"
Vợ Người Du Hành Thời Gian PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vợ Người Du Hành Thời Gian PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Vợ người du hành thời gian
Vợ người du hành thời gian
Tác giả: Audrey Niffenegger
Dịch giả: Trần Nguyên
Kích thước: 14 x 20.5 cm
Số trang: 604
Ngày xuất bản: 01/10/2013
Giá bìa: 128.000 ₫
Công ty phát hành: Sách Trẻ (Youth Books)
Nhà xuất bản: NXB Văn Học
Chụp pic: PhamHD
Type
skypeaful: Phần 1: 1-5
toctien0904: Phần 1: 6-10
luvuonliu: Phần 1: 11-13 + Phần 2: 1-3
Moussie: Phần 2: 4-17
kikosan: Phần 2: 18-hết
Beta: Jaejoong
Làm ebook: Dâu Lê
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Giới thiệu
Henry DeTamble mang trên mình một gen lạ, nó khiến anh có thể du hành thời gian. Rắc rối ở chỗ anh không thể tự chủ được thời gian và địa điểm đến. Tệ hơn, khi du hành, anh không thể mang theo bất cứ thứ gì. Bởi vậy, phần lớn thời giờ trong cuộc sống của anh là trần truồng, chạy trốn, ăn trộm quần áo, thức ăn, tiền bạc, đánh lộn, chống lại cảnh sát… Đó là chuỗi dài những tháng ngày bi kịch, bị đau đớn và dằn vặt cả về tâm hồn lẫn thể xác, anh trượt dài trong những ký ức đau buồn về cái chết của mẹ, về sự tuột dốc của cha và về sự kỳ dị lạc loài của chính mình. Anh hoàn toàn chán nản và tuyệt vọng.
Nhưng phần thưởng của việc du hành thời gian chính là việc anh có thể gặp người vợ trong tương lai của mình khi cô ấy chỉ mới 6 tuổi. Và mọi việc đã thay đổi từ đó.
Cô ấy là ai, Clare Abshire, cô ấy đã trải qua tuổi thơ kỳ dị và thú vị như thế nào để cuối cùng, khi gặp được người chồng của mình trong thực tại thì mọi việc cũng mới chỉ là bắt đầu… Tất cả bi kịch, tình yêu thương, những điều đẹp đẽ nhất vẫn còn là phía trước.
Với họ, quá khứ, hiện tại, tương lai chồng chéo, đan xen vào nhau, khiến cho độc giả phải khóc, cười, vui, buồn, hồi hộp, và đợi chờ cùng họ.
Vợ người du hành thời gian là “… câu chuyện lay động lòng người… Mối tình nồng cháy của họ hừng hực giữa biển thời gian và giam giữ họ trong chiếc bẫy tình không thể giũ bỏ. Cuốn sách
được viết ra để quyến rũ người đọc hàng thế kỷ (Amazon.com).
“Một bi kịch được tạo nên bởi thật nhiều nỗi đau - tình cảm - niềm vui - và những điều ngang trái, đến nỗi nó bùng cháy trong cảm xúc (Monica Morgan).
Tờ Daily Telegraph của Anh đã bình chọn Vợ người du hành thời gian là một trong những cuốn sách hay nhất trong 25 năm qua, chỉ đứng sau Harry Potter. Sách bán được hơn 7 triệu bản
trên toàn thế giới và được dựng thành phim với sự tham gia của Eric Bana và Rachel McAdams, được đánh giá là một trong những bộ phim tình cảm hay nhất năm 2009. Tại Việt Nam, bộ phim được trình chiếu với tên “Chồng ảo”.
Thông tin tác giả
Audrey Niffenegger (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1963 tại Nam Haven, Michigan) là một nhà văn Mỹ, nghệ sĩ
Cô cũng là một giáo sư trong sách Chương trình MFA thuật liên ngành tại Trung tâm Chicago Cao đẳng Columbia cho Sách và giấy nghệ thuật. Cô là thành viên sáng lập của T3 hoặc văn bản 3, một nghệ sĩ và nhóm nhà văn mà cũng thực hiện và triển lãm ở Chicago.
Niffenegger cũng là một thành viên giảng viên tại North Shore Nghệ thuật Liên đoàn nơi cô dạy Hội thảo Printmaking Trung cấp và nâng cao.
Mục lục
Lời mở đầu
I. Người đàn ông bên lề thời gian
Cuộc hẹn thứ nhất, một
Lần đầu tiên
Cuộc hẹn thứ nhất, hai
Bài học sinh tồn
Sau khi kết thúc
Giáng sinh, một
(Luôn đâm vào cùng một chiếc xe)
Giáng sinh, hai
Ăn hay bị ăn
Giáng sinh, ba
Nhà là bất kì nơi nào bạn cúi đầu hối lỗi Sinh nhật
Cuộc sống tốt đẹp hơn nhờ hóa chất
Ngã rẽ
Hãy đưa tôi đến nhà thờ đúng giờ
II. Một Giọt Máu Trong Bát Sữa Cuộc sống hôn nhân
Thư viện khoa học giả tưởng Chiếc giày rất nhỏ
Một
Hai
Khúc nhạc ngắn
Giao thừa, một
Ba
Bốn
Năm
Sáu
Những giấc mơ trẻ con
Bảy
Alba, lời giới thiệu
Ngày sinh
Bí mật
Những trải nghiệm khó khăn Cuộc sống tĩnh lặng
Sinh nhật
Bí mật
Chuyện xảy ra ở bãi đỗ xe đường Monroe Sinh nhật
Một cảnh tượng khó ưa
Chuyện xảy ra ở bãi đỗ xe đường Monroe Những mảnh vụn
Những giấc mơ chân
Gậy ông đập lưng ông
Hàng giờ, hàng ngày
Đêm giao thừa, hai
III. Luận thuyết của nỗi khát khao Biệt ly
Tồn tại
Tái sinh
Gặp lại
Thời gian trên đồng hồ là người quản lí ngân hàng, nhân viên thu thuế, thanh tra cảnh sát; thời gian nội tại là vợ của chúng ta.
—J.B. Priestley, Đàn ông và thời gian
TÌNH LẠI TÌNH
Rồi một ngày kia,
trong niềm hân hoan,
ta sẽ chào đón chính mình
trước ngưỡng cửa nhà ta và trong gương của chính ta; và người này sẽ cười đáp lại sự chào đón của người kia, rồi nói, hãy ngồi đây, hãy ăn.
Ta sẽ lại yêu kẻ xa lạ đã từng là ta.
Đưa rượu. Đưa bánh mì. Đưa lại trái tim
cho hắn, kẻ xa lạ đã yêu ta
trong suốt cuộc đời này, người hiểu ta nhất mà ta đã từng tảng lờ.
Với những bức thư tình từ trên kệ xuống,
những bức hình, những lời ghi chú tuyệt vọng, lột bỏ hình ảnh chính ta trong gương.
Ngồi. Ăn mừng cuộc sống.
— Derek Walcott
Lời mở đầu
CLARE: Thật khó khi là người bị bỏ lại. Tôi đợi Henry mà không hề biết anh ấy đang ở đâu, luôn phân vân tự hỏi liệu anh ấy có ổn không. Là người ở lại thật không dễ dàng.
Tôi giữ cho mình luôn luôn bận rộn để thời gian trôi qua nhanh hơn.
Tôi đi ngủ một mình và thức dậy một mình. Tôi đi dạo, hoặc làm việc cho đến khi mệt lả. Tôi ngắm nhìn cơn gió chơi đùa với những đám rác bị vùi dưới tuyết suốt mùa đông. Mọi việc tưởng chừng như đơn giản cho đến khi ý nghĩ lại ùa về. Tại sao tình yêu luôn mãnh liệt hơn trong xa cách?
Khi xưa, đàn ông căng buồm ra biển cả và phụ nữ mỏi mòn chờ đợi, họ đứng trên bờ dõi mắt về phía đại dương, mong được thấy bóng chiếc thuyền li ti phía cuối chân trời. Và giờ tôi đợi Henry trở về. Anh ấy tan biến bất chợt, không một lời báo trước, không tự nguyện. Tôi đợi. Mỗi giây trôi qua như cả một thế kỉ, dai dẳng và bất tận. Chúng trôi qua tôi chậm rãi, rõ rệt. Mỗi giây trôi qua, tôi lại thấy hàng giờ, hàng ngày dài chờ đợi khác đang đợi tôi phía trước. Tại sao anh ấy đến những nơi mà tôi không thể đi theo?
HENRY: Cảm giác đó thế nào? Cảm giác đó thế nào?
Đôi khi, cảm giác đó như thể sự chú ý của bạn nhãng đi trong chốc lát. Và rồi, bạn thấy cuốn sách mình đang cầm, áo ca-rô sọc đỏ với những chiếc khuy trắng muốt bạn đang mặc, chiếc quần jeans đen ưa thích và đôi vớ màu tía gần rách để lộ đầu ngón chân cái, căn phòng khách, ấm đun nước đang chuẩn bị réo lên trong bếp: tất cả biến mất. Bạn đang đứng trên con mương ở một con lộ không tên vùng nông thôn hẻo lánh, nước lạnh buốt ngập đến mắt cá chân, trần như nhộng. Bạn đứng chờ trong chốc lát để xem có thể bất ngờ quay trở lại căn hộ của mình, túm lấy cuốn sách trước khi nó kịp rơi xuống hay không. Sau năm phút run lẩy bẩy trong cái lạnh, miệng không ngừng chửi rủa và hi vọng có thể biến mất trở lại, bạn bắt đầu bước về bất kì hướng nào, rồi cuối cùng sẽ tìm thấy một nông trại, nơi bạn có hai lựa chọn: ăn trộm hoặc giải thích. Ăn trộm đôi khi sẽ dẫn bạn vào tù, nhưng giải thích thì thật dài dòng, tốn thời gian và đằng nào cũng sẽ phải nói dối, thi thoảng cũng sẽ bị túm cổ lôi vào tù, vậy nên việc gì phải nghĩ.
Đôi khi bạn cảm thấy như thể vừa đứng dậy quá nhanh, mặc dù bạn đang nằm gật gù trên giường. Bạn cảm thấy máu chạy rần rần khắp nơi trong đầu, một cảm giác choáng váng, chóng mặt đến điên cuồng. Từng dây thần kinh trên tay chân bạn nhói đau rồi đột nhiên chúng không còn ở đó nữa. Bạn lại biến mất. Tất cả diễn ra chỉ trong tích tắc, chỉ đủ thời gian để bạn vung tay ra cố bám lấy (mà nhiều khả năng sẽ chỉ làm đau chính mình hoặc làm vỡ một vài đồ vật quý giá nào đó) rồi bạn bổ nhào ở hành lang trải thảm xanh rợp như rừng trong nhà nghỉ số 6 tại Athens, Ohio, lúc 4 giờ
16 phút sáng, thứ Hai, ngày 6, tháng 8, năm 1981, bạn đập đầu vào cửa phòng một ai đó, khiến họ, bà Tina Schulman đến từ Philadelphia, phải ra mở cửa và bắt đầu hét toáng lên vì bạn đang trần trùng trục, bầm dập, nằm bất tỉnh dưới chân bà. Bạn tỉnh dậy trong bệnh viện hạt, e ngại nhìn viên cảnh sát đang đứng ngoài cửa phòng theo dõi trận đấu của đội Phillies qua chiếc đài bán dẫn xách tay. Chúa rủ lòng thương, bạn lại nằm vật ra bất tỉnh và thức dậy vài giờ đồng hồ sau trên giường của mình, vợ bạn đang cúi xuống nhìn đầy lo lắng.
Đôi khi bạn cảm thấy cực kì sảng khoái. Mọi thứ đang thăng hoa và ngời sáng, rồi đột nhiên bạn buồn nôn dữ dội và biến mất. Bạn nôn thốc nôn tháo lên những chậu cây phong lữ ở khu ngoại ô hẻo lánh nào đó, lên đôi giày tennis của bố, trên sàn nhà tắm của bạn ba ngày trước, bên vệ đường bằng gỗ ở Oak Park, Illinois, khoảng năm 1903, trên sân tennis một ngày mùa thu đẹp trời những năm 1950, hay lên chính đôi chân trần của bạn ở nhiều thời điểm và nhiều nơi chốn khác nhau.
Cảm giác đó như thế nào?
Cảm giác đó hệt như trong những giấc mơ khi bạn chợt nhận ra mình phải làm bài kiểm tra mà chưa hề chuẩn bị trước và bạn không có một mảnh vải che thân, ví để ở nhà.
Khi tôi ở ngoài kia, tôi hoàn toàn thay đổi, tôi biến thành phiên bản tuyệt vọng của chính tôi. Tôi trở thành một tên
trộm, một kẻ lang thang, một con thú chỉ biết chạy và lẩn trốn. Tôi khiến các bà lão giật mình, trẻ con thích thú. Tôi là một trò mánh khóe, một ảo ảnh của đấng bề trên, không thể tin là tôi thực sự tồn tại.
Có sự logic, có quy luật nào cho tất cả những lần tan biến và trở về, cho tất cả những lần du hành này? Có cách nào để cứ ở nguyên thế, để bám trụ lấy hiện tại bằng tất cả mọi tế bào trong tôi? Tôi không biết. Có một số manh mối; như mọi căn bệnh khác, có các cơ sở và triệu chứng. Kiệt sức, âm thanh ồn ào, căng thẳng, đứng dậy đột ngột, ánh đèn chớp - tất cả những điều đó có thể khơi mào cho sự xuất hiện của nó. Nhưng: tôi cũng có thể đang đọc The Sunday Times, cà phê trên tay và Clare đang gà gật bên cạnh trên giường, rồi đột nhiên thấy mình ở năm 1976 ngắm tôi tuổi 13 đang cắt cỏ trong vườn của ông nội.
Đôi khi, những lần du hành đó chỉ diễn ra trong tích tắc; như nghe đài bị nhiễu sóng. Tôi hiện ra lẫn trong đám đông cũng nhiều như khi tôi một mình trên đồng ruộng, trong nhà, trong xe trên bãi biển, trong trường tiểu học giữa đêm khuya. Tôi sợ phải thấy mình đứng trong phòng giam, trong thang máy nhung nhúc người, hay ở giữa xa lộ. Tôi đột nhiên xuất hiện, chẳng biết từ đâu đến, trần truồng. Làm sao tôi có thể giải thích? Tôi không thể mang theo mình thứ gì. Không quần áo, không tiền, không thẻ căn cước. Tôi dành phần lớn thời gian của những lần du hành để tìm quần áo và lẩn trốn. Cũng may tôi không đeo kính.
