"
Vị Khách Chủ Nhật - Thomas Kanger & Lê Quang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Tội Phạm]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vị Khách Chủ Nhật - Thomas Kanger & Lê Quang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Tội Phạm]
Ebooks
Nhóm Zalo
VỊ KHÁCH CHỦ NHẬT —★—
Tác giả: Thomas Kanger
Người dịch: Lê Quang
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2008ebook©vctvegroup
Tác giả
Nhà văn, nhà báo Thụy Điển nổi tiếng Thomas Kanger sinh năm 1951, lớn lên ở Uppsala, sau đó sống gần hai mươi năm ở Västerås, hiện sống gần Stockholm, ông bắt đầu làm báo từ năm 1980, mười năm sau chuyển sang làm phóng viên truyền hình, từng là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài.
Thomas Kanger đã viết tổng cộng chín cuốn sách, bao gồm: năm tiểu thuyết trinh thám, một tiểu thuyết kinh dị, một cuốn sách nghiên cứu, hai cuốn sách điều tra. Thomas Kanger cũng hợp tác với Truyền hình Quốc gia Thụy Điển làm phim tài liệu phóng sự điều tra. Đề tài trong tác phẩm của ông thường gây được sự chú ý mạnh mẽ trong dư luận xã hội không chỉ ở Thụy Điển mà cả ở nước ngoài.
Thomas Kanger làm báo và viết văn với niềm tin tạo ra những tác động góp phần loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Với tài năng và tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng của ông, điều này đã phần nào trở thành hiện thực. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, dựng thành phim.
Thomas Kanger từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ, đã đến Việt Nam chín lần để giảng dạy về báo chí. Tiểu thuyết trinh thám Vị khách Chủ nhật mở đầu với một khung cảnh Việt Nam lần đầu được dịch sang tiếng Việt sẽ là những trang sách hấp dẫn giới thiệu với độc giả Việt Nam một nhà văn tài năng đến từ đất nước Thụy Điển xa xôi.
PHI LỘ
Thời của sói
CHƯƠNG 1
Chuyện kể ngày xưa lần đầu tiên sói và tuần lộc gặp nhau. Trông thấy cặp sừng to tướng và đôi mắt đen của tuần lộc, sói thất kinh. “Cậu cần sừng nhọn làm gì vậy?” sói hỏi.
“Cậu nói đúng, sừng tớ nhọn lắm,” tuần lộc đáp. “Nhưng tớ vừa ra đời nên chưa rõ dùng sừng làm việc gì cả.”
Không vì thế mà sói thấy yên tâm.
“Tại sao đôi mắt đen to tướng của cậu lại nhìn tớ chằm chằm vậy?” sói muốn biết.
“Tớ không muốn làm cậu sợ đâu, hay là tớ quay mặt đi vậy nhé,” tuần lộc nói.
Giờ thì đến lượt tuần lộc hỏi sói.
“Thế cậu là ai? Trông thấy răng cậu vàng khè và họng cậu đỏ chót tớ sợ phát run lên.”
Nghe tuần lộc nói sợ mình, sói khẽ vẫy đuôi và gầm gừ: “Hãy liệu hồn khi gặp ta, vì lúc nào ta cũng thấy đói.”
Từ đó trở đi sói là kẻ mạnh hơn và tuần lộc là con mồi của nó.
Ông quen tay thả dây buộc lưỡi câu trượt xuống nước. Trời xám xịt đầy mây, không khí đã ứ hơi mưa, và xung quanh im ắng lạ thường so với biển Baltic thường ngày. Chiếc thuyền con lúc lắc trườn tới một cách thận trọng. Kinh nghiệm cho ông biết thời tiết có thể đột ngột thay đổi. Đang lặng gió đấy mà cũng có thể ầm ào ngay đấy, song chưa bao giờ vì thế mà ông không chèo thuyền ra biển. Ra tận ngoài khơi, cách xa bờ, chỉ ở đó ông mới thấy thanh thản.
Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trồi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và
nhàu nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cầm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ.
Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người ngụ cư khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng đừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam.
Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn. Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không?
CHƯƠNG 2
Sườn núi xanh ngắt. Tiếng ve kêu ran ran. Một con chim lông sặc sỡ lướt sát ngọn cây. Con đường dưới thung lũng ngoằn ngoèo chạy về hướng mặt trời lặn. Mặt biển sáng lấp lánh.
Mình đến đây làm gì nhỉ, Kari Solbakken nghĩ bụng khi leo lên xe buýt sau mấy phút nghỉ đi vệ sinh. Bồn cầu không có nắp ngồi, và dĩ nhiên là cũng chẳng có giấy chùi. Quần áo cô dính nhớp nháp vào người, và không khí thiếu ô xy đến nỗi nếu ẩm ướt thế này mà quẹt được một que diêm thì chắc nó cũng tắt ngấm luôn. Cô có một chỗ ngồi bên cửa sổ, nhưng cửa cũng có mở được đâu. Người đàn ông ngồi cạnh béo quay và choán mất nửa chiếc ghế của cô. Vé cũng rẻ.
Ba tiếng sau xe đến bến Giáp Bát, cô ê ẩm xốc ba lô lên vai. Lập tức, một đám dịch vụ khấp khởi đón chào: “Motorbike?” Kari lục trong túi tìm mẩu giấy. “To here,” cô trả lời. Một thanh niên vươn cổ ra đọc. “Hàng Bạc. Three dollar.” Kari mệt đến nỗi chấp nhận luôn cái giá cắt cổ.
Anh ta phóng rất nhanh và khéo léo tìm cách lách qua dòng xe Honda Wave lũ lượt trên đường. Một thiếu nữ rẽ ra từ trong ngõ trước mặt họ mà chẳng thèm nhìn, nhưng lái xe của Kari vòng tránh một cách điệu nghệ. Đây là đất nước của những người tham gia giao thông đã lẳng lặng thống nhất với nhau là chớ có đâm vào nhau.
Khi họ vòng qua một hồ nước nhỏ, có thể chỉ là một cái đầm con con, người lái xe quay lại nói với cô mà không giảm tốc độ: “Old town. Hanoi old town.” Cô gật đầu và mong anh ta cứ nhìn thẳng phía trước thì hơn là sắm vai hướng dẫn viên du lịch. Sau vài dãy nhà nữa họ dừng xe, anh ta khoát tay về phía cửa và nói: “Hostel.” Bên cạnh cửa treo một tấm biển viết chữ in “LOVE PLANET.” Kari đưa cho người lái xe máy ba dollar mà anh ta xứng đáng kiếm được rồi đi vào nhà. Một phụ nữ ngồi sau quầy lễ tân, cô ta không trả lời khi Kari hỏi phòng trống mà quay lại gỡ một chìa
khóa treo trên móc. “Toilet in coridor. Pay in advan’ plea,” cô ta nói và trao chìa khóa.
Căn phòng nhỏ được trang bị một chiếc giường, bàn và ghế đẩu. Kari duỗi người trên giường. Cô chỉ ước gì đang ở đâu thật xa, cho dù với cô thì ở đây đã là xa lắm rồi. Trước đây không lâu, cô đã ước ao được đến đất này, đến đích của mọi ước mơ. Vào lúc xuất hành ở Stockholm thì chuyến du lịch này được coi là con đường để rốt cuộc cô tìm đến chính mình. Cô muốn rũ bỏ cảm giác bị cô lập giữa thế giới xung quanh. Cô lên đường một mình, nhưng cô muốn gặp những người khả dĩ nhìn thấy mình. Để rồi sẽ hiểu mọi sự rõ hơn. Nhưng chính con người Kari Solbakken thực sự thì lại không chịu hiện ra trong môi trường xa lạ này.
Giường cứng quá, hay vì xương cốt cô đã ê ẩm sẵn? Kari nhỏm dậy và thọc tay vào một ngăn ba lô. Tìm một lúc, cô lôi ra một viên nhỏ màu nâu mềm mềm. Cô bóp vụn nó và nhồi vào tẩu. Cô bước ra trước cửa sổ nhỏ, mở ra và mồi thuốc. Khói ùa vào phổi ru ngủ mọi bồn chồn.
Chiều muộn, cô thức giấc. Mất một lúc lâu cô mới ý thức được mình đang ở đâu. Mọi căn phòng mà cô ở qua đêm trong hai tháng qua trông từa tựa như nhau. Một chiếc khăn mặt cũ sờn để ở cuối giường. Phải dùng nó thôi, vì khăn cô đem theo chưa khô. Cô ra hành lang. Buồng tắm ở tận đầu kia, cạnh phòng vệ sinh chung cho cả tầng. Để nước xối lên da, cô thấy trong người dễ chịu hơn một chút.
Kari chậm rãi lùa bàn chải tóc vào mớ tóc vàng dài chấm vai. Cô nhìn thẳng vào mắt mình trong gương và bắt gặp một ánh nhìn đầy hoang mang, thấy gì cũng sợ. Đó là ánh nhìn của trẻ thơ, song lại thiếu niềm vui ngây thơ khi khám phá. Khuôn mặt với chiếc mũi tẹt trông trẻ hơn tuổi hai lăm. Cặp lông mày thanh thanh vẽ hai vòng cung xinh xắn. Môi trên mỏng, bù lại thì môi dưới rất mọng. Ánh nắng đã nhuốm nâu da mặt vốn nhợt nhạt của cô.
Cô lấy trong ba lô ra một chiếc quần soóc chưa bẩn lắm. Cô ra phố, đi về một hướng mà chính cô cũng không rõ nó dẫn đến đâu. Vỉa hè toàn xe máy đỗ kín, khiến khách bộ hành phải đi xuống lòng đường. Xe cộ như nêm trên phố. Phụ nữ già trẻ nhún nhảy gánh trên vai những thúng hàng nặng trĩu. Trẻ con chạy tới chạy lui, mời những người nước ngoài da trắng
mua bưu thiếp và sách hướng dẫn du lịch của Lonely Planet, chính những người nước ngoài da trắng ưa tìm mua hàng rẻ song không chịu bị coi là túi tiền biết đi.
Một tay cò mồi rao “welcome, good vietnamee food” và Kari bước vào. Cô leo lên một cầu thang hẹp, ra một sân thượng bày mấy cái bàn đơn giản. Khách ở đây toàn một dạng như cô, thành phần Tây ba lô đi tìm sự đồng điệu ở đám đông. Người phục vụ đặt tờ thực đơn lên bàn. Cô gọi nem rán và xúp. Dạ dày cô thắt lại vì đói, cô chỉ mong người ta đưa thức ăn ra thật nhanh.
“Xin chào.”
Cô ngẩng lên. Một gã buộc tóc đuôi ngựa, đeo kính đen. Gã mỉm cười: “Tôi là Jack. Chị cho phép tôi ngồi cùng nhé?”
Kari gật đầu. Gã gọi hai bia, cho mỗi người một ly. “Chị người ở đâu?” gã hỏi và dỡ kính mát xuống.
Năm câu hỏi, Kari nghĩ bụng. Trò quen thuộc của du khách ba lô. Hắn sẽ hỏi mình đã đến đâu rồi, có thích Sài Gòn, Nha Trang, Hội An hay Huế không, còn muốn tới đâu nữa và có bao nhiêu tiền cho chuyến du lịch này. Rồi hắn sẽ tràng giang đại hải thuật lại những trắc trở đã gặp phải dọc đường, và ban phát cho mình những lời khuyên nho nhỏ của giới sành sỏi.
“Người Thụy Điển.”
“Tôi là người Hoa Kỳ,” gã nói và thọc sườn khá bất ngờ: kể ra những kinh nghiệm du lịch của mình. “Tôi chu du đã nửa năm nay. Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Campuchia, và bây giờ tôi đến đây.”
Kari uống một ngụm bia. Who fucking cares? cô nghĩ bụng. Thức ăn được dọn ra.
“Việt Nam là một nơi cực kỳ đặc biệt đối với tôi,” gã nói tiếp. “Really special. Cha tôi đã ở đây. Ngày xưa cơ. Lái máy bay lên thẳng.” Gã nâng hai tay lên ra bộ cầm súng và bắt chước tiếng động. “Hồi tôi còn nhỏ, cha tôi thường kể về Việt Nam. Ông ấy mất rồi, nhưng tôi ước sao cha tôi được trải nghiệm những gì ở đây. Được đón chào ở đây. Không ai trách cứ gì chúng tôi vì chiến tranh cả. Khi người ta đối xử với họ như người giống mình thì mọi việc đều ổn.”
Gã mỉm cười với Kari.
“Cuộc chiến tranh ấy là một sai lầm,” gã nhận xét. “Bao năm trời. Vô số lính tráng của chúng tôi tử trận. Người ta đã tiến hành cuộc chiến một cách sai lầm, không như hôm nay. May mắn cho tôi là cha tôi đã sống sót. Nếu không thì tôi đã không ngồi đây.”
Gã vuốt mớ tóc đuôi ngựa cho thẳng thớm và mỉm cười. “Chị có khoái món nào nữa ngoài bia không?”
“Là món gì vậy?” cô nhìn gã, đã hơi quan tâm hơn.
Gã khum khum bàn tay thành hình tẩu thuốc và đưa lên gần miệng. Viên bi cô mua lại của tay người Úc ở Huế đã dùng hết từ tối qua. “Okay,” cô nói.
Họ trèo xuống cầu thang hẹp. Xe cộ ngoài đường đã bớt chen chúc. Trời nhập nhoạng, chợ rau quả ở góc phố đang thu dọn để đóng. Tựa như ai cũng đang trên đường về nhà. Jack đi trước, không rẽ vào Hàng Bạc nơi cô ở trọ. “Phố này ngày xưa có nhiều nhà làm đồ bạc,” Jack giải thích và lại mỉm cười với cô. Rõ ràng gã rất hài lòng với chính mình. Họ đi sâu vào khu phố cổ. Kari tự hỏi, liệu cô có tìm lại được phòng mình.
Phòng Jack cũng nhỏ, nhưng có một chiếc giường lớn hơn và phòng tắm. Kari ngồi lên giường. Jack ngồi trên ghế, mở túi lấy ra một tẩu thuốc nhỏ và một bọc quấn nylon. Gã mở gói. Một thanh nâu đen hiện ra. Nhiều thế, Kari nghĩ. Chắc phải vài lạng, hoặc đến nửa ký cũng nên. Hắn mua ở đâu ra thế nhỉ? Jack bóp vụn một mẩu giữa ngón cái và ngón trỏ rồi nhồi vào tẩu, châm lửa, rít hai hơi thật sâu và trao cho Kari. Cô hít một hơi dài và ngậm khói trong phổi. Cảm giác khoan khoái nhanh chóng ngấm vào người. Cô rít thêm hơi nữa trước khi trả tẩu cho Jack. Gã cũng hút, rồi ngồi xuống giường cạnh Kari. Gã khom lưng, áp môi mình lên miệng Kari và thổi khói vào miệng cô. Cô hít vào rồi nằm xuống. Gã đưa cô tẩu thuốc, và trong khi cô hút thì gã mở khuy quần cô. Kari mặc đồ rộng do trời nóng nên gã không khó khăn gì luồn tay vào giữa hai đùi cô.
