! Đói rồi hử? Hay cậu mang theo cả một bộ kèn túi thế?” Rupert hét gọi, hiểu nhầm nơi phát ra âm thanh ấy.
“Cháu đói đến nỗi có thể ăn cả một bộ kèn túi ấy chứ,” Jamie gọi với lại, lịch thiệp nhận lời khiển trách. Lát sau, một bàn tay cầm chiếc bình dẹt
vòng đến trước mặt tôi.
“Tốt hơn là cô nên uống một ngụm,” anh ta thì thầm. “Nó không giúp cô no bụng nhưng đủ khiến cô quên đi cơn đói.”
Và hy vọng là quên được nhiều điều khác nữa. Tôi nghiêng cái bình để uống.
•••
Người bạn đồng hành của tôi đã đúng; rượu whisky nhen lên một ngọn lửa nhỏ ấm áp dễ chịu trong dạ dày, lấp đi sự cồn cào của cơn đói. Chúng tôi đã đi được vài dặm mà không có gì bất trắc xảy ra, cứ thay phiên nhau cầm cương và uống whisky. Tuy nhiên, khi đến gần một túp nhà tranh đổ nát, hơi thở của Jamie dần biến thành tiếng thở hổn hển đứt quãng. Anh ta đột nhiên nghiêng hẳn người đi. Tôi bối rối; nếu tôi không say thì anh ta cũng không thể say được.
“Dừng lại! Giúp với!” Tôi la lên. “Anh ta sắp ngã rồi!” Tôi nhớ lại “cú hạ cánh” bất ngờ mới đây và không muốn lặp lại nó.
Những thân hình tối đen quay lại và vây quanh chúng tôi, những tiếng thì thầm rối rít lẫn vào nhau. Jamie ngã chúi xuống như một bao tải đựng đá, may mà có người giơ tay đỡ kịp. Lúc tôi lồm cồm bò xuống, những người còn lại đã xuống ngựa và đặt anh ta nằm xuống một cánh đồng.
“Cậu ấy đang thở,” một người nói.
“Chà, thông tin hữu ích quá nhỉ,” tôi cấm cảu, cuống cuồng bắt mạch cho anh ta trong bóng tối. Mạch anh ta đập nhanh nhưng khá mạnh. Đặt tay lên ngực và ghé tai vào miệng anh ta, tôi có thể cảm thấy ngực anh ta nhô lên hạ xuống đều đặn, tiếng thở cũng đã bớt hổn hến. Tôi ngồi thẳng dậy.
“Tôi nghĩ anh ta chỉ bị ngất thôi,” tôi nói. “Hãy kê một cái túi yên ngựa[37] dưới chân anh ta và nếu có nước, hãy mang tới cho tôi một ít.” Tôi ngạc nhiên khi thấy mệnh lệnh của mình được tuân theo ngay lập tức. Có vẻ như chàng trai trẻ này là người quan trọng với họ. Anh ta rên rỉ và mở đôi mắt trông như hai cái hố đen ngòm dưới ánh sao. Trong ánh sáng lờ mờ, khuôn mặt anh ta trông như một cái đầu lâu, làn da trắng bệch ôm sát những gò xương góc cạnh quanh hai hốc mắt.
“Tôi không sao,” anh ta nói, cố gắng ngồi dậy. “Chỉ chóng mặt chút xíu.” Tôi đặt tay lên ngực anh ta và đây anh ta nằm xuống. “Nằm yên nào,” tôi ra lệnh, nhanh chóng sờ nắn chỗ bị thương đế kiểm tra rồi quỳ dậy và quay sang một thân hình to lù lù mà tôi đoán là người chỉ huy, Dougal.
“Vết thương do bị đạn bắn lại chảy máu rồi, và gã ngốc này mới bị đâm thêm một nhát dao nữa. Tôi nghĩ nó không nghiêm trọng, nhưng anh ta đã mất khá nhiều máu. Cái áo sơ mi của anh ta ướt sũng, nhưng tôi không biết bao nhiêu trong số đó là máu của anh ta. Anh ta cần được nghỉ ngơi yên tĩnh; chúng ta nên nghỉ lại ở đây ít nhất cho đến sáng mai.” Thân hình kia phác một cử chỉ bác bỏ.
“Không. Tuy chúng ta đã ở cách xa chỗ quân đồn trú dám bén mảng đến, nhưng vẫn còn phải dè chừng bọn tuần phòng. Chúng ta phải đi đúng mười lăm dặm nữa.” Cái đầu trông không rõ đường nét ngửa lên, quan sát sự di chuyển của các vì sao.
“Ít nhất cũng mất năm, bảy tiếng. Chúng ta chỉ có thể nán lại một lúc để cô cầm máu và băng bó lại vết thương cho Jamie; không thể lâu hơn được.”
Tôi vừa bắt tay vào việc vừa lẩm bà lẩm bẩm, trong khi Dougal khẽ cắt cử một trong những cái bóng còn lại tới đứng canh gác cạnh lũ ngựa bên đường. Những người khác thì tạm thời nghỉ ngơi thư giãn, uống rượu và thì thầm tán gẫu. Gã Murtagh mặt chồn giúp tôi xé những dải vải lanh, lấy thêm nước và nâng bệnh nhân lên để băng bó. Jamie bị cấm cử động dù anh ta cứ càu nhàu rằng mình ổn cả.
“Ai cũng biết là anh chẳng ổn chút nào,” tôi cấm cảu, trút hết nỗi sợ hãi và giận dữ lên đầu anh ta. “Có gã ngốc nào bị dao đâm mà không thèm dừng lại để chăm sóc vết thương không? Anh không nhận ra là mình đang chảy máu trầm trọng à? May cho cái thân anh là anh không chết đây nhé, ai đời lại chạy lồng lên khắp nơi suốt cả đêm, gào thét, đánh đấm và nhảy xuống khỏi lưng ngựa… Yên nào, đồ ngốc chết tiệt!” Trong bóng tối, những mảnh vải lanh và tơ nhân tạo cứ trượt đi như những con cá có cái bụng trắng hếu ngoe nguẩy lặn xuống lòng sông. Dù trời lạnh nhưng mồ hôi vẫn ướt đẫm cổ tôi. Cuối cùng tôi cũng cột xong một đầu băng vải và với lấy đầu kia, nó cứ tuột đi sau lưng bệnh nhân. “Yên nào… Ồ, đồ khốn
"""