"
Vỏ Bọc Hoàn Hảo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vỏ Bọc Hoàn Hảo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LISA GARDNER Quách Cẩm Phương dịch —★—
VỎ BỌC
HOÀN HẢO
• THE PERFECT HUSBAND • (Quincy & Rainie, #1)
ĐINH TỊ & NXB VĂN HỌC ebook©vctvegroup | 27-05-2021
LỜI CẢM ƠN
Nhiều nhà văn thường cho rằng xem lại những bản nháp của mình là một việc làm đơn độc. Nhưng thực tế, để cho ra một cuốn sách sẽ cần đến rất nhiều người. Tôi muốn bày tỏ sự cảm kích cũng như lòng biết ơn sâu sắc tới những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình này, gồm:
Jack Stapelton, Trợ lý Công tố viên hạt Bristol, đã rất ân cần và kiên nhẫn giải đáp hết vô số những câu hỏi liên quan đến công tác điều tra và bắt giữ có thẩm quyền.
Steve Belanger, sĩ quan quản giáo, đã chia sẻ với tôi những chi tiết xoay quanh cuộc sống trong một nhà tù có an ninh được thắt chặt ở mức tối đa, đủ thuyết phục tôi không bao giờ được phạm tội.
Chris Fuss, anh bạn đại học thân thiết, đã không chỉ chia sẻ kinh nghiệm của cậu ấy về việc định hướng và ban hành luật pháp trong thời kì diễn ra cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, mà còn cho phép tôi được làm quen với các loại súng trường.
Aaron Kechley và Valerie Weber, hai cựu sinh viên trường Williams, đã kể tôi nghe vô vàn điều thú vị về thị trấn Williamstown duyên dáng và xinh đẹp, mà tôi đã phải dùng nó để làm bối cảnh cho một vụ giết người.
Và tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể những sĩ quan cảnh sát, các đặc vụ FBI và những sĩ quan quản giáo khác đã rất tử tế giải đáp hết các câu hỏi của tôi, nhưng xin mạn phép để tên của họ được giữ kín.
Họ đã cung cấp cho tôi rất nhiều kiến thức bổ ích. Trong một số trường hợp, tôi đã sử dụng chúng để phục vụ cho tác phẩm của mình. Nếu có bất cứ sai sót nào, tất nhiên, đều là lỗi do tôi.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt đến người đại diện của tôi, Damaris Rowland, đã tin tưởng vào tài năng của tôi nhiều hơn là chính tôi; đến Nita Taublib, người đã sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì cuốn sách này; đến Beth de Guzman, với kỹ năng biên tập sắc bén, đã biến bản thảo này thành một tác phẩm hoàn thiện; đến gia đình và các bạn bè tôi, Heather, Dolly, Michele, Terry, Lori và Betsy đã ủng hộ tôi, và trở thành nguồn cung cấp sô cô la bất tận; và gửi đến người chồng sắp cưới, Anthony Ruddy, đã chia sẻ cùng tôi mọi thứ và cho tôi thấy một tương lai rực rỡ phía trước. Không từ ngữ nào có thể diễn tả được hết sự biết ơn của tôi dành cho những con người này.
MỞ ĐẦU
Lần đầu tiên nhìn thấy cô, hắn đã biết. Hắn nhìn theo hai quả bông cổ động màu trắng và đỏ nhấp nhô giữa không trung. Hắn nhìn theo những sợi ruy băng dài màu vàng óng ánh buộc trên tóc cô, bay phấp phới giữa bầu trời mùa hè xanh ngắt. Hắn lưu giữ nụ cười tỏa nắng của cô khi cô hô vang bài ca cổ vũ, bật nhảy đầy khỏe khoắn cùng những cô gái khác vòng quanh sân bóng vẫn còn thơm mùi cỏ mới cắt. Ngày trước, hắn luôn cồn cào đói khát; giờ đây, hắn nhìn cô và thấy đầy thỏa mãn. Ngày trước, hắn khô khan, cằn cỗi; giờ đây, hắn dõi mắt nhìn theo cô và cảm thấy như bên trong chỉ chực bùng nổ.
Hắn biết tất cả mọi điều về cô. Hắn biết cha mẹ cô là những người rất được kính trọng ở Williamstown, một vị thế đặc biệt mà những người không có mấy học vấn giành được khi sinh sống ở sát bên một trường đại học nghệ thuật như thế này. Hắn biết gốc gác tổ tiên gia đình cô là người Đức, xuất thân tốt, bốn đời da trắng tóc vàng, kinh doanh cửa hàng Matthews ở khu vực này, sống cả đời mình tại đó, chưa từng bước chân đi đâu vượt quá bốn khu nhà tính từ nơi mình chôn rau cắt rốn. Những người trong gia đình họ gần như đều sẽ ra đi một cách yên bình khi đang trong giấc ngủ, ngoại trừ cụ ông của Theresa, cụ chết vì ngạt khói lúc bảy mươi lăm tuổi,
khi đang cố gắng giúp mở cửa chuồng ngựa của người hàng xóm để giải thoát cho lũ ngựa khỏi cơn hỏa hoạn.
Hắn biết mỗi buổi chiều, Theresa đều vội vã lao nhanh về nhà sau những buổi tập cổ vũ để giúp đỡ cha mẹ ở cửa hàng. Cô thu dọn những gian hàng nhỏ bày các loại dầu ô liu nhập khẩu, mì ống vị cải bó xôi và nhục đậu khấu, cùng những cái kẹo vị siro cây phong đổ trong khuôn hình lá sồi được làm tại địa phương. Vào cuối tháng Chín đầu tháng Mười, khi Williamstown tràn ngập những người đến để trầm trồ, chiêm ngưỡng những quả đồi vàng óng ả và những thảm cây bụi đỏ au, Theresa sẽ được phép cắt những lát pho mát Vermont và những miếng kem tươi béo ngậy cho khách du lịch. Rồi khi mùa du lịch qua đi, cô sẽ lại được giao cho công việc quét tước, thu dọn, chùi bụi cho những giá hàng sơn màu ca-rô trắng xanh, quét dọn sàn nhà gỗ trăm tuổi và thu dọn những cái bàn bằng gỗ thông mà khách ngồi ăn uống. Đó là những công việc lặp đi lặp lại kể từ khi cô mười hai tuổi, và hắn đã nghe thấy cha cô nói với cô cả gần chục lần chỉ trong một buổi chiều rằng cô chẳng đủ thông minh để làm được bất cứ việc gì khác nhiều hơn thế.
Theresa chẳng bao giờ cãi lại. Cô chỉ nhẹ nhàng thít chặt lại chiếc tạp dề ca-rô đỏ, cúi gằm cái đầu phủ mái tóc vàng óng, và tiếp tục quét.
Ở cấp ba, cô là một cô gái nổi tiếng trong một lớp học với gần một trăm con người, đều là những người hiền hòa nhưng chẳng dễ gần hay hấp dẫn mà lại bẽn lẽn, dè dặt. Trong khi những cô gái mười bảy tuổi khác ở trường Trung học Mt. Greylock không thể cưỡng lại nổi cám dỗ trước những chầu bia rẻ tiền uống giấu uống
giếm, hay dò dẫm bám gót theo đuôi tay hậu vệ nổi danh của đội bóng trường, thì Theresa, mỗi tối thứ Sáu và thứ Bảy, đều trở về nhà trước mười giờ.
Cô cực kỳ, cực kỳ đúng giờ, mẹ của Theresa nói với hắn như vậy. Làm hết bài tập về nhà đúng theo yêu cầu, đi lễ nhà thờ, chăm chỉ làm việc nhà. Không giao du với lũ nát rượu hay hút chích, Theresa của họ không làm như vậy. Cô chưa bao giờ bước quá ranh giới đó.
Có lẽ ngày trước bà Matthews cũng từng xinh đẹp y như cô con gái của mình, nhưng những năm tháng đó đến rồi đi quá nhanh. Người phụ nữ ấy của hiện tại đã trở nên dễ xúc động với đôi mắt màu xanh dương đùng đục, mái tóc vàng bết bẩn, và thân hình ục ịch. Tóc của bà buộc túm hết ra sau, buộc chắc tới nỗi nó làm cho hai khóe mắt của bà bị kéo căng và ít nhất cứ hai phút một lần, bà lại làm dấu thánh giá và lần tay lên chuỗi tràng hạt của mình. Hắn hiểu rõ kiểu người như bà. Cầu nguyện Đức Chúa để đưa bà thoát ra khỏi tất cả mọi điều xấu xa. Bà hài lòng khi ở độ tuổi này bà không cần phải quan hệ tình dục nữa. Và vào tối thứ Sáu, khi ông Matthews nốc trơ đáy chai Wild Turkey rồi đánh đập bà và Theresa, bà nghĩ trong đầu rằng cả hai người họ đón nhận điều đó đều là xứng đáng, bởi vì Eva đã đưa cho Adam trái táo, và kể từ đó trở đi, phụ nữ phải đền bù cho tội lỗi mà mình đã gây ra.
Ở tuổi năm mươi, vẻ bề ngoài của ông Matthews cũng tương đối giống với những gì mà hắn tưởng tượng. Tóc xám bạc, húi cua. Khuôn mặt lạnh lùng, nghiêm khắc. Vòng eo rắn chắc. Hai cánh tay lực lưỡng căng lên cuồn cuộn khi ông ta bê những bao tải bột nặng gần nửa tạ hay những thùng siro đường nặng ba bốn chục cân. Ông
ta thảnh thơi đi lại quanh cái cửa hàng nhỏ xíu như một ông hoàng nhàn nhã dạo chơi trên vùng lãnh thổ của mình. Trong khi những thành viên khác trong gia đình đang bận rộn làm việc, người đàn ông ấy lại thích tựa người bên quầy tính tiền và ba hoa với khách hàng, nào là chuyện giá sữa giảm rồi thì kinh doanh nhỏ thì may rủi ra sao. Ông ta lúc nào cũng để một khẩu súng ngắn lắp sẵn đạn bên dưới giường và một khẩu súng trường ở đằng sau xe tải. Mỗi năm một lần, ông ta sẽ đi săn một con hươu theo đúng luật cho phép và - theo lời đồn đại của người dân quanh đó - săn trộm thêm một con thứ hai chỉ để chứng minh rằng ông ta có khả năng làm được việc đó.
Không ai bảo ông ta phải sống thế nào, chăm lo cho cửa hàng hay chăm lo cho gia đình của mình ra sao. Ông ta thực sự là một tên khốn nạn cứng đầu, thiển cận và ngu ngốc.
Jim chỉ cần tốn hai buổi chiều có mặt trong cửa hàng quan sát người cha, người mẹ và cô con gái, chỉ thế thôi, hắn đã biết được tất cả những gì cần biết. Cặp cha mẹ sẽ chẳng bao giờ đủ phẩm chất để đặt chân vào tầng lớp thượng lưu, nhưng được cái họ lành lặn, không mắc bệnh di truyền hay có dị tật ngoại hình gì. Và cô con gái của họ, cô con gái xinh đẹp, ít nói, ngoan ngoãn nghe lời của họ, vô cùng hoàn hảo.
Jim mở cửa xe ô tô và bước ra. Hắn đã sẵn sàng.
Trên đầu hắn, bầu trời mùa xuân trong xanh. Trước mặt hắn, khu đồi Berkshire bao quanh trường Trung học Mt. Greylock bằng một màu xanh tươi. Dưới chân hắn, mảnh đất thung lũng vẹn nguyên chưa cày xới trải dài một màu xanh ngắt, những cánh đồng xanh
mát được tô điểm bởi những chấm màu đỏ mờ mờ từ các nhà kho mái đỏ và những con bò sữa Hà Lan màu trắng đen. Hắn hít hà mùi thơm cay cay từ nhựa thông, từ cỏ mới cắt và mùi hương phảng phất từ những nông trại bò sữa phía xa. Hắn lắng nghe những bài hát của đội cổ động. “Tiến lên, chiến đấu, chiến thắng, tiến lên, chiến đấu, chiến thắng”. Hắn nhìn theo đôi chân dài thẳng tắp của Theresa đá cao hướng lên bầu trời.
“Chúng tôi là Greylock, không có gì đáng tự hào hơn. Nếu bạn chưa nghe thấy tiếng của chúng tôi, chúng tôi sẽ hét lớn hơn một chút nhé.”
Hắn mỉm cười và tiến lên, bước vào giữa ánh nắng rực rỡ của mùa xuân. Hắn bắt gặp ánh mắt của Theresa khi thân hình mềm dẻo của cô thực hiện động tác bật tách, hai quả bông trong tay cô tung bay giữa không trung. Cô mỉm cười đáp lại hắn, hành động theo phản xạ tự nhiên.
Hắn tháo kính râm xuống. Hai mắt của cô mở to. Hắn nở nụ cười đầy quyến rũ làm cho hai má cô bắt đầu ửng hồng, để rồi cuối cùng cô phải quay mặt nhìn sang chỗ khác. Những thành viên khác trong đội cổ vũ lúc này đang liếc nhìn hết về phía cô lại sang đến phía hắn bằng ánh mắt tràn đầy ghen tị. Một vài cô nàng điệu đà bĩu môi, và một cô nàng tóc đỏ trông có vẻ phát triển nhanh trước tuổi đang cố khoe bộ ngực đầy đặn kiêu hãnh của mình ra để vớt vát sự chú ý muộn màng từ hắn.
Nhưng hắn chẳng hề rời mắt khỏi Theresa. Cô là người hắn muốn.
Hắn hơi nghiêng nhẹ người, và thế là ánh nắng lấp lánh phản chiếu lại từ chiếc phù hiệu cảnh sát gắn trên bờ ngực trẻ trung, rắn rỏi của hắn. Đứng cách hắn chừng ba mươi mét, đằng sau hàng rào mắt cáo, ánh mắt của Theresa chăm chú hướng vào chiếc phù hiệu của hắn. Hắn nhìn thấy sự hồi hộp của cô ngay lúc ấy, sự lo lắng cho tương lai xa vốn là tính cách bẩm sinh của cô. Rồi sau đó, đôi mắt màu nâu đẹp đẽ của cô nhìn khắp khuôn mặt hắn, tìm kiếm đôi mắt của hắn.
Giây phút ấy, hắn biết hắn đã có được cô. Hắn nhận ra sự dè dặt thoáng qua, sự cảnh giác đã không còn trong ánh mắt của cô mà thay vào đó là một niềm hy vọng run rẩy, mỏng manh.
Và sức mạnh ngập tràn bên trong hắn mới phi thường làm sao. Trong đầu hắn, hắn nghe thấy giọng nói của cha mình, trầm ấm, dịu dàng lúc mở đầu, trước khi tất cả trở nên tồi tệ. Cha hắn luôn kể một câu chuyện ngụ ngôn như thế này: Ngày xửa ngày xưa, một con rùa và một con bọ cạp sắp sửa phải đối diện với cơn lũ đang tới. Tuy sợ hãi, song vì không thể làm trái đạo nghĩa, con rùa nói với con bọ cạp rằng nó sẽ đưa con vật gớm ghiếc đó ra khỏi dòng nước dữ sang tới bờ bên kia nếu con bọ cạp đồng ý không được chích vào người nó. Con bọ cạp hứa với con rùa sẽ làm đúng như vậy, rồi trèo lên lưng nó. Chúng rời đi, đôi chân ngắn nhưng khỏe khoắn của con rùa dùng hết sức để đạp nước, cố đưa cả hai sang tới bờ bên kia. Từng đợt sóng ập vào người chúng, cuốn chúng ra xa. Con rùa vẫn cố gắng bơi và bơi, khó khăn để đưa được cả hai tiến về phía trước kể cả khi dòng nước kéo chúng ngược trở lại. Những con sóng ngày một dữ dội hơn. Con rùa bắt đầu mệt mỏi. Chẳng mấy chốc, kể cả
con bọ cạp nhẹ hều dường như cũng biến thành sợi xích nặng, đe dọa sẽ kéo chìm nó xuống dòng nước. Tuy nhiên, con rùa vẫn nhất định không bắt con bọ cạp nhảy khỏi lưng. Nó cố gắng bơi mạnh hơn nữa, và rồi cuối cùng, bờ đã hiện ra ngay trước mắt. Dường như chúng chuẩn bị đến được tới đích.
Và rồi con bọ cạp chích nó. Nó cắm phập và găm mạnh cái đuôi đầy nọc độc vào sâu bên trong da thịt của con rùa. Con rùa quay lại nhìn nó với ánh mắt hoang mang tột cùng, nọc độc khiến máu trong người nó trở nên nóng phừng, hai chân ngay lập tức tê cứng. Nó không thể chuyển động thêm được nữa. Cả hai bắt đầu chìm xuống nước. Vào giây phút cuối cùng, nước mắt mặn chát đầm đìa cả mũi lẫn họng, con rùa đáng thương vừa khóc vừa nói rằng: “Tại sao anh lại làm như vậy? Anh đã giết chết cả hai chúng ta rồi!”
Con bọ cạp chỉ nhẹ nhàng trả lời: “Bởi vì đó là bản tính mà tạo hóa đã ban cho tôi.”
Jim thích câu chuyện đó. Hắn hiểu nó. Đó cũng là bản tính mà tạo hóa đã ban cho hắn. Hắn chưa từng nghĩ có bất cứ một lần nào mà hắn không cảm thấy rằng hắn giỏi giang hơn tất thảy mọi người, thông minh hơn tất cả, nhanh nhẹn hơn tất cả, lạnh lùng hơn tất cả.
Hắn muốn điều gì, hắn sẽ giành được nó.
