"Việt Sử Toàn Thư: Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại - Phạm Văn Sơn full prc pdf epub azw3 [Lịch sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Việt Sử Toàn Thư: Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại - Phạm Văn Sơn full prc pdf epub azw3 [Lịch sử] Ebooks Nhóm Zalo Mụclục MụcLục: LờiGiớiThiệu&LờiTácGiả: Phần1–ChươngI ChươngIi ChươngIii ChươngIv ChươngV Phần2–ChươngI ChươngIi ChươngIii ChươngIv ChươngV ChươngVi ChươngVii ChươngViii ChươngIx Phần3–ChươngI ChươngIi ChươngIii ChươngIv ChươngV ChươngVi ChươngVii ChươngVii(Tt) ChươngViii ChươngIx ChươngX ChươngX(Tt): ChươngXi ChươngXii ChươngXiii ChươngXiv ChươngXv ChươngXvi ChươngXvii ChươngXviii ChươngXix ChươngXx ChươngXxi ChươngXxii PhầnIv-ChươngI ChươngIi ChươngIii ChươngIv ChươngV PhụLục: VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Mục Lục: Phần Thứ Nhất Chương 1 - Khái luận về xã hội Việt Nam xưa và nay 1- Địa lý thiên nhiên - 2. Người Việt Nam - 3. Gốc tích. Chương 2 - Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam Chương 3 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 tr. T. L.) 1. Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng -- 2. Nước Văn Lang Chương 4 - Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.) Chương 5 - Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ Xã hội và văn hóa - 2. Trật tự xã hội và gia đình - 3. Việc quan chế - 4. Pháp chế - 5. Binh chế - 6. Điền chế - 7. Học chính - 8. Khổng Tử - 9. Lão Tử -- 10. Trang Tử - 11. Tuân Huống. Phần Thứ Hai Bắc Thuộc Thời Đại Chương 1 - Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.) 1. Chỗ rẽ của lịch sử Âu Lạc - 2. Chính trị của Triệu Đà - 3. Nam Việt và Tây Hán - 4. Xã hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà - 5. Những vua kế nghiệp Triệu Đà - 6. Đế quốc Việt Nam xụp đổ - 7. Công tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ). Chương 2 - Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111 tr. T. L. - 39 T. L.) 1. Đơn vị hành chánh trên đất Giao Chỉ - 2. Bộ máy cai trị ở đất Giao Châu. Chương 3 - Nhà Trưng (40 - 43) 1. Phần cờ nương tử - 2. Nhà Đông Hán phục thù - 3. Tính chất cách mạng của cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý. Chương 4 - Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông Hán - Nam Bắc triều) Cuộc cải cách của Mã Viện trên đất Giao Châu Chương 5 - Người Việt Nam học chữ Tàu 1. Việc truyền bá Hán học - 2. Ảnh hưởng Phật đồ với nền văn học của chúng ta -3. Phật Giáo - 4. Một điều sai lầm về Sĩ Nhiếp. Chương 6 - Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai của dân Giao Chỉ 1. Bà Triệu chống quân Đông Ngô -- 2. Lâm Ấp quấy phá Giao Châu. Chương 7 - Nhà Tiền Lý (544 - 602) 1. Lý Nam Đế (544 - 548) - 2. Hậu Lý Nam Đế (571 - 602). Chương 8 - Bắc thuộc lần IV (603 - 939) 1. Nhà Tùy đánh Lâm Ấp - 2. Nhà Đường đối với An Nam - 3. Mai Hắc Đế khởi nghĩa (722) - 4. Giặc Côn Lôn và Đồ Bà -- 5. Bố Cái Đại Vương - 6. Cuộc xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu - 7. Sự thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền. Chương 9 - Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc đến họ Ngô Trận thủy chiến đầu tiên của Việt Nam. Phần Thứ Ba Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939) Chương 1 - Nhà Ngô (939 - 965) Chương 2 - Nhà Đinh (968 - 980) 1. Đinh Tiên Hoàng - 2. Đinh Phế Đế. Chương 3 - Nhà Tiền Lê (980 - 1009) 1. Lê Hoàn đánh Tống - 2. Việc ngoại giao - 3. Việc đánh Chiêm Thành - 4. Sự mở mang trong nước - 5. Cái án Lê Hoàn và Dương Hậu. Chương 4 - Các vua kế tiếp Lê Đại Hành I. Lê Trung Tông (1005) II. Lê Ngọa Triều (1005 - 1009) 1. Việc ngoại giao với Bắc Triều - 2. Sự tàn ác của Ngọa Triều - 3. Vụ âm mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê. Chương 5 - Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) I. Lý Thái Tổ (1010 - 1028) II. Lý Thái Tông (1028 - 1054) 1. Việc chính trị - 2. Việc quân sự - 3. Dẹp Chiêm Thành. III. Lý Thánh Tông (1054 - 1072) 1. Việc mở mang Phật Giáo và Nho Giáo -- 2. Đánh Chiêm Thành. IV. Lý Nhân Tông (1072 - 1127) 1. Vụ tranh dành quyền vị -- 2. Việc chính trị -- 3. Việc đánh Tống -- 4. Cuộc phục thù của nhà Tống - - 5. Đánh Chiêm Thành. V. Lý Thần Tông (1128 - 1138) VI. Lý Anh Tông (1138 - 1175) 1. Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành -- 2. Việc ngoại giao. VII. Lý Cao Tông (1176 - 1210) VIII. Lý Huệ Tông (1211 - 1225) IX. Lý Chiêu Hoàng (1225) Chương 6 - Khái niệm về Phật giáo và văn học dưới đời nhà Lý Chương 7 - Nhà Trần (1225 - 1413) -- Nước Việt Nam dưới đời Trần Sơ I. Trần Thái Tông (1225 - 1258) 1. Tàn sát họ Lý. - 2. Việc đảo lộn nhân luân. - 3. Việc đánh dẹp trong nước. - 4. Những công cuộc cải cách. - 5. Việc binh chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sơ. - 6. Kinh tế và xã hội. --7. Phong tục. - 8. Văn hóa. - 9. Cuộc chiến tranh tự vệ thứ nhất của Việt Nam. II. Trần Thánh Tông (1258 - 1278) 1. Việc chính trị. - 2. Việc ngoại giao với Mông Cổ. III. Trần Nhân Tông (1279 - 1293) A - Mông Cổ gây hấn lần thứ hai 1. Việc ngoại giao tan vỡ. - 2 Huyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ. - Hội Nghị Bình Than (1282). - Hội Nghị Diên Hồng (1284). - Quân Nam rút theo kế hoạch. - Hội nghị quân sự Vạn Kiếp. III Mông Cổ tấn công. - Mặt trận Đông Nam. - Cuộc tổng tấn công của Việt Nam. Việt Nam thu phục Thăng Long. - Trận Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp. B- Mông Cổ tấn công lần thứ hai (1287) I Trận Vân Đồn. II Trận Bạch Đằng. III Việc truy kích Thoát Hoan. IV Cuộc giảng hòa. V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương. IV. Trần Anh Tông (1293 - 1314) Việc gả Huyền Trân cho Chế Mân V. Trần Minh Tông (1314 - 1329) VI. Trần Hiến Tông (1329 - 1341) Giặc Ngưu Hống và giặc Lào VII. Trần Dụ Tông (1341 - 1369) 1. Việc chính trị. - 2. Việc giao thiệp với Trung Hoa. - 3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành. - 4. Dụ Dương Nhật Lễ. VIII. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) Tiểu sử Hồ Quý Ly. IX. Trần Duệ Tông (1372 - 1377) X. Trần Phế Đế (1377 - 1388) 1. Việc giao thiệp với nhà Minh. -- 2. Chiêm Thành tấn công Thăng Long. -- 3. Âm mưu trừ Hồ Quý Ly thất bại. XI. Trần Thuận Tông (1388 - 1398) Chế Bồng Nga tử trận. - 2. Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách quân sự. Cải cách kinh tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. - 3. Cuộc đảo chính Hồ Quý Ly. Chương 8 - Nhà Hồ (1400 - 1407) Hồ Quý Ly (1400) II. Hồ Hán Thương (1400 - 1407) Cuộc giao tranh giữa nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại của Hồ Quý Ly. - 2. Hồ Quý Ly có làm mất nước không? Chương 9 - Bắc thuộc lần thứ năm - Nhà Hậu Trần (1407 - 413) 1. Chính sách thống trị của nhà Minh. - 2. Giản Định Đế khởi nghĩa (1407 - 1409). - 3. Trần Quý Khoách (1409 - 1413) Chương 10 - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ Minh thuộc (1417 - 1427) 1. Giai đoạn đen tối. - 2. Giai đoạn tươi sáng. - 3. Cuộc tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc). - 4. Trận Tuy Động. - 5. Việt quân phong tỏa Đông Đô. - 6. Trận chi Lăng. - 7. Quân Minh xin hòa giải. - 8. Việc cầu phong. Nhà Hậu Lê (1428 - 1527) I. Lê Thái Tổ (1428 - 1433) 1. Học chính. - 2. Luật pháp. - 3. Hành chánh. - 4. Cải cách điền địa. - 5. Binh chế. - 6. Việc giết công thần. II. Lê Thái Tông (1434 - 1442) Cái án Lê Chi Viên (1442) III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459) IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497) 1. Việc chính trị. - 2. Tổ chức hương thôn. - 3. Việc đình. - 4. Hành chính. - 5. Quan chế. - 6. Thuế đinh. - 7. Thuế điền thổ. - 8. Nông nghiệp. - 9. Luật pháp bảo vệ nhân quyền. -- 10. Quyền lợi xã hội. -- 11. Tổ chức võ bị. -- 12. Võ công đời Hồng Đức. - 13. Văn trị đời Hồng Đức. V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504) VI. Lê Túc Tông (1504 1505) VII. Lê Uy Mục (1505 - 1509) VIII. Lê Tương Dực (1510 - 1516) IX. Lê Chiêu Tông X. Lê Cung Hoàng (1516 - 1527) Chương 11 - Nhà Mạc (1527 - 1667) Mạc Đăng Dung (1527 - 1529) 1. Tình trạng Việt Nam đầu thế kỷ XVI. - 2. Tiểu sử Mạc Đăng Dung. - 3. Vụ Trần Thiêm Bình thứ hai. - 4. Một cuộc chiến tranh tâm lý. - 5.Vụ án Mạc Đăng Dung. Chương 12 - Loạn phong kiến Việt Nam. Nam Bắc triều (1527 - 1592) Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim. - 2. Biến cố tại Nam triều. - 3. Thất bại của Bắc triều. Chương 13 - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775) 1. Họ Trịnh làm chúa miền Bắc. - 2. Họ Nguyễn xưng hùng phương Nam. Chương 14 - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 - 1775) 1. Đại chiến lần thứ nhất (1627). - 2. Đại chiến lần thứ hai (1630) - 3. Đại chiến lần thứ ba (1635). - 4. Đại chiến lần thứ tư (1648). - 5. Đại chiến lần thứ năm (1655) - 6. Đại chiến lần thứ sáu (1661) - 7. Đại chiến lần thứ bảy (1672). Chương 15 - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn Chương 16 - Những vụ phiến loạn dưới đời chúa Trịnh Chương 17 - Các hoạt động của Nguyễn Chương 18 - Các cuộc chiến tranh cuối cùng của hai họ Trịnh - Nguyễn (1774) Chương 19 - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) 1. Tiểu sử nhà Tây Sơn. -- 2. Tây Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt. - 3. Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm. - 4. Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. - 5. Nguyễn Huệ ra Thăng Long. - 6. Chim Bằng gẫy cánh. Chương 20 - Một võ công oanh liệt bậc nhất của Việt Nam cuối thế kỷ XVIII 1. Cái chết của Vũ Văn Nhậm. - 2. Chiến sự Việt-Thanh. - 3. Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình. - 4. Chính trị của vua Quang Trung. - 5. Vua Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu. cuộc chiến tranh cuối cùng giũa Tây Sơn và Cựu Nguyễn 1. Nguyễn vương quật khởi. - 2. Nguyễn vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790). - 3. Qui Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba. - 4. Phú Xuân đổi chủ. - 5. Nguyễn Vương ra Bắc Hà. Chương 21 - Người Âu Châu sang Việt Nam 1. Việt Nam dưới con mắt người Pháp. - 2. Đạo Thiên Chúa. Chương 22 - Nhà Nguyễn (1802 - 1945) I. Gia Long (1802 - 1820) 1. Thế tổ xưng đế hiệu. - 2. Bộ máy chính quyền trung ương. - 3. Các địa hạt hành chính lớn. - 4. Binh chế. - 5. Công vụ. - 6. Việc học hành và luật pháp. - 7. Việc tài chính. - 8. Việc ngoại giao với Pháp. - 9. Việc ngoại giao với Trung Quốc. - 10. Giao thiệp với Miên-Lào-Tiêm La. - 11. Bàn về loạn phong kiến ở Việt Nam. -12. Vài ý kiến về vua Gia Long. II. Thánh Tổ (1820 - 1840) 1. Hoàn thiên bộ máy chính quyền. - 2. Việc học hành thi cử. - 3. Sách vở. - 4. Những cuộc phiến loạn. - 5. Việc ngoại giao với Pháp. -- 6. Việc Ai Lao và Chân Lạp. - 7. Việc cấm đạo. - 8. Bàn về Thánh Tổ. III. Hiến Tổ (1841 - 1847) Cá nhân của vua Hiến Tổ. - 2. Việc Chân Lạp và Tiêm La. - 3. Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam. Phần Thứ Tư Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp Chương 1 - Dực Tông (1847 - 1883) 1. Vua Tự Đức và tình thế Việt Nam giữa thế kỷ XIX. - 2. Việc ngoại giao và cấm đạo. - 3. Việc văn học và binh chế. - 4. Những vụ phiến động trong nước. Chương 2 - Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt Nam 1. Nguyên nhân của sự xâm lăng. - 2. Đặc phái viên Pháp đến Việt Nam. - 3. Việt Nam mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ. - 4. Phản ứng của triều đình Huế. - 5. Phong Trào kháng Pháp ở Nam Kỳ. - 6. Người Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. - 7. Những nghĩa sĩ miền Nam. Chương 3 - Quân Pháp đánh Bắc Kỳ 1. Nguyên nhân việc người Pháp ra Bắc. - 2. Pháp quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I. -3. Hòa ước năm Giáp Tuất (1874). - 4. Hà thành thất thủ lần thứ hai. - 5. Sự phế lập ở Huế. - 6. Hòa ước năm Quí Mùi (1883). - 7. Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai. - 8. Hòa ước Patenôtre (1884). Chương 4 - Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam Phong trào Cần vương cứu quốc. - 2. Phong trào Văn Thân kháng Pháp. - 3. Vua Thành Thái (1884 - 1907). - 4. Vua Duy Tân (1907 - 1916). - 5. Cuộc bảo hộ của nước Pháp. Chương V - Những cuộc tranh thủ độc lập của Việt Nam từ 1928 - 1954 Xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. - 2. Những cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. - 3. Cuộc đảo chánh 9-3-1945. - 4. Lá bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long. - 5. Cuộc chiến tranh Thực - Cộng (1945 - 1954). - 6. Thỏa hiệp Genève. - 7. Kết Luận Tài liệu tham khảo Ý kiến của văn gia trí thức về Việt Sử Toàn Thư Phụ lục 1: Bảng đối chiếu các triều đại Việt Nam với triều đại Trung Hoa Phụ lục 2: Thế Phả họ Nguyễn Phụ lục 3: Thế Phả họ Trịnh VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Lời Giới Thiệu & Lời Tác Giả: Kính dâng hương hồn song thân đã sớm hun đúc cho con một tấm lòng thiết tha với đất nước để viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc. Phạm Văn Sơn "Chim Việt làm tổ cành nam (Việt điểu sào nam chi)", một câu nói ngắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa thật sâu: người Việt Nam không bao giờ quên được cội nguồn của mình! Nhờ tinh thần đó mà trên trường quốc tế, dù phải chịu một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Nhưng hiện nay, với chính sách hủy diệt văn hóa truyền thống dân tộc trong nước, và sức lôi cuốn mãnh liệt của nền văn minh vật chất Âu Mỹ ngoài nước, dân tộc chúng ta đang phải đối đầu với một hiểm họa diệt vong mới, có mức độ trầm trọng hơn tất cả các hiểm họa đã gặp phải trong quá khứ. Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn, phát xuất từ đáy lòng của mọi người Việt mới giúp chúng ta vượt qua được hiểm họa này. Chỉ có lòng yêu quê hương thiết tha mới là động cơ bắt chúng ta chung góp tâm trí vào việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa cao quý của cha ông để lại. Với mục tiêu duy nhất là nuôi dưỡng lòng yêu nước cần thiết trong lòng mọi người Việt tại Nhật, sinh thành những tâm hồn thiết tha với quê hương, dân tộc, chúng tôi đã mạn phép in lại 600 bộ Việt Sử Toàn Thư này của Sử Gia Phạm Văn Sơn để phân phối trong cộng đồng người Việt tại Nhật. Với công trình khảo cứu sâu rộng của Sử gia yêu nước Phạm Văn Sơn và tính chất khách quan, dân tộc, khoa học, phong phú, giản dị ... của bộ sách này, chúng tôi mong muốn mỗi gia đình Việt Nam tại Nhật sẽ có ít nhất một bộ, lúc nào cũng có trong nhà, để dễ dàng chỉ dạy con em về lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt. Chúng tôi cũng chân thành cảm tạ Hiệp Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn Đông Dương đã yểm trợ toàn thể chi phí để in lại bộ sách này. Hiệp Hội Người Việt Tại Nhật Bản Nhật Bản, 1983 Nam Nghệ Xã Cùng Bạn Đọc Thân Mến Từ mười hai năm nay, bước chân vào làng sử học, chúng tôi đã được hân hạnh giới thiệu các bạn văn gia trí thức và học sinh một tổ tác phẩm nhỏ như Việt Nam Tranh Đấu Sử, Việt Nam Hiện Đại Sử Yếu, Vĩ Tuyến 17, Việt Sử Tân Biên quyển I, II, III. Những cuốn sách này được tái bản nhiều lần và trước những sự đóng góp của chúng tôi đối với văn hóa nước nhà, các bạn đọc đã tỏ có nhiều cảm tình và tin cậy, do đó để tạ lòng tri kỷ bốn phương hàng năm chúng tôi tiếp tục gửi đến tay các bạn những tác phẩm về sử học. Gần đây, Việt sử tân biên được các bạn trí thức trong nước và ngoài nước đặc biệt lưu ý và tán thưởng trên các báo Bách Khoa, Thế Giới Tự Do, Tân Dân, Chỉ Đạo, Ngôn Luận, Tự Do, v.v... nhưng bộ sử này còn tới 4 cuốn nữa mới hết, tức là phải xuất bản đều đặn luôn bốn năm mới hoàn thành. Trong lúc này, nhiều bạn giáo sư và học sinh thường gửi thư đến chúng tôi yêu cầu nên gấp rút soạn một cuốn Việt sử tân biên thâu hẹp gồm đủ chi tiết từ Thượng cổ thời đại đến hết thời Pháp thuộc để tiện dụng hơn trong các trường học. Theo ý các bạn, Việt Sử Tân Biên gồm 7 cuốn chỉ lợi ích nhiều cho các giáo sư sử địa, các văn gia trí thức cần biên khảo rộng rãi và cho một số sinh viên nặng tình đặc biệt với sử học. Quả vậy, chúng tôi đã đọc khá nhiều sách, chuyện ký để viết một bộ sách có mục đích giúp các bạn kể trên khỏi mất nhiều thời giờ tìm tòi sử liệu và nghĩ ngợi về sự bình giải, mặc dầu công việc của chúng tôi vẫn có thể còn nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, từ trên 30 năm nay, tuy trong các thư viện của chúng ta đã có một sách về lịch sử, nhưng các sách này vẫn còn mang nặng ảnh hưởng của tư tưởng thời phong kiến, đế quốc. Nếu cần tiến bộ, tất nhiên ta phải có những cuốn sử mới viết theo quan niệm rộng rãi và tinh thần phóng khoáng của trào lưu dân chủ ngày nay cùng gồm thâu được nhiều điều mới lạ do sự khám phá hay sưu tầm của các học giả cận đại, hiện đại. Hôm nay, Việt Sử Toàn Thư ra mắt các bạn. Chúng tôi hy vọng tác phẩm này sẽ hợp với nhu cầu của tình thế một phần nào, góp được ít nhiều công quả cần thiết cho sự phát triển và xây dựng văn học của nước nhà trong giai đoạn mới của lịch sử. Tuy nhiên do sử học nước nhà chưa hết phôi thai, ấu trĩ, sử liệu lại thất đắc khá nhiều qua các quốc biến, sách này không khỏi có điều lỗi lầm, sơ sót. Trong khi chờ đợi một hoàn thiện, chúng tôi xin sẵn sàng chào đón sự uốn nắn và chỉ bảo của các bạn trí thức gần xa. Sài gòn ngày 14 tháng 3 năm Canh Tý Phạm Văn Sơn VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Phần 1 – Chương I - Địa lý thiên nhiên Việt Nam - Người Việt Nam - Gốc tích của người Việt Nam Địa lý thiên nhiên Việt Nam Việt Nam ngày nay là một nước trên bán đảo Đông Dương ở vào khoảng giữa Ấn Độ và Trung Hoa thuộc Châu Á hướng về phía Nam. Bắc, Việt Nam giáp Trung Hoa (giáp giới ba tỉnh miền Nam Trung Quốc: Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây), Tây giáp Ai Lao, Cao Mên, Đông giáp bờ biển Nam Hải. Một đằng khác, ở Đông Nam Châu Á, bán đảo Đông Dương trong đó có Việt Nam nhìn qua quần đảo Phi Luật Tân và chuỗi chân về phía Nam như đạp xuống quần đảo Mã Lai mà vị trí cùng mối liên hệ đối với bán đảo Đông Dương có thể ví với Địa Trung Hải ở Âu Châu. Nước Việt Nam giống hình chữ S hẹp ở giữa, rộng hai đầu. Chiều cong vòng theo bờ biển bắt đầu từ vịnh Bắc Việt, lượn vào đến đầu Trung Việt dần dần ưỡn ra, xuống đến Nam Việt thì chiều cong lại dần dần ăn vòng vào theo một đường rất êm dịu. Diện tích rộng chừng 312.000 cây số vuông trong đó: Bắc Việt: 105.000 cây số vuông Trung Việt: 150.000 cây số vuông Nam Việt: 57.000 cây số vuông. Bắc Việt chia ra làm ba miền: Thượng du có nhiều rừng núi chạy vòng cánh cung theo hình thể xứ Bắc, như chiếc quạt xòe ra từ nơi giáp miền Thượng Lào chạy sát các vùng biên giới Việt Hoa. Ngọn núi cao nhất là Hoàng Liên Sơn (3.141 thước). Trung du là miền ở giữa trung châu và thượng du, sát các khu rừng núi. Trung châu đáng chú ý vì có nhiều đồng bằng, sẵn ruộng đất để cầy cấy và sông ngòi thuận tiện cho mọi việc giao thông (sông Hồng Hà phát nguyên từ Tây Tạng có nhiều chi nhánh tản mác khắp Trung Châu, sông thường không rộng lắm) – dân cư rất đông đúc, thóc lúa, ngô, khoai có nhiều. Trung Việt là một giải đất hẹp, có dẫy Trường Sơn giống như cái xương sống chạy dọc từ Bắc Việt vào Nam Việt, có thể ví là cái bình phong ngăn cách hai xứ Việt Lào, ở đây ruộng đất hiếm hoi, khô khan, vì vị t rí sát bể và núi nên sự sinh sống của dân chúng trông vào lâm sản và hải sản hay ngư lợi (nghề đánh cá). Kinh tế nông nghiệp ở đây không được phong phú như ở miền Bắc Việt và Nam Việt có thể coi là hai vựa thóc của Việt Nam. Nam việt ở khúc dưới sông Cửu Long có sông Tiền Giang, Hậu Giang, Vàm Cỏ và Đồng Nai chạy dài trên toàn cõi, lại có nhiều đất ruộng nên rất thịnh đạt về nông nghiệp. Nhân dân ở đây không đông đúc mấy, tương đối với tổng số diện tích đất đai, vừa sống với biển, vừa sống với ruộng vườn nên không chật vật, vất vả như dân Bắc Việt bị nạn nhân từ bao nhiều đời. (Mật độ dân cư trung bình lên tới 800 người trên một cây số vuông, có chỗ lên tới 2.000 người, điều ít thấy ở một nơi nào trên thế giới ngày nay.) Việt Nam là một xứ thuộc nhiệt đới, nhưng khí hậu có khác nhau từ Nam ra Bắc, thường nóng và ẩm thấp. Bắc Việt giáp giới Trung Quốc là một miền ôn đới, có bốn mùa rõ rệt, mùa xuân đầm ấm, có nhiều ngày lất phất mưa, cũng có khi lạnh. Trong mùa này, cây cỏ mọc mạnh. Mùa hè nóng bức, có khi rất oi ả, khó chịu, nhưng cũng là mùa để thảo mộc sinh sối nảy nở, thuận tiện cho nông nghiệp. Các bệnh dịch tả nhất là đối với con trẻ hay phát sinh trong vụ hè. Vào khoảng tháng sau hay tháng bảy, thường có nước lớn do những trận mưa rào như trút nước từ các vùng thượng du về đồng bằng dễ sinh ra nạn nước lụt, xưa kia hay phá vỡ đê điều, gây nên nhiều sự thiệt hại về tài sản và tính mệnh cho dân chúng vùng Trung Châu. Cuộc chống chọi với nước lũ hằng năm đe dọa đê điều, đáng kể là một công cuộc vĩ đại của dân tộc Việt nam trải qua bao nhiêu thế kỷ trong khi khoa học chưa được áp dụng. Đây là một cuộc chiến đấu giữa Người và Thiên Nhiên, có lẽ đã hun đúc cho dân tộc chúng ta cái đức tính kiên nhẫn và một tinh thần chiến đấu đáng kể. Trái lại vì lụt mà ruộng đất thêm màu mỡ, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Mùa thu có những ngày nắng dịu nhưng về những ngày chót, đời sống của cỏ cây bắt đầu ngưng trệ cho đến mùa đông thì rõ rệt là mùa thu, nắng hanh thường hay phát sinh các bệnh lặt vặt và gió bấc lạnh thổi buốt kèm với mưa phùn lại có những sự thay đổi thời tiết đột ngột, đang nóng đổi ngay ra lạnh. Từ cửa Hàn trở vào Nam Việt khí hậu hình như riêng biệt. ở đây có rõ rệt hai mùa mưa, nắng, nhất là ở Nam Việt, nghĩa là có 6 tháng nắng. Trong một ngày có nhiều trận mưa rào đổ xuống trong chốc lát rồi trời lại nắng rào như thường. Buổi tối thường có gió mát. Ở đại phương này vấn đề thực phẩm, khí hậu và nông nghiệp chịu ảnh hưởng của biển rất nhiều. Sống trên đất Việt Nam, ngoài dân tộc Việt Nam còn có nhiều giống khác nữa tại các vùng sơn cước mà người Việt ngày nay gọi là các đồng bào Thượng, vì trải qua bao nhiêu thế hệ đã cùng sinh sống với nhau tuy không trực tiếp nhiều, nhưng đã cùng chung lưng đấu cật những biến cố lớn lao của lịch sử và không hề có sự mâu thuẫn gì về quyền lợi tinh thần hay vật chất. Ở miền thượng du Bắc Việt có dân Thái, Thổ, Mường, Mán, Mèo, Nùng, Yao, Lô Lô... Ở các miền rừng núi Trung Việt có giống Mọi và Chàm. Ở Nam Việt trong các vùng sơm lâm cũng có dân Mọi, Chàm, các thành thị có Chà Và, Hoa Kiều, cùng người Thổ nguồn gốc Cao Mên, lâu đời sinh sống ở đây vui vẻ êm ấm như người Việt và không bị một đố kỵ nào hết. Nhân dân Việt Nam ở Bắc Việt có vào khoảng 9 triệu người, Trung việt có độ 6 triệu, Nam Việt có chừng 5 triệu, đó là con số ước lượng 30 năm về trước. Giờ đây có thể con số đó đã vượt quá rồi. Còn dân miền núi cũng tới trên dưới một triệu. 2 – Người Việt Nam Người Việt Nam thuộc giống da vàng. Kẻ làm nghề lao động dầm mưa dãi nắng da ngăm ngăm đen. Người làm các nghề nhàn nhã ít ra ngoài trời thì da trắng mầu ngà. Về chiều cao, người Việt Nam phần nhiều tầm thước (không cao không thấp), nhỏ hơn người Tầu chút ít – mặt phần nhiều xương xương, trán cao rộng, mắt đen và hơi xếch về phía bên, gò má cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dầy, răng to thường khểnh, râu thưa, tóc đen và nhiều, cắt ngắn. Dáng đi lanh lẹ, vẻ mặt lanh lợi, thân hình mảnh dẻ nhưng cũng cứng cáp và vững chắc. Y phục của người đàn ông Việt Nam thường dài, rộng trong áo hẹp. Người lao động vận quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng mầu trắng, chốn thôn quê dùng mầu nâu hoặc đên, đi ra ngoài thăm bè bạn, dự lễ nghi thường mặc thêm chiếc áo thâm dài quá gối. Ở chốn thôn quê thì thêm chiếc khăn đen hay quấn ngang đầu làm cho vẻ mặt thêm phần nghiêm trang. Ngày nay, ở các thành thị, những người tân tiến như các công chức, trí thức, sinh viên là những phần tử có tiếp xúc với văn hóa Tây Phương thường vận Âu phục do lẽ thuận tiện và mỹ thuật. Phụ nữ Việt Nam ở các đô thị Bắc Việt và Trung Việt thường mặc quần trắng hay đen, nhưng áo dài thì thay đổi nhiều mầu, chit khăn đen, cuộn tròn quanh đầu. Ở thôn quê thì mặc váy, có yếm che ngực, lại cũng có nhiều người mặc quần như đàn bà thành thị. Ở Nam Việt, đàn bà ưu mặc quần đen, áo ngắn và búi tóc. Người đàn bà Việt Nam có nhiều đức tốt hơn là thói xấu. Phần lớn từ thành thị đến thôn quê, người đàn bà lo buôn bán, cày cấy, biết tần tảo, chịu thương khó và rất hy sinh cho chồng con. Sự kiện tốt đẹp này là do ảnh hưởng của giáo lý Khổng mạnh đã đi sâu vào đời sống tinh thân của dân tộc chúng ta từ ngót hai ngàn năm nay. Gần một thế kỷ trở về đây, Việt Nam lại tiếp xúc với Tây phương, phụ nữ Việt Nam hấp thụ văn hóa Âu Mỹ đã tỏ ra có nhiều khả năng trên trường học vấn và đã có những sự tranh đấu về quyền lợi gia đình, xã hội với nam giới. Bàn về các điều tốt xấu trong con người Việt Nam, ta thấy đồng bào ta thông minh, nhớ dai, có óc nghệ thuật, khéo tay chân, giàu trực giác hơn là luận lý, ưa điều đạo đức, ham chuộng văn chương. (Có người nói người Việt ta thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thiết tưởng không đúng, chẳng qua chúng ta trong mười thế kỷ mất độc lập, chịu ảnh hưởng văn hóa nô dịch nên không được hướng dẫn phải đường, phải lối mà thôi, chớ không phải là ta không biết trọng thực học). Chúng ta lại còn đức tính lễ phép và biết ơn, chuộng hòa bình và giàu có hy sinh. Người lao động rất cần cù và nhẫn nại, có sức chịu đựng những việc nặng nhọc rất bền bỉ, nhất là các đồng bào miền Bắc. Người đi lính ra trận rất trọng kỷ luật và can đảm. Nói đến người lính đây tức là lớp nông dân của chúng ta trong vai trò tranh đấu cho Tự do và Độc lập của xử sở từ bốn ngàn năm lập quốc đến giờ rất đáng phục. Tinh thần dân tộc được như vậy là nhờ ở hoàn cảnh kinh tế, địa lý, văn hóa và chính trị cấu tạo nên bởi: 1) Bắc giáp Trung Quốc, Nam giáp Chiêm Thành là hai gọng kìm ghê gớm, luôn luôn xiết chặt vào dân tộc chúng ta. 2) Rừng núi Bắc Việt hoang vu và nhiều thú dữ. 3) Đồng bằng Bắc Việt hay bị lụt lội và hạn hán. 4) Miền duyên hải Trung Việt hay nổi going tố. 5) Vì hai vị gió mùa đổi thay luân chuyển, khí hậu thường hay khô ráo và ẩm thấp. Đó là những yếu tố đã hun đúc cho chúng ta nhiều năng lực tranh đấu, sức chịu đựng với thiên nhiên và các cường bang ngoại địch. Chúng ta cũng có nhiều tính xấu như các dân tộc khác: Người dân trung lưu và hạ lưu hay nông nổi, háo danh, thích phô trương, mê cờ bạc, tin ma quỷ, sung việc cúng bái, không nhiệt tín tôn giáo nào cả, ham kiện cáo, tinh vặt và quỷ quyệt. Tiếng nói của người Việt có thể cho là đồng nhất, mặc dầu có sự phân biệt Trung – Nam – Bắc, giọng nói hơi nặng nhẹ ở một vài nơi, nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt lắm từ Nam ra Bắc. Xã hội Việt nam gồm 4 giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương, cùng sống dưới chế độ phong kiến lâu đời, nhưng không có nhiều chia rẽ quá đáng như ở nhiều dân tộc khác. Tóm lại, Việt Nam, nếu đem so sánh với nhiều dân tộc khác thì rõ rệt có rất nhiều đức tính thuần nhất nhờ đó mà có đủ sức mạnh vật chất, tinh thần để giải quyết nhiều việc khó khăn nội ngoại, qua nhiều thế hệ. Tiếng nói của người Việt có thể cho là đồng nhất vì mặc dầu có sự phân chia Trung-Nam-Bắc, giọng nói có hơi nặng nhẹ ít nhiều, nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt từ Nam ra Bắc. Đây là sự trình bày đại khái về vị trí, tính tình, phong tục của người Việt Nam. Chúng tôi xin nghiên cứu kỹ lưỡng thành từng vấn đề ở những trang dưới đây tùy theo sự thuận tiện của việc biên khảo. 3- Gốc tích của Người Việt Nam Bàn về gốc tích dân tộc Việt Nam, những nhà làm sử của chúng ta và các học giải ngoại quốc thường không đồng ý kiến. Nguyên do dân tộc Việt nam là một dân tộc rất cố cựu, ra đời trong khi khoa học, nhân chủng, địa dư học và sử học chưa khai triển. Thêm vào đó, dân tộc Việt Nam từ bốn ngàn năm lập quốc, trải qua bao nhiêu cuộc biến chuyển của Lịch sử, sống một cuộc đời bất định từ lưu vực sông Nhị Hà, sông Mã cho tới ngày nay mới ngừng hẳn bên bờ biển Tiêm La. Nhiều nhà khảo cổ Pháp cho rằng người Việt Nam phát tích ở miền núi Tây Tạng cũng như người Thái, qua các triều đại di cư dần xuống Bắc Việt, lần xuống phía Đông Nam và lập ra nước Việt Nam ngày nay. Còn người Thái lần theo sông Cửu Long (Meekong) tạo ra nước Tiêm La và Mên, Lào. Như vậy dân tộc Việt Nam là một trong nhiều dân tộc đã do các miền Tây Bắc Trung Hoa là nguồn gốc. Đồng thời, một vài dân tộc khác ở các quần đảo Đông Nam di cư lên như dân Mã Lai, dân Phù Nam, Chiêm Thành cũng tập hợp trên bán đảo Đông Dương. Có thuyết cho rằng người Việt thuộc giống Anh-đô-nê-dieng (Indonésien) bị giống A-ri-ăng (Aryens) đánh bạt ra khỏi Ấn Độ phải chạy qua bán đảo Hoa Ấn. Tới đây ta chia ra làm hai ngành, một ở lại bán đảo Hoa Ấn tiêu diệt đám thổ dân ở đây là người Mê-la-nê-diêng (Meslanésien), một thiên xuống Nam Dương quần đảo - Ở mạn Bắc, ta hòa going với người Mông Cổ, chịu ảnh hưởng văn minh Trung Quốc. Ở mạn Nam giống Anh-đô-nê-dieng hợp thành giống Cao Mên và Chiêm Thành, chịu văn hóa Ấn Độ. Ngay ngành ở mạn Bắc cũng chia ra hai chi phái: một sinh tụ ở Trung Châu sông Nhị Hà và các miền duyên hải, nhờ các đất cát phì nhiêu lại chịu nhiều cuộc biến chuyển lịch sử mà tiếp xúc được với văn hóa Trung Quốc nên tiến bộ mau lẹ. Còn chi phái kia lần lên các vùng cao nguyên, sống với rừng núi – chịu ảnh hưởng của giống Thái ở lân cận tuy vẫn giữ được nền nếp cũ là các tổ chức và thể chế phong kiến. Các người Mường hiện cư trú tại Hòa Bình và Nghệ An ngày nay là di duệ của chi phí này. Ông Lesonard Augousseau, căn cứ vào sách Tàu, cho rằng người Việt Nam thuộc dòng dõi người nước Việt đời Xuân Thu tức là thuộc quyền Quốc Vương Câu Tiễn thời đó (cuối thế kỷ thứ 6 trước Công Lịch), đóng kinh đô ở thành Thiệu hung, tỉnh Chiết Giang ngày nay. Năm 333 trước Công Lịch, nước Sở đánh bại người Việt, người Việt chạy lùi thêm xuống miền Nma chia ra làm phái: 1) Đông Âu hay là Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (Phía Nam tỉnh Chiết Giang). 