Thật mỉa mai. Tất cả khoái lạc của tôi là những gì thân thuộc và đầm ấm: chiếc ghế bành êm ái, những vui thú gia đình giản dị. Tất cả những gì tôi muốn có là những khoái cảm tầm thường. Một cuốn tiểu thuyết trinh thám trên giường, mùi thơm từ mái tóc vàng đỏ dài mới gội vẫn còn ẩm ướt của Clare, một tấm bưu thiếp của người bạn gửi từ nơi họ đi nghỉ mát, kem trong cốc cà phê đang hòa dần vào nước, làn da mềm mại bên dưới ngực của Clare, hai túi đồ vừa mua từ cửa hàng tạp hóa nằm cân xứng trên bàn trong bếp chờ được dỡ ra. Tôi thích được đi lang thang quanh những giá sách trong thư viện sau khi tất cả khách đọc đã ra về, khẽ chạm vào gáy từng cuốn sách. Đó là những điều đâm thủng ruột gan tôi bằng một nỗi khao khát mãnh liệt mỗi khi tôi lạc vào dòng thời gian.
Và Clare, luôn luôn là Clare. Clare vào buổi sáng, vẫn gật gù và nhăn nhó. Clare đang nhúng tay vào hũ làm giấy, nhẹ nhàng kéo tấm khuôn ra và lắc cho đến khi nó thành hình. Clare đang đọc sách, tóc xõa xuống phía sau ghế, xoa xoa dầu thơm vào hai bàn tay nứt nẻ đỏ hỏn của cô ấy trước khi đi ngủ. Và giọng nói trầm ấm của Clare luôn văng vẳng bên tai tôi.
Tôi ghét phải đi đến những nơi cô ấy không có mặt. Vậy mà, tôi luôn đi, và cô ấy chẳng thể theo.
I. Người đàn ông bên lề thời gian
Ồ, không phải vì hạnh phúc tồn tại,
sự vồ vập vội vàng khỏi những tổn thất đang tới.
Mà vì được ở đây đã là quá đủ; vì mọi thứ nơi này cần chúng ta, cái thế giới phù du này, cứ không ngừng vẫy gọi. Chúng ta, những điều phù du trên hết.
A, nhưng chúng ta có thể mang theo gì về thế giới bên kia? Không phải nghệ thuật từ cái nhìn, mà chúng ta được học thật chậm rãi; chẳng phải những điều đã diễn ra nơi này. Không gì cả.
Chỉ có những khổ đau. Và trên hết, những gánh nặng, và sự trải nghiệm dài lâu của tình yêu - chỉ những gì không thể chối bỏ.
—Trích Bi khúc Duino thứ chín,
Rainer Maria Rilke,
Dịch sang tiếng Anh bởi Stephen Michell
Cuộc hẹn thứ nhất, một
Thứ Bảy, 26/10/1991 (Henry 28 tuổi, Clare 20 tuổi)
CLARE: Thư viện được làm bằng cẩm thạch, mát mẻ và có mùi như máy hút bụi thảm. Tôi kí vào sổ người đọc: Clare Abshire, 11 giờ 15, 26/10/1991, khu vực sách đặc biệt. Đây là lần đầu tiên tôi vào thư viện Newberry. Sau khi bước qua chỗ tối, cửa vào hiện ra trước mắt khiến tôi thấy hứng khởi. Đối với tôi, thư viện như một hộp quà Giáng Sinh khổng lồ đầy sách. Thang máy gần như im lặng hoàn toàn trong ánh sáng mập mờ. Tôi dừng ở tầng ba và điền vào thẻ người đọc rồi đi lên cầu thang vào khu vực sách đặc biệt. Đôi bốt của tôi nện từng tiếng lộc cộc lên nền gỗ. Căn phòng tĩnh lặng và đông đúc, đầy ắp những cái bàn nặng nề rắn chắc chất đầy sách và được bao quanh bởi nhiều người đọc khác. Ánh nắng của buổi sáng mùa thu Chicago chiếu qua các ô cửa sổ. Tôi đi đến bàn và cầm tập giấy đăng kí mượn sách. Tôi đang viết bài luận cho lớp Lịch sử Nghệ thuật của mình, chủ đề nghiên cứu là Chaucer của Kelmscott Press. Tôi tìm được cuốn sách và điền giấy mượn. Muốn đọc thêm về nghệ thuật làm giấy ở Kelmscott, nhưng không biết phải tìm ở danh mục nào nên tôi quay trở lại bàn nhân viên để hỏi. Sau khi giải thích cho người phụ nữ ở đó loại sách mà tôi đang tìm, cô ta liếc mắt về phía người vừa bước qua phía sau tôi và nói,“Có lẽ anh DeTamble đây sẽ giúp được cô”. Tôi quay người lại, chuẩn
bị giải thích thêm một lần nữa, thì thấy mình đang đối diện với Henry.
Tôi bất ngờ đến không thể nói nên lời, Henry đang đứng đó, điềm tĩnh, ăn mặc đầy đủ, và trẻ hơn nhiều so với những lần tôi đã gặp. Henry làm việc ở thư viện Newberry, đang đứng trước mặt tôi, trong hiện tại. Ngay lúc này đây, tôi hân hoan khó tả. Henry chỉ nhìn tôi kiên nhẫn, đầy thắc mắc nhưng vẫn lịch sự.
“Tôi có thể giúp gì cho cô?” anh ấy nhã nhặn hỏi.
“Henry!” Khó khăn lắm tôi mới không khỏi nhảy chồm vào anh ấy. Dĩ nhiên, anh ấy chưa từng một lần gặp mặt tôi trong đời.
“Chúng ta có quen nhau không nhỉ? Xin lỗi, tôi không…” Henry vừa đảo mắt nhìn quanh, e ngại đồng nghiệp và những người đọc khác đang dòm ngó, vừa lục tìm trong trí nhớ rồi nhận ra có thể bản thân của tương lai đã gặp cô gái đang vui mừng hớn hở đứng trước mặt mình. Lần cuối cùng tôi gặp Henry, anh ấy đang mút đầu ngón chân của tôi trên đồng cỏ.
Tôi cố giải thích. “Em là Clare Abshire. Em đã gặp anh từ hồi còn là một cô bé...” Tôi lúng túng không biết phải nói thế nào, vì tôi yêu say đắm người đàn ông đang đứng trước mặt tôi, người chưa có chút kí ức nào về tôi. Mọi thứ là tương lai đối với anh ấy. Tôi muốn cười phá lên trước sự
tréo ngoe này. Những năm tháng ở bên Henry đang tràn dâng trong tôi, trong khi anh ấy chỉ nhìn tôi bối rối và ái ngại. Henry mặc quần đi câu cũ của bố tôi, kiên nhẫn giúp tôi học thuộc bảng cửu chương, kiểm tra từ vựng tiếng Pháp, đối chiếu thủ phủ của các bang; Henry cười trước bữa ăn trưa kì quái được cô bé bảy tuổi mang đến đồng cỏ; Henry mặc áo đuôi tôm, cởi những chiếc khuy áo bằng đôi tay run rẩy trong ngày sinh nhật lần thứ 18 của tôi. Đang ở đây! Vào lúc này! “Hãy đi uống cà phê với em, hoặc ăn tối, hoặc gì cũng được...” Chắc chắn anh ấy sẽ phải đồng ý. Henry, người đã yêu tôi trong quá khứ và tương lai cũng sẽ phải yêu tôi trong hiện tại. Và trong sự hân hoan nhẹ nhõm của tôi anh ấy đồng ý. Chúng tôi sẽ gặp nhau ở nhà hàng Thái gần đây vào tối nay. Dưới cái nhìn chằm chằm kinh ngạc của người phụ nữ phía sau quầy lễ tân, tôi bỏ đi, quên hẳn Kelmscott và Chaucer. Tôi đi như bay xuống những bậc cầu thang cẩm thạch, qua đại sảnh và bước ra ngoài, hòa vào ánh nắng Chicago tháng Mười, chạy dọc qua công viên, qua những con chó nhỏ và sóc, hò reo hớn hở.
Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com
HENRY: Đó là một ngày tháng Mười nắng giòn tan như mọi ngày khác. Tôi đang ở chỗ làm, trong một căn phòng nhỏ không có cửa sổ được điều chỉnh độ ẩm trên tầng bốn thư viện Newberry, đang phân loại chồng tài liệu chuyên ngành khắc vân cẩm thạch mới được quyên góp. Những cuốn tài liệu đẹp tuyệt, nhưng việc phân loại chúng thật tẻ nhạt, tôi thấy chán nản và tiếc thay cho chính mình. Nói đúng ra, tôi thấy mình già cỗi, theo cách chỉ một người ở
tuổi 28 mới có thể cảm thấy, sau khi đã thức đến gần sáng để uống những li vodka đắt quá thể, và cố, nhưng không thành công, để khiến Ingrid Carmichel lại trở nên vui vẻ. Chúng tôi dành cả đêm để cãi nhau, mà giờ tôi cũng không thể nhớ vì cái gì. Đầu tôi đang giật lên từng cơn. Tôi cần cà phê. Bỏ lại đám tài liệu vân cẩm thạch trong trạng thái lộn xộn vừa phải, tôi đi qua văn phòng, qua quầy lễ tân ở phòng đọc. Bị chặn lại bởi giọng nói của Isabella,“Có lẽ anh DeTamble đây sẽ giúp được cô”, mà ý của cô ta thật ra là
“Henry, đồ xảo trá, cậu đang định lẩn đi đâu đấy?” Rồi cô gái có mái tóc màu hổ phách, cao, mảnh dẻ, xinh đẹp tuyệt vời quay lại và nhìn tôi như thế tôi là Đức Chúa trời của cô ấy. Ruột gan tôi chao đảo. Rõ ràng cô ấy biết tôi, còn tôi thì không. Chỉ có Chúa mới biết tôi đã nói gì làm gì hay hứa gì với cô gái đẹp lộng lẫy này, nên tôi buộc phải nói ra câu cửa miệng của một thủ thư,“Tôi có thể giúp gì cho cô”. Cô gái thở không ra hơi, rồi thốt lên “Henry!” theo cách mà khiến tôi biết rằng vào thời điểm nào đó trong đời, chúng tôi đã, sẽ, có những quãng thời gian tuyệt đẹp bên nhau. Thật tệ là tôi không hề biết chút gì về cô ấy, thậm chí cả tên cũng không. Tôi nói “Chúng ta có quen nhau không nhỉ?” và Isabella ném cho tôi cái nhìn hàm ý “Đồ khốn!” Cô gái nói,“Em là Clare Abshire. Em đã gặp anh từ hồi còn là một cô bé...” rồi rủ tôi đi ăn tối. Tôi nhận lời, vẫn sửng sốt. Cô ấy nhìn tôi hào hứng và trìu mến, mặc dù đã mấy ngày nay tôi chưa cạo râu, vẫn còn chưa tỉnh sau trận say đêm qua, tóm lại là không được đạo mạo cho lắm. Chúng tôi sẽ cùng nhau ăn tối ở Beau Thai, rồi Clare lả lướt bước ra khỏi phòng đọc, để lại mùi thơm thoang thoảng.
Khi đứng trong thang máy, chưa hết choáng váng, tôi nhận ra tấm vé số độc đắc mà tôi của tương lai trúng đã bằng cách nào đó tìm được đến tôi trong hiện tại, rồi tôi phá lên cười. Bước qua đại sảnh, tôi chạy như băng xuống những bậc thang ra tới đường cái và nhìn thấy Clare cũng đang nhảy chân sáo qua quảng trường Washington, vui mừng hớn hở, tôi chực khóc mà không hiểu vì sao.
Buổi tối hôm đó:
HENRY: 6 giờ tối. Tôi chạy vội về nhà sau khi tan sở và cố làm cho mình trở nên quyến rũ trở lại. Nhà của tôi những ngày này là căn hộ nhỏ nhưng đắt đến điên khùng ở bắc Dearborn; tôi liên tục đâm sầm vào tường, cạnh bàn và đồ đạc trong phòng. Bước thứ nhất: mở 17 ổ khóa ở cửa căn hộ, nhảy bổ vào phòng khách đồng thời cũng là phòng ngủ và bắt đầu lột bỏ từng phần y phục. Bước thứ hai: tắm gội và cạo râu. Bước thứ ba: nhìn chằm chằm vô vọng vào tủ quần áo, và từ từ nhận ra rằng tôi chẳng có cái quần hay áo nào thực sự sạch. Tôi khám phá ra một chiếc sơ mi trắng vẫn còn nằm trong túi bọc đồ, quyết định sẽ mặc vét đen đi giày da và thắt cà vạt xanh nhạt. Bước thứ tư: hoàn tất khâu mặc đồ và thừa nhận tôi trông hệt như đặc vụ FBI. Bước thứ năm: nhìn quanh căn hộ và nhận ra nó là một đống hổ lốn lộn xộn. Tôi quyết tâm sẽ tránh không đưa Clare về nhà, kể cả nếu có thể. Bước thứ sáu: nhìn vào trong chiếc gương dài đúng bằng chiều cao của tôi và thấy một gã gầy nhom xương xẩu, mắt tròn xoe như Egon Schiele 10 tuổi cao 1 mét 85 trong chiếc áo sơ mi sạch sẽ
và áo vét dành để mặc trong những dịp tang lễ. Tôi tự hỏi không biết cô gái này đã nhìn thấy tôi trong bộ dạng như thế nào, khi mà dĩ nhiên tôi của tương lai không thể mặc quần áo của chính mình để du hành thời gian đến quá khứ của cô ấy. Cô ấy nói “từ khi còn là một cô bé”? Một loạt câu hỏi không thể trả lời chạy nhốn nháo trong đầu tôi. Tôi dừng lại một chút để thở. Được rồi. Tôi vơ lấy ví, chìa khóa rồi đi ra: khóa 37 ổ khóa, bước vào chiếc thang máy cà tàng chật chội, mua hoa tại cửa hàng ở đại sảnh cho Clare, đi bộ qua hai con phố đến nhà hàng trong thời gian kỉ lục nhưng vẫn chậm 5 phút so với giờ hẹn. Clare đã ngồi yên vị trong quán, cô ấy có vẻ nhẹ nhõm khi trông thấy tôi, vẫy tay với tôi như thể cô ấy đang ở trong một cuộc diễu hành.
“Xin chào”, tôi nói. Clare mặc váy nhung màu rượu và đeo ngọc trai. Cô ấy đẹp như vừa bước ra từ tranh của Botticelli: cặp mắt xám to tròn, mũi dài, miệng nhỏ nhắn mỏng manh như Geisha. Mái tóc đỏ dài che khuất đôi bờ vai và rũ xuống tới tận giữa lưng. Clare trông nhợt nhạt tựa tượng sáp trong ánh nến. Tôi chìa bó hồng về phía cô ấy, “Của em”.