“Không,” cô nói. “Ah, come on,” gã đáp lại và thọc tay mạnh hơn. Cô cố kéo tay gã ra, nhưng gã khỏe hơn. “Em cũng muốn cơ mà,” gã nói. “Anh biết là em cũng muốn.” Tay gã ấn mạnh hơn. Cô biết gã khỏe hơn mình.
Xong xuôi, Jack đứng dậy và cài khuy quần mình lại. Gã không nhìn cô. Cô quay mặt vào tường. “Nếu em không muốn thì em đã hét ầm lên,”
gã nói, “nhưng em có làm thế đâu.”
Khi cô tỉnh dậy thì gã đã đi mất. Phải mấy giây sau ký ức mới hồi lại. Đầu cô nặng trĩu. Mình ở đây bao lâu rồi nhỉ? Cô đứng dậy và tìm quần áo. Quần ngoài nằm trên nền nhà, quần lót tận cuối giường. Cô mặc quần áo, ra đến cửa còn quay lại nhìn lần nữa. Chiếc túi nằm dưới đất, cạnh chân giường. Cô chạy vội đến và thọc tay vào túi. Gói nylon nằm lấp dưới mấy thứ quần áo. Cô giấu nó dưới áo sơ mi rồi chạy hộc tốc ra phố. Trời đã tối, không có bóng người nào ngoài đường. Cô thử nhớ lại mình đã đi đường nào tới đây, nhưng phố nào trông cũng giống nhau. Cô nghe thấy chính mình khẽ rên rỉ như một con thú. Cô đi qua các phố, hết dãy nhà này đến dãy nhà kia.
Đột nhiên cô thấy tấm biển: “LOVE PLANET.” Nó hiện ra như từ cõi ma. Cô thở phào và đập cửa ầm ầm. Một lát sau người phụ nữ ban chiều ở quầy lễ tân đi ra và lẳng lặng mở cửa cho cô vào nhà.
Sáng sớm hôm sau, Kari xin gọi nhờ điện thoại. Cô quay một số máy địa phương của phòng du lịch bên Thụy Điển đưa cho. Nhân viên đại diện hàng không cho biết chỉ còn vài chỗ trống trong chuyến bay hôm nay, nhưng đổi chuyến mất một trăm dollar. Kari đếm lại tiền và đồng ý. Cô chặn một chiếc taxi ngoài phố. “How much to the airport?” “Fifteen dollar.” “I have twelve.” Lái xe mở cửa trước bên phải.
Sau mười bảy tiếng đồng hồ và hai lần đỗ giữa chừng phi cơ đáp xuống Arlanda. Kari cố hết sức mới đi được vào phòng đợi. Cô có cảm giác dơ dáy từ trong ra ngoài, và tưởng như ai cũng chằm chằm nhìn mình. Gói nylon dưới áo nóng hừng hực trên da bụng. Cô đi theo dòng người, không biết phải đi đường nào để ra ngoài, lướt qua một loạt cửa hiệu, đi xuống một thang cuốn và qua những cửa kính tự động đóng mở. Trong một phòng lớn có băng chuyền chở hành lý xoay vòng. Cô nhìn quanh. Trên một màn hình treo sát trần nhà hiện chữ “Paris” là điểm dừng giữa chừng thứ hai. Cô đứng vào cạnh băng chuyền. Phía xa xa có một tấm biển treo trên tường:
“Hải quan.” Kari thấy đầu gối bủn rủn. “Có chuyện gì đó, thưa bà?” một người vận com-lê hỏi. “Phòng vệ sinh ở đâu?” cô yếu ớt hỏi. Người đàn ông chỉ đường. Cô chạy hộc tốc ra đó nhưng chưa kịp đến bồn cầu thì đã nôn thốc tháo.
Khi ra đến bên ngoài, cô lấy ba lô trên băng chuyền - món hành lý cuối cùng đơn độc trôi trên băng. Cô đi về phía cửa ra, nơi có treo biển “Hành khách từ khối EU.” Cô giữ chiếc ba lô bằng cả hai tay như một tấm khiên trước ngực và nhìn thẳng. Hai người mặc cảnh phục đang trò chuyện sau bàn, trông rõ là nhân viên hải quan, song có vẻ như họ không để ý khi cô đi ngang. Cánh cửa lùa trượt sang một bên, đằng kia là những người đứng đợi. Một bước nữa thôi, và cô sẽ đến chỗ họ, sẽ an toàn.
“Xin lỗi!”
Cô nghe tiếng nói sau lưng. Cô quay lại và thấy hai người đàn ông mặc cảnh phục, một người mỉm cười thân thiện.
“Chị có thể quay lại được không? Chỉ kiểm tra một chút thôi.”
CHƯƠNG 3
Một phụ nữ vội vã bước trên đường phố Oslo. Cô không chạy, nhưng đi khá nhanh như đang trốn ai. Cô muốn bỏ lại mối bức xúc đằng sau. Vừa mới xong thôi, cô vào một cửa hiệu và ngắm hàng. Một nhân viên bảo vệ của cửa hiệu bám theo cô. Anh ta cũng chẳng cố gắng giữ ý tứ nữa, ra đứng ngay gần cô và nhìn chằm chằm, không để ý gì đến các khách hàng khác.
Chuyện ấy thì cô biết rồi. Thế đấy, khi sống ở một nước da trắng mà mình thì đen. Mặc dù cô đã sống ngót hai chục năm ở đất này. Mặc dù cô thạo ngôn ngữ ở đây, và mặc dù từ khi học xong cô luôn tự kiếm tiền nuôi sống mình. Cô hòa mình vào mọi chuẩn mực của xứ này, hành xử như những đồng bào mới của cô mong đợi và đòi hỏi. Thậm chí cả vị chính khách trông như một linh mục Mỹ chuyên giảng đạo trên tivi cũng hài lòng với cô. Đó chính là người vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc người nhập cư cũng sống theo các giá trị Na Uy.
Cô biết, nhưng sẽ không bao giờ làm quen nổi chuyện ấy. Vì vậy mà cô vội vã đi trên phố. Đã có lần cô suy nghĩ có nên quay về không. Nhưng, về đâu? Ở quê hương cũ của mình cô sẽ chỉ như một khách du lịch. Ngoài ra còn có những nghĩa vụ mà cô không thể dễ dàng lẩn tránh. Và các mối ràng buộc khác. Dạo này thậm chí cô còn đi trượt tuyết.
Lúc về tới nhà và tra chìa khóa vào ổ thì cô đã bình tâm trở lại. Đây là nhà cô. Cô bước qua ngưỡng cửa, cúi xuống nhặt thư từ trên sàn. Hai phong thư quảng cáo. Một hóa đơn. Và một bức thư, địa chỉ viết tay. Trắng, nhỏ, dấu trên tem không rõ.
Tên cô và địa chỉ viết bằng mực xanh. Không thấy tên người gửi. Chỉ có tên cô và địa chỉ.
PHẦN I
Đếm ngược
CHƯƠNG 4
Không thể để thế này mãi được. Mình phải giật lại thế chủ động. Elina Wiik đăm đăm ngó ra cửa sổ phòng làm việc của cô trong Sở Cảnh sát. Trước mặt cô là một chồng hồ sơ của các vụ án bế tắc. Dường như mỗi vụ là một bản cáo trạng dành cho cô.
Tám tháng đã trôi qua, kể từ khi Elina bắt được kẻ đã sát hại Annika Lilja và Jamal Al-Sharif. Một ngày trước lễ Giáng sinh 2003. Thoạt tiên, cô còn xử sự chừng mực, làm ra vẻ không có gì xảy ra, tựa như cô vẫn là một cảnh sát bình thường không gặp xáo động nào trong công việc. Mạng sống bị đe dọa không làm cô bận tâm vì nói cho cùng đây không phải lần đầu. Thái độ hiềm tị trong Sở Cảnh sát chẳng động chạm đến cô. Trạng thái tâm lý của cô vững như đá. Thêm một điểm sáng trong lý lịch công tác, thêm chút chú ý của giới truyền thông, có thế thôi. Nhưng sau đó thì cô chỉnh đốn quyết liệt cuộc sống riêng tư của mình. Rồi tất cả vuột khỏi tay cô. Cũng có thể cô tự thả tay ra, nhân nhượng, phó mặc số phận. Như một chiếc máy bay, chỉ có bộ phận lái tự động giữ cô không lạc khỏi phi đạo.
Cũng chẳng có gì khổ ải cả. Thậm chí còn thú vị. Đôi khi cô còn khoan khoái tận hưởng. Cô luôn hăng hái mở những cánh cửa nội tâm, nhưng lần nào cũng thấy sợ. Mùa xuân và mùa hạ như biển động, mà cô thì vẫn chưa tìm được mảnh đất chắc chắn dưới chân.
Giờ thì mùa hạ qua rồi, đã sắp tháng Chín mà trời còn ấm lắm. Như thường lệ, cô dậy sớm, dạo này cô còn khó ngủ hơn ngày xưa. Sáng nào cô cũng đi bộ. Chừng nửa tiếng, đôi khi lâu hơn. Đó là quãng thời gian đẹp nhất trong ngày. Bảy rưỡi cô mở khóa văn phòng và ngồi xuống bàn. Chắc hôm nay lại là một ngày như mọi ngày thôi. Cô biết là phải chấn chỉnh mình vào khuôn khổ, nhưng làm thế nào đây?
Có tiếng gõ cửa khe khẽ. Cô gọi: “Mời vào!” John Rosén mở cửa. Ông chỉ huy nhóm điều tra các vụ án mạng, một đơn vị đặc nhiệm chuyên đảm nhận những vụ sát nhân hóc búa trong tỉnh. Ông khép cửa sau lưng và im lặng. Elina nhận thấy ông có điều gì nặng nề. “Chị đã biết gì chưa?” ông hỏi. Elina lắc đầu. Cô chưa nghe gì về chuyện John đang chuẩn bị kể ra. Một vụ giết người mới xảy ra chăng? Elina thấy chộn rộn trong người.
“Chuyện Kärnlund. Anh ấy bị nhồi máu cơ tim.”
Elina ấp hai tay lên ngực.
“Qua cơn nguy kịch rồi,” Rosén tiếp, “nhưng tôi nghĩ là tình hình khá trầm trọng.”
Trong buổi giao ban lúc tám giờ, Egon Jönsson có tin cụ thể hơn. Việc xảy ra khoảng mười giờ tối qua. Oskar Kärnlund đang ngồi xem tivi thì ngã vật ra. Xe cấp cứu đến kịp thời, nhờ vậy mà ông được cứu sống, nhưng thể trạng hiện tại khá bi quan.
Họ góp lại được 280 cu-ron để mua một bó hoa. Mười bốn nhân viên của bộ phận hình sự có mặt. Họ quyết định Jönsson, người chỉ huy kế nhiệm Kärnlund, và Elina Wiik, phụ nữ duy nhất trong đơn vị, khẩn trương đến ngay bệnh viện. Elina nhận lời đi mua hoa.
Khi cô ra khỏi Sở Cảnh sát, John Rosén chạy đuổi kịp. “Tôi đi với chị ra hàng hoa,” ông nói.
Họ đi qua cầu vào trung tâm, tìm đến hiệu bán hoa trong một ngôi nhà La Mã cổ đã được sửa sang lại. Buổi sáng mát lạnh, không khí trong trẻo đến ngất ngây đúng như một ngày đầu thu. Nhưng những khuôn mặt thỏa mãn của người đi đường khiến Elina bực bội. Họ không biết vừa có gì xảy ra hay sao?
“Khủng khiếp quá, tôi không biết nói sao nữa,” cô nói. “Anh ấy mới về hưu có nửa năm, không thể được phép ra đi như thế. Bất công quá.” “Kärnlund không dễ dàng ra đi như thế đâu,” Rosén đáp. “Chứng nhồi máu không giết người ta một cách đơn giản. Anh ấy sẽ qua khỏi thôi.” Elina lắc đầu. “Tôi đến đó ngay. Tôi sẽ ngồi lì ở đó cho đến hết cơn nguy kịch.”
“Đúng thế,” Rosén đồng tình, “anh ấy mến chị.”
“Oskar vẫn luôn luôn tin tưởng tôi.”
“Tôi biết.”
“Vì vậy lúc này tôi cũng muốn tin tưởng vào anh ấy.”
Egon Jönsson cho rằng đến bệnh viện lúc này là quá sớm. Họ sẽ làm vướng chân mọi người và biết đâu quấy rầy cả vợ Kärnlund, vì có thể bà muốn ở đó một mình cạnh chồng. Nhưng rồi ông phải nhượng bộ trước quyết tâm của Elina. Họ cùng đến khu điều trị tích cực của khoa tim và hỏi phòng của Kärnlund. Dưới chiếc mặt nạ dưỡng khí, Oskar Kärnlund nằm trên giường, im lìm và không nhận biết gì xung quanh, chỉ có máy đo điện tâm đồ bên cạnh cho thấy ông còn sống. Vera Kärnlund ngồi buồn bã trên ghế. Trông bà sọm đi. Bà lẳng lặng bắt tay khách khi họ vào phòng.
Ba ngày sau, một mình Elina Wiik ngồi bên giường Oskar Kärnlund. Vera Kärnlund trực bên chồng hai ngày hai đêm, thỉnh thoảng mới chợp mắt một chút và rốt cuộc cũng phải về nhà để khỏi hại đến sức khỏe chính mình. Mỗi ngày Elina ghé qua hai bận, ở lại đó nửa tiếng hay một tiếng và cũng chẳng làm được gì hơn là chờ đợi. Hôm nay cô hứa với Vera sẽ ở lại lâu hơn.
Oskar Kärnlund nằm trên giường, nặng nề và nhợt nhạt. Trông ông như ngủ, song đột nhiên ông mở bừng mắt và quay đầu sang phía Elina. “Chị vẫn ngồi đấy à?”
“Anh vẫn biết là tôi ngồi đây hay sao?”
“Tất nhiên, hôm qua tôi đã thấy chị. Lúc buổi tối, đúng không nào?” “Anh đã tai qua nạn khỏi rồi đấy, Oskar ạ. Các bác sĩ cho rằng anh sẽ bình phục trở lại, anh đã biết chưa?”
Ông mỉm cười yếu ớt.
“Tôi nhận ra là lần đầu tiên chị gọi tôi với cái tên Oskar.” “Thế hả, ngôn ngữ cảnh sát là thế mà, toàn gọi nhau bằng tên họ thôi. Đối với tôi xưa nay anh vẫn là Kärnlund.”
