" Việc Máu - Michael Connelly full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Việc Máu - Michael Connelly full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Mụclục GiớiThiệu TácGiả Chương1 Chương2 Chương3 Chương4 Chương5 Chương6 Chương7 Chương8 Chương9 Chương10 Chương11 Chương12 Chương13 Chương14 Chương15 Chương16 Chương17 Chương18 Chương19 Chương20 Chương21 Chương22 Chương23 Chương24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Lời Cảm Tạ VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Terry MacCaleb không ở đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dạn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi thuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội ác tại Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và MacCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lòng ngực. Terry MacCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của tội ác, cũng như bí ẩn trong quan hệ tình cảm con người. VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Tác Giả Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Chương 1 McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Chương 2 Từ khóe mắt ông chỉ vừa vặn thấy màn hình. Màn hình màu bạc đen lẹt xẹt, trái tim trông giống như một bóng ma gờn gợn, những cái đinh và kẹp dùng để nút các mạch máu nổi rõ lên như những cái vỏ đạn đen sì trong ngực ông. “Gần xong rồi,” một giọng nói. Giọng đó thốt lên từ sau tai phải ông. Bonnie Fox. Lúc nào cũng điềm tĩnh, chuyên nghiệp, khiến người ta yên lòng. Chẳng mấy chốc ông nhìn thấy nét lượn ngoằn ngoèo như rắn của kính nội soi di động vào trong trường tia X của màn hình, men theo tĩnh mạch vào trong tim. Ông nhắm mắt lại. Ông ghét cái cảm giác bị giật thốc đó, cảm giác mà họ nói ta sẽ không cảm thấy nhưng rồi ta luôn luôn cảm thấy. “Được rồi, anh không nên cảm thấy thế này,” chị ta nói. “Phải.” “Đừng nói chuyện.” Rồi thì, nó đấy. Giống như cái giật rất nhẹ nơi đầu mút sợi dây câu, một con cá nhép đang nẫng nhẹ mồi câu của ta. Ông mở mắt thì thấy đường viền ống kính nội soi, mảnh như sợi dây câu, vẫn nằm sâu trong trái tim. “OK, được rồi,” chị nói. “Sắp xong rồi. Anh cừ lắm, Terry.” Ông cảm thấy chị vỗ vai ông, mặc dù ông không thể ngoái đầu lại nhìn chị. Người ta rút kính nội soi ra, và chị dán miếng gạc lên chỗ rạch trên cổ ông. Cái ngàm nãy giờ giữ chặt đầu ông ở một góc độ đến là khó chịu giờ được gỡ ra, và ông chầm chậm vươn thẳng cổ, giơ bàn tay lên để co duỗi những cơ bắp cứng đờ. Khuôn mặt tươi cười của bác sĩ Bonnie Fox lại treo lơ lửng trên đầu ông. “Anh thấy thế nào?” “Không thể kêu ca gì. Giờ mọi chuyện xong rồi.” “Tí nữa tôi sẽ đến khám cho anh. Tôi cần kiểm tra kết quả xét nhiệm máu và đem mô tới phòng thí nghiệm.” “Tôi có chuyện muốn nói với chị.” “Được rồi. Hẹn anh lát nữa.” Vài phút sau hai cô y tá đẩy giường của McCaleb ra khỏi phòng chụp mạch máu, đưa vào thang máy. Ông không ưa bị người ta đối xử như một kẻ tàn phế. Lẽ ra ông có thể tự đi được, nhưng làm thế là trái nội quy. Sau một ca sinh thiết tim, bệnh nhân phải luôn được giữ ở thế nằm ngang. Các bệnh viện luôn luôn có nội quy này nọ. Cedars-Sinai xem ra có nhiều nội quy hơn bất cứ bệnh viện nào. Người ta đưa ông xuống khoa tim mạch ở tầng sáu. Trong khi được hai cô y tá đẩy trên giường có bánh xe dọc theo hành lang phía Đông, ông tiến ngang qua phòng của những người may mắn và những người đang đợi - các bệnh nhân đã nhận được tim mới hoặc vẫn đang phải đợi. Họ băng qua một phòng nọ, McCaleb liếc vào qua cửa mở thì thấy một cậu bé nằm trên giường, toàn thân được nối bằng ống vào máy tim-phổi nhân tạo. Một người đàn ông vận com lê ngồi trên ghế phía bên kia giường, mắt nhìn đăm đăm vào cậu bé nhưng lại đang thấy một cái gì khác. McCaleb ngoảnh đi. Ông biết sự tình. Cậu bé không còn sống bao lâu nữa. Cái máy sẽ chỉ giúp cậu trụ được đến thế thôi. Rồi thì người đàn ông mặc com lê - là cha cậu, McCaleb đoán thế - sẽ nhìn đăm đăm một cái quan tài cũng với cái nhìn ấy. Giờ thì họ đã tới chỗ phòng ông. Người ta chuyển ông từ băng ca lên giường rồi để ông lại một mình. Ông chuẩn bị tinh thần chờ đợi. Qua kinh nghiệm ông biết rằng có thể phải sáu tiếng nữa Fox mới tới, tùy theo ở phòng thí nghiệm người ta xét nghiệm mẫu máu lâu hay chóng và bao lâu nữa thì chị mới ghé chỗ đó để lấy kết quả. Ông đã sẵn sàng. Cái túi da cũ ông từng dùng để đựng máy vi tính và vô số hồ sơ các vụ ông từng xử lý giờ đây ních cứng những số tạp chí cũ mà ông dành sẵn cho những ngày làm sinh thiết. Hai tiếng rưỡi sau, Bonnie Fox bước qua ngưỡng cửa. McCaleb đặt cuốn Sửa chữa tàu thuyền đang đọc dở xuống. “Chà, nhanh thế.” “Hôm nay ở phòng thí nghiệm có ít ca. Anh thấy thế nào?” “Cổ tôi nghe như bị chân ai giẫm lên suốt hai ba giờ liền ấy. Chị đến phòng thí nghiệm rồi à?” “Ừ.” “Kết quả ra sao?” “Xem ra thì ổn cả. Không bị thải, mọi cấp độ đều có vẻ ổn. Tôi hài lòng lắm. Một tuần nữa chúng tôi có thể hạ mức prednisone xuống cho anh.” Chị vừa nói vừa trải kết quả xét nghiệm lên bàn để đồ ăn của cái giường rồi xem lại lần nữa các kết quả tốt. Chị đang nói tới những hỗn hợp gồm nhiều thứ thuốc được trù liệu kỹ lưỡng mà McCaleb uống mỗi sáng và mỗi tối. Lần cuối đếm, ông đã nuốt mười tám viên thuốc vào buổi sáng, tối lại thêm mười sáu viên. Cái tủ thuốc trên thuyền chẳng đủ to để đựng hết đống hộp thuốc. Ông phải dùng một trong mấy hộc trữ đồ ở khoang phía trước. “Tốt,” ông nói. “Tôi chán phải cạo râu ba lần một ngày lắm rồi.” Fox gấp kết quả xét nghiệm lại rồi nhấc cái kẹp hồ sơ ra khỏi chiếc bàn con gắn vào giường. Mắt chị nhanh chóng lướt qua phần đánh dấu các câu hỏi mà ông phải trả lời mỗi lần khám. “Hoàn toàn không sốt à?” “Hoàn toàn không.” “Cũng không tiêu chảy.” “Chả tí nào.” Qua sự soi đi soi lại hỏi tới hỏi lui không ngừng của chị, ông biết rằng sốt và tiêu chảy là hai triệu chứng báo hiệu cơ quan mới ghép bị đào thải. Ông cặp nhiệt độ ít nhất hai lần một ngày, cùng với đo huyết áp và nhịp tim. “Các chỉ số chủ chốt xem chừng tốt lắm. Anh cúi tới trước một chút đi nào.” Chị đặt tấm bảng xuống. Cầm cái ống nghe, trước tiên chị thổi phù phù cho nó ấm lên, đoạn chị nghe tim ở ba điểm khác nhau sau lưng ông. Rồi ông nằm xuống lại và chị nghe qua ngực ông. Chị tự đo mạch của ông bằng cách vừa đặt hai ngón tay lên cổ ông vừa nhìn đồng hồ. Trong khi làm vậy chị ở sát cạnh ông. Chị xức nước hoa mùi hoa cam, mùi mà McCaleb vẫn luôn cho rằng chỉ có ở các bà trọng tuổi. Thế nhưng Bonnie Fox không phải là một bà trọng tuổi. Ông nhìn lên chị, dò xét khuôn mặt chị trong khi chị nhìn đồng hồ. “Có