“Cảm ơn anh”, Clare nói với vẻ hớn hở đến ngớ ngẩn. Cô ấy nhìn tôi và nhận thấy tôi đang bối rối trước phản ứng của mình. “Anh chưa bao giờ tặng hoa cho em cả.”
Tôi ngồi xuống ghế đối diện với cô ấy. Một cảm giác thích thú. Cô gái này biết tôi; cô ta không chỉ là một người lướt qua tôi trong những lần du hành của tôi trong tương
lai. Cô bồi bàn đi đến và đặt thực đơn xuống bàn. “Kể anh nghe đi”, tôi gặng hỏi.
“Kể gì cơ?”
“Mọi thứ. Em có biết vì sao anh không nhận ra em? Nhân tiện, anh rất xin lỗi vì điều đó...”
“Ồ không, anh không cần phải xin lỗi. Em biết... nguyên nhân vì sao.” Clare hạ giọng. “Đối với anh, tất cả những điều đó đều chưa xảy ra. Còn với em thì... em đã biết anh trong một khoảng thời gian khá dài.”
“Chính xác là bao lâu?”
“Khoảng 14 năm. Em gặp anh lần đầu tiên khi em sáu tuổi.”
“Ôi trời. Em có thường xuyên gặp anh không? Hay chỉ một vài lần?”
“Lần cuối khi gặp nhau, anh dặn em mang cái này đến cho anh trong hiện tại”, Clare chìa ra một cuốn nhật kí màu xanh nhạt dành cho trẻ con,“nó đây”. Tôi mở cuốn nhật kí, lật đến trang được đánh dấu bằng một mẩu báo cũ, hai chú chó Tây Ban Nha lấp ló góc trên bên phải, ở giữa trang là danh sách ghi lại ngày tháng. Bắt đầu bằng “23 tháng 9 năm 1977” và kết thúc sau 16 trang xanh, nhỏ nhắn, bằng
“24 tháng 5 năm 1989”. Tôi đếm. Có tất cả 152 ngày được viết nắn nót bằng bút bi mực xanh, nét chữ uốn lượn của cô bé sáu tuổi.
“Em đã viết danh sách này sao? Chúng đều chính xác?”
“Thực ra anh đã đọc cho em viết. Vài năm trước, anh đã nói với em rằng, anh nhớ như in những ngày tháng trong danh sách này. Vậy nên em không biết chính xác từ đâu danh sách này được hình thành. Ý em là, nó như một vòng luẩn quẩn. Nhưng tất cả đều chính xác. Em đã dùng nó để biết khi nào anh sẽ đến mà ra đồng cỏ gặp anh.” Cô bồi bàn lại xuất hiện và chúng tôi gọi món: Tom Kha Kai cho tôi, Gang Mussaman cho Clare. Một anh chàng bồi bàn khác mang trà đến và rót cho chúng tôi mỗi người một li.
“Đồng cỏ là gì?” Tôi bồn chồn hớn hở. Chưa bao giờ tôi được gặp một người trong tương lai của tôi, nói gì đến một Botticelli, người đã gặp tôi 152 lần.
“Đó là một phần trong mảnh đất của bố mẹ em ở Michigan. Một bên là rừng rậm, bên còn lại là nhà chính. Ở giữa là khoảng rừng thưa có đường kính rộng chừng 10 thước, nơi có một tảng đá lớn, nếu anh ở đó, sẽ chẳng ai trong nhà có thể nhìn thấy anh cả, vì bên ngoài khu đất trồi lên cao vút rồi lọt thỏm ở giữa. Em thường ra đó vì thích được chơi một mình. Em đã nghĩ sẽ chẳng ai biết em ở đó. Rồi một ngày lúc em đang học lớp một, khi mới từ trường trở về em liền chạy ra ngoài khu đất thì anh đã ở đó.”
“Trần như nhộng và nhiều khả năng đang nôn thốc nôn tháo.”
“Thực ra anh đã có vẻ khá bình tĩnh. Anh biết tên em, và em nhớ, anh đã biến mất một cách ngoạn mục. Giờ nghĩ lại, có lẽ anh đã từng ở đó trước đấy. Lần đầu tiên đối với anh có lẽ là năm 1981; khi em mười tuổi. Anh không ngừng nói, “Ôi Chúa ơi”, và cứ nhìn em chằm chằm. Anh cũng có vẻ khá lo lắng vì không có lấy một mảnh vải che thân, nhưng hồi đó em chỉ quan tâm đến việc người đàn ông trần truồng đến từ tương lai này xuất hiện một cách kì diệu và sắp sửa hỏi xin quần áo.” Clare mỉm cười. “Cả thức ăn nữa.”
“Có gì buồn cười sao?”
“Suốt mấy năm trời, em đã bắt anh phải ăn những bữa ăn kì dị. Bơ lạc và sanwich cá trồng, củ cải đường và pa-tê phết trên bánh quy mơ. Một phần vì em muốn thử xem có thứ gì anh không dám ăn hay không, phần vì em muốn gây ấn tượng với anh bằng quỷ thuật nấu nướng của mình.
“Lúc đó anh bao nhiêu tuổi?”
“Em nghĩ lần già nhất mà em nhìn thấy anh là lúc anh ngoài bốn mươi. Em không chắc về khi trẻ nhất; có lẽ ba mươi? Bây giờ anh bao nhiêu tuổi?”
“Hai mươi tám.”
“Hiện giờ trông anh trẻ hơn nhiều so với anh mà em đã gặp. Những năm gần đây em gặp anh hầu hết là lúc anh ngoài bốn mươi, anh có vẻ đang gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống... khó để biết chắc, khi ta còn nhỏ, tất cả người lớn đều có vẻ già dặn và to lớn.”
“Vậy chúng ta đã làm những gì ở đồng cỏ? 152 lần là cả một quãng thời gian dài.”
Clare mỉm cười. “Rất nhiều thứ, thay đổi tùy theo thời tiết và theo tuổi của em. Anh dành rất nhiều thời gian giúp em làm bài tập về nhà, chúng ta cũng chơi trò chơi, nhưng hầu hết chỉ nói chuyện. Khi còn nhỏ, em nghĩ anh là thiên thần; em đã hỏi anh rất nhiều về Chúa. Khi ở tuổi dậy thì, em tìm mọi cách để anh ngủ với em, và anh không để bị em cám dỗ, tất nhiên điều đó càng khiến em quyết tâm cám dỗ anh hơn. Có lẽ anh đã nghĩ anh sẽ khiến em hư hỏng. Ở khía cạnh nào đó mà nói, anh đối xử với em như với con cái vậy.”
“Ồ. Đó chắc là tin tốt, nhưng vào lúc này, anh không muốn được coi như một bậc phụ huynh đâu nhé.” Chúng tôi nhìn vào mắt nhau rồi cùng mỉm cười. Chúng tôi đều có mưu đồ cả. “Mùa đông thì sao? Mùa đông ở Michigan chẳng phải khắc nghiệt lắm sao.”
“Em thường lén đưa anh vào tầng hầm; nhà em có một tầng hầm khổng lồ với nhiều phòng; một trong số chúng là
nhà kho, phía sau là lò sưởi. Nhà em gọi nó là phòng đọc, vì tất cả những cuốn sách và tạp chí cũ vô dụng đều được tống vào đó. Một lần khi anh đang ở đấy vào ngày có bão tuyết, chẳng ai đi học hay đi làm cả, em đã suýt phát điên khi phải tìm đủ mọi cách lén lút lấy thức ăn cho anh, vì trong nhà cũng không còn nhiều. Em vừa chuẩn bị đi mua đồ thì cơn bão ập đến. Vậy là anh nằm bẹp dí trong phòng, đọc tạp chí Reader’s Digests suốt ba ngày liền, sống bằng cá mòi và mì gói.”
“Nghe mặn mà quá nhỉ. Anh sẽ đợi đến ngày đó.” Đồ ăn của chúng tôi được mang ra. “Em đã bao giờ học nấu ăn?”
“Không, em không dám nhận là mình biết nấu ăn. Nell và Etta luôn cáu bẳn mỗi khi em làm gì ngoài việc lấy cho mình một lon Cô-ca trong bếp. Và kể từ khi dọn đến Chicago, chẳng có ai để em nấu ăn cho cả, nên cũng chẳng có động lực để em tập làm gì. Hầu hết thời gian, em bận rộn với việc học trên trường nên em ăn luôn ở đó.” Clare đưa một miếng cà ri lên miệng. “Món này ngon thật đấy.”
“Nell và Etta?”
“Nell là đầu bếp nhà em.” Clare mỉm cười. “Bà là cuốn bách khoa toàn thư về ẩm thực, là Julia Child với ngoại hình của Aretha Franklin. Etta là quản gia, bà trông nom mọi việc trong nhà. Bà gần như mẹ của bọn em; mẹ em thì... Etta luôn có mặt khi bọn em cần. Bà là người Đức, nghiêm khắc nhưng luôn sẵn sàng an ủi, chăm nom, mẹ em lúc nào cũng
thả hồn trên mây, anh hiểu không?”
Tôi gật đầu, miệng nhồm nhoàm đầy súp.
“Còn Peter nữa”, Clare nói tiếp. “Peter là người làm vườn.”
“Ồ. Nhà em có nhiều người giúp việc. Có vẻ ngoài tầm với của anh rồi. Đã bao giờ anh gặp người nhà em chưa?”
“Anh đã gặp ngoại Meagram ngay trước khi bà qua đời. Bà là người duy nhất được nghe em kể về anh. Lúc đó bà gần như đã mù. Bà biết chúng ta sẽ kết hôn và muốn được gặp anh.”
Tôi ngừng ăn và nhìn Clare. Cô ấy nhìn lại, trong sáng, thánh thiện, hoàn toàn thản nhiên. “Chúng ta sẽ kết hôn?”
“Em nghĩ vậy”, cô ấy trả lời. “Trong nhiều năm trời, bất kể là đến từ năm nào, anh đều nói với em rằng em là vợ của anh.”
Quá sức. Việc này là quá sức. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng để đầu mình trống rỗng; điều cuối cùng tôi muốn lúc này là biến mất vào dòng thời gian.
“Henry? Henry, anh ổn chứ?” Tôi cảm nhận được Clare đang ngồi xuống ghế bên cạnh. Tôi mở mắt, cô ấy nắm lấy tay tôi, giữ chặt. Tôi nhìn xuống đôi bàn tay thô ráp, nứt nẻ
của cô ấy, đôi tay của một người lao động.
“Em xin lỗi, Henry. Em vẫn chưa thể quen được. Thật trái ngược. Ý em là, từ trước đến nay anh luôn là người biết mọi việc. Em cứ quên rằng em phải từ từ nói cho anh biết.” Cô ấy cười. “Đúng ra thì, điều cuối cùng anh nói với em là: Hãy nhân từ với anh một chút nhé Clare. Anh nói bằng giọng như đang nhái lại ai đó, giờ thì em đoán rằng chắc hẳn anh đã nhái em.” Cô ấy vẫn nắm tay tôi, nhìn tôi háo hức, say mê, tràn đầy tình yêu. Tôi cảm thấy bối rối vô cùng.
“Clare?”
“Vâng?”
“Chúng ta có thể giả vờ như đây là cuộc hẹn đầu tiên bình thường giữa hai người bình thường được không?”
“Được thôi.” Clare đứng dậy và trở về ghế của mình. Cô ấy ngồi thẳng lưng dậy, cố không mỉm cười.
“Ừm, phải rồi. Chà! Clare, kể cho anh nghe về em được không? Sở thích của em là gì? Thú cưng? Có khuynh hướng tình dục khác thường nào không?”
“Anh tự mà tìm hiểu.”
“Phải rồi. Xem nào, gì nữa nhỉ... em học ở đâu? Ngành
gì”
“Học viện Nghệ thuật; em làm điêu khắc được một thời gian và mới bắt đầu theo học nghệ thuật làm giấy.”
“Thú vị nhỉ. Nó như thế nào?”
Lần đầu tiên Clare có vẻ ngượng ngùng. “Nó đại loại là... to, và... về... những con chim.”Cô ấy nhìn xuống mặt bàn, rồi nhấp một ngụm trà.
“Chim?”
“Ừm, thực ra nó về... ừm... sự khao khát.” Cô ấy vẫn không nhìn vào tôi, nên tôi đổi chủ đề.
“Kể cho anh nghe về gia đình em đi.”
“Được rồi”, Clare bớt căng thẳng, mỉm cười. “Gia đình em sống ở Michigan, tại một thị trấn nhỏ gần hồ tên là Nam Haven, đúng ra thì nằm trong một vùng đất tư nhân bên ngoài thị trấn. Nó vốn thuộc về ông bà ngoại của em, Meagram. Ông mất trước khi em sinh ra, còn bà sống với gia đình em cho đến khi qua đời lúc em 17 tuổi. Ông ngoại là luật sư, bố em cũng là luật sư; họ gặp nhau khi bố đến làm việc cho ông ngoại.”
“Vậy là bố em lấy con gái của ông chủ.”
“Phải. Đôi lúc em tự hỏi ông lấy mẹ em hay lấy căn nhà. Mẹ là con một, và căn nhà thì khá tuyệt vời; nó được nhắc đến trong rất nhiều sách về kiến trúc và nghệ thuật.”
“Nó có tên chứ? Ai đã xây nó?”
“Nó được gọi là Chim Sáo Bắc Mỹ, xây năm 1896 bởi Peter Wyns.”
“Ồ. Anh đã xem ảnh về nó. Căn nhà được xây cho người nhà Henderson phải không?”
“Phải. Đó là món quà cưới cho Mary Henderson và Dieter Bascombe. Họ li dị hai năm sau khi dọn về đó sống và rao bán căn nhà.”
“Một căn nhà thượng lưu.”
“Gia đình em thượng lưu. Và họ cũng khá kì quặc về điều đó.”
“Anh chị em?”
“Mark 22 tuổi và đang chuẩn bị hoàn thành chương trình dự bị đại học Luật ở Harvard. Alicia 17 tuổi, năm cuối phổ thông. Con bé là một nghệ sĩ trung hồ cầm.” Ngay lập tức tôi có cảm tình với cô em gái và thờ ơ với ông anh trai. “Em
không ưa anh trai lắm thì phải?”
“Mark giống hệt bố. Họ đều thích được chiến thắng, họ cãi với anh cho đến khi anh phải chịu thua.”