Giờ đây, hắn đang mỉm cười với cô gái Theresa Matthews mười bảy tuổi xinh đẹp. Hắn để cô nhìn thấy tấm phù hiệu của cảnh sát hạt Berkshire mà hắn đã phải nỗ lực rất nhiều để giành được. Và một tay của hắn thì đang âu yếm vuốt ve chiếc dùi cui gỗ cài bên hông.
Nhìn anh đi này, Theresa. Nhìn chồng tương lai của em đi này.
Lúc mới bắt đầu, mọi chuyện chỉ đơn giản như thế. Lúc mới bắt đầu…
MỘT
Năm năm sau
J. T. Dillon đã say.
Bên ngoài, mặt trời đã lên cao tới đỉnh, nắng sa mạc trắng xóa, gay gắt, làm mòn xương thịt, rang nứt cả núi đồi. Những cây xương rồng Saguaro dường như đang lướt mình giữa những cơn sóng nhiệt, còn những bụi ngải đắng quanh gốc của chúng thì đã ngắc ngoải vì say nắng. Và khắp mọi nơi trên mảnh đất Nogales, mọi người đang náu mình trong những căn phòng phủ rèm kín bưng, xoa từng viên đá lên tấm ngực để trần, nguyền rủa Chúa Trời vì đã giữ lại cái thứ tai ác của tháng Tám sang đến tận tháng Chín.
Nhưng anh chẳng hề để ý đến nó.
Ở giữa ốc đảo xanh mát lạnh bên trong căn nhà dài mái thoải của mình, J. T. Dillon đang nằm ngửa, tay phải ôm lấy khung ảnh viền bạc bên trong có bức hình của một người phụ nữ đang mỉm cười và một cậu bé xinh xắn đáng yêu. Bên tay trái là một chai tequila đã cạn khô.
Ở bên trên, một chiếc quạt đang tản đều gió từ điều hòa đi khắp căn phòng khách. Bên dưới, tấm thảm họa tiết thổ dân Navajo hút khô mồ hôi từ người anh. Căn phòng được thu dọn gọn gàng và bày biện khá trang nhã với đồ nội thất đan từ liễu gai và cọ yucca.
Anh đã chẳng còn để ý đến những chi tiết đó kể từ ngày đầu tiên làm bạn với tequila nguyên chất. Mọi tay lính thủy đều biết, mỗi cuộc say sưa chè chén đều là một tác phẩm nghệ thuật, và J.T. tự cho mình là danh họa Michelangelo số một khi ở quán bar Tequila Willie. Li thứ nhất đốt cháy cổ họng. Li thứ hai đốt sạch mùi vị của li thứ nhất. Sau cỡ nửa chai, sẽ chẳng một người nào, thậm chí có tửu lượng khá nhất, còn đủ sức nhăn mặt trước cái cảm giác rượu tequila rẻ tiền, nguyên chất xé toác thực quản, chảy xuống bụng, và rồi sớm hay muộn, cũng trôi ra theo đường ruột.
Hết ngày thứ nhất, J.T. đã chẳng còn có thể suy nghĩ tỉnh táo được nữa. Chiếc quạt trần đã biến thành một con chim từ thời tiền sử, chiếc ghế sofa đan bằng liễu gai thì chẳng khác gì con hổ đang nằm đợi mồi. Anh chàng lính thủy rắn rỏi nhất, thạo nghề nhất thế giới đã trở thành một thằng hề chỉ còn biết cười khinh khích giữa cơn say xỉn. Khi nhắm mắt lại, thế giới trong đầu anh xoay mòng mòng khiến anh cảm thấy buồn nôn, thế nên suốt cả đêm đầu tiên, anh đã lấy ngón tay mà chống mí mắt, rồi cứ thế nhìn chằm chằm lên trần nhà hết giờ này qua giờ khác.
Bây giờ, ngày thứ tư nốc rượu tequila nguyên chất, anh đã không còn nhận thức được gì nữa, gần như toàn bộ cơ thể anh đã phải đầu hàng trước cơn say, không còn nghe lời chủ nhân của nó nữa. Trước nhất là khuôn mặt. Anh đã ngồi suốt bên cạnh hồ bơi, nốc tương đối rượu Cuervo Gold loại ngon, rồi đột nhiên nhận ra anh chẳng sờ thấy cái mũi của mình ở đâu nữa. Anh cố gắng dùng ngón tay để tìm nó - bó tay. Mũi của anh biến đâu mất rồi ấy. Một tiếng sau, đến lượt hai gò má của anh cũng biến mất nốt. Không thấy
tiếng sột soạt của râu ria, không thấy một tí ti mồ hôi nào cả. Má của anh biến mất rồi. Cuối cùng, một lúc sau, anh mất nốt luôn cả đôi môi. Anh đã cố gắng mở hai vành môi ra, nhưng chúng chẳng còn ở đấy nữa. Không có môi.
Nó làm cho anh muốn uống tiếp cũng khó, mà anh vẫn còn phải uống thật nghiêm túc trong vòng hai mươi tư giờ nữa. Anh chầm chậm lăn người sang một bên, phát hiện ra rằng hai cánh tay và một phần của bộ não say xỉn vẫn còn đó. Anh nhắm nghiền mắt và những hình ảnh mờ mịt túm tụm lại hiện ra đằng sau mí mắt của anh. Ngày xưa, anh đã từng là một kình ngư vô địch và một tay súng trường thiện xạ. Anh vẫn còn nhớ mùi clo đầy chào đón và khẩu súng trường cán gỗ óc chó màu đen nằng nặng. Anh đã từng là một lính thủy “có tài năng thiên bẩm, nhiều tiềm năng” trước khi người ta bắt anh rời đi.
Sau cái thời làm lính thủy là tới công việc giống như kiểu một tay lính đánh thuê, làm những việc mà anh sẽ không thể kể với người khác, bởi vì nếu kể rồi, anh sẽ phải giết luôn người đó. Hình ảnh tiếp theo thì ngập ngừng hơn, mờ mờ ảo ảo không mấy rõ ràng, như thể nó hiểu rằng kể cả sau bốn ngày nốc rượu nguyên chất, nó vẫn đủ sức làm đau người khác. Anh trở lại những ngày còn ở Mỹ. Rachel đứng bên cạnh anh. Anh là một người chồng. Ánh mắt anh chuyển hướng xuống cậu nhóc con đang nắm chặt lấy tay anh. Anh là một người cha.
Bây giờ, anh là một kẻ say xỉn.
Người giúp việc cho anh, Freddie đi tới, lấy cái khung ảnh chân dung viền bạc ra khỏi tay J.T. và đặt lại nó vào trong tủ khóa an
toàn, nó sẽ ở yên trong đó cho tới tháng Chín năm sau. “Cậu cảm thấy thế nào rồi?”
“Ừm.”
Con cự đà của anh bò vào trong phòng, cái đuôi dài hơn một mét của nó uốn éo lướt đi trên nền nhà lát gạch đỏ. Rượu tequila gào lên: “Báo động đỏ! Khỉ đột tấn công!” Phần tỉnh táo còn lại trong người anh thì thầm qua đôi môi nứt nẻ, yếu ớt. “Glug, ý tao là, đi ra chỗ khác đi.”
Glug kệ xác lời người chủ, đặt trọn cái thân hình béo múp của nó bên dưới tia nắng lọt vào trong nhà qua cái rèm kéo và nằm đó thật thoải mái. J.T. thích Glug lắm.
“Cậu uống nước nhé?” Freddie kiên nhẫn hỏi han.
“Hôm nay ngày mấy rồi?”
“Ngày mười ba, thưa cậu chủ.”
“Vậy thì cho tôi thêm li margarita đi.”
Xa xa vọng lại tiếng điện thoại đổ chuông. Âm thanh khiến cho J.T. gào thét lên, và rồi khi cái thứ tiếng ồn đó cả gan kêu lên thêm một lần nữa, anh đau đớn bò ra ngoài hiên nhà để trốn nó.
Ánh nắng mặt trời ngay lập tức ập thẳng vào người anh như búa nhọn giáng xuống. Hai chân anh đung đưa, hai mắt lác xéo cả đi, tequila nguyên chất rỉ ra từ từng lỗ chân lông trên người anh.
Nóng khô, mọi người đã dặn trước anh như thế khi anh mới chuyển tới Arizona. Hẳn nhiên là nóng rồi, nhưng là nóng khô. Chết tiệt. Năm chục độ là nguyên xi năm chục độ như thế. Chẳng có người bình thường nào có thể sống nổi dưới cái nhiệt độ như vậy.
Anh đã có quá thừa thời gian lang thang trong rừng, vờ như không mảy may để tâm đến hơi nước đang thoát ra khỏi làn da hay cái mùi mồ hôi nhức mũi trên người. Anh đã học được cách để không phải ngửi tất cả cái mùi đó. Đơn giản là hít thở ở những chỗ còn lại. Giờ đây, rừng già đã sống bên trong con người anh. Thi thoảng, nếu anh nhớ tới những khu đồn điền ở Virginia và cha anh, cái cách mà ông ấy ngồi phía đầu bàn, khoác trên người nguyên bộ đồng phục Mũ nồi xanh, ống quần xắn gọn vào trong đôi giày cao cổ Corcoran màu đen, sáng bóng, áo sơ mi là phẳng phiu và ruy băng ghim trước ngực, khu rừng sẽ lại trỗi dậy, đập thình thịch trong từng mạch máu của anh.
Và rồi J.T. sẽ bật cười. Đó là một bài học quý báu mà anh đã học được từ cha mình. Phụ nữ khóc. Đàn ông cười. Ai đó kêu ca than khóc. Đàn ông cười. Ai đó yếu ớt phàn nàn. Đàn ông cười.
Khi Marion gọi cho anh để báo rằng ngài đại tá mắc ung thư tiền liệt tuyến khó qua khỏi, J.T. đã cười như điên dại, cười đến nỗi đánh rơi cả điện thoại.
Freddie bước ra bên ngoài hiên, dáng vẻ khắc khổ bên trong bộ comple bằng vải lanh cài khuy gọn gàng. “Cậu có điện thoại.” “Nay vẫn ngày mười ba hả?”
“Đúng thế, cậu chủ.”
“Bảo họ biến đi.”
Freddie không suy suyển. “Là Vincent. Ông ấy đã gọi bốn lần rồi. Ông ấy nhất mực nói là có việc quan trọng.”
J.T. ngồi thụp xuống sàn hiên và khua những đầu ngón tay xuống hồ bơi. Gần như suốt cả cuộc đời, anh đã mơ ước có một cái hồ bơi giống như thế này. Anh nửa thích mà cũng nửa ghét nó. “Cậu chủ?”
“Vincent lúc nào chẳng nghĩ là quan trọng.”
“Ông ấy không chịu cúp máy.” Freddie để điện thoại lên hiên nhà. Cái khịt mũi cáu kỉnh cho thấy Freddie suy nghĩ thế nào về Vincent. J.T. lăn người ngước nhìn. Có vẻ như cả Freddie lẫn chiếc điện thoại đều không sẵn lòng rời đi.
Bất đắc dĩ, anh nhấc điện thoại lên. “Tôi giải nghệ rồi, Vincent ạ.” “Không phải đùa đâu, anh bạn già ạ.” Giọng nói vang lên như bom của Vincent khiến cho J.T. phải ôm lấy trán. “Tôi có một vụ nóng hổi dành tặng anh đây, Dillon. Ngay phía trên con hẻm nhà anh thôi.”
“Hôm nay ngày mười ba mà.”
“Nửa cái địa cầu này đâu chả thế.”
“Tôi không nhận điện thoại cho tới ngày mười bốn đâu, tôi chẳng nhận điện thoại bất cứ ngày nào hết. Tôi giải nghệ rồi.” “Dillon, chờ nghe tiền cái đã…”
“Tôi chẳng cần tiền.”
“Tất cả mọi người đều cần tiền.”
“Tôi không cần tiền. Tôi không cần việc. Tôi cúp máy đây. Chào.” “Này, này, này! Chờ cái đã nào! Thôi mà, J.T. Nghe tôi nói này, nhớ lại hồi xưa đi mà. Nghe này, tôi đã gặp người phụ nữ này rồi. Cô
ấy thực sự tuyệt…”
“Trông ngon lắm hả?”
“Ý tôi không phải vậy…”
“Chắc tóc vàng hả. Anh lúc nào chẳng say như điếu đổ mấy ả tóc vàng.”
“Này J.T., anh bạn tôi, đừng có cư xử tệ hại như vậy chứ. Tôi sẽ chẳng gọi điện cho anh chỉ vì một người vớ vẩn nào đó - tôi biết là anh đã giải nghệ. Nhưng người phụ nữ này cần giúp đỡ. Ý tôi là, cô ấy thực sự cần giúp đỡ.”
“Ờ, rồi sao? Tìm cuốn danh bạ đi, tìm St. Jude, gọi đến số đó. Nếu có ai trả lời, nhớ báo tôi biết. Một ngày nào đó, có thể tôi sẽ thử tự gọi xem sao. Chào nhé.”
“J.T….”
“Tôi không quan tâm.” J.T. cúp máy. Freddie vẫn đang đứng đó. Một giọt mồ hôi đã lăn đến môi trên của ông. J.T. lắc đầu. “Ông lo lắng cái gì vậy hả?” Anh rầy la người giúp việc của mình. “Lo tôi sẽ đồng ý sao? Lo tôi sẽ từ bỏ tất cả những thứ này vì nửa giây hưng phấn bất ngờ sao? Freddie, tôi nghĩ chúng ta hiểu nhau nhiều hơn thế chứ nhỉ.”
“Tôi sẽ mang cho cậu thêm một li margarita nữa.”
“Đúng rồi đấy, Freddie ạ. Chúng ta hiểu nhau nhiều như vậy đó.” J.T. lại một lần nữa đặt đầu xuống mặt hiên đã được lót chống nhiệt. Ánh nắng mặt trời xuyên thẳng qua mí mắt của anh, cho tới khi anh nhìn thấy những đường mạch máu đỏ au ngoằn ngoèo dưới da thịt.
Freddie lại xuất hiện mang theo một li thủy tinh và đặt nó bên cạnh đầu của J.T.
“Freddie này?” J.T. nói.
“Vâng, sao thưa cậu chủ?”
“Còn để một cuộc điện thoại nào gọi tới, tôi sẽ đuổi việc ông đấy nhé.”
“Vâng, thưa cậu chủ.”
“Kể cả đó là đại tá, Freddie nhé. Ông hiểu chứ?”
“Chắc chắn rồi, cậu chủ.”
“Tốt.”
Freddie xoay người một vòng rồi rời đi; J.T. chẳng buồn nhìn theo.
Anh nhón chân bước xuống bể bơi, quần áo vẫn mặc nguyên. Anh ngụp trọn cả người xuống nước. Anh không quẫy người gì hết, anh chưa bao giờ phải chống cự lại nước. Ngay từ đầu, Marion đã có thể làm mọi trò trên lưng ngựa, còn J.T. thì có thể làm bất cứ việc gì ở dưới nước.
Hai chân của anh chạm đến đáy hồ. Anh mở mắt và quan sát xung quanh vương quốc của mình, các bên thành bể bơi được tạo nên từ những viên đá đỏ xếp nhấp nhô, đáy hồ nhìn giống như được rải ngọc bích ở bên dưới.
Cuống họng anh bắt đầu cảm thấy buồn buồn, là bản năng báo rằng cần phải hít thở đi thôi. Anh không chống cự lại nó. Anh đón nhận nó. Nhu cầu, sự hoảng loạn, nỗi sợ hãi. Khi ở dưới nước, anh
có thể đón nhận bất cứ thứ gì. Khi ở dưới nước, thế giới này cuối cùng cũng trở nên có nghĩa với anh.
Anh nhẩm đếm. Thời gian trong đầu, và rồi cái cơn buồn buồn nơi cuống họng đã dần dần chính thức chặn nghẹn lấy cổ họng anh. Đừng chống cự lại nó nữa, đừng chống cự nữa. Thả lỏng cơ thể ra đi nào. Anh vượt qua dấu mốc hai phút. Đã có lần anh vượt qua được bốn phút, nhưng hôm nay thì không.
Hai phút bốn mươi lăm giây. Chỉ đến thế thôi. Anh lao bắn lên khỏi mặt nước. Anh xé toang mặt nước, vội vàng hít lấy hít để, hít liền một lúc bốn hơi. Chiếc quần bò và áo phông dính chặt vào da anh, đầu anh cảm thấy ong ong.
Những ký ức đó vẫn còn nguyên trong trí óc anh. Rachel và Teddy. Cười lớn. Cười mỉm. Gào khóc. Chết dần chết mòn. Mỗi năm anh đều say sưa một bữa như thế. Năm ngày nhớ lại những điều anh không thể, không dám quên.
Năm ngày đen tối giày vò anh như một lớp sương mù và dập tắt đi mọi nguồn ánh sáng.
Một phút sau, anh bắt đầu bơi. Rồi anh lại bơi thêm chút nữa. Phía trên đầu anh, không khí khô hanh, và rồi khi bầu trời dần chuyển sang màu đỏ rực như màu máu, lũ dế bắt đầu cất tiếng hát.
“Anh còn sống đấy chứ?”
“Hả?” J.T. lảo đảo nhấc đầu dậy. Anh đã ngất lịm đi, mặt úp xuống thềm hiên. Có thứ gì đó lành lạnh, nhơm nhớp đang dính trên da của anh. Là quần áo ướt.
“Anh Dillon? Anh J.T. Dillon phải không?”
Hai mắt anh lác lệch đi, hai con ngươi nhất định không chịu hợp tác. Không biết vì sao mà tất cả mọi thứ dường như đều biến thành màu đỏ, đỏ và u tối và xấu xí. Anh cố gắng để tập trung hơn nữa. Một người đang xuất hiện trước mắt anh. Cô ta có mái tóc màu đen, nhắc anh nhớ tới một bộ tóc giả của Elvis. Anh lại cúi đầu, úp trán xuống sàn.