2) Mân Việt tụ tập tại Phúc Châu tức Phúc Kiến. 3) Nam Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây. 4) Lạc Việt hay là Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây. Và miền Bắc Việt của chúng ta bây giờ. Chúng ta thuộc thị tộc nào? Tác giả cuốn “Nguồn gốc dân tộc Việt Nam” như chúng tôi xét, cũng không đứng ngoài thuyết này. Giao Chỉ và Việt Thường Theo sự khảo cứu của ông Đào Duy Anh, ở đời thái cổ từ Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương trong lịch sử Trung Hoa, trong khi người Hán tộc đương quanh quẩn ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị Thủy thì ở miền Nma trong khoảng lưu vực sông Dương Tử, sông Hán và sông Hoài có những giống người văn hóa khác hẳn với văn hóa người Phương Bắc. Trong thư tịch của người Trung Hoa, bọn người đó là Man Di sống ở bên các bờ sông, bờ biển, các đầm hồ và trong các rừng hoang. Họ sinh hoạt bằng nghề chai lưới, săn bắt. Họ có tục đặc biệt là xâm mình và cắt tóc ngắc; để giải thích phong tục đó người ta nói rằng người Man Di hằng ngày lăn lội dưới sông, biển thường bị giống Giao Long làm hại nên xêm mình thành hình trạng Giao Long để Giao Long tưởng là vật cùng người giống mà không giết hại. Từ đời Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa rất sớm là người Giao Chỉ đã giao thiệp với người Hán tộc. Đem đối chiếu những điều trong thư tịch thì Giao Chỉ ở về miền Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh. Người Hán tộc gọi nhóm Man Di đó là Giao Chỉ. Ban đầu người Giao Chỉ xâm mình để thành hình trạng Giao Long rồi dần dần chính họ phát sinh mối tin tưởng mình là đồng chủng của giống Giao Long. Quan niệm “Tô Tem” bắt nguồn từ chỗ này. Người Hán thấy họ có hình trạng Giao Long, thờ Giao Long làm tổ nên gọi nơi họ ở là Giao Chỉ tức là miền đất của giống người Giao Long. Một thuyết khác cho rằng người Giao Chỉ có tên này do hai ngón chân cái giao nhau. Theo hai Bác sĩ P. Huard và Bigot trong Bulletin de la Société Médico-Chirurgicale de L’Indochine quyển XV, số 5 tháng 5, năm 1937 trang 489-506, dưới tiêu đề: “Les Giao Chỉ” thì việc người Giao Chỉ có hai ngón chân cái giao nhau không đáng coi là một điều đặc biệt, tức là nhiều dân tộc khác ở Á Đông cũng có hình tích này. Bộ Từ Nguyên (quyển Tí, trang 141) chép: Theo nghĩa cũ bảo hai ngón chân cái giao nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp có tiếng đối trụ, lân trụ để gọi loài người nhau). Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp với nghĩa đối trụ vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau. (Chữ Giao Chỉ chép ở Sử Tầu trước nhất vào đời Thần Nông). --Ngoài nghề đánh cá là nghề căn bản, người Giao chỉ ở nơi đầm lầy hay đất bồi đã biết trồng trọt và làm ruộng. Trong lúc này, ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương từ đời Nghiêu Thuấn đã có giống người Tam Miêu biết nghềcanh nông rồi; và người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của người Tam miêu. Căn cứ vào nghề đánh cá, nghề nông cùng chế độ vật tổ là đặc tính của xã hội thị tộc, người ta cho rằng người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng là ở cuối đời đá cũ và đầu đá mới (đã đẽo với đá mài) tuy chưa tìm được di tích sinh hoạt gì của họ ở dưới đất. Còn về thời Nghiêu Thuấn, những đồ làm ruộng toàn bằng đá cả, xét vào các di vật đào được ở Ngưỡng Thiều tỉnh Hà Nam và ở lưu vực sông Hoàng Hà. Họ làm nhà bằng cây, bằng tre hay nứa, có lẽ như nhà sàn của người thượng du ngày nay, trên các đầm hồ hay khe núi. (Theo thiên Vũ Cống ở miền đất châu Kinh có nhiều tre). Sách xưa chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt Thường đã có phen thông sứ với Chu Thành vương và có cống một con bạch trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu (ở giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương), trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương. Vua Sở Hùng Cừ (thế kỷ thứ 9) phong cho con út là Chấp Tỳ ở đây. Nước Việt Thường bắt đầu suy từ khi có Sở thành lập ở miền Hồ Nam, Hồ Bắc sau những cuộc lấn đất về phía Tây (của Việt Thương qua đến đời Hùng Cừ đất Việt Chương ở miền hồ Phiên Dương thời hết). Người Việt Thường cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như người Giao Chỉ, có lẽ cũng có tục xâm mình nhưng họ thông thạo nghề nông hơn. Theo thiên Vũ Cống thì miền châu Kinh và châu Dương có những sản vật như vàng, bạc, gỗ quý để làm nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngưu , vải gai… Dân Việt Thường còn biết chế độ đồng đỏ. Trình độ kỹ thuật đã tới trình độ đá mới. Họ cũng sống theo chế độ thị tộc và cũng có tín ngưỡng “Tô Tem” như người Giao Chỉ. Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và Việt Thường thế nào đến nay vẫn chưa được rõ rệt chỉ biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn nữa. Và địa bàn ức đoán của Việt Thường choán một phần Đông Nam của Đại bàn ức đoán của người Giao Chỉ. Ngoài ra Việt Thường với Giao Chỉ đều là người Man Di thuộc về Việt tộc là giống người đã sinh tụ ở khắp lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện (đời Chu là nước Quý Việt), tỉnh Tứ Xuyên ra tới biển, nghĩa là suốt Châu Kinh, Châu Dương trong Vũ Cống. Cứ những điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông Gô Lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-dieng ở miền nam và Tây Nam Á Châu, (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống Tạng Miến (Tibéto-birman) và Anh-đô-nê dieng. Nhưng họ không khác biết nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng Miến gần nhau quá, nếu có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng này hay là để cùng thoát thai ở một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền A-Xam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á Châu. Bách Việt Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng Bà Âu Cơ sinh ra thăm con trai. Sự thực, về thời thượng cổ giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạ như các dân tộc thiểu số ngày nay tại miền Thượng du. Đến đời nhà Chu các câu lạc bộ này đi dần đến chỗ thống nhất do những biến thiên của Lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là: Đông Việt hay ĐÔng Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt. Sau này ba nhóm trên bị đồng hóa theo Hán tộc, còn lại trên lịch sử đến ngày nay là nhóm Tây Âu và Lạc Việt. Vào thế kỷ thứ 9, một số thị tộc người Việt ở Chiết Giang có lẽ có quan hệ với những phần tử Việt tộc ở Nam bộ Trung Hoa và đối với Lịch sử của chúng ta là người VIệt Nam ngày nay nữa. Họ lập thành nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị thuộc về thị tộc Mị cùng họ với mua nước Sở. Buổi đầu tiên trên bốn thế kỷ trước đời Câu Tiên, nước Việt chỉ là một nước phụ dung của nước Ngô, một nước lớn ở lưu vực sông Giang và sống Hoài. Cuối thế kỷ thứ 6 vua nước Ngô là Hạp Lư giận vua nước Việt là Doãn Thường Tuy Lý (phủ Gia Hưng). Doãn thường chết, con là Câu Tiễn đen quân quyết tử trả thù giết được Hạp Lư. Cháu Hạp Lư là Phù Sai, cũng trả thù cho ông, diệt được nước Việt. Sau này Câu Tiễn nhờ được bề tôi giỏi là Văn Chủng và Phạm Lãi khôi phục được nước Việt, phá được Ngô, xưng bá miền Giang Hoài (năm 402). Ngôi bá chủ này, con cháu Câu Tiễn còn giữ được ba đời nữa, đến đời thứ 4 thì thất bại ở Giang Đông. Bốn mươi tám năm sau đời Câu Tiễn thì nước Việt suy. Bốn mươi sau năm nữa, nước Việt bị Sở thôn tính. Trong lịch sử 600 năm của nước Việt, Câu Tiễn đã là người anh hùng làm nước Việt nhỏ bé bán khai ở miền Giang Nam nổi lên thành một nước mạnh tung hoành non một thế kỷ ở một phương, mở rộng cương vực choán một phần lớn tỉnh Chiết Giang về phía Nam, và một phần lớn tỉnh Giang Tây về phía Bắc, tuy miền Giang Tây chỉ là phạm vi thế lực. Trạng thái sinh hoạt vật chất của nước Việt đại khái như sau đây: cũng như người nước Ngô, người Việt vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô sơ, lại chưa biết dùng cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng đất cao và ăn trọng yếu là tôm cá, sò hến. Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu. Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc biệt về mặt thủy trong các cuộc xung đột với Trung Quốc từ 20 thế kỷ nay). Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di tích đến đời Hậu Hán. Về văn hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba tiếng Hán. Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục khắc cánh tay để ăn thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa “Tô Tem”. Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết rất thành kính. Các nhà qúy tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá, đất hay đồng, vào áo quan để người chết có các thứ dùng. Xét các đồ đồng và đồ gốm khai quật được ở Chiết Giang, các nhà khảo cổ buộc các nghệ thuật của các đồ ấy vào một nghệ thuật lớn gọi là nghệ thuật Đông Sơn, có nhiều đặc điểm tương tự với nghệ thuật đời chiến quốc ở miền sông Hoài. Những đặc điểm ấy là hình trôn ốc cập đôi và hình giây bện. Ông Đào Duy Anh cho rằng nghệ thuật ấy chính ở miền Ngô Việt lúc thinh thời đã có rồi. Sau đó sự xúc tiếp với người Hán ở miền Bắc, nghệ thuật đó có ảnh hưởng đến nghệ thuật Chu Mạt hay Chiến Quốc và do sự di cư của Việt Tộc xuống miền Nam thành nghệ thuật Đông Sơn. Về tính tình, người Hán do người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ chết. Việt Tuyệt Thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ, ngoài ra người Việt lại thường hoài vọng phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ và chết. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến). Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sauk hi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lịa xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với người Hán tộc. Các nhóm khác là Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là thế nào, ngoài Ư Việt hay Vu Việt mà di chủng hiện còn lưu trên lịch sử là dân tộc Việt Nam do những quan hệ xa gần? Các nhóm này có từ bao giờ, chưa sử gia nào có thể trả lời một cách thỏa đáng, chỉ biết rằng họ đã có mặt ở các miền Nam bộ Trung Quốc đã lâu đời, trước khi nhà Tần đem quân vượt núi Ngũ Lĩnh xuống chinh phục họ. Bấy giờ họ đã thành các quốc gia tuy tổ chức về mọi phường diện chưa được quy củ lắm. Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế dộ quân chủ phong kiến. Sauk hi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiên lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với người Hán tộc. Các nhóm khác là Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là thế nào, ngoài Ư Việt hay Vu Việt mà di chủng hiện còn lưu trên lịch sử là dân tộc Việt Nam do những quan hệ xa gần? Các nhóm này có từ bao giờ, chưa sử gia nào có thể trả lời một cách thỏa đáng, chỉ biết rằng họ đã có mặt ở các miền Nam bộ Trung Quốc đã lâu đời, trước khi nhà Tần đem quân vượt núi Ngũ Linh xuống chinh phục họ. Bây giờ họ đã thành các quốc gia tuy tổ chức về mọi phương diện chưa được quy củ lắm. Đây số phận của họ từ triều đại nhà Tần quy triều đại nhà Đông Hán! Năm 218, năm đạo quân Tần gồm những người lưu vong, những rể thừa và lái buôn mở cuộc Nam chinh. Đọa quân thứ năm ngừng lại trên sông Dư Can trong tỉnh Quảng Tây ở phía Nam Hồ Phiên Dương phụ trách việc đánh Đông Việt và Mân Việt khi đó còn là những quốc gia mới chớm nở. Hai nhóm này xưa kia thần phục Sở. Sau Trung Quốc rối loạn, họ nhân đó mà giành lấy độc lập. Đông Việt bấy giờ đóng ở trung tâm điểm miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang về phía Nam Tâm Môn Loan. Mân Việt ở trung tâm điểm Mân huyện, thuộc Phúc Châu trong địa hạt Phúc Kiến ngày nay. Thế quân Tần bấy giờ đang mạnh, việc bình định được Trung Nguyên với cái kết quả rực rỡ huy hoàng cua rnos khiến hai nhóm Đồng VIệt và Mân Việt khiếp sợ, nhờ vậy mà quân Tần thắng nhanh chóng, dễ dàng ngay trong năm đầu. Việc chinh phục xong, Tân hợp hai nước lại làm một, đặt thành quận Mân Trung. Quốc Vương bản xứ hạ xuống làm quân trưởng (tù trưởng) để cai trị dân như cũ. Đến ít năm sau Tần suy biến, Đông Việt và Mân Việt theo chư hầu đánh Tần rồi lại giúp Hán đánh Sở. Hán Cao Đế năm thứ 5 (202) thưởng công cho tù trưởng Mân Việt là Vô Chu bằng tước Mân Việt vương. Đến Huệ Đế năm thứ 3 (192) chi lại đất Mân Trung cũ mà đặt thêm nước Đông Hải và cũng để đền đáp cho tù trưởng Đông Việt là Dao, Hán phong cho tước Đông Hải vương, đóng đô ở miền Vĩnh Gia. Sau này Mân Việt và Đông Việt xung đột với nhau đã là cơ hội rất tốt cho sự kiêm tính của nhà Hán. Buổi đầu hai nước này thuần phục nhà Hán những vẫn nuôi hoài vọng tiến về phương Bắc nếu có dịp thuận tiện cho nên cả hai đã phụ lực cho Ngô Vương Tỵ và Hoài Nam vương trong việc phản Hán. Nhà Hán e ngại Mân việt hơn hết. Rồi Hán dụ được Đông Việt giết Tỵ mà quay về với mình. Con Tỵ là Tu Câu xin Mân việt đánh Đông Việt năm thứ ba đời Vũ Đế (138). Đông Việt thế nguy cầu cứu Hán nhưng khi tưởng Hán là Nghiêm Trợ xuất binh thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước có loạn; Nghiêm Trợ đến Đông Âu lấy danh nghĩa cứu nạn đói liền dời một phần đông dân Đông Âu về Giang Hoài có ý rút bớt thực lực của Đông Âu để tránh hậu họa sau này. Có lẽ một phần dân Đông Âu đã chống lại chính sách này nên theo vua di chuyển xuống miền Nam gần Tuyên Sơn tỉnh Phúc Kiến. Năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), Mân Việt đem quân đánh Nam Việt. Nam Việt cũng cầu cứu nhà Hán –Vương Khôi được Hán Đế cử đi đánh Mân Việt cùng Hàn An Quốc một do đường Dự Chương, một do đường Cối Kê, nhưng chưa tới cõi Mân thì Mân Việt vì nội loại phải xin hàng. Nam Việt Nhóm Nam Việt cũng như Mân Việt và Đông Việt là một trong nhiều nhóm Việt tộc. Nó mang tên Nam Việt có lẽ tự khi nó có mặt ở miền Nam bộ Trung Hoa cùng thời với các nhóm trên đây, rồi sau này dưới đời Tần, Triệu Đà chinh phục được nhóm Nam Việt và Âu Lạc lập thành một đế quốc ở miền Đông Nam Á Châu và tự xung Đế. Chính đạo quân thứ tư trong năm đạo quân Tần đã ở phía Nam Dự Chương do đường Đại Du (nay là đèo Mai Lĩnh) tiến vào Quảng Đông là lãnh thổ của nhóm Nam Việt? Có lẽ đạo quân thứ 5 sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt đã theo đường bể do đèo Yết Dương tấn công vào Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Đạo thứ nhất, thứ nhì, thứ ba tiến vào phía Bắc Quảng Tây và Tây Bắc Quảng Đông không gặp sức kháng chiến nào đáng kể. Nhưng ít lâu sau họ bị người Tây Âu chống trả kịch liệt ở miền Quảng tây, vì vấn đề tiếp tế khó khăn do đường xá xa xôi, vì do khí hậu quá độc nên luôn trong ba năm đoàn quân viễn chinh của nhà Tần bị khốn đốn và hao mòn vô kể. (Xin coi việc kháng chiến của Tây Âu ở đoạn dưới dây). Bị ngưnglại, nhà Tần thiết lập bộ máy cai trị ở các nơi đã chiếm được như ở Đông Việt và Mân Việt –Quảng Đông và Quảng Tây thành r aba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Năm 214 việc đặt Quận, huyện thành tựu, nhà Tần cử Nhâm Ngao làm Đô Úy quận Nam Hải và Triệu Đà làm Huyện Lệnh Long Xuyên (Huyện thuộc Quận). Đến khi Trung Quốc có loạn, chư hầu nổ lên đánh đổ nhà Tần, nhà Hán ra đời thì Triệu Đà xưng Đế ở Nam Việt, chiếm địa phương này làm của riêng trong một giai đoạn nhưng sau cũng thần phục nhà Hán. Sau này Triệu Đà chết đi, các con cháu kế nghiệp bất tài, nhà Hán liền chiếm hẳn Nam Việt. Âu Lạc bấy giờ năm trong phạm vi ảnh hưởng của Nam Việt cũng nhào theo. Rồi Nam Việt cũng bị chia làm quận huyện. Tuy dân Nam Việt không bị cưỡng bức di cư như Đông Việt và Mân Việt để đồng hóa với Hán tộc, nhưng từ đời nhà Tần họ ăn chung ở lộn với mấy vạn quân Nam chinh và một văn năm ngàn phụ nữ Hán mà Triệu Đà được nhà Tần caapsp cho để giữ việc may vá cho quân lính nên ngay từ thời Nam Việt còn thịnh đạt đã có sự pha trộn giữa hai dân tộc Hán Việt… Một điều đáng chú ý là sau khi nước Việt bị diệt, nhiều nhóm tàn dân U Việt đã chạy xuống các miền Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến tụ họp với những người đồng tộc là Mân Việt và Đông Âu đã di cư từ trước. Họ có trình độ văn hóa cao nên khi hợp với các thị tộc chiếm đóng miền Nam trước họ thì họ đem đến đó một hình thức chính trị kinh tế cao hơn. Nhưng nhà quý tộc của họ họp thành những bộ lạc lớn mà tự xưng vương. Ngay từ khi họ còn sinh tụ tại miền Chiết Giang cho tới lúc họ tản mác dần xuống miền Đông Nam Trung Quốc. Để có một nhận định rõ rệt về mối liên hệ giữa người Việt Nam chúng ta ngày nay và các nhóm đồng tộc trên đây, chúng tôi xin trình bày các đặc tính văn hóa của người Bách Việt sau khi đã nói về U Việt cũng cùng về một vấn đề. Căn cứ vào những tài liệu rải rác ở các cổ sử như Sử ký. Hán Thư và nhất là tác phẩm của Hoài Nam vương Lưu An là người Hán sơ sinh trưởng ở miền tiếp cận của Bách Việt thì biết rằng người Việt xưa kia sống một cách rất đơn giản. Họ không có thành quách, thôn ấp. Họ ở trong các vùng rừng núi, bờ lau, khe suối. Họ rất thạo thủy chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn út mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền. Ở đảo Hải Nam cũng là nơi thuộc địa bàn của người Bách Việt, theo sách Hán Thư đàn ông cày ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, đay và gai. Đàn bà trồng dâu nuôi tằm. Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu vực sông Tây Giang miền Quảng Đông và Quảng Tây người Bách Việt cũng làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như dân Hải Nam vậy. Người Bách Việt đã biết nuôi gia súc như bò, dê, lợn, gà, chó. Họ có các sản vật quý giá như: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, trân châu, ngọc đỏ, bạc, đồng, trái cây (quả nhãn, quả vải) vải gai. Hẳn họ cũng biết kỹ thuật đồ đồng như người Ngô Việt nhưng chắc không tinh bằng dân Ngô Việt. Họ ít giao thông bằng đường bộ nên không dùng ngựa. Họ không giỏi thương mại nhưng vì có nhiều sản phẩm nên hay giao dịch với người Trung Quốc tại Quảng Đông, Hợp Phố, Tư Văn và Phiên Ngung một thời đã trở nên nơi đô hội lớn. Về kiến trúc họ chưa có gì đáng kể vì chỉ ở nhà sàn, nhà gác bằng tre và gỗ, vì ngay như thành trì để phòng ngừa quân địch họ cũng không có như người nước Việt trong thời cường thịnh. Họ chỉ nhờ thế rừng núi hiểm trở để tự vệ thôi. Về văn hóa tinh thần, họ cũng không khác người nước Việt mấy vàngười Hán cũng cho họ là khinh bạc và hiếu chiến. Họ vẫn còn sống theo chế độ thị tộc. Có lẽ riêng nhóm Đông Âu và Mân Việt đã tiến bộ hơn và đã tiến qua chế độ gia tộc. Về chính trị có lẽ họ ở giữa chế độ bộ lạc và phong kiến. Lạc Việt và Tây Âu Theo tác giả “Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam” tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam là nhóm Lạc Việt sinh tụ ở miền Trung Châu Bắc việt và miền Bắc Trung việt, nhưng nói một cách chuẩn đích rằng nhóm này đến chiếm đóng ở đây từ bao giờ thì chúng ta chưa có câu trả lời dứt khoát, chỉ biết khi Triệu Đà cát cứ ở huyện Long Xuyên thuộc Nam Hải (Quảng Đông) thì người Lạc Việt đã có mặt ở lưu vực sông Nhị Hà rồi. Ở đây họ đã tổ chức thành quốc gia tuy chưa ra khỏi tình trạng bán khai, và ngự trị quốc gia Lạc Việt bấy giờ là họ Hồng Bàng. Căn cứ vào Từ quảng (do Sử ký sách Án Dẫn) người Mân Việt ở Phúc Kiến đều họ Lạc cả khiến ta ngờ rằng người Lạc Việt ở Việt Nam bây giờ với Lạc Việt ở Phúc Kiến có mối liên hệ với nhau. Về Nhân loại học, ông Cl. Madrolle trong bài Le Tonkin ancian B.E.F.E.A XXXVII đã phát biểu ý kiếnrồi ức đoán ở Phúc Kiến có một nhóm Việt tộc làm nghề chài lưới, hàng hải đã dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hàng năm theo gió mùa, nhân gió bấc phiêu lưu theo dọc miền duyên hải rồi ghé vào miền Trung Châu sông Nhị, sông Mã (Việt nam). Nhóm này cũng đã có phen vượt biển xuống cả Nam Dương, rồi lại nhân tiết gió nồm quay về căn cứ. Có thể một số đã ở lại Bắc Việt để sinh sống, vì ở đây đất cát có nhiều màu mỡ, cho tới khi dân Việt tại miền Đông Nam Trung Quốc bị Sở diệt liền kéo cả toàn thể bộ lạc xuống Bắc Việt. Hán Từ Quảng đã căn cứ vào một số người họ Lạc còn sót lại ở đấy Phúc Kiến nên nói rằng người Mân Việt họ Lạc. Tại sao có cái tên Lạc Việt? Ông Đào Duy Anh cho rằng nhóm Lạc Việt ấy đã thường tự sánh mình với một giống chim hậu điểu cứ đến mùa gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ và tiến xuống Miền Nam, đến khi mùa nóng trở về thì chim và người cùng quay lại chốn cũ. Dần dần trong tâm lý của họ phát sinh ra quan niệm tô tem (giống chim Lạc là một giống chim hậu điểu về loại ngỗng trời). Họ nhận giống chim Lạc là vật tổ rồi lấy tên của giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình, lại trang sức thuyền của họ thành hình vật tổ, hoặc đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu vật tổ cốt để cầu một sự hộ vệ của vật tổ trong khi lăn lóc giữa sóng gió bể khơi. Ngày nay người ta thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lư có chạm các hình ảnh này. Các nhà khảo cổ Pháp như Goloubew và Finot cho rằng sự kiện này do ý nghĩa “tô tem”. Đây chỉ là một sự ức đoán căn cứ vào các di tích mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy. Lân cận với nhóm Lạc Việt là nhóm Tây Việt hay Tây Âu ở mé Đông Nam tỉnh Quảng Tây đã nằm trong chương trình chinh phục Bách Việt của nhà Tần, trong khi quân Tần sẻ sông ngòi để chuyển vận binh lương xướng các vùng Quế Lâm, Nam Hải, Tần diệt được Đông Âu và Mân Việt những đã vấp phải sức kháng chiến của nhóm Tây Âu mặc dầu hạ được tù trưởng là Địch Hu Tống. Sau này một mặt quân Tây Âu rút vào rừng sâu, một mặt, cứ đêm lai tiến ra đánh du kích giết được Đồ Thư là Quan Úy nhà Tần và làm hao mòn mấy chục vạn quân của Tần nữa. Cứ lời Lưu An, sau sự thất bại đau đớn trên đây quân Tần rút về miền Bắc chiếm đóng ở phía Bắc sông Ly. Ảnh hưởng của Đế Quốc Tần bấy giờ mới choán được địa quận Quế Lâm tức Uất Lâm bây giờ và miền Nam Hải (tức là Quảng Đông và Quảng Tây) mà thôi. Ngày nay người ta ngỡ rằng người kế tiếp tù trưởng hay thái tử chết ở núi Bạch Lộc là một người con thứ của vua Thục mà sử chép là Thục Phán (An Dương Vương) đã có công chống Tần trên đây sau khi nước Thục (ở Tứ Xuyên) bị Tần diệt được (Sử ký chép việc ấy vào năm thứ 5 đời Chu Thành Vương tức năm 316); khi dư đảng chạy về phía Nam Lãnh náu mình ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của Tần mới chiếm được. Rồi Phán cảm thấy đất dung thân chật hẹp nghèo nàn, nên chiếm đất Tây Âu và Lạc Việt, theo lối con đường xe lửa Điền Việt ngày nay, qua Khúc Tịnh, Mông Tự, rồi theo sông Hồng Hà chiếm Lạc Việt hợp Tây Âu và Lạc Việt làm một thành ra Âu Lạc sau này, lấy Cổ Loa làm kinh đô, tự xưng hiệu là An Dương Vương (Có lẽ muốn nhớ lại tên cố hương là Hoa Dương, tên miền đất Thục ở Tứ Xuyên). Việc Thục Phán vào đất Việt có lẽ xảy ra trước khi quân Tần đánh Tây Âu. Lúc này Tây Âu đã thuộc về Thục Phán. Đến ngày nay, căn cứ vào thuyết của L. Aurousseau và tài liệu của Đào Duy Anh người ta gần như có thể quyết định rằng người Việt Nam bây giờ tức là người Lạc Việt thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ Trung Quốc,s au này trôi rạt xuống lưu vực sông Nhị Hà. Các nhà khảo cổ gần đây đào sâu các tầng đất thấy hài cốt người Anh-đô-nê-diêng, Mê-la-nê-diêng ở dưới, còn hài cốt người Lạc Việt hay Giao Chỉ ở trên nên cho rằng người Lạc Việt đến lập cơ sở ở Bắc Việt chưa lâu lắm. Lấy gì căn cứ để nói rằng chúng ta là một trong đám Bách Việt và các nhà sử học và cổ học đã lấy dẫn chứng bằng những hình dáng, tính tình, phong tục và các đặc tính văn hóa của người Việt là nhưng tiêu chuẩn vững chắc nhất xưa nay về nhân chủng học, để ấn định nguồn gốc và giòng giống của một dân tộc. Thuyết nói rằng người Việt chúng ta đến miền Trung Châu sông Nhị và sông Mã chưa lâu lắm có thể đúng vì trên khu vực này giống người Anh-đô-nê-diêng đã đến trước chúng ta. Họ do bán đảo Ấn Độ di cư tới và chiếm đóng những miền đồi núi giáp Trung Châu Bắc Việt (Phó Bình Gia và làng Cườm ở Bắc Sơn, Hòa Bình, Chợ Gành) và miền Bắc Trung Việt (Đa Bút ở Thanh Hóa, Cầu Giát ở Nghệ An). Nhà bác học sylvain Lévy lấy kỹ thuật đồ đá trau tìm thấy ở suốt bán đảo Hoa Ấn mà cho rằng những thứ này đã do người Anh-đô-nê-diêng đưa tới. Nhiều nơi còn có những đống vỏ sò, vỏ điệp được coi là di tích sinh hoạt của người Anh-đô-nê-diêng có lẽ đã sống về nghề chài lưới ở ven sông và bên bờ biển. Người Lạc Việt mà chúng tôi đoán cũng là giống Anh-đô-nê-diêng làm nghề chài lưới đã tiếp xúc với người Thổ trước miền Bắc Việt Nam cùng phương thức sinh hoạt tương tự rồi dần dần đồng hóa họ. Một phần của đám người Thổ trước vì sự phát triển quá mạnh của người Lạc Việt đã bị dồn lên đồi núi, còn để lại ngày nay những di tích như hài cốt và các đồ dùng trong đời sống hàng ngày của họ, đã do các nhà địa chất học khai quật lên được. Khi còn ở Phúc Kiến, người Lạc Việt đã tiếp xúc với người Hán tộc thuộc giống Mông-gô-lích từ lâu, cho nên ta có thể nói rằng người Lạc Việt là giống tạp chủng gồm nhiều yếu tố Anh-đô-nê-diêng và một phần nào yếu tố Mông-gô-lích. Nữ sĩ Colani tìm được trong một cái hầm mộ làng Cườm (bắc SƠn một cái đầu lâu gồm cả tính chất Anh-đô-nê-diêng và Mông-gô-lích. Có lẽ là đầu của một người Lạc Việt nào lạc long vào trong đám Anh-đô-nê-diêng bị dồn lên miền sơn cước. Truy cứu theo đặc tính sinh lý, ở nơi chúng ta, người ta cho rằng có sự pha máu giữa giống Anh-đô nê-diêng với giống Mông Cổ, nếu xét tầm vóc người Việt Nam cao độ 1 thước 58, chân tay khẳng khiu, cái sọ tròn (chỉ xuất 82,8), môi hơi dầy, miệng hơi vẩu, mặt dẹt và hơi tròn, mắt có mí và hơi xếch, gò má cao, râu thưa và cứng, da ngăm ngăm, ta không thể không nhận thấy là đặc tính sinh lý của người Mông Cổ. Sự pha trộn này đã tạo thành con người Việt Nam có thể coi là một thức tế, nhưng qua các biến chuyển của lịch sử và do ảnh hưởng của thời tiết, thổ ngơi, con người Việt Nam cũng chịu nhiều sự thay đổi và có nhiều sắc thái khác để trở nên riêng biệt… Đến Bắc Việt sau khi đã làm chủ nhân sông lưu vực sông Nhị và sông Mã, hẳn người Lạc Việt vẫn tiếp tục nghề chài lưới những có lẽ chỉ một phần nào sống gần biển, ngoài ra dân Lạc Việt đã theo sinh hoạt định cư và lấy nghề nông làm căn bản do đó sách Quảng Châu Ký chép về Giao Chỉ nói: vua là Lạc vương, dân là Lạc dân, ruộng là Lạc điền và Lạc dân đã biết dùng nước thủy triều lên xuống để làm ruộng. Theo sách Hậu Hán Thư khi Lạc Việt đã thuộc về Hán mà dân Lạc Việt ở Cửu Chân vẫn chưa biết cày bừa bằng trâu bò, có lẽ vì sự tiến hóa của dân Lạc Việt mới chỉ phát triển tới lưu vực sông Nhị mà thôi chăng? Ở Trung Châu Bắc Việt người ta tìm thấy lười cày và lưỡi cuốc bằng đồng. Vì đồ dùng ở lưu vực sông Nhị, sông Đáy, nhất là ở Đông Sơn trên bờ sông Mã, người ta tìm thấy đồ đá, đồ gốm và đồ đồng của người Lạc Việt. Về những đồ đá, các nhà khảo cổ cho là thuộc về thời đại đồ đá mới còn sót lại. Đồ gốm đào được ở Đông Sơn thuộc về hậu kỳ của thời đại đồ đá mới mà hình thức cùng kỹ thuật tương tự với các đồ đào được ở Chiết Giang. Người ta cho rằng kỹ thuật này có lẽ do người Lạc Việt đem đến vì người Anh-đô-nê-diêng chưa tới một trình độ kỹ thuật cao như vậy. Đồ đồng phần nhiều là binh khí, búa, rìu, mũi thương, mũi mác, dao găm, mũi tên, lưỡi qua giống hệt như các thứ tìm được ở miền Giàng Hoài và Chiết Giang của người Việt tộc. Song từ khi truyền đến Việt Nam thì kỹ thuật đồ đồng của người Lạc Việt mà xuất xứ là miền Ngô Việt, có lẽ đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của văn hóa Anh-đô-nê-diêng rồi nhờ điều kiện sinh hoạt dễ dàng được phát đạt dần đến một trình độ khá cao. Cái trống đồng Ngọc Lư hiện giữ được ở viện Quốc gia bảo tang ở Hà Nội đã chứng tỏ lời chúng tôi nói đây. Và chính Mã Việt đã lấy ở đất Lạc Việt một cái trống đồng loại này đem về nước, đúc tượng ngựa đồng. Theo Lâm Ấp Ký dẫn ở Thủy Kinh Chú: người Lạc Việt còn đúc cả thuyền bằng đồng nữa. Xem các đồ đồng tìm được ở Đông SƠn người ta thấy hình người có tóc búi sau gáy, có bịt một cái khăn ngang hai mối thắt lại thả dài xuống lưng. Ở mỗi tai có đeo một cái vòng lớn. Hình như lưng có thắt một cái giây, ở sau lưng có một cái tua bỏ thõng xuống. Lại có một hình người khác, tai cũng đeo vòng lớn, nhưng phần thân dưới mang một cái váy như váy mọi ngày nay. Ở trước váy có thêm miếng lá phủ, tóc thì búi cao lên đỉnh đầu, một nửa kết thành bím bỏ thõng xuống lưng. Búi tóc có bịt một cái khăn. Kiểu tóc và kiểu khăn này giống hệt cách trang sức của người Dayak ngày nay. Hai hình người này cho ta phỏng đoán cách phục sức ngày xưa của người Lạc Việt. Theo lời tâu của Tiết Tôn làm quan ở Giao Châu dưới đời Tam Quốc, người Lạc Việt bấy giờ búi tóc và đi chân không. Người Lạc Việt có tục xâm mình, tin mình là con cháu Giao Long (truyền thuyết con Rồng cháu Tiên) mà họ gọi là Lạc Long Quân. Họ tin tưởng quỷ thần, có tục chôn người chết, bỏ đồ binh khí bằng đá và bằng đồng vào quan tài trước khi hạ xuống đất. Tôn giáo có tính cách nông nghiệp. Mỗi năm về mùa Xuân, họ mở hội cho trai gái tự do vui đùa múa hát có ý nghĩa ghi dấu mùa Xuân và mở mùa Hạ, trai gái dùng trầu cau làm lễ cầu hôn. Trong những hội hè ở các nơi, dân đã có tế lễ rất thành kính. Nhiều miền thượng du ngày nay, dân sơn cước cũng rất ham chuộng và vẫn bảo toàn phong tục này. Về chế độ xã hội khi mới đất, dân Lạc Việt còn theo chế độ thị tộc như người thổ trước Anh-đô-nê-diêng. Sau này nông nghiệp phát đạt, tiến đến chế độ gia tộc phụ hệ, còn ở những miền hẻo lánh, rừng núi chế độ thị tộc vẫn còn tiếp tục. Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc việt như sau: “Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu…Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, nghĩa là không có tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ, chế độ tôn pháp như Trung Quốc. Trong sớ của tiết Tôn ở đời Tam Quốc (Tam Quốc Chí 9.53) có đoạn nói rằng khi mới thuộc Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, và Cửu Chân ở huyện Đô Lương, hễ anh chết thì em lấy chị dâu, đó là di tích của chế độ mẫu hệ. Sua này xúc tiếp mỗi ngày một sâu với văn hóa Bắc phương những phong tục dấu vết của thời man mọi này tiêu ma dần cho đến mất hẳn từ thời Tích Qunag và Nhâm Diên tức là thời Đông Hán. Trong cuốn Xã Hội Việt Nam ông Lương Đức Thiệp có nêu ra điểm này và trong cuốn Les Grandes époquesde I’Indochine, Bulletin de la S.E.M du Tonkin, Tome XV—No.2pp. 281-287, Ông L. Finot cũng có nói: Dân Văn Lang trước thế kỷ thứ 2 và thứ 3 còn sống ở trong trạng thái gia đình mẫu hệ (matricarcat và có tục đàn bà góa phải tái giá với an hem chồng (lévirat). Trạng thái này đổi dời lần lần do sự đồng hóa với Tàu để từ gia tộc mẫu hệ biến thành gia tộc phụ quyền. Ông Nguyễn Văn Tố bác bỏ kịch liệt thuyết này cho rằng không có chế độ thị tộc mẫu hệ vì họ Hồng Bàng từ mua Đế Minh đến Lộc (Kinh Dương Vương) đã có việc hôn phối tức là không có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng. Chúng tôi thiết nghĩ chế độ mẫu hệ có thể xuất hiện với đời thái cổ ở bất cứ nơi nào khi người ta chưa có văn minh, đạo đức. Lời phản đối của ông Nguyễn Văn Tố phải chăng vì lòng tự ái dân tộc chăng? Về tổ chức chính trị, các thị tộc Lạc Việt còn là những bộ lạc đặt dưới quyền một tù trưởng và khi thị tộc Lạc việt đến Bắc Việt khuynh hướng tập trung bắt đầu rồi thành một chế độ phong kiến sơ sài. Tình trạng này khởi từ họ Hồng Bnafg nên sử chép bấy giờ có vua là Lạc Vương, gọi là Lạc dân, các cấp chỉ huy là Lạc hầu, Lạc tướng, Bố chính chia nhau các thái ấp lớn nhỏ tùy theo địa vị của mỗi đẳng, cấp. Và cũng do việc phần chia đất đai này ta nhận thấy đời sống của Lạc Việt khi đó đã là đời sống định cư từ các miền Cao nguyên cho tới các địa phương Trung Châu trên lưu vực sông Nhị Hà và sông Mã. Chế độ phong kiến đó hiện nay còn ở các nơi người Mường trú ngụ cho ta một hình ảnh có thể phù hợp với đời sống cổ xưa của dân ta kể từ họ Hồng Bàng… Trong khi xét về nguồn gốc của người Giao Chỉ, Đông Âu, Mân Việt, Tây Âu và Lạc Việt chúng tôi đã trình bày các điểm tương đồng của các thi tộc trên đây với thị tộc Lạc Việt chúng ta, và chúng tôi có cảm tưởng rằng: Người Việt của chúng ta xuất hiện từ đời thượng cổ ở miền Bắc Nam Bộ Trung Hoa và dần dần tản mác xuống miền Bắc bán đảo Hoa Ấn. Chủng tôi của chúng ta do các biến thiên của Lịch Sử đã lẫn lộn với người Hán tộc mà yếu tố Mông Gô Lích là một yếu tố quan trọng trong dòng máu của họ. Chung ta lại hỗn hợp cả với giống Anh-đô-nê-diêng là một giống rải rác ở khắp Đông Nam Á Châu và đã đến bán đảo Hoa Ấn trước chúng ta. Người Lạc Việt chúng ta đã tiên phong phiêu lưu xuống Bắc Việt và miền Bắc Trung việt trước áp lực của người Hán tộc. Các chủng tộc ở Á Châu phát tích ở miền đại lục thường chỉ tiến về phía Nam theo đường biển gần như một công lệ… Người Việt chúng ta là những phần tử dung cảm nhất có lẽ vì được hưởng nhiều đặc tính quý báu nhờ sự pha máu với nhiều chủng tộc, nên đã đương đầu được với nhiều cuộc xâm lăng của Bắc phương mặc dầu đã phải trải qua nhiều phút thăng trầm bi đát. Và cũng có thể nói rằng những cuộc hung vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Ii Đời sống vật chất của ông cha chúng ta trong thời cổ xưa dĩ nhiên là khó khăn, chật vật hết sức. Sử sách tới nay chưa có sự kê cứu rõ rệt về vấn đề này vì đây là một vấn đề thuộc về thuở tiền sử và khuyết sử. Ta có thể căn cứ vào câu “Ăn lông ở lỗ” để hình dung đại khái đời sống của người thượng cổ khi còn man dã. Dân tộc nào trên thế giới buổi nguyên thủy đều cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú, trú ngụ trong các hang hốc. Họ lấy lá che thân, làm lều, túp lên các cành cây. Ăn thì ăn sống, nuốt thì nuốt tươi khi chưa biết dùng lửa. Hàng ngày rủ nhau săn bắn hoặc chài lưới, để tìm ra thực phẩm. Cuộc sống luôn luôn phải di chuyển vì chưa tìm ra được nhiều khả năng kinh tế (khi chưa có nghề giồng cây, giồng lúa, chế tạo các dụng cụ) và chống với Thiên Nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị hoảng hốt vì mọi vật (động vật hay cả bất động vật) đều có thể là thù nghịch của họ. Họ cảm thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn, yếu đuối vật vờ giữa cái vũ trụ mênh mông, bát ngát đầy huyền bí. Dòng thác đổ, cành cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, cơn song gầm, tiếng thú thét, hết thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là sự hờn giận của các hung thần. Không có ý niệm về các hiện tượng trong trời đất và vạn vật, vả lại không có cách gì đối phó, thảng hoặc có đối phó thì cũng vẫn e sợ nên họ phải tôn thờ mọi vật, bởi trong đầu óc người cổ xưa, mọi vật đều có linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác phúc. Vì vậy tục bái vật và thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với thuyết đa thần người ta tin có Thần Sấm Sét (thần thiên lôi), Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sông, Thần Đất, Thần Nước, Thần Núi…có lẽ bởi các vị thần này có thể có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Với tục bái vật, người ta thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hổ, rắn, cho rằng các thứ đó đều có quan hệ mật thiết đến đời sống của mình, cai quản mình trực tiếp hay gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó đến ngày nay cũng hãy còn lác đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở nhiều bộ lạc da đen (châu Phi, châu Mỹ hay châu Á). Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một ngày kia biết lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ hôi xuống đất cứng để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ tinh xảo, họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên Nhiên. Họ đẽo đá làm thành những lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngầu cho họ gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để khỏi nạn úng thủy hay thiếu nước. Gần bể về mùa hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở các ngành sông để lấy nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung Châu Bắc Việt đã có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp với người Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt và trâu bò. Vào thời cổ miền Trung Châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay. Đầm lầy, gò đống còn rải rác khắp nơi vì chưa khai thác, nhiều đồ nông nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng làng, từng xóm. Năm bảy chục nóc nhà tranh, vách đất quay tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất. Ngoài làng là những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị, phố phường gì hết. Sông Nhị Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta xí vùng Trung Châu là cái thân. Con sông này đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hàng năm, bằng những lớp phù sa trở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài đồng bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế kỷ qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển rồi bỗng hiện lên nhiều làng mạc sầm uất như do một phép lạ). Đây là lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân tộc chúng ta khi nền đô hộ của Bắc phương đã thành hình trên đất Giao chỉ. Ngay thuở đó, về chính trị dân ta đã lập thành nước (do họ Hồng Bàng) theo thể chế phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia trưởng. Ngoài làng mạc có chế độ tù trưởng, lạc hầu, lạc tướng… Sau này nhờ cuộc xúc tiếp với văn hóa Bắc phương, kỹ thuật canh tác được cải thiện, sức người được sức trâu bò hỗ trợ, nông nghiệp trở nên phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi ngày thêm cứng rắn trước Thiên Nhiên và vạn vật, đời song hoạt động và dồi dào trông thấy. Những ngày mùa đông tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cỏ xanh tương lại dưới ánh mặt trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái vui, cái tươi, cái linh động của vạn vật. Người có cảm tưởng trong khoảng thời gian này vị chúa tể thế gian đến với họ, gần gũi để thi ân, thi đức. Họ cũng vui theo cái vui của vạn vật. Họ khởi các công việc đồng áng nhưng ung dung thong thả rồi mở hội hè đình đám để làm vui từ già đến trẻ. Trai gái hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên các lũy tre xanh, hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rẩy trên các cây đu, hoặc tung còn, đánh phết, hoặc cất lên những câu hát đúm để ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn mơ mộng, hoặc hy vọng những chuyện lứa đôi đằm thắm, hoặc mừng buổi thanh bình, thịnh trị. Đây là những điệu ca, những bài thơ mô tả cái đời sống mộc mạc, thuần phác hoàn toàn có tính cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày xuân hay giữa nhưng đêm trăng trong, bên cạnh ngọn cỏ lá cây qua những đôi mắt thẫm của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhức. Rồi sau tiết Xuân có những cuộc vui công cộng, trai gái trưởng thành quen biết nhau, yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu cau đến xin bố mẹ người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới là một dịp làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau là một món cần trong sự xã giao vậy. Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly: Vào thời thượng cổ hai an hem nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người anh lấy được cô gái đó khiến người em đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi người anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau trong cái nghĩa an hem chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. Kẻ hóa ra hoàn đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn quít lấy nhau. Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì thấy thành một chất đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả mối tình thương yêu chân thật, thật có ý nghĩa vô cùng. Về việc hôn nhân của người việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình chẳng phải là để cùng mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì người chết hay người sẽ chết nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước hết vấn đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho mình sau này nữa. Không người kế tự, đó là một sự đau đớn, nhục nhã hết sức cho người Việt, và đấy cũng là một căn nguyên của chủ nghĩa đa thê ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự luyến tiếc con cháu, thì là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống, mối tin tưởng ở hầu hết các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay. Người chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người nhà đục gỗ làm áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn sống (phong tục này các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn giữ đến bây giờ). Lúc đem chôn cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đót vàng mã đã do quan niệm này, bây giờ gần mất hẳn). Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của chúng ta, chúng ta còn tập tục này nữa: nếu trong một nhà người anh chết đi thì người em út phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trôm nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế, tức là không muốn người dàn bà trẻ tái giá đem của cải và con cái của bên chồng đi. Phong tục này còn đến cuối đời Hán vẫn còn và có lẽ đã bị bãi bỏ trong thời Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu những tập tục của dân bản thổ. Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong tình trạng dã man. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên đây đã nói rõ, và sự xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức mạnh tàn bạo. Các bộ lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ phong kiến ra đời cho tới sau này họ Hồng Bàng, một bộ lạc mạnh nhất xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng). Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân. Sau này có nghề dệt mới biết đóng khố, quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà chỉ đóng cái khố và mặc cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ từ giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ kim khí là khi đã có tiếp xúc với các dị tộc, nhất là người Hán văn minh hơn họ. Tuy vậy y phục của họ rất là đơn giản do xứ ta thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên mặt cá trống đồng, cá tảng đá hình người ở trên, đóng khố, đầu đội mũ bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Còn khi người Trung Hoa sang chinh phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh đạt. Ta biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa. Y phục của người Mường, Thổ ngày nay có lẽ là y phục của ông cha chúng ta thuở xưa. Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để làm lụng, chỉ có đàn bà và các nhà quý phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt giai cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu và búi thành một búi tóc to ở sau gáy, ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt. Họ không biết đi giày, guốc. Giầy, nón là sau khi có người Tàu đem sang, ta mới có. Tính thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những vòng bằng đồng, xương hổ phách hay đồi mồi. Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi khách như người trong nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén nước, đôi bên vừa nói chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên họ có tục nhuộm răng. Điều này có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu giữ gìn răng cứ đen nhánh mãi. Bàn về phong tục của dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về văn hóa Đông Dương (Les civilisations de I’Indochine) của ông G. Coedès. Nhà khảo cổ này đã nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những phong tục thuần túy “Trung Quốc” mà từ vua chúa đến dân thứ của ta hầu hết đều theo cả; ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình, ngoài làng mạc như những việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn Trung Quốc. Những phong tục này có trước khi người Tàu qua đây, và tồn tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên mảnh đất này khá mạnh.Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn học Trung Quốc du nhập vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có những phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều phong tục cùa Tàu trên đất Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa). Nhận xét này được nhiều học giả hiện đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông Dương (nói riêng) trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất theo Thiên chúa kỷ nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến Bắc Việt lại không phải là những người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi dần xuống đây xua đuổi người thổ trước là giống Anh-đô-nê-diêng, hợp chủng với những phần tử còn lại nên đã có những phong tục khác Tàu đến nay đã thành những đặc điểm của chúng ta. Tóm lại, có thể rằng chúng ta đã có thâu nhập một mớ phong tục thuộc văn hóa Nam Á nữa. Rồi văn hóa Trung Quốc hợp với một phần văn hóa Nam Á đã tạo nên nhiều cá tính quốc gia của người Việt nam chúng ta ngày nay. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Iii - Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng - Nước Văn Lang của chúng ta. 1 – Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng. Các nhà chép sử gọi dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là Hồng Bàng thị. Trong Lịch Sử Xã Hội Việt Nam truy cứu ở Từ Nguyên Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ Hồng Bàng thị như sau: 1) Hồng Bàng là thứ tên chim nước to hơn con nhạn cánh đen, bụng trắng, màu tro, tính mạnh dạn, thính giác lanh lẹ. 2) Hồng theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Tỉ dụ hồng thủy (nước lớn). 3) Chim “Hồng” nói trong sách cổ thường chỉ về con “Hồng hộc” tức là con ngỗng trời. Nếu đi với “Hoang” thì hồng hoang nghĩa là thái cổ. Bàng cũng theo Từ Nguyên tức là đầy, lớn, bác tạp không thuần túy. Thị theo Thuyết Văn là gò, núi như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng nên gọi là Hữu Hùng thị sau đến đời Hiên Viên chi ngưu gọi là Hiên Viên thị. Như vậy chữ “thị” chỉ do chỗ đất mà được gọi tên là “thị”. Không có nghĩa là họ mà bộ tộc hay “thị tộc” theo danh tư xã hội học ngày nay. Như vậy Hồng Bàng chỉ là một thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân lãnh đạo. Theo lời tục truyền thì vua Đế Minh cháu thứ ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến miền núi Ngũ Linh thuộc núi Hồ Nam gặp một nàng tiên, lấy nhau rồi sinh ra Kinh Dương Vương đặt làm vua phương Nam. Sau này Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống bể Nam Hải, vì mẹ là giống Tiên và cha là giống Rồng do đó có giống Bách Việt rải rác khắp miền Nam Trung Quốc (nước của Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu là Xích Quỷ gồm tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ). Người Việt ngày nay tự cho mình là con Tiên cháu Rồng là do sự tích này. (Cũng như người Nhật tự xưng mình là con cháu của Thái Dương Thần (Amatérasu),người Tàu cho mình là con cháu Hoàng Đế, người Đức dưới chế độ Quốc Xã vừa qua tự cho mình là một giống người thượng đẳng sinh ra để thống trị các dân tộc khác (theo thuyết Mein Kampt của Hitler đảng trưởng Quốc Xã). Các nhà làm sử sách vì lòng ái quốc, trọng nòi giống mà tô điểm cho dân tộc của mình những điều tốt đẹp hoặc có ý muốn làm phấn khởi tinh thần dân tộc. Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của nước ta) xưng là Lạc Vương. Họ Hồng Bàng kể từu Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương là những triều đại trước hết. Những triều đại này theo ý chúng tôi và cũng dựa vào thuyết của Léonard Aurous seau, đã ra đời vào cuối đời Xuân Thu (6 thế kỷ trước công lịch) bởi nếu cho rằng họ Hồng Bàng xuất hiện từ năm Nhâm Tuất (2897) đến năm Quý Mão (258 trước Công Lịch) vừa đúng 2621 năm, thì mỗi triều vua trung bình 150 năm sau, chúng tôi e rằng có sự sai lầm quá lớn. Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương ta không thể quên chữ Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương, Hán Đế…nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu. Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết Giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu… Như trên đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng làm theo các vua nước Sở, tỷ dụ: Hùng Dịch (1122-1028 tr T.C) Hùng Nghệ (1078 tr T.C) Hùng Đán (1052 tr T.C) Hùng Thắng ( 1001 tr T.C) Hùng Dương (946 tr T.C) Hùng Cừ (887 tr T.C) Hùng Chấp (877 tr T.C) Hùng Duyên (876 tr T.C) Hùng Dõng (847-837 tr T.C) Và 18 ông vua của nhà Hồng Bàng lấy hiệu như sau: Kinh Dương Vương (Lục Dục Vương). Lạc Long Quân (hùng Hiền Vương). Hùng Lân (Hùng Quốc Vương). Hùng Việt Vương Hùng Hi Vương HÙng Huy Vương Hùng Chiêu Vương Hùng Vị Vương Hùng Định Vương Hùng Uy Vương Hùng Trịnh Vương Hùng Vũ Vương Hùng Việt Vương Hùng Anh Vương Hùng Triều Vương Hùng Tạo Vương Hùng Nghị Vương Hùng Duệ Vương (1) Còn nói theo cha một nửa xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi, tức là một phần quy tụ ở miền sơn cước, một phần ở rải rác vùng đồng bằng là ra tới bể là lưu vực sông Dương Tử với miền núi ở dãy Nam Lĩnh. Dân tiến xuống bể được nhiều điều kiện thuật tiện nên tiến độ nhiều vì vậy đã sống vào trạng thái phụ hệ, còn đám người lên non chậm việc khai hóa nên còn ở vào chế độ mẫu hệ. Đó là các dân dã man tỉnh Quí Châu, Vân Nam (ở Quí Châu có dân Miêu Tử. Ở Vân Nam có dân Sâm Ly hay Xa Lý đến đời Nguyên mới bị chinh phục. Họ tương truyền đời Chu Thành vương có sai xứ triều cống khi về được Chu Công Đán làm ve Chỉ Nam tiễn chẫn, cho nên họ có tên là Xạ Lý. Cũng có Bộ lạc tên là Lão Qua, xưng là Việt Thường dưới đời Chu, bộ lạc này bị nhà Minh chinh phục. Tài liệu này ở cuốn Les babrbares du Yun nan trong B.E.F.E.O tome 8 1908). Nhưng một điều quan hệ khác cần phải xét lại là Việt tộc hay họ Hồng Bàng có phải con cháu Thần Nông không và Thần Nông là người Hán tộc hay Việt tộc. Chúng tôi không đồng ý với cá sử liệu Tàu cho rằng Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, điều mà nhiều người Việt chúng ta tin có thật vì quên rằng đấy chỉ là một truyền thuyết. Ta nhận thấy rằng truyền thuyết trên đây dù sao cũng có phần nào sự thật. Ngày nay căn cứ vào các tài liệu của các nhà khảo cổ và sử học, ta có thể giải thích như sau để hiểu rõ tình trạng dân tộc ta dưới thời Thái cổ rõ rệt hơn: Vào thế kỷ 30 trước C.L. dân Hán tộc sống dọc sông Hoàng Hà. Tại Lưu vực sông DƯơng tử thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ phía Nam vùng Động ĐÌnh và Phiên Dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh, các dân ở đây có trình độ xã hội canh nông. Một nhà quí tộc dạy dân nghề khai khẩn ruộng đất, sau dân nhớ ơn thờ người ấy làm Thần Nông, Miêu, Man tuy không cùng chung chủng tộc nhưng cùng ở dưới quyền một nhà quí tộc thuộc dòng dõi Thần Nông. Người cháu ba đời của Thần Nông đi tuần thú về phương Nam đến Ngũ Lĩnh gặp một nàng con gái đẹp như tiên, ăn ở cùng nhau xin được một đứa con trai đặt tên là Lộc Tục. Sau vua phong cho con trưởng làm vua dân Miêu và Man ở phía bắc sông Dương Tử và cho Lộc Tục làm vua dân Việt ở phương Nam, nghĩa là đất Kinh và Dương lấy quốc hiệu là Xích Quỉ vào khoảng thế kỷ thước XXIX trước C.L. Bấy giờ là thời đại phong kiến. Xích Quỉ chia ra ba nước (theo Vũ Cống trong Kinh Thư). Trong ba nước ấy, vùng Động Đình là một, vua Kinh Dương Vương lấy con gái vua kế vùng Động Đình là Long Nữ được một con trai tên là Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long cưới con gái vua một nước láng giềng đất Âu, nàng Âu Cơ đến đây ra gặp [link=#_ftn1][1][/link]một thời kỳ khuyết sử. Sau này Hán tộc tràn xuống phía Nam qua nước Sở thì nước Xích Quỉ có 100 nhà quí tộc đều xưng là dòng dõi của vua Lạc Long và Âu Cơ. (Ở đây ta có thể loại bỏ việc Âu Cơ đẻ ra trăm con do một bọc nở ra 100 trứng là hiện tượng không từng thấy trong y học). Có lẽ trong dịp áp lực của Bắc phương, có người mưu trí trong các nhà quí tộc đó đã nêu lên thuyết một trăm thị tộc cùng máu mủ, một cha mẹ phải đoàn kết để tự vệ, như vậy chắc trước kia họ thường xung đột với nhau. Vào thế kỷ thứ 24 trước C.L trong ba nước kể trên có nước Việt thường kinh đô đóng ở phía Nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh làm bá chủ vùng Phiên Dương và Động Đình. Năm 1352 trước C.L. có sai sứ sang cống vua Đế Nghiêu một con rùa lớn và năm 1109 tr. C.L. có cống cho vua Thành Vương nhà Chu. Trước thế kỷ XII tr. C.L., trong các quí tộc có người tên là Hùng Dịch chinh phục được dân Miêu, Man miền sông Hán chảy vào sông Dương Tử, tổ chức thành một quốc gia, Tàu gọi là Kinh Man, đóng đô ở Đan Dương gần thành Nghi Xương (Itchang) ngày nay. Đến đời vua Hùng Cừ đem binh đánh lấy nước Đông và Dương Việt (nghĩa là người Việt đất Dương Tử. Việt Chương trước kia là Việt Thường, luôn dịp nước Ngạc ở vào khoảng thành Vũ Xương (Ou T chang) thuộc tỉnh Hồ Bắc cũng bị kiêm tính nốt. Rồi Hùng Cừ cho con trưởng là Khang ở đất Cú Đản, con thứ hai là Hồng ở đất Ngạc, con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua Việt Chương đó là nguyên nhân của chữ Hùng Vương trong truyền thuyến của ta. Dân Việt quen sống với cảnh thái bình, bỏ lâu chinh chiến, không chống nổi quân Kinh Man nên phải thua. Vì dân số đông, nên dân Việt, một phần phải tiến lên núi Nam Lĩnh và đa số đã tiến xuống Nam Hải rồi lại gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng Tây sau gọi là Bách Việt vậy. Từ vua Chấp Tỳ trở về sau lịch sử Việt Thường ra sau? CÓ lẽ có lúc thịnh, vào năm 581 trước C.L., con cháu Chấp Tỳ có người làm vua Việt Thường xưng là Hùng Vương thứ nhất. Người Việt bấy giờ ở theo dọc bờ Nam Hải và Nam ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình, họ đều có xâm mình nên người Tàu gọi là Văn Lang. Bấy giờ nước Sở trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn hóa Hán Tộc bành trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho nước Việt thường. Thế rồi một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang đặt quốc hiệu là U Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà người Tàu gọi là Câu Tiễn (496 tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp Hồ Tôn. Câu Tiễn mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được làm vua đất Lạc Việt ở tận phía Nam giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ VII hoặc vì có lẽ là con trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía bắc nên xưng như vậy để tỏ ý là chúa tể chính thức của dân Văn Lang. Đến đời vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt có nước Âu Việt. Vua nước này là Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai nước làm một gọi là Âu Lạc. Vì hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả. Ấy là bằng chứng dân Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn Lang, tức người Việt. 2 – Nước Văn Lang Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ: Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì). Phước Lộc: (Miền đồng bằng). Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang). Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam). Vũ Ninh: (Bắc Ninh). Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây). Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông). Dương Tuyền: (Hải Dương). Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng yên, Nam Định, Ninh Bình). Cửu Chân: (Thanh Hóa). Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh). Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã). Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy. Bình Văn: Xét địa thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua cuối cùng Hồng Bàng (thời Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của Văn Lang gồm hai tỉnh Nghệ An, hà Tĩnh ngày nay. Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Phía Đông giáp Nam Hải, là cương vực cổ xưa của toàn thế gia đình Bách Việt chúng tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân Giao Chỉ sinh tụ ở Nam Bộ Trung Quốc tại lưu vực sông Dương Tử, rồi tổ tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối này, địa bàn của chúng ta quả gồm có đúng 15 bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về vấn đề cương giới sau này của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang) hơi giống nhau. Đây không phải là điều ức đoán bởi sách chép nhầm thật. Quyển Thông Điển (quyển 181 25b) chép: Phong Châu là nước Văn Lang đời xưa (Cỗ này viết chữu lãng “lương” bên chữ nguyệt và cho rằng có sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói quả quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa phận huyện Tân Xuyên bấy giờ có khe nước Dạ Lang và đây là địa bàn của nước Miêu Tử. Nước này ăn qua một phần quảng Tây và Quý Châu, phía tây giáp La La (Lô Lô) gọi là Điền ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về Hán từ năm III trước T.C. Sau quận ấy chia làm hai, phía Bắc là Kiện Ví phía Nam là Thương Ngô. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Ví giáp Phía bắc và phía Tây sông Dương Tử. Còn quận thương Ngô giáp phía Bắc quận Kiện Ví và Phía Tây quận Tân Ninh là nước Điền ngày xưa ở phía Đông Bắc Thương Ngô giáp quận Ngũ Lãng, ở đấy có Hồ Động Đình. Tóm lại vì Dạ Lang và Văn Lang đã lấn nhau, tất nhiên người ta phải lầm bờ cõi Dạ Lang là của Văn Lang. Về vấn đề này, Ô. Lê Chí Thiệp phát biểu một ý kiến khác. Theo ông, trong thư tịch cũ của Trung Quốc không thấy nói tới tên Văn Lang, đến đời Thái Bình ngự lãm nhà Đường mới nói. Văn Lang để gọi chung người Kinh Man (dân sở) ở dọc sông Dương Tử, người Việt ở Chiết Giang và người Lạc Việt là những người có vẽ mình, sau này sống ở Lưu Vực sông Dương Tử trôi dạt dân xuống tới bờ biển Nam Hải, bởi vậy các cổ sử mới ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp Hồ Động Đình, Đông giáp Nam Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành)… Tên Văn Lang này được đặt ra do một quan niệm chủng tộc để phân biệt với giống dân không vẽ mình chớ không phải là dân một nước… Vậy nên kết luận rằng cương vực cũ của chúng ta khi còn là Giao Chỉ gồm hồ Động Đình, biển Nam Hải, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau này dân ta di cư xuống Bắc Việt và vào tới Nghệ An. Đây là vị trí địa dư cuối cùng của ta sau cuộc Nam chinh của nhà Tần và khi đế quốc Nam việt của Triệu Đà thành lập. Ngoài ra ta còn thấy sử chép nước Văn lang có 15 bộ. Trong đó có bộ Văn Lang, Giao chỉ, Việt Thường là thế nào? Phải chăng nhớ nguồn gốc của mình ngày xưa kia ở miền Hoa Nam, nên dân gian giữ các tên đó để đặt quốc hiệu hay đặt tên cho các bộ? Giai cấp phong kiến thời thượng cổ của chúng ta như thế nào? Theo Maspéro trong cuốn Royaume de Văn Lang BEEO trang 9, mỗi Lạc Tướng coi vài làng xóm, thuộc quyền Lạc Hầu là chủ những đất đai rộng bằng một tỉnh hay vài huyện ngày nay. Cũng có khi một vị Lạc Hầu đem chia bớt gia tài cho các con cháu và phong chúng làm Lạc Tướng. Công việc của các Lạc Hầu Lạc Tướng cai trị nhân dân. Khi họ nhàn rỗi thường họp nhau săn bắn. Tính họ hoạt động và hiếu chiến nên hay xung đột với các dân láng giềng. Ra trận họ mặc bộ áo giáp dầy dệt bằng lông chim hay bện bằng cỏ cây để tránh dấu tên hay mũi giáo; áo giáp có hai mảnh che đằng trước hay đằng sau, từ ngang lưng thõng đến bắp chân. Mình mặc áo ngắn chẽn để hở cổ và hai cánh tay trạm hình sặc sỡ. Họ mang lá mộc (có chỗ gọi là lá chắn) hình vuông đan bằng tre trên mặt có kẻ hoa và vẽ mặt người. Đầu họ cũng đội một thứ mũ cũng bằng lông chim thực dài kết cái hình dữ dội. Họ đeo cung lớn, mang giáo dài và dao nhọn, luôn luôn bắn, phóng và đâm. Mũi tên có tẩm thuốc độc chạm vào da thịt dù chỉ sướt qua loa thuốc cũng ngấm vào và phải chết. (Theo Parmentier: trong cuốn Lestambors de bronze). Dân lo việc giồng lúa cho họ ăn, làm nàh cho họ ở, cắt người phục dịch cho họ mà không được dòi công sá. Xét ra như vậy vậy dân chỉ là một thứ tài sản của họ mà thôi. Ngày nay các dân tộc thiểu số dưới chế độ quan lang ở miền Bắc Việt có thể nói là hình ảnh hoàn toàn của chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thuở xưa. Các vị Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy giữ quyền tự trị ở khu vực của mình nhưng cũng phải theo về một vị tù trưởng giàu mạnh ở phía Tây bắc Trung Châu sát với Trung du gồm địa phận tỉnh Phú Thọ, Vĩnh yên, Sơn tây ngày nay. Đây là một miền có nhiều thung lũng phì nhiêu, đồi đất tốt, dân đông đảo phát đạt hơn cả. Kinh đô của Lạc Vương đóng ở Phong Châu (vào địa hạt huyện bạch hạc tỉnh Vĩnh Yên bây giờ). Họ nhà vua gọi Hồng Bàng. Lạc Vương đặt quan chế như sau: tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, các quan nhỏ gọi là Bồ chính. Con vua gọi là quan Lang. Con gái gọi là Mị Nương. Các Lạc Hầu được đặt trên các Lạc Tương và có thôn, ấp lớn hơn. Hết thảy từ vua đến chúa đến các Lạc Hầu, Lạc Tướng điều có quyền thế tập. Nước Văn Lang ra đời đã chịu cả uy thế của các vương triều Trung Quốc nên ngay buổi bấy giờ đã biết lập chính sách ngoại giao. Về đời vua Nghiêu, nhà đường bên Trung Quốc, sứ thần văn Lang đã có lần đem dâng con rùa lớn. Về đời Chu Thành Vương (nhà Chu) có nói ở đoạn trên của sách này. Chú thích: (1) Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (bắc phần). Thần Nông đây thực ra chỉ có nghĩa là vị thần dạy nghề nông, ông tổ nghề Nông. Có lẽ người ta đã lầm Thần Nông của ta với Thần Nông thị là dòng họ làm vua giống Hán sau Phục Hi thị (4480-4350 tr C.L.) [2] Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bắc phần). VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Iv Sử chép Thục Vương Phán cướp nước Văn Lang cuối đời Hồng Bàng tức đời Lạc Vương thứ 18. Vấn đề này đã làm nảy nở nhiều mối dư luận khác nhau trong các nhà viết sử. Lệ thần Trần Trọng Kim cho rằng Thục Phán có lẽ là một họ nào độc lập ở gần nước Văn Lang và căn cứ vào địa dư nếu Ba Thục (Tứ Xuyên) là xuất xứ của Thục Phán đối với Văn Lang phải qua nhiều đường đất, núi sông cách trở, việc chinh phục Văn Lang như vậy ắt không có thể được. Vệ thạch Đào Duy Anh nghĩ rằng, Thục Phán có thể là một người con trai của vua Thục ở Tứ Xuyên. Năm 316 là năm thứ năm đời Chu Thành Vương, nước Thục bị nước Tần diệt, dân Thục chạy về phía Nam Lĩnh nương náu ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của nhà Tần mới chiếm được. Phán thấy không đất dung thân chật hẹp liền từ miền Nam Lĩnh Vân nam, tiến xuống lưu vực sông Nhị Hà, thôn tính Tây Âu là Lạc Việt (nước Văn Lang) rồi lập lại nước Âu Lạc. Phải chăng đây là lời giải thích đối với sự hoài nghi của tác giả Việt Nam Sử Lược. Lại một chỗ bất đồng nữa! Theo Đào Duy Anh, việc chinh phục Văn Lang do Thục Phán đã xảy ra trước đời nhà Tần nghĩa là đời nhà Chu khi đó dân tộc ta mang tên là Lạc Việt. L. Aurousseau cho là Lạc Việt vong quốc từ năm 210 trước kỷ nguyên năm Tần Thủy Hoàng mất đến năm 207 là năm Triệu Đà đang oanh liệt ở miền Nam Hải. Nhân lúc Trung Quốc rối loạn, một người con vua nước Thục nào đó đã thừa cơ chiếm đất Tượng Quận của nhà Tần để dựng nước (Tượng Quận tức là Tây Âu gồm phủ Khai Viễn, Thái Bình thuộc địa phận Quảng Tây, phủ Liêm và phủ Lôi, phủ Liêm thuộc địa phận Quảng Đông). L. Aurousseau đã lầm vì cho rằng Tây Âu với Lạc Việt là một, ông bằng vào lời chú giải của cổ sử ở Tiền Hán Thứ (k.95) nói là Tây Âu tức là Lạc Việt để giải thích chữ Tây Âu Lạc là nước Triệu Đà kiêm tính. Vì sử cổ không nói rõ rằng bấy giờ sở dĩ gọi là Tây Âu Lạc là vì nhóm Tây Âu hay Tây Việt và nhóm Lạc Việt là hai nhóm trong Bách Việt ở miền Quảng Tây và Bắc Việt ngày nay đã do An Dương Vương gồm làm một nước tức sử ta gọi là nước Âu Lạc. Trên đây chúng tôi đã có dịp nói đến việc đánh Bách Việt của nhà Tần trong đó Thục Phán đã đóng một vai trò quan trọng. nay dẫn thêm ít tài liệu theo sách Hoài Nam Tử để hiểu cuộc tranh đấu giữa Thục Phán và vua nhà tần trong cuộc Nam Chinh của họ. Khoảng năm 221, giữa lúc toàn thịnh nhà Tần (năm 33) đời Tần Thủy Hoàng dùng bọn lưu vong, rể thừa và lái buôn làm lính tiến xuống miền Nam là nơi sinh tụ của người Bách Việt. Việc này xảy ra khoảng năm 221 – 214 trước Tây Lịch. Quan Hiệu Úy là Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng tướng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Dương, Quế Lâm (nay là huyện Minh Quý tỉnh Quảng Tay), Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) sau khi diệt được nhóm Đông ÂU và Mân Việt. Đến lượt Tây Âu cũng bị cuộc xâm lăng của đạo quân viễn chinh Trung Quốc. Tù trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống nhưng ở đây quân Tần vấp sức kháng chiến dẻo dai của Tây Âu. Người Việt (Tây Âu) rút vào rừng sống cùng cầm thú, và cứ đêm tối lại đem quân ra tập kích quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm. Sau quân Tần chết rất nhiều. Đồ Thư bị hại, quân Tần hao tổn đến vài chục vạn, phần bị giết, phần thì không chịu được lam sơn chướng khí. Tần triều đành ngừng lại và thiết lập bộ máy cai trị ở các miền đất đai đã lấy được lập r aba quận Nam Hải, Quế Lâm (Quảng Tây), Tượng Quận. Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt (2).Chúng tôi không đồng ý vì bắc Việt khi đó là ÂU Lạc đã thành Tượng Quận thì sau này đâu có sự kiêm tính của Triệu Đà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam SỬ Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục này mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập. Ai đã cầm đầu cuộc kháng chiến có hiệu quả của Tây Âu? Theo Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký trong lúc tù trưởng bị hại, nhóm Tây Âu vô chủ thì người Kiệt Tuấn được nhân dân Tây Âu cử ra là An Dương Vương nhà Thục, vào khoảng năm 219 đến năm 207. Thục Phán đã nhân cơ hội nhà Tần suy, quân Tần thất bại mà thâu phục nhóm Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc. Trong việc chống nhau với Tần, Thục Phán tỏ được một tinh thần dung cảm phi thường. Trong việc chống nhau với Tần, Thục Phán tỏ được một tinh thần dũng cảm phi thường. Có thể nói như vậy là vì lúc này Tần vừa gồm thâu 6 nước, nhất thống Thiên Hạ Trung Quốc dựng thành Vạn Lý bên trong dẹp được mọi phản lực của giai cấp phong kiến có nền móng từ mấy ngàn năm, bên ngoài thuyết phục được các phiên bang ngang tang hùng mạnh. So với sự tiến hóa của giống Hán tộc bấy giờ thì quả thật các thị tộc Việt đáng gọi là “Man di”. Vậy mà Thục Phán dám đem sức “mọi” chống với một đế quốc phú cường, hùng hậu thì cái tinh thần bất khuất ấy cũng là đáng phục. Lại nhân lúc nhà Tân lâm vòa thế biến, Thục Phán chinh phục Văn Lang dựng nên một quốc gia riêng một phương trời, Phán quả là một kẻ có óc tự cường và biết lợi dụng thời cơ. Thục Phán chiếm được Văn Lang từ năm Giáp Thìn (257 trước Công Lịch). Xong việc chinh phục Phán xưng là An Dương Vương lập kinh đô ở Phong Khê tức huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên bây giờ, và hai năm sau cho đắp thành Cổ Loa (Tên thành là Cổ loa vì xây cuốn nhiều vòng như hình trôn óc, hiện nay còn dấu tích ở huyện Đông Anh và cái giếng Trọng Thủy, thành này lại có tên là Tu Long. Người Đường gọi là thành Côn Luân vì thành ấy cao lắm, rộng nghìn trượng). Thục Phán đã đem văn hóa que hương mình là nước Thục du nhập vào đất Việt, thiết lập mọi quy mô chính trị quân sự, dạy cho người Việt xây thành bằng đất, lấy tre làm cung nỏ, tên bịt đồng là hai kỹ thuật sở trường của người Thục. Rồi nhờ địa thế hiểm trở của Tây Âu và Âu Lạc lắm rừng nhiều núi lại thêm tinh thần quật cường của người Việt, Thục Phán đã lập nên sự nghiệp trên đây (đã nói trong việc đương đầu với làn song Nam tiến của giống Hán). Dân tộc Âu Lạc bước vào trường tranh đấu và được phát triển mọi khả năng có lẽ từ khi được Thục Phán lãnh đạo, tiếc rằng không có cuốn sử nào nói về sự nghiệp của Thục Vương. Sau này với Triệu Đa, một tướng có tài thao lược của Trung Quốc hùng cứ miền Hoa Nam, tình thế của Âu Lạc không bao lâu phải đi sang chỗ rẽ. Rồi năm thứ 50 đời An Dương Vương, Âu Lạc bị lọt qua tay họ Triệu và thành một nước phụ dung của đế quốc Nam Việt. Trong lúc này nhà Tần đã đổ, Hán lên thay. Việc xâm chiếm Âu Lạc xảy vào năm 180 sau khi Cao Hậu nhà Hán qua đời và lúc này Triệu Đà đã xưng đế ở Nam Việt. Theo thuyết chính thống, An Dương Vương không thuộc về một thị tộc Việt nào hết nhưng một vài sử gia ngày nay cho là An Dương Vương là người ngoài cũng chưa có chứng cớ đầy đủ. Theo tác giả trong giai đoạn lịch sử này. Hán tộc chưa có mặt miền Hoa Nam, Thục Phán có thể là một lĩnh tụ phong kiến cũng thuộc Việt tộc như nhiều lãnh tụ khác trong đám con Hồng cháu Lạc. Miền Hoa Nam quá rộng lớn, sông núi cách trở nhiều, Việt tộc lại phân tán khắp nơi mới có sự bỡ ngỡ này. Vịnh Bi Kịch Thành Loa Thành Loa trăm thước chẳng còn bền. Mống rùa ba tấc chẳng là thiêng. Nước nhà dấy mất tại người cả. Gió mưa gây dựng công khó nhọc. Nam gồm Văn Lang, bắc Ba Thục. Dư đồ muôn dặm mở mang tới. Một tấm sơn hà một tấm vóc. Sẵn sang cơ nghiệp không biết giữ. Chiến đã không xong, hòa cũng ngộ. Biên phòng chểnh mảng, thù hận quên. Quanh quẩn một lần hai tại lỡ. Thân già đâu nới kẻ thù gia. Chồng nào thương vợ, con lìa cha. Giặc ngồi sau lưng nói chi nữa. Nước ôi nhà ôi, biến Đại Nha! Dương Bá Trạc Cổ Loa Hoài Cảm Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa. Trải bao gió táp với mưa sa. Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc. Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha. Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh. Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa. Hưng vong biết chửa người kim cổ? Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà. Trần Tuấn Khải CHÚ THÍCH. 1 - Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quân nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ song so sán địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quân chính thuộc về một phần đất của Tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng. 2) Theo sử ký của Tư Mã Thiên là cuốn sử lâu đời hơn tất cả và đang tin hơn hết, việc chinh phục Âu Lạc do Triệu Đà vào năm 180 trước kỷ nguyên chớ không phải vào năm 207 như Việt Nam Sử Lược đã dẫn. Tức là năm Giáp Ngọ như sử ta. 3) Theo Đào Duy Anh “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam” Mân Việt mất vào khi quân Tần đánh Bách Việt chớ không phải do Triệu Đà, sau này cùng thời với việc cướp nước Âu Lạc của An Dương Vương. 4) Thuyết nói rằng An Dương Vương chưa chắc đã là người ngoài, căn cứ vào sách Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký. Sách này chép: Khoảng 221-214 Quân Tần đánh người Việt, giết được vua Tây Âu (tức Âu Lạc) gọi là Dịch Hu Tống. Coi đoạn sách này thì ta có thể cho rằng trước khi có cuộc xâm lăng của nhà Tần đất Giao Chỉ đã gọi là Tây Âu. Vua Tây Âu là Dịch Hu Tống bị giết có thể là vị Lạc Vương cuối cùng. Sau này dân Việt giữa lúc vô chủ và nguy biến đã cử người Kiệt Tuấn đứng ra lãnh đọa cuộc kháng chiến là An Dương Vương nhà Thục, vậy Thục Phán chẳng phải là người nước Thục ở miền Tứ Xuyên. Còn cái tên Tây Âu hay Tây Âu Lạc hay Âu là dongười tàu đặt ra để gọi xứ ấy cho có sự phân biệt với các rợ Việt khác. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương V - Các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa…dưới các triều đại Hạ - Ân – Chu. - Các học thuyết cổ điển của Trung Quốc (Khổng Tử, Lão tử, Trang Tử,…) Để biết trình độ của dân tộc Việt Nam chúng ta vào thời thượng cổ thế nào, ta có thể lấy cái văn minh của Trung Quốc cũng trong thời kỳ này làm mực thước để đo lường. Và cũng ở điểm này ta tìm hiểu ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan tràn sang đất Việt qua các biến thiên của Lịch Sử. Về chính trị, Trung Quốc khởi đầu tổ chức quộc gia và chính trị bằng chế độ phong kiến khi người Hán còn là các bộ lạc dã man, lạc hậu rải rác khắp các nơi trên lãnh thổ Trung Hoa. Trải qua thời kỳ man mọi và du mục, dân tộc Trung Quốc thượng cổ đã biết làm nhà cửa để ẩn náu, chế tạo ra dụng cụ cần thiết, tìm ra mọi phương kế nông nghiệp, sang lập ra chữ viết để phô diễn ý tưởng tâm tình, các công cuộc văn hóa, chính trị, kinh tế bắt đầu thành hình, tiến triển và đi dần đến chỗ thống nhất. Trung Quốc rộng lớn mênh mông đã chia ra nhiều địa phương. Mỗi địa phương có một lĩnh tụ cắt cử, và chịu uy quyền của một vị lãnh tụ lớn nhất mà họ tôn thờ là vị Hoàng đế hay Thiên Tử. Các lãnh tụ nhỏ giờ đó là các chư hầu phải chịu mệnh lệnh của Thiên Tử. Vào thời thái cổ chư hầu có hàng ngàn nước. Đó là tình trạng dưới đời vua Đại Vũ nhà Hạ, nhưng đến vua Vũ Vương nhà Chu các chư hầu đã bớt đi nhiều lắm nghĩa là chỉ còn độ 800 nước. Cho đến đời nhà Tần việc thống nhất được thực hiện sau bao nhiêu cuộc nội chiến liên mien khiến dân chúng lầm than, điêu đứng hết chỗ nói. Cuộc nội chiến này bắt đầu từ đời Tam Đại (đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu). Vũ Vương nhà Chu dẹp được Trụ Vương nhà Ân số chư hầu còn lại là 70 chia ra làm 5 bậc: công, hầu, bá, tử, nam. (Xin coi việc ấn định quyền lợi và trách vụ của họ ở trang sau đây). 1 – Xã Hội và Văn Hóa Trung Quốc phát triển trước hết về nông nghiệp. Đến đời Hoàng Đế (2704 trước Thiên Chúa) nhân dân đã có đầy đủ các thứ cho đời sống hàng ngày (các thứ ăn uống, mặc, ở, dụng cụ sinh sản) biết làm nghề nhuộm, phát minh thuyền bè, xe cộ, chế tạo cung tên, chầy, cối,… Đời Hoàng Đế có đặt quan Đào Chánh để điều khiển việc làm đồ gốm, quan Mộc Chánh trông nom việc làm các đồ gỗ để cung ưng mọi sự cần thiết xã hội. Hoàng Đế biết dùng đồ gỗ để dựng nhà cửa. Vợ Ngài là Lão Tổ dạy dân chăn tầm, ươm tơ. Từ đời Hoàng Đế trở về sau nền văn hóa Trung Quốc cũng xuất hiện và tiến triển dần. Qua đời Đường Ngu (2356 trước C.L.)áo quần có vẽ màu nghĩa là từ sự cần che thân, người ta đã tiến đến sự trang điểm. Đời vua Hạ Vũ đã có khoa trị thủy, có dây làm mực, có thước để đo. Mọi thứ bắt đầu lìa bỏ sự thô sơ để trở nên hoàn bị và có mỹ thuật. Nghệ thuật kiến trúc phát đạt mạnh cho nên đời Hạ Khải có Điếu Đài Toàn, đời vua Hạ Kiệt có Khuynh Cung Dao Đài, đời vua Thương Trụ có Lộc Đài tức là những cung điện nguy nga để yến tiệc chơi bời, chớ chẳng phải chỉ để che mưa gió như thuở trước. Khi văn tự chưa phát minh, để ghi nhớ công việc người ta chỉ biết thắt nút. Đời Phục Hi đặt ra tám quẻ Càn, Khôn, Tốn, CHấn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài (bát quái) để chỉ Trời, đất, gió, sấm, nước, lửa, núi, đầm. Dần dần người ta lấy dấu hiệu thay cho việc thắt nút. Tục truyền đời Hoàng Đế có Thương Hiệt dùng móng thú và dấu chân chim in trên đất, cát để đặt ra văn tự. Văn tự dần dần lại theo lối tượng hình nghĩa là ghi chép hình ảnh của sự vật mà đặt thành chữ. Cũng từ đời Hoàng Đế người ta dùng Giáp Tý để tính năm tháng và phát minh bói toán (bói cỏ thi). Xét như vậy, giống Hán đã có một nền văn hóa khá cao 27 thế kỷ trước khi Thiên Chúa Giáng Sinh. 2 – Trật Tự Xã Hội, Gia Đình Giữa quyền chúa tể trong thiên hạ là Thiên Tử. Thiên Tử có địa vị độc tôn, vô thượng. Theo quan niêm Á Đông, Thiên Tử thay Trời trị dân. Dưới Thiên Tử là các chư hầu được đặt theo cấp bậc: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam và được lĩnh phần thái ấp. Thiên Tử có ngàn dậm đất. Công, Hầu được trăm dậm. Bá được bảy chục dậm. Tử, Nam được năm chục dậm. Thiên Tử có vạn cỗ xe, chư hầu được ngàn cỗ trở xuống. Có nhiều xe thì có nhiều binh vì xe dùng vào việc chiến tranh. Y phục của vua, chúa cũng có sự phân biệt. Vua mặc áo màu vàng thêu rồng (hoàng bào) các chư hầu và các quan chức dùng màu khác. Đến phi hậu cũng có sự ấn định rõ rệt: Thiên Tử có Đông Cung và Tây Cung và mười hai cung phi (nhưng đến Tần Thủy Hoàng cung A Phòng đã chứa đến ba ngàn mỹ nữ). Chư hầu có chín người. Thiên Tử được riêng quyền cúng tế trời đất và có những nhạc dùng cho lễ nghi triều trung của Thiên Tử. Các chư hầu hàng năm phải tiến cống Thiên Tử nhân tài, mỹ nữ, báu vật. Mỗi khi Thiên Tử đi chinh phạt, chư hầu có bổn phận đi theo đánh giúp hay tiếp tế binh lính, quân lương. Dưới chư hầu có các quan đại phụ cũng là những nhân vật quan trọng dưới chế độ phong kiến, họ cũng được hưởng quyền thế tập được chia đất, nhưng sau này đại phu được lựa chọn trong đám người hiền vua biết đến hay có người tiến dẫn. Gia đình của người Trung Quốc thời cổ cũng đã chịu một trật tự nghiêm minh. Ông nội hay người cha là chủ, phụ trách việc khói hương, ra các mệnh lệnh cho mọi người theo. Kế tiếp ông hay cha là người con trưởng hay cháu trưởng (đích tôn). Cha mất, quyền trong gia đình qua tay người con cả, dầu có mẹ hay chị lớn (quyền huynh thế phụ). Đây là một nguyên tắc. Thường dân chia ra 4 giới: Sĩ, Nông, Công,Thương và không có giai cấp nô lệ như ở La Mã và ở nhiều xã hội Âu Châu. Nhà Nông cũng được trọng như kẻ Sĩ nhưng Thương nhân thì bị khinh khi do đó có sự hạn chế mặc áo đẹp, ở nhà lớn. Làm dân phải trung với Vua, vì Vua là tiêu biểu cao quý nhất cho quốc gia. Bất trung với Vua tức là phạm tội phản quốc. Bất hiếu với Cha Mẹ, tội cũng lớn vào bậc nhất và phải trọng hình… Việc Quan Chế Nhà Hạ đặt chức tam công là ba chức lớn nhất triều đình –Cửu khanh, 27 đại phu và 81 nguyên sĩ. Nhà Ân đặt hai quan tướng, sáu quan Thái: Thái Tể, Thái Tôn, Thái Sư, Thái Chúc, Thái sĩ, Thái Bốc —năm quan: tư đồ, tư mã, tư không, tư sĩ, tư khấu—sáu phủ: tư thể, tư mộc, tư thủy, tư thảo, tư khí, tư hỏa –sáu công: thổ công, kim công, thạch công, thủy công, thú công và thảo công. Đến nhà Chu có sự canh cải chút ít. Chu Công đặt ra sáu quan: thiên quan, địa quan, xuân quan, hạ quan, thu quan, đông quan. Dưới quyền mỗi quan có 60 thuôc quan. Đứng đầu thiên quan là chức Chủng Tể (sau này tức là chức Tể Tướng) coi tất cả mọi việc chính trị và lý tài trong nước và kiểm soát cả mọi việc trong cung. Đứng đầu địa quan là chức Đại Tư Đồ trong nom các việc thương, việc nông, việc giáo dục và cảnh sát. Đứng đầu xuân quan là chức Đại Tôn Bá coi việc tế, tự, triều, sính, hội đồng,… Đứng đầu hạ quan là chức Đại Tư Mã coi việc quân sự đánh dẹp, giữ trật tự trong nước. Đứng đầu thu quan gọi là Đại Tư khấu coi việc dân sự, kiện tụng. Đứng đầu đông quan là Đại Tư Không, giữ việc khuyến khích công nghệ, nông nghiệp, thổ mộc. Trên sáu quan có tam công là: Thái sư, thái phó, thái bảo và tam cô: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo có nhiệm vụ trông coi, kiểm điểm, đặt để đường lối chính trị trong nước và không dự việc hành chánh. Pháp Chế Đời thái cổ có 5 hình để trừng phạt có tội nặng nhất –ngoài ra có tội phải xử trị bằng roi da và tội lưu. Qua đời Hạ, Ân, Chu đặt thêm tội chặt chân, gọt đầu và tội đồ, và cuối đời nhà Chu vì sự biến loạn mỗi ngày một nhiều, nhà vua đặt thêm tội bêu đầu, xé xác, lăng trì, mổ muối,… Binh Chế Tới nay không có sách nào nói rõ về tổ chức quân sự đời nhà Hạ và nhà Ân. Dưới thời nhà Chu, người ta đặt 5 tên lính là một ngũ – 5 ngũ là một tượng – bốn lượng (100 người) thành một tốt – 5 tốt tahfnh một lữ -- 5 lữ thành một sư – 5 sư (12500) thành một quân. Quân có quan Mạnh Khanh làm Tướng. Sư có quan Trung Đại Phu làm Súy. Lữ có quan Hạ Đại Phu cũng làm Súy. Tốt có quan Thượng Sĩ làm Trưởng. Lượng có quan Trung Sĩ làm Tư Mã. Thiên Tử có 6 quân. Chư hầu nào lớn có 3 quân. Chư hầu vừa có 2 quân. Chư hầu nhỏ có 1 quân. Để giúp việc quân sự được mạnh mẽ, nhân dân phải tham gia vào các việc tổ chức sau đây: Nước chia ra làm nhiều tỉnh. Mỗi tỉnh có 8 nhà. Bốn tỉnh là một ấp (32 nhà) Bốn ấp là một khấu (128 nhà) Bốn khấu là một điện (512 nhà) Mỗi điện phải chịu một cỗ binh xa, 4 con ngựa, 12 con bò, 3 giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người làm việc khuân vác các đồ nặng (tức là dân công nô dịch chiến trường). Tổng số là 100 người. Điền Chế Việc chia ruộng đất về đời thái cổ, đến nay chưa rõ ra thế nào, chỉ biết từ đời nhà Hạ triều đình chia 50 mẫu ruộng (?) và quân nhân hoa lợi. Nhà nước thu thuế 1/10 tức là cống xuất. Dưới triều Ân và Chu, nhà vua đặt phép tỉnh điền tức là chia đất ra làm 9 khu hình chữ tỉnh. Nhưng khu ở chung quanh là tư điền. Khu ở giữa là công điền. Mỗi tỉnh phải cho 8 nhà cầy cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho Vua. Dưới đời nhà Ân mỗi tỉnh có 630 mẫu. Mỗi nhà được 70 mẫu. Phép đánh thuế gọi là phép trợ. Qua đời nhà Chu, mỗi tỉnh có 900 mẫu. Mỗi nhà được 100 mẫu. Phép đánh thuế gọi là phép triệt. Cứ xét như trên đây mỗi tỉnh có 8 nhà và mỗi nhà được cầy cấy từ 70 mẫu đến 100 mẫu, ắt rằng dân số của mỗi nhà đây phải khá đông do nhiều gia đình tập hợp lại, trái lại một gia đình thượng cổ có 5 hay 10 người làm thế nào mà khai khẩn được hàng 100 mẫu ruộng trong khi nông nghiệp chưa mở mang, điền khí còn thô sơ. Ta còn có thể coi mỗi nhà ngày xưa ở Trung Quốc như một xóm lớn hay một làng nhỏ ngày nay hoặc một họ mới hợp lý hóa được việc trên đây. Sử lại chép dưới đời này Chu có lệ cú 20 tuổi thì được chia cho 100 mẫu ruộng và số ruộng này được giữ tới 60 tuổi mới phải trả lại cho nhà Vua. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu, đến 16 tuổi được lĩnh 25 mẫu ruộng. Nhờ có phép chia ruộng như vậy nên trong dân không có sự chênh lệch quá đáng về tài sản. Theo thiển ý chúng tôi, sự ghi chép trên đây có sự sai lầm vì khoongtheer nào từ đời nhà Ân đến đời nhà nhà Chu tình trạng đất đai lại có thể phân phối như vậy. Nhà Ân cấp cho mỗi nhà 70 mẫu, nhà Chu cấp cho 100 mẫu rồi lại có thể cấp cho những trai tráng từ 20 tuổi mỗi người 100 mẫu. Như vậy số ruộng đất ở đâu ra mà cấp phát nhiều thế và mỗi trai tráng 16 tuổi hay 20 tuổi đảm đương sao được từ 25 đến 100 mẫu? Đây là tài liệu trích trong VIệt Nam Sử Lược trang 34. Ngoài ra chúng ta cũng chưa từng thấy nói mẫu ruộng ngày xưa nhỏ hẹp hơn mẫu ruộng ngày nay, để có thể tin một phần nào. Đến đời Chiến quốc, phép chia đất bỏ đi, dân gian được tự do cầy cấy tùy sức kể từ Lý Khôi làm tướng nước Ngụy và Thương Ưởng giữ chức tướng quốc nước Tàu. Học Chính Nhà Hạ lập nhà Đông Tự và Tây Tự cho hai cấp đại học và tiểu học. Nhà Ân đặt Hữu Học và Tả học cũng theo ý nghĩa đó. Các nơi này còn là chỗ tập bắn, làm văn và dưỡng đường cho các người già cả. Nhà Chu lập nhà Tích Ung hoặc Thành Quân làm trụ sở dạy học cho con cháu vua, quan và những người tuấn tú lựa ở các thôn xã. Ở các Châu, Đảng ([link=#_ftn1][1][/link])thì đặt nhà tiểu học gọi là Tự và nhà Tường cho dân chúng. Bấy giờ việc học cũng hạn định về tuổi: từ 8 tuổi đến 14 tuổi cho bậc Tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi cho bậc Đại học. Chương trình Đại học gồm có: Lễ, nhạc, thi, thư. Chương trình Tiểu học có: luân lý, đạo đức và cách ứng đối,…Văn minh, học thuật Trung Quốc từ đời nhà Chu đến đời Xuân Thu đã tiến nhiều, xét qua các cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội trên đây nếu so với tình trạng của nhiều dân tộc khác bấy giờ. Điều đáng chú ý hơn cả là những học thuyết, tư tưởng và giáo lý đã được đề xướng do mục đích cai rtaoj hoàn cảnh xã hội Trung Quốc trong giai đoạn này hết sức nhiễu nhương vì nhiều cuộc biến loạn liên mien đã xảy ra giữa các phe nhóm phong kiến và quý tộc trước vấn đề quyền vị và danh vọng. Dân chúng dĩ nhiên là nạn nhân truyền kiếp của tình thế tam phân, ngũ liệt, của các vụ tranh vương đồ bá giữa vua chúa và các chư hầu. Những nhân vật khả kính đã ra đời trong thời kỳ này là Khổng Tử, Lão Tử và Trang Tử…Khổng, Lão đã xướng ra hai đạo thuyết tuy khác nhau nhưng đều hướng vào chỗ lập lại trật tự xã hội và giải phóng con người ra khỏi vòng hệ lụy. Nhiều học giả khác cũng góp phần trong cái lâu đài tư tưởng của Trung Quốc như Mặc Địch, Dương Chu, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Thi Giảo, Điền Biền, Quỷ Cốc.. Mặc Địch chủ trương thuyết Kiêm Ái, Dương Chu lập ra thuyết “Vị Ngã”, Thân Bất Hại, Hàn Phi thuộc phái pháp gia đề xướng việc triệt để dùng luật pháp trị thiên hạ… Qua nhiều thế hệ người đời sau lưu tâm đến đạo thuyết của Khổng Phu Tử và của Lão Tử (tự là Lý Đạm) hơn cả. Khổng Tử Khổng Tử tên là Khưu, tự là Trọng Ni sinh năm 551 trước Công Lịch tức là năm 25 đời Tương Công nước Lỗ và Linh Vương nhà Chu, ngày 27-8 ở huyện Khước Phụ nước Lỗ, mất năm 479, thọ được 72 tuổi. Ngài xuất thân hàn vi từng làm Ủy Lại coi việc gạt thóc, giữ kho, sau này làm Tư Chức Lại trông nom việc nuôi bò dùng vào việc cúng tế. Đến khi đạo đức của Ngài được người đương thời chú ý, có lần ngày đã giữ chức Tư Không nước Lỗ, nhưng không thi hành được ý muốn cứu dân cứu đời, vãn hồi nhân tâm thế tục. Ngài bỏ đi chu du thiên hạ luôn 13 năm. Ngài từng đặt gót chân ở Tống, Tề, Sở, Vệ, Tần, Thái vẫn không gặp được tri kỷ. Đến năm 68 tuổi Ngài trở về cố hương (Lỗ) viết sách dạy học, môn sinh có tới 3.000 người. Ngài đã lấy các quan thư của các thời trước chỉnh đốn thành Kinh Thi, lấy thi ca lịch đại soạn thành Kinh Thư, định đính kính Lễ, kinh Nhạc và làm Kinh Xuân Thu để thuật lịch sử nước Lỗ. Tư tưởng luân lý đạo đức của Ngài gồm ở mấy điểm: Nhân, hiếu, đễ, trung, thứ và lễ nhạc. Như vậy người ta trước hết phải sửa mình để thành con người đạo đức. Có đạo đức là có tư cách, có nhân phẩm, đây là những yếu tố căn bản tạo nên giá trị của con người, trong gia đình và xã hội. Mà muốn gây được cái đức, người ta phải theo đạo trời là “Nhân” nó bao gồm cả vạn vật trong vũ trụ, nó là sự yêu thương mọi người như yêu thương chính mình vậy. Mạnh Tử sau này giải thích chữ Nhân là “Lòng trắc ẩn, là mối đầu của đức Nhân” mà ta có thể nói cách khác: người có Nhân là người có lòng trắc ẩn. Lòng Nhân đó theo Khổng Tử, trước hết phải đem áp dụng hàng ngày với cái xã hội quanh mình là gia đình, giữa những người thân thiết là cha mẹ, an hem, chị em rồi mới ra đến ngoài. Đức Nhân ở đây phát sinh ra điều Hiếu và Đễ. Nó có thiên bình vạn trạng để thích hợp với mọi người, mọi hoàn cảnh và gây nên những sự tốt lành. Với chữ “Trung” Khổng Tử muốn rằng ta phải đem hết tấm lòng của ta đối với người khác (tận kỷ chi tâm) và thi hành chữ “thứ” thì phải xét khi ta làm việc gì cho ai, ta có muốn người ta làm cho ta điều đó không, tức là