“Anh luôn ghen tị với những ai có anh chị em, ngay cả khi họ không ưa nhau cho lắm.”
“Anh là con một?”
“Phải. Anh tưởng em đã biết mọi thứ về anh?”
“Nói đúng hơn, em biết tất cả và không gì cả. Em biết anh trông thế nào khi không mặc quần áo, nhưng cho đến tận trưa nay em mới biết họ của anh. Em biết anh sống ở Chicago, nhưng em không biết gì về bố mẹ anh, ngoại trừ mẹ anh đã mất vì tai nạn ô tô khi anh lên sáu. Em biết anh rất rành về nghệ thuật, nói thành thạo tiếng Pháp và tiếng Đức; nhưng em không hề biết anh là thủ thư. Anh đã đảm bảo để em không thể tìm được anh trong hiện tại; anh nói mọi việc sẽ diễn ra khi nó phải diễn ra, và giờ thì chúng ta ở đây.”
“Và giờ thì chúng ta ở đây”, tôi tán đồng. “Ừm... gia đình anh không phải thượng lưu; bố mẹ anh là nghệ sĩ. Bố anh là Richard DeTamble, còn mẹ anh là Annette Lyn Robinson.”
“Ồ, ca sĩ Annette Lyn Robinson.”
“Phải rồi. Bố anh là nghệ sĩ vĩ cầm. Ông chơi cho dàn
nhạc giao hưởng Chicago. Nhưng ông không nổi tiếng như mẹ anh. Đáng tiếc, vì bố anh là một nhạc công phi thường. Sau khi mẹ anh mất ông lúc nào cũng chông chênh.” Hóa đơn được đưa đến. Chẳng ai trong chúng tôi ăn được gì nhiều, nhưng lúc này tôi không có hứng với thức ăn. Clare cầm ví lên nhưng tôi lắc đầu. Tôi trả tiền và chúng tôi rời nhà hàng, đứng giữa đường Clark trong tiết trời mùa thu tuyệt đẹp. Clare đang mặc áo choàng xanh bằng len được đan cầu kì và khăn lông; tôi quên không mang theo áo khoác ngoài nên giờ run lẩy bẩy.
“Anh sống ở đâu?” Clare hỏi.
Thôi chết. “Cách đây hai dãy phố, nhưng căn hộ của anh rất chật và bừa bộn. Còn em?”
“Làng Roscoe, ở Hoyne. Nhưng em sống cùng với bạn.”
“Nếu đến chỗ anh, em sẽ phải nhắm mắt lại và đếm đến một nghìn. Có khi nào em có một cô bạn cùng phòng bị điếc và không tọc mạch?”
“Rất tiếc là chúng ta không may mắn đến vậy. Em không bao giờ dẫn ai về nhà; Charisse sẽ nhảy bổ vào anh và chọc tăm tre vào các đầu ngón tay cho đến khi anh khai ra tất cả.”
“Anh luôn ao ước được bị tra tấn bởi ai đó tên Charisse, nhưng anh chắc là em không có cùng sở thích ấy. Đến chỗ
anh vậy.” Chúng tôi đi về phía bắc, dọc phố Clark. Tôi dừng lại mua một chai rượu. Khi trở ra, Clare nhìn tôi lúng túng.
“Em tưởng anh không được uống rượu?”
“Anh không?”
“Bác sĩ Kendrick rất nghiêm khắc trong chuyện đó.”
“Ông ấy là ai?” Chúng tôi bước đi chậm rãi vì Clare mang đôi giày không thích hợp cho việc đi bộ.
“Đó là bác sĩ của anh, ông ấy là chuyên gia về chứng suy giảm thời gian.”
“Giải thích thêm cho anh chứ?”
“Em cũng không biết nhiều. Chỉ biết rằng bác sĩ David Kendrick là nhà nghiên cứu di truyền học phân tử, người đã khám phá ra... sẽ khám phá ra tại sao có chứng suy giảm thời gian ở con người. Đó là một yếu tố di truyền học; ông ấy sẽ khám phá ra nó vào năm 2006.” Clare thở dài. “Có lẽ vẫn còn quá sớm. Anh đã từng nói với em rằng, sẽ có nhiều người mắc chứng suy giảm thời gian trong mười năm tới.”
“Anh chưa từng nghe nói có ai khác... mắc chứng... suy giảm này.”
“Em nghĩ, nếu anh có đến gặp bác sĩ Kendrick lúc này thì ông ấy cũng không thể giúp gì được cho anh. Và nếu ông ấy có thể thì chúng ta sẽ chẳng gặp được nhau.”
“Vậy thì hãy không nghĩ về nó nữa.” Chúng tôi bước qua đại sảnh. Clare đi vào thang máy trước tôi. Tôi đóng cửa rồi bấm tầng 11. Cô ấy có mùi như tấm vải cũ, xà phòng, lông thú và mồ hôi quện lẫn. Tôi thở sâu. Thang máy kêu lên lẻng kẻng khi dừng lại, chúng tôi thoát ra khỏi nó và bắt đầu bước dọc hành lang hẹp. Tôi đút chùm chìa khóa lần lượt vào 107 ổ rồi mở hé cửa. “Nó đã trở nên tệ hại hơn nhiều trong lúc chúng tôi dùng bữa tối. Anh sẽ phải bịt mắt em lại.” Clare cười khúc khích trong lúc tôi đặt chai rượu xuống đất và tháo bỏ chiếc cà vạt. Tôi giơ nó qua ngang tầm mắt cô ấy rồi buộc chặt. Sau khi mở cửa rộng hơn, tôi dắt Clare vào căn hộ và đặt cô ấy ngồi xuống ghế bành. “Được rồi, em bắt đầu đếm đi.”
Clare đếm thành tiếng. Tôi chạy đua khắp căn phòng, nhặt lên nào những quần lót, tất, nằm rải rác trên sàn nhà, lượm thìa, cốc cà phê từ đủ mọi ngóc ngách rồi quẳng chúng vào bồn rửa bát. Khi Clare đếm tới 967, tôi cởi bỏ chiếc cà vạt đang bịt mắt cô ấy ra. Giường ngủ kéo ra từ ghế sô pha đã được đẩy trở lại vào trong, và nó lại là chiếc ghế sô pha như lúc ban ngày, tôi ngồi xuống đó. “Rượu? Nhạc và nến chứ?”
“Hoàn hảo.”
Tôi đứng dậy thắp nến. Sau khi tắt đèn trần, căn phòng nhảy múa dưới ánh sáng lập lòe và mọi thứ trở nên đẹp hơn nhiều. Tôi cắm hoa vào trong nước, với lấy cái mở nắp chai và khui chai rượu vang, rót cho chúng tôi mỗi người một li. Sau một giây lưỡng lự, tôi đặt chiếc đĩa hát của mẹ tôi đang biểu diễn lieder của Schubert vào máy rồi chỉnh âm lượng du dương vừa đủ.
Căn hộ của tôi cơ bản là một chiếc ghế bành, một chiếc sô pha và chừng 4.000 cuốn sách.
“Thật ấm áp”, Clare nói. Cô ấy đứng dậy và chỉnh lại tư thế trên ghế sô pha. Tôi ngồi xuống cạnh cô ấy. Có những khoảnh khắc khoan khoái làm sao khi chúng ta chỉ cần ngồi đó và nhìn vào nhau. Ánh sáng từ những ngọn nến bập bùng trên mái tóc của Clare. Cô ấy đưa tay ra và chạm vào má tôi. “Thật tuyệt khi được gặp anh. Những ngày qua em đã rất cô đơn.”
Tôi kéo cô ấy lại gần hơn. Chúng tôi hôn nhau. Một nụ hôn mê đắm, nụ hôn của sự gần gũi đã từ lâu, tôi tự hỏi chính xác thì tôi và Clare đã làm những gì trên đồng cỏ, nhưng rồi tôi gạt ý nghĩ đó sang một bên. Môi chúng tôi rời ra; thông thường đây sẽ là thời điểm tôi tính đến các phương án để vượt qua pháo đài đa dạng của lớp quần áo, nhưng thay vào đó, tôi dựa người trở lại sô pha, mang theo Clare với tôi bằng cách ôm lấy cô ấy trong vòng tay và kéo lại gần; bộ váy nhung khiến cô ấy trơn trượt, Clare trườn vào khoảng không giữa tôi và lưng ghế sô pha như một con
cá chình bằng nhung. Cô ấy đang kề mặt tôi, tôi có thể cảm nhận được từng khúc trên thân thể của cô ấy dựa vào thân thể tôi qua lớp vải mỏng. Một phần trong tôi đang rạo rực điên cuồng muốn nhảy xổ lên, liếm láp và hùng hục đánh chén, nhưng tôi đã không còn chút sức lực nào sót lại.
“Tội nghiệp Henry.”
“Tại sao lại ‘Tội nghiệp Henry’? Anh đang ngập tràn trong hạnh phúc mà.” Đó là sự thật.
“Em đã ném hàng loạt bất ngờ như những viên đá tảng vào anh suốt buổi tối hôm nay.” Clare quàng chân qua người tôi, và giờ thì cô ấy đang ngồi trên đỉnh của thằng nhỏ. Nó thu hút sự chú ý của tôi một cách tuyệt đối.
“Đừng di chuyển”, tôi nói.
“Vâng. Buổi tối hôm nay thật thú vị. Ý em là, Tri thức là sức mạnh, đại loại thế. Em lúc nào cũng tò mò muốn tìm ra nơi ở của anh, đồ anh mặc và công việc anh làm.”
“Voila!” (Đây rồi!) Tôi luồn tay dưới váy của Clare rồi vuốt ngược lên đùi. Cô ấy đang mặc tất nịt. Đúng kiểu con gái tôi thích. “Clare?”
“Oui.” (Vâng)
“Thật đáng tiếc nếu cứ nuốt mọi thứ cùng lúc. Một chút
dè dặt không làm hại ai đâu.”
Clare bối rối. “Em xin lỗi! Nhưng, anh biết đấy, em đã phải dè dặt hàng năm trời. Và đây không phải như chiếc bánh ngọt ăn rồi là hết.”
“Hãy cầm lấy bánh của em và cùng ăn đi.”
“Em cũng định thế.” Cô ấy cười ranh mãnh rồi đẩy hông qua lại một vài lần. Giờ thì tôi dựng đứng như đường tàu lượn siêu tốc trong khu vui chơi Great America.
“Em luôn có được thứ mình muốn, phải không?”
“Luôn luôn. Em tệ vậy đấy. Chỉ có anh là cứ trơ trơ trước những vòi vĩnh của em. Em đã phải cam chịu trải qua những buổi phụ đạo tiếng Pháp nghiêm khắc và những trận cờ đam của anh.”
“Có lẽ anh nên cảm thấy được an ủi vì anh của tương lai ít ra cũng có vũ khí để khuất phục em. Em làm thế này với tất cả các chàng trai hả?”
Clare phật ý; tôi không thể đoán được cô ấy thành thật đến mức nào. “Có trong mơ em cũng không thèm làm việc này với các chàng trai. Anh thật tục tĩu làm sao!” Cô ấy cởi áo tôi ra. “Chúa ơi anh thật... trẻ.” Cô ấy bấu mạnh vào ngực tôi. Mặc kệ đức hạnh. Tôi đã tìm được cách vận hành chiếc váy của cô ấy.
Buổi sáng hôm sau:
CLARE: Tôi thức dậy và không biết mình đang ở đâu. Trần nhà lạ hoắc. Tiếng xe cộ kêu inh ỏi không ngớt ngoài đường phố. Giá sách. Ghế bành màu xanh với chiếc váy nhung của tôi vắt ngang, một chiếc cà vạt đàn ông nằm
trên. Rồi tôi nhớ ra. Tôi quay đầu lại và Henry nằm đó. Bình dị như thể chúng tôi đã làm điều này suốt cả đời. Anh ấy đang ngủ say sưa, xoắn lại thành một hình thù kì lạ, tay đặt trên mắt che đi buổi sáng, mái tóc đen dài xõa ra trên gối. Thật giản đơn. Chúng tôi cùng ở đây, trong hiện tại lúc này, cuối cùng cũng là hiện tại.
Tôi cẩn trọng bước xuống giường. Giường của Henry cũng là ghế sô pha. Nó kêu lên kẽo kẹt khi tôi đứng dậy. Chẳng có nhiều khoảng trống giữa giường và các giá sách nên tôi len lỏi lách qua cho đến khi vào tới sảnh. Phòng tắm
bé tí teo. Tôi thấy mình như Alice ở xứ sở thần tiên, to lớn khổng lồ, phải thọc tay ra ngoài cửa sổ để có thể quay người lại. Chiếc lò sưởi nhỏ khắc hoa văn vừa phả nhiệt vừa kêu lẻng kẻng. Tôi đi vệ sinh và rửa tay, rửa mặt. Rồi tôi để ý thấy trong chiếc cốc sứ trắng có hai cái bàn chải đánh răng.
Tôi mở hộc tủ thuốc. Kệ phía trên là dao lam, kem cạo râu, nước sát trùng Lixtơ, thuốc giảm đau Tylenol, nước xoa sau khi cạo, một viên bi xanh, tăm xỉa răng, lăn khử mùi... kem dưỡng da tay, băng vệ sinh, màng tránh thai, lăn khử
mùi, son môi, một hộp vitamin và một tuýp thuốc diệt tinh trùng ở kệ dưới. Thỏi son có màu đỏ chót.
Tôi đứng đó, cầm thỏi son môi trên tay và cảm thấy phát bệnh. Tôi tự hỏi cô ta trông thế nào, tên cô ta là gì, họ đã hẹn hò được bao lâu. Hẳn cũng đủ lâu. Tôi đặt thỏi son trở lại rồi đóng cửa tủ, nhìn thấy mình trong gương - mặt trắng trẻo, tóc dựng tứ phía. Bất kể cô là ai đi nữa, từ giờ đã có tôi. Cô có thể là quá khứ của Henry, nhưng tôi là tương lai của anh ấy. Tôi mỉm cười với chính mình. Sự phản chiếu của tôi trong gương mỉm cười đáp lại. Tôi lấy chiếc áo choàng tắm vải bông xù màu trắng của Henry ở phía sau cửa và khoác lên mình. Bên dưới nó, là một chiếc áo choàng khác bằng lụa có màu xanh nhạt. Mặc áo của anh ấy khiến tôi cảm thấy phấn chấn hơn mà chẳng cần lí do.