“Anh vẫn ổn đấy chứ?”
“Đó lúc nào cũng là chủ đề cho một vài cuộc tranh luận.” Anh chẳng buồn ngước mắt nhìn lên thêm lần nữa. “Thưa cô, tôi không mua đồ của Avon* hay mua bánh quy Hướng đạo sinh nhé. Nhưng mà nếu như cô có chai Cuervo Gold nào, cho tôi hai thùng.”
“Tôi không phải người tiếp thị Avon.”
“Đen đủi ghê cơ.” Hẳn là anh sắp chết mất thôi. Từ ngày đầu ở West Point*, anh đã cảm nhận thấy căn bệnh này rồi. “Anh Dillon…”
“Biến đi.”
“Tôi không thể.”
“Đứng lên, quay một vòng một trăm tám mươi độ, và đừng có để cửa thúc vào mông trên đường cuốn xéo đấy nhé.” “Anh Dillon… làm ơn, hãy nghe tôi nói đi mà.”
Cuối cùng anh cũng chịu mắt nhắm mắt mở liếc nhìn người phụ nữ đó. Cô ta ngồi bên mép chiếc ghế võng, như một con bồ câu gầy trơ xương đang đậu tạm và bị cái cây mesquite* vây xung quanh. Trẻ tuổi. Mái tóc thực sự cắt quá xấu. Màu nhuộm thậm chí còn kinh
khủng hơn. Dù cố gắng tỏ ra bình tĩnh, nhưng hai cái đầu gối trắng hếu của cô ta đang run rẩy. Anh rên rỉ.
“Cô nàng ơi, anh không tiếp nổi nàng đâu.”
“Tôi… Cái… Tôi…” Cô ta đứng bật dậy, vươn thẳng lưng. Gương mặt của cô ta trông rất cương quyết, nhưng những phần còn lại trên cơ thể thì chẳng ăn nhập gì với biểu cảm đó. Bộ quần áo trắng lóa của cô ta nhăn nhúm và chẳng vừa người chút nào. Dạo gần đây, cô ta hẳn là đã sụt mất rất nhiều cân, và cái quầng thâm bên dưới mắt đen thui một màu, chứng tỏ cô ta chẳng có mấy giấc ngủ ngon.
“Anh Dillon…”
“Freddie!” Anh dùng hết sức lực gọi lớn. “Freddie!”
Đôi môi người phụ nữ mím chặt.
“Ông ấy ra ngoài rồi.” Một lát sau, cô ta lên tiếng. Cô ta bắt đầu chầm chậm cắn móng tay ngón cái bên phải.
“Ra ngoài ấy hả?” Anh lại rên rỉ, rồi lắc lắc mái đầu ướt nhẹp. Nước bắn tung tóe ra ngoài, một vài giọt bắn lên bộ áo lụa của người phụ nữ, nhưng cô ta cũng không lùi bước. Anh luồn một bàn tay vào trong tóc, vuốt những lọn tóc dài hất ngược ra đằng sau, rồi nhìn vị khách không mong muốn thêm một lần nữa.
Cô ta vẫn giữ một khoảng cách thận trọng. Đủ gần để không thể hiện sự sợ hãi, nhưng đủ xa để giữ được sự cẩn trọng cần thiết. Dáng đứng của cô ta cực kỳ vững vàng và trong tư thế sẵn sàng hành động, hai chân đứng giãn cách nhau, chân trước, chân sau, ngực ưỡn về phía trước, hai cánh tay để thoải mái. Nó khiến anh có cảm giác như anh đã từng gặp qua tình huống này, như thể đáng lẽ
ra có điều gì đó về người phụ nữ này anh nên biết. Nhưng trực giác ập đến rồi lướt đi quá nhanh, và anh cũng chẳng muốn phải bám theo trực giác đó làm gì.
“Người bạn của anh rời đi rồi.” Cô ta nói. “Tôi nhìn theo ông ấy leo lên chiếc sedan và lái đi rồi.”
“Thế hả.” Anh miễn cưỡng ngồi dậy. Thế giới như muốn quay cuồng, rồi cũng lại đứng im ngay ngắn. Với tình trạng chín mươi phần trăm rượu, mười phần trăm máu trong người như hiện tại thì nhìn được như thế đã là rõ ràng lắm rồi. Anh đã ngất đi bao lâu rồi nhỉ? Đã có bao nhiêu rượu theo đường mồ hôi thoát ra rồi nhỉ? Anh đã tỉnh rượu nhanh quá mất rồi.
Anh xé toạc cái áo phông rồi ném nó lên sàn. Tiếp đến, những ngón tay lại tiếp tục làm điều tương tự với chiếc quần bò. “Tôi muốn thuê anh.” Giọng của người phụ nữ hơi run run. Anh cởi hai ống quần bò bó sát lấy chân ra rồi ném nó lên sàn hiên. “Dễ chịu hơn rồi.”
“Tôi… tôi không biết làm thế này có phải không nữa.” Cô ta nói. J.T. quay sang phía người phụ nữ, mặt cau có khó chịu, hai tay chống bên hông. Già khú, trần như nhộng, anh nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ và tự hỏi thế quái nào đến lúc này rồi mà cô ta vẫn chưa chịu thông minh lên và biến đi cơ chứ. “Này cô, nhìn căn biệt thự này cô thấy giống nữ tu viện lắm hả? Đây là nơi dinh thự riêng, và con quái vật chủ nhân của nó là đây nhé. Còn bây giờ, biến ngay cho khuất mắt tôi hoặc làm gì đó có ích với cái mồm của cô đi.”
Anh nhìn cô ta và cười một nụ cười nhạo báng, khinh khỉnh, rồi bước đi. Freddie đã để lại cho anh một li margarita ở trên bàn bên cạnh hồ bơi. Đá đã tan hết, nhưng anh chẳng quan tâm. Anh uống một hơi hết nửa li.
“Vincent bảo tôi tới.” Người phụ nữ phía sau lưng anh thì thầm. “Cái tên chó chết này.” J.T. lè nhè nhưng thực tế không thể hiện nhiều cảm xúc. “Mình phải gạch tên lão khỏi danh sách gửi thiệp Giáng sinh thôi.” Anh uống cạn nốt nửa còn lại của li margarita. “Tôi sẽ đếm đến năm. Lượn đi trước khi tôi đếm xong, nếu không chỉ có trời mới giúp được cô nhé.”
“Làm ơn, anh không thể nào nghe tôi nói hết được sao?” “Một.”
“Tôi sẽ trả tiền cho anh mà.”
“Hai.”
“Vincent không nói với tôi anh là một gã say xỉn cứng đầu cứng cổ như vậy.”
“Ba.”
“Tôi cần một người chuyên nghiệp!”
Anh quay người lại, hai tay khoanh gọn đặt trước bộ ngực trần, mặt không cảm xúc. “Bốn.”
Mặt người phụ nữ đỏ dần. Tâm trạng thất vọng, bực bội hiển hiện lên cơ thể của cô ta, cằm ngẩng cao, mắt tóe lửa. Trong giây phút ấy, cô ta thực sự khá xinh đẹp. “Tôi sẽ không đi đâu hết!” Cô ta hét lên. “Chết tiệt, tôi chẳng còn nơi nào để đi cả. Nếu anh có thể bớt cảm thấy xót xa cho bản thân mình mà lắng nghe tôi…”
“Năm.”
“Tôi sẽ không đi đâu. Tôi không thể.”
“Thoải mái đi.” J.T. nhún vai. Anh đặt li margarita đã uống cạn lên bàn. Rồi, trần truồng như cái ngày được sinh ra, với tất tần tật tám mươi cân cả cơ bắp lẫn gân, anh tiến lên phía trước.
HAI
Môi trên lấm tấm mồ hôi. Đôi mắt lóe lên đầy nguy hiểm. Cô ta liếc mắt nhìn bên này rồi nhìn sang bên kia. Cô ta ấn chặt tay vào trong túi của mình.
Bất thình lình, J.T đâm bổ vào, lao cả thân hình nặng nề lên người cô ta. Cả hai người ngã rầm xuống, những vật dụng trong túi của cô ta rơi vương vãi ra ngoài, một khẩu súng bạc trượt nhanh trên mặt đất. Cô ta bật nhảy chồm chồm lên như con ngựa hoang và cố gắng cào cấu đôi mắt anh bằng những chiếc móng tay lởm chởm.
Anh đập mạnh cổ tay của cô ta xuống. Anh ngồi lên người cô ta, cố gắng giữ cô ta nằm yên trong khi mình đang bảo vệ những bộ phận nhạy cảm hơn của cơ thể khỏi hai bên chân kích động. Cô ta tóm lấy một nắm tóc của anh rồi giật mạnh.
“Chết tiệt!” Anh vừa giật mạnh cổ để thoát thân, vừa bấm chặt hơn các ngón tay xung quanh cổ tay cô ta, rồi ghì nó xuống. Cô ta cau mày, thế nhưng khi quay ra nhìn anh, đôi mắt cô ta vẫn hừng hực lửa. Anh cao lớn hơn cô ta, khỏe hơn cô ta, và gai góc hơn cô ta rất nhiều. Làm sao cô ta có thể thoát ra nổi, và cả hai đều biết rõ điều đó.
Cô ta cố gắng thoát thân lần cuối nhưng vô ích.
“Thôi nào.” Giọng anh trêu tức một cách tàn nhẫn. “Thử lại lần nữa đi. Cô nghĩ tôi sẽ đột nhiên thay đổi ý định và để cô chạy thoát sao? Nhìn tôi đi, cưng ơi. Vincent chẳng giúp được gì cho cô ngoài việc nói cho cô biết tên tôi đâu. Tôi giống quỷ dữ và chính là quỷ dữ. Bản chất thế nào thì bề ngoài cũng thế đó.”
“Tôi có tiền.” Cô ta thở hổn hển.
“Ai quan tâm chứ.”
“Một trăm nghìn đô la.”
“À, cưng này. Như thế là quá rẻ mạt với tôi.”
“Thật nực cười, trông anh đâu có cái vẻ sang giàu nhỉ.” Anh rướn mày ngạc nhiên trước lời châm chọc chua cay bất ngờ của cô ta. Cô ta không còn chống cự nữa, chứng tỏ người phụ nữ này không hoàn toàn ngu ngơ. Anh bỏ thì giờ để dò xét tổng thể kĩ lưỡng hơn vị khách không mời mà tới. Từ khoảng cách này, anh có thể nhận ra cô ta không thực sự hoàn hảo. Làn da phía đằng sau cổ trắng hơn phần da phía trước, như thể nó vừa được mái tóc dài chở che, rồi đột nhiên bị chiếc kéo tuyệt vọng cắt phăng đi, để lộ ra phía sau đầy tàn nhẫn. Phần chân tóc đen sì xuất hiện những sợi tóc vàng. Móng tay có vẻ như đã dành nhiều thời gian bên chiếc bào pho mát. Cô ta có vẻ ngoài tiều tụy héo hon vì thiếu máu. Vì Chúa, cô chắc chắn có một hình xăm bia bắn to đùng trên lưng. “Này cô, cô vẫn chưa đủ âu lo hay sao mà còn đi gây chiến với tôi?”
“Chắc chắn rồi.” Cô ta liều lĩnh đáp trả. “Nhung tôi phải bắt đầu từ nơi nào đó.”
Đột nhiên cô vung chân tung một cú đá. Anh né sang một bên và chống đỡ kịp thời. Vừa lúc anh sắp sửa ngoác miệng cười tự mãn thì cô ta đã cắm phập hàm răng mình vào cánh tay của anh.
Mặt anh tái đi. Cổ anh gân lên và cơn đau nã thẳng vào anh, bất ngờ và đau buốt, khi những chiếc răng trắng nhỏ lần vào đúng dây thần kinh.
Cơn thịnh nộ nguyên thủy và xấu xí dâng lên trong anh. Sự cần thiết để được phản công. Sự cần thiết để được trả lại sự đau đớn vừa mới giáng lên anh. Anh cảm nhận tiếng trống dồn dập hoang dại đang chảy trong mạch máu, và đột nhiên anh nghe thấy tiếng đôi bốt cao cổ của cha anh đang đập côm cốp xuống nền gỗ cứng. Bàn tay anh siết chặt cổ tay trái của cô hơn. Cô ta rên rỉ.
“Mẹ kiếp!” Anh kéo tay ra khỏi miệng cô ta. Máu đọng lại trên lớp lông đen sậm và khiến cho anh còn điên tiết hơn. Anh cố đứng dậy, hai bàn tay siết chặt, mắt tối sầm, rõ ràng đang kìm hãm cơn giận dữ. Kiềm chế, kiềm chế. Anh ghét những gã đàn ông dám xuống tay với phụ nữ. Kiềm chế, kiềm chế.
Khẩu súng bán tự động Walther P22 màu bạc, lúc trước còn nằm trong túi của cô ta, nay đã nằm dưới đất, cách chân anh gần hai mét. Anh đá nó xuống bể bơi. Thế vẫn chưa đủ. Một khi anh đã nổi cơn điên và muốn “ăn miếng trả miếng” thì chẳng có gì là đủ.
“Cô đang nghĩ cái quái gì vậy? ” Anh gầm lên. Cô ta vẫn đang nằm trên nền đất, chân váy bị kéo cao lên quanh đùi, để lộ ra đôi chân mảnh mai thực sự rất cần có bóng dáng cơ bắp. Cô ta nắm lấy cổ tay và đặt lên ngực. Hiển nhiên đau lắm, nhưng cô ta không kêu lấy một tiếng.
Anh lại chửi thề và định lao xuống bể bơi. Anh cần rượu. “Cô không nên gây sự với lính thủy đánh bộ.” Anh càu nhàu dữ dội. “Có đứa đần độn nào lại muốn gây sự với một tay lính chuyên nghiệp dày dạn kinh nghiệm chứ?”
“Anh sắp tấn công tôi.” Cuối cùng, cô ta cũng thì thào nói. Cô ta nắm chặt cổ tay lại gần hơn, bàn tay anh để lại vết hằn đỏ rực lên làn da nhợt nhạt của cô. Sao anh thấy nhục nhã quá. “Tôi sẽ lôi cô ra khỏi đây!”
Cô ta không đáp lại.
Anh chỉ ngón tay về phía cô gái. “Đây là nhà tôi! Cô không nên đột nhập vào nhà người khác mà không được mời, không được mong muốn và… và…”
“Không được huấn luyện?” Cô ta nói thêm.
“Chính xác!”
Cô ta không cãi lại. Cô ta chỉ cố đứng vững trên đôi chân. Lúc đứng dậy, cô ta hơi lảo đảo. Có vẻ như cô ta không nhận ra điều đó, cô ta vuốt chiếc váy phẳng phiu và khép chặt chiếc áo khoác như thể bằng một cách nào đó hành động này sẽ bảo vệ được bản thân.
“Tôi biết anh không muốn tôi ở đây. Vincent đã cố gọi cho anh, nhưng anh chẳng bao giờ có nhà. Còn tôi… tôi không thể nào chờ đợi được nữa, thế nên tôi đã lấy địa chỉ của anh và tôi chỉ… thì, tôi chỉ đến đây.”
“Huấn luyện tôi đi.” Đột nhiên, cô ta nói. “Chỉ cần huấn luyện tôi thôi, đó là tất cả những gì tôi muốn. Xin một tháng của anh thôi. Tôi
sẽ đưa anh một trăm nghìn đô la và anh sẽ dạy tôi tất cả mọi thứ anh biết.”
“Cái quái gì cơ?”
“Một tháng thôi, tôi chỉ cầu xin có thế. Anh sẽ không bao giờ phải rời căn biệt thự này, anh sẽ không phải làm bất cứ điều gì khác ngoài dạo chơi xung quanh và nói cho tôi biết mình phải làm gì. Trông tôi mạnh mẽ hơn vẻ ngoài đó. Tôi học nhanh. Tôi không than vãn rên rỉ.”
“Cô là ai?”
Cô ta ngập ngừng. “Te… ừm… Angela.”
“Te-um-Angela? Ừ hứ. Vậy thì, vì mục đích của cuộc nói chuyện thôi, tại sao một người nội trợ hạnh phúc như cô lại cần huấn luyện, Te-um-Angela?”
“Tôi… tôi bị đeo bám.”
“Tất nhiên. Ai?”
“Ai là sao?”
“Ai đang đeo bám cô?”
Cô ta rơi vào im lặng. Anh lắc đầu. “Cô không cần một tay lính đánh thuê đâu, cô cần bác sĩ tâm thần ấy.”
“Một người đàn ông…” Cô ta thì thầm.
“Không đùa.”
“Của tôi.” Cô ta có vẻ lưỡng lự không biết mình nên thú nhận bao nhiêu phần trăm câu chuyện. “Chồng của tôi. Chồng cũ. Anh hiểu chuyện thế nào rồi đó.”
Cô ta nói lướt nhanh. Cô ta liếc nhìn anh để xem anh có tin cô ta hay không.
Anh lại lắc đầu nguầy nguậy, lần này đầy căm phẫn. “Cô băng qua ngần ấy quãng đường đến đây chỉ vì một vụ nhiễu loạn gia đình ư? Thưa cô, cô lùng sục một người đàn ông như tôi và điều ít ỏi nhất cô có thể làm là mang một nửa đám Medellín cartel* sau chỗ trốn của mình đấy. Ôi Chúa ơi. Kiếm lấy cái lệnh cấm chỉ của tòa rồi để tôi yên thân.”
Cô ta nở nụ cười thiểu não. “Anh thực sự nghĩ rằng mẩu giấy đó có thể khiến con quái vật đó khiếp sợ sao?”