“Lúc này thì tôi cũng chẳng ra lệnh được cho chính mình. Khủng khiếp thật.”
Elina muốn đặt tay cô vào tay ông, muốn nói rằng mọi việc rồi sẽ ổn trở lại, nhưng Oskar đã quay mặt đi và nhắm mắt.
Hai hôm sau, khi Elina đến thăm thì ông đã ngồi xe lăn trong phòng tiếp khách của khoa. “Vera kể lại là ngày nào chị cũng vào thăm mấy bận trong khi tôi hôn mê. Rất cám ơn chị.”
“Mọi người trong sở đều lo cho anh. Tình hình bây giờ thế nào?” “Bác sĩ nói là tôi cần nối tắt mạch vành. Chắc tôi còn phải ở đây một thời gian nữa. Họ nói là còn phải theo dõi khá lâu. Vài tuần nữa sẽ phẫu thuật. Sau đó thì mọi sự lại trở lại như trước. Tôi lại là Kärnlund của ngày xưa thôi. Cứ làm như ngày xưa hay ho lắm ấy.”
Ông nói tiếp trước khi Elina kịp đáp lại.
“Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi nhớ đến Vera, Nils, và hai đứa con gái của nó. Hồi Nils còn bé thực ra tôi chỉ chúi mũi vào công việc. Vera chăm sóc nó. Đôi khi tôi ước được sống lại ngày ấy. Nhưng giờ thì muộn rồi.”
“Còn hai đứa cháu gái nữa chứ? Anh không dành nhiều thời gian hơn cho chúng được hay sao?”
“Đúng thế thật. Khi cái chết đến gần thì cả cuộc đời diễu qua trước mắt người ta lần nữa. Người ta sẽ tính sổ với chính mình, không hề khoan nhượng. Sẽ thành thực đến mức nghiệt ngã. Những ngày ấy… không dễ vượt lên mà sống tiếp.”
“Anh sẽ không chết đâu,” Elina nói và nhận ngay ra đã phản ứng sai. Oskar Kärnlund nói về cuộc sống chứ không nói về cái chết. “Anh đừng nghiêm khắc quá với chính mình,” cô nói.
“Chị biết không,” ông suy ngẫm và nhìn thống thiết vào mắt cô, tựa như con người thám tử trong ông lại thức dậy, “tôi nghĩ đến gia đình mình, nhưng một khuôn mặt khác cứ chen vào.”
“Mặt ai cơ?”
“Mặt một người phụ nữ.”
“.. .mà anh đã từng yêu?” Elina hấp tấp hỏi, không hề nghĩ ngợi. “Không, mà đó là một vụ án. Lâu rồi. Khoảng đầu những năm tám mươi, tôi cũng không nhớ rõ nữa. Chuyện xoay quanh một cô gái trẻ được
tìm thấy trong rừng, đâu đó ở Norrbotten. Một đồng nghiệp trên đó chỉ huy công tác điều tra. Nhưng cô ấy có địa chỉ ở Västerås, do đó tôi cũng tham dự một chút ngoài lề vào vụ này.”
“Cụ thể ra sao?”
“Bị siết cổ, nếu tôi nhớ đúng. Xác chết đã phân hủy mạnh vì nằm ngoài rừng mấy tháng trời. Chúng tôi đã thẩm vấn tất cả những ai thân sơ quen biết cô ta nhưng không tìm thấy được lấy dù chỉ một nghi can. Vụ này rồi cũng không phá được.”
“Và tại sao đúng hôm nay anh lại nhớ đến cô ta?”
Ông gượng cười, mặt méo xệch.
“Có lẽ vì đó là một thất bại nữa trong đời tôi.”
John Rosén nhỏm dậy đi ra mở cửa khi nghe Elina gõ. Ở Sở Cảnh sát ông là người duy nhất không gọi “Mời vào!” khi có người đến văn phòng mình. Thậm chí ông còn kéo ghế lại cho Elina ngồi. Tất cả nhân viên ở Sở Cảnh sát đều biết và quý trọng tính lịch sự của Rosén.
“Anh ấy ra sao?”
“Khá hơn. Ít nhất là về thể trạng. Nhưng có vẻ chán nản.” “Chắc chắn không ai cười nổi khi được nhắc nhở một cách tàn bạo như vậy về sự hữu hạn của cuộc sống.”
“Hai chúng tôi chuyện trò rất lâu. Thậm chí anh ấy còn kể lại một vụ giết người ngày xưa.”
“Lại nhớ công việc hay sao thế?”
“Tôi cũng nghĩ thế. Hồi mùa đông, khi bắt đầu nghỉ việc thì anh ấy vui mừng rằng rốt cuộc từ nay sẽ có nhiều thì giờ cho bản thân. Ít nhất là anh ấy vẫn quả quyết thế. Nhưng anh biết Kärnlund rồi đấy, một cảnh sát từ đầu đến chân. Hết việc là các đồng nghiệp cũng biến mất, có lẽ anh ấy cô đơn lắm.”
“Anh ấy kể về vụ nào?”
“Vụ giết một phụ nữ tên là Ylva Malmberg. Cô ta còn trẻ. Tôi chưa nghe nói đến vụ ấy lần nào, nhưng việc này cũng xưa lắm rồi, trước khi tôi
về đây. Thực tế là không tìm ra thủ phạm. Tôi nghĩ… hay là xem lại vụ này.”
John Rosén mỉm cười. “Để động viên cho Kärnlund vui lên?” “Vâng, tại sao không? Cô ta sống ở thành phố này, nhưng vụ án lại xảy ra ở Norrbotten. Hồ sơ ở đâu nhỉ?”
“Nếu không ai làm vụ này nữa thì chắc hồ sơ ở trong kho lưu trữ. Anh ấy nói là ở Norrbotten à?”
Ông quay người và rút một tệp giấy từ giá tài liệu.
“Hồ sơ nhất định để ở Piteå. Cảnh sát ở đó quản lý kho lưu trữ hồ sơ của toàn tỉnh. Chị cứ ghi lại số điện thoại đi.”
Elina lấy chiếc bút bi trên bàn. “Cám ơn,” cô nói và đứng dậy. “Elina,” Rosén nói. “Chị có thiện chí làm Kärnlund khuây khỏa là tốt, nhưng chú ý đừng làm việc đó trong giờ hành chính. Vụ này không phải của chúng ta, chị biết nội quy công tác rồi đấy. Nếu hiện tại không điều tra vụ giết người nào thì tất cả đều phải giải quyết những chuyện hằng ngày.” “Không có gì trên đời có thể làm tôi quên hiến toàn bộ sức lực điều tra mấy vụ ăn trộm và đánh nhau đang chất đống trên bàn tôi đâu,” Elina trả lời.
“Vậy thì đừng quên,” Rosén đáp lại.
Cô thận trọng đóng cửa phòng Rosén. Ông ấy không nói lấy lệ đâu, cô nghĩ. Cô chỉ muốn quay lại hỏi ông định ám chỉ gì, nhưng rồi nghĩ lại. Thực ra cô cũng chẳng muốn biết.
CHƯƠNG 5
“Có một bưu kiện gửi cho chị. Ở chỗ ông quản lý nhà.” Chỉ hai ngày sau, cảnh sát Piteå đã gửi hồ sơ đến. Tập tài liệu gói kỹ trong thùng bìa cứng. Mới nhấc lên, Elina đoán là phải đến mười cân, và khuân về đến phòng thì cô chắc là nó nặng gấp đôi. Cô lấy một tay gạt giấy tờ trên bàn sang một bên và đặt phịch thùng giấy xuống, dùng dao rọc thư xẻ băng dính và mở ra. Trên cùng là bức thư mang chữ ký của thám tử hình sự ở Piteå.
“Mọi đồ vật thu được ở hiện trường như thư từ, tư trang v.v. vẫn để ở chỗ cảnh sát Piteå. Các mẫu sinh học hiện ở Phòng Kỹ thuật Hình sự Quốc gia Linköping. Ảnh gửi kèm trong gói.”
Như một thông báo từ ngoài hành tinh vậy, Elina nghĩ bụng. Cô lật sơ qua chồng giấy và tính nhẩm: khoảng ba nghìn trang.
Không thể coi đây là một việc vặt giết thời gian, cô nghĩ và nhìn đồng hồ. Mười giờ. Một giờ chiều cô phải thẩm vấn một người phụ nữ đã phát đơn tố cáo chồng lần thứ ba vì tội bạo hành, và trước đó cô phải đọc hồ sơ của vụ ấy nằm trong khay tài liệu trên bàn. Cô lại nhìn đồng hồ. Chồng hồ sơ từ Piteå thú vị hơn. Lần đầu tiên từ sau mùa đông, cô cảm thấy hồi hộp khi bắt tay vào một nhiệm vụ. Cô ngả người dựa vào lưng ghế và bắt đầu mở tập tài liệu nằm trên cùng.
Nạn nhân tên là Ylva Marieanne Malmberg, sinh ngày 30/9/1954, cư trú tại Sandgärdsgatan ở Västerås, từ 1977 đến 1979 là nữ sinh trường Tärna Folkhögskola, theo học môn hỗ trợ kinh tế và nghệ thuật thủ công.
Elina lục trong đống giấy tìm một bức ảnh của cô ta để giữ hình ảnh ấy trước mắt trong khi đọc tiếp. Cô lôi ra được một chiếc cặp nhựa vàng úa. Ả
Ảnh đựng trong đó cũng hơi ngả màu. Bức ảnh nằm trên cùng chụp ba thiếu nữ đang cười, hay đó đã là đàn bà rồi? Cô tự hỏi, ai trong số đó là Ylva Malmberg? Trên bức ảnh tiếp theo là một phụ nữ ngồi trước máy chữ và cười về phía ống kính máy ảnh. Mặt sau có chữ “Y. Malmberg” chắc do một điều tra viên viết. Cô ta có mái tóc dài và thẳng, không sẫm không nhạt, và mặc một chiếc áo len đan. Rất xinh, Elina nghĩ. Nhưng cũng chẳng nổi bật lắm.
Trong một tờ rơi có in hình tất cả các học sinh trường Tärna Folkhögskola niên khóa 1978, Ylva Malmberg quỳ bên cạnh bốn phụ nữ khác. Đằng sau họ là ba cậu bé đứng lom khom, hay đó cũng là đàn ông rồi? Một người trong số họ tì tay lên vai Ylva Malmberg. Anh ta có mái tóc dài vàng hoe, mặc áo len cổ lọ và trông rất trẻ con.
Cô lại nhìn đồng hồ lần nữa. Gần mười rưỡi rồi. Cô thở dài đặt mấy tấm ảnh qua một bên và vớ lấy khay đựng tài liệu trên mặt bàn.
Người đàn bà ngồi trước mặt Elina thiếu hai chiếc răng cửa và trên mắt phải có một vết bầm đỏ lựng, mắt vằn tia máu. Elina đã từng thấy mặt bà ta trước đây một năm. Với lý do giống hệt. Chồng bà đã nhận án tù và bị cấm không được lại gần vợ, nhưng bà lại tự nguyện quay về với ông ta. Hệt như bà đã từng làm sau lần tuyên án thứ nhất.
“Lần này tôi bỏ hắn,” bà nói. “Cho hắn vào chảo dầu địa ngục đi. Chị nhìn răng tôi mà xem.”
“Tại sao bà lại quay về với ông ấy lần vừa rồi?” Elina hỏi, mặc dù cô đã biết câu trả lời.
“Hắn hứa là chuyện đó không bao giờ xảy ra nữa. Tôi biết là tôi ngu quá. Lần nào hắn chả hứa như thế.”
“Lần tuyên án đầu tiên vào năm 1999,” Elina giải thích, “nghĩa là cách đây năm năm. Hai ông bà đã thành hôn được mười bốn năm. Lần đầu tiên ông ấy đánh bà là khi nào?”
“Trong tuần trăng mật. Chúng tôi ở ngoài đảo Canarias và tôi chưa bao giờ thấy hắn say như thế.”
Bà rướn người về phía Elina. “Lần đó tôi không tố cáo hắn, nhưng sau đó mấy năm thì có. Hắn chối bay mọi chuyện và cảnh sát đình chỉ truy tố.
ẳ
Đơn giản là chả ai động lòng cả. Rồi thì chẳng biết tại sao tôi không thoát ra được. Nếu người ta tống hắn vào tù luôn từ lần đầu thì mọi chuyện đã không đi xa thế này.”
Elina gật đầu. Cô chỉ còn cách công nhận bà ta có lý.
Sau khi bà ta đi khỏi và Elina ghi xong biên bản, cô lại lấy tập hồ sơ Piteå ra và đọc hết buổi chiều. Càng đọc cô càng thấy không sao dứt ra được, trí óc cô hoạt động như được điều khiển từ xa. Bất giác cô bắt đầu dò những kẽ hở trong điều tra, tìm sai sót của các đồng nghiệp. Hai người trượt tuyết đã phát hiện ra Ylva Marieanne Malmberg gần Jäkkvik, một địa phương nhỏ cách biên giới Na Uy chừng tám chục cây số. Trong hồ sơ có một bản sao địa đồ, và hiện trường được đánh dấu chữ thập, rất gần đường tản bộ Kungsleden chạy qua Jäkkvik. Elina chưa bao giờ đến khu núi cao ấy, vì vậy cô không mường tượng ra được hình ảnh địa phương đó.
Theo kết luận của pháp y, xác chết đã nằm đó tối thiểu nửa năm, gần như bị lấp hẳn dưới tuyết khi được phát hiện. Elina lấy ngón tay dò từng dòng trong bản giám định pháp y, cố tìm ra mạch liên quan và chuyển các khái niệm chuyên môn ra thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn.
Đột nhiên cô rụt ngón tay lại như chạm phải lửa. Hai chân nạn nhân… có vết răng nanh của thú, những dấu vết rất đặc trưng. Sói đã gặm vào bắp chân Ylva Malmberg khi cô đã chết.
Cô đặt tờ giấy xuống. Tay run run. Mấy phút sau cô đọc tiếp. Cô ta bị siết cổ, đúng như Kärnlund đã nói. Rất lâu sau mới tìm thấy xác nên người ta đã tổng hợp nhiều lời khai khác nhau với những đồ vật tìm được tại hiện trường để ấn định ngày chết. Đó là ngày 1/10/1979. Kärnlund nói không đúng, vụ giết người không xảy ra hồi những năm tám mươi, mà trong năm 1979… cách đây gần hai mươi lăm năm. Elina liếc lên cuốn lịch trên bàn. Thứ Sáu, ngày 3/9/2004. Cô tính ngược lại. Hai mươi bảy ngày nữa là vụ này đủ hai mươi lăm năm, sau đó thì hết thời hiệu khiếu kiện. Đúng ba tuần sáu ngày nữa kẻ sát nhân sẽ nghiễm nhiên trắng tội. Nếu trước đó hắn không bị sa lưới.