Quay trở lại phòng khách, Henry vẫn còn đang ngủ. Tôi tìm thấy đồng hồ đeo tay của mình trên bậu cửa sổ. Mới 6 giờ 30 sáng. Tôi quá chộn rộn để có thể quay lại giường và ngủ tiếp. Tôi vào căn bếp nhỏ để tìm cà phê. Từng chồng bát đĩa bẩn, tạp chí và đủ loại sách chất đầy trên mặt bàn, trên bếp lò và trên tất cả những chỗ đủ bằng phẳng để đặt đồ lên. Thậm chí có cả một chiếc vớ trong bồn rửa. Chắc hẳn tối qua Henry đã vơ tất cả mọi thứ và ném vào trong bếp. Tôi đã luôn hình dung về Henry như một người chỉn chu ngăn nắp. Giờ thì rõ rằng anh ấy là kiểu người chỉ kĩ lưỡng về diện mạo của mình còn mọi việc khác thì luộm thuộm, nhếch nhác. Tôi tìm thấy cà phê trong tủ lạnh, tìm được đến máy pha rồi bắt đầu tự pha cho mình. Trong lúc
chờ, tôi tham quan một vòng các giá sách của Henry.
Đây chính là Henry mà tôi biết. Khúc bi thương, tình ca và thơ Sonnet của Donne. Bác sĩ Faustus của Christopher Marlowe, Bữa trưa trần trụi của Anne Bradstreet, Immanuel Kant. Barthes, Foucault, Derrida. Những khúc hát thơ ngây và từng trải của Blake. Chú gấu Pooh. Alice lời chú giải, Heidegger. Rilke, Tristram Shandy. Chuyến đi Wisconsin tang tóc, Aristotle. Bishop Berkelcy. Andrew Marvell, Tê cóng, giảm thân nhiệt và các chấn thương nhiệt lạnh khác.
Tiếng cọt kẹt từ chiếc giường kêu lên làm tôi giật mình. Henry đang ngồi dậy, nheo mắt nhìn tôi trong ánh nắng sớm. Anh ấy thật trẻ. Anh ấy chưa biết tôi. Đột nhiên tôi sợ rằng anh ấy đã quên mất tôi là ai.
“Em trông có vẻ lạnh đấy”, Henry nói. “Hãy quay trở lại giường đi, Clare.”
“Em đã pha cà phê” tôi đề nghị.
“Ừm, anh có thể ngửi thấy. Nhưng trước hết, hãy lại đây và nói chào buổi sáng đã nào.”
Tôi trèo lên giường, vẫn mặc nguyên áo choàng tắm của anh ấy. Henry luồn tay dưới áo choàng rồi dừng lại trong giây lát, anh ấy đã nhận ra sự liên kết.
“Nó có khiến em khó chịu không?” anh ấy hỏi.
Tôi ngần ngại.
“Có. Dĩ nhiên nó làm em khó chịu.” Henry ngồi dậy. Anh ấy nhìn thẳng vào tôi. “Dù sao thì nó cũng gần như đã kết thúc rồi.”
“Gần như?”
“Anh đã định chia tay với cô ấy. Chỉ là chưa đúng thời điểm. Hoặc đã quá thời điểm. Anh không biết nữa.” Anh ấy cố đọc phản ứng của tôi qua nét mặt, để tìm gì? Sự tha thứ? Đó đâu phải lỗi của anh ấy. Làm sao anh ấy biết được. “Đại khái, bọn anh đã tra tấn nhau suốt một thời gian dài...” Anh ấy nói càng lúc càng nhanh hơn, rồi ngừng lại “Em có muốn biết?” Không.
“Cảm ơn em.” Henry đưa hai tay lên mặt. “Anh xin lỗi. Nếu anh biết trước em đến, anh sẽ dọn dẹp sạch sẽ hơn. Ý anh là cuộc sống của anh, chứ không chỉ căn hộ này.” Có vết son môi trên tai Henry. Tôi với tay chùi sạch nó. Anh ấy nắm tay tôi và giữ chặt lấy. “Anh có quá khác so với những gì em đã tưởng tượng?” Henry bồn chồn hỏi.
“Có... anh có vẻ...” ích kỉ, tôi tự nhủ, nhưng rồi lại nói, “trẻ hơn nhiều”
“Đó là điều tốt hay xấu?”
“Chỉ khác thôi.” Tôi quàng hai tay lên vai Henry rồi vuốt dọc lưng anh ấy, nhẹ nhàng xoa nắn từng thớ thịt, thám hiểm từng đường khúc quanh co trên thân thể. “Anh đã nhìn thấy chính mình ở tuổi bốn mươi bao giờ chưa?”
“Rồi. Anh trông có vẻ đã trải qua nhiều khó khăn.”
“Phải, nhưng anh không có... anh khá là... Ý em là, anh biết em khi đó, nên...”
“Có phải em đang muốn nói với anh rằng, lúc này đây, anh còn thiếu sót và vụng về lắm?”
Tôi lắc đầu, mặc dù đó chính xác là những gì tôi muốn nói. “Chỉ là, em biết đủ thứ chuyện, còn anh thì... Em chưa quen với việc ở bên anh khi anh chẳng nhớ gì về những điều đã xảy ra.”
Henry ủ rũ. “Anh xin lỗi. Nhưng con người mà em biết chưa tồn tại. Nán lại bên anh, sớm hay muộn, con người đó cũng sẽ xuất hiện. Đó là tất cả những gì anh có thể làm vào lúc này”
“Có vẻ công bằng” tôi nói. “Nhưng trong lúc chờ...” Anh ấy đau đáu nhìn tôi. “Trong lúc chờ thì làm sao?” “Em muốn...”
“Em muốn gì?”
Tôi đỏ mặt. Henry cười và nhẹ nhàng đẩy tôi xuống gối. “Anh biết rồi còn hỏi.”
“Anh không biết nhiều, nhưng anh có thể đoán được điều này điều kia.”
Một lát sau, khi đang nằm da kề da bên nhau, lơ mơ ngủ trong ánh nắng ấm áp vàng nhạt của buổi sáng tháng Mười, Henry nói khẽ vào tai tôi điều gì đó.
“Sao cơ?” tôi hỏi lại.
“Anh đang nghĩ, yên bình làm sao khi được ở đây bên em. Thật tuyệt khi cứ việc nằm kế bên nhau và biết rằng tương lai sẽ tốt đẹp.”
“Henry?”
“Hả?”
“Tại sao anh không bao giờ nói với mình về em?” “Ồ, anh không làm thế?”
“Tại sao?”
“Rất ít khi anh nói với chính mình về tương lai, trừ phi đó là việc hệ trọng, nguy hiểm đến tính mạng. Anh cố hết sức để được sống như một người bình thường. Anh thậm chí không thích ở gần chính mình, trừ phi không còn lựa chọn nào khác.”
Tôi cân nhắc một chút về điều Henry nói. “Nếu là em, em sẽ nói với chính mình tất cả mọi thứ ư?”
“Không, em sẽ không làm thế. Chỉ mang lại nhiều phiền toái hơn mà thôi.”
“Em đã luôn tìm đủ mọi cách để anh nói cho em biết về tương lai.” Tôi quay người và nằm ngửa mặt lên trần, Henry chống tay nhỏm đầu dậy nhìn tôi. Mặt chúng tôi cách nhau chừng 15 centimet. Thật kì lạ khi được nói chuyện với anh ấy trong hiện tại gần như theo cách mà chúng tôi đã luôn nói cùng nhau. Nhưng sự gần gũi về da thịt khiến tôi khó có thể tập trung.
“Anh có nói không?” Henry hỏi.
“Đôi khi. Lúc anh muốn nói hoặc phải nói.”
“Như việc gì?”
“Thấy chưa? Anh cũng muốn được biết. Nhưng em không nói cho anh nghe đâu.”
Henry cười vang. “Em cũng chẳng vừa nhỉ? Anh đói quá. Đi ăn sáng nhé.”
Ngoài trời lạnh giá. Ô tô và xe đạp chạy ì ạch dọc con phố Dearborn, các cặp đôi thong thả tản bộ trên vỉa hè, hai chúng tôi cũng nằm trong số đó, tay trong tay dưới nắng sớm, cuối cùng cũng được bên nhau để mọi người thấy. Một chút hối hận lóe lên trong tôi, như thể tôi vừa đánh mất một bí mật trân quý, nhưng rồi cảm giác hưng phấn nhanh chóng chiếm trọn cơ thể: từ giờ, mọi việc sẽ bắt đầu.
Lần đầu tiên
Chủ nhật, 16/6/1968
HENRY: Đó là lần đầu tiên diệu kì. Làm sao tôi biết được nó có nghĩa gì? Hôm ấy là sinh nhật lần thứ năm của tôi, cả nhà đi thăm Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Tôi chưa từng được đi thăm viện bảo tàng trước đó. Suốt một tuần bố mẹ không ngừng kể về những điều kì thú mà tôi sẽ được xem ở đó, những con voi nhồi bông to tổ chảng trong đại sảnh, bộ xương của những con khủng long khổng lồ, rồi còn cả những cảnh mô phỏng cuộc sống của người tiền sử. Mẹ vừa trở về từ Sydney và mang cho tôi một con bướm xanh to dị thường, Papilio ulysses thuộc họ bướm Phượng, được gắn trong khung đổ đầy cotton. Tôi thường xuyên đưa nó lên
gần mặt, gần đến nỗi tôi chẳng thể nhìn thấy gì ngoài màu xanh dương đó. Nó mang cho tôi một cảm giác mà về sau tôi cố tìm lại trong những chai rượu và cuối cùng cũng tìm được nơi Clare, cảm giác của sự hợp nhất, không bận tâm đến mọi việc xung quanh và hoàn toàn thả lỏng mình. Bố mẹ đã kể cho tôi nghe về hàng chục loài bướm, chim ruồi và các loài côn trùng khác nhau có ở viện bảo tàng, nên tôi đã rất bồn chồn muốn được tận mắt chứng kiến. Tôi thức dậy trước cả khi trời kịp sáng. Tôi xỏ chân vào đôi giày thể thao, cầm theo hộp Papilio ulysses và chạy xuống vườn, xuống những bậc thang ra ngoài sông, trên người vẫn mặc nguyên bộ pijama. Tôi ngồi xuống bờ sông chờ cho trời sáng. Một gia đình vịt bơi qua trước mặt tôi, rồi một con gấu trúc Bắc Mỹ xuất hiện ở bờ bên kia và nhìn tôi tò mò trước khi rửa bữa sáng của nó và ăn ngấu nghiến. Tôi đã ngủ gật một lát. Tôi nghe có tiếng mẹ đang gọi nên chạy vào nhà, đường trơn trượt bởi sương sớm, tôi ôm con bướm cẩn thận trước ngực. Mẹ không hài lòng khi thấy tôi ra bờ sông một mình, nhưng bà không cáu vì dù sao hôm nay cũng là sinh nhật của tôi.
Tối hôm đó bố mẹ tôi không ai phải làm việc nên họ thư thả mặc đồ và bước đi thong thả. Tôi thì đã sẵn sàng từ lâu. Tôi ngồi trên giường của họ và giả bộ đọc một bản nhạc. Đó là vào khoảng thời gian bố mẹ tôi vừa nhận ra được một thời gian rằng đứa con trai duy nhất của họ chẳng có chút năng khiếu âm nhạc nào. Không phải tôi không cố gắng, chỉ là tôi không thể nào nghe được thứ mà họ nghe trong các bản nhạc, bất kể thứ đó là gì. Tôi thích âm nhạc, nhưng tôi chẳng thể nào giữ cho một giai điệu
được trọn vẹn. Và mặc dù tôi biết đọc báo từ khi bốn tuổi, nhưng đối với tôi, các bản nhạc vẫn chỉ là những đường ngoằn ngoèo xinh xắn mà thôi. Bố mẹ vẫn chưa từ bỏ hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ bộc lộ khả năng tiềm ẩn, nên khi tôi nhặt bản nhạc lên nghịch, mẹ liền ngồi xuống bên cạnh và cố giúp tôi đọc nó. Chẳng bao lâu, mẹ bắt đầu cất tiếng hát và tôi phụ họa bằng những tiếng nghêu ngao dở tệ khủng khiếp, tay không ngừng búng cái tách theo từng giai điệu lộn xộn, rồi chúng tôi cùng cười rộ lên, mẹ thọc léc tôi. Bố bước ra từ nhà tắm, khăn quấn quanh hông và tham gia với chúng tôi. Trong một vài phút diệu kì, họ cùng nhau hát, bố nhấc bổng tôi lên, họ nhảy với nhau, tôi bị kẹp giữa hai người. Rồi điện thoại đổ chuông, cảnh tượng tan biến. Mẹ nghe điện còn bố đặt tôi xuống giường và đi mặc đồ.
Rồi cuối cùng họ cũng sẵn sàng. Mẹ tôi mặc một chiếc váy hở vai màu đỏ và đi xăng-đan, bà đã đánh móng tay và móng chân cùng với màu váy. Bố đĩnh đạc trong chiếc quần xanh đậm và áo sơ mi trắng dài tay, làm nền cho sự sặc sỡ của mẹ. Cả nhà tôi chui vào xe. Như mọi lần, mình tôi sẽ chiếm trọn ghế sau, tôi nằm xuống và ngắm những tòa nhà chọc trời dọc Lake Shore Drive vụt qua cửa kính.
“Ngồi dậy nào Henry, chúng ta đến nơi rồi.” Mẹ nói.
Tôi ngồi dậy và nhìn viện bảo tàng. Cả cuộc đời tôi từ trước đến giờ phần lớn dành cho những chuyến bám đuôi bố mẹ đến khắp các thành phố ở châu Âu, nên Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên đã thỏa mãn đúng suy nghĩ của tôi
về “viện bảo tàng”, mặc dù mặt tiền bằng đá có hình vòm của nó chẳng đặc biệt cho lắm. Hôm nay là Chủ Nhật nên mãi chúng tôi mới có thể tìm được một chỗ đỗ xe rồi đi bộ dọc theo hồ, qua những chiếc thuyền, tượng và nhiều đứa trẻ đang hớn hở khác. Chúng tôi bước giữa những cột trụ to lớn nặng nề để đi vào bên trong viện bảo tàng.
Và rồi tôi bị bỏ bùa mê.
Tất cả vạn vật thiên nhiên tụ hội về đây, được gắn mác và sắp xếp theo một trật tự logic, trường tồn vĩnh cửu như được tạo ra bởi Chúa. Có lẽ Chúa đã làm mất bản đồ sáng tạo thế giới và phải nhờ các nhân viên ở viện bảo tàng này giúp đỡ để quản lí vạn vật. Đối với một đứa trẻ năm tuổi có thể tìm thấy sự sung sướng tột cùng ở một con bướm nhỏ đã chết thì việc được đi khắp nơi trong viện bảo tàng này giống như một cuộc dạo chơi trong Vườn Địa Đàng.