“Thế thì đáng thuê một người chuyên nghiệp rồi. Thế cô đã làm gì nào, lao vào Vince ở một bữa tiệc giới thiệu sản phẩm sao? Cô quan sát những anh lính hải quân vẫn còn hừng hực khí thế thấy ông ta đang tìm kiếm những mối quan hệ với đám người đáng ghét đã về hưu…”
“Chúng ta đã được giới thiệu, qua một người bạn trung gian, người hiểu rõ rằng tôi đang cần sự giúp đỡ thực sự.” “Giúp đỡ thực sự?” Anh khịt mũi. “Cô đã xem nhiều phim tối Chủ nhật quá rồi đó. Tìm đến cảnh sát Nogales* đi. Tôi sẽ chỉ đường đi cho cô.”
“Cảnh sát sẽ là người thua hắn ta.” Cô ta khẽ nói. “Ngay lúc này, tôi đang tìm đến anh.”
Anh lắc đầu. Ánh mắt quắc lại cau có nhất có thể. Cô ta vẫn còn đứng nguyên đó, chẳng hiểu sao lại toát ra vẻ tôn quý trong bộ âu phục trắng xấu xí, chẳng hiểu sao lại toát ra vẻ như vua như chúa
với cổ tay tím bầm giập đang đặt trên bụng. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, J.T không thể nghĩ ra điều gì để nói.
Màn đêm xuống vội vã, chỉ còn tiếng mặt nước vỗ vào thành bể bơi và những tiếng dế mèn kêu rích rích đơn độc. Phía sau cô, những tán cây mesquite đung đưa theo làn gió đang trêu ghẹo, những hòn đá trắng dưới chân cô lấp lánh ánh đèn. Trời ban đêm ấm áp và có màu tim tím, dễ đánh lừa người ta trong sự nhẹ nhàng của nó.
“J.T.” Cô ta thầm thì. “Anh đã cứu những đứa trẻ mồ côi ở Guatemala phải không?”
“Gì cơ?” Tim anh bắt đầu đập thình thịch.
“Vincent đã kể cho tôi nghe chuyện những đứa trẻ mồ côi. Anh đã làm thế phải không? Anh thực sự đã làm thế đúng không?” “Không, không. Cô không thể đổ lỗi chuyện đó cho tôi.” Nhưng sự phủ nhận ấy đã được nói ra quá rõ ràng, và cả hai người đều biết điều đó.
“Một tháng.” Cô ta nhắc lại. “Một tháng huấn luyện cường độ cao. Tự vệ, bắn súng, kỹ năng lẩn trốn, đeo bám…”
“Kiểm soát dân số, thu thập tình báo. Mai phục và phản mai phục. Bắn tỉa và chống trả bắn tỉa. Kỹ năng tránh né và lẩn trốn, xâm nhập và thâm nhập. Tất cả những gì tinh túy nhất của Đặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ…”
“Phải.”
“Không! Cô không hiểu. Cô nghĩ rằng những cỗ máy giết người được tạo ra chỉ qua một đêm hay sao? Cô nghĩ rằng Rambo* tự
nhiên từ dưới đất chui lên sao? Mất hàng năm trời để học tất cả những thứ ấy. Mất hơn mấy thập kỉ mới học được cách không quan tâm, và xác định được một con người ở trong tầm ống ngắm và kéo cò súng như thể mục tiêu đó thực sự chẳng khác gì quả dưa hấu cô đã từng luyện tập.”
Sắc mặt cô ta tái nhợt đi. Trông cô ta có vẻ ốm yếu. “Đúng rồi đó, cô sẽ chỉ là một cỗ máy giết người tàn nhẫn và gầy ốm thôi. Đi ra khỏi đây và đừng có quay lại nữa.”
“Tôi… tôi… tôi sẽ trao mình cho anh.”
“Gì cơ?”
“Tôi sẽ trao thân xác mình cho anh, trong một tháng.” “Chiquita*
, tốt nhất cô cứ nên bấu víu lấy ý tưởng dùng tiền của mình đi.”
Cô ta mỉm cười, gương mặt lộ ra vẻ hối lỗi, nhẫn nhục, biết điều. Trước khi anh có thể ngăn cô ta lại, cô đã quỳ gối xuống. “Tôi sẽ cầu xin.” Cô ta nói, rồi giơ hai tay lên van nài.
“Ôi, vì Chúa!” Anh đi ngang qua hiên nhà rồi nắm lấy vai cô ta, lắc cô ta như thể việc đó sẽ thông được chút khôn ngoan vào trong đầu cô.
“Xin anh.” Cô ta chỉ nói có vậy. “Làm ơn đi.”
Anh há miệng kinh ngạc. Anh cố la hét rồi cố gầm lên. Quỷ thần ơi, đúng lúc này anh đã quyết định sẽ nghiến chặt răng. Nhưng không lời nào được thốt ra. Qua rất nhiều năm sống cuộc đời bẩn thỉu, thế mà anh vẫn có thể bị ngăn lại bởi một điều giản đơn như từ Làm ơn.
“Chết tiệt, hôm nay mới là ngày mười ba tháng Chín và tôi vẫn còn tỉnh táo. Ai đó mang cho tôi một li đi!”
Cô ta tiến lên một bước để tuân theo mệnh lệnh, nhưng sau khi cơ thể đung đưa như trải tấm ga giường, hai đầu gối cô ta bắt đầu oằn xuống.
“Thế đấy. Lên giường.” Anh ra lệnh, cực kỳ tức giận. “Chọn lấy một phòng, bất cứ phòng nào có giường ngủ, và nằm xuống đi. Tôi vẫn còn vài tiếng để nốc rượu tequila, và tôi không muốn nhìn thấy mặt cô nữa cho đến khi sang ngày mười bốn, trừ phi cô mang cho tôi nguyên một chai rượu, chanh đặt trên rốn và muôi đặt trên ngực.” Anh chỉ thẳng tay về phía cửa kính trượt. “Cút khỏi tầm mắt tôi!”
Cô ta tuân lệnh bước đi nhưng loạng choạng, xiêu vẹo. Anh không còn lựa chọn nào khác. Với một tiếng lầm bầm nguyền rủa, anh bế cô lên trong vòng tay. Người cô ta cứng đơ lại, hai bàn tay cô ta nắm chặt lại như thể muốn chiến đấu với anh, nhưng tình trạng kiệt quệ của cô ta đã đánh bại cô ta trước khi anh có thể. Cô ta vùi mình vào hai cánh tay của anh như một quả bóng vừa mới bị xẹp. Anh có thể cảm nhận rất rõ khung xương sườn của cô ta, nhỏ tí xíu như của một chú chim. Anh có thể ngửi thấy mùi trên người cô ta, mùi của sự kiệt quệ, sợ hãi và cả mùi hương bí ẩn ấm áp. Rồi anh nhận ra mùi hương đó - mùi phấn rôm trẻ con. Cô ta có mùi phấn rôm của trẻ con.
Suýt nữa anh đã đánh rơi cô ta.
Anh không muốn biết. Anh từ chối muốn biết.
Căn phòng ngủ gần nhất rất gọn gàng và sạch sẽ nhờ có đôi tay của Freddie. J.T. ném cô ta phịch xuống cái giường đôi đầy thô lỗ. “Có đồ đạc gì không?”
“Một cái túi.”
“Ở đâu?”
“Phòng khách.”
“Freddie sẽ mang vào. Xe trước cửa nhà?”
“Bắt taxi.”
“Dùng tên giả, Angela?”
“Vâng. Và tôi trả tiền mặt.”
Anh lầm bầm. “Không tệ.”
“Tôi đang học hỏi.” Cô ta thành thực với anh. “Tôi đang học.” “Ừm, học cả cách ngủ đi. Kỹ năng này cũng tốt như bất cứ kỹ năng nào khác.”
Cô ta gật đầu, nhưng đôi mắt nâu không khép lại. “Anh nghiện rượu à?”
“Thỉnh thoảng.”
“Thế ngoài những lúc đó ra thì anh thế nào?”
“Một người làm lễ rửa tội. Ngủ đi.”
Cô ta lại nói thì thầm: “Tôi biết tại sao anh lại cứu những đứa trẻ đó.”
“Vâng, phải rồi. Chúc ngủ ngon.”
“Bởi vì anh nhớ gia đình mình.”
Anh bỗng thấy choáng váng đến độ phải dừng lại ở giữa căn phòng và rùng mình. Rachel và Teddy cùng những ngày vàng son của hàng rào chắn màu trắng và chiếc xe sedan bốn cửa.
Tất nhiên, cô ta nói sai rồi, gia đình anh xuất hiện sau những đứa trẻ mồ côi. Thế nhưng những lời cô ta nói cũng gần đúng. “Cô không biết mình đang nói gì đâu.”
“Tôi phải làm.” Cô ta thở dài và hai hàng mi nhắm lại. “Con gái tôi và tôi cần anh. Anh là hy vọng duy nhất còn sót lại của chúng tôi.”
“Chết tiệt.” J.T. lại chửi, rồi lao thẳng tới làm một cốc margarita.
Nửa đêm. Trong thị trấn Nogales, vài quán rượu vẫn đang mở cửa. Chẳng có gì bất thường khi thấy J.T. ra ngoài vào giờ này, anh mặc quần bò và áo sơ mi vải, tiền nhét đầy túi và hai tay thèm cầm một chai bia ghê gớm. Anh loạng choạng về nhà lúc ba hay bốn giờ, cùng với hai lốc bia, mỗi lốc sáu lon dưới thắt lưng của anh và một người phụ nữ trong vòng tay. Đêm này qua đêm khác.
Đây là lần đầu tiên người đàn ông này có thể nhớ ra rằng có một người phụ nữ đang ngủ trong phòng dành cho khách với cái túi của cô ta. Lần đầu tiên ông biết có phụ nữ trong nhà nhưng không phải trên giường của J.T. Khác với thường lệ, lần này, J.T. chỉ nằm gục mặt trong phòng khách, có con cự đà bầu bạn cùng anh.
Ngôi nhà vẫn thế, yên ắng, gần như trì trệ. Thế nhưng, người đàn ông biết rằng mọi thứ đã thay đổi. Sau ba năm, các nguyên tắc đã bị phá vỡ. Những lời chỉ thị tại thời điểm này đã rõ ràng.
Ông rón rén đi dọc hành lang tối tăm. Mặt trăng tỏa ánh sáng bạc tràn ngập khắp phòng khách. Trong góc, một chiếc đèn sưởi nho nhỏ, tỏa ánh sáng vàng le lói đang chiếu lên con cự đà và đôi chân trần của J.T. Không có gì nhúc nhích.
Người đàn ông quay đi và di chuyển thận trọng trên hành lang dẫn vào phòng làm việc. Ông nhấc điện thoại lên, hàng năm trời luyện tập di chuyển không phát ra tiếng động. Ông bấm số theo trí nhớ, khum bàn tay lên miệng để chặn bớt tiếng nói.
“Có một phụ nữ.” Ông nói ngay khi phía đầu bên kia bắt máy. “Một phụ nữ?”
“Vincent bảo cô ta đến.”
“Chết tiệt.” Một khoảng im lặng dài. “Cô ta tên gì?”
“Angela, mỗi thế thôi. Không phải tên thật.”
“Hiển nhiên rồi. Đặc điểm nhận dạng?”
“Khoảng hai mấy tuổi, cao gần một mét sáu, nặng khoảng bốn lăm cân, mắt nâu, da trắng, màu tóc gốc là vàng.”
“Vũ khí?”
“Một khẩu bán tự động Walther P22”
“Hừ. Đồ chơi trẻ con. Thẻ căn cước?”
“Không có.”
“Cô ta chắc chắn phải có gì đó.”
“Không có gì cả.” Ông quả quyết. “Tôi đã kiểm tra túi xách của cô ta - chỉ có áo lót, một bình xịt tóc, lược, đế giày, mọi thứ. Rất nhiều tiền mặt nhưng không thấy thẻ căn cước. Cô ta nói giọng
vùng khác. Tôi không xác định được. Có thể là vùng phía bắc. Boston chẳng hạn.”
“Chuyên nghiệp không?”
“Tôi không nghĩ thế. Cô ta trông có vẻ không biết gì nhiều lắm.” “Dựa vào đám người mà J.T. qua lại, cô ta chắc chắn là một tên giết người bằng rìu đã chặt chết chồng con.”
“Tôi nên làm gì?”
Một tiếng thở dài rối bời. “Anh ấy quay lại làm việc rồi sao?” “Bà ấy ở đây, phải không?”
“Thằng cha chết giẫm. Không có gì đâu, tôi sẽ lo việc này. Ông cứ giữ liên lạc đấy nhé.”
“Được rồi.”
“Gọi điện thế này là đúng rồi đó.”
“Cảm ơn cô. Thế… thế ông ấy sao rồi?”
Một sự im lặng kéo dài. “Ông ấy sắp chết. Ông ấy đang chịu rất nhiều đau đớn. Ông ấy muốn biết tại sao con trai mình không ở đây.”
“Ông ấy có hỏi tôi không?”
“Không, nhưng đừng lo lắng. Ông ấy cũng không hỏi cả tôi. Tất cả những gì ông ấy quan tâm là J.T. cơ.”
“Tất nhiên rồi.” Giọng ông đầy hối lỗi. Ông đã dành sự trung thành của mình cho người đàn ông cứng rắn suốt một thời gian dài. Lòng trung thành của ông vẫn chưa bao giờ bị dao động; qua nhiều
năm trời, ông đã quen với vị trí của mình. “Nếu có gì thay đổi tôi sẽ gọi cho cô nhé.”
“Nhớ gọi đấy.”
“Ngủ ngon.”
“Ừ. Ngủ ngon.”
Ông đặt ống nghe điện thoại xuống cẩn thận. Nhưng có vấn đề gì đâu. Bỗng chiếc đèn phía trên đầu vụt sáng.
Ông quay người lại chậm rãi. J.T. đang đứng tựa người vào khung cửa. Hai tay khoanh lại trước ngực trần. Đôi mắt anh đỏ ngầu những tia máu, nhưng cũng rất chăm chú.
“Freddie, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta cần nói chuyện.”
BA
Tess William thức dậy theo đúng cái cách mà cô đã học được - chậm rãi, từng chút một, làm như vậy cô có thể dần dần thức tỉnh mà không để lộ. Đầu tiên, đôi tai của cô thức dậy trước, chúng lắng nghe, tìm kiếm âm thanh của một người khác đang thở. Tiếp đến, những tế bào trên làn da của cô dần tỉnh giấc, tìm kiếm một thân hình ấm nóng của người chồng đang áp sát vào lưng cô. Cuối cùng, khi đôi tai nhận thấy không có tiếng động nào và làn da nhận ra chỉ có một mình cô đang nằm trên giường, đôi mắt của cô bật mở, tự động nhìn thẳng về phía tủ đựng quần áo và kiểm tra chiếc ghế gỗ nhỏ mà cô đã chặn lại bên dưới tay nắm cửa lúc nửa đêm.
Chiếc ghế vẫn còn ở nguyên tại đó. Cô thở phào, hơi thở mà cô đã cố nín chặt từ bấy đến giờ và rồi cô ngồi dậy. Căn phòng trống rỗng đã bừng sáng dưới ánh mặt trời giữa ban ngày, bốn bức tường xây bằng gạch đất nung đỏ tươi dưới màu nắng vàng óng. Không khí nóng nực. Chiếc áo phông dính chặt vào lưng cô, nhưng có lẽ đó là mồ hôi đến từ những cơn ác mộng vẫn mãi dai dẳng bám theo cô, chưa từng một phút rời đi. Ngày trước, cô đã từng rất yêu thích những buổi sáng. Nhưng giờ đây, chúng trở nên thật khó khăn với cô, nhưng vẫn không khó khăn nhiều như những buổi đêm, khi cô phải nằm im một chỗ và cố gắng bắt hai con mắt của mình dừng
việc cảnh giác liếc tìm những bóng đen lướt qua thay vì nhắm lại và ngủ ngon lành.
Mày làm được rồi. Cô tự nói với bản thân. Mày thực sự đã làm được rồi.
Cô đã bỏ chạy trong suốt hai năm vừa qua, nắm chặt lấy tay của cô con gái bốn tuổi và cố gắng thuyết phục Samantha rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Cô lấy đủ thứ tên giả, nhiều như thể chúng là những món nữ trang mà người ta khoác lên người và đổi chỗ ở liên tục, số địa chỉ mới nhiều như số đồ vứt ngoài bãi rác. Nhưng cô vẫn chưa bao giờ có thể thực sự trốn thoát. Giữa đêm muộn, cô sẽ ngồi bên mép giường của con gái, vuốt ve mái tóc vàng óng ả của Samantha và nhìn chăm chăm vào tủ quần áo bằng ánh mắt như thể số phận của cô đã được an bài xong xuôi.
Cô biết, bên trong tủ quần áo kia ẩn giấu những loại quái vật gì. Cô đã nhìn thấy những bức ảnh chụp hiện trường các vụ án mà chúng có thể gây nên. Ba tuần trước, con quái vật của riêng cô đã thoát ra khỏi một nhà tù được canh phòng nghiêm ngặt ở mức tối đa, đánh chết hai người quản ngục chỉ trong vòng chưa đầy hai phút.
Tess gọi điện cho Trung úy Lance Difford. Lance gọi điện cho Vince*. Xe nổ máy và hành trình bắt đầu. Tess Williams giấu Samantha ở một nơi an toàn, rồi cô bắt đầu bỏ đi, đi xa hết mức có thể. Rồi lại tiếp tục đi xa hơn thế nữa.