khi nào chị tự hỏi liệu chúng ta có nên làm thế này không?” ông hỏi. “Đừng nói chuyện.” Cuối cùng, chị dịch mấy ngón tay sang cổ tay ông để đo mạch ở đó. Rồi thì chị rút vòng đo huyết áp ra khỏi tường, đặt lên tay ông để lấy số đo huyết áp, trong khi làm ngần ấy việc chị cứ im lặng suốt. “Tốt,” chị nói khi đã xong xuôi. “Tốt,” ông nói. “Liệu chúng ta có nên làm cái gì nào?” Chị vẫn có cái lối bất thần nối lại một mẩu chuyện trò bị ngắt nửa chừng hoặc bỏ quên. Chị hiếm khi quên bất cứ điều gì McCaleb nói với chị. Bonnie Fox là một phụ nữ nhỏ nhắn trạc tuổi McCaleb, tóc cắt ngắn sớm bị chớm bạc. Áo khoác trắng của chị dài gần như chấm mắt cá chân vì nó vốn được may dành cho người cao hơn. Thêu trên túi ngực là đường viền một hệ tuần hoàn hô hấp, chuyên ngành phẫu thuật của chị. Mỗi lần họ gặp nhau là chị luôn có vẻ bận rộn, sự vụ. Chị có dáng vẻ tự tin và ân cần, một thể kết hợp mà McCaleb luôn luôn thấy thật hiếm gặp ở đám bác sĩ - mà trong những năm gần đây thì có lắm bác sĩ. Ông đáp lại sự tự tin và ân cần đó. Ông thích chị và tin cậy ở chị. Trong suy nghĩ thầm kín nhất của mình từng có một lúc ông phân vân tự hỏi liệu một ngày kia ông có nên đặt tính mạng vào tay người đàn bà này hay không. Nhưng sự phân vân đó nhanh chóng qua đi và chỉ khiến ông thấy mình có lỗi. Khi đến lúc thay tim, chính khuôn mặt tươi cười của chị là thứ cuối cùng ông thấy khi người ta cho ông ngủ khi chuẩn bị mổ. Đến lúc đó thì trong ông chẳng còn chút phân vân nào nữa. Và chính khuôn mặt tươi cười của chị đã đón ông về lại thế giới, với một trái tim mới và cuộc đời mới. McCaleb chấp nhận cái thực tế rằng trong suốt tám tuần kể từ khi thay tim đến giờ chưa hề có một trở ngại nào trong quá trình hồi phục của ông, ấy là minh chứng cho thấy lòng tin cậy của ông đặt vào chị là chính đáng. Trong suốt ba năm từ khi ông bước vào phòng làm việc của chị lần đầu tiên, một sự gắn bó đã hình thành giữa hai người, sự gắn bó vượt xa quan hệ chuyên môn đơn thuần. Giờ đây họ là bạn tốt của nhau, hoặc giả McCaleb tin như vậy. Họ đã đi ăn cùng nhau hàng chục lần, đã sôi nổi thảo luận với nhau vô số lần về mọi thứ, từ việc nhân bản di truyền vô tính cho tới phiên tòa xử O. J. Simpson - McCaleb đã thắng của chị hàng trăm đô khi tòa ra phán quyết đầu tiên, ông dễ dàng nhận thấy rằng niềm tin không thể lung lay của chị vào hệ thống tư pháp đã khiến chị mù quáng không thấy được cái thực tế rằng vụ này đậm mùi phân biệt chủng tộc. Chị không còn dám cá với ông về phán quyết thứ hai. Dù chủ đề có là gì đi nữa thì, đôi khi, McCaleb thấy mình khăng khăng giữ ý kiến trái ngược với chị chỉ vì ông thích giao đấu với chị. Giờ thì, tiếp theo câu hỏi đó, Fox nhìn ông như muốn nói chị đã sẵn sàng cho một cuộc thư hùng tay đôi nữa. “Liệu ta có nên làm chuyện này không,” ông vừa nói vừa vung một tay lên như muốn bao quát toàn bệnh viện. “Lấy phủ tạng ra, thay phủ tạng mới vào. Đôi khi tôi thấy mình như quái vật Frankenstein thời hiện đại ấy, mang phủ tạng của người khác ở trong người mình.” “Một người khác, một bộ phận khác. Ta đừng trầm trọng hóa thế đi nào.” “Nhưng đấy chính là bộ phận quan trọng, chả phải sao? Chị biết đó, hồi tôi còn làm ở Cục, chúng tôi năm nào cũng phải sát hạch bắn súng. Bắn bia ấy mà. Và cách tốt nhất để qua kỳ sát hạch là bắn vào tim. Bắn trúng vòng tròn bao quanh hồng tâm trên mấy tấm bia đó thì được nhiều điểm hơn là bắn vào đầu. Nó gọi là vòng mười. Điểm cao nhất.” “Thôi nào, nếu lại bàn cãi theo cái kiểu ‘phải chăng chúng ta đang hành động như Chúa trời’ thì tôi nghĩ chúng ta đã qua khỏi cái thời đó lâu rồi.” Chị lắc đầu, mỉm cười nhìn ông trong mấy giây. Cuối cùng nụ cười tan biến. “Có gì không ổn vậy?” “Tôi không biết. Chắc là tôi cảm thấy mình có lỗi.” “Gì cơ, có lỗi vì mình còn sống sao?” “Tôi chẳng biết nữa.” “Đừng lố bịch đi. Chuyện đó ta cũng giải quyết xong rồi. Tôi không có thời gian cho ba cái vụ tội với lỗi của người sống sót. Nhìn xem, ở đây ta có những lựa chọn nào. Đơn giản lắm. Một đằng anh được sống, bằng không anh chết. Quyết định trọng đại đấy. Có tội lỗi gì nào?” Ông giơ hai tay lên đầu hàng. Chị luôn nêu ra mọi vật trong ngữ cảnh sáng rõ nhất. “Điển hình thôi,” chị nói, không chịu để ông rút lui. “Anh phải chầu chực hầu suốt hai năm ròng để chờ có tim, chờ dài cổ đến gần như không còn kiên nhẫn thêm được nữa, thế mà bây giờ anh tự hỏi liệu chúng tôi lẽ ra có nên cho anh trái tim đó không. Thật ra điều gì khiến anh day dứt vậy hở, Terry? Tôi không có thời gian nói chuyện nhảm với anh đâu.” Ông nhìn lại chị. Chị dần dần có được kỹ năng đọc vị được ông. Đó là cái mà tất cả đặc vụ và cảnh sát giỏi nhất ông từng biết đều có. Ông do dự, rồi quyết định nói ra điều ông nghĩ trong tâm trí. “Chắc là tôi muốn biết vì sao chị không cho tôi hay người đàn bà cho tôi quả tim đã bị ám sát.” Rõ là chị giật thót người. Cú sốc do câu nói của ông gây ra lộ rõ trên mặt chị. “Ám sát? Anh nói gì vậy hả?” “Cô ấy bị ám sát.” “Ra làm sao?” “Tôi không biết chắc. Cô ấy tình cờ có mặt trong vụ cướp ở cửa hàng bách hóa nào đó ở khu Valley. Bị bắn vào đầu. Cô ấy chết, rồi thì tôi được quả tim cô ấy.” “Đáng ra anh không được biết bất cứ điều gì về người cho tim. Làm sao anh biết chuyện đó?” “Vì hôm thứ Bảy vừa rồi chị gái cô ấy đến gặp tôi. Cô ấy kể tôi nghe tất cả... Điều ấy có phần làm thay đổi mọi chuyện, chị hiểu chứ?” Fox ngồi xuống giường bệnh, tựa người vào ông. Một vẻ nghiêm khắc hiện lên trên mặt chị. “Trước hết, tôi hoàn toàn không biết tim của anh từ đâu ra. Chúng tôi chẳng bao giờ biết. Nó đến là qua CMN. Chúng tôi chỉ được người ta cho biết có một quả tim mang nhóm máu khớp với người nhận mà chúng tôi đã báo trước và đứng đầu trong danh sách của chúng tôi. Đó là anh. Anh biết cách làm việc của CMN rồi mà. Anh đã xem phim trong quá trình hướng dẫn còn gì. Chúng tôi không biết nhiều thông tin lắm, nhưng cứ vậy là hơn. Chúng tôi biết gì thì tôi nói tất với anh rồi. Phụ nữ, hai mươi sáu tuổi, tôi còn nhớ. Sức khỏe hoàn hảo, nhóm máu hoàn toàn khớp, một người hiến hoàn hảo. Vậy thôi.” “Thế thì tôi xin lỗi. Tôi cứ ngỡ chị biết nhưng chỉ là không chịu nói.” “Tôi không biết. Chúng tôi không biết. Thành thử nếu chúng tôi không biết nó là của ai và từ đâu tới thì làm sao bà chị kia biết trái tim được chuyển cho ai, ở đâu? Làm sao cô ấy tìm ra anh được? Đây có thể là cô ta đang giở trò gì đây...” “Không. Chính là cô ta. Tôi biết.” “Làm sao anh biết?” “Bài báo hôm Chủ nhật rồi, chuyên mục ‘Chuyện gì đang xảy ra với...’ ở phần Metro của tờ Thời báo ấy. Nó nói là tôi nhận tim vào ngày chín tháng Hai và tôi đã phải chờ một thời gian dài vì nhóm máu của tôi hiếm. Cô chị đọc được bài ấy và chắp nối mọi chuyện với nhau. Cô ấy rõ ràng là biết em gái mình chết khi nào, biết rằng tim cô em được mang hiến, và cũng biết cô em có nhóm máu hiếm. Cô ấy là y tá phòng cấp cứu ở bệnh viện Holy Cross nên nghĩ ra ngay rằng đó là tôi.” “Thế vẫn chưa có nghĩa là anh đang mang tim của cô...” “Cô ta còn có lá thư tôi viết nữa.” “Thư nào?” “Lá thư mà sau đó ai cũng viết ấy. Lá thư không ký tên, để cảm ơn gia đình người hiến. Lá thư mà bệnh viện gửi đi ấy. Cô ta có lá thư của tôi. Tôi nhìn qua là nhận ra ngay thư của tôi. Tôi nhớ mình đã viết gì mà.” “Chuyện này không thể xảy ra được, Terry. Cô ta muốn gì? Tiền à?” “Không, không phải tiền. Chị không hiểu ư? Cô ấy muốn tôi tìm cho ra ai làm chuyện đó. Ai giết em cô ấy. Cảnh sát chưa hề kết thúc được vụ ấy. Đã hai tháng rồi mà chẳng thấy bắt ai. Cô ấy biết là họ chịu thua rồi. Thế rồi cô ấy đọc được bài viết về tôi ở trên báo, về chuyện hồi trước tôi hay làm gì ở Cục Điều tra Liên bang. Cô ấy đoán ra tôi đã được ghép tim của em cô ấy và cho rằng biết đâu tôi làm được điều cảnh sát không làm được. Phá vụ án này. Hôm thứ Bảy cô ấy loanh quanh suốt một tiếng đồng hồ ở vũng neo thuyền để tìm thuyền của tôi. Cô ấy chỉ biết mỗi cái tên chiếc thuyền nhờ đọc trong bài báo. Cô ấy đến để tìm tôi.” “Thật điên rồ. Cho tôi tên của cô ta đi, rồi tôi sẽ...” “Không. Tôi không muốn chị làm gì cô ấy hết. Cứ thử hình dung nếu chị là cô ấy và chị rất yêu em gái chị. Chị cũng sẽ làm như cô ấy thôi.” Fox đứng dậy khỏi giường, chăm chăm nhìn ông. “Anh không thực sự định làm chuyện này đâu.” Chị nói như thể một lời phán, một mệnh lệnh của bác sĩ. Ông không đáp, và bản thân việc đó là một lời đáp. Ông có thể thấy một lần nữa nỗi tức giận trào lên mặt Fox. “Nghe tôi đây. Với tình trạng anh hiện giờ thì anh không thể làm việc gì như thế được. Anh đang trong thời kỳ sáu mươi ngày sau thay tim, thế mà anh lại muốn chạy lông nhông chơi trò thám tử à?” “Tôi chỉ đang nghĩ tới chuyện đó thôi, được chưa? Tôi bảo cô ấy là tôi sẽ cân nhắc. Tôi biết những rủi ro có thể xảy ra mà. Tôi cũng biết tôi không còn là nhân viên FBI. Đó là chuyện hoàn toàn khác nữa.” Fox giận dữ khoanh đôi tay mảnh khảnh trước ngực. “Ngay cả nghĩ tới anh cũng không nên nghĩ. Với tư cách bác sĩ của anh, tôi bảo anh không được nghĩ. Lệnh bác sĩ đấy.” Sau đó giọng chị thay đổi âm sắc, dịu hẳn đi. “Anh phải trân trọng món quà anh được tặng, Terry ạ. Cơ hội thứ hai này.” “Nhưng sự trân trọng đó có đi có lại. Nếu tôi không nhận được tim cô ấy thì lúc này tôi đã chết rồi. Tôi mắc nợ cô ấy. Chính đó...” “Anh không nợ cô ta hay gia đình cô ta cái gì khác ngoài bức thư anh đã gửi cho họ. Thế đấy. Đằng nào thì cô ta cũng chết, dù anh hay ai khác nhận tim cô ta. Về điểm này thì anh sai rồi.” Ông gật đầu tỏ ra hiểu ý chị, nhưng chừng đó chưa đủ với ông. Ông biết, nào phải chỉ vì một điều gì đó là hợp lẽ ở cấp độ tri thức mà người ta cảm thấy dễ chịu hơn với những cơn quặn thắt trong cật ruột mình. Chị đọc được ý nghĩ ông. “Nhưng sao?” “Tôi không biết. Chỉ là tôi nghĩ, nếu tôi đi tìm mà biết được chuyện gì đã xảy ra thì hẳn tôi sẽ biết được đó chỉ là tai nạn. Tôi chuẩn bị bản thân mình là để cho điều đó. Khi tiến hành hướng dẫn sơ bộ người ta bảo chị thế, và ngay cả chị cũng bảo tôi thế khi chúng ta bắt tay vào việc. Rằng trăm phần thì có tới chín mươi chín phần đấy là một tai nạn dẫn tới thương tích ở đầu gây tử vong. Tai nạn ô tô, hoặc ai đó ngã cầu thang, ngã xe máy. Nhưng vụ này thì khác. Nó làm thay đổi mọi chuyện.” “Anh cứ nói thế. Làm sao mà khác kia chứ? Trái tim chỉ là một cơ quan nội tạng, một cái bơm sinh học. Dù chủ nhân ban đầu của nó là ai thì cũng thế thôi.” “Nếu là tai nạn thì tôi có thể yên tâm. Suốt thời gian tôi chờ đợi, biết rằng ai đó phải chết để tôi được sống, tôi đã dần dần chuẩn bị để chấp nhận việc ấy như một tai nạn. Nếu đúng là tai nạn thì nó giống như số trời đã định hay gì đó. Nhưng còn án mạng... chừng đó thì lại có mưu đồ thủ ác kèm theo. Đó không phải là tình cờ nữa. Thế có nghĩa rằng tôi là kẻ hưởng lợi từ một hành vi ác, bác sĩ ạ, chính vì vậy mà bây giờ chuyện đã khác.” Fox im lặng một hồi. Chị thọc hai bàn tay vào hai túi bên chiếc áo bác sĩ. McCaleb nghĩ rằng rốt cuộc chị đang bắt đầu thấu hiểu điều ông muốn nói. “Lâu nay cuộc đời tôi là như vậy,” ông nhẹ nhàng nói thêm. “Tôi luôn truy lùng cái ác. Đó là việc tôi làm. Và tôi từng làm việc đó cừ, nhưng về lâu dài thì nó đã thắng tôi. Nó đã đoạt mất phần tốt nhất của tôi. Tôi nghĩ - không, tôi biết - đó chính là cái đã cướp mất tim tôi. Song giờ đây dường như điều đó chẳng còn ý nghĩa gì bởi tôi đang sống đây, tôi có trái tim mới này, một cuộc đời mới, cái cơ hội thứ hai này mà chị vẫn hay nhắc tới, và lý do duy nhất khiến tôi có nó là bởi cái hành vi tàn ác, ghê tởm này mà ai đó đã làm.” Ông thở ra một hơi dài trước khi nói tiếp. “Cô ấy vào cửa hàng ấy để mua một phong kẹo cho thằng nhỏ, thế là cô ấy xong đời - ấy, khác thế thôi. Tôi không thể giải thích được.” “Anh nói năng chẳng ra nghĩa lý gì sất.” “Thật khó cho tôi nói hết thành lời như tôi muốn. Tôi chỉ biết tôi đang cảm thấy gì thôi. Với tôi thì có nghĩa lý đấy.” Khuôn mặt Fox lộ vẻ nhẫn nhục. “Được rồi, tôi biết rồi anh sẽ muốn làm gì. Anh sẽ muốn giúp cô này. Nhưng anh chưa sẵn sàng. Về mặt thể chất thì hoàn toàn chưa. Còn về mặt cảm xúc, sau khi nghe những gì anh vừa nói, tôi cho rằng để điều tra ngay cả một vụ tai nạn ô tô anh cũng còn chưa sẵn sàng nữa kìa. Có nhớ tôi đã nói gì với anh về sự cân bằng giữa sức khỏe thể chất với sức khỏe tâm thần không? Cái này bổ trợ cái kia. Mà tôi e những gì anh đang nghĩ lui nghĩ tới trong đầu rồi sẽ ảnh hưởng tới sự phục hồi về thể chất của anh thôi.” “Tôi hiểu.” “Không, tôi cho rằng anh không hiểu. Anh đang đánh bạc bằng chính sinh mạng anh đó. Nếu mọi chuyện xấu đi, nếu anh bắt đầu bị nhiễm độc hay cơ thể đào thải thì chúng tôi không cứu được anh đâu, Terry ạ. Chúng tôi đã phải chờ suốt hai mươi bốn tháng mới có được trái tim mà anh đang mang. Anh nghĩ rằng nếu anh làm hỏng trái tim này thì đùng một cái từ đâu đó sẽ tòi ra một trái tim khác khớp nhóm máu hay sao? Không đâu. Hiện tôi đang có một bệnh nhân dưới kia phải chạy tim nhân tạo. Ông ta đang chờ tim nhưng chẳng biết bao giờ mới có. Rồi anh có thể cũng thành ra như thế, Terry. Đây là cơ hội duy nhất của anh. Đừng làm nó tiêu tán mất!” Chị rướn người qua giường, đặt tay lên ngực ông. Nó khiến ông nhớ lại hành động Graciela Rivers đã làm. Ông cảm thấy hơi ấm của nó ở đó. “Bảo cô