CHƯƠNG 6
Ngày thứ Bảy của Elina bắt đầu ở trường võ bằng hai tiếng tập luyện và một cuộc đấu tay đôi quyết liệt với Sadegh. Cô chỉ biết anh qua giờ tập karate. Khi cô chuyển về Västerås, cách đây gần mười một năm, anh chưa là thành viên câu lạc bộ. Như cô nhớ lại, mấy năm sau anh mới bắt đầu vào học ở đây. Từ hai năm nay anh có đai đen. Elina thầm công nhận anh hơn cô về kỹ thuật, cho dù cô có nhiều kinh nghiệm hơn cũng như đã thi đấu nhiều năm hơn. Cô tự an ủi là phong độ mình không tốt, trong mùa xuân và mùa hè năm nay quả là có nhiều chuyện quan trọng hơn tập võ.
Nhưng hôm nay mọi việc đều trôi chảy. Lúc tối cô không nhấp lấy một ngụm rượu vang, đó là tối thứ Sáu đầu tiên từ lâu lắm rồi cô không uống giọt nào. Năm nay quả thực khác hẳn.
Sau khi quẳng chiếc túi thể thao vào nhà ở Lidmansvägen, Elina đi dạo dọc phố Stora Gatan. Cô đến gặp Susanne, bạn gái thân nhất của mình để cùng đi chọn vải làm rèm cửa cho vô số cửa sổ trong căn nhà mới của gia đình Norman ở Stallhagen. Đó là một ngôi biệt thự, hoàn toàn xứng với một cặp luật sư đang chắc chắn leo lên bậc thang công danh.
Thời tiết đã chuyển, nghe chừng sắp có mưa, và trời cũng lạnh đi. Khách hàng mua bán cuối tuần ở trung tâm đã phải khoác đồ mùa thu. Susanne trầm lặng hơn mọi hôm. Sau khi mua vải xong và ghé vào tiệm cà phê, Elina hỏi có vấn đề gì.
“Chẳng có gì. Thực ra mọi chuyện đều ổn. Ngôi nhà tuyệt vời và Emilie khỏe.”
“Còn cậu thì không?”
“Emilie sắp lên bốn. Kỳ thực tớ có cảm giác là Johan và tớ nên… nhưng chuyện sex thì… tớ đã quên chữ ấy có nghĩa gì.”
“Lần cuối bọn mình nói về chuyện ấy, cậu có nói là tất cả đều ổn cả mà.”
“Bọn tớ tối mắt từ sáng đến đêm lo toan đủ thứ chuyện gia đình nên quên cả sex. Ban đầu thì cũng không hề hấn gì. Có lẽ khi vừa có một đứa con thì mọi chuyện phải như thế. Mùa đông vừa rồi bọn tớ mua ngôi nhà này và tớ có khối việc phải làm. Còn bây giờ thì… tớ thấy quá ít.”
“Thế Johan nói gì? Hai người có bàn bạc với nhau về chuyện ấy không?”
“Không, anh ấy tránh. Nhưng tớ phải nói ra chuyện này. Tớ không biết nên làm gì. Tối nay cậu có ở nhà không? Nếu được thì tớ muốn ghé qua chỗ cậu.”
“Tất nhiên là được. Chúng mình sẽ nói chuyện này. Và cậu sẽ được nhận vài lời khuyên tử tế của một chuyên gia hôn nhân xuất sắc.” Susanne cười. “Có thể học từ lỗi lầm chứ,” cô nói. “Kể cho tớ nghe cả tuần vừa rồi cậu làm gì đi.”
“Ít nhất thì tớ cũng không phạm thêm lỗi lầm nào mới. Tối qua tớ đọc một hồ sơ vụ án cũ. Nghe chối tai quá hả, tớ biết rồi! Nhưng các tối thứ Sáu của tớ vui vẻ như thế đấy.”
“Chắc hồ sơ đó phải thú vị lắm nhỉ.”
“Thực ra vì Kärnlund mà tớ đọc hồ sơ đó thôi. Hình như ông ấy muốn bàn về vụ này, đó là cách ông ấy bám vào cuộc sống.”
“Liệu ông ấy có qua khỏi không?”
“Các bác sĩ rất lạc quan.”
“Hồ sơ về vụ nào vậy?”
“Vụ một cô Ylva Marieanne Malmberg nào đó bị giết cách đây hai mươi tư năm mười một tháng. Vụ này chưa bao giờ phá được.” “Thật hả?” Susanne nói và cười phá lên. “Tớ hiểu rồi. Thoạt tiên Kärnlund bập vào, còn bây giờ cậu tiếp tục. Không đầy một tháng nữa là hết thời hiệu khiếu kiện. Lại một thử thách thích hợp cho siêu thám tử của xứ Västerås này!”
“Vụ này thậm chí không phải là việc của bọn tớ,” Elina gạt đi. “Mặc dù cô ta từng sống ở đây, nhưng xác lại tìm thấy ở Norrbotton, ở đâu đó tận Arjeplog. Hồi ấy cảnh sát ở Avidsjaur điều tra vụ này.”
“Nhưng họ đã bỏ vụ này lâu rồi, đúng không nào? Kể cho cô bạn luật sư thân thiết của cậu nghe cả câu chuyện đi!”
“Cuộc hỏi cung cuối cùng cách đây gần hai mươi năm. Từ đó trở đi hình như chẳng ai đả động gì nữa thì phải.”
“Cẩu thả à?”
“Không, mà ngược lại. Tớ có ấn tượng là họ làm việc khá kỹ lưỡng. Tớ đã đi tìm xem có khiếm khuyết nào không, có lẽ đó là thói quen của những người làm nghề này, nhưng tạm thời chưa phát hiện ra điều gì. Cho đến giờ tớ mới lật qua vài trang thôi, trong đó còn có hàng nghìn trang tài liệu và biên bản thẩm vấn mà tớ chưa đọc đến.”
“Thế vụ này cụ thể ra sao?”
“Cô ta hai mươi lăm tuổi. Chính xác hơn là hai mươi lăm tuổi và một ngày. Có nghĩa là phải tóm được thủ phạm đúng vào sinh nhật thứ năm mươi của nạn nhân.”
Elina ngó quanh để chắc chắn không ai lắng nghe họ nói chuyện, xét cho cùng thì công tác điều tra đâu đã chấm dứt. Trước đây hai năm tình cờ cô chạm trán một tên sát nhân ở Vasapark. Dĩ nhiên cô không hề mảy may linh cảm được hắn là ai và đã làm gì. Xét về lý thuyết thì bất cứ người nào ở độ tuổi thích hợp đều có thể là kẻ đã giết Ylva Malmberg. Cô ghé sát tai bạn và nói khẽ hơn.
“Cô ấy từng cư trú ở Västerås, nhưng mùa hè và thu năm 1979 cô ấy đến chỗ nhà bà nội ở Jäkkvik, một làng nhỏ trên tận miền Bắc. Đầu tháng Năm năm sau người ta tìm thấy xác cô ấy ở trên núi, bị siết cổ đến chết.”
Elina đắn đo không biết có nên nhắc đến chi tiết Ylva Malmberg bị chó sói cắn xé hay không. “Xác nằm trên đó hơn nửa năm, nhưng không ai bận tâm vì vắng cô ấy cả. Cơ thể có vết sói cắn.”
Susanne nhăn mặt rùng mình. “Thế cô ấy là ai?” cô hỏi.
“Tớ không biết. Nhưng có vài cuốn nhật ký và lịch của cô ấy. Nếu có thì giờ tớ sẽ đọc. Chủ yếu vì sở thích cá nhân thôi.”
“Công việc của cậu chưa đủ chuyện bí mật chắc?”
“Đúng vậy, nhưng...”
“Nhưng gì nào?”
“Chuyện này khác.”
“Khác ở đâu?”
Hai người bạn gái nhìn nhau. Susanne đợi.
“Nạn nhân vụ sát hại này có một điểm đặc biệt,” Elina nói. “Trước khi chết vài tháng cô ấy đã sinh hạ một đứa con. Nhưng không ai tìm thấy đứa con.”
CHƯƠNG 7
Kari Solbakken đăm đăm nhìn lên trần nhà. Cô nằm ngửa trên giường. Và đã nằm như thế gần một tuần. Trong trí tưởng tượng của cô luôn luôn hiện lên một hình ảnh duy nhất. Nhân viên hải quan đề nghị cô đặt túi lên bàn.
“Chị có gì phải khai báo hải quan không?” nhân viên đã chặn cô lại hỏi. “Không. Tôi chỉ có một cây thuốc lá thôi.”
“Chị đi từ đâu?”
“Từ Paris.”
Nhân viên kia ngắm nghía chiếc túi của cô. “Túi này là sản phẩm của Hà Nội.”
“Vâng, đúng thế, tôi cũng đi từ Hà Nội nhưng đỗ giữa chừng ở Paris.” Một nhân viên mở túi ra lục lọi, sau đó gọi cô đi theo. Cô phải ngồi xuống đợi mấy phút. Một nữ nhân viên hải quan dắt chó đến. Con chó kéo căng sợi dây và hướng vào bụng Kari sủa ầm ĩ.
“Chúng tôi phải khám người chứ,” nữ nhân viên nói.
“Đề nghị chị cởi quần áo được không?”
“Tôi không khỏe. Tôi ốm. Tôi vừa bị nôn.”
“Nhanh thôi mà.”
Kari mở khuy và cởi quần, kéo sơ mi qua đầu.
“Cả quần lót nữa,” nữ nhân viên nói và đeo găng tay nylon vào. Sau khi khám xong người, Kari được phép mặc quần áo.
“Chị đợi ở đây.”
Hai nam nhân viên lại quay vào phòng. Một người ngồi đối diện Kari và nhìn thẳng vào mắt cô. “Chó của chúng tôi sủa rất rõ về hướng chị. Có nghĩa là bằng cách nào đó, nhất định chị đã đụng chạm đến ma túy. Có phải thế không?”
“Không,” Kari cố nén để khỏi bật khóc.
“Chị có thể giải thích tại sao con chó lại phản ứng như thế không?” Kari lắc đầu. Ông ta ghi tên và địa chỉ Kari và so với hộ chiếu. “Chị có thể đi được rồi,” ông nói. Kari xin một cốc nước.
Cô cũng không nhớ đã về đến căn hộ của mình ở Gröndal như thế nào nữa. Mấy ngày đầu cô gần như tê liệt vì sợ con chó có thể phát hiện ra dấu vết của bọc ma túy mà cô đã vứt vào bồn cầu. Bây giờ, sáu ngày đã trôi qua, dần dần cô dám hy vọng là sẽ chẳng có gì xảy ra nữa. Vì nếu không thì nhất định người ta đã đến tìm cô, cảnh sát đã đón cô đi rồi. Kari đứng dậy đi vào buồng tắm. Mặt cô sưng húp, màu nâu rám nắng của hai tháng Việt Nam hầu như đã bay biến. Cô trèo lên cân, 48 cân. Sụt hơn năm cân. Jack, cô nghĩ thầm, biết đâu hắn tìm ra mình để trả thù. Nhưng hắn tìm làm sao được? Mình có nói tên cho hắn biết đâu nhỉ? Có thể hắn tìm ở các nhà trọ và lấy được tên tuổi và số hộ chiếu của mình? Nhưng chẳng lẽ vì thế mà cất công sang tận Stockholm?
Cô quan sát nét mặt mình trong gương. Nỗi sợ hãi hằn trên mặt cô như đóng dấu. Ký ức về Jack và chuyện hắn làm với cô khiến cô trào nước mắt. Sự bất lực của cô còn tệ hơn hành vi của hắn. Và bây giờ cô lại còn sợ hắn trả thù mình!
Cô gieo mình xuống chiếc giường trong góc căn hộ một phòng. Quần áo quăng bừa trên sàn, chiếc bàn nhỏ trong bếp chất đầy chén đĩa bẩn. Cô còn một nghìn cu-ron trong túi từ chỗ tiền kiếm được ở cửa hàng 7- ELEVEN ngày trước. Món tiền này cô gửi vào tài khoản trước khi lên đường. Cô còn có một sổ tiết kiệm nữa nhưng không nhớ trong đó có bao nhiêu tiền. Chắc còn vài nghìn? Đủ tiêu trong vài tuần, hoặc cả một tháng. Sau đó thì sao? Cô không có việc làm, không có ai để gọi điện và trò chuyện. Chẳng ai có thể giúp cô. Cơn đau đầu hành hạ dữ hơn. Cô chỉ muốn hút một điếu. Trong một giây quẫn bách cô hối hận đã ném gói cần sa ăn trộm vào nhà vệ sinh.
Kari giật bắn mình mỗi khi chuông reo ngoài cửa. Nỗi sợ hãi đổ ập lên cô như một đợt sóng. Cô nhòm qua lỗ khóa. Anh hàng xóm tầng trên. Cô không quen anh, chỉ đôi khi thấy mặt. Cô mở hé cửa.
“Xin chào,” anh nói. “Tôi thấy chị đã quay về. Tôi tên là Robert và ở…”
“Anh muốn gì?” Kari hỏi xẵng.
Anh ta lùi một bước. “Tôi không định làm phiền chị.”
“Vậy anh muốn gì?”
“Tôi tưởng là… có thể chị muốn ăn chút gì chăng? Mẹ tôi có đem cho tôi một nồi xúp gà, nhiều lắm, có thể...”
Cô im lặng một lát và chằm chằm nhìn anh ta. Trông anh ngây thơ và trẻ hơn cô một chút. “Được rồi, mấy phút nữa tôi lên.” Nói xong cô đóng sập cửa lại trước mũi anh.
Họ im lặng ngồi bên bàn ăn. Ăn xong Kari đẩy đĩa sang một bên. “Bình thường anh làm gì?”
“Chẳng có mấy việc mà làm. Thỉnh thoảng tôi giúp các bạn, làm đủ mọi thứ. Kiếm được khối tiền. Ngoài ra tôi chơi trong một ban nhạc.” “Có biểu diễn ở đâu không?”
“Nếu có dịp. Hè vừa rồi ở Söderorts Hiphoparena chẳng hạn. Một festival cho các ban nhạc ở vùng này, chị có biết không?” “Ai muốn cũng được phép tham gia. Tôi biết.”
Robert gật đầu. “Chưa kiếm được xu nào. Nhưng bọn tôi có nhiều kế hoạch lớn. Với lại tôi còn vẽ nữa. Vẽ nghệ thuật.”
“Vẽ trên tường ngoài kia chứ gì?”
Anh im lặng một lúc, và cô không nhịn được cười.