Đầu tiên, cô bắt tàu hỏa, chuyến tàu đưa cô đi ngang qua những cánh đồng cỏ xanh rì lượn sóng và những khu công nghiệp tái chế sắt vụn ở New England. Rồi cô lên máy bay, bay qua tất cả mọi thứ,
bay qua rất nhiều cây số như thể nó có thể giúp cô quên đi tất cả, cô bỏ mùa thu ở lại sau lưng và quay ngược trở lại với mùa hè. Khi máy bay hạ cánh xuống Phoenix, cảnh tượng giống như thể cô vừa mới đặt chân xuống một hố va chạm trên mặt trăng: Tất cả mọi thứ đều đỏ au, bụi bặm, vây xung quanh là những dãy núi xanh ngắt ở phía xa xa. Cô chưa bao giờ nhìn thấy cây cọ; ở đây, chúng được trồng dọc theo những con đường. Cô chưa bao giờ nhìn thấy cây xương rồng; ở đây, chúng bao phủ toàn bộ đất đai như thể một đoàn quân xâm lược.
Chuyến xe buýt đưa cô ngày một tiến xa hơn vào vùng đất với địa hình không khác gì ở một hành tinh khác. Những ngọn đồi đỏ đã biến mất, mặt trời dường như trở nên giận dữ hơn. Các biển báo hiệu thành phố đã biến mất, thay vào đó là những biển hiệu viết:
SẮP TỚI ĐỊA PHẬN NHÀ TÙ BANG.
KHÔNG DỪNG LẠI CHO NGƯỜI ĐI NHỜ.
Khung cảnh chỉ có màu nâu và đỏ dần dần biến mất cho tới khi chiếc xe buýt lăn bánh đi vào vùng đồng cỏ với màu xanh đã phai bạc và một phần bị nắng chiếu khô, chuyển dần thành màu hổ phách. Những dãy núi không còn theo sát ở đằng sau lưng như những người ông hiền hậu đang dõi theo lũ cháu nữa. Ở vùng phía nam Arizona kì lạ, khắc nghiệt này, thậm chí đến những ngọn đồi cũng bị lũ xe ben và xe ủi đất giày xéo, lột sống một cách có phương pháp.
Nó giống như kiểu một vùng đất mà khi quay đầu lại, người ta thực sự nghĩ rằng mình sẽ được tận mắt chứng kiến cuộc đấu súng OK Corral*. Đó là một vùng đất mà ở đó, thằn lằn là những con vật
xinh đẹp và chó sói đồng cỏ là những con thú đáng yêu. Đó là vùng đất mà ở đó, những cây hồng trồng trong nhà kính sẽ chết còn những cây xương rồng xù xì sẽ sống tốt.
Thật là hoàn hảo.
Tess bước xuống giường. Cô di chuyển chậm rãi. Chân phải của cô cứng đờ và đau nhức, vết sẹo mới khép miệng đang giật giật đau khủng khiếp. Cổ tay trái của cô co giật, viền xung quanh là một vòng tròn toàn những vết thâm tím. Cô biết chắc cổ tay mình không có vấn đề gì nghiêm trọng hết - cha của cô đã dạy cho cô rất nhiều điều về việc gãy xương. Với những gì đã xảy ra với cuộc đời cô trong những ngày này, cổ tay bầm tím chẳng phải là điều gì khiến cô bận tâm quá nhiều.
Sự chú ý của cô chuyển sang phía cái giường.
Cô dọn dẹp nó mà không suy nghĩ gì nhiều, cô kéo căng các góc giường và vuốt phẳng ga trải giường bằng một sự cẩn thận, chính xác của một quân nhân.
Anh muốn đồng xu tung xuống phải nẩy được lên đấy nhé*, Theresa. Tuổi trẻ không phải là cái cớ để sống luộm thuộm đâu. Luôn luôn, em phải tìm cách để tiến bộ.
Cô nhận ra mình đang gập ngược một mép của tấm ga trải giường phủ lên tấm chăn mỏng, những ngón tay của cô nắm chặt. Chậm rãi, cẩn thận, cô lột tấm chăn ra và ném nó xuống sàn nhà.
“Sáng hôm nay, mình sẽ không dọn chiếc giường này nữa.” Cô tuyên bố với căn phòng trống không. “Mình quyết định không dọn giường nữa.”
Cô cũng sẽ không lau chùi vệ sinh gì nữa hết, không rửa bát đĩa và cũng không kì cọ sàn nhà nữa. Cô còn nhớ quá rõ ràng cái mùi amoniac* khi cô lau chùi những ô cửa sổ, những cái tay nắm cửa và lan can cầu thang. Cô đã từng nghĩ cái thứ mùi sộc lên tận óc đó là một thứ mùi thân thiện, một mùi thơm thể hiện sự sạch sẽ tuyệt đối.
Đây là căn nhà của mình, và sẽ không chỉ có vẻ ngoài của nó trông sạch sẽ mà đến mùi hương cũng phải sạch sẽ nữa. Ngày ấy, khi cô chủ động dùng amoniac để lau chùi những khung cửa sổ, Jim thậm chí đã khen ngợi cô. Cô đã mỉm cười rạng rỡ với hắn, cưới nhau một năm, đã mang thai tám tháng và háo hức như một con chó cảnh chờ đón những lời ngợi khen ít ỏi từ hắn. Sau này, Trung úy Difford đã giải thích cho cô amoniac là một trong số ít những chất có thể xóa sạch dấu vân tay.
Giờ đây, mỗi khi ngửi thấy mùi amoniac, cô không thể nào không cảm thấy buồn nôn.
Ánh mắt của cô quay trở lại phía chiếc giường, phía tấm ga trải giường nhàu nhĩ, tấm chăn phủ bị ném và nằm một đống trên sàn nhà. Trong giây lát, sự thôi thúc, sự cần thiết rằng cô phải dọn cái giường đó - phải làm cho đúng bởi vì cô luôn luôn phải tìm cách để tiến bộ, luôn luôn nên tìm cách để tiến bộ - gần như bao trùm lấy tâm trí cô. Mồ hôi phía trên môi cô đọng lại thành giọt. Cô nắm chặt cả hai bàn tay để cản không cho chúng nhặt tấm chăn lên.
“Đừng đầu hàng. Là hắn đang làm đầu óc mày rối loạn đấy, Tess ạ, nhưng chuyện đó đã kết thúc rồi. Mày thuộc về chính bản thân
mày và mày là một người cứng rắn. Mày đã chiến thắng, chết tiệt. Mày đã chiến thắng.”
Những lời nói đó chẳng làm cô thấy nhẹ nhõm hơn. Cô đi sang phía chiếc tủ đầu giường để lấy khẩu súng ra khỏi cái túi của cô. Nhưng chỉ khi chạm tay vào cái túi, cô mới nhớ ra rằng khẩu súng 5,6 li của cô đã rơi ra ở ngoài hiên.
Lúc này, J. T. Dillon đã có được nó.
Người cô đông cứng. Cô bắt buộc phải có khẩu súng đó trong tay. Cô ăn cùng với nó, ngủ cùng với nó, bước đi với khẩu súng ở bên. Cô không thể nào không có vũ khí trong tay. Không có khả năng chống cự, mỏng manh, yếu đuối.
Ôi Chúa ơi. Hơi thở của cô trở nên gấp gáp, bụng cô cảm thấy nặng trịch và đầu của cô bắt đầu quay quay. Cô bước đi trong nỗi lo lắng, cảm nhận được người mình đang run rẩy và biết rõ tâm trạng ngay lúc này của cô vừa giống như bị chôn chân tại chỗ vừa giống như bị ném thẳng xuống vực sâu.
Hít thở đi Tess, hít thở đi. Nhưng cái không khí của vùng sa mạc đầy thân mến đó cứ như đang đùa cợt với hai lá phổi của cô. Cô khuỵu xuống, cúi gập người và cố gắng hít một hơi thật mạnh mẽ, rồi nhắm nghiền hai con mắt.
“Anh đưa em về nhà được chứ?”
Cô cực kỳ bất ngờ. “Anh nói em ấy ạ?” Cô ôm đống sách vở ép sát vào chiếc áo thun đồng phục của trường Trung học Mt. Greylock. Cô không thể tin nổi anh chàng cảnh sát đang nói chuyện với mình.
Cô không phải là kiểu con gái mà những anh chàng trẻ tuổi với vẻ ngoài đẹp đẽ sẽ tìm tới bắt chuyện.
“Không.” Anh nhẹ nhàng đùa cô. “Anh đang nói chuyện với đám cỏ đấy chứ.” Anh tiến ra khỏi đằng sau cái cây, nụ cười mỉm tươi tắn để lộ ra hai má lúm đồng tiền vô cùng duyên dáng. Tất cả các cô gái trong lớp của cô đều bàn tán về đôi má lúm ấy, mơ về đôi má lúm ấy. “Em là Theresa Matthews, phải không?”
Cô gật đầu với cái vẻ thật ngốc nghếch. Cô phải đi thôi. Cô biết là cô phải đi rồi. Có chạy về cửa hàng lúc này cũng đã là muộn, và cha của cô chẳng thể nào chịu được khi người khác chậm trễ.
Nhưng cô vẫn đứng nguyên tại đó, nhìn chăm chú vào khuôn mặt đẹp đẽ của người đàn ông trẻ tuổi. Anh ta nhìn có vẻ thật mạnh mẽ. Một người đàn ông đại diện cho pháp luật. Một người đàn ông của sự chính trực chăng? Trong giây lát, cô nhận ra mình đang thầm nghĩ: Nếu em kể cho anh mọi chuyện, liệu anh có cứu giúp không? Liệu có ai đó sẽ cứu lấy em không?
“Ừm, Theresa Matthews, anh là sĩ quan Beckett. Jim Beckett.” “Em biết. “ Ánh mắt của cô hướng xuống phía đám cỏ. “Tất cả mọi người đều biết anh là ai. “
“Anh đưa em về nhà được chứ, Theresa Matthews? Em sẽ cho phép anh đón nhận đặc ân đó chứ?”
Cô vẫn tiếp tục ngập ngừng, quá choáng ngợp để có thể cất nên lời. Cha của cô sẽ giết chết cô mất. Chỉ có những người đàn bà trẻ lăng loàn, chỉ có những người phụ nữ xấu xa mới dụ dỗ đàn ông
đưa họ về nhà. Nhưng cô lại không muốn xua đuổi Jim Beckett đi chỗ khác. Cô không biết phải làm thế nào.
Anh tựa người ra phía trước và nháy mắt với cô. Đôi mắt màu xanh nước biển của anh mới trong trẻo, mới điềm tĩnh làm sao. Quá mức kiên định.
“Thôi nào, Theresa. Anh là cảnh sát đấy. Nếu em không thể tin tưởng anh, em còn tin được ai nữa chứ?”
#
“Mày thắng rồi.” Cô lẩm bẩm trong lúc hai gối khuỵu xuống. “Chết tiệt, mày đã thắng rồi!”
Nhưng cô muốn khóc. Cô đã chiến thắng, nhưng chiến thắng ấy vẫn thật là trống rỗng, cái giá phải trả quá đắt. Hắn đã làm với cô những điều mà đáng lẽ ra không bao giờ nên làm. Hắn đã lấy đi mất của cô những thứ mà một khi đã mất rồi, cô không đủ khả năng lấy lại nữa. Thậm chí ngay lúc này, hắn vẫn lởn vởn trong đầu cô.
Một ngày nào đó, sẽ sớm thôi, hắn sẽ giết chết cô. Hắn đã hứa là sẽ moi sống quả tim đang đập khỏi lồng ngực cô, và Jim luôn luôn làm điều mà hắn đã nói.
Cô cố ép mình phải ngẩng đầu dậy. Cô hít một hơi thật sâu. Cô ấn chặt hai nắm tay vào hai đùi, chặt đến nỗi chúng in hằn cả vết lên da đùi của cô. “Chiến đấu, Tess ạ. Đó là tất cả những gì mà mày còn lại.”
Cô rời khỏi chỗ cái tủ có ngăn kéo và di chuyển sang phía chiếc va li, chiếc va li đã được Freddie lịch sự mang vào trong phòng cho cô. Cô đã đi được tới nơi này, bước thứ nhất trong kế hoạch của cô.
Bước tiếp theo, cô phải tìm cách để J.T. đồng ý huấn luyện cho cô. Cô lờ mờ nhớ lại hình như cô đã nhắc tới con gái với anh ta. Đó thật là một sai lầm. Đừng bao giờ nói cho họ biết nhiều hơn mức cần thiết, đừng bao giờ nói ra sự thật nếu một lời nói dối có thể đủ lấp liếm cho qua.
Có lẽ J.T. cũng chẳng nhớ đến chuyện ấy. Anh ta trông chẳng có vẻ gì là tỉnh táo. Đáng lẽ ra Vincent nên cảnh báo trước với cô về việc anh ta đang say rượu.
Cô không biết quá nhiều điều về J.T. Vince kể rằng J.T. là kiểu người có thể làm bất cứ điều gì mà anh ta muốn nhưng anh ta có vẻ cũng chẳng muốn làm gì nhiều. Anh ta lớn lên trong một gia đình giàu có, nhiều mối quan hệ ở Virginia, học ở trường West Point, nhưng rồi sau đó bỏ học vì một lý do không ai biết và tham gia vào lực lượng thủy quân lục chiến. Rồi sau đó, anh ta rời khỏi lực lượng này và tự lăn lộn một mình. Rất nhanh chóng, anh ta gây được tiếng tăm là một kẻ không biết sợ bất cứ điều gì, thậm chí còn đứng sát ranh giới của một kẻ điên cuồng. Là một tay lính đánh thuê, anh ta dần tiến tới thực hiện những điều tưởng chừng như bất khả thi và bàng quan, chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì khác ngoài những việc đó. Anh ta ghét chính trị, yêu mến phụ nữ. Anh ta chỉ chăm chăm thực hiện cho xong những lời mà mình đã nói ra như một kẻ cuồng tín và không dây dưa một chút nào đến tất cả những điều khác.
Năm năm trước, anh ta đột ngột rời bỏ sự nghiệp làm lính đánh thuê mà không một lời giải thích. Rồi như một đứa con trai chỉ biết phá phách và ăn bám gia đình, anh ta quay trở lại Virginia, và tiếp
đến, anh ta làm một việc mà không ai có thể tưởng tượng được, ấy là kết hôn rồi nhận nuôi một đứa trẻ, sống cuộc đời yên ổn ở vùng ngoại ô như thể từ bấy đến nay, anh ta thực sự chỉ là một người kinh doanh giày dép bình thường. Sau đó, một thằng nhóc mười sáu tuổi, cùng với chiếc xe Camaro mới cứng và một tấm bằng lái còn mới hơn cả cái xe đã gây ra cái chết cho vợ và con trai J.T. trong một vụ đâm xe trực diện.
Và rồi J.T. biến mất tới vùng Arizona.
Cô đã không nghĩ anh ta đang uống rượu. Cô đã không ngờ anh ta vẫn còn khỏe khoắn đến vậy. Cô đã tưởng tượng ra trong đầu rằng anh ta già hơn, có thể ở chính giữa là một cái bụng mỡ ục ịch, một người đàn ông đã từng có thời hoàng kim nhưng giờ đây đang dần xuống cấp lắm rồi. Nhưng thay vào đó, cả người anh ta bốc mùi rượu tequila. Thân hình của anh ta vẫn còn săn chắc và rắn rỏi. Chuyển động của anh ta nhanh nhẹn và ghì chặt lấy cô mà chẳng tốn chút sức lực nào. Lông và tóc của anh ta màu đen, phủ kín cả đầu, hai cánh tay và trước ngực.
Jim không có một cọng lông nào, không trên tóc lẫn cả trên người. Người hắn phẳng lì như phiến đá cẩm thạch. Giống như một kình ngư, cô đã từng nghĩ như vậy, và mãi đến sau này cô mới hiểu được ý nghĩa sâu xa ẩn giấu đằng sau cái suy nghĩ ngây thơ của mình. Chạm vào người Jim lúc nào cũng cảm thấy mát lạnh và khô ráo, như thể cơ thể của hắn ta quá hoàn hảo để dành chỗ cho những thứ như mồ hôi. Lần đầu tiên cô nghe thấy tiếng hắn đi tiểu, chẳng hiểu vì sao cô lại có một cảm giác ngạc nhiên nhè nhẹ; ấn
tượng mà hắn tạo ra đó là một sinh vật vượt trên những chức năng sinh học thông thường.
Jim hoàn hảo như một con ma nơ canh, ước gì cô có thể giữ suy nghĩ đó lâu hơn.
Cô sẽ tiếp tục bám riết lấy J.T. Dillon. Anh ta đã từng cứu giúp những đứa trẻ mồ côi. Anh ta đã từng kết hôn và có một đứa con. Anh ta đã từng hủy diệt mọi thứ để kiếm tiền.
Anh ta sẽ làm như vậy, cho những mục đích của cô. Và lỡ như để giúp đỡ cô, J.T. Dillon phải trả một cái giá rất đắt thì sao nhỉ?
Cô đã biết sẵn câu trả lời; cô đã mất nhiều năm ròng để dần dần chấp nhận nếu như tình huống tồi tệ nhất ấy xảy ra. Ngày ấy, cô đã từng mơ về một hiệp sĩ trắng. Một người sẽ không bao giờ đánh đập cô. Một người sẽ ôm cô thật chặt và bảo với cô rằng cuối cùng cô đã được an toàn.
Còn bây giờ, cô vẫn nhớ cái cảm giác ngón tay của cô quấn chặt quanh cò súng. Cái cảm giác khi cô bóp cò, khi cò súng giật lên, tiếng khẩu súng gầm thét và tai của cô thì ù đi.
Mùi cay sè của khói thuốc súng và tiếng gào thét khản đặc của Jim. Tiếng rơi phịch khi cả thân hình của hắn đổ sập xuống. Mùi máu tươi chảy tràn trên tấm thảm trải sàn của cô.