ta là không. Hãy tự cứu mình và bảo cô ấy là không.” VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Chương 3 Vầng trăng trông như quả bóng bị lũ trẻ con dùng gậy chọc vào giương lên không. Cột buồm của hàng chục thuyền buồm dựng tua tủa bên dưới vầng trăng đó, sẵn sàng giữ cho nó không rơi xuống đất. McCaleb ngắm nhìn trăng treo lơ lửng trên bầu trời đen, cho đến khi rốt cuộc nó vuột thoát bằng cách chuồi vào sau những đám mây đâu đó bên trên đảo Catalina. Một chỗ ẩn nấp tốt như bất cứ chỗ nào, ông nghĩ trong khi nhìn xuống cốc cà phê rỗng trên tay. Ông nuối tiếc cái dạo còn có thể ngồi ở đuôi tàu lúc xế chiều, một tay cầm lon bia lạnh như đá, tay kia là điếu thuốc. Nhưng điếu thuốc là một phần nguyên nhân căn bệnh nên giờ đây vĩnh viễn thôi rồi. Mà cũng phải vài tháng nữa phác đồ chữa trị mới nới lỏng đủ để cho phép đưa thêm ít chất cồn vào hỗn hợp thuốc. Còn hiện giờ chỉ cần uống một cốc thôi là đủ để ông phải chịu cái mà Bonnie Fox gọi là hậu quả chết người do dùng cồn quá liều. McCaleb đứng dậy đi vào phòng khách của thuyền. Đầu tiên ông thử ngồi nơi bàn bếp nhưng chẳng mấy chốc đã đứng dậy, bật tivi rồi bắt đầu chuyển xoành xoạch từ kênh này sang kênh khác mà chẳng hề thực sự nhìn xem có gì ở đó. Ông tắt tivi rồi kiểm tra đống hổ lốn trên bàn vẽ hải đồ, nhưng rồi cũng chẳng thấy có gì dành cho mình cả. Ông đi tới đi lui trong cabin, tìm cái gì đó khả dĩ đánh lạc hướng suy nghĩ của ông. Nhưng chẳng có gì. Ông xuống cầu thang, bước vào hành lang đằng trước rồi ra phía mũi thuyền. Ông lấy nhiệt kế ra khỏi tủ thuốc, lắc lắc rồi nhét vào dưới lưỡi. Đó là một dụng cụ hình ống bằng thủy tinh theo kiểu xưa. Cái nhiệt kế điện tử hiển thị bằng kỹ thuật số mà bệnh viện đưa cho vẫn còn nằm nguyên trong hộp để trên giá tủ. Vì lý do nào đó ông không tin tưởng nó. Nhìn chính mình trong gương, ông cởi tung cổ áo sơ mi rồi săm soi vết thương nhỏ do cuộc sinh thiết hồi sáng để lại. Nó chưa bao giờ có được cơ hội để lành. Ông đã phải chịu quá nhiều lần sinh thiết đến nỗi vết rạch bao giờ cũng chỉ vừa kịp lên da non là người ta đã lại rạch ra và thọc đầu dò vào động mạch thêm lần nữa. Ông biết rồi đây nó sẽ là một dấu vết còn mãi, giống như vết sẹo dài hơn ba mươi phân chạy dọc xuống ngực ông. Trong khi ngắm chính mình, ông lan man nghĩ đến cha ông. Ông nhớ những dấu vết còn mãi, những vết xăm còn lại trên cổ ông già. Tọa độ của một trận chiến phóng xạ chỉ làm được mỗi một việc là kéo dài điều không thể tránh. Nhiệt độ đo vẫn bình thường. Ông rửa nhiệt kế rồi đặt về chỗ cũ, đoạn nhấc tấm bảng kẹp tờ ghi nhiệt độ ra khỏi giá mắc khăn, ghi ngày tháng vào đó. Ở cột cuối, dưới tiêu đề NHIỆT ĐỘ, ông vạch thêm một dấu gạch ngang hàm ý không có gì thay đổi. Treo bảng vào chỗ cũ xong, ông cúi lại gần gương để nhìn kỹ mắt mình. Màu xanh lá cây lốm đốm xám, giác mạc lộ ra những đường nẻ đỏ quạch mảnh như sợi tóc. Ông lùi lại, cởi áo sơ mi. Tấm gương hơi nhỏ nhưng ông vẫn thấy được vết sẹo, hồng trăng trắng, dày cui, xấu xí. Ông rất hay làm vậy, tự đánh giá chính mình. Đó là vì ông vẫn chưa quen nổi với hình hài của thân thể ông hiện nay, với cái kiểu thân thể đó đã hoàn toàn phản bội ông. Bệnh cơ tim. Fox nói với ông đó là một con vi rút có thể đã chực chờ trong thành tim của ông suốt nhiều năm, chỉ đợi một tình huống ngẫu nhiên là bùng ra phát tác và lấy dưỡng chất từ tình trạng stress. Lời giải thích đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với ông. Nó chẳng làm nguôi ngoai cảm giác rằng con người ông xưa kia vĩnh viễn không còn nữa. Đôi lúc, ngắm chính mình, ông có cảm giác mình đang nhìn một kẻ xa lạ, bị cuộc đời vùi dập ê chề và giờ đây gãy vỡ dễ như chơi. Mặc áo vào xong, ông vào buồng ngủ ở phía trước. Đó là một phòng hình tam giác rập theo hình cánh cung. Có một giường đôi ở phía giáp bến thuyền, và một bệ gồm những ngăn chứa đồ về phía mạn phải thuyền. Ông đã biến giường tầng dưới thành bàn làm việc, còn tầng trên thì để chất những thùng các tông đựng đầy các tập hồ sơ cũ của Cục Điều tra Liên bang. Trên thành mấy thùng này có ghi tên các vụ điều tra. Ghi NHÀ THƠ, MÃ, HOÀNG ĐẠO, TRĂNG TRÒN và BREMMER. Hai thùng thì ghi NGHI PHẠM KHÁC. McCaleb đã sao chụp hầu hết các hồ sơ của mình trước khi rời khỏi Cục. Làm thế là trái quy định, nhưng chẳng ai cản được ông. Các hồ sơ đựng trong mấy thùng này là của nhiều vụ án, đã phá xong cũng có mà chưa phá xong cũng có. Vài hồ sơ dày đến độ chất kín cả thùng, vài vụ thì đủ mỏng để có thể nằm chung trong một thùng. Ông không biết chắc tại sao mình đã không sao chụp tất tật mọi thứ. Từ khi nghỉ việc đến giờ ông chưa bao giờ mở thùng nào. Nhưng thi thoảng ông cũng có nghĩ mình sẽ viết một cuốn sách hoặc thậm chí tiếp tục tham gia điều tra các vụ công khai. Tuy nhiên, nhìn chung đấy chỉ là vì ông thích luôn có những hồ sơ đó bên cạnh mình, như là bản tường thuật hay minh chứng cho những gì ông đã làm trong phần đời đó của ông. McCaleb ngồi xuống bàn làn việc, bật ngọn đèn gắn trên tường. Trong thoáng chốc, mắt ông đập vào cái huy hiệu FBI ông từng mang suốt mười sáu năm. Giờ đây nó được gắn vào một cái khung nhựa trong suốt treo tường, phía trên bàn. Đóng đinh trên tường bên cạnh nó là ảnh một cô bé mang niềng răng đang cười với ống kính. Ảnh được sao từ một cuốn niên giám nhiều năm về trước. McCaleb cau mày khi nhớ lại chuyện đó, liền quay đi, mắt ông chạm vào đống đồ tạp nham ở trên bàn. Có một mớ chi phiếu và biên nhận rải rác trên bàn, một kẹp hồ sơ nhiều ngăn đựng đầy kết quả xét nghiệm y khoa, một chồng kẹp hồ sơ bằng giấy thô hầu như trống rỗng, ba tờ rơi của mấy hãng dịch vụ xưởng tàu cạn cạnh tranh nhau, và cuốn sách về quy định sử dụng Vũng Cabrillo. Cuốn sổ séc của ông để mở, sẵn sàng để được dùng, nhưng ông không có bụng dạ nào bắt tay vào cái nhiệm vụ của cõi đời thường là thanh toán các chi phiếu. Lúc này thì không. Ông đang bứt rứt, nhưng đấy không phải vì sự trống rỗng trong tâm trí ông. Ông không sao thôi nghĩ về cuộc viếng thăm của Graciela Rivers và sự thay đổi bất ngờ mà nó đã khiến ông phải trải qua. Ông sắp xếp đống hổ lốn trên bàn đâu vào đấy cho đến khi tìm ra mẩu cắt từ báo đã đưa người đàn bà kia đến thuyền ông. Bài đó thì ngay hôm báo ra ông đã đọc, cắt nó ra rồi thì cố quên đi. Nhưng quên đi là không thể. Bài báo đã kéo theo cả một chuỗi dài nạn nhân tìm đến thuyền của ông. Người mẹ có đứa con gái tuổi vị thành niên được tìm thấy xác trên bờ biển ở Redondo, cái xác bị cắt, bị rạch; cha mẹ của đứa con trai bị treo cổ chết trong một căn hộ ở Tây Hollywood. Người chồng trẻ có cô vợ đi họp câu lạc bộ ở