Chúng tôi đã được nhìn thấy đủ thứ: các loại bướm (chắc chắn rồi), hàng ngàn hàng vạn con từ Brazil, Madagascar, thậm chí cả con bướm từ Úc anh em với con bướm xanh của tôi cũng có. Viện bảo tàng rất tối, lạnh và cũ kĩ đã làm tăng thêm vẻ ngưng trệ của thời gian và cái chết cho không gian bên trong những bức tường. Chúng tôi được xem chuột nước, báo, sư tử, và cả xác ướp, cùng với muôn vàn hóa thạch. Chúng tôi dùng bữa trưa ngoài trời, trên bãi cỏ trong viện bảo tàng rồi lại vào xem các loài chim, cá sấu và người Neanderthal đã tuyệt chủng. Lúc gần cuối, tôi mệt đến độ đứng không vững nhưng vẫn không muốn ra về. Những
người bảo vệ phải đến và nhẹ nhàng dồn chúng tôi ra cửa. Tôi gắng kiềm chế để không bật khóc, nhưng vẫn òa lên nức nở vì mệt và muốn được xem tiếp. Bố kiệu tôi lên vai rồi chúng tôi bước ra bãi đỗ xe. Tôi lăn quay ra ngủ trên ghế sau, khi tỉnh dậy chúng tôi đã ở nhà và đã đến giờ ăn tối.
Chúng tôi dùng bữa trong căn hộ của ông bà Kim bên dưới. Họ là chủ nhà. Ông Kim là một người cộc cằn, ít nói. Ông có vẻ thích tôi nhưng chẳng mấy khi tôi thấy ông mở miệng trò chuyện với ai bao giờ. Còn bà Kim (mà tôi hay gọi là Kimy) là bạn thân của tôi, cũng là bà giữ trẻ thích chơi bài, người Hàn Quốc, hơi điên điên của tôi. Tôi dành phần lớn thời gian ban ngày với bà. Mẹ tôi chẳng biết nấu ăn, còn Kimy thì có thể nấu được đủ món trên đời, từ bánh trứng phồng đến bibimbap thơm ngon. Nhân hôm nay sinh nhật tôi, bà đã làm pizza và bánh sô-cô-la.
Chúng tôi ăn. Mọi người hát Chúc mừng sinh nhật và tôi thổi nến. Tôi không nhớ mình đã ước gì. Tôi được phép thức khuya hơn mọi ngày bởi tôi vẫn còn phấn khích với những gì đã thấy hôm nay, và vì tôi đã ngủ một giấc dài hồi chiều. Tôi ngồi ở hiên sau nhà với bố, mẹ và ông bà Kim, vừa uống nước chanh và ngắm bầu trời đêm, vừa lắng nghe tiếng ve xa xả và tiếng ti vi vọng lại từ các căn hộ xung quanh. Cuối cùng bố tôi nói,“Đến giờ đi ngủ rồi, Henry.” Tôi đánh răng, cầu nguyện, rồi leo lên giường. Tôi đã mệt lả nhưng mắt vẫn thao láo. Bố đọc truyện cho tôi nghe sau một hồi, thấy tôi vẫn không thể ngủ, ông và mẹ tắt đèn để
cửa phòng tôi hé mở, rồi quay trở lại phòng khách. Luật là: họ sẽ chơi nhạc cho tôi nghe đến khi nào tôi chán, nhưng tôi phải nằm trên giường của mình để lắng nghe. Mẹ ngồi xuống bên chiếc đàn piano, bố lấy ra cây vĩ cầm rồi họ bắt đầu đàn hát một hồi lâu. Các bài hát ru, lieder, những khúc ca đêm - thể loại âm nhạc du dương dễ gây buồn ngủ - để làm dịu cơn phấn chấn của cậu bé quá khích đang nằm trong phòng. Rồi mẹ lại vào kiểm tra xem tôi đã ngủ chưa. Tôi chắc đã trông nhỏ bé và cảnh giác dữ lắm trên chiếc giường tí hon, trong bộ pijama có in hình những con thú đang đi săn đêm.
©STE.NT
“Ồ con yêu, vẫn chưa ngủ được sao?”
Tôi gật đầu.
“Bố và mẹ phải đi ngủ rồi, con sẽ ổn chứ?”
Tôi dạ và mẹ lại gần ôm tôi. “Hôm nay đi xem viện bảo tàng thật vui phải không?”
“Mai chúng ta lại đi nữa được không mẹ?”
“Mẹ e là không. Nhưng chúng ta sẽ sớm đi lần nữa, nhé?”
“Vâng ạ.”
“Chúc con ngủ ngon”, mẹ để ngỏ cửa rồi tắt điện hành lang,“đừng để bị rệp cắn nhé”.
Tôi nghe thấy những tiếng động vọng lại, tiếng nước chảy, tiếng giật cần toilet. Rồi bốn bề lặng thinh. Tôi ngồi dậy, bước ra khỏi giường và quỳ xuống bên cửa sổ. Tôi có thể nhìn thấy ánh đèn vẫn sáng trong những căn nhà xung quanh, ở đâu đó xa xa ngoài kia có một chiếc xe đang chạy với tiếng radio mở to ầm ĩ. Tôi cứ ngồi đó một lúc, cố gắng để chìm vào giấc ngủ. Khi tôi đứng dậy, mọi thứ thay đổi.
Thứ Bảy, ngày 2/1/1988, 4:03 sáng Chủ Nhật, ngày 16/6/1968, 10:46 chiều (Henry 24 tuổi, và Henry 5 tuổi)
HENRY: Lúc này đã là 4 giờ 3 phút sáng. Một buổi sáng tháng Một lạnh khủng khiếp, tôi đang trên đường về nhà. Tôi đã la cà nhảy nhót suốt đêm, chỉ hơi ngà ngà say nhưng hoàn toàn kiệt quệ. Trong lúc đang dò dẫm đút đống chìa khóa lần lượt vào ổ dưới ánh điện hành lang chói lòa, tôi bỗng ngã khụy, đập hai đầu gối xuống sàn, chóng mặt và buồn nôn, rồi tôi thấy mình trong bóng tối, nôn thốc nôn tháo. Tôi ngẩng đầu lên và thấy tấm biển báo LỐI RA sáng trưng màu đỏ. Trong lúc mắt tôi từ từ thích ứng, tôi nhìn thấy nào hồ, nào người tiền sử - đàn ông cầm những lưỡi giáo dài ngoằng, đàn bà mặc những bộ đồ làm bằng vỏ cây nửa che nửa lộ - và những con chó sói. Tim tôi đập thình thịch, và trong một phút chếnh choáng hơi men, tôi đã nghĩ Chúa ơi, mình đã trở về tận thời kì Đồ Đá, cho đến khi tôi
nhận ra tấm biển LỐI RA chỉ mới có mặt từ thế kỉ XX. Tôi đứng dậy, lắc đầu, và đi về phía cửa. Sàn nhà dưới chân lạnh toát khiến tôi sởn gai ốc, tóc dựng ngược cả lên. Vắng lặng như tờ. Không khí lành lạnh ẩm ướt phả ra từ máy điều hòa. Khi ra đến cửa, tôi nhìn sang phòng bên cạnh. Những chiếc hộp kính đặt đầy trong phòng. Ánh đèn đường cao quá cửa sổ rọi vào làm lộ ra hàng ngàn hàng vạn con côn trùng trước mắt tôi. Lạy Chúa, tôi đang ở Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Tôi đứng như trời trồng và thở khó nhọc, cố hết sức để làm cho đầu óc minh mẫn trở lại. Cảnh tượng này làm gợi nhớ điều gì đó trong cái đầu đờ đẫn của tôi và tôi đang cố đào bới nó lên. Tôi có việc gì đó phải làm. Phải rồi. Sinh nhật lần thứ năm của tôi... có ai đó ở đấy, và tôi phải chuẩn bị làm ai đó. Tôi cần quần áo. Phải rồi.
Tôi chạy băng băng qua khu trưng bày côn trùng vào tới hành lang dài chia đôi tầng hai, qua cầu thang bộ phía tây xuống tầng một, rất mừng vì đang ở trong thời kì tiền-máy dò-chuyển-động. Những con voi to tổ chảng đứng sừng sững lăm le đe dọa tôi trong ánh trăng mờ đục, tôi vẫy tay chào chúng trong lúc chạy đến cửa hàng lưu niệm nhỏ bên phải cửa ra vào. Tôi đảo một vòng quanh các món đồ và tìm được một số thứ hữu ích: một con dao mở thư, một cái kẹp sách bằng kim loại có lô-gô của bảo tàng, hai chiếc áo phông in hình khủng long trước ngực. Những cái ổ khóa trong ô tủ kính đựng đồ chẳng khác gì chỉ để làm cảnh, tôi cạy chúng ra chỉ bằng cây kim băng tôi tìm thấy cạnh tủ thu ngân. Được rồi, đã đến lúc lên tầng ba - “gác mái” của viện bảo tàng - nơi các phòng thí nghiệm, văn phòng của nhân viên trú ngụ. Tôi lướt nhanh bảng tên trên cửa các phòng,
chẳng có cái nào hợp với tôi. Rồi cuối cùng tôi chọn bừa một cửa và đẩy tấm kẹp sách dọc theo ổ khóa cho đến khi then cửa mở ra.
Chủ nhân của căn phòng này là V.M. Williamson, một anh chàng bừa bộn. Giấy lộn, cốc cà phê bẩn và tàn thuốc lá ngập ngụa khắp nơi; trên bàn anh ta có một phần bộ xương rắn đang được nối dở. Tôi lục khắp nơi tìm quần áo nhưng không thấy. Văn phòng bên cạnh thuộc về một phụ nữ, J.F. Bettley. Thử đến lần thứ ba thì tôi gặp may. D.W.
Fitch có cả một bộ sưu tập áo vét bày biện cẩn thận trong giá để áo khoác. Chúng khá vừa với tôi, mặc dù ống tay và ống chân hơi ngắn, ve áo thì rộng. Tôi mặc một trong hai chiếc áo phông khủng long bên trong áo khoác. Chân trần nhưng trông cũng đã đủ chỉnh tề. D.W. cũng trữ một gói
bánh quy Oreo chưa bóc trên bàn, Chúa phù hộ anh ta. Tôi vớ lấy gói bánh rồi bỏ đi, nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Mình đã ở đâu khi nhìn thấy mình? Tôi nhắm mắt lại và sự mệt mỏi trùm lên khắp thân thể, vuốt ve tôi bằng những ngón tay mềm mại ru ngủ của nó. Hồn tôi gần lạc vào cõi mộng, nhưng tôi bấu vào chính mình và nó trở về trong trí nhớ của tôi; người đàn ông bước ra từ bóng tối đi về phía tôi ở cửa chính viện bảo tàng. Tôi cần phải quay trở lại đại sảnh chính.
©STE.NT
Khi tôi đến nơi, bốn bề im lặng như tờ, hoàn toàn tĩnh
mịch. Tôi bước dọc chính giữa tầng trệt, cố hình dung lại vị trí của các cửa ra vào. Tôi ngồi xuống gần phòng để áo choàng, chờ đợi đến giờ ra sân khấu. Tôi nghe thấy tiếng máu chảy rần rần trong đầu, tiếng hệ thống điều hòa o o, tiếng ô tô rít ngoài cao tốc Lake Shore Drive. Tôi ăn hết mười cái Oreo, chậm rãi, từ tốn, nhẹ nhàng tách chúng ra làm hai, cạo lớp kem ở giữa bằng răng cửa, ngậm phần sô cô-la trong miệng cho đến khi chúng tan ra thành từng mảnh vị nhỏ. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ, cũng không biết tôi phải chờ thêm bao lâu. Giờ thì tôi gần như đã tỉnh rượu và lanh lợi vừa đủ, thời gian cứ thế dần qua đi và không có chuyện gì xảy ra. Rồi cuối cùng, tôi nghe thấy một tiếng uỵch nhẹ, tiếng thở hổn hển. Im lặng. Tôi đợi. Tôi cẩn trọng đứng dậy, không để gây ra một tiếng động nào, nhẹ nhàng bước vào đại sảnh trong ánh sáng đang chiếu nghiêng nghiêng xuống sàn nhà bằng cẩm thạch. Tôi đứng giữa cửa và gọi, không quá to,“Henry”.
Không có tiếng đáp lại. Cậu bé ngoan, rất cảnh giác và điềm tĩnh. Tôi thử lại,“Đừng sợ, Henry. Chú là hướng dẫn viên của cháu. Chú ở đây để dẫn cháu đi tham quan bảo tàng. Đây là chuyến đi đặc biệt. Đừng sợ, Henry.”
Tôi nghe có tiếng thở dốc. “Chú có mang cho cháu một cái áo phông để cháu khỏi lạnh trong lúc đi xem.” Giờ thì thằng bé đã bước ra. “Đây, bắt lấy.” Tôi ném áo về phía nó, chiếc áo biến mất, thằng bé hiện ra. Áo dài đến tận đầu gối nó. Tôi ở tuổi lên năm có mái tóc bông xù tối màu, nhợt nhạt dưới ánh trăng, mắt nâu gần như người Xla-vơ, mảnh
khảnh và dẻo dai. Ở tuổi lên năm, tôi đang hạnh phúc, đang được bao bọc trong sự bình thường và trong vòng tay của bố mẹ. Mọi việc sẽ thay đổi, kể từ lúc này.
Tôi từ từ bước về phía trước, cúi người xuống và nhẹ nhàng nói,“Xin chào, rất vui được gặp cháu, Henry. Cảm ơn cháu đã đến đây vào tối nay.”
“Cháu đang ở đâu đây? Chú là ai?” Giọng của thằng bé cao, thanh và vang, hơi có chút lạnh lùng”
“Cháu đang ở Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Chú được cử đến đây để dẫn cháu đi xem những thứ cháu chưa được xem lúc ban ngày. Tên chú cũng là Henry đấy, trùng hợp không?”
Thằng bé gật đầu.
“Cháu có muốn ăn bánh quy không? Chú lúc nào cũng thích vừa ăn vừa tham quan bảo tàng. Như vậy thú vị hơn.” Tôi đưa cho thằng bé gói Oreo. Nó ngần ngại đôi chút, không chắc có nên cầm lấy hay không, nó đói nhưng không biết nên cầm bao nhiêu là phải phép. “Cháu cứ lấy bao nhiêu tùy thích. Chú đã ăn hết mười cái rồi, vậy nên cháu phải ăn nhanh để đuổi kịp nhé.” Thằng bé lấy ba cái. “Có thứ gì cháu muốn xem trước không?” Thằng bé lắc đầu. “Thế này nhé. Chúng ta sẽ lên tầng ba trước, đó là nơi họ cất những thứ không đem ra trưng bày. Được không?”