Cô vẫn còn nhớ tất cả những thứ này.
Và cô biết cô có thể làm bất cứ điều gì.
BỐN
J.T. đã thức dậy từ lúc trời còn sớm tinh mơ. Anh không muốn như vậy. Có Chúa trời làm chứng, một gã đã giải nghệ lại đi thức giấc cùng mặt trời thì mới ngớ ngẩn làm sao, nhưng những tháng năm mà anh ở trong quân ngũ quá dài để có thể rũ sạch những thói quen đã ăn vào máu thịt. Sáu giờ đúng: Quân nhân thức giấc. Sáu giờ mười lăm phút: Quân nhân tập các bài thể dục nhẹ. Sáu giờ ba mươi phút: Lính thủy quân tập bơi năm mươi vòng, rồi sau đó đi tắm. Bảy giờ đúng: Gã đàn ông đã giải nghệ bật nắp một chai bia ở chính giữa phòng khách nhà gã và tự hỏi gã đang làm cái quái quỷ gì mà lại vẫn thức giấc vào lúc sáu giờ đúng.
Bây giờ đã là chín giờ hơn ngày thứ mười bốn của tháng Chín. Anh lại sống sót qua thêm một năm nữa, chuếnh choáng do dư âm của cuộc say xỉn, người háo nước, và da dẻ thì nhớp nháp phát kinh. Không uống tequila nữa. Anh chuyển sang uống bia.
Anh đang uống đến chai thứ ba thì Rosalita đến nơi, chuẩn bị cho màn làm sạch hậu bữa chè chén thường niên. Sinh ra trong một gia đình với mười một đứa con, Rosalita đã sử dụng bản năng sinh tồn của mình để trở thành một trong số những cô gái điếm có tiếng tăm nhất ở Nogales. J.T. đã gặp cô ngay tuần đầu tiên anh chuyển tới Nogales, chọn thuê cô như bình thường. Sau nhiều năm, mối
quan hệ của họ bằng một cách nào đó đã phát triển và trở thành một thứ gì đó mà đến chính họ cũng không dám đặt tên. Là một cô gái điếm, Rosalita hoàn toàn không có một chút phẩm hạnh hay liêm sỉ nào, nhưng nếu là một người kinh doanh thì cô lại có một đạo đức kinh doanh vững vàng như bàn thạch và một sự ngang tàng, mạnh mẽ như một con hổ. Cô là một trong số rất ít người mà J.T. kính trọng, và là một trong số còn ít hơn nữa mà anh tin tưởng. Có lẽ, hai người họ đã trở thành bạn của nhau.
Hai chân cô đứng giạng vắt ngang qua lòng của J.T., trên người mặc một chiếc váy ngắn mỏng dính màu đỏ và cái áo màu trắng mỏng để lộ bộ ngực đầy đặn. Một tay của J.T. ôm vòng lấy hông cô. Cô không để ý đến điều đó. Toàn bộ sự chú ý của cô đang tập trung vào khuôn mặt của anh.
Cô trải chiếc khăn mặt cũ màu xanh lá cây phủ lên tấm ngực trần của anh. Lúc này, cô đánh bông kem cạo râu trong một cái chậu nhỏ và trét một lớp dày lên mặt J.T. Rosalita tin rằng đàn ông nên cạo râu theo cách truyền thống - dùng dao cạo gập cùng thật nhiều ý đồ xấu xa.
Anh cực kỳ kính trọng khả năng kìm nén cơn giận siêu đẳng của cô.
Anh ngồi đó, ngắm nhìn thế giới chìm trong màu sắc ấm áp, mơ hồ mà anh đã bắt đầu biết đến từ mấy năm vừa qua, và kể cả như thế, kể cả như thế thì sau đó, anh vẫn biết khi cô ta bước vào trong căn phòng.
Cô ta đi chân trần và bước đi rất nhẹ trên sàn nhà gỗ cứng, nhưng mùi hương trên người cô ta vẫn báo trước là cô ta đang tới.
Từ lúc sáu tuổi, cha anh đã dạy cho anh cách phơi khô quần áo tự nhiên, giặt quần áo bằng xà phòng không mùi, và súc miệng bằng nước oxi già, có như thế lũ hươu mới không ngửi ra được mùi gì khi anh bò tới áp sát chúng từ phía sau. Ngày ấy, anh đón nhận những bài dạy đó với một sự nể phục đầy tôn kính. Người cha dẻo dai như sợi bện roi, dáng người thẳng đứng như cây thông nòng súng, và tinh thần bất khuất như một con rắn chuông, trong mắt anh là người có quyền lực vạn năng, là người đàn ông duy nhất mà anh biết có thể bắn gục một con hươu gạc sừng sáu nhánh chỉ bằng một phát bắn. Ngài đại tá tài năng như vậy đó.
Rosalita nhìn thấy bóng Angela lảng vảng phía ngoài cửa vào. Những ngón tay của cô ngay lập tức nắm chặt lấy cằm của anh. “Hijo de puta!*” Cô hét lớn.
J.T. chỉ nhún vai nhẹ với cô rồi nhấc chai bia Corona đưa lên cái miệng vẫn còn dính đầy bọt.
“Angela, đây là Rosalita. Rosalita, đây là Angela. Angela tạm thời đang là khách trong khu nghỉ dưỡng tuyệt diệu của chúng ta. Còn Rosalita… chúng ta nên gọi em là gì được nhỉ? Một nữ tiếp viên và nghệ sĩ giải trí quốc tế có được không nhỉ?” Anh liếc nhìn sang phía Angela. “Mỗi năm vào tháng Chín ngày mười bốn, Rosalita đều cạo rửa gọn gàng cho tôi. Cô có thể gọi đó là chương trình khách hàng thân thiết của cô ấy cũng được.”
Angela gật đầu, ánh mắt của cô chuyển từ anh sang phía Rosalita rồi quay lại anh với cảm giác bực bội không hề giấu giếm. Không khí căng thẳng bên trong căn phòng có thể cảm nhận thấy rõ
ràng. “Rất vui được gặp cô.” Cuối cùng, Angela lên tiếng, giọng của cô vẫn giữ nguyên sự lịch thiệp như nó vốn có.
Rosalita đơ người một lát, rồi bắt đầu mỉm cười. Rồi bắt đầu cười lớn. Cô nhắc lại câu nói đó với J.T. bằng tiếng Tây Ban Nha, rồi cười to hơn nữa. Rất vui được gặp cô không phải là một câu nói mà những người phụ nữ khác thường nói với các cô gái điếm. Chỉ có một cô gái ngoan ngoãn mới nói ra điều đó trong cảm giác bị ép buộc, và tới giai đoạn này của cuộc đời rồi, Rosalita biết rằng cô chẳng có gì phải sợ mấy cô nàng “ngoan ngoãn” đó cả.
Cô cầm con dao cạo lên, cạo sạch đằng sau gáy của anh, và kề con dao lên cổ họng anh. Cô nhấn bên lưỡi dao sắc ghì sát vào đường viền hàm dưới của anh, và bắt đầu cạo chầm chậm, đôi mắt màu tối của cô sáng rực.
Angela hít vào một hơi, hơi thở chứa đầy sự lo lắng. “Cô ấy chưa thể giết tôi được đâu.” J.T. chủ động bắt chuyện trước. “Tôi là một trong số rất ít đàn ông có thể trả tiền cho cô ấy đúng với giá trị mà cô ấy xứng đáng.”
Bốn đường cạo mạnh mẽ và thế là cổ của anh sạch bóc. Rosalita cạo sạch một bên nửa đầu rồi tập trung chú ý sang phía má. Cuối cùng, Angela cũng bước vào bên trong căn phòng; cô ta mặc một chiếc áo ba lỗ màu trắng đã cũ và một chiếc quần ka ki đã sờn màu, bộ quần áo đó có lẽ ngày trước đã từng rất vừa người với cô ta. Còn bây giờ, chúng như được treo lủng lẳng trên khung xương người của cô ta vậy. Nhìn ngoài sáng, mái tóc nhuộm ẩu, xơ xác của cô ta thậm chí trông còn kinh khủng hơn - như thể cô ta
đang đội một bộ tóc giả chất lượng kém vậy. Chẳng biết tại sao nhưng nó khiến anh cảm thấy ngứa mắt kinh khủng. “Cổ tay cô kìa.” Anh hét lên, làm cả Rosalita lẫn Angela giật mình. “Cổ tay tôi làm sao? À à, cái đó ấy hả. Không sao đâu. Chỉ hơi thâm tím một chút thôi.”
“Tôi có đá đấy. Chúng ta sẽ lấy đá chườm lên nhé.”
“Không, không cần thiết đâu. Nó thậm chí còn chẳng bị sưng nữa là.” Cô ta di chuyển dọc theo một bên mép tường của căn phòng, hai chân kiễng lên, lưng áp sát vào tường. Khi anh nhìn theo, vẫn đang cố gắng tìm kiếm một điểm gì đó có thể khiến anh cảm thấy bớt khó chịu thì cô ta đã nhìn và kiểm đếm cẩn thận xong xuôi tất cả những thứ có trong phòng. Chí ít, có ai đó đã nói một hai điều gì đó với cô ta.
Ánh mắt của cô ta trở nên chăm chú khi nhìn thấy con cự đà của anh, đôi lông mày của cô ta nhíu lại.
“Là thật đấy.” Anh nói.
“Sao cơ?”
“Con cự đà ấy. Đó là Glug. Nó còn sống.”
“Ồ.” Cô ta nhìn Glug trong vòng vài giây. Con vật đó không hề chuyển động.
“Freddie đâu rồi?” Cô ta hỏi.
“Tôi đã cho ông ấy nghỉ vài ngày.”
“Đã cho nghỉ vài ngày sao?”
“Chính thế.”
“Vậy là ở đây không có ai sao?”
“Có lẽ Rosalita không thích bị gọi là không có ai đâu.” “Nhưng cô ấy đâu có sống ở đây, phải vậy không?”
“Đúng.”
“Vậy là hôm nay chỉ còn anh ở đây thôi à?” Rõ ràng là cô ta đang lo lắng. Tư thế thoải mái của cô ta chuyển ngay sang tư thế sẵn sàng chuẩn bị. Hai chân mở rộng, hai vai thu ra đằng sau, hông hơi quay để giữ thăng bằng. Giống hệt như tối hôm qua, nó khiến cho não anh bắt đầu phải suy nghĩ.
Đột nhiên, anh chợt nhận ra nó.
“Cảnh sát.”
Cô ta đứng im lìm.
“Đúng rồi chứ. Hôm qua tôi đã để ý rồi - dáng đứng của cô giống hệt của một tay cớm. Chân mở rộng, ngực ưỡn ra lấy thăng bằng. Chân trái hơi lùi nhẹ ra sau tránh bao súng nằm trong tầm với của đối phương.”
Trông cô ta như thể bị dồn ép vào chân tường.
Anh cau mày, hơi nghiêng đầu thêm chút nữa để Rosalita có thể cạo hết gò má của anh. “Nhưng cô không phải cảnh sát. Cô thậm chí còn chẳng cầm nổi súng.”
“Tôi không phải cảnh sát.” Cô ta lẩm bẩm.
“Vậy thì hãy nói xem cô là ai thế hả Angela? Và còn con gái của cô nữa, cô bé sao rồi?”
“Con gái nào?” Giọng của cô ta trở nên thất thanh.
“Ôi thôi bỏ đi. Cô có mà nói dối được đấy.”
Cô ta gượng mỉm cười. “Vậy thì anh phải dạy tôi đấy.” “Idiotas*.” Rosalita chen ngang. Cô tóm lấy chiếc khăn mặt và chùi sạch những chỗ bọt cạo râu còn thừa trên mặt J.T., động tác mạnh mẽ hơn mức cần thiết. “Hombres y mujeres? Bah. Perritos y gatitas*.”
Vừa tiếp tục lắc đầu, cô vừa mở rộng lòng bàn tay đè lên ngực J.T. và cố gắng để đứng dậy. Anh với một tay tóm lấy cổ tay của Rosalita.
“Đợi đã.”
Anh xoay cái thân hình đẫy đà đang ngồi trên lòng, ép sát cặp mông phì nhiêu của cô tựa gần vào anh đầy thân mật. Angela đứng im, như thể đang sắp sửa có một kiểu tấn công mới.
“Nhìn cô ta đi.” Anh vừa nói vừa chỉ về phía Angela. “Nhìn cái mái tóc đó đi Rosalita. Chúng ta không thể để cô ta đi qua đi lại trong cái bộ dạng như vậy được.”
Rosalita liếc nhìn Angela từ đầu xuống chân bằng ánh mắt khinh khỉnh. Rõ ràng, cô chẳng thấy có chút ấn tượng nào với người phụ nữ trước mắt.
“Anh không thể chịu thêm được nữa đâu Rosalita ạ. Với cái bộ dạng đó, có lẽ cô ta nên đính thêm dòng chữ “kẻ đào tẩu” lên áo khoác cũng được. Chỉnh sửa cho cô ta giúp anh đi, được chứ? Chúng ta hãy coi đó như một việc thiện mà anh làm trong cả một thập kỷ đi.”
“Anh tốt bụng quá.” Angela lẩm bẩm.
J.T. tiếp tục nhìn chăm chú về phía Rosalita. “Tất nhiên là anh sẽ trả tiền.”
Trả tiền là một từ kỳ diệu. Rosalita lúc đầu đòi hai mươi đô nhưng rồi cuối cùng đồng ý nhận mười đô. J.T. lấy tiền ra đưa trong khi Angela vẫn đang tiếp tục cảnh giác cao độ, vừa đưa anh vừa bảo rằng chắc chắn một điều là Rosalita không thể nào làm cho Angela xấu hơn thêm được nữa. Một lát sau, Rosalita đưa Angela ngồi yên vị xuống ghế của J.T., chiếc khăn mặt màu xanh lá cây quấn quanh cổ cô ta. Trong lúc cô gội đầu cho Angela và bắt đầu những đường cắt điệu nghệ, thì J.T. tựa người ngồi xuống bên cạnh chiếc ghế sofa và mở thêm một chai bia mới, mặc cho cái cau mày đầy khó chịu của Angela. Anh nhìn thấy cổ tay của cô ta, lúc này đang đặt trên đùi. Nó thâm tím trông không ổn chút nào.
Và giờ thì mày còn đánh cả phụ nữ nữa sao hả J.T. Mày còn định tiếp tục bê tha đến mức nào nữa vậy hả?
Giữa sự im lặng đầy bối rối của căn phòng khách, anh chẳng thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi ấy. Anh chưa bao giờ tự coi mình là một người đàn ông tuyệt vời, thậm chí còn chẳng phải một người đàn ông tốt. Nhưng anh tự đặt riêng cho mình một vài nguyên tắc, và chúng mang đến cho anh cảm giác dễ chịu. Không bao giờ nói dối và không bao giờ giả bộ vờ vĩnh. Không bao giờ làm hại những người yếu đuối hơn mình - ở ngoài kia đã có quá thừa những thằng chó chết xứng đáng đón nhận phần đó. Không bao giờ, không bao giờ làm đau phụ nữ.
Nếu Rachel có thể nhìn thấy anh lúc này, cô chắc sẽ thấy xấu hổ lắm.
Anh đi sang phía cánh cửa trượt bằng kính và nhìn theo ánh nắng đang nhảy múa trên mặt hổ bơi gợn sóng.
“Terminné”* Rosalita tuyên bố.
J.T. miễn cưỡng quay lại để kiểm tra dáng vẻ mới của Angela. Anh lặng cả người đi, choáng váng không nói nên lời. Rosalita đã cắt sạch gần hết mái tóc của Angela. Lúc này, những lọn tóc xếp thành từng lớp đổ ra đằng trước, che khuất lấy tai cô ta, xếp ngay ngắn ở đằng sau gáy và lòa xòa quanh mắt. Mái tóc cắt ngắn đáng lẽ sẽ biến cô ta trông y như một cậu thiếu niên, chỉ có điều các cậu thiếu niên chẳng cậu nào lại có đôi gò má cao, cái mũi nhỏ xíu và đôi môi đầy đặn như vậy. Các cậu thiếu niên cũng chẳng có đôi mắt to tròn màu nâu sẫm, nằm chính giữa đôi hàng lông mi đen dày đến thế.
“Chúa ơi.” Anh lẩm bẩm. “Ôi trời ơi Chúa tôi.”
Anh bắt đầu bước đi. Kể cả khi sau đó cảm giác căng thẳng bắt đầu cuộn lên trong bụng anh.
“Đó… đó là một khởi đầu.” Giọng của Angela nghe cũng có một chút ngỡ ngàng trước sự thay đổi của chính mình khi liếc nhìn hình ảnh của mình qua chiếc gương tay.
Rosalita hối hả bung chậu nước xà phòng mang đi, để lại trong phòng chỉ còn mỗi hai người họ. Không khí im lặng đầy căng thẳng bớt dần. Những ngón tay của Angela bắt đầu bồn chồn đưa qua đưa lại trên đùi.
“Muốn một lời khuyên không?” J.T. đột nhiên lên tiếng. “Miễn phí.”
“Vậy chẳng phải là làm hai việc thiện trong cùng một ngày sao? Tôi tưởng anh đã đạt mức hạn ngạch của cả một năm rồi chứ?” “Chẳng may gặp đúng phút yếu lòng thôi. Nào, thế cô có muốn nhận lời khuyên này hay không đây?”
“Có.”
“Nhuộm tóc đi.” Anh nói thẳng thừng. “Đó là một mẹo để ngụy trang - hãy nghĩ ra một màu tóc nào đó thậm chí trông giống cô hơn chính bản thân cô. Tôi nghĩ nâu sậm hoặc nâu vàng sẽ hợp đấy, một màu gì đó trùng với màu tóc tự nhiên của cô ấy. Như thế cô sẽ có một diện mạo mới khó phát hiện. Còn bây giờ, cô trông rõ ràng quá.”