“Tôi nói sai à? Anh thất nghiệp và vẽ graffiti.”
Anh mỉm cười. “Chị vừa cười đấy. Mọi khi chị có vẻ chán chường.” Cô đứng dậy và ra khỏi bếp. “Cảm ơn anh mời ăn. Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau.”
“Đúng không?” anh hỏi trong khi cô xỏ chân vào giày.
“Đúng gì?”
“Chị mắc chứng trầm cảm?”
“Cớ gì tôi phải chọn anh để tâm sự?”
“Vì tôi hỏi. Ngoài tôi ra đã có ai hỏi chị chưa?”
Cô quay lại nhìn anh. “Không,” cô trả lời. “Ngoài anh ra chưa ai hỏi cả.”
“Tôi cũng cô đơn lắm. Tôi có một cậu bạn thân, nhưng ban ngày nó đi làm, đúng là một thằng phản phúc. Chị không có bố mẹ anh em gì cả sao?” Cô lắc đầu.
“Ông bà già nhà tôi ly dị,” Robert nói. “Tôi cũng không rõ bố tôi biến đâu. Nhưng mẹ tôi toàn nấu ăn cho tôi. Mẹ tôi nghĩ là tôi sẽ không ăn uống tử tế nếu không ai nấu cho. Bà già hay lắm. Cho tôi cả tiền nhà. Bố mẹ chị mất rồi à?”
“Mẹ mất cách đây tám năm, bố mất khi tôi còn bé. Hai người đã có tuổi khi nhận tôi.”
“Nhận nghĩa là sao?”
“Hai người nhận tôi làm con nuôi.”
“Bây giờ hai ông bà mất rồi, và chị không có anh em gì?” Kari lại lắc đầu.
“Bố mẹ đẻ của chị là ai?”
“Mẹ, à, mẹ nuôi tôi không biết. Hoặc không muốn cho tôi biết.” “Nếu có điều kiện thì chị có muốn biết không?”
Cô nhìn anh. Đôi mắt xanh dương, vẻ mặt không có nét gì gọi là tính toán.
“Ngày nào tôi cũng nói chuyện với mẹ.”
“Với mẹ chị? Qua điện thoại? Nhưng chị vừa nói là chị không biết…” Kari lắc đầu. “Đầu óc anh không được sáng sủa cho lắm, anh có biết thế không?”
Cô nhận thấy anh lúng túng vì lỡ mồm và câu hỏi của cô đã xúc phạm anh.
“Anh có rượu vang không?” cô hỏi. “Có thì hay.”
“Cửa hàng rượu còn mở,” anh nói. “Để tôi chạy ù ra đó.” Anh đi giày, đứng trong khung cửa còn quay lại.
“Tôi chỉ còn hai chục cu-ron,” anh nói. “Ở đó cũng không ăn trộm được. Tôi đã thử một lần và bị tóm ngay. Chị có tiền không?”
CHƯƠNG 8
Mãi khuya cô mới vào giường. Họ đã uống rượu vang và nói chuyện rất lâu.
Trời mưa. Cô lại gần cửa sổ và nhìn ra ngoài. Đường phố vắng tanh, chỉ thấy một dãy ô tô đỗ. Hình như chẳng ai làm theo lời khuyên “Thì giờ là vàng ngọc” cả. Cô cũng ghét câu ấy, trong giọng khuyên bảo vui vẻ hàm chứa nét gì khó chịu.
Cuộc chuyện trò ít đả động đến cô, chủ yếu xoay quanh bạn gái cô. Nhưng trong tâm trạng vỡ mộng của Susanne cô lại nhận ra chính mình, tuy nhiên theo một chiều hướng khác. Elina miễn cưỡng kể lại tình cảnh của mình trong mùa xuân và mùa hè vừa rồi. Chỉ nói qua loa. Elina vốn không ưa đem chuyện riêng ra kể với bất kỳ ai, bất kể thân sơ mức nào. Susanne lắng nghe và không mấy khi hé môi. Elina không đoán được chính xác phản ứng của bạn mình.
Sáng nay Elina định đi ô tô ra đảo Ängsö hay đảo Björnö để dạo chơi thật đã đời, và thích nhất là đi cùng Nadia, cô bạn thân thứ hai. Nhưng thấy trời mưa cô lại thôi. Cô nằm xuống giường và lại bắt đầu đọc hồ sơ điều tra trong vụ Ylva Marieanne Malmberg. Cô đã cầm tập hồ sơ về nhà, dĩ nhiên biết chuyện đó là trái quy định. Nhưng chẳng phải Rosén đã nói là cô không được làm việc này trong giờ hành chính hay sao? Nói cho cùng, chẳng ai có thể trách cô quan tâm đến một vụ án ngày xưa trong thời gian rảnh rỗi của mình cả. Nếu trong Chủ nhật này đọc xong hồ sơ thì buổi tối cô sẽ đến thăm Kärnlund. Bảy giờ là giờ thăm bệnh nhân. Lúc đó cũng có chuyện để nói, và nhất định Kärnlund sẽ vui mừng vì có tin mới.
Như thường lệ, hồ sơ chủ yếu bao gồm các biên bản hỏi cung. Elina lấy sổ và bút ra, ghi lại tên và số căn cước của những người cô thấy quan trọng. Khi cầm bút vào tay cô chợt ý thức rằng mình đã bắt đầu nghiêm túc cày xới đống tài liệu này. Trí óc cô bắt đầu khởi động. Susanne hôm qua nói đúng. Cô đọc hồ sơ cho mình chứ chẳng phải vì Kärnlund. Hai mươi
lăm ngày nữa. Bắt đầu đếm ngược được rồi. Kỳ thực đây là một chuyện viển vông, chưa ai làm nổi một vụ tương tự bao giờ. Nhưng Ylva Marieanne Malmberg đã lôi cô vào cuộc.
Thoạt tiên cô nghiên cứu các dữ kiện đã được sáng tỏ trong vụ này. Ylva Malmberg lớn lên ở Uppsala, tại quận Sala Backe mới xây hồi đó. Bố mẹ cô ly hôn khi cô mới mười bốn tuổi. Cô và anh trai Roger ở lại với mẹ trong căn hộ cũ. Theo lời Roger, Ylva quan hệ với những “phần tử không tưởng cánh tả.” Còn một năm trước khi hết bậc trung học thì cô bỏ dở và chuyển về nông thôn sống cùng với một nhóm bạn ở Björklinge. Cô sống ở đó đến giữa những năm bảy mươi, Roger không nhớ chính xác năm nào.
Elina lục tìm trong hồ sơ biên bản hỏi cung các thành viên khác trong nhóm. Có ba người cả thảy, hai phụ nữ và một đàn ông. Cô gạt các biên bản ấy sang một bên và tìm xem Ylva rời nhóm hôm nào.
Đó là thời điểm 1975. Sau đó Ylva Malmberg chuyển đến ở trong một ngôi nhà cũ nát gần Ringgatan, Uppsala. Hè 1976, cô cùng hai bạn gái đi tàu xuyên lục địa Interrail sang châu Âu, trong chuyến du hành này cuối cùng họ sang tận Ấn Độ. Elina xem lại, cả hai cô bạn gái đều đã được thẩm vấn.
Tháng Ba 1977, Ylva quay về Uppsala và làm việc trong một tiệm giặt là. Mùa thu năm ấy cô theo học một khóa tại trường Tärna Folkhögskola gần Sala, thuộc tỉnh Västerås. Ban đầu cô ở luôn trong trường, nhưng hết năm thứ nhất, cô chuyển về Västerås, thuê một căn hộ đơn ở Sandgärdsgatan. Không rõ vì lý do nào mà Ylva chuyển nhà, vì sau đó hằng ngày cô phải đến Sala để học.
Elina tìm tiếp. Trong hồ sơ có cả biên bản thẩm vấn hàng xóm và người quen ở Västerås. Khoảng một nửa các cuộc thẩm vấn do Kärnlund tiến hành.
Tháng Ba 1979, Ylva Malmberg thôi học ở trường Folkhögskola. Vào thời điểm ấy cô đã mang thai những tháng cuối cùng. Ngày 2/5/1979, cô sinh một con gái tại bệnh viện trung tâm ở Västerås. Đứa trẻ nặng 3,34 cân, dài 49 phân và được đặt tên Carolina.
Ylva Marieanne Malmberg cự tuyệt không khai tên bố đứa bé. Sau khi xảy ra vụ sát hại người ta đã điều tra rất kỹ mà không tìm ra danh tính người bố. Ylva không hề hé môi nói tên người đó với bất kỳ những ai sau
này bị hỏi cung. Và cũng không ai rõ lý do tại sao cô phải giữ bí mật cái tên ấy.
Sau khi rời trường Tärna Folkhögskola, có vẻ như Ylva chỉ sống bằng số tiền trợ cấp sinh nở ít ỏi và tiền trẻ con được phát. Ngoài ra cô còn nhận được tiền từ quỹ tạm ứng tiền nuôi con của địa phương Västerås, vì bố đứa trẻ không trả tiền. Cuối tháng Năm 1979, nhân viên phòng thanh thiếu niên địa phương đến thăm căn hộ của cô tại Sandgärdsgatan và hài lòng với tình trạng đứa trẻ được chăm sóc cũng như tình trạng nhà ở.
Đầu mùa hè, có lẽ vào mấy ngày đầu tiên của tháng Bảy, Ylva Marieanne Malmberg cùng con gái rời Västerås đi Jäkkvik. Họ chuyển đến một căn nhà nhỏ của bà nội cô ngày trước, nơi bố cô lớn lên. Không ai rõ vì sao cô chuyển tới đó. Bà cô ngày ấy còn sống, nhưng đang ở một trại dưỡng lão và khá lẫn cẫn khi bị thẩm vấn. Bà không thể trả lời câu hỏi vì sao cháu bà đột ngột muốn đến ở nhà bà. Nhà bà nằm cách xa các ngôi nhà khác trong ngôi làng nhỏ hơn một cây số. Ông chủ hiệu thực phẩm ở làng là người năng gặp Ylva nhất. Ông cho biết là hàng tuần Ylva đẩy xe nôi vài lần đến cửa hàng ông. Cửa hàng này kiêm dịch vụ bưu điện, và ở đây Ylva cũng nhận mấy bức thư ít ỏi chuyển tiếp từ Västerås đến.
Elina lục biên bản xác định dấu vết. Người ta tìm thấy trong nhà khoảng một chục lá thư. Chủ yếu là thư quảng cáo các sản phẩm cho trẻ em. Nhưng cũng có một bưu thiếp ký tên Mia gửi đi từ Mallorca vào ngày cuối cùng của tháng Bảy 1979. Ngoài ra còn có một phong bì rỗng không đề tên người gửi, đóng dấu bưu điện hôm 15/9/1979. Mọi thư từ đều đề người nhận là Ylva Malmberg, Sandgärdsgatan, Västerås.
Ở đâu đó có ghi chú rằng Ylva đề nghị chuyển thư từ của mình tới hòm thư lưu ở Arjeplog. Từ điểm đó, thư được chuyển tiếp tới hiệu thực phẩm ở Jäkkvik.
Sau ngày 1/10 không ai đến lấy thư của cô nữa, do đó ông chủ hiệu thực phẩm gửi ngược lại Arjeplog các bưu phẩm nhận được. Ở đó thư được lưu lại cho đến khi cảnh sát tịch biên hồi tháng Năm 1980.
Tất cả dân làng chỉ biết Ylva sơ sơ. Ít nhất là có một lần cô đến Arjeplog, địa phương lớn nhất trong vùng và cách chỗ cô ở chừng 100 cây số về phía đất liền. Trong dịp đó cô xin trợ cấp của Sở Xã hội, với lý do là phí tổn đi từ Västerås rất đắt đỏ. Sở Xã hội chấp thuận khoản trợ cấp một lần là 370 cu-ron, nhưng nhân viên Sở Xã hội bắt Ylva yêu cầu cô phải đưa
con gái đến bác sĩ. Hôm đó là thứ Hai sau cuối tuần của ngày Hạ chí. Chẳng ai thấy có gì bất thường ở người mẹ trẻ và đứa con gái cả. Không người nào ở Västerås, ở trường Tärna Folkhögskola hay Uppsala biết chuyện Ylva Malmberg chuyển nhà đến Jäkkvik. Không người nào tìm hiểu xem cô sống ra sao. Không người nào biết gì về cô khi xác cô được tìm thấy.
Không người nào. Trừ kẻ sát nhân.
Ông chủ hiệu thực phẩm thấy mặt Ylva lần cuối cùng vào cuối tháng Chín 1979, không nhớ chính xác vào ngày nào. Người ta tìm được trong nhà cô tờ nhật báo Norra Västerbotten của ngày 26/9, có lẽ Ylva mua ở cửa hàng trong làng. Ông chủ hiệu thực phẩm đoán là cô lại chuyển về miền Nam nên không đến mua hàng nữa. Một người đi câu cho là hôm 22/9 có thấy Ylva, đó là hôm ông ta rời Jäkkvik để đi câu ở nơi khác. Một khách hàng khác đi mua thực phẩm tin rằng đã gặp cô vào nửa sau tháng Chín. Anh ta nhớ rõ vì hôm đó lần đầu tiên có tuyết. Theo nha khí tượng, tuyết rơi lần đầu tiên vào ngày 23/9.
Nhân chứng duy nhất khai lệch với những người khác về thời gian là một cụ già bảy mươi ba tuổi ở làng Semisjaur-Njarg của người tộc Sami. Vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười, cụ gặp một cô gái bên vách núi. Elina theo dõi lời miêu tả từa tựa như trong Kinh thánh một cách khá thú vị. Trả lời câu hỏi về ngày tháng chính xác, cụ già người Sami ấy nói: “Hôm đó là ngày thiêng.” Không phải ngày cuối cùng của tháng thứ chín mà cũng chẳng phải ngày thứ hai của tháng thứ mười, mà đúng vào ngày thứ nhất. Viên cảnh sát thẩm vấn không sao hỏi ra được cái gì thiêng vào hôm ấy, nhưng nhận xét là cụ già có vẻ rất chắc chắn về câu trả lời của mình.
Từ đó trở đi không ai còn nhìn thấy Ylva nữa. Do vậy người ta ấn định ngày chết là ngày 1/10/1979.
Ngày 4/5/1980, hai người Göteborg trượt tuyết dọc Kungsleden. Mặt trời lên và tuyết bắt đầu tan. Một người mò vào rừng tìm chỗ đi vệ sinh và vấp phải một vật mà thoạt tiên tưởng là xác một con thú, sau này xác định là Ylva Marieanne Malmberg.
Xác chết ban đầu được chôn xuống tuyết, nhưng lộ ra một phần.