Sunset Strip rồi không bao giờ trở về. Tất cả những người đó đều sống mà như chết, hầu như bị tâm thần phân liệt bởi đau buồn và thất vọng ê chề trước niềm tin vào một đấng Chúa Trời vốn lẽ ra phải không để những điều như vậy xảy ra. McCaleb không sao an ủi họ được, ông không thể giúp họ. Ông bảo họ từ đâu tới thì cứ đường ấy mà về. Ông đã đồng ý cho tờ báo phỏng vấn chỉ vì ông nợ cô nhà báo. Hồi ông còn làm ở Cục, Keisha Russell vẫn luôn tốt với ông. Cô là loại nhà báo thi thoảng biết cho chứ không phải lúc nào cũng chỉ biết nhận. Cô đã gọi đến chỗ thuyền ông để gặp ông sớm hơn một tháng hầu thu khoản nợ đó. Cô được giao nhiệm vụ viết bài cho mục “Chuyện gì đã xảy ra với...” của tờ Thời báo. Từ năm ngoái cô đã viết một bài về chuyện McCaleb chờ có tim để ghép, nay cô muốn cập nhật thông tin một khi ông đã được ghép xong. McCaleb muốn khước từ lời mời, biết rằng bài phỏng vấn sẽ làm tiêu ma cuộc sống mai danh ẩn tích của ông hiện nay, nhưng Russell liền nhắc lại tất cả những lần cô đã giúp đỡ ông - không tiết lộ các chi tiết về một vụ điều tra hoặc có đưa chúng vào bài báo tùy theo McCaleb thấy thế nào là có ích. McCaleb cảm thấy ông không còn cách nào khác. Ông luôn sòng phẳng về chuyện nợ nần. Vào hôm bài báo được đăng, McCaleb đã coi nó như là huy hiệu chính thức cho vị thế xưa kia ông từng có. Thường thì chuyên mục đó được dành để đăng những thông tin sốt dẻo nhất về các chính trị gia diều hâu đã biến mất khỏi chính trường địa phương hoặc những người mà sự nổi tiếng trong vòng mười lăm phút đã qua tự đời nào. Thi thoảng nó kể chuyện một ngôi sao truyền hình đã hết thời nay chuyển sang bán nhà đất hoặc trở thành họa sĩ bởi đó mới là thiên hướng sáng tạo đích thực của ông ta. Giờ ông lại mở bài báo ra đọc lại. Tim mới, khởi đầu mới cho cựu đặc vụ FBI Keisha Russell Phóng viên THỜI BÁO Khuôn mặt Terrell McCaleb từng là một thứ hầu như bất di bất dịch trên chương trình tin tức hàng đêm của Los Angeles, lời ông nói luôn được báo chí địa phương dành sẵn chỗ. Nhẵn mặt như thế chẳng phải là điều thú vị gì cho cả ông lẫn cho dân thành phố. Là nhân viên FBI, McCaleb là nhân vật chủ chốt của Cục trong việc điều tra một số vụ giết người hàng loạt đã hoành hành Los Angeles và miền Tây trong suốt thập kỷ qua. Là thành viên của Đơn vị hỗ trợ điều tra, McCaleb đã giúp tập trung các cuộc điều tra của cảnh sát địa phương. Là người am hiểu giới truyền thông và luôn cho phép báo chí trích lời mình, ông thường xuất hiện trước ống kính - một động thái đôi khi làm cho cảnh sát địa phương cũng như cấp điều hành ở Quantico hiểu lầm mà nóng ruột. Nhưng đã hơn hai năm qua ông không còn xuất đầu lộ diện trên màn hình trước công chúng nữa. Giờ đây McCaleb không còn mang huy hiệu hay súng nữa. Ông nói, ngay cả một bộ sắc phục FBI chuẩn màu xanh lính thủy ông cũng chẳng còn giữ được. Nay thì ông thường xuyên mặc quần jeans cũ màu xanh, áo phông sờn rách, và ta có thể thấy ông đang cặm cụi phục hồi con thuyền đánh cá dài hơn 12 mét của mình, chiếc Biển Theo Ta. McCaleb, sinh quán ở Los Angeles và lớn lên ở Avalon trên đảo Catalina gần đó, hiện đang sống trên con thuyền tại một vũng neo thuyền ở San Pedro nhưng ông dự định sau này sẽ neo thuyền tại Bến Avalon. Hiện đang phục hồi sau ca giải phẫu thay tim, McCaleb cho biết, tầm nã những tên giết người và hiếp dâm hàng loạt là điều xa xôi nhất trong tâm trí ông hiện giờ. McCaleb, nay 46 tuổi, nói ông đã dâng trái tim mình cho Cục - các bác sĩ cho biết tình trạng stress trầm trọng đã kích hoạt một con vi rút khiến cho trái tim từ cha sinh mẹ đẻ của ông bị suy yếu đến mức suýt nữa làm ông mất mạng - nhưng ông không hề hối tiếc. “Một khi ta đã trải qua một điều như vậy, nó khiến ta thay đổi không chỉ về mặt thể chất,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn hồi tuần trước. “Nó khiến ta nhìn mọi việc từ một khoảng cách xa hơn. Những ngày làm ở FBI dường như là một thời nào đó xa lắm rồi. Nay tôi đã có khởi đầu mới. Tôi không biết chắc mình sẽ làm gì với khởi đầu mới này đây, nhưng tôi chẳng lo lắng cho lắm. Tôi sẽ tìm ra điều gì đó.” McCaleb suýt nữa đã không có được sự khởi đầu mới. Bởi vì ông có nhóm máu hiếm, trăm người thì chưa tới một người có, nên để có trái tim thích hợp ông đã phải chờ gần hai năm. “Thật sự là anh ấy chịu hết nổi rồi,” Bác sĩ Bonnie Fox, người đã giải phẫu thay tạng cho McCaleb, nói. “Nếu phải đợi lâu thêm nữa thì có khi chúng tôi đã mất anh ấy rồi, không thì anh ấy cũng đã đâm ra yếu quá không chịu nổi phẫu thuật nữa.” Chỉ sau tám tuần McCaleb đã được ra viện và khỏe khoắn bình thường. Ông cho biết chỉ thỉnh thoảng ông mới nghĩ tới những cuộc điều tra khiến adrenaline tăng vọt vốn đã có một dạo cứ khiến ông bận tâm mãi. Bản danh mục các vụ án mà cựu đặc vụ FBI này từng phá đọc lên nghe như danh sách những ngôi sao lừng tiếng nhưng là một kiểu lừng tiếng rùng rợn, hắc ám. Trong số các vụ mà ông từng điều tra ở Los Angeles có các vụ Kẻ rình đêm và Nhà thơ, rồi thì ông cũng đóng vai trò chủ chốt trong các vụ săn lùng Sát thủ Mật mã, Tên Thắt cổ Đại lộ Hoàng hôn và Luther Hatch, tên Hatch này sau khi bị bắt liền được dân chúng biết tới dưới cái tên Người Nghĩa địa vì hắn vào trong nghĩa địa để viếng mồ các nạn nhân của hắn. McCaleb từng là chuyên viên lập chân dung tội phạm tại trụ sở FBI tại Quantico trong vòng mấy năm. Ông chuyên trách các vụ ở vùng Bờ Tây và thường xuyên được cử đến Los Angeles hỗ trợ cảnh sát địa phương trong các cuộc điều tra. Cuối cùng, các cấp lãnh đạo của đơn vị quyết định lập ra một vị trí vệ tinh ở thành phố này, thế là McCaleb được quay về quê nhà Los Angeles để làm việc cho phòng tác chiến FBI tại Westwood. Nhờ sự thuyên chuyển này mà trong nhiều cuộc điều tra, nếu FBI được yêu cầu hỗ trợ thì McCaleb đã có mặt sẵn gần như tại chỗ. Không phải cuộc điều tra nào cũng thành công và cuối cùng sức ép tâm lý cũng buộc McCaleb trả giá. Ông trúng một cơn đau tim giữa lúc đang làm việc đến khuya tại phòng tác chiến địa phương. Người phát hiện ra ông bị đau là nhân viên trực đêm, người này được ghi nhận là đã có công cứu mạng McCaleb. Bác sĩ xác định McCaleb bị chứng đau cơ tim thời kỳ muộn và ghi tên ông vào danh sách thay tim. Trong khi chờ đợi, ông bị Cục cho nghỉ việc vì bệnh. Ông đổi máy nhắn tin của Cục để lấy máy nhắn tin của bệnh viện và vào ngày 9 tháng Hai nó reo vang; đã có trái tim của một người hiến cùng nhóm máu. Sau sáu giờ phẫu thuật tại Trung tâm Ytế Cedars-Sinai, tim của người hiến đã đập trong lồng ngực McCaleb. McCaleb không biết chắc mình sẽ làm gì với cuộc đời mình - trừ mỗi