phải tính lẽ hơn thiệt, lợi hại. Tóm lại, nếu ta làm điều gì cho ai, ta phải xét thấy có lợi, thì hãy làm, cũng như ta làm cho ta vậy. Nếu có sự thiệt thòi cho người ta, ta phải tránh. Khổng Tử hiểu chữ “Nhân” có nhiều bậc. Đạt được bậc cao nhất cảu chữ “Nhân” là bậc thánh tức là người siêu quần bạt chúng. Dưới thánh nhân là Quân Tử tức là người có nhân cách, đạo đức, mô phạm để giữ địa vị dìu dắt dân chúng và làm gương mẫu cho họ nữa. Tuy Khổng Tử chủ trương lấy “Đức” mà trị người, nhưng cũng nhận lễ phép là điều cần thiết. Mục đích của lễ phép là giữ mối giềng cho quốc gia, giữ vẻ tôn nghiêm của vua, duy trì trật tự phân minh ngoài xã hội. Ngài còn cho rằng Nhạc cũng phải có, để điều hòa tâm tình con người và chính trị làm bằng Lễ Nhạc là chính trị lý tưởng. Về phương diện xử thế, Khổng Tử còn nêu ra đạo Trung Dung, Khổng Tử nói người quân tử trong khi xửđối việc đời phải giữ lẽ triết trung, nghĩa là không thiên quá nhiều về một bề nào, không cực đoan, không thái quá, bất thiên bất ỷ, do đó người ta tránh được những điều quá đáng bao giờ cũng có hại. Các nhà Nho của ta chịu ảnh hưởng của thuyết “Trung Dung” thường khuyên kẻ hậu sinh trong mọi cuộc giao dịch trong ngoài nhớ câu: “Hồng thắm thì hồng chóng phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu…”, quả thật là thiết thực như vậy. Một nho gia, ông Tổ Canh Trần Đình Sóc gần đây giải thích Trung Dung một cách khoa học như sau: “Ta đem thả một khối đặc xuống một thế loãng ví như thả một khúc gỗ xuống một cái hố sâu nước. Khúc gỗ bắt đầu chìm: ta tưởng nó chìm tới đáy, nhưng không, nó chỉ chìm tới chừng nào để đạt tới quân bình giữa trọng lực dìm nó xuống với sức nước đẩy nó lên. Hai bên đều nhau thì nó lơ lửng ở giữa. Ở đây là thế “Hòa” của khối đặc trong hoàn cảnh loãng của nó. Chỗ nó đứng là vị trí an bài đắc kỳ sở ở thế quân bình. Ta nhận thấy ở khối đặc và thế loãng ấy có hai thế lực chống nhau: một thế động và một thế phản động thừa trừ lẫn nhau mà sinh ra một thế thứ ba là thế “Hòa” hay là thế “quân bình” nó đã dung hòa được hai phương diện mâu thuẫn, hai khuynh hướng đối lập của nó. Cùng một lý ấy ta suy rộng ra thì thấy các vì tinh tú dun dẩy, hấp dẫn nhau vào đúng vị trí của thế quân bình nên vẫn luân chuyển mà không xô xát. Thời tiết được thế quân bình thì vạn vật sinh thành nảy nở,… cho nên người ta nhận lấy cái định luật này để noi theo và ứng dụng vào cuộc đời mới mong thành công trong mọi việc…” Về chính trị (Khổng Tử còn là nhà chính trị nữa). Khổng Tử nêu lên thuyết chính danh, đó là một tư tưởng chủ yếu của Ngài. Và nếu Khổng Tử có tư tưởng này là vì Ngài sinh ra giữa thời phong kiến, xã hội đang đảo lộn, trật tự đang ngửa nghiêng, nhân tâm đang suy bại. Muốn chấm dứt cái thời đại vô kỷ cương, Ngài khuyên các vua chúa và thứ dân phải xử sự cho hợp cái địa vị, cái danh nghĩa của mình, nghĩa là kẻ làm vua phải biết đạo và theo đúng đạo làm vua, kẻ làm tôi, làm cha làm con cũng vậy, đừng ai xâm phạm đến địa vị quyền lợi của kẻ khác, trên dưới một lòng để đi đến chỗ thống nhất cho quốc gia về mọi phương diện. Tóm lại, từ đấng vương giả đến dân chúng đều phải tuân theo tam cương ngũ thường và liên đới trách nhiệm trước mọi cuộc thịnh suy của dân tộc, xã hội. Mọi điều khuyến cáo này xét ra được khảo sát trong lệ tục nhà Chu trước khi xuất hiện trong Lễ Kinh và Nhạc Kinh mà Ngài đã biên soạn sau nhiều năm đi chu du các nước. Họ Khổng khuyên vua chúa có đức độ trong cái nhiệm vụ thay trời trị dân (thừa thiên thụ mệnh) nhưng phải cố kiêng dùng chế độ võ lực và chuyên chế. Họ Khổng lại tin rằng người ta sinh ra vốn có tính thiện (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn) và sau này sinh ra gian ác là vì chịu ảnh hưởng xấu xa của những kẻ chung quanh. Như vậy hình phạt để ngăn tội lỗi chỉ nên dùng một cách bất đắc dĩ mà thôi, ngoài ra nên lấy lễ nhạc để cảm hóa lòng người là hơn. Nho Giáo cũng phản đối kịch liệt các hôn quân, bạo chúa nên trong Kinh Lễ có câu: Quân mệnh thuận tắc thần hữu thuận mệnh, quân mệnh nghịch tắc thần nghịch mệnh. Rồi một nho giáo rõ rệt đã có tinh thần dân chủ và cáh mạng ở trong và đã khuyên vua chúa hành động sao cho hợp lòng dân và ý trời. Nếu trái ý dân là vi thiên mệnh thì dân có quyền chống lại. Tư tưởng này đã phát sinh ra ở một vài quan niệm chính là Người và Trời có mối tương quan hay là có hai trật tự: trật tự thiên nhiên và trật tự nhân sinh mật thiết liên lạc với nhau, hòa hợp với nhau. Nếu so với các tư tưởng chính trị cổ của các nước Âu Châu, Nho Giáo đặt quyền lợi của người dân trên quyền lợi của Vua chúa thì quả là tư tưởng Nho Giáo cấp tiến hơn nhiều. Âu Châu thời xưa coi vua chỉ chịu trách nhiệm với Trời tức là Thượng Đế hay Thiên Chúa mà thôi và dân không không có quyền kiểm soát Vua chúa. Có điều đáng để ý là Nho Giáo không đề cập cách kiểm soát Vua chúa hoặc quyền hành của họ do dân chúng trao cho để ngăn trừ những hành động chuyên chế và lạm dụng. Phải chăng phái trí thức tức nho giả thời xưa không tin ở năng lực của Đại chúng nên chỉ biết kêu cái thiện tâm, thiện chí của các nhà cầm quyền khiến ta phải nghĩ rằng Nho Giáo chỉ biết nêu cao tinh thần đạo đức mà thôi. Ngoài ra về chính trị Nho Giáo đã thiếu hẳn một cái gì thực tế trong căn bản nên không đi tới một kết quả để vãn hồi ngay được nhân tâm, thế tục thuở ấy. Cái quan niệm thật sự và triệt để dân chủ ngày này là Chính Phủ phải là của dân, phụng sự dân và tùy quyền dân (Tổng Thống Abraham Lincoln) đã giải thích chính thể dân chủ ở Hợp chủng Quốc ngày nay như vậy: The Government Of The People and By The People). Lão Tử Bên cạnh Nho Giáo có Lão Giáo là một đạo giáo đã từng được nêu cao như một giáo thuyết khác ở Trung Quốc. Và sau Lão Giáo có Phật Giáo ngoài Nho Giáo. Ba thứ đạo giáo này quan hệ vô cùng cho nền học thuật của Đông Phương, vì vậy người ta gọi ba đạo giáo này là “Tam giáo đồng nguyên”. Phải chăng Khổng Giáo cũng như Lão Giáo hay Phật Giáo đều cũng phát sinh ở mục đích cứu dân, cứu đời, sửa chữa nhân tâm, triệt bỏ mọi tham ý, tà dục và nêu cao tình ưu ái giữa Gia đình, Xã hội và Nhân loại để con người đi tới một tập thể có Hòa bình, Cơm áo, Tự do và Hạnh Phúc? Từ nguyên lý đến phương pháp, đến cứu cánh. Nho Phật Lão chỉ khác nhau ít nhiều ở mặt thực hành; chẳng hạn Nho Giáo đi tìm chân lý trên con đường nhân sinh tương đối ở phạm vi nhập thế, mà Lão Trang hay Phật Giáo thì đưa ra những điều cao siêu, huyền diệu ở phạm vi xuất thế, tựu trung cả ba đều mưu sự hòa vui cho nhân loại giải phóng con người trên mọi phương diện. Dưới đây, chúng tôi xin trích bản khảo luận ngắn về thân thế và tư tưởng của Lão Tử vị lãnh tụ của tư trào phương Nam trên 20 thế kỷ trước và cả ngày nay nữa. Lão Tử, là người nước Sở, họ là Lý, tên là Nhĩ tự là Đạm.Không rõ ngày sinh và chết vào năm tháng nào, cứ Hồ Thích dẫn chứng thì đại ước thì Ngài sinh vào khoảng năm 570 trước C.L., hơn Khổng Tử chừng 20 tuổi. Ngài từng làm quan Trụ Hại Sử nước Chu, coi giữ kho sách nhà vua. Ngài tuy làm quan song vẫn tu hành đạo đức, lấy sự tự ẩn vô danh làm chủ. Ở nước Chu lâu ngày, sau thấy nhà Chu suy nhược không thể vãn hồi được bèn bỏ đi, rồi không rõ tung tích thế nào. Sách của Ngài làm ra, chỉ có một bộ Đạo Đức Kinh thôi. Nhưng trái với Khổng Tử và Mạnh Tử chú trọng đến nhân nghĩa, lễ nhạc để cứu vãn tình thế đương thời, lập lại trật tự xã hội, Lão Tử tuy cùng quan niệm như Khổng Tử có một trật tự thiên nhiên, nhưng trật tự ấy không có nghĩa bó buộc người đời trong một khuôn khổ nào hết. Chính trị, đạo đức, giáo dục, học vấn đến cả Trời đều không là gì hết (Thiên địa bất nhân) mà lại còn có hại là đàng khác. Lão Tử bài xích hết thảy các tiên vương, tiên thánh: Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ…nên đã dám nói rằng: Làm loạn thiên hạ là ông Nghiêu, ông Thuấn. Làm đói thiên hạ là Thần Nông (Loạn thiên hạ giả Nghiêu dữ Thuấn, cơ thiên hạ giả thần nông); chế độ chính trị nào cũng chỉ là những phương cách bóc lột, đè nén dân chúng của một hay nhiều giai cấp xã hội. Lập ra nhiều phép tắc, luật lệ càng đưa dân chúng đến chỗ nghèo nàn, khốn cực, gian ác, những phương pháp làm giàu càng ddauw gia đình đến chỗ bại hoại, suy đốn. Phủ nhận và bài xích hết thảy mọi quy mô và tổ chức đã sẵn có, Lão Tử nêu ra Vô Vi Chủ Nghĩa. Sách Đạo Đức Kinh của Ngài khuyên người đời sống Hòa Hợp với thiên nhiên, tự cải hóa, cởi bỏ mọi điều dục vọng. Đứa trẻ sơ sinh là hình ảnh của Thiên nhiên, của đời sống hồn nhiên thuở nguyên thủy. Mội khi loài người và Tạo vật đã hòa hơp được với nhau, nghĩa là đều vô tri, vô hám thì không còn sự tranh giành, xô xát thế giới sẽ có hòa bình, hạnh phúc. Lão Tử là tiên phong cho tư tưởng đương thời, phàm chư tử bách gia đời sau, phần nhiều là gốc ở Lão học. Nội dung của Lão học đại khái như sau đây: Thiên Luận Trước Lão Tử thì trong tư tưởng giới người ta đều cho trời là có ý chí và chủ tế hết thẩy. Đến đời Xuân Thu, Chiến quốc là buổi chiến loạn liên mien, người ta đối với trời bèn sinh lòng hoài nghi, rồi đến oán vọng trách mạ. Lão Tử thuộc giòng quý tộc, thấy chế độ phong kiến đương ở vào cảnh vỡ lở, lại có phẫn khái nhiều, cho nên ngài cho rằng: “Trời đấy là bất nhân, xem vạn vật như đò chó rơm” (4). Ngài đã không tin trời cho nên mới nêu ra một cái gọi là “Đạo” là cái “tự nhiên hỗn thành trước khi có trời đất, im lặng quạnh quẽ, đứng một mình mà không đổi, chỗ nào cũng đi mà không mỏi, muôn vật trong vũ trụ đều gốc ở đó mà sinh ra” (5). Tác dụng của Đạo là: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật” (6). Đạo chỉ là tự nhiên không có ý chí, cho nên Ngài lại nói rằng: “Trời bắt chước đọa, đạo bắt chước tự nhiên”. (7) Hai chữ“tự nhiên” ấy là không thừa nhận trời làm đấng chủ tế của muôn vật vậy. Vô Vi Luận Lão Tử đã trọng tự nhiên, cho rằng vạn vật đều có một cái đạo lý “độc laoaj nhi bất biến, chu hành bất đãi”, là không cần có trời làm chủ tể, cũng không cần đến người gây dựng sắp đặt. Do tư tưởng ấy rồi thành ra tư tưởng phóng nhiệm, tức là lý thuyết Vô Vi. Nhân sinh triết học của Lão Tử là ở thuyết Vô Vi ấy. Ngài cho rằng người ta phải giữ lòng cho bao giờ cũng thanh tĩnh, cái gì cũng để theo lẽ tự nhiên, đừng nên thiết đến cái gì cả “Thường có bỏ hết được cái lòng ham muốn thì mới biết được chỗ huyền diệu của Đạo. 8 Người đã giữ được đạo thì không ra khỏi cửa mà biết được cả muôn vật trong thiên hạ, không dòm ra ngoài cửa sổ mà biết được cái đạo trời thống trị cả thế gian, người ta hễ muốn đi xa bao nhiêu thì lại càng biết ít bấy nhiêu. 9Về việc học cũng vậy : càng học càng biết nhiều mối thì lại càng vô ích mà hại cho mình, chứ đã đem tâm trí mà chú vào đạo thì cái biết càng ngày càng ít đi, càng ít mãi cho đến bực vô vi, tuy vô vi nhưng mà không có cái gì là không có ảnh hưởng của mình”. 10 Về chính trị Lão Tử cũng theo nguyên lý vô vi cho rằng “không làm gì mà dân tự hóa thành hay, cứ yên lặng mà dân tự ngay thẳng”. 11 Tuy nhiên, vô vi không phải là cứ ngồi yên không hành động gì cả đâu, nhưng đã làm việc chính trị thì phải phòng ngừa từ trước, lo việc từ trước, từ lúc chưa có việc gì xảy ra thì mới được. 12 Ngài cho rằng: “Đạo lớn đã bỏ thì mới đặt ra nhân nghĩa; có kẻ trí tuej thì mới có những điều gian ác phản nghịch, vì cha con vợ chồng không hòa với nhau nên mới sinh ra hiếu tử, vì quốc gia biến loạn cho nên mới có trung thần”( 13), nghĩa là những điều ước thúc của luân lý, đạo đức đều là trái với đạo cả. Những nhà chính trị biết theo đạo thì không cần lấy nhân nghĩa lễ trí mà dạy dân, chỉ cần khiến cho dân giữ lấy tính giản dị chất phác mà theo tự nhiên. Cái xã hội lý tưởng cảu Lão Tử là “nước nhỏ ít người, không cần kỳ xảo, văn vật, không cần đến binh mã, quân lính, không cần giao thông, không cần những đồ xa xỉ trang sức, miễn được ăn no, mặc ấm, ở yên, giữ lấy phong tục dịu dàng hòa nhã”. 14 Nhưng quan niệm “thiên địa bất nhân”, “thanh tĩnh vô vi”, ấy rất hợp với tư tưởng yếm thế ở xã hội đương thời cũng những ý thức tiêu cực và phẫn oán của giai cấp quý tộc phong kiến đương suy đốn. Trang Tử Chủ nghĩa xuất thế của Trang Chu cũng theo chủ nghĩa vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Song vô vi chủ nghĩa của Lão Tử còn có hàm ý vị xử thế, chứ xuất thế chủ nghĩa của Trang Chu thì cho rằng: “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”, cho nên vô thủy vô chung, vô tiểu vô đại, vô yểu, vô thọ, vạn sự vạn vật đều là nhất tề. Nhân thế mà Trang Tử có cái nhân sinh quan tự nhiên nhi thiên, hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh” 15[link=#_ftn4][4][/link]. Trang Tử nói: “Kẻ chân nhân ở đời xưa không biết ham sống, ghét chết. Đẻ ra cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoát qua thoát lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng để mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết nữa cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy” 16. Tư tưởng Lão Trang quả là một thứ triết học cao siêu kỳ diệu khiến trí não người ta bay bổng lên lên những cảnh giới siêu nhiên huyền diệu chứ không như tư tưởng của Nho Giáo chỉ giữ tinh thần người ta ở trong vòng thực tế tầm thường, ở trong vòng lễ giáo chật hẹp. Bởi vậy tuy trong thời trung cổ và cận cổ, Nho Giáo độc tôn, mà những nhà nho học lỗi lạc vẫn thường nghiên cứu học thuyết của Lão Trang mượn nó làm mối an ủi những nỗi khổ não ở đời. Tuy nhiên, cái ảnh hưởng trực tiếp của Lão Trang ở trong tư tưởng giới nước ta không lấy gì làm quan trọng lắm, mà cái ảnh hưởng của Lão Giáo bị Đạo giáo lợi dụng lại sâu xa, phổ cập vô cùng. Kể từ đời Tần Hán, Nho học được độc tôn thì học thuyết Lão Trang suy dần. Đến khoảng 147 – 167 đời Hậu Hán, có Trương Đạo Lăng học được đạo trường sinh rồi lên ở núi Hộc Minh Sơn ở đất Thục làm một bộ Đạo Thư 24 thiên để dẫn dụ nhân dân. Phàm ai nhập môn thì phải nộp năm đấu gạo nên người ta gọi là “ngũ mễ đạo”. Phép trị bệnh của đạo ấy là dùng nước bùa (phù thủy) cho người bệnh uống, hay là viết tên họ người bệnh vào ba tờ giấy, một tờ dán ở trên núi, một tờ chôn ở dưới đất và một tờ ném chìm xuống nước. Con Lăng là Hoành, cháu là Lỗ, cũng tu đạo ở đấy. Đến con Lỗ là Trương Thịnh thì dời đến Long Hổ Sơn ở tỉnh Giang Tây rồi đạo thống kế tục mãi mãi. Trương Đạo Lăng phụ hội thuyết thần quái của bọn phương sĩ đời Lưỡng Hán và lợ dụng Hư Vô chủ nghĩa cùng Phá Hoại chủ nghĩa của Lão học để lung lạc những kẻ bất bình trong xã hội cho nên kết nạp được rất nhiều tín đồ. Lại nhân văn thể của Lão Tử có vần dễ tụng, có nhiều chỗ mập mờ khó hiểu, hoặc nhưng đoạn thư “thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” có vẻ thần bí, cho nên lại càng khiến người ta sợ hãi và mê tín thêm. Gia dĩ cuối đời Hán sang đời Tần, học Hoàng Lão thịnh hành, những kẻ sung bái học ấy, lấy điều siêu nhiên cao cả làm chủ, cho nên rất lưu ý về phép trường sinh bất tử, vũ hóa đăng tiên. Từ đó Đạo giáo nghiễm nhiên thành phép tư tiên, đến đời Đông Tấn có Cát Hồng quy định rất là chu đáo, rồi sinh ra vô số những phương thuật và mê tín khác. Qua đời nàh Đường các thi bá, trí thức như Mạnh Hạo Nhiên, Tống Chi Văn, Vương Duy, Lý Kỳ, Trương Cửu Linh, Lạc Tân Vương, Lưu Vũ Tích, Lý Thương Ẩn… rất tôn sung các đạo sĩ. Tỉ dụ Kỳ Đạo Sĩ về quán Ngọc Thanh, Lý Kỳ có bài thơ sau đây: … Đại bạo bãn vô ngã Thanh xuân trường dữ quân Trung châu nga dĩ đáo Chí lý đắc nhi văn Minh chúa giáng hoàng ốc Thời nhân khán bạch vân … Đại ý: Đạo lướn vốn là vô ngã (không có mình) xuân xanh theo mãi với ông, chỉ thoắt chốc về đến Trung Châu, khiến chúng tôi được nghe những sâu sắc kỳ diệu của đạo. Đấng minh chúa từ nhà vàng xuống đón mời, người đời trông mây trắng mà biết đạo sĩ đi về. Đông Nhạc chân nhân Trương Luyện Sĩ Cao tình nhã đạm thế gian hi. Xem như vậy, người tu đạo ở đời Đường có đạo hạnh và đạo tâm thì được cảm tình của nhân dân thế nào. Dưới đời Tống, địa vị của Đạo cũng rarất tốt đẹp. Vua Tống Huy Tông tự xưng là giáo chủ Đạo Quân Hoàng Đế. Song từ Nam Tống (1127 – 1279 Đạo giáo suy sụp dần, chia ra phái Nam, phái Bắc, mỗi phái truyền đạo theo một thuyết riêng, đó là điều tai hại cho Đạo. Đến nhà Kim, nhà Nguyên vào chiếm Trung Nguyên, đạo giáo lại chia rẽ phen nữa, lần này thành ba phái: một là Chân Đại Đạo Giáo do Lưu Đức Nhân triều Kim đứng ra, hai là Thái Nhất Giáo do người cháu đời thứ 36 của Trương Đạo Lăng là Trương Tông Diễn vâng lệnh vua Thế Tổ nhà Nguyên quản lĩnh Đạo giáo miền Giang Nam. Ba là Thát Nhất Tam Nguyên do Tiêu Bảo Chân cũng dưới nhà Nguyên sáng lập. Dầu vậy, dưới đời Nguyên, đạo giáo có nhiều phen thất bại: dưới đời Hiến Tông bị thế lực Phật Giáo lấn át –dưới đời Thế Tổ lại có hồi bị cấm chế nữa. Mãi cho đến đời vua Thái Tổ, nhà Minh, khoảng năm Hồng Vũ thứ 10 con cháu Trương Đạo Lăng (tức Trương thiền sư) mới phục hồi được địa vị trước (1377) nhất là dưới triều Minh Thế Tông năm Gia Tĩnh (1522 – 1566) nhà vua rất tin dùng đạo sĩ để học thuật trường sinh. Triệu Nguyên Tiết được phong làm Thái Nhất chân nhân thường nói chuyện cho vua nghe về huyền lý của Đạo.Thiệu giải thích như sau: “Chân giáo chỉ thu vào trong một chữ tĩnh. Tĩnh sinh trí, trí sinh sáng, sáng sinh yên. Động sinh mờ, mờ thì tối, tối thì loạn. Đáng thanh quân trị thiên hạ quý vô vi. Chính nho gia cũng vô vi. Khổng Tử có nói: “Vô vi mà trí là vua Thuần chăng! Nào có làm gì đâu, chỉ tự cung kính ngồi ngoảnh về phía Nam mà thôi”. Sang đời nhà Thanh, thế lực của đạo giáo dầu suy lạc và không được triều đình tôn trọng cho tới khi khoa học Tây Phương tràn vào Trung Quốc như ánh sáng mặt trời soi vào đám ương mai mù mịt. Đạo giáo bị lung lay đến nền tảng vì những phương thuật mê tín hơn nghìn năm để lại chống sao nổi những kỳ diệu của nền văn minh cơ giới rất đắc lực trong việc phụng sự nhân sinh. Nhân dân dần dần hết tin đạo rồi Dân Quốc cách mệnh nổi lên với các tư tưởng cải cách, duy tân, đạo giáo tan rã nhường không còn gì nữa. Thêm vào đó, chính phủ Quốc Dân đã ra nghiêm lệnh thủ tiêu Đạo Giáo và phá hủy cơ sở của nó là Long Hổ Sơn. Ngày nay hệ thống tư tưởng và luân lý nước Trung Quốc đang thay đổi mạnh do sự hiện diện của chính phủ Cộng Sản Mao Trạch Đông, Phật Giáo và Nho Giáo ở Trung Quốc cũng đến lượt bị đào thải trước trào lưu mới. Tuân Huấng Ngoài những nhà đạo đức, triết gia, khoa học, chính trị trên đây mà một số đáng coi là những ngôi sao sáng trên nền trời văn minh, học thuật của Trung Quốc, người ta còn phải kể đến nhà đại tư tưởng và khoa học Tuân Huống cũng sinh vào thời Chu mạt và ngay thời điểm đó Tuân đã có rất nhiều ảnh hưởng đối với văn học giới nhất là về đời Tây Hán. Nhưng vào thuở đó danh tiếng của ông không lẫy lừng như các bậc trên đây do ông không ưa tuyên truyền và phô trương. Có thể ví ông như Kant ở Âu Châu đáng lẽ còn nức danh hơn Copercinus người đã tìm ra trái đất tròn, mà vẫn bị lu mờ tên tuổi. Ông có trí thức rất uyên bắc, những kiến giải rất tinh tế, những sáng tác đặc biệt, những nhận định rất sát với khoa học. Trên 2.000 năm trước đây mà có mọt nhà khoa học như vậy kể cả ngay trên thế giới chớ chẳng riêng ở Trung Quốc cũng còn là điều hãn hữu lắm thay. Ông cống hiến gì cho đời bây giờ? Tư tưởng của ông về triết lý và khoa học ra sao? Thời đó tại phương Nam Trung Quốc, và ở nước Tề, theo sách của Tư Mã Thiên người ta rất “mê tín việc đồng bóng, chuộng điềm quái gở”, Tuân Tử (tức Tuân Huống) bài xích kịch liệt những việc cúng mặt trời, lạy mặt trăng, tinh thần rắn trên cây lớn, sợ sấm sét, sao sa cùng ma quỷ. Ông nhận rằng mưa gió không đáng sợ mà chỉ là những điều tự nhiên, những hiện tượng rất thường trong trời đất; người ta phải khống chế thời tiết, ngự trị thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên trong đời sống của mình để giải quyết mọi vấn đề xã hội, chính trị, nhân sinh. Nhà đại triết học Russel ngày nay nói: “kẻ thù địch lớn của loài người, chính là loài người vậy”. Còn Tuân Tử nói: Muốn làm xong chính trị của người (tức là dân chủ) phải quét sạch những sự quái gở trong tâm hồn con người. Để tránh sự hỗn độn trong xã hội phải thi hành một chính sách cương quyết và phải áp dụng lễ nhạc mềm mại để điều hòa cùng làm êm dịu việc trị dân, nhiên hậu mới có an lạc và thái bình. Bàn về tính tình con người ông nói: “Những điều tự nhiên mà đến mà có là tính. Tính có ham ghét; mừng giận thương vui gọi là tình. Những điều lựa chọn, đắn đo gọi là lo. Tính là sự thành tựu của trời. Tình là bản chất của tính; dục là sự ứng dụng của tình. Cho rằng cái lòng dục có thể được mà đi kiếm nó, đó là cái tình ắt không tránh khỏi. Cho rằng được mà làm, đó là do sự biết. Tính dục nếu không cần thiết phải dẹp bỏ hoặc đè nén bở người ta còn biết lo lắng, suy xét để thắng bớt nó. Nhân nghĩa đạo đức người ta sinh ra mới tập được. Tập hợp điều đạo đức phải theo phép dạy bảo của các thánh hiền. Tập các điều lễ nghiphair do âm nhạc nung đúc. Thực lòng giữ điều nhân, điều nghĩa mới có thể khiến xui được điều nhân nghĩa và biến điều nhân nghĩa đạo đức thành tính thứ hai của con người, do đó mới tránh được mọi sự tương tàn, tương sát để đi tới thái bình”. Lý luận của ông đều do phương pháp khoa học thực nghiệm không hoang đường như Trang Chu (Trang Chu nói: Thiên hạ chẳng gì lớn hơn mảnh lông mùa thu. Núi Thái Sơn là nhỏ, chẳng gì thọ hơn đứa con sảo thai. Bành Tổ là yểu). Tuân Tử nói: “Xưa nay vẫn chung một mực, loại không trái nhau, trước và sau vẫn cùng một lẽ…” Thật là đúng với những quan niệm khoa học đời nay, căn cứ về luật nhân quả, trước những điều biến hoá của vạn vật do những định luật bất di bất dịch chi phối, từ Đông qua Tây, từ kim tới cổ. Đại khái: ở Trung Hoa nước đến độ “không” thì đóng giá. Ở Tây Phương nước đến độ “không” cũng phải như vậy. Ngàn năm về trước cho tới ngàn năm về sau, định luật này không bao giờ thay đổi hay vượt ra ngoài lề lối trên đây. Ông ngược cả với Mặc Tử, Huệ Thi đã đưa ra những điều làm lạ (Mặc Tử nêu thuyết: Thánh nhân không tự yêu mình giết trộm cướp chớ chẳng giết người… Huệ Thi nói: Núi với vực cũng bằng phẳng như nhau…) Ông tôn thờ Khổng Tử, nhưng sửa đổi mở mang thêm học thuyết của họ KHổng. Ông theo chỗ “hư không lặng lẽ của Lão Trang, lựa góp sự cân nhắc lợi hại của họ Mặc, lấy sự “thành thật sáng suốt” của Tử Tư, Mạnh Kha” rất chú trọng đến Lễ là khuôn phép ở bên ngoài. Theo ông con người không lễ thì không sống, việc không lễ thì không thành, nước không lễ thì không yên…Lương Khải Siêu phê bình Tuân Tử là nhà triết học theo “chủ nghĩa lễ trị!” Lễ trị tức là triết trung giữa hai thứ “Đức trị và Pháp trị” có thể nói là khuôn khổ của thuyết xã hội dân chủ trên lịch sử thế giới ngày nay vậy. Ngoài tư tưởng triết học, tư tưởng văn nghệ của ông như trên đây đã nói cũng gây nhiều ảnh hưởng cho văn học đời Lưỡng Hán (Tây hán và Đông Hán) sau này. Đối với 300 bài thi của văn học Phương Bắc, ông nhận định rất rõ ràng. Khi về già ở ẩn tại phương Nam, ông thưởng thức lối văn Sở từ âm điệu và khuôn khổ của nó. Sau này ông tổng hợp văn nghệ hai miền Nam Bắc thành một thứ tân văn học đối với đời bấy giờ nó mở đường cho lối phú và thi nhạc phú đẹp đẽ cho hai triều đại trên đây. Đến cả chế độ giáo dục bằng lối học kinh cũng chịu ảnh hưởng của ông nữa. Còn thiên Khuyến Học của Tuân Tử bàn về các quy mô giáo dục, học chế, tư cách giáo sư ta thấy thật là hết sức sâu sắc, chu đáo. (Bài này trích dịch trong một tạp chí Trung Hoa). Chú thích: 1) Cứ 500 nhà gọi là một Đảng, 12.500 nhà gọi là một Châu. 2) Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật như sô cẩu. 3) Hữu vật hỗn thành, tiện thiên địa sinh tịch hề, liên hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả di vi thiên hạ mẫu. 6 Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. 7 Thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên. 8 Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu. 9 Bất xuất hồ tri thiên đạo, bất khuy hữu kiến thiên đạo, kỳ xuất di viễn kỳ tri dĩ thiên. 10 Vi học nhật ích, vì đạo nhật tổn, tổn chi hữu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. 11 Vô vi nhi dân tự hóa. 12 Vi chư ư vị hữu, tri chí ư vi loạn. 13 Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa, trí tuệ xuất, hữu đại ngụy, lục thân bất hòa, hữu hiếu tử, quốc gia hỗ loạn, hữu trung thần 14 Tiểu quốc quá dân, sử hữu thập bách chí khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử nhi bất viện tỷ. Tuy hữu chu xa, vô sở thừa chi, tuy hữu binh giáp vô sở trần chi, sử dân phục kết thắng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ túc. Lân quốc tương vong, kê cầu chi thanh tường văn, đan chi Lão Tử bất tương vãng lai. 15 Yêu thời nhi xứ thuận. 16 Cô nhi chân nhân bất tri duyệt sinh, bất tri ô tử, kỷ xuất bất tố, kỳ nhập bất cử, tiêu nhiên nhi vãng, tiêu nhiên nhi lain hi dĩ hĩ. Bất vong kỳ sở thủy, bất cầu kỳ sở chung, thu nhi hĩ chi, vong nhi phục chi? Thi chi vi bất đắc dĩ tâm ấp đạo, bất dĩ nhân trợ thiên. Thi vị chân nhân. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Phần 2 – Chương I 1) Triệu Vũ vương 2) Triệu Văn vương 3) Triệu Minh vương 4) Triệu Ai vương 5) Triệu Dương Vương Theo các Việt sử chữ nho và quốc ngữ từ xưa đến nay, Bắc thuộc chia ra làm 5 thời kỳ, kể từ nhà Hán lấy Nam Việt của con cháu Triệu Đà (111 trước C.L.) đến năm Khúc Tiên chúa gây nền tự chủ cho dân tộc chúng ta (906 sau C.L.). Gần đây nhiều học giả xét lại vấn đề này cho rằng Bắc thuộc (lần thứ nhất) phải kể từ khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc (207 trước C.L.), chúng tôi cũng tán thành nhận định này là xác đáng vì Triệu Đà là một tướng nhà Tần, dòng dõi người Trung Quốc xâm lăng nước ta để làm thuộc địa thì việc ngoại thuộc phải kể từ khi Triệu Đà đặt chân vào đất Việt. Đồng thời, ta phải bỏ nhà Triệu ra ngoài cuốn sử nước nàh mới hợp lý. Trái lại, coi Bắc thuộc thời đại bắt đầu từ nhà Hán lấy Đế quốc Nam việt (111 trước C.L.) tức là đặt nhà Triệu vào một triều vua chính thống của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi đề nghị chia Bắc thuộc ra làm 5 thời kỳ như sau này: - Thời kỳ thứ nhất: Kể từ Triệu Đà thôn tính Âu Lạc (207 trước C.L.) đến năm 111 trước Công Lịch con cháu nhà Triệu bị dứt. - Thời kỳ thứ hai: Kể từ năm 111 trước C.L. nhà Tây Hán đặt nền đô hộ ở GIao chỉ đến năm 40 sau C.L. có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do hai bà Trưng lãnh đạo. Chúng ta được một thời kỳ độc lập tuy ngắn ngủi từ năm 40 – 43 sau C.L.. - Thời kỳ thứ ba: Kể từ năm 43 đến năm 544, nước ta bị lệ thuộc về nhiều vương triều Trung Quốc, bắt đầu là nhà Đông Hán đến Nam Bắc Triều. Qua năm 544 nhà Tiền Lý ra đời đến thời Hậu Lý Nam Đế tan rã (602) là thời kỳ tranh thủ và vận động độc lập. - Thời kỳ thứ tư: Kể từ 603 đến năm 906 nước ta thuộc về nhà Tùy, nhà Đường, sau giai đoạn này có Khúc Thừa Dụ ba đời, Dương Diên Nghệ 14 năm, Kiều Công Tiễn 1 đời, Ngô Quyền 3 đời và một thời 12 sứ quân, cộng tất cả 62 năm rồi mới đến Đinh Tiên Hoàng nhất thống nước Nam, từ đó người Việt Nam kế tiếp nhau cai trị lấy nước Nam. - Thời kỳ thứ năm: Tức thời nhà Minh chiếm cứ nước ta (1407 – 1428). 1 – Chỗ rẽ của Lịch Sử Âu Lạc Trong khi Văn Lang biến thành Âu Lạc thì tấn bi kịch đẫm máu và nước mắt của xã hội Trung quốc đã kéo dài trên 600 năm, dưới đời nhà Chu, từ từ hạ màn. Nhà Tần ra đời và nền thống nhất của dân Hán thành hình. Rồi triều đại Tần Thủy Hoàng đã đánh dấu lịch sử nước Trung Hoa bằng một chế độ vô cùng tàn ác. Với chế độ này người ta thi hành một chính thể tuyệt đối chuyên chế và bạo liệt: chôn học trò, đốt sách nho để ngu dân, để diệt trừ mầm loạn bên trong, xây Vạn Lý về phương Bắc bằng “xương máu của hnafg triệu sinh linh để đề phòng “ngoại họa”, dựng cung A Phòng nhốt ba ngàn gái đẹp để tận hưởng lạc thú nhân sinh, tung ta trên 50 vạn quân về phương nam mở rộng cương vực Hán Tộc…, tất cả mọi sự việc này đều ngược với quyền lợi đại chúng nên binh hùng tướng mạnh, thành Vạn Lý sau này cũng chẳng bền vừng được bao lâu. Rồi nhà Tần đổ, nền phong kiến TrungHoa lại một phen nữa tơi bời như tro bụi. Giữa lúc này trên nội địa, Hán tộc lâm vào thế biến thì các quan lại ở biên cương cũng thay lòng đổi dạ. Nhâm Ngao và Triệu Đà cát cứ bấy lâu ở Nam Hải nghe có loạn Trần Thắng bên kia giải Nam Lĩnh liền nảy ý muốn lập riêng một triều đình miền Nam và thôn tính Âu Lạc nữa. Quý Tỵ năm thứ 50 (năm thứ hai đời Tần Nhị Thế) Nhâm Ngao khi gần chết đã khuyên Triệu Đà lợi dụng thời cơ dựng nền tự chủ ở phương Nam. Chẳng bao lâu viên huyện lệnh Long Xuyên (thuộc quận Nam Hải) đã nganh nhiên xưng vương, đổi hai quận Quế Lâm và Nam Hải ra nước Nam Việt, chưa phỉ chí, Triệu Đà còn nhìn sang Âu Lạc nữa. Theo Việt Nam Sử Lược trang 29 có nói khi Tần mở cuộc Nam chinh An Dương vương xin quy phục nhà Tần vì thế nên Âu Lạc bị đổi ra Tượng Quận. Cuối trang này tác giả V.N.S.L. lại nói: “Năm thứ 50 đời vua An Dương Vương Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc…” Theo chỗ suy cứu của chúng tôi qua các cổ sử và cả các tài liệu do các học giả hiện đại sưu tầm chẳng thấy chỗ nào nói An Dương Vương xin quy nhà Tần hết. Và xem ngay V.N.S.L. ta cũng thấy điều không ổn, vì nếu An Dương Vương đã qui phục nhà Tần thì Tượng Quân cũng như Quế lâm và Nam Hải đã đặt dưới quyền của bọn Nhâm Ngao, Triệu Đà rồi, đâu còn phải sau này cất quân đi đánh nữa. Phải chăng đây là một sự mâu thuẫn của V.N.S.L.? Hay đây chỉ là một sự thần phục về tinh thần chăng? Cũng không, vì chẳng sách nào nói như vậy. Tóm lại, ta chỉ có thể tin như trên đây sau cuộc chinh phục của nhà Tần, ảnh hưởng của Tần chưa ra khỏi đất Quế Lâm và Nam Hải. Vì vậy khi Triệu Đà dựng xong nước Nam Việt mới lo kiêm tính cả Âu Lạc. Trước khi xưng vương, Triệu Đà truyền hịch đi các cửa ải Hoàng phố, Dương Sơn, Hoàng Hác nói rằng cuộc biến loạn đang xảy khắp nơi, triều đình xa biên cương, hai quận Quế Lâm và Nam Hải cần phải tự chủ để đối phó với tình thế. Các quận huyện đều hưởng ứng. Đà liền cho giết hết các quan lại của nhà Tần đã đặt ra và đưa tay chân của mình lên sau đó đem quân đi đánh Âu Lạc. Cuộc chinh phục Âu Lạc đến nay chưa có gì rõ rệt trong các sử sách. Có thuyết nói rằng buổi đầu Triệu Đà đánh Âu Lạc bị thất bại sau xin kết làm thân gia với An Dương Vương. Rồi sau này nhân An Dương Vương chểnh mảng việc nước. Triệu Đà đem quân đánh úp. Âu Lạc mât, và do cuộc diệt vong của Âu Lạc mới nảy ra một thiên tình sử đầy máu và nước mắt giữa Trọng Thủy, con trai Triệu Đà, và Mỵ Châu, con gái An Dương Vương. Dù sao ta đã thấy về thực tế An Dương Vương mất nước. Theo Tư Mã Thiên “Triệu Đà đem binh uy hiếp biên thùy và lấy của cải dụ dỗ hai xứ Mân Việt và Tây Âu Lạc nên sai khiến được họ. “Việc này xảy ra vào năm thứ 9 đời Hán Cao Đế. 2 – Chính trị của Triệu Đà trên đất Giao Chỉ Sauk hi chinh phục được Âu Lạc, Triệu Đà không áp dụng chế độ phương Bắc, ý giả cho rằng dân Âu Lạc vốn khó cai trị hơn dân Nam việt (tại Quảng Đông và Quảng Tây). Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có lẽ quận Giao Chỉ gồm hết địa phận Bắc việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. ở mỗi quận, Đà đặt một quan Điển Sứ để coi việc chính trị, hành chính, một quan tả tưởng coi việc quân sự, còn các quý tộc bản xứ vẫn giữ được thái ấp và trị dân như cũ. Con cháu của Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điểm Loa thành vẫn được xưng vương (Tây Vu vương) và được biệt đãi hơn cả. Chế độ Triệu thuộc xét như vậy không có gì quá khắt khe và không thay đổi đời sống của dân tộc Lạc Việt là bao nhiêu về các phương diện. Chúng tôi nói như vậy không phải là vì căn cứ vào chỗ Triệu Đà đóng kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Tây) và tập trung hết thảy các hoạt động chính trị, quân sự và kinh tế ở đây, mà xét về chính trị của Giao Chỉ và Cửu Chân. Hai xứ này bây giờ về chế độ thực tế chỉ là hai xứ phụ dung của Đế Quốc Nam Việt ở dưới quyền họ Triệu, GIao Chỉ vẫn giữa được đầy đủ các cá tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại nhân cuộc thay trò đổi cảnh hai xứ này được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hung nông nghiệp. Điều đó phải nhận là có lợi cho dân bản địa. Và tuy sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất Giao Chỉ nhưng ta tin chắc rằng họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác gì với nhân dân hai quận Quế Lâm, Nam Hải. Họ Triệu coi Giao Chỉ và Cửu Chân là giang sơn riêng của mình không như nhà Hán, nhà Đường trước và sau đó đã có sự phân biệt Trung Hoa ngoại di và do sự phân biệt các quan lại Tàu nhờ chỗ triều đình xa biên cương tha hồ vét đầy túi tham, vì vậy mà máu và nước mắt của chúng ta đã đổ ra rất nhiều. Trái lại Đà muốn các đất đai của Đế Quốc Nam Việt mạnh và tiến bộ để sự nghiệp của ông ở phương Nam được vững vàng và lâu bền. 3 – Nam Việt và Tây Hán Nam Việt lúc bấy giờ đã mạnh về quân sự, về chính trị Nam Việt cũng thiết lập được mọi qui mô, khiến Hán triều phải thắc mắc. Điều này rất dễ hiểu vì Triệu Đà không những là một nhà tướng có tài mà lại còn là một nhà chính trị khôn ngoan sâu sắc, nếu so sánh ông với những người đồng thời tại Trung Quốc, có lẽ ông cũng không thua kém ai. (Xem cách ứng đối, tiến thoái sau này giữa ông với Lục giả, phái viên của Hán triều cử sang Nam Việt). Ông lo mở mang Nam Việt mục đích không chịu lệ thuộc về Trung Quốc, gây cơ sở riêng có đủ tính cách độc lập giữa lúc Lưu Bang bên Tàu đánh đổ nhà Tần dựng nên nhà Tây Hán. Nhân tâm Trung Quốc hướng cả vào họ Lưu như một cứu tinh vì đã từ lâu họ bị ngột ngạt trong cái không khi “bạo Tần”. Lần này với người anh hùng đất Bái nền thống nhất lĩnh thổ và sự thống nhất nhân tâm mới có hiệu lực thật sự, do đó Triệu Đà 13 năm sau đành chịu xưng thần với Hán chúa. Năm Ất Tị (196 trước Công Lịch) Hán Cao Tổ phái Lục Giả sang chiêu dụ phương Nam. Nhà Triệu bấy giờ đã ra đời được 12 năm rồi và nhà Hán cũng được 11 năm. Trong cuộc gặp gỡ Hán sứ đã có một giai thoại như sau: Triệu ngồi thản nhiên khi sứ Hán tới. Lục Giả vốn là tay chính khác ngoại giao rất có tài nhưng trước thái độ kiêu căng của họ Triệu, ông vẫn bình tĩnh. Ông nói: “Nhà Vua hẳn rõ Hán đế bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung Nguyên, thế lức ra sao không phải bàn. Mồ mả và bà con thân thích của nhà Vua ở cả châu Chân Định, nay nhà Vua không chịu thụ phong, không tiếp sứ, cái hại trước mắt hẳn nhà Vua cũng trông thấy…” Vũ nương thấy lời sứ giả quyết liệt tuy cách diễn tả điều lợi hại vẫn mềm dẻo liền niềm nở bước xuống tiếp sứ cười mà nói rằng: “Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!”. Do cử chỉ này ta hiểu Triệu Đà bấy giờ trong thâm tâm cũng thấy rằng dù sao Hán vẫn mạnh hơn Nam Việt. Hán chỉ cần sự thần phục của phương Nam để Trung Quốc có một uy thế về tinh thần đối với các ngoại biên mà thôi. Thực ra Hán cũng chẳng mong đòi hỏi và bó buộc gì hơn, Hán vừa gây dựng sự nghiệp, thế còn đang hang, chống lại Hán chỉ có hại, huống hồ Nam Việt so với Hán triều vẫn có thể thua cả lượng lẫn phẩm. Cuộc bang giao Hán Việt êm đẹp được một thời, đến năm Mậu Ngọ (185 trước C.L.) Hán Cao Tổ qua đời, triều chính nhà Hán trải qua một cuộc khủng hoảng. Vợ Cao Tổ là Lã Hậu cướp ngôi của Huệ Đế. Chính sự ngửa nghiêng Lã Hậu nghe lời dèm pha bãi bỏ việc thông sứ với Vũ vương lại còn ra lệnh cấm người Hán không được buôn bán đồ vàng, đồ sắt và các dụng cụ canh nông với dân Nam Việt. Tóm lại mọi việc giao dịch về chính trị và kinh tế đều đoạn tuyệt hết. Vũ Vương lấy làm bất bình, ngờ Trường Sa vương thêu dệt điều kia nọ với Lã Hậu, một mặt tự xưng là Nam Việt Hoàng Đế (Mậu Ngọ năm 25 tức năm 5 đời Hán Cao Hậu), để tỏ ý đứng ra ngoài vòng lệ thuộc của Hán triều, một mặt cất quân đánh vào quận Tràng sa là khu vực cai trị của Tràng Sa Vương (quận Tràng Sa ở vào địa hạt Hồ Nam bây giờ, chắc là nới giáp giới của đất Nam Việt). Phản ứng đó kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm Canh Thân, Cao Hậu phái Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt trả thù. Thủy thổ phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau, chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán cũng không tiến được bước nào đáng kể. Kịp tới Cao Hậu mất (năm 180 trước C.L.) Hán triều xét việc Nam chinh không lợi liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thông phương Nam, sau vụ này uy danh càng lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng dùng mọi nghi thức Hoàng Đế nhường như sánh đôi với Hán Đế ở Trung Quốc. Họ Lã mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục. Sự thần phục của Đế Quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các vương triều Trung Quốc, dường như vương triều nào không có Nam Việt trong vòng lệ thuộc của mình thì vương triều đó không rõ rệt là chúa tể bốn phương, mặc dầu “Thiên Triều Trung Quốc” vẫn coi khinh dân tộc Miền Nam là “Nam Man” cũng như đã gọi giống người bên kia Vạn Lý Trường Thành là Hung Nô hay “Phiên Ngung” hoặc “Rợ Hồ”. Sự miệt thị đó đã tỏ rõ cái tính kiêu ngạo của vương triều Trung Quốc tuy ngay trong thời đó và sau này, lịch sử từng chắng dẫn nhiều phen, vương triều Trung Quốc đã thất cơ lỡ vận và điêu đứng vì bọn “man di mọi rợ” đó: Mông cổ chiếm Trung Hoa, Mãn Thanh vào làm vua Trung Quốc, Lý Thường Kiệt nhập Tống, Trần Hưng Đạo bại nguyên, Nùng Trí Cao đánh chiếm Hoa Nam… Hán triều lại phái Lục Giả sang Nam Việt và biết rằng xứ này dưới quyền điều khiển của một danh tướng xưa kia của Trung quốc luôn mấy chục năm đã càng ngày càng mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa, vậy áp dụng một giải pháp chính trị có lợi hơn là một giải pháp quân sự. Rồi Lục Giả mang một bức thơ có những lời lẽ rất nhũn nhặn, nhờ vậy mà đôi bên Hán Việt lại nối tiếp cuộc hòa hiếu. 4 – Xã Hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà Triệu Vũ Vương mất năm Giáp Thìn (137 trước C.L.) làm vua được 70 năm, thọ 121 tuổi. Sự nghiệp của Vũ Vương thế nào, tới nay Lịch Sử không có biên chép rõ rệt lắm, ngay cả sự nghiệp của các Vua đời Hồng Bàng. Ta chỉ biết đại khái rằng dưới thời Triệu Đà, mọi tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Nam Việt đều rập theo đúng khuôn khổ của Trung Quốc. Với Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp nhờ sự cải thiện của nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ (nghề săn bắn, chài lưới bấy giờ vẫn còn thịnh). Họ Triệu nhập cảng lưỡi cầy sắt để thay cho lưỡi cuốc bằng đá trau, cho dùng trâu bò thay vào sức người, đem gia súc từ Tàu qua để mở mang việc chăn nuôi, nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội; sự phát triển về văn hóa, chính trị, quân sự cũng do cái bản lĩnh hơn người của họ Triệu đã thúc đẩy dân tộc Việt nam lên một bước đáng kể, nếu ta nhớ rằng dưới đời Hồng Bàng người Việt Nam vẫn chưa thoát ly hẳn tình trạng bán khai, mọi điều còn ở trình độ rất thấp kém trước khi nước ta nội thuộc về phương Bắc. Sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nảy nở ít nhiều ý thức quốc gia của người Việt, nhất là sau những cuộc xô xát bằng quân sự và ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu cầm quyền. Ý thức quốc gia đó qua các triều đại sau càng thêm mạnh do những cuộc đảo lộn chính trị ở Trung Quốc và trên đất Việt. Ý thức quốc gia còn nảy nở trong những giai đoạn người Việt độc lập, tự chủ và tự cường nữa. Tóm lại, ta có thể nhìn nhận người cắm cái mốc đầu tiên trên đường tiến hóa của chúng ta là tướng Triệu Đà. Còn nói rằng dân Việt có nên biết ơn sự nghiệp của Triệu Đà hay không thì ta thấy rằng họ Triệu đã mang hết tài năng thi thố trên đất Việt chỉ do một chủ trương kiến tạo một giang sơn giàu mạnh chominfh và cho con cháu chớ họ Triệu đâu có phụng sự một dị tộc. 5 – Những Vua Kế Nghiệp Triệu Đà Với những trang trên đây, ta thấy Triệu Đà khôn ngoan, tài giỏi thế nào, điều này không ai chối cãi, nhưng đến đời con cháu tiếc thay lại quá đớn hèn. Ta than cho họ Triệu đã dầy công xây dựng một đế quốc có uy thế tại phương Nam, được Trung Quốc kiêng nể, biệt xử thì ta lại không khỏi buồn cho dân tộc chúng ta vừa bộc khởi được một giai đoạn lại bị Trung Quốc nhân sự bất lực của con cháu Triệu Đà mà đè bẹp ngay xuống. Vũ Vương truyền ngôi cho cháu đích tôn là Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu tứ là Triệu Văn Vương, tại vị được 12 năm. Văn Vương tính tình nhu nhược, tài năng thấp kém lên ngôi được hai năm thì bị quân Mân Việt (Phúc Kiến) xâm lăng miền biên cương. Vì không đủ sức chống chọi được với quân Mân Việt, Văn Vương liền phái người sang cầu cứu Hán triều, Hàn An Quốc và Vương Khôi được lệnh Hán Đế đem quân đánh Mân Việt. Quân Mân Việt khiếp uy Hán triều sinh nội phản, giết quốc vuông lấy đầu dâng nộp. Nam Việt tránh được cái họa Mân Việt thì lại lần đi vào một mối nguy khác, nghĩa là do sự lộn xộn giữa Nam Việt và Mân Việt, nhà Hán hiểu rằng con cháu Triệu Đà bất lực liền nghĩ ngay đến việc chiếm nốt mảnh đất phương Nam để mở rộng cương vực Đế Quốc. Ta có thể tin rằng Hán triều khi đó chắc là mạnh lắm nên quân Hán chưa tới Mân Việt thì bên trong hàng ngũ quân Mân đã có sự rối loạn và sau đó có cuộc nội phản. Sau vụ Mân Việt bấy giờ chẳng mất đất đai thì cũng ít nhất phải xưng thần, tức là lệ thuộc về Hán, Hán Đế liền tính chiếm nốt Nam Việt, xét cơ hội lúc bấy giờ vô cùng thuận tiện. Khi Triệu Đà còn sống Hán Đế có bao giờ dám nghĩ tới việc này. Giải quyết xong vấn đề Mân Việt, Hán Đế phái luôn người Trang Trợ snag dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Ai mà không nhớ cái lối vua chư hầu vào chầu Thiên Tử thời Xuân Thu chiến quốc! Thời đó là một thời đại loạn, vua chẳng ra vua (thời Đông Chu khi sắp tàn) tôi chẳng ra tôi, trật tự xã hội đảo điên, mạnh được yếu thua, lớn hiếp bé, cho nên có tục tới chầu hầu Thiên Tửu (phong tục này chỉ áp dụng cho bọn nhược tiểu) nhà vua không đến chầu thì phải cho con đi thay thế để tỏ lòng trung tín, đó là không kể chuyện xưng thần nạp cống hàng năm theo thường lệ. Người làm con tin có khi bị giữ lại 5 hay 10 năm không được quay về xứ sở, trừ dịp may có cuộc biến cố ở chính quốc. Lệ đó đến đời Hán vẫn còn truyền lại; Hán Đế đòi Triệu Văn Vương sang chầu xem Nam Việt có phản ứng gì chăng và nếu không có phản ứng tức là Nam Việt chịu hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Triệu Văn Vương ươn hèn, nhu nhược tất nhiên không dám trái ý “Thiên triều” còn quần thần của nhà vua khi đó rất là lúng túng. Người ta nhớ lại Triệu Vũ Vương lúc còn sống đã nói: “Thờ nhà Hán cho đủ lệ, chớ nên sang chầu vì sang chầu ít có cơ về”. Nghĩa là đối với Hán phải xử theo lối “kính nhi viễn chi”. Cực chẳng đã, Văn Vương phái Thái tử Anh Tềđi thay. Anh Tề ở luôn tại đất Hán 10 năm có thừa, trong khi đó Hán triều tha hồ làm mưa nắng với triều đình Nam Việt. Năm Bính thin tức năm 125 trước Công Lịch, Văn Vương mất, Anh Tề mới được quay về quê hương để nối ngôi. 6 – Đế quốc Nam Việt sụp đổ Mười năm sống trên đất Hán, Anh Tề có dan díu với một cô gái điếm ở đất Hàm Đan tức là Cù Thị. Sau này, Anh Tề trở nên Triệu Minh Vương, Cù Thị cũng theo về Nam Việt. Minh Vương cũng chỉ ở ngôi được 12 năm thì thở hơi cuối cùng năm Mậu Thìn (113 trước C.L.). Con là Thái tử Hưng lên thay thế giữa buổi ấu niên. Cù Thị được tôn làm thái hậu đóng vai chỉ đạo cho Triệu Ai Vương. Hán triều lúc này rất chăm chú đến nội tình Nam Việt, dĩ nhiên vì Nam Việt là miếng mồi ngon, thịt béo. Cơ hội tốt đã đến bởi Ai Vương đã kém, con cũng lại chẳng hơn gì cha, cháu lại đang ở trong vòng thơ dại. Thảm hại hơn nữa, chính sự nam việt lại có người đàn bà chen vào, triều thần lại thiếu kẻ xuất sắc. Hán triều nghĩ ngay đến việc lấy hẳn Nam Việt. Lần này việc thôn tính có thể chắc chắn và dễ dàng hơn, không phải cần đến binh đao. Cũng năm Mậu Thìn ấy, Hán Đế phái sứ giả An Thiếu Quý sang Nam Việt dụ Ai Vương sang chầu, bọn Chung quân biện sĩ, làm chức Gián nghị Đại phu sang tuyên cáo lời dụ ấy. Theo kế hoạch bọn Ngụy thần làm dũng sĩ phụ tá để quyết định; Vệ úy Lộ Bác Đức đem binh đóng ở đồn Quế Dương đợi hiệu lệnh của sứ giả, giữ nhiệm vụ hậu tập. Quân đội tiên phong do Hàn Thiên Thu và Cù Nhạc (em Cù thị) điều khiển, tiến vào cõi Nam Việt đánh phá các ấp nhỏ cách thành Phiên Ngung 40 dặm… Tóm lại, mưu của Hán triều là đem vua Nam Việt và thái hậu ra khỏi bờ cõi, rồi chiêu hàng triều đình Nam Việt, nếu không xong thì quân đội sẵn sàng tập công ngay tức khắc. Việc đánh phá của Hàn Thiên Thu có ý tiên báo triều đình Nam Việt chính sách của Hán Đế, nếu Nam Việt không chịu khuất phục. An Thiếu Quý là nhân vật thế nào, và có quan trọng chăng? Y là tình nhân của Cù thị thuở trước khi Cù thị còn là kỷ nữ. Y xin lãnh sứ mạng đó, do hai mục đích công và tư. Rồi những việc gì phải đến đã đến: Hàng ngày y ra vào cung cấm tư thông với Cù thị không kể là điều ngang tai chướng mắt người Nam Việt. Y lại xúi mẹ con Ai Vương đem Nam Việt dâng nhà Hán, việc này được mẹ con Ai Vương hưởng ứng. Nhưng một người đã không chịu cái trò “Về Hán” ấy, là Thái phó Lữ Gia. Ông là một kẻ huân thần của họ Triệu, làm quan trải 3 đời vua, con cháu tới 70 người dự chính. Ông khuyên can mẹ con Ai Vương nhiều lần không chuyển liền truyền hịch đi khắp nơi tố cáo nhân dân ý định dâng nước của Cù thị và Ai Vương, cùng mưu mô sâu độc của triều Hán. Liền ngay đó, ông họp đại thần đem cấm binh vào trừ An Thiếu Quý và mẹ con Cù thị, trong khi bọn này sửa soạn lên đường…Ông lập con trưởng Minh Vương là Hoảng tử Kiến Đức, con bà Thuật Dương dòng dõi Việt, lên làm vua tức là Dương Vương. Cuộc đảo chánh vừa xong, thì ngoài biên giới quân Hán Việt đã chạm trán nhau, Hàn Thiên Thu tử trận. Lữ Gia cho gói cờ Tiết của sứ giả trả về nhà Hán, và viết thơ nói khéo để tạ tội, mặt khác ông chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Mùa đông năm Canh Ngọ (111 trước T.C.) Phục Ba tướng quân, Lộ bác Đức và Dương Bộc đem 9.000 binh chia làm 5 đạo, ồ ạt kéo sang Nam Việt. Lộ Bác Đức dùng đường Dự Chương đi xuống Hoành Phố. Qua thuyền Tướng quân là Nghiêm và Hạ Lại Tướng quân là Giáp, ra Linh Lang vượt Ly Thủy đến Thương Ngô, Tri Nghĩa Hầu là Quí lấy quân Dạ Lang qua sông Trường kha cùng vây đánh Phiên Ngung. Hán quân trước hết hãm đường Tầm Thiếp thuộc Quảng Đông, phá Bến Đá của Lữ Gia, cướp được thuyền thóc của Nam Việt. Bác Đức đem tội nhân ở Ba Thục hơn 1000 tiến sau, trong khi Dương Bộc vây kín mặt Đông Nam kinh đô Nam Việt. Bác Đức tới phong tỏamặt Tây Bắc. Trong lúc này Triều đình Nam Việt hết sức chống đỡ, sau địch quân phá được thành và phóng hỏa khắp nơi, thành mất dân phải ra hàng. Thương Ngô vương Triệu Quang cùng họ với vua Nam Việt và quan Giám ở Quế Lâm là Cư Ông cũng xin giải pháp. Mấy đạo quân Hán của Hạ Lại, Qua Thuyền và quân Dạ Lang của Tri Nghĩa Hầu chưa tới, Nam Việt đã mất. Vua Kiến Đức bỏ chạy ra bể xuống thuyền đi về phía Tây. Hiệu Úy Tư Mã là Tô Hoàng đuổi theo bắt được Kiến Đức. Việt Lang, Đỗ Kế bắt được Lữ Gia. Nam Việt phút chốc tan tành, vua tôi bị giết, năm đó là năm 111 trước Công lịch. Vì cuộc bại trận này, Nam Việt rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc và bị đổi ra làm Giao Chỉ Bộ, chia ra 9 quận trực thuộc quyền cai trị của quan lại Trung Quốc. (theo ch. Patris, Dương Vương và mẹ bị chết trong cung cấm khi Hán quân hãm thành). Nhiều nhà viết sử hay phê bình nhân vật Lịch sử đã từng lên tiếng kết án hoặc mạt sát Cù Thị, cho rằng mẹ con Cù Hậu đã đưa lại cho người Việt cái họa mất nước. Ý kiến đó thiết tưởng quá khắc khe, tuy Cù Hậu không hẳn là vô tội đối với người Việt. Theo giáo lý Khổng Mạnh, Cù Hậu phải thờ chồng nuôi con để kế nghiệp tiên tổ. Về phương diện xã hội, địa vị của thị lại vô cùng quan hệ vì là kẻ phụ đạo cho thiếu quân. Nếu triều đình Nam Việt chẳng thừa nhận cái ưu thế tuyệt đối của Cù Thị, Cù Thị đâu có thể dự vào quốc chính. Chỉ hiềm người đàn bà này đầu óc quá tầm thường nên không ý thức được cái địa vị cao quí của mình, chỉ biết nghe theo tiếng gọi của ái tình. Ngoài ra, thị tưởng một cách đơn giản rằng mình là người Hán, nay có cơ hội đem nước Việt sáp nhập vào đất Hán là làm được một việc ái quốc huống hồ việc này lại còn do áp ực của tình nhân nữa. Xét cho phải, việc tồn vong của Nam Việt bấy giờ là do thời thế và chỉ nên quy trách nhiệm vào đám người lãnh đạo Nam Việt mà thôi. Chúng ta ai mà không thấy từ Triệu Văn Vương, Minh Vương, Ai Vương đến Dương Vương thực lực Nam Việt mỗi ngày một kém, do chính sự suy bại dần, nhân tài không có. Sự yếu hèn đó là hậu quả của mấy tiền triều liên tiếp. Triều đình Hán mỗi ngày một mạnh thì trái lại hùng khí phương Nam lại sút kém dần. Tể tướng Lữ Gia và đám triều thần dưới đời Dương Vương, lòng trung quân ái quốc có lẽ có thừa nhưng tài kinh bang tế thế quả đã thiếu sót. Con thuyền mục nát ấy tất nhiên phải tan tành trước cơn gió dữ. Nếu quy tội lỗi cho người đàn bà góa vô hạnh và đứa trẻ thơ ngây chẳng hóa những ông mũ cao áo dài của luôn mấy triều không có trách nhiệm gì chăng? Đấy là ý kiến riêng của chúng tôi, nhưng để so sánh hai quan niệm cổ kim trước các biến chuyển của lịch sử, chúng tôi xin dành ít lời phê bình cho cụ Cử Dương Bá Trạc và sử thần Ngô thời Sĩ qua các dòng dưới đây: Nước nào cũng có sử, Chuyện xưa ghi chép đều hoàng đường, Nước ta có nước từ bao giờ? Hoa vua đầu hết là Hồng Bàng. Truyền rằng vua lấy bà Âu Cơ, Con vua Thủy Tề là nghĩa gì? Con rồng cháu tiên đẻ trăm trướng, Biển non hai ngả chia đường đi, Nước mình lúc ấy chưa có sử, Người sau thuật lại lắm chỗ kỳ, Thần quyền thời đại tư tưởng thế, Càng nói ma quỉ càng không nghĩ. Cho hay tiền nhân thương nước nhỉ! Nói quí người mình trong quốc thể? Như người Nhật kể giống Thiên Hoàng, Như người Tàu khoe giống Hoàng đế. Bấy giờ chia nước mười năm khu. Hong châu một xứ là kinh đô. Nam giáp Hồ tôn, tây Ba thục, Đông biển, Bắc đến Động Đình hồ. Cứ trong bản đồ thật không sai, Nước ta rầy giáp Quảng đông, tây, Xưa là một nước tưởng cũng phải, Bờ cõi ba phần nay mất hai. Thục phán, Triệu Đà hai vua sau, Người ở Âu Lạc, người Phiên Ngung, Hợp với nước mình xáp làm một, Dựng thành nước lớn trên địa cầu, Phải chăng giang sơn có hào kiệt, Tấc vàng tấc đất đừng cho Tàu. Sau gồm Chiêm Thành lấy Chân Lạp, Vẫy vùng biển Á nhường ai đâu, Tiếc thay con cháu hai nhà này, Giấy người lửa người đốt đang tay, Người thì yêu con, kẻ mê vợ, Nước đã gần mất còn chưa hay, Nỏ rùa thành ốc, khéo bày đặt, Cho hay Thục Phán người huyền hoặc, Giữ gìn thành quách nhờ binh oai, Trấn áp nhơn tâm mượn thần thuật, Ông cha thì thế! Con cháu ngu. Vô phúc đẻ phải nàng Mỵ Châu, Nặng tính gối đệm, nhẹ xã tắc, Hớ hênh đem nước cho quân thù. Triệu Đà người Bắc sang làm vua, Khai hóa người mình công cũng to, Lê giáo phong tục của Trung Quốc, Du nhập Nam thổ từ bấy giờ. Tội với nước mình cũng nhà Triệu, Vua hiền không có, nước liền yếu. Kết cuộc, Minh Vương lấy vợ Tàu. Đem cả non sông làm quà biếu. Quân gì bán nước, hư là hư! Lịch sử nước mình từ đây nhớ. Về sau Đinh, Lê lập quốc lại, Đất nước còn có như bây giờ. 7. Bàn về công tội của Thái phó Lữ Gia, Ngô Thời Sĩ viết: “…Lữ Gia cầm quyền một nước, nắm giữ việc binh từ trong đến ngoài Cung phủ, đâu chẳng thuộc quan Chủng tể, Giả sử Lữ Gia là một kẻ sáng suốt, canh phòng cẩn mật, khám xét gắt gao: những lời ở sứ quán không lọt được vào cung, nhưng hạng đằng tần không được vượt ra khỏi cửa, rồi hậu lễ để tiếp sứ giả, nhún lời để đáp vua Hán, bề ngoài tỏ lòng kính thờ nước lớn, bề trong làm vững công cuộc phòng bị để chống cuộc chinh phục của nhà Hán, khiến họ biết trong nước có người tài thì dù họ có muốn ngốn nuốt đi nữa tự khắc cũng phải đổi đường toan tính. Mà từ đó mối binh tranh cũng đến phải ngừng. “Vậy mà Lữ Gia để cho Cù Hậu và Thiếu Quý gặp nhau, bêu chuyện dâm ô ra khắp trong nước, cùng nhau làm thành cái mưu phụ thuộc vào nhà Hán. Lại trùng trình ngày tháng, biểu qua thư lại, đợi đến khi họ đã sửa soạn hành trang mới có thư cản ngăn, tiệc rượu không lành mới tính việc nổi loạn! Kịp lúc quân Hán đã kéo vào bờ cõi, không còn biết xoay mưu tính chước ra sao, bèn thí vua giết hậu để đi gấp đến bước diệt vong! Đâu lại có hạng người lo nước như vậy mà mong làm nên công chuyện được? “Vậy thấy cái cuồng của Cù Hậu và cái ngu của Lữ Gia mà biết cuộc bại vong của họ Triệu đã gây nên, xây móng ngay từ lúc Anh Tề lấy vợ và phong tước rồi”. Nhưng đến một chỗ khác, sử thần Ngô Thời Sĩ nhường nới tay đối với Lữ Gia và thể lượng cho cái khổ tiết của khách cô trung ấy: “…Lữ Gia là thế thần họ Triệu, đương lúc chúa thơ ấu, nước nguy nghi, đối với nước lớn không biết lấy lễ để thờ, toan tính cái chước giữ nước mình cho bền vừng thì phương lược lại lầm lỡ, bên trong gây nên cái mưu của Cù Hậu, bên ngoài chọc giận vua Hán, rồi không lượng sức, tự làm cho chóng bại vong! Phiên Ngung không giữ được, rồi thế như đất lở không sao cứu nổi đến nỗi mất hết cả phần đất nước cũ của vua An Dương trước, khiến cho cái khu vực mà Hòa Trọng đã dựng ấy cũng thuộc về người Tàu từ Hán đến Đường hàng 5,6 trăm năm! “Truy nguyên đến cái vạ ban đầu thì Lữ Gia không tránh khỏi tội vậy. Nhưng đó đều là những việc “đã rồi”. Gia riêng không lấy ấn tín nhà Hán làm vinh, giữ vững cái thuyết cho nội phụ là không tiện, không thể bảo là không trí. “Giết Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, gói trả sứ tiết nhà Hán, dàn quân giữ mọi nơi hiểm yếu, rửa sạch cái tức giận cho tiên quân ở nơi suối vàng; không thể bảo là không dũng. “Bỏ một vua nay lại lập một vua khác, chỉ biết có con cháu Võ Đế, xã tắc họ Triệu, liều sống chết để giữ lấy, chứ không nghĩ đến chuyện khác; không thể bảo là không trung. “Quân tử bàn người nên lấy từng đốt một. Đến như bỏ hiểm yếu làm mất nước, đành rằng Gia vẫn đắc tội với nhà Triệu. Nhưng từ nhà Triệu đến nay (triều Lê, đời Ngô thời Sĩ) chưa bao giờ có thể thu trọn được cả đất Ngũ Lĩnh, nhìn thẳng tận mặt để tranh với Trung nguyên thì là chuyện còn phải đợi đến những tay thánh hiền, hào kiệt ở sau này, cũng không đủ cho đó là tội của Lữ Gia được (Trích dịch theo nguyên văn chữ Hán trong Đại Việt Sử Ký, ngoại thuộc Triệu Ký). VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Ii - Đơn vị Hành chính trên đất Giao Chỉ. - Bộ máy chánh quyền của Tây Hán. 1 – Những Khu Vực Hành Chính Trên Đất Giao Chỉ Dưới Đời Tây Hán Đế quốc Nam Việt mất thì ở bên Giao Chỉ các quan lại của nhà Triệu cùng cá Lạc hầu Lạc tướng cũng mất tinh thần xin đầu hàng tuy Hán quân chưa vào cõi. Hai quan điểm sứ Giao Chỉ và Cửu Chân, nghe lời dụ của quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông, cũng đến dinh Lộ Bác Đức xin quy phục và nộp sổ dinh của dân Âu Lạc bấy giờ có 40 vạn. Một điều đáng chú ý, tại đất bản bộ của An Dương Vương là đất Tây Vu mà trung tâm điểm là Loa Thành, khi nghe thấy con cháu họ Triệu suy vong, các quý tộc địa phương toan thừa cơ hội để quật khởi. Tả tướng Hoàng Đồng do nàh Triệu đặt ở Giao Chỉ đàn áp ngay cuộc mưu toan cách mạng này. Đối với Nam Việt và Giao Chỉ (nước phụ dung của đế quốc Nam Việt) nhà Tây Hán lập thành các quận như sau: Nam Hải Hợp Phố vào địa hạt Quảng Đông Uất Lâm Thương Ngô gồm đất đai tỉnh Quảng Tây Giao Chỉ Cửu Chân Nhật Nam gồm Bắc Việt và mấy tỉnh Trung Việt Châu Nhai Đạm Nhĩ tức là Đảo Hải Nam Theo Hán Thư Địa Lý Chí, Giao Chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện là Liên Lâu, An Định, và Câu Lâu, Mê Linh, Khu Lương, Bác Đại, Tây Vu, Long Biên và Châu Diên. Mỗi huyện là một thái ấp của quý tộc cũ. Xét vị trí của 10 huyện trên đây, ta thấy rằng đại khái địa bàn của Giao Chỉ là vùng Trung du và Hạ du Bắc Việt, khoảng giữa lưu vực sông Nhị Hà và sông Thái Bình. Trị sở quận Giao Chỉ bấy giờ là thành Mê Linh nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên. (Sử cũ gọi là Châu Phong, trung tâm điểm của các Lạc vương xưa). Còn Tây Âu xưa kia An Dương Vương đã hợp nhất với Văn Lang. Có lẽ nhà Hán đã đem xép nhập vào với quận Quất Lâm ở Quảng Tây. Cửu Chân gồm 35.743 nhà 166.013 người 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung (Đô Lương ngày nay chăng?), Dư Phát, Hàm Hoan, Võ Thiết (xưa là Võ Công) đại khái tương đương với miền Thanh Hóa lưu vực sông Mã, sông Chu và miền Nghệ Tĩnh. Trị sở miền Cửu Chân có thể gọi là Tư Phố tức là làng Đông Sơn gần Hàm Rồng, mà 25 năm trước đây nhà Bác Cổ Viễn Đông đã khai quật được nhiều di tích về thời đại đồ đồng. Quận Cửu Chân từ trước đến bây giờ thuộc địa bàn của người Lạc Việt. Nhật Nam Quận Nhật Nam đến đời Tây Hán mới có, ở phía Nam Cửu Chân, phạm vi của nó kể từ phía Nam Đèo Ngang đến miền Nam đèo Hải Vân tức là vào khoảng giữa Trung Việt bây giờ. Quận này gồm có 15.460 nhà, 69.485 người, có 5 huyện là Chu Ngôm Ty Cảnh, Lộ Dung, Tây Quyền và Tượng Lâm. Trị sở,theo sự suy đoán của Đào Duy Anh, ở Tây Quyền tức là nơi Chiêm Thành sau này dựng thành Khu Túc để giữ biên giới của họ về phía Bắc. Địa điểm này giáp sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, mà di tích thành Hời vẫn còn đến bây giờ. Dân ở đây là các bộ lạc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng sống tại các nơi rừng rậm hay theo dọc sông biển. Di duyej của họ là những người Mọi, nhưng trên bờ sông Gianh bấy giờ đã xuất hiện một số người Lạc Việt ở đây rồi, căn cứ vào các đồ đồng đào được ở đây giống hệt đồ đồng đào được ở Đông Sơn. Nhà Tây Hán để nguyện vẹn bộ máy cai trị của Giao Chỉ đã do nhà Triệu thiết lập. Xin nhắc rằng nhà Triệu xưa kia cũng tôn trọng tình trạng và chế độ của dân bản địa nên ta đã có thể coi dù thay thầy đổi chủ dân Lạc Việt ta vẫn giữ được nề nếp xưa về chính trị cũng như phong tục, bở vậy một vài học giả ngày nay cho rằng trên thực tế nước ta đã là một nước phụ dung dưới đời nhà Triệu. Nhà Tây Hán vẫn dùng hai quan Điển Sứ của nhà Triệu, và họ được đổi sang chức mới là Thái Thú. Trên các Thái Thú có quan Thứ Sử tất nhiên là người Trung Quốc. Các Lạc hâu, Lạc tướng dưới quyền Thái Thú coi việc trị dân như cũ. Họ vẫn giữ quyền thế tập và chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái Thú, các Lạc dân vẫn làm ruộng nộp lúc cho các Lạc hầu, Lạc tướng như dân Mường, Thổ, đối với các quan Lang ngày nay. Họ có bổn phận phục dịch vào các việc xây thành, đắp đường, dựng lâu đài, doanh trại. Bên cạnh quan Thái Thú