Kết quả khám nghiệm khá kinh hoàng của bên pháp y cho thấy một con thú rừng trong khi đi tìm mồi đã bới xác chết lên. Các chuyên gia ngạc nhiên khi nghe nói chắc chắn đó là một con sói, vì chó sói ở vùng này được coi là đã bị tuyệt chủng.
Hồi thập niên 1980 người ta cho rằng ở Thụy Điển không còn chó sói nữa. Phải chăng đó là một con sói từ Na Uy chạy qua biên giới? Mặc dù xác chết bị cắn xé tơi tả, người ta vẫn xác định được chắc chắn nguyên nhân chết: bị siết cổ.
“Bằng tay hay bằng thòng lọng?” Elina ghi chú, và bực mình vì không thấy nêu rõ chi tiết.
Chuyên gia pháp y đã tìm thấy vết tinh dịch trong âm đạo của Ylva. Chi tiết này không nhất thiết chứng tỏ trước khi chết Ylva bị bạo hành tình dục, nhưng nếu có thì cũng khó xác định được vì xác cô đã phân hủy quá mạnh.
Elina đoán “các mẫu sinh học” mà viên thám tử hình sự kiệm lời ở Piteå nhắc đến trong thư gửi kèm là mẫu tinh dịch sót lại và còn được giữ ở Linköping. Cô cố lần ngược chiều diễn biến. Trước đây hai mươi lăm năm chưa có xét nghiệm ADN. Liệu số lượng và chất lượng có đủ để phân tích không?
Có lẽ mình bắt đầu đi tìm một nghi phạm được rồi, cô nghĩ. Ở thời điểm phát hiện ra xác chết, ngôi nhà của bà nội cô khóa cửa và không có dấu hiệu gì chứng tỏ là đã xảy ra xung đột bạo lực, cho dù các phòng rất bừa bộn. Không thể biết được sự bừa bộn đó là hậu quả của cuộc cãi cọ trước khi gây án hay đã lâu rồi không ai dọn dẹp. Mà cũng chẳng ai nói được vụ giết người xảy ra ở đâu.
Còn đứa trẻ… Elina không dám tưởng tượng tiếp những gì có thể xảy ra với con gái Ylva. Cô biết những ý nghĩ ấy sẽ ám ảnh cô khi cô đọc tiếp, khi cô ngủ thiếp đi, khi cô thức dậy sáng sớm, hoặc khi cô thấy một phụ nữ đẩy xe nôi ngoài phố. Cô nghỉ một chút, vào bếp đun nước trong lò vi sóng. Với tách cà phê tan trong tay cô lại quay về với tập hồ sơ.
Chiếc xe nôi đứng đằng sau nhà. Có vẻ như không thiếu thứ đồ dùng dành cho trẻ con nào, mặc dù không thấy nêu trong nhà có chai sữa, ga giường, tã lót hay các đồ tương tự hay không. Chỉ có một điều chắc chắn:
không thấy đứa bé đâu. Carolina, năm tháng tuổi khi mạng sống của mẹ nó bị cướp đi, đã biến mất, không để lại tăm tích.
Cuộc truy tầm được tiến hành rốt ráo. Có thể nói, mỗi hòn đá trong vùng đều được lật tung lên. Nhưng Carolina trước sau vẫn biến mất tăm. Người ta nghi sát thủ đã chôn đứa bé, nhưng không tìm thấy một cái xẻng hay dấu vết đào bới nào. Mặt khác, như một cảnh sát thản nhiên nhận định, vùng núi này cũng quá mênh mông. Một phỏng đoán khác cho rằng sát thủ muốn bắt cóc đứa bé để đem cho một phụ nữ vô sinh và người này đã giấu cô bé đi.
Một tin đồn nhanh chóng lan tỏa và đầu độc bầu không khí của cả vùng đất này: người Sami đã ăn trộm đứa bé. Chẳng phải một ông già người Sami là người cuối cùng nhìn thấy mẹ nó còn sống đó sao? Elina đẩy đống giấy qua một bên và tì cằm lên tay.
Rất có thể đây là một vụ giết người không theo kế hoạch trước. Một gã trong vùng hay một người tình cờ đi qua nhận thấy cô gái sống một mình và đến chỗ cô. Rồi cưỡng ép cô. Trong cơn mê muội bạo lực hắn đã giết cô.
Nhưng Elina suy nghĩ theo một hướng khác. Ylva Malmberg đã cự tuyệt không khai tên bố đứa trẻ. Tại sao vậy? Từ đó có thể suy ra là cô sợ, hoặc có mối nguy hiểm đe dọa. Do đó, cô lui về một nơi hoang vắng mà không báo cho ai biết, tựa như chạy trốn vậy. Rốt cuộc cô bị giết. Liệu đó có phải là một xâu chuỗi tình cờ của nhiều sự kiện? Ngoài ra, trong thực tế phụ nữ thường bị giết bởi những người đàn ông thân quen.
Rõ ràng các điều tra viên cũng suy luận theo hướng tương tự. Họ đã bỏ nhiều công sức để tìm ra người cha giấu mặt của đứa trẻ như truy tìm sát thủ. Song vô số vụ thẩm vấn các đàn ông gần gũi với Ylva Malmberg đều vô ích, người ta không phát hiện ra người cha tiềm năng nào cả. Xét nghiệm nhóm máu cũng không tiến hành được vì không rõ nhóm máu của đứa trẻ.
Cho đến thời điểm đó Elina không nhận ra các điều tra viên mắc phải khiếm khuyết nào, nhưng cô cũng mới chỉ đọc một ít trong các biên bản hỏi cung. Cô chưa xem nhật ký và lịch của Ylva Marieanne Malmberg. Cô
buộc phải tự thú rằng, bây giờ bỏ công đi tìm một mối quan hệ nào đó chưa từng được ai phát hiện ra thì quả là một việc phi thực tế. Song cô không nén nổi cảm giác rằng cô, chính cô có năng khiếu nhận ra các dấu hiệu vô hình và đọc được giữa hai dòng chữ, chính cô hiểu ra những điều không thể hiểu được và phát hiện những gì người khác để lọt.
Cô đứng dậy, đi giày và mặc áo khoác, rồi tắt đèn hành lang. Đã bảy giờ kém mười lăm, đến giờ đi thăm Kärnlund. Cô đi xuống cầu thang và thả cho suy nghĩ bay bổng: tìm ra người bố thì sẽ tìm được sát thủ.
CHƯƠNG 9
Nắp hòm thư đập lạch cạch, Kari Solbakken nhỏm dậy trên giường. Một chiếc phong bì có ô địa chỉ nằm trên sàn nhà. Cô quay mặt sau và đọc địa chỉ người gửi: Cảnh sát hình sự Stockholm.
Sống lưng cô lạnh toát. Cô run rẩy xé phong bì và nhón bức thư ra xem. Trang thư gập đôi. Cô gắng gượng giở tờ giấy ra: “Đúng 9 giờ 30 thứ Ba, ngày 7/9, yêu cầu cô đến bộ phận phòng chống ma túy của cảnh sát hình sự để thẩm vấn.”
Cô ngồi phịch xuống giường và gục đầu xuống. Trong tư thế ấy, cô ngồi im mấy phút liền. Lá thư tuột khỏi tay cô, rơi xuống nền nhà. Cô đứng dậy, đi ra hành lang và mặc áo khoác.
Trời mưa. Cô đi vơ vẩn hai tiếng đồng hồ ngoài phố. Khi quay về nhà, cô lại giường và nhặt lá thư lên. Cô tìm được trong bếp một cây bút và viết chữ to tướng đè lên tờ thông báo của cảnh sát: “TA PHẢI CHẤN CHỈNH CUỘC ĐỜI TA.”
Có tiếng chuông. Cô rúm người. Khi mở cửa ra, cô thấy Robert giơ một tờ giấy trước mặt mình.
“Tôi mới nhận được sáng nay đấy,” anh nói.
Kari rướn cổ ra đọc.
“Giấy triệu tập của tòa án. Anh lại làm trò gì rồi? Lại vẽ graffiti bậy bạ chứ gì?”
Anh mở miệng toan trả lời nhưng Kari đã cắt ngang.
“Đứng ngẩn ra đấy làm gì. Vào nhà đi.”
Anh cởi giày và đi vào bếp. Cô đặt nước lên lò.
“Họ đã tóm được tôi ở tàu điện ngầm,” anh nói. “Một cậu bạn và tôi đang trang trí cho một toa xe. Và tôi cũng ăn trộm vài thứ. Một cái áo khoác và đồ ăn ở cửa hàng Åhléns. Tôi còn lái xe không có bằng nữa chứ, bằng bị
ẳ
tịch thu mấy tháng trước rồi. Chẳng hiểu người ta nghĩ gì? Đơn giản là đôi khi tôi phải đi xe. Đâu phải vì không có bằng mà tôi đi kém hơn đâu.” “Anh có ô tô à?”
“Một cái xe cũ rích. Nhưng chạy ngon.”
“Liệu họ sẽ phạt anh bao nhiêu?”
“Thằng cha luật sư mà người ta cử cho tôi nói là tôi sẽ bị tù hai tháng vì tôi phạm pháp không phải lần đầu. Rồi còn phải bồi thường cho toa tàu điện ngầm nữa chứ. Kinh khủng quá đi mất.”
Cô lấy trong tủ ra hai cái tách. Robert ngồi xuống bàn.
“Gì thế này?” Anh đọc lá thư trên bàn trước khi cô kịp cản. “Ma túy à? Chị buôn bán ma túy hay làm gì?”
Cô giật lấy lá thư. “Anh không biết đọc à? Hỏi cung. Chẳng lẽ anh lại nghĩ là tôi lại làm chuyện gì mang tội.”
“Vậy đó là một người khác? Chị kể đi! Nghe có vẻ nặng ký đấy.” Anh đợi. Cô im lặng. “Tôi cũng kể cho chị biết hết rồi mà,” anh nói. Thấy cô vẫn tiếp tục im lặng, anh tìm cách khác: “Chị hút hơi nhiều, đúng không? Vì vậy chị viết là chị muốn chấn chỉnh cuộc sống của mình.” “Anh có muốn uống trà hay không nào?”
Cô rót trà vào tách, không cần đợi anh trả lời.
“Đã bao giờ chị nghĩ đến chuyện đi tìm bố hay mẹ chưa?” bất chợt anh hỏi. “Tôi nói đến bố mẹ đẻ ấy.”
Kari ngạc nhiên nhìn anh.
“Không… tại sao cơ?”
“Tôi cứ suy nghĩ chuyện ấy. Mới đây thôi, buổi tối hôm chị vừa đi khỏi. Nghĩ đến kiểu chị kể chuyện. Và hằng ngày nói chuyện với mẹ. Họ phải có mặt đâu đó trên đời này chứ.”
Anh ngả người lại gần cô, giọng đầy phấn khích.
“Chị cần nghỉ một thời gian. Tôi cũng thế. Tôi kệ xác cái tờ triệu tập này! Tôi nghĩ là mình cứ lên ô tô đi đâu đó. Tôi sẽ giúp chị tìm.” “Đi đâu cơ chứ? Ta không thể đơn giản cứ thế đi, ngó vào bụi cây này, ngó sau góc nhà kia! Mẹ ơi, mẹ ở đâu?”
Robert nhún vai. “Trên tivi có những đứa con nuôi tìm thấy cha mẹ ruột tận bên Thái Lan. Ít nhất thì mình cũng phải thử đã. Chị nghĩ sao?” “Nếu anh định lên đường với cái ô tô gỉ toét ấy thì cảnh sát sẽ chặn xe lại trước khi chúng ta ra khỏi thành phố. Nói chính xác là họ sẽ không chặn một đại gia cưỡi Mercedes, mà chặn những người như anh, đúng không? Lần cuối họ chặn xe anh là khi nào?”
“Hai lần trong tháng vừa rồi.”
“Thấy chưa? Lại còn không bằng lái nữa. Chỉ có những kẻ chán đời mới đi cùng xe với anh.”
“Nhưng chẳng lẽ chị không thích đi tìm sao?”
Kari không đáp. Cô ngồi xuống giường. Robert đợi.
“Mình sẽ đi tìm kiểu gì?” cô hỏi và nhìn anh.
“Tôi nghĩ là mọi chuyện sẽ như thế này: tôi cũng đã làm nhiều trò bậy bạ…” anh giơ tờ giấy triệu tập lên để nhấn mạnh ý mình, “... và bà già tôi đã nhận được cả đống thư của nhà trường, phòng thanh thiếu niên và cảnh sát, cho đến khi tôi quá lớn để ở nhà và dọn đi. Chắc chắn có hàng núi giấy tờ về tôi, người ta phải đốn cả rừng cây mới làm đủ giấy! Khi chị được nhận làm con nuôi thì sẽ có hàng đống giấy tờ ở đâu đó. Đúng là mẹ nuôi của chị không biết bố mẹ đẻ của chị là ai, nhưng trong giấy tờ nào đó sẽ có. Chị có hiểu tôi định nói gì không?”
“Tôi đã hỏi mẹ, và mẹ không hề biết gì.”
“Nếu mẹ chị không nói sự thật thì sao? Có thể mẹ chị nói thế để chị không quyết định về với bố mẹ mà ở lại với bà ấy. Mẹ chị chắc không thích phương án đó lắm.”
Anh ngồi xuống giường cạnh chị. “Chị lên mấy khi chị được nhận nuôi?”
“Tôi còn nhỏ lắm. Chắc chắn chưa đến một tuổi.”
“Hồi đó gia đình chị sống ở đâu?”
“Ngoài đảo Lofoten.”
“Là ở đâu.”
“Ở Na Uy, tận trên miền Bắc. Bố nuôi của tôi người Na Uy, ông ấy mất khi tôi lên năm, hầu như tôi không nhớ gì nữa. Mẹ người Thụy Điển, chúng tôi quay về Thụy Điển không lâu sau khi bố mất.”
“Thế thì mình ra đảo và tìm ở đó.”
Anh đứng dậy. “Hay chị có kế hoạch gì hay hơn?” anh hỏi. “Thực ra thì không,” cô trả lời và giơ lá thư của cảnh sát ra. “Nhưng tôi muốn ngày mai đến cảnh sát. Một người trong chúng ta bị cảnh sát tìm chưa đủ hay sao?”