“Được ạ”
Chúng tôi đi trong bóng tối lên các bậc thang. Thằng bé bước đi chậm rãi nên tôi cũng phải đi chậm theo.
“Mẹ cháu đâu?”
“Mẹ cháu đang ngủ ở nhà. Đây là chuyến đi đặc biệt chỉ dành cho cháu, bởi vì hôm nay là sinh nhật cháu. Hơn nữa, người lớn không làm những việc thế này.”
“Chú chẳng phải là người lớn sao?”
“Chú là một người cực kì khác với những người lớn khác. Công việc của chú là tìm kiếm sự phiêu lưu mạo hiểm. Vậy nên khi biết cháu muốn quay trở lại Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, ngay lập tức, chú đã chộp lấy cơ hội dẫn cháu đi tham quan lần nữa.”
“Nhưng làm sao cháu đến được đây?” Thằng bé dừng lại ở đầu cầu thang và nhìn tôi bối rối.
“Đó là một bí mật. Nếu chú nói cho cháu biết, cháu phải hứa không được kể với bất kì ai.”
“Tại sao phải vậy ạ?”
“Vì họ sẽ không tin cháu, cháu có thể kể cho mẹ và Kimy
nếu cháu muốn, nhưng không thêm ai khác nữa. Được chứ?”
“Dạ...”
Tôi khuỵu gối trước mặt thằng bé tôi ngây thơ, nhìn vào mắt nó. “Thề trước Chúa chứ?”
“Dạ...”
“Được rồi. Chú sẽ nói cho cháu biết vì sao cháu đến được đây: cháu đã đi xuyên thời gian. Cháu đang nằm trong phòng của mình, rồi đột nhiên: Bùm! Cháu du hành đến đây. Và vì vẫn còn khá sớm nên chúng ta có rất nhiều thời gian để thăm thú trước khi cháu phải trở về.” Thằng bé im lặng suy xét. “Cháu hiểu không?”
“Nhưng... tại sao?”
“Việc đó thì chú cũng chưa được rõ lắm. Chú sẽ giải thích cho cháu khi chú khám phá ra tại sao. Từ giờ đến lúc đó, ta nên tiếp tục tham quan, nhé? Cháu ăn bánh quy nữa không?”
Thằng bé cầm lấy một cái bánh rồi chậm rãi bước về phía cuối hành lang. Tôi đẩy thanh kẹp sắt kim loại dọc khe cửa đánh số 306 và mở nó ra. “Hãy thử phòng này trước nhé.” Tôi với tay bật điện trong phòng, những hòn đá to như những quả bí ngô nằm ngập dưới sàn nhà, nguyên vẹn
hoặc bị bổ làm đôi, bên ngoài lởm chởm và bên trong vằn vện những đường vân kim loại “Ổ, xem này. Henry. Đá thiên thạch.”
“Đá thiên thạch là gì?”
“Là đá rơi từ không gian.” Thằng bé nhìn tôi như thể tôi đến từ không gian. “Chúng ta thử cửa khác nhé?” Nó gật đầu. Tôi đóng căn phòng trưng bày thiên thạch lại và thử mở cánh cửa bên kia hành lang. Căn phòng này chất đầy chim. Chim trên đường bay mô phỏng, chim đậu chật trên cành, đầu chim, da chim. Tôi mở một trong hàng trăm ngăn tủ; nó chứa cả chục ống thủy tinh, mỗi ống đựng một con chim vàng và đen tí hon được gắn tên dưới chân. Mắt Henry mở to như những cái chén. “Cháu có muốn sờ chúng không?”
“Được thôi.”
Tôi tháo lớp bông chèn khỏi miệng ống và lắc cho đến khi con chim Kim Oanh tuột vào lòng bàn tay. Nó giữ nguyên hình dáng như một cái ống. Henry âu yếm vuốt ve cái đầu nhỏ xíu của con chim. “Nó đang ngủ ạ?”
“Đại loại thế.” Thằng bé nhìn tôi sắc lẹm, không tin vào sự lập lờ của tôi. Tôi nhét con chim trở lại ống kính, chèn lớp bông và đặt nó vào chỗ cũ rồi đóng ngăn tủ lại. Tôi mệt lả. Chỉ riêng từ “ngủ” đã có sức quyến rũ khó cưỡng. Tôi dẫn đường ra ngoài hành lang, rồi đột nhiên tôi nhớ ra điều
gì đã khiến tôi yêu cái đêm này khi còn nhỏ.
“Này, Henry. Hãy đi đến thư viện nhé.” Thằng bé nhún vai. Tôi bước đi, khá nhanh, khiến thằng bé phải chạy theo. Thư viện nằm ở tầng ba, phía đông, cuối tòa nhà. Khi đến nơi, tôi đứng im trong giây lát, tính toán các ổ khóa. Henry nhìn tôi như để nói: “Ờ, chỉ có vậy thôi hả?” Tôi thọc tay vào túi tìm con dao mở thư. Tôi xoay xoay nắm cửa bằng gỗ; bên trong có thanh chốt mỏng dài bằng kim loại. Tôi chọc quá nửa con dao mở thư vào và ngoáy quanh. Tôi có thể nghe thấy tiếng đàn hồi của những cái lẫy khóa, và khi đã chọc vào hẳn, tôi đút nửa còn lại vào, dùng cái kẹp sách với ổ khóa kia và thế là Vừng ơi, mở ra!
Cuối cùng người bạn đồng hành của tôi cũng lộ vẻ ấn tượng thích đáng. “Sao chú làm được vậy?”
“Không khó lắm đâu. Khi khác chú sẽ dạy cháu. Entrez! (Vào đi nào). Tôi giữ cửa mở cho thằng bé đi vào. Tôi bật điện và phòng đọc hiện lên dưới ánh sáng: những bộ bàn ghế gỗ chắc chắn, thảm màu nâu sẫm, quầy tra cứu khổng lồ. Thư viện của Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên không được thiết kế để làm hấp dẫn một đứa trẻ lên năm. Nó chỉ là một thư viện với những giá sách liền nhau dành cho các nhà khoa học và học giả. Trong các tủ sách chất đầy phòng hầu hết là tạp chí khoa học thường kì thời Victoria được bọc da. Cuốn sách tôi đang tìm nằm trong một cái hộp bằng gỗ sồi và kính ở chính giữa căn phòng. Tôi cạy khóa bằng chiếc kim băng rồi mở cánh cửa kính. Viện bảo tàng thực sự cần
tăng cường thêm an ninh. Tôi không cảm thấy quá tệ khi làm việc này, vì dù sao tôi cũng là một thủ thư ngay thẳng ở Newberry. Tôi bước ra phía sau quầy tra cứu và tìm thấy một miếng nỉ và vài miếng đệm lót, rồi trải chúng lên chiếc bàn gần nhất. Tôi đóng cuốn sách lại và nhẹ nhàng nâng nó ra khỏi hộp, đặt xuống miếng nỉ. Tôi kéo một chiếc ghế lại gần. “Cháu hãy đứng lên đây để có thể thấy rõ hơn.” Thằng bé trèo lên và tôi bắt đầu mở cuốn sách.
Đó là cuốn Các loài chim nước Mỹ của Audubon, một cuốn sách hạng sang đẹp tuyệt vời cao 1 mét 27 - gần bằng chiều cao của thằng bé tôi. Đây là bản sách đẹp nhất hiện có, tôi đã dành không biết bao buổi trưa mưa gió ướt át ngồi ngưỡng mộ nó. Tôi mở trang đầu tiên ra và Henry mỉm cười nhìn tôi. “Chim lặn Gavia”, thằng bé đọc. “Trông nó giống hệt như một con vịt.”
“Đúng vậy. Chú cược rằng chú có thể đoán được loài chim ưa thích của cháu là gì.”
Nó lắc đầu và mỉm cười.
“Cháu cược gì nào?”
Thằng bé nhìn xuống chính mình trong chiếc áo phông rồi nhún vai. Tôi hiểu cảm giác đó.
“Thế này nhé, nếu chú đoán đúng cháu sẽ được ăn một cái bánh, nếu chú đoán sai, cháu sẽ phải ăn một cái bánh.”
Thằng bé nghĩ ngợi rồi quyết định đây là một vụ cá cược an toàn. Tôi mở cuốn sách đến loài chim Hồng Hạc. Henry cười.
“Chú đoán có đúng không?”
“Có!”
Thật dễ trở thành nhà thông thái khi bạn đã trải qua tất cả chuyện đó trước đây. “Được rồi, bánh của cháu đây. Và chú cũng được một cái vì đoán đúng. Nhưng chúng ta phải để dành cho đến khi xem xong cuốn sách này đã; chúng ta không muốn vụn bánh rơi vãi khắp những loài chim xanh, phải không?”
“Phải ạ!” Thằng bé đặt cái bánh Oreo lên thành ghế rồi chúng tôi bắt đầu xem lại từ những trang đầu của cuốn sách, chậm rãi lật qua từng loài chim sống động hơn nhiều so với những cái ống kính trong căn phòng vừa nãy.
“Đây là con Diệc Xanh. Chúng rất lớn, lớn hơn nhiều so với Hồng Hạc. Chú đã thấy con Chim Ruồi bao giờ chưa? Hôm nay cháu đã thấy đấy!”
“Ở Viện bảo tàng này hả?"
“Dạ.”
“Chờ đến khi cháu thấy chúng ngoài đời nhé - chúng như những chiếc trực thăng tí hon, cánh của chúng đập liên hồi, cháu chỉ có thể thấy mờ mờ...” Lật từng trang sách như đang dọn giường, một dải bao la giấy chậm rãi dựng lên rồi hạ xuống. Henry đứng chăm chú đợi từng điều kì thú hiện ra, thốt lên những âm thanh sung sướng nho nhỏ khi thấy sếu Bắc Mỹ, chim Sầm Cầm, chim Anca, chim Gõ Kiến. Khi lật đến trang cuối cùng, chim sẻ Tuyết, thằng bé nhoài người tới chạm vào trang sách, nhẹ nhàng vuốt ve những nét trạm. Tôi nhìn nó, nhìn vào cuốn sách và nhớ, cuốn sách này, khoảnh khắc này, cuốn sách đầu tiên tôi yêu, tôi nhớ cảm giác muốn cuộn mình vào nó mà ngủ.
“Cháu mệt hả?”
“Dạ.”
“Chúng ta đi nhé?”
“Được ạ.”
Tôi đóng cuốn Những loài chim nước Mỹ lại và trả nó về căn nhà kính của nó, mở đến trang chim Hồng Hạc, rồi đóng cửa hộp và khóa nó lại. Henry nhảy khỏi ghế và ăn bánh Oreo của mình, tôi cất trả miếng nỉ và đẩy ghế vào. Henry tắt điện trong phòng rồi chúng tôi rời thư viện.
Chúng tôi vừa đi thơ thẩn vừa líu lo bàn về những loài vật có thể bay và những loài có thể trườn, vừa ăn bánh
Oreo. Henry kể cho tôi nghe về bố, mẹ và bà Kim, người đang dạy nó nấu món lasaga, và Brenda, người mà tôi đã hoàn toàn quên bẵng, cô bạn gái thân thiết nhất của tôi lúc còn nhỏ cho đến khi gia đình cô ấy chuyển đến Tampa, Florida sau ba tháng nữa. Chúng tôi đang đứng trước Bushman, con gorilla lưng màu trắng xám huyền thoại, đang oai vệ nhìn chúng tôi trừng trừng từ bệ đứng cẩm thạch nhỏ của nó ở tiền sảnh tầng một, thì Henry thét lên, lảo đảo về phía trước, gấp gáp với tay về phía tôi. Tôi túm
lấy thằng bé, và nó biến mất. Chiếc áo phông ấm, trống rỗng nằm trên tay tôi. Tôi thở dài. Giờ này thằng bé đã về nhà, đang trèo lên giường. Tôi còn nhớ. Tôi còn nhớ đã thức dậy vào sáng hôm sau và nghĩ về nó như một giấc mơ tuyệt đẹp. Mẹ cười và nói rằng du hành thời gian có vẻ thú vị, mẹ cũng muốn thử.
Đó là lần đầu tiên.
Cuộc hẹn thứ nhất, hai
Thứ Sáu, 23/9/1977 (Henry 36 tuổi, Clare 6 tuổi)
HENRY: Tôi đang ở trong đồng cỏ, chờ đợi. Tôi đợi ngoài rìa khoảng rừng thưa, trần truồng, vì quần áo Clare để cho tôi trong cái hộp bên dưới tảng đá không có ở đó; cái hộp cũng không, dù vậy tôi rất cảm kích đây là một buổi
trưa đẹp trời, có lẽ tháng Chín, của một năm chưa xác định. Tôi đang ngồi chồm hổm trong đám cỏ cao, suy nghĩ. Cái hộp không có ở đây có nghĩa rằng tôi đã du hành đến khoảng thời gian trước khi Clare và tôi gặp mặt. Cũng có thể Clare còn chưa ra đời. Việc này đã xảy ra trước đây, và nó thực sự không dễ chịu chút nào; tôi nhớ Clare và tôi đã dành thời gian lẩn trốn, trên người không một mảnh vải, trong đống cỏ, không dám bén mảng xuất hiện gần gia đình Clare. Tôi khao khát nhìn về phía cây táo ở mạn rìa tây của đồng cỏ. Vào mùa này hẳn nó đã ra trái, những quả nhỏ và chua đã bị nai gặm dở, nhưng vẫn có thể ăn. Tôi nghe thấy tiếng cửa đóng sầm; tôi ló đầu ra khỏi đám cỏ nhìn. Một đứa bé đang chạy như bay ra ngoài, và khi nó đến gần con đường cỏ dập dềnh, trái tim tôi nhéo lại - Clare đang băng băng tiến vào khoảng rừng thưa.
Cô ấy còn rất nhỏ, chưa biết gì và chỉ có một mình. Clare vẫn đang mặc đồng phục của trường, áo liền quần màu xanh lá với chiếc áo choàng trắng, tất dài quá gối và đi giày da, tay cầm túi mua đồ Marshall Field và chiếc khăn dùng khi đi biển. Cô ấy trải chiếc khăn xuống đất rồi bắt đầu lôi đồ từ trong túi ra: đủ mọi loại bút có thể hình dung. Bút bi cũ, bút chì nhỏ ngắn và dày của thư viện, bút màu và bút mực. Cô ấy còn mang theo cả đống những đồ dùng văn phòng của bố. Clare sắp xếp đồ đạc ngay ngắn rồi vuốt ve xấp giấy, bắt đầu thử từng loại bút, cẩn thận gạch từng dòng, từng xoắn ốc và lẩm nhẩm một mình. Sau khi cẩn thận lắng nghe một lúc, tôi nhận ra cô ấy đang hát theo điệu nhạc của “The Dick Van Dyke Show”.