“Ồ.”
“Đấy nên hãy đi đi. Đi ra tiệm dược mỹ phẩm, mua ít thuốc nhuộm tóc, và rồi ba mươi phút sau, cô đã có diện mạo mới.” “Cảm ơn anh.”
Anh cau mày. “Lời khuyên vẫn chưa đủ tốt đến mức đấy đâu.” “J.T., chuyện ngày hôm qua. Tôi cần phải nói chuyện với anh, anh có thể…”
“Đói không?” Anh quay người lại để nhìn thẳng vào mặt cô ta. “Cô cần ăn thêm nhiều vào. Tôi biết nấu cháo yến mạch đấy.” Cô ta ngập ngừng, rõ ràng là muốn quay lại câu chuyện chính. “Như vậy sẽ là ba việc tốt liền đấy.” Cô ta nói.
“Trách người nuôi dạy tôi ấy. Tôi vẫn làm như thế mà.”
“Ăn sáng cũng tốt, tôi nghĩ vậy.” Cô ta hất đầu về phía chai bia uống gần cạn mà anh đang cầm đung đưa giữa những ngón tay. “Có vẻ như anh đã ăn xong rồi thì phải.”
“Ừ.”
“Lúc nào anh cũng uống nhiều như vậy sao?”
“Hơi quá chút thôi.”
“Vince không nói rằng anh là một kẻ nghiện rượu.”
“Tôi không phải kẻ nghiện rượu. Đúng hơn còn là người bài rượu nhé.” Anh đập mạnh chai bia vào đùi. Cô ta nói giọng địa phương. Giọng của người miền bắc. Được giáo dục đàng hoàng. Điều gì đã đưa một người phụ nữ phương bắc, có học vấn lặn lội tìm đến vùng biên giới gần sát Mexico, trong cái bộ dạng kiệt quệ, suy dinh dưỡng và rõ ràng là cực kỳ hoảng sợ như thế kia?
Ánh mắt của anh dừng lại, nhìn chăm chú vào hai bắp đùi của cô ta.
Chết tiệt.
Anh tiến một bước về phía cô ta. Người cô ta căng cứng. Cũng chẳng vấn đề gì.
Anh tiếp tục bước thẳng đến chỗ cô ta mặc cho cô ta ngả người ra sau và ngồi thụp xuống cái ghế. Hai mắt cô ta trợn to và đầy sợ hãi. Anh mặc kệ sự khó chịu của cô ta, anh đưa tay ra và vuốt một ngón tay dọc theo vết sẹo ngoằn ngoèo, xấu xí hằn trên bắp đùi tái nhợt của cô ta. “Là hắn làm sao?”
Cô ta không trả lời.
“Chết tiệt, là hắn đã làm sao?”
Cô ta mở miệng, nhưng rồi lại chẳng nói gì mà chỉ nhìn chăm chăm vào anh.
“Cô là ai vậy hả, Angela?”
“Một người phụ nữ cần giúp đỡ.”
“Chồng của cô xấu xa đến vậy sao?”
“Không.” Cô ta thẳng thừng đáp. “Hắn còn tồi tệ hơn thế.” J.T. quay người đi. Anh lại giận dữ rồi. Đó là vấn đề muôn thuở của anh. Anh quá giỏi nổi giận, nhưng lại chẳng đủ giỏi để có thể thay đổi bất kỳ điều gì. Kiềm chế, kiềm chế. Đó không phải là vấn đề mày phải quan tâm, đó không phải là việc của mày. Nhưng anh ghét nhìn thấy cái vết sẹo trên đùi của cô ta. Nó khiến anh nghĩ đến những thứ mà anh đã dành mấy năm gần đây cố gắng để quên đi. Và nó khiến anh muốn tìm thằng chồng của cô ta và đấm thẳng cả nắm tay vào mặt hắn.
Anh cố gắng ép mình bình tâm trở lại rồi uống một ngụm bia. Anh không nói thêm một lời nào cho đến khi anh tin tưởng bản thân mình đã lấy lại đủ bình tĩnh.
“Tôi sẽ đi nấu cháo yến mạch.”
“Cảm ơn anh.”
“Cưng ơi, cô còn chưa nếm thử mà.”
Angela đi theo anh vào trong bếp. Anh rất tự hào về căn bếp của mình - Rachel đã thiết kế nên nó. Anh thì hiểu biết rất rõ về hồ bơi - và trong mấy năm gần đây anh đã trở thành một người bố trí vườn tược khá tài ba. Nhưng mấy chuyện trang trí thì anh không hiểu
nhiều lắm. Ngày còn ở thủy quân, dăm ba bức ảnh chụp các cô gái treo đầu giường, ấy đã là tô điểm lắm rồi.
Rachel thì có khiếu thẩm mĩ thiên bẩm, thế nên cô thiết kế căn nhà mà họ dự định sẽ xây ở Montana, ở đó bầu trời dường như vô tận và họ sẽ luôn luôn cảm thấy được tự do. Anh sẽ học thêm về ngựa, còn cô sẽ nghiên cứu về trang trí nội thất. Có lẽ họ sẽ sinh thêm đứa con thứ hai, sẽ sinh thêm cho Teddy một cô em gái để có người chơi cùng. Và hai anh em Teddy sẽ được nuôi nấng cẩn thận, để không một ký ức tồi tệ nào khiến sau này khi lớn lên chúng lại phải giật mình tỉnh giấc giữa những đêm tối đen như mực.
Nhưng những giấc mơ ấy đã tan biến. J.T. chỉ có được duy nhất căn bếp của Rachel, một căn phòng rộng lớn, mát mẻ với sàn nhà gạch đỏ và khu kệ bếp xanh họa tiết vỏ trứng. Chiếc bếp nấu cỡ lớn và được tô điểm nổi bật bằng một cái vành tròn kết từ ớt jalapenos*. Một bộ sưu tập vô cùng nhiều các loại nồi và chảo bằng đồng thau được treo trên một chiếc giá thép, mắc lơ lửng vào trần nhà. Anh đã đặt từng món đồ vào những nơi mà anh hình dung Rachel sẽ đặt, ngày ấy anh đã hào hứng lắng nghe cô miêu tả căn bếp ấy hết đêm này qua đêm khác, khi họ nằm bên nhau trên giường và mơ mộng như những đứa trẻ.
“Căn bếp đẹp quá.” Angela lên tiếng từ phía sau lưng anh. “Anh vào bếp nhiều chứ?”
“Tôi không hề nấu nướng.” Anh đi về phía cánh cửa trượt bằng kính mà Rosalita vẫn còn để hơi he hé. Cái nóng len lỏi lẩn vào bên trong như một con quái vật nhiều xúc tu. Anh đóng kín cánh cửa. “Anh không định khóa nó lại sao?”
“Khóa cái gì?”
“Cửa ấy.”
“Không.”
Hai người lặng im trong giây lát. Anh đang ngắm nghía số xoong nồi và chảo, suy nghĩ xem sẽ chọn cái nào. Lần cuối cùng anh cố gắng nấu một cái gì đó là từ lâu lắm rồi; đó là công việc của Freddie.
“Anh có khóa cửa trước không?”
“Không.”
“Tôi có thể… có thể khóa nó được không?”
Anh nhìn sang phía cô ta. Cô ta đang đứng bên cạnh cái bàn bằng gỗ, hai bàn tay để phía trước mặt, đan vào nhau, và ánh mắt của cô ta thì chăm chăm nhìn vào cánh cửa trượt bằng kính.
“Bé yêu ơi, ở đây là Nogales, vùng ngoại ô của Nogales nhé. Ở đây rồi thì chẳng có gì mà phải lo lắng hết.”
“Làm ơn đi mà.”
Anh đang thực sự bắt đầu cảm thấy ghét việc cô ta có thể sử dụng cái câu nói đó điệu nghệ tới vậy. “Cô đang sợ hãi.” Anh nói thẳng thừng.
Cô ta chẳng buồn phản bác điều đó.
“Cô nghĩ hắn ta bám theo cô tới đây sao? Cái gã chồng cũ tệ hại, to lớn của cô ấy hả?”
“Có thể lắm chứ. Hắn rất rất giỏi việc đó.”
“Cô nói cô dùng tiền mặt và lấy tên giả mà.”
“Đúng thế.”
“Vậy thì cô sẽ ổn thôi.” Anh quay người trở lại chỗ cái bếp, nhưng anh nghe thấy tiếng cô ta di chuyển ở phía sau lưng, rồi nghe thấy tiếng tách từ ổ khóa của cánh cửa trượt. Sao cũng được. Anh không cảm thấy muốn kể cho cô ta nghe về cái kho vũ khí nhỏ mà anh cất trong két sắt và rằng cho dù có say bét nhè đi nữa thì anh vẫn có thể bắn chuẩn. Nếu cô ta nhất định muốn cửa phải khóa đến như vậy, anh sẽ không tranh cãi với cô ta.
Anh đun sôi nước. Anh mở hộp đựng yến mạch ra và tự hỏi không biết phải cho bao nhiêu vào nồi thì đủ. Anh đổ cả nửa hộp vào và rồi nhận ra việc ngớ ngẩn mình đang làm. Thuốc nổ còn đặt được thì đáng lẽ ra anh cũng phải nấu được một nồi yến mạch mới phải.
“Thường thì người ta sẽ đong vừa đủ.” Angela bình luận khi cô quay trở lại vào trong bếp.
“Tôi thích sống mạo hiểm thế đấy.”
“Tôi muốn lấy lại khẩu súng.”
“Cái khẩu 5,6 li sũng nước ấy hả? Thà cô bắn súng cao su còn tốt hơn.”
“Tôi muốn khẩu súng của tôi.”
Nó khiến anh cảm thấy khó chịu. Có quá nhiều người cứ nghĩ rằng súng đạn có thể giải quyết được mọi chuyện. Chúng không thể đâu. Anh biết điều đó. Với một khẩu súng trường, chẳng có gì mà anh không thể làm, ấy thế nhưng tất cả những người mà anh yêu
thương vẫn đều bị giết hại. Súng đạn chẳng thể giải quyết bất cứ việc gì.
“Trước hết, chúng ta phải xong bữa sáng cái đã.” Anh đổ yến mạch ra hai bát. Nhìn chúng nhầy nhụa chẳng khác gì bùn. Anh rắc lên trên bề mặt một ít nho khô để cung cấp thêm chút sắt và rót thêm hai li sữa. Angela nhìn vào bát yến mạch như thể đó là một sinh vật không hình không thù.
“Ăn đi.” Anh nói. “Những người rắn rỏi không bao giờ ngoảnh mặt đi trước một bữa ăn giàu dinh dưỡng. Thật ra mà nói, nếu đang ở ngoài, có khi tôi đã phải rắc sâu bọ lên trên rồi đấy. Đó là nguồn protein thuần khiết nhất, cô biết mà.”
“Tôi không biết điều đó.” Cô ta tự thừa nhận và rồi sau cùng, bằng động tác rón rén, cô ta xúc lên thìa thứ nhất đầy ự và đưa nó vào miệng. Hai mắt cô ta nhắm chặt. Cô ta trông giống như một đứa trẻ còn anh thì nhận ra mình lại đang nghĩ tới Teddy với cảm giác đau nhói, day dứt.
“Kinh quá.” Cô ta nói.
“Đã bảo tôi không biết nấu rồi mà.” Anh ăn liền một lèo ba thìa. “Đừng nhai nữa, như thế dễ nuốt hơn.”
Trông cô ta có vẻ hoảng hốt. Cô ta đẩy cái bát ra xa. Ngay lập tức, anh đẩy nó quay ngược trở lại trước mặt cô ta. “Ăn đi.” Anh ra lệnh. “Tôi không hề nói đùa đâu - quân nhân ăn bất cứ thứ gì được đưa cho. Và cô cần thêm chút sắt đấy Rambo ạ, thế nên hãy thôi mơ mộng đến những bữa ăn được phục vụ tận phòng đi.”
Trong tích tắc, cô ta có vẻ như có ý định chống đối lại lời anh nói. Nhưng rồi sau đó, cô ta cầm thìa lên và nhìn bát yến mạch như thể đó là một đỉnh núi mà cô ta sẽ phải chinh phục.
“Tôi có thể làm được.” Rồi cô ta xúc thìa vào bát.
“Đó là yến mạch ạ, chứ không có phải Armageddon*, Angela.” Cô ta không nói thêm một lời nào mà ăn hết sạch bát yến mạch và số đồ ăn còn lại. Rồi cô ta bắt đầu rửa dọn bát đĩa, những cử động của cô ta mượt mà giống như của một người từ bé đến lớn vẫn luôn làm những công việc nhà đó.
J.T. không quen với việc có ai đó ở trong nhà mình mà người đó không phải là Freddie hay Rosalita. Anh cảm thấy không thoải mái và thậm chí tệ hơn thế, anh cảm thấy bồn chồn. Phép xã giao của người Virginia trỗi dậy và vỗ gọi trên vai anh. Anh nên mặc áo vào. Anh nên đi giày nữa. Anh nên kéo ghế cho cô gái trẻ trung xinh xắn, mời cô ấy một li nước chanh và ngợi khen vẻ đẹp của cô ấy, và nói chuyện về thời tiết.
“Tại sao lại chuyển đến Arizona vậy?” Angela hỏi. Cô ta đặt chồng bát đĩa đã rửa sạch vào nhau ở bên cạnh bồn rửa bát, tiếng bát đĩa va vào nhau lẻng xẻng. Cái cổ tay thâm tím có vẻ chẳng khiến cô ta cảm thấy khó chịu.
“Không có luật bắt đội mũ bảo hiểm.”
“Ồ.” Cô ta không còn gì để nói thêm nữa. Anh thì đã hết chuyện để nói từ lâu lắm rồi. Anh bắt đầu nhẩm đếm thời gian trong đầu. Anh mới đếm đến sáu thì cô ta đã tắt nước và nhìn chăm chú vào anh với một ánh mắt đầy quyết tâm.
“Tôi sẽ không đi đâu hết” Cô ta tuyên bố. “Tôi cần anh giúp đỡ. Hoặc sớm hay muộn rồi anh sẽ nhận ra điều đó.”
“Tôi sẽ chẳng nhận ra cái gì hết. Cô đang lừa dối tôi một cách trắng trợn.”
Hai môi cô ta mím lại. “Anh không muốn biết sự thật. Tôi biết những người như anh. Anh không muốn bị dây dưa liên quan gì hết. Anh nghĩ rằng trốn ở một nơi xa lánh mọi người và tự thương xót cho bản thân mình là anh đang hạnh phúc lắm rồi.”
“Tự thương xót bản thân sao, vậy ra đó là vấn đề của tôi sao? Đầu tiên thì là chè chén, còn bây giờ là tự thương xót. Cô xem chương trình của Oprah* nhiều lắm phải không?”
“Anh nghĩ anh sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu anh không cần phải quan tâm đến người khác thêm lần nào nữa.”
“Cô có thể chứng minh được điều đó không?”
“Tôi không cần anh phải quan tâm, anh Dillon ạ. Tôi không cần anh phải… quan tâm cái cóc khô gì về tôi. Tôi chỉ muốn anh huấn luyện cho tôi, chẳng cần gì thêm nữa.”
“Cô muốn tôi giống như một con chó cảnh…” Anh sửa lời cô ta nói. “Cô muốn tôi lắng nghe những lời nói dối của cô, làm những việc mà cô yêu cầu, và không bao giờ được hỏi một điều gì. Tôi biết ý cô muốn là gì. Tôi cũng xem Oprah đấy nhé.”
Anh đạp ngược cái ghế ra sau và đi sang chỗ bồn rửa bát. Anh đi tới chỗ kệ bếp. Anh tiếp tục tiến lên phía trước, hai mắt anh cau lại, tối đen. Anh nhìn thấy cô ta mở miệng, nhưng không một lời phản
kháng nào được thốt ra. Cô ta bước lùi ra sau một bước, nhưng lại bị cái bồn rửa bát chặn lại. Cô ta đã bị mắc kẹt.
Anh đè thẳng người cô ta tựa lên kệ bếp. Hơi thở của cô ta gấp gáp, nhưng cô ta không hề chùn bước. Cô ta hất cằm lên đầy bướng bỉnh và bắt gặp ánh mắt của anh. Anh tựa sát người vào cô ta, áp sát ngực cô ta lên tấm thân trần của mình, ép sát thân hình của anh lên thân hình của cô ta, để cho cô ta biết chính xác anh có khả năng làm được những gì. Anh cúi đầu thấp xuống cho tới khi hơi thở của anh lướt ngang qua má của cô ta, và cô ta hít lại chính cái hơi thở đó vào người giữa nỗ lực cố tạo ra khoảng cách giữa hai người họ.
“Tôi không tin cô.” Anh nói bằng giọng nhỏ nhẹ nhưng đầy nguy hiểm. “Tôi không tin một người phụ nữ lại vứt bỏ con gái của mình và đi hết nửa dọc đất nước tới nhà của một tay lính đánh thuê chỉ bởi vì gã chồng cũ của cô ta đang săn lùng cô ta. Và tôi không thích bị người khác lừa dối và lợi dụng.” Anh đặt hai bàn tay lên mặt bàn bếp.
“Tại sao một người phụ nữ lại không thể thuê một chuyên gia huấn luyện?” Cô ta liếm môi với cảm giác đầy lo lắng, rồi sau đó khi nhận ra hành động của mình, cô ta tuyên bố bằng một giọng mạnh mẽ, dữ dội hơn. “Chồng, bạn trai, cha, lúc nào, thời đại nào cũng giết hại phụ nữ.”