CHƯƠNG 10
Elina thường để ô tô ở nhà vì cô ở quận Oxbacken, cách Sở Cảnh sát có vài phố. Ngoài ra cô còn quen đi dạo lúc sáng sớm. Nhưng hôm nay cô đi xe. Sau buổi giao ban tám giờ, cô định lẩn khỏi chỗ làm và tới trường Tärna Folkhögskola. Biết đâu ở đó còn tài liệu về Ylva Malmberg, chứng chỉ, bài luận, hoặc những giấy tờ gì còn lại từ ngày đó. Biết đâu ai đó còn nhớ tới Ylva Malmberg, nhân viên quản lý hay nhà bếp. Chắc cũng chẳng có gì hơn những dữ liệu đã ghi trong hồ sơ, nhưng Elina muốn nhìn thấy khung cảnh sống ngày xưa của Ylva Malmberg. Tuy không rõ vì sao, nhưng khi lặp lại những việc giống như các nạn nhân trong vụ điều tra đã làm, cô thấy hiểu họ rõ hơn. Những tấm ván sàn ngày xưa cũng kẽo kẹt như thế, phong cảnh cũng giống hệt, trong phòng này đã từng có một người nói và cười - người ấy nay không còn nữa. Dọc đường, cô cũng định đi ngang qua căn hộ của Ylva Malmberg ở Sandgärdsgatan, đơn giản chỉ để quan sát ngôi nhà.
Chiều nay, cô muốn kết thúc công việc đang làm. Trước tiên cô định bổ sung đầy đủ hồ sơ của người phụ nữ bị chồng đánh. Ông chồng đang bị tạm giam để xem xét, việc này không trì hoãn được.
Nhóm nhân viên họp buổi tám giờ hầu như đủ mặt, thứ Hai nào cũng thế. Cả John Rosén cũng đến, và Elina ra ngồi cạnh ông. Phía đối diện là Henrik Svalberg, đồng nghiệp cùng bộ phận điều tra án mạng với cô. Người thứ tư, Erik Enquist, đã lâu không thấy mặt. Giữa những vụ điều tra giết người, anh làm việc ở Hallstahammar.
Egon Jönsson là người cuối cùng vào phòng và ngồi xuống cuối bàn. Gần nửa năm nay ông kế nhiệm Kärnlund chỉ huy bộ phận hình sự. Trong thời gian ấy mọi việc lộn xộn, không phải vì Jönsson không đủ năng lực mà cả ngành cảnh sát đang lâm vào một cơn khủng hoảng dữ dội, và cảnh sát Västerås cũng không tránh khỏi vạ lây. Những xung đột giữa nội bộ nhà chức trách đã bị đẩy lên thành cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe.
Trong khi cảnh sát kèn cựa lẫn nhau, tỉ lệ điều tra thành công các vụ hình sự thường nhật giảm xuống chỉ còn đếm bằng phần nghìn. Lãnh đạo cảnh sát ở hầu hết các cấp lập ra kế hoạch công tác hoàn toàn đúng ý bọn tội phạm: khi chúng ra tay thì cảnh sát hết giờ làm việc. Trong khi hàng trăm cảnh sát được cử đi canh các trận bóng đá thì trạm gác tại các vùng thưa dân bị đóng, thay thế bằng máy trả lời điện thoại. Các phương pháp phòng chống tội phạm mới tuy đã thông qua nhưng không được áp dụng vì một thái độ bàng quan chung ngày càng lan rộng. Ngoài ra, ngành tư pháp thấy mình phải gánh chịu ảnh hưởng chính trị sau những vụ quậy phá của dân tự trị ở Göteborg. Cảnh sát Thụy Điển ở đâu cũng bị ghẻ lạnh.
Cảnh sát Västerås không giỏi hơn mà cũng chẳng kém hơn nơi khác, và có đủ vấn đề nội bộ: công tác điều tra vụ giết hại Annika Lilja và Jamal Al Sharif năm ngoái đã làm thay đổi bộ mặt mà họ vẫn tự ngắm nghía bấy lâu. Nó chẳng đẹp đẽ hơn lên chút nào.
Dù sao chăng nữa, Egon Jönsson vẫn phải nỗ lực bảo đảm nề nếp công việc. Ông được phân công kế nhiệm một chỉ huy sáng giá như Oskar Kärnlund chủ yếu nhờ có thâm niên và lòng trung thành chứ không vì khả năng kiệt xuất, do đó ông cũng vất vả với công việc. Tình cảm của ông đối với Elina ấm áp như đêm đông Siberia vậy.
Thời gian đầu mới lên làm sếp, ông tỏ ra nhân nhượng với Elina, cho dù trong thâm tâm ông chỉ muốn Elina biến luôn khỏi thế giới này, ít nhất thì cũng ra khỏi Västerås và vùng lân cận. Cô biết ông không bao giờ hồ hởi đón nhận cô. Mối xung đột này bắt đầu từ vụ đốt nhà ở Surahammar cách đây ba năm và càng ngày càng phát triển đến mức quá đáng. Cô đoán là đến bây giờ ông vẫn còn dè chừng với cô vì ông còn chưa biết phải gánh trách nhiệm mới như thế nào. Có thể đó cũng là một kiểu giữ ý sau khi cô bị dọa giết vào cuối vụ điều tra giết người gần đây.
Nhưng không khí trung lập ấy ngày càng kém đi, và cung cách nhát gừng lạnh nhạt của ông lại xuất hiện. Có lẽ cũng vì cô ít tỏ ra niềm nở với ông. Cô đã quyết định và đặt kế hoạch từ nay sẽ xử sự với ông một cách chuyên nghiệp - như một nhân viên phải làm việc dưới quyền một ông sếp không do mình tự lựa chọn, thế thôi, không hơn và không kém. Cô mong đợi ông cũng xử sự như thế. Trong tâm trạng tồi tệ bắt đầu từ mùa xuân vừa đây của cô không có chỗ cho thứ tình cảm nào khá khẩm hơn dành cho
Jönsson. Nếu ông cho rằng đó là kiểu đối xử của cô với riêng ông thì đó là vấn đề của ông, không phải của cô.
Với Rosén thì khác hẳn. Khi có một vụ giết người cụ thể cần điều tra thì ông là chỉ huy của cô, giữa các vụ thì họ là đồng nghiệp. Họ hiểu nhau ngay từ những ngày đầu. Có lẽ vì ông cho phép cô đi đường riêng của mình, còn cô thì tôn trọng địa hạt của ông. Cô hiểu động cơ của ông. Elina là người duy nhất ở Sở Cảnh sát biết nguồn gốc Di gan của ông. Cô biết quyết định vào nghề cảnh sát của ông nhọc nhằn và trăn trở đến mức nào.
Jönsson khai mạc phiên họp với một công việc nhân sự, sau đó ông để mọi người báo cáo tiến độ điều tra của mình. Elina là người cuối cùng đến lượt.
“Wiik, dạo này không thấy chị báo cáo nhiều kết quả lắm,” ông nhận xét.
Cô giật mình ngẩng lên. Mọi người quanh bàn im lặng.
“Chúng ta liên tục có quá ít người,” Jönsson nói tiếp. “Mỗi người đảm nhận một phần hồ sơ. Bất kể vụ đó có nổi đình nổi đám hay không.” Thì ra thế, Elina nghĩ bụng và cảm thấy tay mình run lên. “Hôm nay tôi kết thúc một vụ đánh người bị thương,” cô cắn răng nói.
Phía chiều dọc bàn có một cái đầu thò ra. Đó là Jan Niklasson, người đã cùng cô điều tra nhiều vụ. Niklasson hơn cô mấy tuổi, nhưng không có gì tỏ ra xuất sắc. Theo Elina, anh ta là một điều tra viên không giỏi mà cũng chẳng kém.
“Mọi người chúng ta đều rất nhiều việc,” Niklasson nói. “Ai nấy phải đảm đương phần việc của mình.”
Jönsson gật đầu và đứng dậy. “Vậy thì ta bắt đầu vào những gánh nặng của tuần này đi,” ông nói và đi ra hành lang.
Elina nhìn Rosén. “Chị qua phòng tôi một chút,” ông nói.
Cô đóng cửa phòng ông sau lưng nhưng vẫn đứng. “Ngồi xuống đi,” Rosén mời và kéo ghế lại cho cô. “Tôi muốn giải thích cho chị hiểu ý Jönsson và Niklasson định nói gì.”
Cô im lặng ngồi xuống. Nỗi bực tức trộn lẫn lo ngại mỗi lúc một tăng, quả là không hay chút nào.
ẳ
“Chị cho phép tôi đi thẳng vào vấn đề nhé?” ông hỏi. Cô gật đầu. “Có người nói. Không nhiều, thỉnh thoảng đá một câu thôi. Chị như một nàng công chúa đi hài pha lê vậy. Chị chỉ làm những vụ lớn, những vụ được báo chí quan tâm lăng xê. Những vụ nhỏ chị không thèm để ý. Mọi người khác phải làm thay chị.”
“Không đúng! Tôi cũng làm phần việc của tôi từ những vụ vặt vãnh ấy như những người khác. Tôi đã có một giai đoạn khó khăn, nhưng sau một lần như thế…”
Cô lấy hơi lần nữa: “Điểm khác biệt duy nhất giữa hầu hết những người khác và tôi là báo chí viết nhiều về công việc của nhóm điều tra các vụ án mạng. Họ háu những tin đó mà! Đâu phải lỗi của tôi khi tôi được chú ý nhiều nhất chỉ vì tôi là phụ nữ? Anh hãy tin là tôi sổ toẹt vào ánh hào quang đó!”
Rosén dang tay lên. “Tôi biết, tôi biết chứ. Quả là bất công, và lẽ ra Jönsson không nên nói ra trước mặt mọi người.”
“Đơn giản là Jönsson không chịu nổi người khác có thành tích,” Elina vừa nói vừa lắc đầu. “Ông ấy muốn gì? Muốn tôi làm hỏng mọi việc và bọn giết người được tự do chạy nhảy ngoài phố sao?”
“Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy. Nhưng thực tế là chị có vẻ không quan tâm lắm đến những vụ hình sự nhỏ, nhất là trong nửa năm gần đây. Thỉnh thoảng tâm trí của chị cứ để đâu đâu ấy. Mãi từ khi Kärnlund ngã bệnh người ta mới lại bắt chuyện với chị được. Tôi đoán có thể chị cần đôi chút thời gian để vượt qua những biến cố trong mùa thu năm ngoái. Chị thực sự bàng quan. Tôi không muốn hỏi chị và cũng không muốn nhận xét, nhưng tôi tin rằng chị nên chú ý đến công việc chị đang làm.”
Ông thở dài. “Lẽ ra Jönsson nên nói chuyện với chị như thế này lâu rồi mới phải. Nói riêng với chị.”
Elina ngồi câm như hến. Cô biết Rosén có lý, cô chỉ không hiểu ra rằng ai cũng nhận thấy cô chán công việc thường nhật ra sao. Cô đứng dậy. Cô không hứng thú trò chuyện lâu hơn nữa về đề tài này.
“Vâng,” cô nói, “Cảm ơn anh về thái độ thẳng thắn. Tôi sẽ suy nghĩ kỹ.”
“Chị chớ nên hiểu sai,” ông nói, “tôi xin chị đừng hấp tấp quyết định điều gì thiếu suy nghĩ. Theo đánh giá của tôi, chị là người tốt nhất mà
chúng ta đang có. Nhất là khi có các vụ án phức tạp.”
Một nụ cười phớt qua trên môi ông. Cô gật đầu và đáp lại nụ cười đó. Về đến phòng làm việc của mình, cô đóng cửa và ấn nút bật ngọn đèn đỏ ngoài cửa báo hiệu bận. Rồi cô ngồi im lìm năm phút trên ghế, mắt dõi theo một con ruồi đang tuyệt vọng tìm cách lọt qua cửa kính đóng kín. Cô mở thùng bìa cứng trên bàn mà sáng nay cô đem trở lại nơi làm việc. Ylva Marieanne Malmberg, cô nghĩ và thả rơi nắp hộp xuống. Chỉ còn vài tuần nữa thôi, và mọi người sẽ quên chị. Tôi là cơ may cuối cùng của chị. Jönsson đang chống lại chị đấy, dù là một cách vô thức. Bây giờ tôi phải làm gì với chị đây?
Cô lấy tập hồ sơ của người phụ nữ bị bạo hành ra và bật máy tính. Trước giờ nghỉ ăn trưa mình phải làm xong vụ này. Tärna phải đợi thôi. Đúng mười hai giờ, cô xong việc. Đúng lúc định lưu tất cả vào bộ nhớ thì cô ngừng tay. Có cảm giác như bỏ quên chuyện gì. Đó là cảm giác mà cô đã từng biết trong các vụ trước, và cô biết nó rất đáng tin cậy. Một chi tiết nào đó trong vụ bạo hành quen thuộc này dính dáng đến Ylva Marieanne Malmberg. Cô vắt óc nghĩ xem đó là gì. Cả hai trường hợp đều xoay quanh chuyện bạo hành nhằm vào phụ nữ. Nạn nhân của hai vụ rõ ràng không thể liên quan đến nhau. Chồng người phụ nữ, thằng cha hèn mạt này ba mươi bảy tuổi, nghĩa là khi Ylva Malmberg bị giết thì hắn mới mười hai.
Cô tạm bỏ qua ý tưởng đó. Nếu có gì quan trọng thì sớm hay muộn nó sẽ lại hiện ra trong óc cô thôi. Cô nhấn phím in, mang xấp giấy sang nộp cho Jönsson. Cô không muốn ông ta thỏa mãn khi thấy cô tránh mặt ông. Cô đặt xấp giấy lên bàn ông và ra khỏi phòng, không nói một lời.
Không ai có quyền cản mình nghỉ trưa theo ý thích riêng, cô nghĩ khi rời Sở Cảnh sát qua cửa chính và ra chỗ chiếc Saab mui trần của mình. Cô đi ra đường Ringvägen, vòng qua ga rồi rẽ về hướng Röda Torget - Quảng trường Đỏ, như người ta vẫn gọi ngã tư phía bên kia hầm chui dưới đường ray. Phố Sandgärdsgatan nằm xa hơn chút nữa, sau đường cao tốc E 18.
Cô đỗ xe và đi bộ tới ngôi nhà. Mặt tiền trông có vẻ đã được tân trang cuối những năm chín mươi. Cô tự hỏi, năm 1979 không rõ ngôi nhà này
trông ra sao, liệu có bị bỏ bê xơ xác, và ai đã từng sống ở đó? Cô đếm theo cửa sổ để biết căn hộ của Ylva Malmberg ngày xưa ở đâu. Trông nó có vẻ ấm cúng, màn cửa màu tươi mát và trên bậu cửa sổ có mấy chậu hoa. Elina chợt muốn được đi lên cầu thang và nhấn chuông ngoài cửa. Trên khe bỏ thư đề tên Eriksson, trên đó nữa là một mẩu giấy có chữ Hedlund viết tay. Cô ngạc nhiên nghe tiếng chân đi lại sau cửa vì không nghĩ có ai ở nhà. Một cô gái mở cửa. Trông cô khoảng hai mươi tuổi.
“Xin lỗi vì làm phiền cô,” Elina nói và tự giới thiệu. “Tôi đang điều tra vụ án về một phụ nữ ngày xưa sống ở đây. Tôi có được phép ngó vào một chút không?”