có một võ quan chức Đô Úy, chỉ huy một số quân đồn trú để giữ trật tự. Tóm lại, nhà Tây Hán trong 119 năm đô hộ đối với dân Lạc Việt buổi đầu bằng một chính sách tương đối tự do và nhân nhượng, nhưng sau khi Vương Mãng thoái, nhà Hán trung hung đối với các châu quận xa có sự thay đổi do mục đich kiểm soát ráo riết các miền ngoại biên. Trước kia, quan Thử Sử (như chức Thủ Hiến, hay Toàn quyền thời Pháp thuộc) cứ tháng 8 bắt đầu đi kinh lý, rồi đến đầu năm sau về Kinh trình bày mọi việc. Như vậy vị Thứ sử không ở nhất định tại châu trị. Đến đời Trung Hưng, các Thứ sử không được dời châu trị, dù có tang cha mẹ. Sự ngặt nghèo này gián tiếp cho ta biết trong thời Tây Hán, mầm cách mạng của dân ta thường hay nảy nở làm cho Bắc Triều phải ngày đêm thắc mắc, nên buộc các Thứ Sử phải luôn luôn có mặt tại trị sở để đối phó với tình thế, đề phòng sự bất trắc, và thi hành những luật lệ khắc nghiệt. Cơ cấu hành chính thời đó đã thiết lập như sau đây: Thứ sử có các Lạc Viên tức là Tòng sự sử giúp việc. Dưới là quan Thái Thú có một viên Quận thừa thay mặt Thái Thú khi có nhiều việc. Chung quanh Thái Thú có các Duyên sử chia ra các Tào tức là các phòng giấy. Tỉ dụ Công tào sử lựa chọn người có công lao để tuyển dụng. Mỗi Tài có 1 số Thư tá (thư ký) chuyên việc giấy tờ, bẩm báo. Các quan lại cấp trên giúp việc Thức Sử và Thái Thú là người Trung Quốc còn từ Duyên sử và Thư tá thì không nhất định phải là người Trung quốc, tức là người bản xứ cũng được dùng đến, miễn có văn tự. Trước cơ cấu chính trị và hành chính trên đây, ta nhận thấy tuy nhà Tây Hán có đạt ra nhiều phép tặc để ràng buộc dân chúng bản thổm quân đội thường trú lúc nào cũng có mặt để đề phòng mầm loạn, nhưng việc cai trị trực tiếp nhân dân vẫn ở trong tay quý tộc ta. Và chỉ có quý tộc bản thổ mới có đủ uy lực tinh thần và vật chất để cai trị nhân dân, khi đó còn sống lẻ tẻ từng đoàn thể theo hệ thống phong kiến. Vì vậy, nhà Hán không thể bãi bỏ cái vai trò của quý tộc Giao Chỉ, mặc dầu bao giờ cũng nghi ngờ, e ngại. Có điều khiển ta phải suy nghĩ là chế độ Lạc Hầu, Lạc tướng thời bấy giờ rõ rệt giống chế độ phong kiến thời Trung Cổ ở Âu Châu sau này, các công, hầu, bá, tử, đá sống nhởn nhơ trên mồ hôi nước mắt đám nông nô. Duy tình trạng quý tộc và dân chúng Giao Chỉ thuở đó có sự đặc biệt là họ cùng bị áp chế mỗi giới một cách. Do chỗ đồng thuyền đồng điệu này, sau trên một thế kỷ đau khổ, họ đã hợp sức với nhau để đánh đuổi kẻ thù chung. Viên Thứ Sử đầu tiên trên đất Việt là Thạch Đái, đóng ở Lũng Khê (thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh bây giờ), không thiện mà cũng không ác. Trong một thời gian, việc giao dịch giữa Giao Chỉ bộ với nhà Tây Hán không thấy sử sách ghi chép máy. Mãi đến năm Kỷ Sửu tức là năm Khiến Võ thứ năm, đời vua Hán Quang Vũ (nhà Đông Hán), mới thấy có chuyện Thứ sử Giao Châu là Đặng Nhượng cho sứ đem công vật về Trung Quốc. Trong thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, các quan cai trị Trung Quốc tại Giao Chỉ bộ không chịu thần phục (Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục…). Cuộc bang giao giữa Hán Triều và Giao Chỉ bộ đứt đoạn hẳn. Sau này vua Quang Vũ trung hung mới có sứ bộ Giao Chỉ đi lại. Đáng chú ý, một số quan lại, trí thức Trung Quốc lánh nạn chính trị chạy qua lưu trú ở Giao Chỉ đã góp một phần đáng kể trong việc mở mang văn hóa ở đây. Và lương quan của nhà Tây Hán có một vài người như Tích qunag và Nhậm Diên (không phải là Nhâm Diên), Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân đã tỏ được lòng chân chính với người Việt trong những năm đầu của Công Lịch là lúc xảy ra cuộc đô hộ được ít lâu. Tích Quang sang bên ta từ đời vua Bình Vương (Tây Hán) vào khoảng năm thứ hai, thứ ba và Nhậm Diên từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán. Họ khái hóa cho nhân dân, nhờ vậy dân mới được hiểu biết các điều lễ nghĩa, luân thường, đạo lý. Họ khuyến khích nông nghiệp bằng cách chỉ bảo trồng trọtcanh tác, khẩn hoang để tăng gia sản xuất. Trước kia, dân Giao Chỉ quen sinh sống bằng nghề săn bắn, chài lưới. Họ dạy việc lễ nghi, hiếu hỷ đặt thành quy tắc, và đáng chú ý học thực hành cả lòng nhân đạo bắt đầu ngay từ họ là những nhà cầm quyền (các lại thuộc phải san sẻ một phần lương bổng của mình để cấp đỡ dân chúng trong việc lấy vợ, lấy chồng). Do điểm này, ta hiểu nhân dân Giao Chỉ bấy giờ túng quẫn như thế nào. Và ta nên nhớ rằng các công cuộc Nhậm Diện và Tích Quang chỉ là sự tiếp tục sự nghiệp của tướng Triệu Đà thuở trước. Tiếc rằng Nhậm Diện chỉ cai trị quận Cửu Chân có 4 năm rồi phải đổi đi nơi khác. (Dân ta nhớ ơn ông nên làm đền thờ và lấy tên ông để đặt cho con, có lẽ theo ý họ, nhờ có công mà có dòng có giống?). Sau này chế độ Tây Hán mỗi ngày một khe khắt do chính sách trực trị được thi hành triệt để, quý tộc và sĩ dân Giao Chỉ không chịu được sự bóc lột và tàn ác của đế quốc nên phải vùng dậy cùng nhau tranh đấu, chống kẻ xâm lăng. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Iii Cuộc Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Đầu Tiên Của Việt Nam - Hai Bà Trưng đuổi Tô Định - Cuộc phục thù của nhà Đông Hán - Tính chất Cách mạng của cuộc khởi nghĩa - Nhưng cuộc cải cách của Mã Viện 1- Phất Cờ Nương Tử Như ta đã thấy nhà Triệu bị đứt vào năm 111 trước Công lịch rồi nhà Tiền Hán đô hộ nước ta 150 năm. Trong khoảng thời gian này, tuy Nam Việt bị đổi ra Giao Chỉ bộ và sáp nhập và lãnh thổ Trung Quốc, nhưng dân chúng ở đây được hưởng thể chế một nước “phụ dung” nghĩa là quý tộc bản xứ vẫn trực tiếp cai trị nhân dân. Mỗi quận có một quan Thái thú chịu quyền quan Thứ sử là người điều khiển tối cao của Bộ. Ngoài chức Thái thu còn chức quan lệnh để trông nom hành chính ở cấp huyện thành là người Tàu bổ sang. Xét ra hành chính Giao Chỉ bộ không khác gì nền hành chính ở các địa phương khác tại lục địa Trung Quốc nhưng có điều kiện là các Lạc hầu, Lạc tướng của chúng ta vẫn được tại vị nguyên vẹn dầu phải lệ thuộc vào bộ máy chính quyền của người Tàu như trên đã nói. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ nhất (Công Lịch) nhà Teiefn Hán suy kém dần rồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán từ năm thứ 9 đến năm thứ 26 Giao Chỉ bộ xa triều đình nên không còn liên lạc gì với chính quốc. Nhiều văn thần võ tướng của Hán triều sang tỵ nạn ở nước ra để được yên ổn rồi bọn người di cư này được thay thế dần đám quan lại bản xứ. Họ lại chiếm cả một số ruộng đất ở đây dựa vào thế họ là người của “Thiên triều”. Bị xâm lăng về quyền hành, lại bị đẽo gọt cả về kinh tế, quý tộc cũng như nhân dân Giao Chỉ rất lấy làm căm phẫn và thấy đời sống bị đe dọa. Lại ngay bấy giờ (Giáp Ngọ (34) năm Kiến Vũ thứ 10) Tô Định sang làm Thái thú ở quận bóc lột nhân dân quá tệ, dân Việt đến nước không còn chịu đựng được hơn nữa. Họ tuyệt vọng rồi Giao Chỉ bộ trở thành một đống thuốc sung chỉ đợi người ta ném xuống một chiếc qua diêm là bùng nổ. Đấy là nguyên nhân gần nhất. Nguyên nhân xa hơn nữa trước khi Tô Định đến Giao Chỉ bộ, dân Việt đã quá nghèo khổ rồi đến nỗi đầu thế kỷ thứ nhất, nghĩa là trước đó trên 30 năm, Tích Quang và Nhậm Diên 1[1] hai lương lại của Trung Quốc phải hô hào các loại thuộc bớt tiền lương giúp dân bản địa lấy vợ lấy chồng. Tích Quang cũng như Nhậm Diên nhân dịp này du nhập văn hóa Trung Quốc vào dất Việt bằng cách dạy dân về lễ nghĩa và nghề canh tác, nhờ vậy mới có đủ thóc gạo ăn thì dư hiểu hơn 150 năm sống trong cảnh nô lệ, dân Việt đã lụn bại cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ ở yên trong bấy lâu là vì trước đây Tích Quang, Nhậm Diện đã dùng nhiều thủ đoạn khôn khéo xoa dịu nỗi đau khổ của họ phần nào. Nhưng đây chỉ là những hạt mưa hiếm hoi trong một cánh đồng bị hạn hán lâu ngày. Sự kiện này chỉ trì hoàn được cuộc nổi loạn nhất thời mà thôi. Hai lương lại này đi rồi, Tô Định đến Giao Chỉ đã áp dụng một chế độ bạo ngược tham tàn. Một phần cũng tại từ thời Trung hung (Vương Mãng Đổ, nhà Đông Hán ra đời), chính sách ngoại biên bắt đầu cứng rắn, nhiều luật lệ ngặt nghèo được đặt ra và các Thứ sử phải ở luôn phủ trị không được đi về như trước để phòng loạn. Đấy là những việc đã khêu ngọn lửa oán hờn của nhân dân Nam Việt. Bấy giờ quý tộc ở Mê Linh, làng Hạ Lôi, tổng Yên Lãng, tỉnh Phú Yên, có nhà Lạc tướng dòng dõi Lạc vương có nhiều uy danh nhất. Con gái là Trưng Chắc rất dũng cảm kết hôn cùng con trai Lạc tướng Chu Diên là Đặng Thi Sách bấy giờ đang làm quan lệnh tại địa hạt này 1[2]. Đặng Thi Sách cũng là một nhân vật anh hùng, khí khái, đã cùng Trưng Chắc nên duyên chồng vợ vì đôi bên cùng yêu dân thương nước như nhau, cùng có đầu óc bài Hán. Vợ chồng họ Đặng đã âm mưu cùng mẹ (mẹ bà Trưng) là bà Man Thiện cháu ngoại Lạc Vương góa chồng từ sớm, để lật đỏ chế độ Hán Thuộc. Tình ý của gia đình cách mạng này đã lọt vào mắt của bọn thống trị nên Tô Định thi hành gấp nhiều biện pháp để ràng buộc và bắt bớ các nhà Cách mạng người Việt mà vợ chồng Thi Sách được coi là nguy hiểm nhất. Xin nhớ thêm rằng bên cạnh vợ chồng Thi Sách và Trưng Chắc, quý tộc và hào kiệt cùng nhân dân khắp nơi đều hưởng ứng chẳng khác chi thời kháng chiến chống quân Tần xưa kia. Bắt đầu là các đồng chí ở Đông Sàng, Liên Chiểu, Phù Xá (Phúc Yên) đem nữ binh đến giúp. Quân số mới có 2.000 sau được quân của các bộ lạc, các huyện, châu, quận gần xa nổi lên ủng hộ đông tới hàng vạn. Cuộc tổ chức võ trang chống Hán còn ở trong vòng âm thầm, bí mật thì Tô Định cho quân đến bắt vợ chồng ông Đặng Thi Sách. Thế chẳng đừng, cờ Mê Linh liền phất lên công khai nhưng Thi Sách chưa chuẩn bị đầy đủ nên bị tử trận. Việc rất không may này không làm nản lòng hai vị nữ chiến sĩ; Bà Trưng vội thay chồng cầm quyền đại tướng xông ra trước quân thù sau khi thiếp lập xong đại bản doanh ở Nam Nguyên (Hát Môn). Quân Cách mạng đánh thẳng vào Liên lâu thành (theo Maspéro và C. Patris phủ trị của Giao Chỉ bộ bấy giờ đang ở phía Nam tỉnh Hà Đông, bên bờ sông Nhuệ gọi là thành Liên lâu). Tương truyền khi xuất trận hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, che lọng vàng, trang sức rất lộng lẫy, tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm 19. Quân Hán bấy giờ phần nhiều là quân Bắc, vóc người to lớn khí giới lại sắc bén, giáp trụ đầy đủ, tiến lui có phương pháp và kỷ luật, tướng tá của họ thông thạo chiến thuật, chiến lược. Quân Việt thì ô hợp, vũ khí thô sơ, thiếu thốn lại kém rèn luyện ít kinh nghiệm chiến trường. Tuy vậy khi hai quân gặp nhau, quân Việt nhờ có lòng căm thù bốc mạnh như gió bão nên đánh rất hang, quân Hán khắp nơi phải bỏ chạy. Chẳng bao lâu, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ Giao Chỉ thuộc quyền kiểm soát của quân Cách Mạng. Núi sông của Lạc Việt lại trở về tay chủ cũ sau khi Tô Định và lũ bộ hạ chạy tháo thân về Nam Hải 20. Dẹp yên quân Hán thâu được 56 21 thành Hai bà xưng vương đóng đô tại quê nhà là Mê Linh. Nền độc lập được thâu hồi từ năm Canh Tí đến tháng hai năm Quí Mão (40 -43 sau C.L.). Các quy mô lập quốc chưa kiệp thành hình và có điều đáng kể, hieeuk lệnh cũng chưa thấu được các châu, quận xa vì đường giao thông khó khăn. Trên thực tế uy quyền của hai Bà chỉ thi thố được trong nội địa Mê Linh và Chu Diên, nhiều nhất là trong thành ấp, quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi 22. 2 – Cuộc phục thù của Nhà Đông Hán Trong giai đoạn có cuộc cách mạng nổi lên ở Giao Chỉ, nhà Đông Hán cũng đang mắc míu vào nhiều vụ lộn xộn bên Trung Quốc nên chưa đối phó ngay được với nhà Trưng. Họ mới chỉ ra lệnh cho các quận miền Nam dự bị xe cộ, thuyền bè, binh sĩ, bắc cầu, đắp đường cũng dự trữ lương thực. Tháng 12 năm 17 hiệu Kiến Võ (tháng 1 năm 42) Hán triều cử Mã Viện là một lão tướng hữu danh 70 tuổi, vừa đàn áp xong cuộc quật khởi của Lý Quảng ở Hoãn Thành (An Huy) trở về. Mã Viện được phong chức Phục Ba tướng quân cầm đầu cuộc viễn chinh. Phụ tá của Mã có Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách về thủy quân. Các tướng Hán mang hơn một vạn binh sĩ lấy ở các quận Tràng Sa, Quế Dương, Linh Lăng và Thương Ngô. Tháng 9 năm 17 hiệu Kiến Võ (năm 42 sau C.L.); họ lấy thêm 12.000 ở các quận thuộc về bộ Giao Chỉ, (chắc là ở các địa hạt thuộc Nam Quảng Tây chưa chịu ảnh hưởng của nhà Trưng). Bộ binh của Hán từ Hồ Nam tiến xuống Quảng Tây và Quảng Đông tập trung với thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Đoàn Chí đến đây chưa bao lâu thì bị bệnh và chết. Vua Hán ra lệnh cho Mã Viện theo đường thủy mà tiến vào. Họ Mã phải đi tắt qua Quảng Yên rồi do sông Thái Bình mà xâm nhập vào nội địa của dân ta 23. Quân lâu thuyền (thuyền chiến có lầu) lục tục đi theo do sông Bạch Đằng. [3] Ở những miền Hán quân đi qua bấy giờ không sự kháng cự nào đáng kể, có lẽ các bộ lạc chưa kịp tổ chức kháng chiến hoặc không chịu mệnh lệnh của Mê Linh. Theo Ch. Patris các tù trưởng đã kết hợp với hai Bà chỉ do mục đích đả phá chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán không lẽ họ lại tự ý khuất phục hai Bà dù sao cũng chỉ là một trong các nhóm tù trưởng ở xứ Giao Chỉ như họ bấy giờ mà thôi… Hình như thấy việc đi sâu vào nội địa của nhà Trưng là điều bất lợi, quân Đông Hán lại rút ra hoặc bị đánh bật ra, rồi họ về đóng ở Lãng Bạc gần Tiên Du Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Theo H.Maspéro, Lãng Bạc đây không phải Hồ Tây bây giờ mà là một địa điểm ở sát hai con sông chảy về phía Nam Giao Chỉ, giữa thành Cổ Loa về phía Tây và Long Uyên ở phía Đông. Giáo sư H. Maspéro dựa vào sách Thủy Kinh Chú. Tới đây khí hậu ác độc của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào nước lụt, nào mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng rớt xuống mà chết. Chính Mã Viện lúc này cũng thấy ngao ngán cho cái ấn phong hầu và cái quyền đại tướng của mình. Nhưng nghĩ đến sứ mạng quận vương trao cho rất là trịnh trọng. Mã phải gắng. Rồi một trận lớn đã diễn ra tại Lãng Bạc do sự tấn công của Việt quân tự Tây Vu (hay Tây Lý) kéo đến (vào tháng 3 năm 18, hiệu Kiến Vũ tức là tháng 4 năm 43). Trưng Vương đại bại rút về Cẩm Khê (theo Cương Mục). Cẩm Khê thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Theo chúng tôi ở bên sông Thao, tỉnh Phú Thọ 10 cây số về phía Bắc có huyện Cẩm Khê, trước mặt có nước, sau rừng rậm có núi cao, có thể Trưng Vương đã cố lợi dụng địa điểm quân sự này chăng? Ngay tại làng Hiền Quan trông sang tỉnh lỵ Phú Thọ có một ngôi đền lớn thời một vị nữ tướng của nhà Trưng, điều này cũng đáng cho ta suy nghĩ. Theo Hậu Hán Thư, Lưu Long phá được nghĩa quân, bắt được Trưng Nhị nhưng Mã Viện Truyện cũng trong sách ấy chép rằng tự Mã Viện đuổi được quân của nhà Trưng đến Cẩm Khê và đánh tan được nghĩa binh. Tháng Giêng năm sau, Mã Viện chém được Trưng Chắc và Trưng Nhị rồi gởi đầu về Lạc Vương báo tiệp. Theo sử ta và theo thần tích làng Hạ Lôi chỉ có Trưng Nhị tử trận, còn Trưng Trắc thì lên núi Hi Sơn rồi hóa. Dã sư của ta nói hai Bà tự trầm ở Hát Giang. Nay ở bãi Đồng Nhân gần Hà Nội có đền thờ hai Bà hàng năm đến 6 tháng 2 thì có hội và quốc tế. Sau cuộc đại thắng này Mã Viện tiến vào Cửu Chân với hai ngàn chiếc thuyền và hai vạn quân trừ nốt được thủ túc của Trưng Vương là bọn Đô Lương từ huyện Võ Công đến huyện Cư Phong, chém được hơn hai ngày thủ cấp. 3 – Tính chất cách mạng của Cuộc Khởi Nghĩa Năm Canh Tý Cuộc chống đối một Đế quốc xâm lăng hay thống trị để giải ách cho nhân dân và để thoát ly nô lệ phải được gọi là cuộc Cách mạng. Sử ta trước đây chưa quen với danh thử mới này còn các nhà chép sử vào thời Phép thuộc cũng e dè là điều ta đã hiểu nên chỉ gọi cuộc chống đối của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa. Cuộc Cách mạng năm Canh Tý ngày nay được quan niệm là một đấu tranh do thị tộc mẫu hệ lĩnh đạo, do quý tốc chỉ huy và do nhân dân tích cự tham gia, hưởng ứng. Nó biểu thị được thinh thần bất khuất của ông cha người Việt chúng ta đã luôn luôn coi Tự do, Độc Lập là lẽ sống duy nhất từ thuở còn quy tụ ở lưu vực sông Dương Tử xuống đến phần đất cuối cùng của Hoa Nam ngày nay. Cuộc Cách mạng trên đây đã thành công mau lẹ buổi đầu nhờ sự đoàn kết giữa các bộ lạc không cam khuất thân làm tôi tớ người ngoài. Về sự thất bại của nó. Theo Ô. Bùi Quang Trung, giảng sư tại trường Văn Khoa đại học: “Nhà nước tự chủ do Trưng Vương xây dựng với sự tập hợp của các bộ lạc trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất thị tộc còn nặng về chính trị thì xu hướng phân tán tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở nào tổ chức vững chắc nên trước sự phản công mạnh mẽ của Hán quân là lực lượng quân sự của một quốc gia hùng cường, thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự thất bại cũng mau chóng và dễ dàng…” Lương Đức Thiệp trong Việt Nam Tiến Hóa Sử nói: “Một xã hội không thống nhất như xã hội phong kiến đâu có thể gây được sức đoàn kết lâu dài, hướng chi xã hội nông nghiệp lại không phải là chỗ tựa vững bền cho xã hội thị tộc mẫu hệ sinh tồn. Ngay những mâu thuẫn nội tại này cũng đủ làm cho sự nghiệp của hai Bà phải nghiêng ngửa, huống chi hai Bà còn phải đương đầu với những lực lượng binh bị có tổ chức nữa, nên khi Mã Viện đem quân sang chinh phạt, hai Bà đương không nổi đều bị hại. Đám quân ô hợp tự tan ra. Bọn quý tộc phần thì bỏ trốn, phần thì đầu hàng…” Về nguyên nhân phát sinh ra cuộc cách mạng năm Canh Tý, một số sử cũ của ta đã vô tình cho rằng động lực thúc đẩy nó là một cuộc báo phục của các nhân bà Trưng. Tỉ dụ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có câu: Bà Trưng quê ở Châu phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền. Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân… Rồi từ Việt Nam sử lược, Việt nam văn hóa sử cương, Khâm định Việt sử…cũng không có sự trình bày rõ rệt tính cách của cuộc Cách mạng này khiến hậu sinh chúng ta có thể lầm rằng bà Trưng đã vì thù hà hơn vì hận nước. Nhưng nhiều sách sử của Trung Quốc lại nhắc đến việc hai Bà phân minh hơn. Hậu Hán Thư viết: Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Chắc với em là Trưng Nhì làm phản “Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Chu Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng”. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc. Chắc oán giận nên làm phản. Việt Kiều Thư, Annam CHí Nguyên cũng xác nhận như trên, sau này giao sư Maspéro cũng cho rằng: dân tộc Lạc Việt bấy giờ oán ghét Tô Định lắm. Họ đã sắp đặt âm mưu chống Hán và người đứng đầu là Thi Sách. Như vậy ta hiểu rằng Thi Sách không bị giết thì cuộc Cách Mạng vẫn bùng nổ chỉ khác việc Tô Định giết Thi Sách đã thúc đẩy cuộc Cách mạng tiến gấp mà thôi. Ngoài ra ta nên nhớ rằng nếu lòng người không chán ghét Tô Định và chế độ cay nghiệt của nhà Đông Hán, người ta có thể vì cuộc báo thù của một cá nhân mà nổi lên như song cồn chống quân thống trị chăng? Dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã vậy, còn dân Nhật Nam, Hợp Phố là những dân ở xa ảnh hưởng của quý tộc Giao Chỉ thì sao? Tóm lại, khi mà toàn dân nổi lên tranh đấu thì cuộc tranh đấu phải là vì chính nghĩa chớ không bao giờ vì quyền lợi của một cá nhân, dầu cá nhân đó có nhiều uy vọng đến đâu! Do nhưng lý kể trên, ta có thể kết luận việc chống Hán năm Canh Tý bắt nguồn ở ý định lật đổ chế độ Hán thuộc và do lòng ham sống tự do của giống dòng Hồng Lạc vậy. Chú thích: 1[1] Tích Quang đến Giao Chỉ vào đầu thế kỷ thứ nhất năm thứ ba hay là thứ ba dời vua Bình Vương nhà Tây Hán. Nhậm Diên làm Thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vũ nhà Đông Hán. Cả hai chỉ ở nước ta khoảng 4 hay 5 năm mà thôi. 1[2] Chu Diên thuộc phủ Vĩnh Tương trước thuộc về Sơn Tây sau thuộc về tỉnh Vĩnh Yên. 19 Quân sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên. Hai Bà giải thích rằng việc nước là hệ trọng, không thể vì nỗi đau buồn riêng mà hủy bỏ dung nhan khiến thần thí kém đi. Trái lại, phải phấn khởi quân sắc y phục rực rỡ để quân địch bị xúc động mới dễ thắng. 20 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú. 21 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú. 22 Miền Hợp Phố và Nhật Nam bấy giờ không có quan hệ trực tiếp với Mê Linh vì cách quá xa. 23 Theo Nguyễn Văn Tố, Mã Viện dùng đường biển quan vùng Ô Hứa (Lạng Sơn) men theo một bên là núi, một bên là nhánh Bắc sông Thái Bình để tránh các đầm lầy bởi thuở đó nước thủy triều còn vào đến Trung châu ngày nay. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Iv 1 – Cuộc Cải Cách của Mã Viện tại Giao Châu Nhà Trưng bị diệt rồi, Mã Viện thấy cần phải thiết lập một chế độ chặt chẽ để kìm hãm tinh thần quật cường của dân Giao Chỉ, đồng thời để thanh toán bằng uy quyền và võ lực những yếu tố bảo thủ còn ngăn trở ít nhiều chính sách đồng của Trung Quốc. Thực ra những yếu tố bảo thủ này còn non nớt do từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục, nhà Triệu cho tới thời nhà Trưng mở nước, dân Lạc Việt ta chưa ra khỏi tình trạng sơ khai. Nền văn hóa cố hữu của chúng ta dù sao cung chỉ là mọt sự chớm nở đang tràn đầy sinh khí. Mã Viện đã thắng một cách dễ dàng, nhất là lúc này dân Giao chỉ vừa bại trận, tinh thần đang bị tê liệt hẳn, trước một chính sách hoàn toàn dựa vào sắt máu. Mã Viện đi kinh lý khắp mọi nơi từ Giao Chỉ đến Cửu Chân đặt đồn ải, thành trì để phòng ngự cuộc dấy loạn. Chỗ nào có cư dân đông đúc, Mã Viện đặt quân, huyện rồi dùng người Trung QUốc điều động guồng máy cai trị. Nơi nào rộng quá thì xẻ ra cho nhỏ đi để tiện việc kiểm soát. Chỗ nào có thể mở mang việc canh tác, Mã Viện cho đào sông khai ngòi. Về luật pháp, Mã Viện xin Hán triều ban bố một chế độ riêng biệt giữa người Việt và Hán, tất nhiên để câu thúc dân bản địa gắt gao hơn. (Hán Hậu Thư quyển 44). Với chế độ này, giai cấp phong kiến và quý tộc Giao Chỉ mất hết uy quyền và ảnh hưởng mà Bắc phương đã nhận rõ là rất nguy hiểm cho việc đô hộ, do kinh nghiệm ở những việc đã xảy ra tức là từ nay Giao Chỉ bộ phải chịu chế độ trực trị. Về phương diện kinh tế, xã hội, Mã Viện cũng du nhập vào xứ này mọi phương thức của Trung Quốc. Kết quả của cuộc thay đổi cảnh này bi đát như thế nào? Chúng tôi nói cuộc cải cách Mã Viện là điều bi đát bởi chúng tôi nghĩ rằng nó đã thủ tiêu một phần quan trọng cái tinh thần cố hữu của người Lạc Việt, là một cái gì quý nhất cho một dân tộc tuy rằng sau này cũng có sự bù trừ một phần nào. Theo Đào Duy Anh, về phương diện nhân chủng, buổi đầu người Lạc Việt có lẽ còn mang rất ít yếu tố Mông-gô-lích, rồi trải qua hai thế kỷ thuộc nhà Triệu và nhà Tây Hán do sự hỗn hợp Việt Hán, yếu tố này tăng lên, nhưng yếu tố Anh-đô-nê-diêng vẫn còn giữ phần chủ yếu. Sau này với Mã viện và cuộc đô hộ trên một ngàn năm, sự tạp chủng với người Hán lại mạnh mẽ và ráo riết hơn lên, vì vậy sự thay đổi trong con người Lạc Việt càng rộng lớn hơn. Chứng cớ là cái mặt của người đàn bà Việt đào được ở Đông Sơn dưới đời Tống, sau thời kỳ Bắc thuộc, đã có nhiều nét Mông-gô-lích, duy cái sọ là còn dấu tích Anh-đô-nê diêng mà thôi. Tuy vậy tính tình, phong tục, chế độ của người Việt Nam nhất là người bình dân dưới cá đời Trần, Lê vẫn còn giữ được một phần nào đặc biệt hay cố hữu, nếu so với dân Trung QUốc về phương diện này. Đến nay ta có thể nói rằng dù cuộc đồng hóa trong thời Bắc thuộc đã đi sâu, bén rộng vào cơ cấu chủng tộc và văn hóa của người Lạc Việt, nhưng qua thời kỳ nô lệ Trung QUốc, người Việt đã lấy tư cách Lạc Việt, dung hòa những yếu tố chủng tộc và văn hóa của người Hán tộc và một ít yếu tố của các giống khác để thành một nhân cách riêng. Nhân cách này đã được cấu tạo và đào luyện trong các cuộc tranh đấu đầy gian lao, đau khổ giữa những ngày nhục nhã và vinh quang qua 10 thế kỷ. Một điều đáng kẻ sau khi hỗn chủng và đồng hóa với người Hán, cái gốc Lạc Việt chia làm hai chi phái: Một chi phí ở đồng bằng, do sự sinh hoạt và giao thông dễ dàng đã chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hán tộc. Một chi phái tản mác lên các miền Thượng du ít xúc tiếp với người Hán nên còn giữ được nhiều yếu tố Lạc Việt thuần túy hơn. Đó là những người Mường mà một số đồng bào chúng ta ngày nay còn ngộ nhận là dị tộc. Về văn hóa Lạc Việt, từ cuộc cải cách Mã Viện, ta còn thấy có sự biến đổi (về kỹ thuật) do những đồ cổ tích đào được ở Đông Sơn, trọng yếu nhất là đồ đồng mà nhà khảo cổ học Goloubew đặt vào thế kỷ thứ nhất thức là thời kỳ Mã Viện làm mưa nắng ở đây. Những đồ đồng này chia ra làm 3 bộ: bố thứ nhất là những trống đồng, lưỡi búa, lưỡi rìu, mũi mác, mũi tên, gươm hai lưỡi, dao găm có hình người cùng một số đồ trang sức thuần túy Lạc Việt, nhất là cái trống đồng Ngọc Lư. Bộ thứ hai là cái bình kiểu biển hồ, cái gương kiểu nhà Hán, những đồng tiền ngũ thù do người Trung Hoa đem đến. Bộ thứ ba là những đồ mà về mặt kỹ thuật đã chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, đại khái cái bình lớn có vết khuôn những miếng giáp đồng, những dao găm, những đồ nửa đồng nửa sát. Để kết luận, ta nhận thấy vài ảnh hưởng của Trung Quốc giữa thế kỷ thứ nhất về mọi phương diện chưa đậm đà lắm, nhưng sau này do cuộc đo hộ của nhà Đông Hán tiếp tới hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, ảnh hưởng của Hán tộc càng ngày càng mạnh nên những đồ dùng đào được ở Đông Sơn về đời Tống chỉ còn là đồ gốm của người Trung Hoa, đồ đồng của người Lạc Việt không thấy dấu vết nữa, chắc là mai một từ thuở đó. Sự trạng này đã giúp luận cứ cho Maspéro đề kết rằng chính Mã Viện là người đầu tiên đã dùng bạo lực cưỡng gian văn hóa Lạc Việt tức là văn hóa Trung Quốc đi sâu xa vào đời sống của xã hội chúng ta từ cuộc tái chiếm Giao Chỉ của nhà Đông Hán. Mã Viện chết đi, người Trung Quốc ở thị trấn Đông Hưng [1] có dựng đền và đúc tượng để thờ, ý chừng họ muốn thị oai với dân Việt. Một nhân vật vô danh đi qua có đề bài thơ dưới đây: Trèo non vượt bể biết bao trùng! Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng Quắc thước khoe chi mình tóc trắng, Cân đai đọ với khách quần hồng! Gièm chê luống những đầy xe ngọc. Công cáo ra chi dựng tượng đồng? Ai đó chép công, ta chép oán Công riêng ai đó, oán ta chung. Một bài Vịnh hai Bà cũng một tác giả khuyết tên tuổi: Một bụng em cùng chị, Hai vai nước với nhà. Thành Mê khi đế bá, Sông Gấm lúc phong ba. Ngựa sắt mờ non Vệ, Cờ lau mở động Hoa. Ngàn năm bia đá tạc, Công đức nhớ Hai Bà. Chú thích: [1] Thị trấn Đông Hưng của Tàu trông sang Moncay của ta chri cách con sông hẹp và cái cầu sắt. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương V - Việc truyền bá Hán học - Ảnh hưởng của Phật Đồ với nền văn học cũ của chúng ta - Một vài điều sai lầm về Sĩ Nhiếp 1 – Việc Truyền Bá Hán Học Hồi Hán thuộc, người Việt Nam học chữ Hán, cũng thi cử, cũng đỗ đạt. Có thể nói rằng tính hiếu học của người Việt là một điều đặc biệt, ai ai cũng thán phục. Đối với cái gì gọi là văn minh tư tưởng cho đến cả tôn giáo, người Việt rất hoan nghênh chỉ trừ chính sách đô hộ, thực dân, đế quốc thì ở vào tình thế nào người Việt cũng chống lại. Có tiếng trong đám người theo đuổi Hán học thuở xưa là: Lý Tiến, người Cao Hưng, Hán Linh Đế (183 – 189). Lý Cầm người Giao Châu làm túc vệ trong triều Hán (205 trước T.C-219) sau giữ chức Tư Lệ Hiệu Úy. Hai ông này đã tranh đấu để các người trí thức Giao Châu được trọng dụng vào các địa vị ngang hàng với người Tàu. Trương Trọng, người Hợp Phố có tài biện bác và nhanh trí khôn cũng làm một chức hầu cận vua Hán, sau làm Thái Thú Kim Thành đã biết giữ gìn thể diện quốc gia trong khi ứng đối với vua Hán. (Vua Hán một hômcó hỏi: Dân Nhật Nam đều hướng về phương Bắc, chầu mặt trời phải không? Trương Trọng trả lời: tên quận cũng có nơi gọi là Vân Trung hoặc Kim Thành, nhưng sự thật có thế đâu. Quận Nhật Nam mặt trời cũng mọc ở đằng Đông…còn chỗ ở của quan cũng tùy tiện về phương hướng hoặc Đông hoặc Tây, hoặc Nam hay Bắc…chớ không nhất định về phía nào). Tinh Thiều cũng là một nhà văn học thuở nhà Lương (505 – 543) cai trị Giao Châu. Ông không thèm nhận chứ Quảng Dương Môn Lang do Sài Tiến thượng thư triều Lương đề nghị. Ông lui về quê hương rồi giúp Ông Lý Bôn (Lý Bí) năm 544 đánh đuổi Thái Sử Tiêu Tư lập ra nước Vạn Xuân. Khương Công Phụ đậu tiến sĩ dưới đời Đường Đức Tông (789-804) làm quan đến chức Bình Dương (An Nam Chí Nuyên) Chúng tôi giới thiệu đây mấy nhà khoa mục và văn học thời Bắc thuộc để các bạn hiểu sự truyền bá văn học của Sĩ Nhiếp. Nhậm Diên, Tích Quang đã tạo nên những đệ tử sau này đến bực nào. Nhưng chắc chắn muốn học đến trình độ cao cả thì học sinh người Việt phải sang tận Trung Quốc mới thành đạt lớn được. Dầu sao ta cũng có thể nói rằng được ăn học đầy đủ, khả năng của trí thức Giao Chỉ chẳng kém gì trí thức Trung Quốc. Chứng cớ là nhiều người Việt đã từng giữ chức Thái Thú, Thái Sử và Tiết Độ Sứ, do chính người Tàu đặt ra thì rõ người Giao Châu đã làm cho các vương triều Trung Quốc kiêng nể e ngại là phải. Và Lý Tiến, Lý Cầm dâng thư lên vua Hán để đòi được đãi ngang với người Hán đã chỉ căn cứ vào thực tại của những trí thức Giao Chỉ bấy giờ. Ngoài ra, ta lại nhớ rằng các nhà trí thức trên đây đã dự một phần quan trọng trong việc truyền bá Hán học. Thân thế và sự nghiệp của họ cũng là một điều đã có ảnh hưởng cho phong trào Hán học dưới thời Hán thuộc rất nhiều. Có nhiều cho rằng bọn người này chỉ là tay sai cho các đế quốc đời bấy giờ thì dù sao mọi hoạt động của họ cũng không đáng kể. Xét lời phê bình quá nghiệt ngã và quá sâu chấp, vì ta nên nhìn nhận ảnh hưởng của họ nếu quả họ đã gây được một ảnh hưởng nào khả quan; vả chăng trong khi chưa đủ sức chống lại kẻ mạnh thì phải học đòi cái tài giỏi của kẻ mạnh đâu có phải là chuyện vô ích. Còn việc khôi phục độc lập, mưu đồ phú cường phải chờ thời, tùy thế, chẳng hơn cứ đóng cửa, ngồi nhà cứ ôm lấy sự u tối sao? Mà thái độ cố chấp tiêu cực có phải là một lợi khí, một phương tiện tranh đấu bao giờ đâu! 2 - Ảnh hưởng của Phật Đồ với nền văn học của chúng ta Đạo Phật lan vào đất Việt qua đường Ấn Độ Dương, và do các nhà cai trị Trung Quốc. Tôn giáo này, du nhập vào xứ sở chúng ta trong thời Bắc thuộc qua ba thời kỳ: A. Từ đầu thế kỷ III đến thế kỷ VI. Ban đầu, Khang Tăng Hội (Sogdien Seng Houei—280), thứ đến Khương Lương Lâu Chí (Indoscythe Kaliyanaruci –255 hoặc 256) rồi tới các thầy tu Ấn Độ Ma La Kỳ Vực (Ksudra –294) là những nhà truyền giáo Phật Giáo trước nhất. Sau là Mâu Bắc (Meou Po), người Tàu, vì nghiên cứu Phật Giáo mà tới Bắc Việt. B. Sư Ti Ni Da Lưu Chi (Vinitaruci) từ năm 580 Bắc Việt giảng dạy tại chùa Dâu về Thiền Tông và lập một tông phái ở Bắc Ninh lấy danh hiệu là xứ đó. C. Vô Ngôn Thông (họ Trịnh) sang trú ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiêu Du, tỉnh Bắc Ninh hồi tháng 9 năm Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820) tu theo lối “Bích Quan” của Đạt Ma (Bodhi dharma) và lập ở chùa đó một thiền tông mới. Các Phật Đồ kể trên đây trong khi truyền giáo đã gián tiếp giúp rất nhiều cho nền văn học của chúng ta buổi đầu tiên suốt 700 năm. Rồi sau Vô Ngôn Thông, nhiều tăng ni ra đời. Bọn người này đã phải dùng Hán học làm cái chìa khóa để mở cửa Phật và khi giảng dạy kinh kệ, nếu không thâm thúy về Hán học đâu có thể cắt nghĩa được về các ddieefu mầu nhiệm xa xôi của Phật Giáo. Ta còn nên nhớ rằng dưới triều Đường có bốn vị cao tăng (Vô Ngãi tu ở chùa Thiên Tỉnh, hạt Cửu Châu, Phụng Đình, Duy Giám…) đã sang cả bên Trung Quốc giảng kinh trong cung nhà vua và khi già mới trở về nước. Ngoài ra, tăng giới Việt Nam sau thời Bắc thuộc cũng sản xuất được nhiều vị khác nữa dự vào văn học và chính giới, đóng những vai trò rất quan trọng. Chúng tôi xin kể ở những trang sau. Để kết luật, vấn đề văn học thời Bắc thuộc chúng ta có thể tóm tắt nhờ việc người Trung Hoa đặt chủ quyền trên đất Giao Chỉ, Hán học đã ảnh hưởng lớn lao đến đời sống dân tộc và quốc gia của chúng ta. Dân ta trở nên một quốc gia văn hiến, có nhiều thuần phong mỹ tục. Đó là một điều lợi ích vĩ đại chẳng nên chối cãi. Đem sự đau khổ dưới ách thông trị của ngoại bang mà đổi lấy một nền văn hóa sáng sủa tốt dẹp, người Việt thức thời chúng ta hẳn không phàn nàn, đã đành rằng người Việt học thuật và tư tưởng của Trung Quốc, huống hồ vào đời Tần Thủy Hoàng các việc đốt sách Nho, chôn học trò (246 – 208 tr.C.L) tất nhiên sách vở đưa sang đây không đầy đủ được. Người Việt xưa kia hẳn chỉ bước tới cái bậc từ chương mà thôi nhưng trong giới văn học bấy giờ cũng có nhiều người tỏ ra thông minh lỗi lạc chẳng kém gì các danh sĩ Trung Quốc, cứ xem việc xướng họa và ngoại giao dưới đời Lê Đại Hành với Bắc triều sau này đủ rõ. Và sử chép rằng vì bài thơ tiễn sứ (tiễn Ly Giác) mà Giao Chỉ là một nước mới mẻ, non nớt đã nổi tiếng là văn hiến đối với người Tống. 3 – Phật Giáo Ngoài ảnh hưởng của Phật Đồ đối với văn học sơ khai thuở ấy, ta còn nên tìm hiểu qua một vài nét chính của tôn giáo này và sự phát triển của nó trên đất Trung QUốc trước khi qua Việt Nam. Phật Giáo do đức Thích Ca Mâu Ni xướng lên, chủ trương giải thoát con người ra khỏi điều khổ não là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngoài bốn điều này đã do Tạo Hóa gây nên trong khi cấu tạo con người cũng như khi xây dựng vũ trụ. Tạo hóa còn đặt ra những định luật khắc khe là có sinh phải có diệt, có hình hài thì phải chịu sự hủy hoại, suy vong, lại còn bao nhiêu điều đau khổ khác phát sinh bởi lòng dục. Lòng dục của con người là những sự ham mê danh lợi, phú quí, sắc đẹp…nó là những nghiệp báo, những căn nguyên của mọi sự đe dọa, trụy lạc, Đạo Phật quan niệm rằng muốn tránh được các điều nghiệp báo, oan gia thì cởi bỏ lòng dục, thi hành việc thiên ích cho đời, cho đồng loại, cho muôn vật. Những hành động có thiên lương ở kiếp này sẽ ảnh hưởng tốt đẹp cho kiếp sau. Đó là luật nhân quả. Trái lại, nếu con người cứ đắm chìm trong dục vọng sẽ phải luẩn quẩn mãi mãi trong vòng luân hồi. Ngoài ra, cắt bỏ được lòng dục đầy tội lỗi không những người ta tránh được các điều hệ lụy của kiếm này mà còn được hưởng thụ nhiều về kiếp sau hay sẽ được lên cõi Niết Bàn và thành Phật. Khi đó sẽ không còn vấn đề sinh diệt nữa. Không tham danh lợi khỏi ưu phiền, Niệm chí từ bi dứt nghiệp duyên, Vớt kẻ trầm luân nơi khổ ải, Noi theo tôn chỉ hội quần tiên. Phê bình đạo Phật về phương diện thực hành người ta cho rằng đối với cuộc cạnh tranh và đời thực tế nhất là trong kỷ nguyên nguyên tử này, chủ trương nhập thế và xuất thế của Phật Giáo không thích hợp với nhân sinh, thế sự. Loài người lúc này chỉ tôn thờ sức mạnh, không có triết lý nào hơn là sức mạnh và quyền lợi thì một tôn giáo xây dựng trên căn bản đạo đức thuần túy không thể nào giải quyết được mọi vấn đề hạnh phúc và hòa bình trên thế giới. Ít nhất mọi dântộc trên thế giới cùng chấp thuận một quan niệm tôn giáo và hòa bình theo Phật Giáo thì mới có kết quả được. Cội rễ của đạo Phật là đạo Bà La Môn (Brahmane) nhưng tôn chỉ của đạo Phật lại chống với đạo này rồi hai tôn giáo đã mâu thuẫn nhau trong một khoảng thời gian khá dài. Sau ba bốn thế kỷ, đức Thích Ca mất đi rồi, đạo Phật mới hung khởi ở Ấn Độ. Đức Thích Ca Mẫu Ni, thủy tổ của Phật Giáo đã áp dụng lý thuyết của Ngài trước hết (sau cái quan niệm: đời là sông mê, bể khổ…) Ngài thuộc dòng vương tộc ở Ấn Độ, có vợ có con. Ngày đã bỏ lầu son gác tía đi tìm đạo, mục đích dìu dắt người đời ra khỏi cảnh trầm luân đày đọa. Theo đạo phái miền Bắc Ấn Độ, Ngài sinh năm 1028 (trước Thiên Chúa) vào đời Chu Chiêu vương. Đạo phái miền Nam cho rằng Ngài sinh khoảng 624. Nhưng theo các nhà bác học ngày nay thì Ngài đồng thời với Khổng Phu Tử nghĩa là Ngài xuất thế vào năm 558 hay 520. Đời vua Hán Vũ Đế (140 – 86 trước CL), quân nhà Hán đánh hung nô lấy được tượng kim nhân và thấy người Hung Nô thắp nhang thờ phật, đến đời vua Ai Đế là Công Lịch năm thứ hai, vua Hán cho Tần Cảnh Hiến sang xứ rợ Nhục Chi học truyền khẩu các kinh phật. Người ta thấy tôn giáo này có nhiều tốt đẹp và cũng muốn vãn hồi nhân tâm, thế tục nên nhập cảng Phật Giáo và Trung Quốc. Có thể vãn hồi nhân tâm thế tục không phải chỉ là phục hưng tinh thần đạo đức trong đám dân chúng mà còn ở cả trong giai cấp phong kiến, quí tộc từ ngàn năm trước đã vì cuộc tranh giành quyền vị mà gây nên bao nhiêu cuộc đảo lộn xã hội, thảm cảnh máu đổ thịt rơi. Các nhà chính trị xưa hoặc nay đều thường nhìn các tôn giáo vào điểm này trước hết, còn những người thường chỉ lưu ý vào triết lý và luân lý của nó. Rồi Phật Giáo mỗi ngày một đi rộng trên đất Tàu qua các triều đại. Vua Minh Đế nhà Đông Hán phái Ban Siêu đi sứ các nước Tây Vực, Hán sử báo cáo tình hình Phật Giáo thịnh hành ở đây nên sau đó nhà vua cửa Thái Am sang Tây Trúc mời các thầy tăng Ấn Độ về nước để thuyết giáo tại Trung Quốc. Thái Am mang về được 42 chương kinh. Đến đời Tam Quốc mới có người giữ việc truyền bà đạo Phật.Việc sưu tầm kinh kệ càng ngày càng mạnh rồi các kinh kệ được dịch ra chữ Tàu để phổ biến khắp dân gian. Đến đời nhà Đường (630) nhà sư Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam Tạng) cũng qua Ấn Độ với sứ mạng là khảo cứu Phật Giáo và đem về Tàu được 650 bộ kinh. Bốn mươi hai năm sau, dưới đời Đường Cao Tông, ông Nghĩa Tình rước về được 400 bộ nữa. 4 – Một vài điều sai lầm về Sĩ Nhiếp Chép thân thế và sự nghiệp của Sĩ Nhiếp, một lương lại có tiếng thời Bắc thuộc, trọng nhậm ở nước ta giữ buổi loạn ly, nhiều nhà chép sử đã đề cao một cách quá đáng vị quan cai trị này: người ta tôn Sĩ Nhiếp lên bậc Vương; có người tặng Sĩ Nhiếp một sự nghiệp vĩ đại hơn nữa: “Nam Bang Học Tổ”. Người ta còn gọi thời Sĩ Nhiếp cai trị đất Giao Chỉ là một Kỷ: “Sĩ Vương Kỷ”! Chúng tôi không phủ nhận sự nghiệp đáng kể của Sĩ Nhiếp trong suốt nửa thế kỷ cai trị ở nước ta, nhưng chúng tôi muốn đính chính những điều gì không được xác thực, bằng những dòng dưới đây: Năm Quí Mùi (203), là năm thứ ba đời vua Hán Đế, Sĩ Nhiếp bấy giờ làm Thái Thú cùng với Thái Sử Trương Tân xin Hán Đế đổi Giao CHỉ ra Giao Châu. Lúc này Trung Quốc giặc cướp nổi lên lung tung, ở Giao Châu cuộc rối loạn cũng nhóm lác đác ở nhiều nơi. Sĩ Nhiếp đã khéo léo trong việc cai trị, hợp an hem trong nhà, chia nhau giữ các châu quận, nên lại khôi phục trật tự ở Giao Châu. Ngoài ra, ông khôn ngoan đối với Hán Triều (ông vẫn giữ lế tiến cống) nên được phong làm An Viễn Tướng Quân Long Độ Đình Hầu. Sau này, nhà Đông Hán đổ, Trung Quốc lầm vào thành thế chân vạc do sự tranh giành ảnh hưởng của ba nhà: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, thì Giao Châu nằm trong khu vực Đông Ngô, Sĩ Nghiếp liền theo Đông Ngô. Ông vẫn giữ được mọi quyền hành như Hán triều xưa kia. Tính ra tuy không là Thái Sử nhưng ông đã làm được một sự nghiệp đáng kể ở Giao Châu suốt 40 năm ròng. Chính trị của ông rất khéo léo ở chỗ ông biết an dân, trọng đãi trí thức, được toàn thế nhân dân ủng hộ và tôn sung nên địa vị mới bền vững được lâu dài như vậy. Còn đối với các Vương Triều Trung Quốc, gió chiều nào ông che chiều ấy. Về việc người ta xưng ông là học tổ Nam Bang, đó là theo trong lệnh chỉ của Trịnh Tạc (1657-1682) và của Trịnh Sâm (1767-1782) chép trong quyển Sĩ Vương Sự Tích trang đầu, bản sao của Trường bác Cổ số A 426 tờ 41b và 46a – Trong bia đá làng Tam Á và làng Lung Khê phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ông Nguyễn Hoán, đỗ Thám Hoa, khoa Kỷ Dậu (1659) cũng ghi như vậy. Sự thực trong chính sử không thấy chép Sĩ Nhiếp đem chữ Nho sang Việt Nam, ngoài câu: “Nước ta thông thi thư, tập lễ nhạc, gọi là văn hiến bắt đầu từ Sĩ Vương” bởi văn hóa Trung Quộc nhập cảng vào Giao Châu đã có từ ba thế kỷ trước khi có Sĩ Nhiếp. Tới khi Sĩ Nhiếp cầm quyền ở nước ta người Giao Châu đã có một số đố Hiếu Liêm và Mậu Tài rồi. Có chỗ tôn thời Sĩ Nhiếp là thờ SĨ Vương Kỷ, có lẽ sử thần giận trong khoảng 100 năm quan lại Tàu không có người chính thống trong sạch, nay gặp một quân quan như Sĩ Nhiếp, dân được yên vui hơn 40 năm cho nên đã tôn Sĩ Nhiếp là Vương. Sĩ Nhiếp tuy có tiếng là quan cai trị cả 7 quận nhưng thực ra ông chưa hề nắm được toàn cõi Giao Châu bao giờ. Trong đời Sĩ Nhiếp, chính Trương Tân mới là người được vua Hán Hiến Đế phong làm Thái Sử Giao Châu. Ta nên nhớ châu cai trị quận. Còn về ảnh hưởng thì lấy sự công bằng Đào Hoàng bốn đời, Đỗ Viện ba đời làm Thái Sử, độc quyền cả Giao Châu còn nhiều ơn ích hơn Sĩ Nhiếp. So sánh với các lương lại kể trên đã lấy việc lễ nghi, điều nhân nghĩa dạy cho dân Giao Chỉ và Cửu Chân để người ta biết đạo vợ chồng, nghĩa cha con, tình thầy trò, bằng hữu biết thương yêu kính mến nhau, sự nghiệp của Sĩ Nhiếp chưa dễ đã hơn, vậy mà họ chưa được chép riêng ra một kỷ. Còn điều Sĩ Nhiếp được gọi là Sĩ Vương, là do triều Trần phong ông làm Đại Vương theo lệ phong tăng bách thần, sau Ngô Sĩ Liêm dưới đời Lê đã nhân tước Đại Vương mà chép là Sĩ Vương. Dù sao chúng ta cũng phải nhận rằng việc tôn kính Sĩ Nhiếp như thế cũng có một vài phần đích đáng, do ông đã dựng chính sách nhân nghĩa đối với dân ta xưa kia. CÒn chuyện ông đã đem chữ Nho sang dạy ra đầu tiên thì không có bằng chứng. Đây là ý kiến của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Vi - Bà Triệu chống nhau với Đông Ngô - Lâm Ấp quấy phá Giao châu 1 – Bà Triệu chống nhau với Đông Ngô Thời cuộc của các vương triều Trung Quốc bấy giờ luôn luôn có ảnh hưởng đến Giao Châu. Trên đây đã nói nhà Đông Hán đổ thì Trung Quốc chia ra làm ba nước Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, Giao Châu thuộc vào khu vực của nhà Đông Ngô. Tuy rằng Sĩ Nhiếp lúc sinh thời rất khôn ngoan, chịu lệ thuộc vào Ngô chủ nhưng tìn thế Giao Châu dưới con mắt người Đông Ngô chỉ có thể coi là chuyện tạm thời, bởi khi đó chính quyền của Đông Ngô chưa được củng cố đầy đủ. Khi thế của Đông Ngô hầu vững thì triều đình Đông Ngô không chịu để kéo dài chế độ tự trị của Giao Châu nữa. Đông Ngô cũng muốn đặt một chế độ trực trị tại đây vì xét có lợi hơn hoặc dễ nắm chặt dân bị trị hơn. Lúc này, Sĩ Nhiếp đã qua đời (năm Bính Ngọ, 226 sau Công Lịch), con là Sĩ Huy tự động lên thay quyền Thái Thú. Đông Ngô liền xếp đặt lại mọi việc. Về đất đai, Đông Ngô chia đất giao Chầu từ Hợp Phố về Bắc đặt tên là Quảng Châu, cử Lữ Đại làm Thái Sử. Từ Hợp Phố vào Nam là Giao Châu, đặt Đái Lương làm Thái Sử. Còn quận Giao Chỉ về miền Bắc Việt bấy giờ phái Trần Thì làm Thái Thú thay con cháu Sĩ Nhiếp. Như vậy quan niệm và chính trị Đông Ngô không khác gì Đông Hán trước đó. Thật là một cuộc thay đổi lớn lao và đột ngột. Sĩ Huy chống lại sự thay đổi đó, nhưng thấy binh lực của Lữ Đại mạnh nhiều, sau năm anh em Sĩ Huy phải thuận theo lời chiêu dụ. Lữ Đại liền bắt chém hết anh em Sĩ Huy và đưa đầu về Đông Ngô. Quảng Châu và Giao Châu sáp nhập, Trong lúc này quận Cửu Chân cũng rối ren. Lữ Đại lại một phen nữa đem quân dánh dẹp giết hại hàng vạn người rồi phái các chức Tòng Sử Sự tới tuyên truyền đức hóa của vua Ngô. Các nước Lâm Ấp, Phù Nam, đều cho sứ sang công, Ngô chủ phong thêm cho y chức Trấn Nam Tướng quân. Dưới chế độ của Hán triều, dân Giao Chỉ đã đau khổ lầm than. Cuộc thay đổi mới này với Đông Ngô cũng không cải thiện được đời sống của Giao Chỉ phần nào. Tóm lại chế độ trực trị của Trung Quốc bao giờ cũng tàn ác, do sự tham bạo vô lái của các quan lại Tàu, vì vậy lửa loạn lại âm ỉ trong tâm hồn người Giao Chỉ. Năm Mậu Thìn (248), tức là năm thứ 11 nhà Đông Ngô, khi Lục Dận sang làm Thái Sử Giao Châu, non sông Việt Nam lại sản xuất một vị nữ kiệt, rồi một phen nữa, ngọn cờ nương tử được phất lên tại quận Cửu Chân theo gương hai chị em bà Trưng trước đó hai thế kỷ. Lần này, người khởi cuộc cách mạng năm Mậu Thìn cũng là một người phụ nữ sinh trưởng tại huyện Nông Cống (thuộc tỉnh Thanh Hóa) mới trên 20 xuân xanh tên Triệu Thị Trinh, cũng thuộc giòng quý tộc, và chưa có chồng (có sách chép là Triệu Nguyên). Người Tau căm hận đặt tên là Triệu Ẩu. Chữ Ẩu có nghĩa là “mụ”. Bà Triệu (người Việt tôn là Bà để tỏ lòng sung kính hơn), trong cuộc cách mạng Mậu Thìn đã biểu dương sự phẫn uất của quý tộc và dân chúng Giao Châu, mặc dầu lực lượng của mfnh đối với quân xâm lăng rõ rệt quá sút kém. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ nên phải ở với anh là Triệu Quốc Đạt. Bà gặp người chị dâu cay nghiệt và tầm thường nên không chịu được tính tình hiên ngang khác người của bà. Quả vậy, cô gái thơ ấy có một thể chất cương cường, một tinh thần bất khuất ngay cả nam nhi cũng ít sánh kịp. Có lẽ vì các dị tính đó mà bà Triệu đã giết chị dâu để khỏi có sự cản trở trên con đường tranh đấu của mình cho dân, cho nước. Không nhưng bà có chí khí anh hàng, bà lại có sức mạnh và mưu lược nên hàng ngàn chiến sĩ đã xin theo chiến đấu dưới cờ và cùng vào rừng núi để rèn binh luyện võ. Buổi đầu, ông Triệu Quốc Đạt không tán thành công cuộc của bà và lấy những lời lẽ thông thường để khuyên can, nhưng sau ông chịu theo ý kiến của em gái, xét cuộc đấu tranh dù thành hay bại cũng là điều hữu ích. Bà Triệu trong cuộc luận với anh, đã để lại sau này trong lịch sử những lời khảng khái bất hủ: “Tôi muốn cưỡi con gió mạnh, đạp đường song dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta”. Triệu Quốc Đại cùng em khởi binh đánh quận Cửu Chân. Trong chiến trận, bà tỏ ra can đảm phi thường nên được tôn làm chủ tướng. bà mặc áo giáp vàng, cỡi voi xông ra trước quân địch như đi vào chỗ không người. Tiếng “Nhụy Kiều Tướng Quân” một thời đã vang lừng coi Giao Châu và từng làm khiếp đảm quân Ngô trong sáu tháng. Sau cuộc chiến đấu vì quân ít, thế cô nên bất lợi dần, Bà lui binh đến xã Bồ Điền (ngày nay đổi tên là Phủ Diễn thuộc huyện Mỹ Hòa, Thanh hóa) rồi tự tử. Để kỷ công người nữ chiến sĩ đã hy sinh vì nền Tự Do của dân tộc, Vua Nam Đế nhà Tiền Lý cho dựng miếu thờ và phong là “Bật chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” Cuộc cách mạng Mậu Thì (248) bị dập tắt thì 16 năm sau (năm Giáp Thân 264) đất đai Giao Châu lại chịu thêm một cuộc phân chia khác. Nhà Ngô hợp đất Nam Hải và Uất Lâm lại thành Quảng Châu, châu trị đóng ở Long Biên. Xét như vậy đất Nam Việt của Bà Triệu xưa kia do cuộc phânchia này thành Giao Châu và Quảng Châu bấy giờ. Việc này có tính cách tập trung để tiện việc cai trị. Trung Quốc từ khi có cuộc tam phân Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, lại mở màm cho nhiều cuộc biến loạn liên miên. Sau nhà Tấn phá được nhà Ngụy rồi đem binh chiếm Giao Châu. Nhà Ngô phái tướng Đào Hoàng sang dành lại. Sau đó, Đào Hoàng được phong thành Giao Châu mục cho đến năm 280, Ngô mất thì Đào Hoàng đem Giao Châu nộp cho nhà Tần. Họ Đào được giữ nguyên địa vị. Cuộc tập trung đất đai trên đây của nhà Đông Ngô để dễ điều khiển guồng máy cai trị không đạt được mục đích. Bọn quan lại Trung Quốc trước tình trạng đại loạn, loạn từ chính quốc sang tới thuộc quốc, tất nhiên thấy địa vị của mình luôn luôn bất trắc, nên chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, huống hồ từ bao nhiêu lâu họ bị nhiễm cái bệnh phong kiến hay sinh trưởng ở cái huyết thống phong kiến sẵn chất tham tàn. Còn dân Giao Châu từ hai cuộc cách mạng Trưng Triệu bắt đầu đứng trước cái đà đã mở, hoàn cảnh chính trị khắt khe lại luôn luôn thúc bách nên họ không sao ngừng đấu tranh. Đến đời nhà Tấn lại không có sự thay đổi tốt đẹp nào, lại tệ hơn là khác. Tấn dựng được cơ nghiệp xong trên đất Trung Hoa liền phong cho bà con thân thuộc trấn giữa các nơi để làm vây cánh. Bọn này tranh nhau quyền lợi đem quân đánh phá lẫn nhau, chính họ đã thác sinh ra một phần lớn sự biến loạn ngoài những hành động những lạm. Từ Ngô sang Tấn, dân giao Châu thường nổi lên giết bọn Thái Thú. Trong nước mấy khi có sự yên ổn hẳn. Bà Triệu Cao một trượng, cả một vừng, Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng, Họp chúng rừng xanh oai náo nức, Cỡi đầu voi trăng, tiếng vang lừng, Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc, Ngôi cả lăm le học họ Trưng, Ví có anh hùng duyên định mấy, Thời chi Đông Hán dám lung lăng. Vô danh (Thơ đời Hồng Đức) 2 – Lâm Ấp Quấy Phá Giao Châu Trên đây chúng ta thấy dưới đời nhà Tấn dân Giao Châu có phần cơ cực hơn bao giờ hết. Họ bị lôi cuốn vào cuộc đánh phá lẫn nhau của thân vương khi đó giữ quyền ở các phiên trấn, ngoài cái nạn bóc lột đã từ lâu thành một sự trạng thường xuyên. Sự đói khổ trong nhân gian cũng là một mầm biến loạn nữa. Thêm vào đó là sự quấy nhiễu của nước Lâm Ấp. Vị trí của nước này bắt đầu từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị vào đến lục tỉnh Nam Việt ngày nay. Người ta phỏng đoán cội rễ người Lâm Ấp thuộc giống Mã Lai, theo văn minh Ấn Độ và giống Mã Lai tức giống Anh Đô Nê Dieng (Indonesien) xưa kia bị giống Aryens đánh bật ra khỏi Ấn Độ rồi lan tràn sang bán đảo Hoa Ấn. Họ đồng hóa với giống Cao Miên và giống Chiêm Thành trong khi một chi phái của họ hợp với giống Mông Cổ làm thành dân tộc Việt Nam hấp thụ văn minh Trung Quốc. Văn hóa của Lâm Ấp là văn hóa của Ấn Độ. Người Lâm Ấp đã hùng cường kể từ đệ nhị thế kỷ. Họ thường đem quân quấy nhiễu địa phận Nhật Nam là một địa phận giáp giới. Khi dân Giao chỉ ta còn thuộc nhà Đông Hán, tại địa điểm này có quan cai trị Tàu trọng nhậm để phòng sự đánh phá của Lâm Ấp. Qua các triều đại sau như đời Tam Quốc, đời Đông Tân sự rối loạn ở Nhật Nam luôn luôn tiếp diễn. Năm Quý Sửu (353) dưới đời vua Mục Đế nhà Đông Tấn thái tử Giao Châu là Nguyên Phu đánh vua Lâm Ấp, phá được 50 đồn lũy thì năm 399 Lâm Ấp cướp được hai quận Nhật Nam và Cửu Chân rồi định tràn tới Giao Châu. Thái Thú Giao Châu là Đỗ Viện ngăn được và lấy lại cả hai châu đã mất, sau được phong là Giao Châu Thái Sử. Từ năm Quý Sửu (413) đến năm Canh Thân (420) cứ luôn luôn có cuộc xung đột giữa Lâm Ấp và Giao Châu, nhưng từ năm Canh Thân (420) cứ luôn luôn có cuộc xung đột giữa Lâm Ấp và Giao Châu, nhưng từ năm Canh Thân, Giao Châu đại thắng chém giết người Lâm Ấp vô cùng tàn hại, sự quấy rối của Lâm Ấp mới tạm yên ít lâu và hàng năm Lâm Ấp phải công hiến voi, vàng bạc, đồ mồi… Dưới thời Nam Bắc Triều (420-588), khi Tần đổ, nhà Tống hưng khởi ở phương Nam và Ngụy thâu được Lương, Yên, Hạ lập nên Nam Bắc Triều. Trung Quốc lại trở về với cái cảnh tam phân ngũ liệt gần như dưới đời Đông Chu: một lực lượng cát cứ miền Hoa Bắc, một lực lượng cát cứ miền Hoa Nam. Các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí của nó, Giao Châu thuộc về Nam Triều. Lâm Ấp muốn nhân cơ hội biến loạn ở Trung Quốc cho sứ sang điều đình với Tống Triều cho “bao thầu” đất Giao Châu, nhưng đề nghị của họ không được chấp thuận. Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều Tốn cử Đàn Hòa Chi sang làm Thái Sử Giao Châu và cầm tướng lệnh đi đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại hoảng sợ xin trả lại các người dân Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và xin nạp một vạn lạng vàng và mười vạn lạng bạc để tạ tội. Đàn Hòa Chi dâng biểu về Tàu xin ý kiến; trong khi này nội bộ Lâm Ấp kẻ chủ hòa, kẻ chủ chiến nên sứ giả đến nói chuyện của người Tống bị giữ lại. Tức thì quân Tống hãm ngay thành Khu Lật. Tướng Lâm Ấp giữ thành này là Phù Long bị giết. Phạm Dương Mại ở tình thế chẳng đặng đừng, phải đứng ra chống Tống cứu thành cũng bị bại rồi mang vợ con đi trốn. Quân Tống vào thành tha hồ vơ vét vàng bạc. Sử không ghi rằng sau cuộc thắng trận này nhà Tống có lập nền đô hộ Lâm Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp cống. VIỆT SỬ TOÀN THƯ Phạm Văn Sơn www.dtv-ebook.com Chương Vii 1) Lý Nam Đế 2) Triệu Việt Vương 3) Hậu Lý Nam Đế 1 – Lý Nam Đế (544-548) Năm Kỷ Mùi (479) bên Trung Quốc nhà Tống mất ngôi, nhà Tề lên thay rồi 22 năm sau Tề bị Lương đánh đổ. Bọn quan cai trị Tàu cũng quen thói như những bọn trước là nhân cuộc biến loạn bên chính quốc mà tranh quyền lợi ở các biên cương và mưu sự độc lập lối địa phương tự trị. Bấy giờ Thứ Sử Tiêu Tư cai trị đất Giao Châu cũng đi theo vết xe đổ của bọn Tô Định, Lục Dận, Lữ Đại: nhân dân Giao Châu thấy ngột ngạt vì cái không khí nội biến, ngoại xâm (vì sự quấy phá của Lâm Ấp) liền chụp cơ hội chính quyền của bọn thống trị nghiêng ngửa liền hưởng ứng theo tiếng gọi của ông Lý Bôn (còn tên khác là Lý Bí) người huyện Thái Bình thuộc Phong Chuy, tức là Sơn Tây ngày nay, ông vốn cội rễ là người Tàu. Tổ tiên ông chạy loạn dưới đời Tây Hán qua Giao Châu đến ông là 7 đời nên có tính tình hoàn toàn như người bản địa. Ôn có đủ tài văn võ, đã có thời làm quan với nhà Lương, sau bất đắc chí liền cùng nghĩa sĩ bốn phương họp nhau đánh đuổi Tiêu Tư. Việc khởi nghĩa nhằm năm Tân Dậu (54) tức năm Đại Đồng thứ 7 đời Lương Vũ Đế. Bấy giờ ông coi quận Cửu Đức, liên kết được vài châu, các hào kiệt đều hưởng ứng. Tại Chu Diên có tù trưởng Triệu Túc đem quân theo trước nhứt. Tháng chạp năm Nhâm Tuất (542) nhà Lương sai Lư Tử Hùng là Thứ sử châu Tân và Tôn Quýnh Thứ Sử châu Giao sang đánh. Bọn này dùng dằng không muốn tiến quân. Tiêu Tư làm sớ về triều Lương vu tấu bọn Hùng, Quýnh giao thông với người ngoài cõi, nên hai người này bị tử tội. Lúc này Lý Bôn đã chiếm thành Long Biên được 3 năm (năm Quý Hợi 543). Tháng 4 năm ấy vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bát Na (Rudravarman I) vào cướp phá quận Nhật Nam (quận Nhật Nam còn được nhà Lương gọi là Đức Châu) Lý Bôn sai Phạm Tu đem quân đi đánh dẹp, Phạm Tu thắng trận ở Cửu Đức. Vu Lâm Ấp bỏ chạy. Năm Giáp Tý (544) Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế lấy niên hiệu là Thiên Đức, ngang với nhà Lương là năm thứ 10 hiệu Đại Đồng, và lấy quốc hiệu là vạn Xuân sau khi đuổi hẳn được Tiêu Tư. Ông thiết lập triều đình, cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Cũng năm ấy, nhà Lương phái Tả Vệ tướng quân là Lan Khâm sang đánh Nam Việt Đế, Lan Khâm mới vượt khỏi Ngũ Lĩnh đã bị bệnh và chết. (Đại Việt Sử Ký quyển 5 tờ 2 a b). Tháng 6 năm Ất Sửu (545) là năm thứ hai hiệu Thiên Đức, nhà Lương cử Dương Siêu (Việt nam Sử Lược chép là Dương Phiêu) làm Thứ Sử Giao Châu, Trần Bá Tiêu (sau là cao tổ nhà Trần bên Tàu) làm Tư Mã và hạ lệnh cho Thái Sử Châu Định là Tiêu Bột hợp quân với Dương Siêu cùng đánh. Ông Lý Bôn đem ba vạn quân chống nhau với quân Lương ở Chu Diên bị thua, chạy tới sông Tô Lịch lại bại trận lớn hơn nữa, sau phải rút về Gia Ninh (Phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Tháng giêng năm bính Dần (546) quân Lương vây hãm thành và chiếm được vào ngày 25-2-546. Lý Nam Đế chạy thoát được về vùng Tân Xương (tỉnh Sơn Tây). Đến tháng 8, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đóng ở hồ Điền Triệt (nay là huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Yên) chế tạo thuyền bè định phản công. Tại đây quân Trần Bá Tiên lại thắng trận lớn nữa vì Lý Nam Đế không kịp phòng bị. Ngài lại rút về Tân xương (có chỗ chép là Tân Hưng) để chấn chỉnh lại quân đội sau giao lại binh quyền cho Tả Tướng quân Triệu Quang Phục (Đại Việt Sử Ký, quyển 5 tờ 3 và Toàn Thư quyển 4 tờ 16 b 17 a). Từ năm 547 miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt lại lệ thuộc về Tàu. Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cố đánh được Đức Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) nhưng không bao lâu lại bại trận tại Ái Châu, phải đào tẩu. 2 – Triệu Việt Vương Triệu Quang Phục là con Thái Phó Triệu Túc: hai cha con ông theo Lý Nam Đế đã lâu, vừa là tướng có tài, vừa là người trung thần nên được lãnh sứ mạng đó; thấy quân Tàu còn mạnh, Triệu rút quân về Dạ Trạch là nơi đồng lầy, chung quanh sẵn rừng núi (thuộc tỉnh Hưng Yên bay giờ). Ông thiết lập doanh trại ở bên trong rất là bí mật, hiểm trở rồi cứ đêm tối dùng thuyền độc mộc đem thủy quân ra đánh cướp được lương thực về nuôi quân đội. Lối du kích chiến này ông là người thực hành đầu tiên đã mang lại nhiều thắng lợi, nên Trần Bá Tiên mặc dầu binh hùng tướng mạnh đánh mãi không xong. Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế mất. năm sau Triệu lên thay xưng là Việt Vương, nhưng lương thực hao mòn dần. Tình thế giữa đôi bên vẫn nhùng nhằng, chẳng ngã ngũ bề nào thì nhờ dịp bên Trung Quốc có loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên phải triệu về để tùy tướng là Dương Sản ở lại trông nom việc quân. Triệu thừa dịp tấn công quân Tàu rồi lấy lại thành Long Biên. Về phía quân Tàu được yên thì Triệu Việt Vương lại phải đối phó với Lý Phật Tử. Nguyên Lý phật Tử là người họ của Lý Thiên Bảo, Thiên Bảo là anh họ của Lý Bôn khi ông Lý Bôn thất thế thì cả bọn chạy vào quận Cửu Chân rồi bị quân Lương đuổi phải bôn tẩu qua xứ Lào, đến đóng ở Dạ Lăng xưng là Đào Lăng Vương lấy quốc hiệu là Dạ Lăng. Lý Thiên Bảo mất (năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương) không con nên giao binh quyền cho Lý Phật Tử. Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về tranh giành địa vị với Triệu Việt Vương nhưng đánh mấy trận đều không có kết quả liền xin Việt Vương chia đất giảng hòa. Việt VƯơng nghĩ tình cố thủ và thương hại trăm họ bấy lâu đau khổ vì chiến tranh ưng lời đề nghị của Lý Phật Tử. Địa giới của Việt Vương kể từ Long Biên ra bãi Quần Thần làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm. Còn Lý Phật Tử đóng tại Ô Diên (tức làng Đại Mỗ huyện Từ Liêm trở về xuôi). Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cảo Nương cho Phật Tử để mưu cuộc hòa hiếu lâu dài, không ngờ Phật Tử vẫn giữ manh tâm trước. Năm Tân Mão (521) Phật Tử xuất quân đánh bất thình tình vào Long Biên. Triệu Việt Vương xuất kỳ bất ý phải chạy đến sông Đại Nha (huyện Đại An, tỉnh Nam Định) thì nhảy xuống tự vẫn. 3 – Hậu Lý Nam Đế (571 – 602) Hạ được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng Đế Hiệu (tức là Hậu Lý Nam Đế) cắt Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên, Lý Phổ Đĩnh giữ Ô Diên, kinh đô dời về Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). Chính quyền như vậy đã được thống nhất, công cuộc của ông không thành tựu lâu dài vì chính sự bên Trung Quốc lại được ổn định. Nhà Tùy đánh đổ được nhà Lương thâu gồm được cả Nam Bắc, đến năm Nhâm Tuất (602) phái Lưu Phương đem 27 doanh sang đánh Hậu Lý Nam Đế. Xét không kháng cự nổi quân nhà Tùy, Lý Phật Tử chịu nghe lời dụ và kéo cờ hàng. Giao Châu lại lệ thuộc về Trung Quốc thêm một giai đoạn nữa (giai đoạn này kéo dài 336 năm). """