chuyện đi câu là ông biết chắc. Nhiều cựu đặc vụ và thanh tra cảnh sát đã ngỏ lời mời ông nhập hội với tư cách điều tra viên tư hoặc cố vấn cao cấp. Nhưng cho đến giờ ông chỉ tập trung vào việc phục hồi Biển Theo Ta, một con thuyền câu cá thể thao đã hai mươi năm tuổi mà ông thừa kế của cha. Con thuyền đã bị bỏ mặc cho xuống cấp suốt sáu năm trời nhưng giờ đây McCaleb có thể dành toàn bộ thời gian chăm sóc nó. “Hiện thời tôi bằng lòng với việc chuyện gì cũng vậy, cứ thủng thẳng, tới đâu hay đó,” ông nói. “Tôi chẳng quá bận tâm về chuyện mai kia sẽ thế nào.” Ông chẳng hối tiếc gì nhiều, nhưng cũng như mọi điều tra viên và ngư phủ về hưu, McCaleb than thở về những người đã ra đi mãi mãi. “Tôi ước gì mình đã phá được tất cả các vụ án,” ông nói. “Tôi căm ghét những khi có ai đó ra đi mãi mãi. Đến giờ tôi vẫn vậy.” McCaleb săm soi một hồi bức ảnh người ta dùng trong bài báo. Đó là ảnh chụp riêng phần đầu, đã được người ta sử dụng nhiều lần hồi trước, khi ông còn làm việc ở Cục. Mắt ông nhìn chăm chắm vào máy ảnh. Khi Keisha Russell đến gặp để viết bài về ông, cô ta đi cùng với một tay nhiếp ảnh. Nhưng McCaleb không cho họ chụp ảnh mới. Ông bảo họ dùng một trong các ảnh cũ. Ông không muốn ai nhìn thấy bộ dạng ông lúc này. Cũng chẳng phải ai nhìn cũng biết, chừng nào ông chưa cởi áo ra. Bây giờ ông nhẹ hơn chừng hơn chục kí lô, nhưng đó không phải cái ông muốn giấu. Mà là cặp mắt. Ông đã đánh mất cái nhìn đó - cặp mắt rắn đanh, xuyên thấu như hai viên đạn. Ông không muốn bất cứ ai biết ông đã đánh mất cái nhìn đó. Ông gập bài báo lại để sang bên. Ông gõ gõ mấy ngón tay lên mặt bàn suốt vài giây trong khi nghiền ngẫm mọi chuyện, rồi nhìn cái đinh sắt dùng để ghim giấy ghi nhớ đặt cạnh máy điện thoại. Số điện thoại Graciela Rivers đưa cho ông được ghi nguệch ngoạc bằng bút chì nơi mẩu giấy nằm ở trên cùng xấp giấy ghi nhớ ghim xuyên qua cây đinh. Hồi còn làm nhân viên FBI, ông thường mang trong mình một nguồn căm giận mênh mông không đáy đối với những kẻ mà ông săn đuổi. Ông là người đầu tiên chứng kiến những gì chúng đã làm và ông muốn chúng phải trả giá cho sự hiện thực hóa rùng rợn những điều hoang tưởng chúng nghĩ ra. Nợ máu phải trả bằng máu. Chính vì vậy mà ở đơn vị chống bọn giết người hàng loạt ở Cục, các đặc vụ gọi công việc của họ là “việc máu”. Chẳng còn cách nào khác khả dĩ mô tả nó. Thế nên mỗi khi có kẻ nào không trả nợ, ông luôn dằn vặt, luôn đau đớn. Mỗi lần có kẻ nào đó thoát thân trót lọt. Những gì xảy ra với Gloria Rivers giờ đây khiến ông đau đớn. Ông còn sống bởi vì cô đã bị cái ác cướp đi. Graciela đã kể cho ông nghe chuyện đó. Gloria đã chết chẳng vì lý do nào khác ngoài lý do cô đang chắn đường giữa kẻ nào đó với một người thu ngân. Chết vì lý do đó thì thật đơn giản, thật ngu xuẩn và thật đáng sợ. Dù thế nào đi chăng nữa, nó khiến cho McCaleb mắc nợ. Với cô và đứa con cô, với Graciela, với chính mình. Ông nhấc điện thoại lên, quay dãy số ghi nguệch ngoạc trên mảnh giấy. Đã khuya, nhưng ông không muốn đợi và cũng không cho rằng nàng ta muốn ông đợi. Nàng ta trả lời trong vòng một hơi thở chỉ sau một hồi chuông. “Cô Rivers?” “Vâng.” “Terry McCaleb đây. Cô có ghé chỗ...” “Vâng.” “Gọi giờ này có muộn quá không?” “Không.” “Được, nghe đây, tôi muốn nói với cô là, ờ, tôi cứ nghĩ mãi về mọi chuyện và đã hứa với cô là sẽ gọi lại cho cô dù tôi quyết định thế nào.” “Phải.” Có âm sắc hy vọng dù chỉ trong một từ ấy của nàng. Nó làm tim ông rúng động. “Ừ, thì tôi nghĩ thế này. Kỹ, ừm, kỹ năng của tôi, chắc là cô sẽ gọi thế, nó không thực sự phù hợp với loại tội phạm này. Từ những gì cô mô tả cho tôi về em gái cô, chúng ta đang nói tới một tình huống ngẫu nhiên có động cơ về tài chính. Một vụ cướp. Thành thử nó khác với, ừ, cô biết đấy, với những vụ thuộc loại như tôi từng làm hồi còn ở Cục, là những vụ giết hàng loạt ấy.” “Tôi hiểu.” Vẻ hy vọng kia tan biến. “Không, tôi không nói là tôi sẽ... ờ, là tôi không quan tâm. Tôi gọi là vì ngày mai tôi sẽ đến chỗ cảnh sát để hỏi về vụ này. Nhưng...” “Cám ơn.” “... Tôi không biết tôi sẽ làm được đến đâu. Tôi muốn nói là nói thế. Tôi không muốn làm cô quá hy vọng, tôi muốn nói vậy. Những chuyện này... Tôi không biết.” “Tôi hiểu. Cám ơn ông dù chỉ vì ông muốn làm việc này. Không ai...” “Được rồi, tôi sẽ xem xét mọi chuyện,” ông nói, cắt lời nàng. Ông không muốn nàng cảm ơn ông quá nhiều. “Tôi không biết bên cảnh sát Los Angeles sẽ giúp tôi theo kiểu gì, nhưng tôi làm được gì thì sẽ làm. Ít nhất là tôi nợ em cô ngần đó. Phải cố thử xem.” Nàng im lặng, và ông cho nàng biết ông cần thêm ít thông tin về em gái nàng cũng như tên của các thám tử bên cảnh sát Los Angeles phụ trách vụ này. Họ trò chuyện trong khoảng mười phút, và khi ông đã ghi toàn bộ thông tin mình cần vào một cuốn sổ nhỏ, một chút im lặng lúng túng diễn ra từ đầu này đến đầu kia đường dây điện thoại. “Được rồi,” cuối cùng ông nói. “Chắc vậy đủ rồi. Tôi sẽ gọi cho cô nếu có câu hỏi nào khác hoặc nảy ra điều gì khác.” “Cám ơn ông lần nữa.” “Có gì đó bảo tôi rằng tôi phải cám ơn cô mới đúng. Tôi rất vui nếu như tôi làm được việc này. Tôi chỉ mong là có ích phần nào thôi.” “Ồ, sẽ có ích chứ. Ông đã được trái tim của nó. Nó sẽ dẫn dắt ông.” “Phải,” ông ngập ngừng nói, không thực sự hiểu ý nàng muốn nói gì hoặc tại sao ông lại tán đồng. “Khi được tôi sẽ gọi cho cô.” Ông gác máy và nhìn chăm chăm vào cái điện thoại suốt mấy giây mà ngẫm nghĩ về câu nói cuối cùng của nàng. Rồi một lần nữa ông giở bài báo có ảnh chụp mình. Ông săm soi cặp mắt một hồi lâu. Cuối cùng, ông gấp bài báo lại giấu dưới một số giấy tờ trên bàn. Ông tìm cô gái đeo niềng răng và sau một chốc liền gật gật đầu. Rồi ông tắt đèn. VIỆC MÁU Michael Connelly www.dtv-ebook.com Chương 4 Hồi McCaleb còn làm ở FBI, các nhân viên cùng làm việc với ông gọi vùng Los Angeles này là “điệu tango khó nhảy”. Khó ở chỗ họ cứ luôn phải đi những bước thật tế nhị với cảnh sát địa phương. Đó vừa là chuyện cái tôi lại vừa là chuyện rừng nào cọp nấy. Chó này không đái ở sân nhà chó khác. Nếu không được phép thì không. Chẳng có tay cớm chuyên phá án giết người nào mà không có một cái tôi thật mạnh. Đó là một yêu cầu công việc ngặt nghèo. Để làm được việc, anh phải biết tự trong thâm tâm rằng mình phù hợp với nhiệm vụ, rằng anh giỏi hơn, khôn hơn, khỏe hơn, cừ hơn, tuyệt kỹ hơn và kiên nhẫn hơn đối thủ của anh. Anh phải biết rõ mười mươi rằng anh sẽ thắng. Và nếu có chút hoài nghi gì về chuyện đó thì anh phải rút lui, đi mà phá mấy vụ trộm hoặc tuần tra theo phiên hay làm việc gì đó khác. Vấn đề là ở chỗ, cái tôi của kẻ phá án