“Thuê người bảo vệ đi.”
“Tôi không muốn thuê người bảo vệ! Tôi muốn biết làm thế nào để chiến đấu lại. Tôi muốn biết làm thế nào để bảo vệ con gái mình. Tôi đã quá chán ngán và mệt mỏi khi phải bỏ chạy trong sợ hãi rồi. Anh…” Ngón tay của cô ta đâm thẳng vào ngực anh. “Có lẽ anh
chẳng biết tí gì về cái cảm giác yếu đuối, sợ hãi cả. Nhưng tôi thì biết. Và tôi đã chán ngán nó lắm rồi. Tôi muốn lấy lại cuộc đời của mình.”
Cô ta chộp lấy một trong số những cái bát bằng sứ và đập vỡ nó vào trong bổn rửa bát. Cô ta cầm một mảnh vỡ và sử dụng nó như một con dao. “Có thể ngày trước tôi đã từng rất chậm chạp. Có thể thực sự ngày trước tôi đã từng nghĩ rằng nếu tôi đủ ngoan ngoãn, đủ nghe lời, đủ ngọt ngào, tôi sẽ được an toàn. Nhưng không, tôi sẽ không “ngọt ngào” thêm nữa, và tôi cũng sẽ không “nghe lời” thêm nữa. Thế nên đừng có gây sự với tôi, anh Dillon ạ. Anh không biết tôi có thể làm những gì đâu.”
Cô ta nhấn mạnh miếng bát vỡ sắc nhọn vào tấm ngực trần của anh, đủ mạnh để nó lằn một đường lên da anh. Miếng bát vỡ cắt ngang qua vết sẹo lồi chạy loằng ngoằng dọc theo xương ức của anh. Vết sẹo đó do một người đàn ông nổi tiếng với tính khí nóng nảy, đôi bàn tay nhanh nhẹn và hoàn toàn không có một chút lòng thương xót nào gây nên. J.T. đang khám phá xem bên trong đôi mắt của Angela lúc này liệu có những thứ như thế hay không.
Anh không để ý lắm tới tốc độ của cô ta. Anh cũng chẳng mấy đánh giá cao kỹ năng của cô ta. Nhưng trong ánh mắt của cô ta, anh đã tìm thấy một thứ gì đó hay ho hơn: sự lãnh đạm. “Chúa ơi, cô là một người phụ nữ nguy hiểm.”
“Tôi đang học hỏi.”
Một âm thanh xé toang bầu không khí, khiến cả hai người họ giật mình ngạc nhiên. The thé, rú rít. Tiếng còi báo động. Tiếng còi báo
động rền vang đang áp sát tới ngôi nhà của anh. Anh lùi ra sau một bước.
Suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu anh là Marion, nhưng rồi anh để ý tới vị khách ở trong nhà của anh. Cô ta đang đứng đờ người. Và cô ta có vẻ rất khiếp sợ. Tại sao cảnh sát lại làm một người phụ nữ bỏ trốn khỏi chồng mình khiếp sợ đến vậy? Và rồi anh biết, anh biết chắc chắn, rằng anh đã bị lợi dụng.
“Cô đã làm những gì?”
“Không gì cả. Hoàn toàn không làm gì cả.” Cô ta lẩm bẩm. Tiếng còi rú tiến đến gần hơn. Ba xe, anh nhìn ra. Ba xe cảnh sát đang tiến vào đường dẫn đến căn nhà và phá vỡ sự bình yên của anh.
“Tại sao cô lại hoảng sợ đến vậy? Cô đang trốn tránh điều gì?” Hai con mắt của cô ta không còn giữ nguyên được sự kiên định nữa. Cô ta cố gắng bỏ chạy, nhưng anh đang nắm cô ta lại quá chắc.
“Để cho tôi đi. Tôi không làm gì hết. Tôi chỉ không muốn có bất cứ ai biết là tôi đang có mặt ở đây. Đặc biệt nếu đó là cảnh sát.” “Thẹn thùng đến vậy sao hả Angela?”
“Không an toàn chút nào. Hắn có quan hệ…”
“Hắn? À phải rồi Angela, cái gã quyền uy ấy. Cái người đàn ông bí ẩn có thể đang mà cũng có thể không đang đuổi theo cô, đó có thể mà cũng có thể không phải là người đã khiến chân cô bị thương, có thể hoặc cũng có thể không hề tồn tại. Tôi đã phát chán phải
nghe về hắn rồi, Angela ạ. Nếu muốn được tôi giúp, tốt hơn là cô phải giỏi hơn thế nhiều lần nhé.”
“Tôi không hề nói dối đâu! Jim muốn tôi phải chết. Không, hắn muốn tôi phải chịu đựng những thứ thật khủng khiêp. Tôi đã nhìn thấy những bức ảnh. Tôi đã nhìn thấy những gì mà hắn đã làm…” Giọng của cô ta lạc đi. Rồi cô ta nổi điên và đánh anh một cách điên cuồng. Cô ta cố gắng đâm miếng bát vỡ vào vai anh, nhưng anh né được cú đâm đó, rồi tước miếng vũ khí tự chế ra khỏi tay cô ta.
“Hãy để cho tôi đi.” Cô ta kêu khóc.
Tiếng còi hú tạm dừng sau tiếng phanh xe trên đường dẫn vào nhà của anh.
“Ôi Chúa ơi.” Cô ta thì thầm. “Có lẽ hắn đã tìm ra được tôi rồi.” Hai bàn tay anh nắm chặt hai vai của cô ta, nhưng rồi đột nhiên anh cảm thấy không chắc chắn nữa. Nỗi sợ hãi của cô ta chân thực quá, thái độ hoảng loạn của cô ta trông giống thật quá. Anh có thể cảm nhận được thân hình mỏng manh của cô ta đang bắt đầu run rẩy, từ trên xuống dưới.
“Nói tôi nghe đi, Angela, hãy kể cho tôi nghe sự thật. Nói đi nào.” “Hắn từng là một cảnh sát! Anh không hiểu sao? Hắn ta từng là cảnh sát!”
Anh bước lùi lại vì choáng váng, rồi tự động thả cho cô ta đi. Anh cảm thấy bất ngờ nhưng anh cũng không hiểu tại sao mình lại cảm thấy như thế. Chẳng có luật lệ nào bảo rằng cứ là cảnh sát thì bắt buộc phải là người tốt, cũng giống như chẳng có gì đảm bảo những
ngài đại tá quân đội được người người kính trọng lại không tra tấn người thân trong gia đình mình như một thú vui cả.
Angela chạy vào giữa phòng bếp. Hai cánh tay của cô ta quấn chặt vòng quanh cái eo mỏng dính của mình. “Tôi cần lấy lại khẩu súng. Hãy đưa cho tôi khẩu súng.”
“Tôi không thể làm điều đó.”
“Ôi, anh đang sợ hãi điều gì chứ? Anh nghĩ tôi sẽ cố mở lối thoát cho mình chỉ bằng một khẩu súng nhãi nhép sao?”
“Súng sẽ không giúp được gì cho cô đâu.”
“Đó là thứ duy nhất đã giúp được tôi.” Cô ta bước đi vòng qua vòng lại chóng cả mặt. “Tôi sẽ rời đi. Nói với họ bất cứ cái gì anh muốn. Tôi sẽ không để họ nhìn thấy tôi ở đây. Tôi nghĩ việc bảo mật thông tin có ý nghĩa nào đó trong ngành nghề của anh chứ.”
“Chờ đã…”
“Tôi không có thời gian.” Cô ta vẫn tiếp tục bước đi. Cả hai người họ đều nghe thấy một vài tiếng cửa ô tô đầu tiên bật mở rồi đóng lại.
Angela không quay đầu lại. Vài giây sau, anh nghe thấy tiếng cửa phòng cô ta đóng sập, rồi tới âm thanh báo cho anh biết chốt khóa của cánh cửa đã được gạt. Anh hình dung ra hình ảnh Angela bé nhỏ đang lật tung giường lên và cuộn cong người trốn xuống bên dưới, giống như người còn lại cuối cùng trong trận đánh Alamo*.
Chỉ còn lại một mình anh ở trong bếp, với một cảm giác mất phương hướng khi mọi thứ dường như đã tuột ra khỏi tầm kiểm soát của anh. Sẽ thế nào nếu như gã chồng cũ đó thực sự đã tới? Thời
gian này, anh đã chuẩn bị để làm những gì? Làm sao để anh có thể đứng ngoài chuyện này đây?
Rồi anh nghe thấy giọng nói phát qua loa cầm tay. Hai vai anh giãn ra. Đôi môi anh mím lại. Không phải là gã Jim to lớn, xấu xa, độc ác.
Đó chỉ là em gái của anh, do Freddie mời tới, đang trên đường đến để giải cứu ông anh trai.
Anh vươn thẳng vai và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến thật sự. Bất kì người nào đã từng nói rằng một giọt máu đào hơn ao nước lã, ắt hẳn người đó chưa từng gặp qua gia đình nhà Dillon.
NĂM
Marion Margaret Macallister chỉ phạm có hai tội lỗi trong cuộc đời mình. Tội thứ nhất, cô sinh ra là con thứ trong nhà. Tội thứ hai, cô sinh ra đã là phụ nữ.
Cô đã luôn gồng hết sức mình để sửa chữa những tội lỗi đó. Trong thế giới kín đáo riêng biệt của những đặc vụ FBI, cô có thể bắn súng giỏi hơn, thực chiến tốt hơn và suy nghĩ nhạy bén hơn tất thảy những đồng nghiệp của mình. Với vẻ ngoài lạnh lùng được tô điểm cùng mái tóc vàng óng, họ dành tặng cô biệt danh Iceman. Cô thích cái tên đó.
Cho đến hai tuần trước đó, thế giới của cô bắt đầu sụp đổ. Cô vừa mới bước qua tuổi ba mươi tư, và lại bị bỏ qua trong danh sách những người được thăng chức lần này, có vẻ là do cô còn quá trẻ. William Walker, người đã giành được vị trí đó, mới chỉ ba mươi sáu tuổi, và đang hẹn hò với con gái của phó giám đốc. Và bố của cô đang sắp chết vì ung thu tiền liệt tuyến, phải chờ lâu thật lâu nữa mới gặp tử thần, và anh chồng chung sống mười năm vừa mới bỏ cô để theo một em gái hai mươi hai tuổi làm nghề hầu bàn ở quán rượu.
Và rồi tối hôm qua, cô nhận được cuộc gọi của Freddie. J.T. lúc nào cũng chọn đúng thời điểm để gây rối.
Cô ra lệnh cho đội cảnh sát Nogales giữ nguyên vị trí và một mình tiến về phía ngôi nhà. Cô mặc chiếc quần âu màu xanh hải quân yêu thích. Nó dễ nhận biết và hoàn toàn toát lên vẻ công việc. Nhưng chiếc quần quá bí bức dưới thời tiết nóng nực ở Arizona. Cô tập trung vào cảm giác mát lạnh của khẩu súng đang ép lên xương sườn của mình trong khi khói bụi mịt mù khiến đôi mắt cô cay sè.
“Chào buổi sáng, Marion.” J.T. lè nhè nói. Anh dựa thân hình lên khung cửa, người bán lõa thể và mái tóc rối bời, như thể vừa bị bắt gặp giữa cuộc mây mưa. “Thăm nom thế này thì tử tế quá, em gái nhỉ.”
“Chúng em nhận được báo cáo có đột nhập. Em đến đây để điều tra.”
“Lặn lội từ D.C. đến tận đây ư?”
“Chẳng có gì là quá tốt cho anh cả.” Cô nở nụ cười ngọt ngào mong manh nhưng vẫn không cảm thấy thỏa mãn khi lời nói châm chọc của mình đánh đúng điểm nhạy cảm. “Bước sang một bên đi, J.T. Những cảnh sát đứng đây sẽ đảm bảo an toàn cho ngôi nhà của anh.”
“Anh không nghĩ thế.”
“Jordan Terrance…”
“Freddie gọi cho em từ trong thị trấn ư?” Anh chuyển tư thế đứng, vắt tréo hai cổ chân, dáng đứng trông thoải mái hơn. Qua lời kể của Freddie, cô biết anh trai cô nốc rượu rất nhiều. Cô đã mong chờ hơi rượu xuất hiện để cô có thể giành được thế thượng phong, nhưng J.T. lúc nào cũng may mắn TỈNH TÁO đúng lúc. Thậm chí,
chưa có lấy một cơn say bí tỉ nào khiến vòng thắt lưng của anh trông to ra hay khiến bụng anh chảy xệ xuống. Anh vẫn là một người đàn ông săn chắc cân đối như cô vẫn nhớ. Vẫn là đứa trẻ đã giành tất cả cúp bơi lội. Vẫn là người con trai có kỹ thuật bắn súng phi thường khiên bố thấy tự hào. Cô muốn siết cổ anh đến chết.
“Freddie đã báo cáo.” Cô cứng nhắc đáp lại.
“À, và thế là anh nghĩ ông ấy với anh đã chạm đến sự thấu hiểu lẫn nhau rồi đây.”
“Ý anh là gì?”
J.T. làm một vòng kiểm tra móng tay đầy kênh kiệu. “Anh biết ông ấy gọi cho em, Marion. Anh biết ông ấy là điệp viên bé bỏng của bố. Cả hai người đều sợ rằng có một ngày nào đó anh sẽ uống đủ say để nói ra sự thật. Đừng lo, thi thoảng anh có nói cái chuyện đó ra, nhưng mà chẳng ai hứng thú.”
“Em không hiểu anh đang nói…”
“Anh cho ông ấy đi rồi. Bảo Freddie nghỉ ngơi vài ngày - anh không nghĩ khách của anh muốn có khán giả trông thấy. Và vì bản thân mình nữa, hừm…” Anh nhún vai. “Freddie pha margarita rất ngon. Tất nhiên, giờ anh sẽ phải cân nhắc xem có gọi ông ấy trở về không. Gọi điện cho cảnh sát thông báo có đột nhập - việc đó khá là sáng suốt. Anh nghĩ ông ấy còn sáng suốt hơn chúng ta hoài nghi đây.”
“Vậy là có người đột nhập! Bước sang một bên!”
“Không.”
“Chết tiệt, J.T., em biết có phụ nữ trong nhà. Và anh thực sự biết gì về cô ta chứ? Nhìn hồ sơ của anh mà xem…”
“Đừng có lôi chuyện quá khứ vào.”
“Cảnh sát sẽ lục soát ngôi nhà, J.T. Em muốn người phụ nữ đó phải đi.”
“Có giấy khám xét nhà không?”
“Tất nhiên không. Chúng em đang giải quyết thông báo có đột nhập…”
“Còn anh đang nói chuyện với tư cách là chủ sở hữu của ngôi nhà này, là không có kẻ đột nhập nào hết. Giờ thì mang đám người mặc âu phục xanh của em đi chỗ khác đi, tìm một bữa tiệc khác mà xông vào.”
“Anh là tên cứng đầu, nát rượu, khôn…”
“Marion, em không bao giờ thực sự học được cách chơi đẹp nhỉ.” “J.T., với tư cách là em gái anh…”
“Em thấy xấu hổ vì anh, thấy nhục nhã khi có anh trong gia đình, và ngày nào giờ nào em cũng chỉ ước anh chết đi thôi. Anh biết, Marion. Những cuộc trao đổi cởi mở về tình cảm gia đình như thế này luôn khiến anh cảm thấy ấm áp và mơ hồ.”
“Chúa giúp con, J.T., nếu em tìm thấy dù chỉ một khẩu súng đạn BB trong nhà anh…”
“Đây là Arizona. Luật sở hữu súng lỏng lẻo. Em sẽ thấy yêu điều đó ở bang này.”
“Em ở đây để cố gắng giúp anh, J.T…”
“Không, Marion, em đâu có giúp. Em vẫn đang làm theo mệnh lệnh của bố, cả hai chúng ta đều biết điều đó.” Đột nhiên giọng anh mềm mỏng. “Sao em chưa từng dừng chân ở đây chỉ để thăm anh, Merry Berry? Sao với em, lúc nào cũng là chiến tranh thế?”
Marion bỗng thấy cổ họng nghẹn lại sau lớp khuy áo cao cổ của bộ đồng phục, trong một khoảnh khắc, cô thấy còn hơn cả giận dữ. J.T. đi thẳng tới phía cô từ chỗ khung cửa.
“Ra lệnh cho bọn cớm đi khỏi đây. Bố chưa bao giờ đồng ý để người ngoài chĩa mũi vào chuyện gia đình. Thế ông đã chết chưa?” “Chưa.”
“Tệ thật, ừm, rất vui được nói chuyện với em. Chúng ta nên thường xuyên gặp mặt nhau thế này.”
“Em sẽ không đi đâu hết.”
“Anh rất tiếc, Marion. Em biết anh quan tâm em mà, nhưng anh có phản ứng dị ứng mãnh liệt với các đặc vụ liên bang. À không, anh sợ là anh có một chính sách Không Cớm/Không Đặc Vụ FBI rất hà khắc đối với ngôi nhà của mình.”
“Anh đúng là thằng khốn nạn!”
“Anh đã từng cầu cho việc này chỉ là do hoàn cảnh, nhưng nó là sự thật, chắc chắn là do anh thừa hưởng quá nhiều dòng máu từ ngài đại tá rồi. Thật đáng xấu hổ làm sao!”
Nụ cười rạng rỡ kiên quyết của J.T. nói với cô rằng anh không hề rung động. Anh trai cô lúc nào cũng là một tên cứng đầu ngang ngạnh. Thế nhưng, cô cũng có thế cứng đầu. Và cô còn mệnh lệnh của mình. Trực tiếp từ ngài đại tá.
"""