Tôi ngần ngại. Clare đang mải mê chăm chú. Cô ấy chắc hẳn mới chừng sáu tuổi; nếu đây đang là tháng Chín, thì chắc hẳn cô ấy vừa vào lớp một. Clare rõ ràng đang không đợi tôi, tôi là một người lạ mặt, và tôi chắc rằng điều đầu tiên bạn được học ở lớp một là không được lại gần một người lạ trần truồng xuất hiện ở nơi bí mật yêu thích của mình, lại còn biết tên bạn và bảo bạn đừng kể cho bố mẹ biết. Tôi tự hỏi liệu hôm nay có phải ngày đầu tiên chúng tôi gặp mặt hay đó là một ngày khác. Có lẽ tôi nên im lặng; hoặc Clare sẽ đi nơi khác rồi tôi có thể gặm nhấm những quả táo chua lè và ăn trộm vài món quần áo, hoặc tôi sẽ tan biến, trở lại với hoạt động thường ngày đang dang dở của mình. Tôi ngắt ra khỏi sự mơ màng và thấy Clare đang nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi nhận ra, mặc dù quá muộn, rằng tôi đang lẩm nhẩm hát theo cô ấy.
“Ai ở đó?” Clare nói rít lên. Cô ấy trông như một con ngỗng đang xù lông giận giữ. Tôi nghĩ nhanh.
“Xin chào, cư dân địa cầu” tôi nhẹ nhàng ngân nga.
“Mark! Anh là đồ đần độn!” Clare nhìn quanh tìm vật gì đó để ném, rồi quyết định dùng đôi giày nặng nề có gót nhọn của mình. Cô ấy tháo chúng ra và ném. Tôi không nghĩ cô ấy có thể thấy tôi, nhưng cô ấy gặp may, một trong hai chiếc giày phi trúng miệng. Tôi bắt đầu chảy máu.
“Làm ơn đừng làm vậy.” Tôi không có thứ gì có thể dùng để cầm máu, nên đã dí chặt tay vào môi, và vì thế giọng tôi
trở nên ồ ề. Cằm tôi nhói đau.
“Ai đấy?” Giờ thì Clare hoảng sợ, tôi cũng vậy.
“Henry. Clare, chú là Henry. Chú sẽ không làm gì cháu, nên đừng ném chú nữa nhé.”
“Trả giày lại cho tôi. Tôi không biết ông. Tại sao ông lại trốn?” Clare nhìn tôi chằm chằm.
Tôi ném trả đôi giày trở lại khoảng rừng thưa. Cô ấy nhặt chúng lên và ôm khư khư lấy chúng như thể đang cầm một khẩu súng ngắn. “Chú lẩn trốn vì đã đánh mất quần áo và chú lấy làm xấu hổ. Chú đã phải đi rất xa nên đói lả. Chú lại không quen biết ai, và giờ thì đang chảy máu nữa.”
“Ông từ đâu đến? Tại sao ông biết tên tôi?”
Chỉ có sự thật, không gì hơn. “Chú đến từ tương lai. Chú là người du hành thời gian. Trong tương lai, chúng ta là bạn.”
“Người du hành thời gian chỉ có trong phim thôi.” “Đó là điều bọn chú muốn các cháu tin”
“Tại sao?”
“Nếu ai cũng du hành thời gian thì sẽ rất chật chội. Như khi cháu đi thăm bà nội Abshire vào Giáng Sinh năm ngoái và cháu phải đi qua sân bay O’Hare vậy, rất đông đúc phải không? Nhà du hành thời gian như bọn chú không muốn làm mọi chuyện rắc rối, nên bọn chú đã giữ im lặng.”
Clare suy nghĩ một phút. “Bước ra đây.”
“Cho chú mượn cái khăn tắm nhé.” Cô ấy nhặt nó lên và tất cả bút chì, bút vẽ cùng giấy bay tứ tán. Clare ném chiếc khăn về phía tôi, tôi đưa tay ra chụp lấy và quay lưng về phía Clare trong khi đứng dậy quấn nó quanh hông. Chiếc khăn có màu hồng và cam với những đường hoa văn hình học to rõ. Đích thị là thứ bạn muốn mặc trong lần đầu gặp vợ tương lai. Tôi quay người lại và bước vào khoảng rừng thưa; tôi ngồi xuống một tảng đá trong tư thế đạo mạo hết mức có thể. Clare đứng trong khu đất, giữ khoảng cách - vẫn nắm chặt đôi giày trên tay.
“Ông đang chảy máu.”
“Phải rồi. Cháu ném giày vào chú mà.”
“Ồ.”
Im lặng. Tôi cố tỏ ra vô hại và tử tế. Sự tử tế rất được Clare trân trọng, vì trong tuổi thơ của cô ấy, nhiều người không hề tử tế chút nào.
“Ông đang giễu cợt tôi.”
“Chú không đời nào làm vậy. Tại sao cháu lại nghĩ chú đang giễu cợt cháu?”
Clare sẽ chẳng còn gì đặc biệt nếu không cứng đầu. “Chẳng có ai du hành thời gian cả. Ông đang nói dối.”
“Santa du hành.”
“Cái gì?”
“Dĩ nhiên rồi. Thế cháu nghĩ làm sao ông ấy có thể chuyển hết đống quà đó chỉ trong một đêm? Ông ấy không ngừng quay ngược thời gian tới một vài giờ đồng hồ trước cho đến khi chui xuống ống khói của tất cả mọi người.”
“Santa có phép siêu nhiên. Ông đâu phải Santa.”
“Ý cháu là chú không có phép siêu nhiên? Trời, Louise, cháu thật là một khách hàng khó tính.”
“Tên tôi không phải là Louise.”
“Chú biết. Cháu là Clare. Clare Anne Abshire, sinh ngày 24 tháng Năm, 1971. Bố mẹ cháu là Philip và Lucille Abshire, cháu sống cùng họ và bà ngoại, anh trai Mark và em gái Alicia trong nhà lớn đằng kia.”
“Chỉ vì ông biết chuyện này chuyện kia không có nghĩa ông đến từ tương lai.”
“Nếu cháu nán lại một chút, cháu sẽ thấy ta biến mất” tôi có cảm giác mình có thể hi vọng vào chuyện này, vì Clare đã từng nói rằng, đó là điều cô ấy ấn tượng hơn tất thảy trong lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt.
Im lặng. Clare đổi tư thế đứng từ chân này sang chân kia và đuổi muỗi. “Ông có quen Santa không?”
“Không.” Máu đã ngừng chảy, nhưng chắc hẳn trông tôi vẫn thật khủng khiếp. “Này, Clare, cháu có tình cờ mang theo chiếc băng cá nhân nào không? Và thức ăn nữa? Du hành thời gian khiến chú rất đói.”
Cô ấy suy nghĩ một chút rồi đút tay vào túi áo len, lôi ra thanh Hershey đã cắn dở. Cô ấy ném nó về phía tôi.
“Cảm ơn cháu. Chú rất thích món này.” Tôi ăn ngấu nghiến nhưng vẫn lịch sự. Lượng đường trong máu tôi rất thấp. Tôi nhét giấy gói vào túi mua đồ của Clare. Cô ấy tỏ vẻ vui mừng.
“Ông ăn như một con chó.”
“Đâu có!” Tôi bị xúc phạm ghê gớm. “Chú có ngón tay cái có thể chụm lại đấy.”
“Ngón cái có thể chụm lại là gì?”
“Hãy làm thế này.” Tôi làm dấu OK. Clare làm theo. “Ngón cái có thể chụm lại nghĩa là cháu có thể làm thế. Nghĩa là cháu có thể mở nắp hộp và thắt dây giày, cùng những việc khác mà động vật không thể làm.”
Clare tỏ vẻ không hài lòng. “Sơ Carmelita nói động vật không có linh hồn.”
“Dĩ nhiên động vật có linh hồn. Ai bảo cô ấy như vậy?” “Sơ nói Giáo Hoàng bảo vậy.”
“Giáo Hoàng là một ông già khó tính. Động vật có linh hồn hiền lương hơn chúng ta rất nhiều. Chúng không bao giờ nói dối hay cho nổ bom thổi bay ai cả.”
“Chúng ăn thịt lẫn nhau.”
“Ừ thì chúng phải ăn thịt lẫn nhau; chúng không thể đi đến Dairy Queen và gọi món kem ốc quế rải sô-cô-la được, phải không?” Đây là món ăn ưa thích nhất trần đời của Clare (khi còn là một đứa trẻ. Lớn lên, Clare thích sushi, đặc biệt là sushi ở Katsu trên đại lộ Peterson).
“Chúng có thể ăn cỏ.”
“Chúng ta cũng có thể, nhưng chúng ta đâu có ăn. Chúng ta ăn hamburger.”
Clare ngồi xuống. “Etta nói tôi không nên nói chuyện với người lạ.”
“Đó là một lời khuyên tốt.”
Im lặng.
“Khi nào ông sẽ biến mất?”
“Khi chú sẵn sàng. Cháu chán nói chuyện với chú rồi hả?” Clare đảo mắt nhìn quanh. “Cháu đang viết gì vậy?”
“Thư pháp.”
“Chú xem được không?”
Clare thận trọng đứng dậy và nhặt một vài mẩu giấy trong khi vẫn không ngừng nhìn tôi chằm chằm đe dọa. Tôi chậm rãi nhoài người về phía trước đưa tay ra như thể cô ấy là một loài chó hung dữ. Clare nhanh chóng đẩy mạnh những tờ giấy về phía tôi rồi lùi lại. Tôi nhìn chúng chăm chú như thể cô ấy vừa đưa cho tôi những bản vẽ đầu tiên của Bruce Rogers về con Nhân Mã hay cuốn sách của Kells. Cô ấy đã viết nhiều dòng chữ in hoa khổ lớn “Clare Anne Abshire”. Tất cả các nét trên và dưới của các chữ đều được nắn nót thành những vòng xoáy trang trí và tất cả các nét
tròn đều được vẽ thêm những mặt cười bên trong. Chúng khá đẹp.
“Đáng yêu lắm.”
Clare tỏ vẻ hài lòng, như cô ấy vẫn thường vậy mỗi khi nhận được lời khen cho thành quả của mình. “Tôi có thể viết cho ông một bản.”
“Chú muốn lắm. Nhưng chú không được phép mang theo bất cứ thứ gì mỗi khi du hành thời gian, nên có thể cháu hãy cứ giữ lấy và chú sẽ thưởng thức nó mỗi khi chú ở đây.”
“Tại sao ông không thể mang theo thứ gì?”
“Cháu nghĩ mà xem. Nếu những người du hành thời gian như chú có thể di chuyển đồ vật theo dòng thời gian thì thế giới sẽ sớm trở thành một đống hỗn độn. Giả dụ như nếu chú mang theo tiền bên mình và quay trở về quá khứ, chú có thể tìm mua vé số độc đắc, cá cược bóng đá và kiếm cả triệu đô. Việc đó không công bằng, phải không? Hoặc nếu chú là người cực kì bất lương, chú có thể trộm đồ và mang chúng về tương lai, nơi không ai có thể tìm thấy chú.”
“Chú có thể làm hải tặc!” Clare tỏ vẻ hớn hở trước ý nghĩ về tôi như một hải tặc đến nỗi cô ấy quên rằng tôi là một người lạ mặt nguy hiểm. “Chú có thể chôn tiền và vẽ bản đồ kho báu rồi đào nó trong tương lai.” Thực ra đây gần
như chính là cách để tôi và Clare có được cuộc sống thoải mái. Clare cho rằng việc đó thật trái đạo lí, cho dù nó giúp chúng tôi không ít trên thị trường chứng khoán.
“Đó là một ý tưởng tuyệt vời. Nhưng thứ chú cần không phải tiền, mà là quần áo.”
Clare nhìn tôi ngờ vực.
“Bố cháu có món quần áo nào mà ông ấy không dùng đến không? Chỉ một cái quần cũng đủ rồi. Ý chú là, chú thích cái khăn này, nhưng ở nơi chú đến, chú thường mặc quần.” Philip Abshire lùn hơn tôi một chút nhưng nặng hơn khoảng 30 pound. Quần của ông ấy khá hài hước nhưng thoải mái.
“Cháu không biết...”
“Không sao. Cháu không cần phải lấy chúng ngay bây giờ. Nhưng nếu lần sau cháu có thể mang theo thì chú sẽ rất cảm kích.”
“Lần sau?”
Tôi tìm thấy một mẩu giấy chưa dùng và một cây bút chì. Tôi nghệch ngoạc viết ra dòng chữ: thứ Năm, ngày 29 tháng 9 năm 1977, sau bữa tối. Tôi đưa nó cho Clare và cô ấy nhận lấy trong cảnh giác. Quang cảnh xung quanh tôi mờ dần. Tôi có thể nghe thấy tiếng Etta gọi Clare. “Đây là
một bí mật, được chứ, Clare?”
“Tại sao?”
“Chú không thể nói được. Chú phải đi rồi. Rất vui được gặp cháu. Bắt tay thế nào.” Tôi chìa tay ra và Clare can đảm nắm lấy. Trong lúc đang bắt tay, tôi biến mất.
Thứ Tư, 9/2/2000 (Clare 28 tuổi, Henry 36 tuổi)
CLARE: Sáu giờ sáng, tôi đang mơ màng trong giấc ngủ chập chờn thì Henry đổ ầm lên tôi, tôi nhận ra anh ấy đã lại du hành thời gian. Anh ấy đột ngột hiện ra và nằm đè lên tôi, tôi hét toáng lên, cả hai đều hoảng hồn. Henry bắt đầu cười rồi quay người lại, tôi cũng quay về phía anh ấy và nhận ra miệng anh ấy đang chảy máu. Tôi bật dậy, chạy đi lấy khăn mặt. Khi tôi trở lại, Henry vẫn mỉm cười, miệng be bét máu.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Em ném giầy vào mặt anh.” Tôi không nhớ đã ném bất cứ thứ gì vào Henry.
“Đâu có.”
“Em có. Đấy là lần đầu tiên chúng ta gặp mặt, ngay khi vừa nhìn thấy anh, em đã nói,‘Đây là người đàn ông con sẽ lấy làm chồng’, rồi em ném giày vào mặt anh. Anh luôn nói
"""