giết người thường không được kiểm soát, cho đến độ một số thám tử đem cái quan điểm vốn có của mình về đối thủ mà áp luôn những người muốn giúp họ - các điều tra viên cộng sự, nhất là đặc vụ FBI. Không một cảnh sát chuyên án giết người nào đương khi gặp một vụ giậm chân tại chỗ mà lại muốn người ta bảo họ rằng chắc chắn hẳn một người khác - nhất là một đặc vụ liên bang từ Quantico tới - sẽ giúp được họ hoặc làm tốt hơn họ. Kinh nghiệm bản thân cho McCaleb biết rằng khi một cảnh sát chịu thua và cất một vụ án vào kho lạnh, anh ta âm thầm chẳng muốn có ai khác lại lôi ra và phá được vụ đó, qua đấy họ chứng minh rằng anh ta sai. Với tư cách nhân viên FBI, McCaleb hầu như chưa bao giờ được một cảnh sát hàng đầu nào đề nghị tham gia một vụ hay gọi điện xin lời khuyên nhủ. Có chăng thì đó luôn luôn là ý của cấp trên. Cấp trên không quan tâm tới những cái tôi hay tới chuyện tình cảm của ai đó bị tổn thương. Cấp trên quan tâm là quan tâm tới việc phá án và làm sao cho báo cáo thống kê tốt hơn lên. Thế cho nên người ta gọi Cục, rồi thì McCaleb sẽ nhập cuộc và phải tham gia điệu nhảy với tay thám tử chính. Đôi khi đó là một điệu nhảy hài hòa suôn sẻ giữa hai bên đối tác hợp ý nhau. Nhưng thường đó là điệu tango khó nhảy. Người ta giẫm lên ngón chân nhau, những cái tôi bị bầm dập. Đã hơn một lần McCaleb ngờ rằng một tay thám tử mà ông cộng tác đang giấu không tiết lộ thông tin hoặc ngấm ngầm đắc ý khi McCaleb không giúp nhận diện được nghi phạm hay phá được một vụ án. Đó là một phần của lối hành xử nhỏ nhen theo kiểu cát cứ mỗi người một cõi trong giới hành pháp. Đôi khi sự quan tâm đến nạn nhân hay gia đình nạn nhân thậm chí còn không được họ coi là món chính. Nó chỉ là món tráng miệng. Và đôi khi cũng chẳng hề có cả món tráng miệng nào. McCaleb biết khá rõ rằng lần này ông đối mặt với một bản tango khó nhảy với Cảnh sát Los Angeles. Ừ hình như họ đã kẹt cứng trong việc điều tra vụ Gloria Torres và có thể cần ông giúp đỡ, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì. Cái chính là chuyện cát cứ. Đã vậy thậm chí ông không còn làm ở FBI nữa. Ông sẽ vào đấy với người trơn, ngay cả huy hiệu cũng không. Tất cả những gì ông có khi bước vào Cảnh sát Phân khu West Valley vào lúc bảy rưỡi sáng thứ Ba chỉ là cái túi xách bằng da và một gói bánh rán. Ông sẽ phải nhảy một bản tango khó nhảy mà không có nhạc. McCaleb chọn tới vào giờ đó là vì ông biết hầu hết thám tử bắt đầu làm việc sớm để có thể xong việc sớm. Đó là lúc ông có nhiều cơ hội nhất để gặp được hai người đảm nhiệm vụ Gloria Torres ở cơ quan họ. Graciela đã cho ông họ tên hai người này. Arrango và Walters. McCaleb không biết hai người này, nhưng ông từng gặp viên sĩ quan chỉ huy họ là Trung úy Dan Buskirk từ vài năm trước nhân vụ Sát thủ Mật mã. Nhưng đó là một mối quan hệ hời hợt. McCaleb không biết Buskirk nghĩ gì về ông. Tuy nhiên, ông quyết định rằng tốt nhất sẽ theo đúng quy tắc, đầu tiên là gặp Buskirk đã, sau đó thì may ra sẽ gặp Arrango và Walters. Phân khu West Valley nằm trên Phố Owensmouth ở Reseda. Sở cảnh sát mà đặt ở chỗ này thì xem ra hơi lạ. Hầu hết các sở cảnh sát Los Angeles đều đặt ở những khu nóng nhất, nơi cần cảnh sát để mắt tới nhiều nhất. Chúng đều có tường bê tông quây kín cổng vào để ngăn những vụ lái xe vào trong sân mà xả đạn. Nhưng West Valley thì khác. Không có thanh chắn. Sở này thì lại là khung cảnh điền viên, trung lưu, kiểu khu dân cư. Một bên có một thư viện còn bên kia là công viên, lề đường phía trước rất nhiều chỗ đậu xe. Phía bên kia đường là một dãy nhà trệt có mái thoai thoải đúng điệu Thung lũng San Pemando. Sau khi taxi thả McCaleb xuống ở đằng trước, ông bước vào qua hành lang chính, thản nhiên chào một trong các sĩ quan mặc đồng phục ở sau quầy rồi đi về phía hành lang trái. Ông không hề tỏ chút do dự. Ông biết hành lang này dẫn tới văn phòng thám tử bởi hầu hết các phân khu cảnh sát đều được bố trí theo cách đó. Người mặc đồng phục không ngăn McCaleb lại, điều đó khích lệ ông. Có lẽ là vì gói bánh rán ông cầm theo, nhưng ông lại cho điều đó có nghĩa là ông vẫn giữ được ít nhất một phần cái vẻ đó - dáng đi tự tin của một người đeo súng và huy hiệu. Mà cả hai thứ đó ông đều không có. Sau khi vào văn phòng thám tử, ông đến chỗ một quầy khác. Bằng cách tì người vào quầy và cúi về phía trước, ông có thể nhìn về bên trái, dòm qua ô cửa kính gian phòng làm việc nhỏ mà ông biết là của viên trung úy đội trưởng. Phòng trống không. “Tôi giúp gì được ông?” Ông thẳng người dậy nhìn viên cảnh sát trẻ vừa từ một cái bàn gần đó tiến lại quầy tiếp tân. Có lẽ là một học viên được giao nhiệm vụ đứng quầy. Thường thì người ta dùng những người lớn tuổi trong khu dân cư quanh đây tình nguyện dành thời gian làm việc này, hoặc những cảnh sát được giao việc nhẹ vì đang chấn thương hoặc chịu án phạt. “Tôi mong gặp Trung úy Buskirk. Ông ấy có đây không?” “Ông ấy đang họp ở văn phòng Valley. Tôi có thể giúp gì ông không?” Thế nghĩa là Buskirk đang ở chỗ Van Nuys tại văn phòng chỉ huy toàn vùng Valley. Kế hoạch của McCaleb muốn gặp ông ta trước thế là vứt xuống sông xuống bể. Giờ ông có thể đợi Buskirk hoặc ra về, sau quay lại. Nhưng đi đâu? Thư viện ư? Thậm chí gần đây không có cả một quán cà phê nào có thể đi bộ tới. Ông quyết định thử vận may với Arrango và Walters. Ông muốn mọi việc tiếp tục tiến triển. “Thế còn Arrango hay Walters bên ban chuyên án giết người?” Tay cảnh sát liếc nhìn một cái bảng nhựa gắn trên tường, bên trái từ trên xuống có ghi những cái tên, ứng với những hàng ô để đánh dấu với ghi chú CÓ MẶT, VẮNG, cũng như NGHỈ PHÉP và Ở TÒA. Nhưng ứng với mấy cái tên Arrango và Walters không có một ô nào đánh dấu cả. “Để tôi xem,” người tiếp tân nói. “Tên ông là gì?” “Tên tôi là McCaleb, nhưng tên tôi chẳng có nghĩa gì đối với họ đâu. Bảo họ là tôi đến về vụ Gloria Torres.” Nhân viên tiếp tân quay lại bàn mình, bấm ba con số trên điện thoại. Anh ta nói thầm thì. Khi đó McCaleb biết rằng đối với tay nhân viên tiếp tân này, ông không có cái vẻ đó. Trong khoảng nửa phút cuộc gọi chấm dứt và tay tiếp tân chẳng buồn đứng dậy khỏi bàn. “Quay lại, cuối hành lang, cửa đầu tiên bên phải.” McCaleb gật, cầm lấy gói bánh rán để trên bàn rồi làm theo chỉ dẫn. Khi đến gần, ông kẹp cái túi da ở một bên nách để có thể mở cửa. Song giữa lúc ông đang vươn tay ra thì cửa mở. Một người đàn ông mặc sơ mi trắng, thắt cà vạt đứng đó. Súng lục của anh ta giắt trong giáp đeo vai buộc chéo dưới tay phải. Đây là một dấu hiệu xấu. Dân thám tử hiếm khi dùng vũ khí, thám tử chuyên án giết người thì lại càng hiếm. Bất cứ khi nào McCaleb thấy một thám tử chuyên án giết người mang giáp đeo vai thay vì một cái thắt lưng tiện lợi hơn thì ông biết mình đang đối mặt với một cái tôi cực đại. Ông hầu như thở dài thành tiếng. “Ông McCaleb?” “Tôi đây.” “Tôi là Eddie Arrango, tôi có thể làm gì cho anh? Tay ngoài kia nói anh tới đây là về vụ Gloria Torres?” Họ bắt tay nhau sau khi McCaleb vụng về chuyển gói bánh rán sang tay trái. “Đúng vậy.” Gã là người to lớn dềnh dàng, to bề ngang hơn chiều đứng. Người gốc Mỹ La tinh, đầu tròn xoay, tóc đen nhánh lốm đốm bạc. Trạc bốn tư, bốn lăm tuổi, người rắn chắc, không có bụng thòi ra khỏi thắt lung. Rất hợp với cái giáp đeo vai. Gã đứng chắn toàn bộ cửa và chẳng làm cử chỉ nào tỏ ý mời khách vào phòng. “Có nơi nào chúng ta có thể nói về chuyện này không?” “Nói về chuyện gì?” “Tôi muốn xem xét vụ ám sát cô ấy.” Chà, nói thế này mới khéo chửa. McCaleb nghĩ. “Ồ, cục cứt, ra là vậy đó,” Arrango nói. Gã lắc đầu bực tức, liếc nhìn sau lưng rồi lại nhìn McCaleb. “Được rồi,” gã nói, “làm cho xong đi. Anh có mười phút, lâu hơn thế thì tôi tống cổ anh khỏi đây.” Gã xoay người lại, và McCateb theo gã vào một căn phòng đầy chật những bàn giấy và thám tử. Vài người đang làm việc dở ngẩng lên nhìn McCaleb, kẻ không mời mà đến, song hầu hết chẳng buồn để ý. Arrango búng ngón tay để một thám tử ngồi nơi bàn dọc bức tường phía xa phải chú ý. Anh ta đang gọi điện thoại nhưng ngẩng lên thì thấy Arrango ra hiệu với anh ta. Người này gật đầu và giơ một ngón tay lên. Arrango dẫn đường vào một phòng dùng để thẩm vấn, có một cái bàn nhỏ đẩy sát vào một bức tường và ba cái ghế. Nó còn nhỏ hơn một xà lim tù. Gã đóng cửa lại. “Ngồi đi. Một phút nữa cộng sự tôi sẽ đến.” McCaleb ngồi vào ghế đối diện với bàn. Thế nghĩa là Arrango hẳn sẽ ngồi vào ghế bên phải McCaleb hoặc buộc phải lên sau lưng ông để đến ngồi ở ghế bên trái ông. McCaleb muốn gã ngồi bên phải. Đó chỉ là chuyện nhỏ, nhưng là một thủ tục mà ông luôn tuân thủ hồi còn làm nhân viên FBI. Hãy cho người mà ta cùng trò chuyện ngồi ở bên phải. Thế nghĩa là họ nhìn ta từ bên trái và sử dụng phía bên não kém khả năng phân định và phán đoán hơn. Một nhà tâm lý học ở Quantico từng cho cái mẹo này trong khi đứng lớp về kỹ thuật thôi miên và thẩm vấn. McCaleb không chắc liệu lần này có hiệu quả không, nhưng ông muốn giành được bất cứ lợi thế nào có thể giành. Và ông nghĩ với tay Arrango này thì ông cần có một lợi thế. “Anh ăn cái bánh rán nhé?” ông hỏi trong khi Arrango ngồi vào ghế bên phải. “Không, tôi không muốn ăn cái bánh nào của anh hết. Tôi chỉ muốn anh cứ đi đường anh và cút khỏi đường của tôi. Là do bà chị gái phải không? Anh đang làm việc cho mụ chị gái chết tiệt. Đưa tôi xem giấy của anh. Tôi không thể tin rằng mụ ta phí tiền vào…” “Nếu ý anh muốn nói giấy phép hành nghề thì tôi không có.” Arrango gõ gõ mấy ngón tay lên mặt bàn sứt sẹo trong khi ngẫm nghĩ. “Trời ạ, anh biết là ở đây ngột ngạt quá. Lẽ ra không nên để phòng kín mít thế này.” Arrango là một kịch sĩ tồi. Gã thốt ra câu đó như thể đọc lên từ một cái biểu đồ in trên tường. Gã đứng dậy, chỉnh sửa bộ điều nhiệt trên tường cạnh cửa ra vào rồi lại ngồi xuống. McCaleb biết rằng gã vừa mới mở máy thu âm cũng như máy quay phim giấu sau lưới dẫn khí phía trên cửa ra vào. “Trước hết, anh nói anh đang tiến hành điều tra vụ ám sát Gloria Torres, điều đó đúng không?” “Thật ra thì tôi chưa bắt đầu. Tôi phải nói chuyện với anh trước, rồi thì khỏi đi từ đó.” “Nhưng anh đang làm việc cho chị của nạn nhân?” “Graciela Rivers có yêu cầu tôi xem xét vụ này, có thế thật.” “Và anh không có giấy phép của bang California để hành nghề điều tra viên tư, đúng không?” “Đúng.” Cửa mở và người mà Arrango ra hiệu ban nãy bước vào phòng. Không quay lại nhìn cộng sự, Arrango giơ một tay lên, các ngón xòe ra, ý bảo tay kia đừng ngắt ngang. Kẻ mà McCaleb đồ chừng là Walters đứng khoanh tay, tựa vào bức tường cạnh cửa. “Này anh, anh có hiểu rằng hành nghề điều tra viên tư ở bang này mà không có giấy phép là có tội không? Tôi có thể bắt anh vì tội vi phạm pháp luật ngay bây giờ.” “Lấy tiền thiên hạ để hành nghề điều tra viên tư mà không có giấy phép hợp lệ là phạm pháp, ấy là chưa nói vô đạo đức. Phải, điều đó tôi biết.” “Khoan đã. Anh bảo tôi là anh làm việc này không lấy tiền?” “Đúng vậy. Như một người bạn của gia đình.” McCaleb nhanh chóng mệt mỏi với cái kiểu trò chuyện nhảm nhí này, ông chỉ muốn nói nhanh vào sự vụ chính, vì nó ông mới có mặt ở đây. “Thôi nào, liệu chúng ta có thể bỏ qua cái trò nói năng bá láp và tắt quách máy ghi âm với camera đi mà chỉ nói chuyện trong vài phút được không? Ngoài ra, cộng sự của anh đang đè vào máy ghi âm đó. Anh sẽ chẳng ghi được gì hết đâu.” Walters nhảy dựng ra khỏi cái máy điều nhiệt ngay khi Arrango quay lại thì thấy McCaleb nói đúng. “Sao cậu không bảo tớ?” Walters nói với cộng sự. “Im đi.” “Này, ăn bánh rán đi, các anh,” McCaleb nói. “Tôi đến để giúp mà.” Arrango quay lại McCaleb, vẫn hơi bối rối. “Làm thế quái nào anh biết là có ghi âm?” “Bởi vì ở bất cứ văn phòng thám tử nào trong thành phố các anh cũng có cùng một cách bố trí như nhau hết. Mà tôi thì đã tới hầu hết các văn phòng đó rồi. Trước kia tôi vẫn làm ở Cục. Thành thử tôi mới biết.” “FBI á?” Walters hỏi. “Nhân viên FBI về hưu. Graciela Rivers là chỗ quen biết với tôi. Cô ấy nhờ tôi xem xét vụ này, và tôi nói tôi sẽ xem. Tôi muốn giúp.” “Tên anh là gì?” Walters hỏi. Hiển nhiên là Walters hiểu ra mọi việc chậm hơn vì ban nãy anh ta bận nghe điện thoại. McCaleb đứng dậy chìa tay ra. Walters bắt tay McCaleb trong khi ông tự giới thiệu. Walters trẻ hơn Arrango. Da trắng bệch bạc, dáng thanh mảnh. Quần áo anh ta rộng thùng thình, cho thấy tủ quần áo anh ta không hề được bổ sung cho phù hợp từ khi anh ta bị giảm cân nghiêm trọng. Theo chỗ McCaleb thấy thì anh ta không hề mang bao súng. Có lẽ anh ta luôn để súng trong ngăn tủ, chừng nào ra phố mới mang theo. Là loại cớm như McCaleb. Walters biết rằng khẩu súng không làm nên con người. Cộng sự anh ta thì không. “Tôi biết anh,” anh ta nói, trỏ một ngón tay vào McCaleb. “Anh là người đó. Tay chuyên án hàng loạt.” “Cậu nói cái gì vậy hả?” Arrango hỏi. “Thì mấy tay chuyên lập chân dung tội phạm ấy mà. Đội chuyên án giết người hàng loạt. Anh là người mà họ hay cử tới đây, bởi hầu hết các vụ xương nhất toàn là ở đây hết. Anh ấy làm vụ Tên Thắt cổ Đại lộ Hoàng hôn, gì nữa nhỉ, vụ Sát thủ Mật mã, thằng cha đào xác ngoài nghĩa địa, rồi còn một lô vụ ở đây nữa.” Rồi anh ta chú ý trở lại vào McCaleb. “Đúng không?” McCaleb gật. Walters búng mấy ngón tay. """