“Vâng, tất nhiên,” cô gái đáp và tránh sang một bên. Elina bỏ giày và bước vào. Căn hộ có một phòng và bao lơn nhỏ quay ra sân. Trong phòng có một chiếc giường rộng với nhiều gối và một con gấu bông to tướng. Phía đối diện kê chiếc bàn với những cuốn sách mở, đèn bàn bật sáng. Elina liếc qua. Hình như là sách về hóa học.
“Tôi đang học,” cô gái giải thích. “Có chuyện gì xảy ra với người phụ nữ ngày xưa ở đây vậy?”
“Chuyện rất tệ,” Elina đáp. “Tôi đang tìm lý do và thủ phạm.” “Chuyện xảy ra lâu chưa?”
“Gần hai mươi lăm năm rồi.”
“Ồ, lúc đó tôi còn chưa ra đời. Người ấy là ai?”
“Cô ta cũng đang đi học. Ngoài ra tôi cũng chẳng biết gì hơn.” “Và vì thế mà bà tới đây? Để xem người ấy đã sống ra sao?” Elina mỉm cười. “Vâng, đúng thế.”
Cô gái gật đầu. “Nếu bà biết người ấy là ai thì có thể bà sẽ tìm được thủ phạm. Nói cho cùng, mọi việc đều liên quan với nhau cả đấy.” “Cô tin là thế à?”
“Người phụ nữ ấy tên gì?”
“Ylva. Còn bây giờ thì tôi không muốn quấy quả thêm nữa. Rất cám ơn cô.”
Cô gái tiễn Elina ra đến sảnh. Cô xỏ chân vào giày.
“Tên tôi cũng là Ylva,” cô nói.
Elina quay lại và mở miệng định nói, nhưng không thốt ra lời. Cô gái mỉm cười và nhìn vào mắt cô trong khi đóng cửa.
Ylva. Ai đã thấy Ylva? Elina cố nhớ lại tên của các nhân viên hình sự trong khi quay về Sở Cảnh sát. Họ là ai? Kärnlund, tất nhiên. Ông ta tiến hành hầu hết các cuộc thẩm vấn ở Västerås và ở trường Tärna Folkhögskola. Một nhân viên tên là Lestander ở Arvidsjaur đã chỉ huy điều tra. Tên riêng ông ta là Åke phải không nhỉ? Cô còn nhớ tên ba người nữa. Cố nhiên ngày đó còn nhiều người nữa tham gia. Trong giai đoạn đầu, đây là một cuộc điều tra với quy mô lớn. Nhưng tất cả đều là đàn ông. Không có một phụ nữ nào. Có lẽ vì ngày đó hầu như không có phụ nữ làm cảnh sát. Cũng có thể chẳng ai cho rằng trong vụ này đặc biệt cần có một phụ nữ cùng vào cuộc.
Cô bé trong căn hộ có lý chăng? Quan trọng là phải tìm ra Ylva Malmberg là ai? Phải chăng câu đố mà các đồng nghiệp ngày đó không giải được nằm ẩn trong nhân cách của Ylva? Elina gạt ý nghĩ đó đi. Kết luận kiểu ấy quả là phi lý. Suy luận như thế thì cũng có thể quả quyết rằng cái chết của Ylva là do số phận định đoạt hay do chính lỗi của cô ta. Nhưng chẳng lẽ chỉ có thể xem xét các quan hệ bên ngoài thôi hay sao? Có những người dấn thân vào nguy hiểm một cách có ý thức. Vận động viên leo núi chẳng hạn, hoặc phóng viên chiến trường. Người khác thì tìm đến những môi trường xã hội hay những kẻ có nguy cơ hành xử bạo lực lớn gấp bội. Một số trở thành nạn nhân của những quyết định do chính mình đưa ra, vì đã tự nguyện đến gần thần chết.
Elina có một thứ mà các điều tra viên ngày đó không có. Cô có cặp mắt của một phụ nữ. Nếu dùng nó, cô có thể phát hiện ra những gì mà người khác bỏ qua. Cô có thể nhìn thấy Ylva.
CHƯƠNG 11
Nhìn thấy Sở Cảnh sát, Kari rúm người. Nỗi sợ hãi cào xé gan ruột, làm cô trống rỗng, chỉ còn lại một lớp vỏ mỏng tang chỉ chực vỡ tan nếu bị chạm vào. Cô có cảm giác suốt đời đã phải chịu đựng một nỗi sợ hãi, tuy chẳng biết sợ gì. Một cảnh sát đưa cô vào phòng. Anh ta có vẻ lãnh đạm và chẳng thèm nhìn cô lấy một lần, chỉ đẩy đi đẩy lại mấy tờ giấy trên bàn. Sau đó hí hoáy xếp một tờ giấy chồng lên tờ khác, rồi một tờ thứ ba xuống dưới cùng.
“Xem nào… nghi vi phạm ma túy, do hải quan trình báo, chính xác là hải quan sân bay Arlanda. Chị đến từ Hà Nội, đó là ở Việt Nam thì phải. Chó sủa dữ khi lại gần mạng sườn chị. Có nghĩa là quần áo hay cơ thể chị đã chạm vào ma túy. Đúng không?”
“Đúng gì cơ? Đúng là con chó đánh hơi người tôi ấy à?” “Chuyện ấy thì chúng tôi biết rồi. Tôi nói chuyện chạm vào ma túy cơ. Chị có gì muốn nói về chuyện ấy?”
“Không. Tôi không có ma túy trong người.”
“Vậy thì tôi báo cho chị biết là chó đã tìm ra một mảnh nylon ở phòng vệ sinh ngay cạnh nơi lấy hành lý. Phòng thí nghiệm của chúng tôi phát hiện thấy cần sa dính trên nylon. Chị có biết gì về miếng nylon này không?”
“Không,” Kari thì thào.
“Vậy thì tôi báo thêm cho chị biết là trên mảnh nylon tôi vừa nhắc đến có một dấu vân tay. Bây giờ chị vẫn tiếp tục khẳng định là chị không sở hữu nó hay sao?”
“Tôi không biết gì hết.”
“Thế thì tôi phải mời chị đi theo để lấy dấu vân tay.” Anh ta đứng dậy và ra hiệu Kari đi theo. Cô thất thểu đi ra hành lang. Hành lang dài như vô tận.
CHƯƠNG 12
“Tôi gói ghém xong rồi,” anh nói. “Ta có thể xuất phát luôn.” Robert chẳng hỏi xem tại sao Kari lại quyết định chóng vánh như vậy. Cô bấm chuông phòng anh, và khi anh ra mở cửa thì cô chỉ nói: “Ta đi thôi.” Không thêm một lời. Sau đó: “Tôi phải gói hành lý nữa,” và xuống cầu thang. “Nửa giờ nữa nhé, tôi đợi chị trong ô tô dưới nhà,” anh gọi với theo.
Robert phấn chấn vác túi du lịch của cô cho vào cốp xe. Có vẻ như anh cho việc lên ô tô và phóng đi đơn giản là một cuộc vui.
“Xem này,” anh nói và chỉ tay. “Mẹ tôi có lều, đệm hơi và hai túi ngủ nữa. Tiện quá, đúng không? Nếu mình ngại dựng lều thì cứ ngủ luôn trong xe cũng xong.”
Họ im lặng theo đường E 4 đi về phía Bắc. Robert bật radio và chọn một kênh hip-hop. Anh nhìn cô với ánh mắt dò hỏi. “Không phải loại nhạc tôi thích,” cô nói. “Nhưng cứ để thế chẳng sao. Khi nào thấy chối tai tôi sẽ báo.”
Lúc mười hai giờ thì họ đã đến Norrtull, bỏ lại thành phố sau lưng. Đường rất đông ô tô, nhưng không thấy xe cảnh sát nào cả. “Xe này không nhanh,” Robert nói khi họ liên tục bị các xe khác vượt trên đường cao tốc. “Nó không thích bị nhấn ga quá mức. Giống như người vậy thôi.” Anh cười.
“Nếu nhấn ga nhiều thì sao?”
“Thì két nước sôi trào ra,” Robert đáp. “Trung bình tôi chỉ đi 90 km/h. Càng đỡ phải lo bị rơi vào bẫy kiểm tra tốc độ.”
Qua cửa kính bên, Kari ngắm phong cảnh vùn vụt trôi về phía sau. “Anh có biết đường không?” cô hỏi.
“Đường đến Lofoten chứ gì? Cứ theo bản đồ mà đi,” anh trả lời. “Tôi đã lấy một bản đồ ở trạm xăng. Tôi nghĩ là mình cứ đi theo đường ngắn
nhất, đỡ tốn xăng hơn.”
Khi họ đi qua Uppsala thì cô đã ngủ thiếp đi. Anh ngắm đầu cô hơi nghiêng qua một bên khi xe vào cua, mắt anh khó dứt được khỏi môi dưới của cô. “Cứ ngủ đi,” anh khẽ nói, “đường còn dài lắm.”
Qua Gälve lên phía Bắc thì cô thức dậy. “Tôi đói,” cô nói. “Hôm nay chưa ăn sáng.”
Anh đưa cô bản đồ. “Tôi vừa đi qua tấm biển chỉ về hướng Bollnäs,” anh nói. “Sau đó là gì?”
Kari tìm. “Ta đang ở đây,” cô nói. “Thành phố sắp đến là Södehamn. Trước đó còn có Ljusne, sau đó là Sandarne sát bờ biển.” “Có xa đường E 4 lắm không?” anh hỏi.
“Một chút thôi. Ít nhất là theo bản đồ.”
Robert rẽ khỏi đường E 4, một lát sau có biển báo đã đến Ljusne. Hai bên đường toàn các nhà ba tầng cho thuê, cửa sổ không rèm. “Người ở đây đi đâu cả?” Kari ngó quanh. “Hình như có một cửa hàng kia kìa,” Robert nói và chỉ đến một bãi sân nhỏ. Anh đi thêm mấy thước và đỗ ngay trước cửa. Cửa hàng cũng vắng ngắt như đường phố lúc nãy, và cũng chẳng có gì nhiều nhặn để bán. Một người đàn ông tóc đen để ria mép từ cửa sau đi tới. “Xin chào các vị khách đầu tiên trong ngày,” ông nói.
Robert lấy một ổ bánh mì lớn, pho mát và một túi sữa. Kari mua Coca và kẹo. “Còn cửa hàng nào lớn hơn không?” Robert hỏi khi họ trả tiền. “Tất cả đã đi khỏi đây,” người đàn ông đáp. “Mọi thứ chết cả rồi. Chỉ có mỗi tôi và Mustafa người Thổ Nhĩ Kỳ còn ở lại. Chẳng ai muốn mua cái cửa hàng này của tôi cả.”
“Biển phía nào vậy?” Kari hỏi.
Ông ta chỉ tay. “Nếu hai người muốn thì tôi cho.”
“Muốn gì kia?”
“Cửa hàng này ấy. Tôi cho luôn. Không lấy tiền.”
“Rất cảm ơn ông,” Robert nói. “Nhưng tôi nghĩ là chúng tôi không muốn. Vả lại chúng tôi trả tiền mấy thứ này rồi. Nếu định lấy cả cửa hàng thì chúng tôi đã chẳng phải trả tiền.”
Ông ta gật đầu. “Đúng thế thật. Nhưng chỉ khi tống khứ được cái cửa hàng này đi thì tôi mới quay về tương lai được.”
“Chúng tôi cũng muốn đến đó,” Kari nói.
“Chúc may mắn,” người đàn ông nói.
Họ ra mép nước và kiếm được một tảng đá làm chỗ ngồi. Robert bẻ bánh mì làm đôi. “Tôi sợ,” Kari nói. “Tựa như người ta mở một cánh cửa. Mà tôi thì không biết có gì ẩn đằng sau đó.”
Robert nhìn ra mặt nước. “Chuyện gì xảy ra khi chị còn bé?” “Tôi không biết. Tôi nằm trong một cái giỏ đặt trước cửa nhà họ. Một đứa bé bị bỏ rơi, như trong truyện cổ tích. Họ không có con và đã nhận nuôi tôi. Mẹ đã giải thích cho tôi khi tôi mười hai tuổi. Khủng khiếp quá.” “Và chị không biết gì về bố mẹ thật của chị?”
“Không, không biết gì hết. Mẹ không muốn nói chuyện ấy, chỉ kể là tôi đến với họ ra sao, và ngoài ra mẹ không biết gì hơn. Tôi ngày nào cũng hỏi, nhưng mẹ chỉ nổi cáu hoặc bỏ đi. Bố nuôi thì không hỏi được, vì ông ấy đã mất.”
“Tại sao chị sợ?”
“Tôi không biết. Anh không sợ à?”
“Chỉ sợ cảnh sát đến và tôi có trong tay một lọ sơn xì. Lúc đó chỉ còn cách cắm đầu cắm cổ chạy cho nhanh. Còn một lần, tôi sợ phát khiếp khi đám đầu trọc vu cho tôi làm bẩn áo da của một đứa. Chúng đang quát nạt thì đột nhiên một đứa trong bọn có vết sơn trên áo thật. Không được thú vị lắm.”
Kari ngoảnh đi. “Tôi có một kiểu sợ khác,” cô nói. “Ta đi tiếp nhé?”
Đến Timrå, Robert rẽ khỏi con đường ven biển. Họ đi vào khu rừng hoang. Bên kia dãy hào ven đường, thông vút cao hùng vĩ. Các làng nhỏ nối đuôi nhau: Viksjö, Graninge, Helgum, Edsele, Ramsele, Hoting. Đến Hoting vừa vặn mặt trời lặn. Một cửa hiệu bán thực phẩm Ica sắp đóng cửa, Kari xin phép được mua thật nhanh vài món. Cô để vào giỏ một khoanh xúc xích và một gói mì ống. Robert lấy hai lon bia.
Một bà lão đi ngược chiều họ trên đường làng. Bà đã già, phục phịch, hàm trên sún một răng. “Xin lỗi cụ,” Robert nói khi bà đi ngang qua. Bà lão
dừng chân, quay lại nhìn. “Có chỗ nào ở đây nấu đồ ăn được không?” Robert hỏi, tay chỉ vào khoanh xúc xích và gói mì ống. “Tôi có bếp lò và sống một mình,” bà lão nói. “Tôi ở gần đây. Đi nào.” Robert và Kari theo chân bà đến một ngôi nhà nhỏ ở rìa làng.
“Ngồi xuống đi. Tôi nấu cho,” bà lão nói và cầm lấy túi Ica từ tay Robert. “Ông nhà tôi không ở nhà.”
“Ông ở đâu?” Kari hỏi.
“Ở ngoài nghĩa địa,” bà lão đáp. “Từ hai chục năm nay rồi. Nhưng ngày nào tôi cũng mang cho ông ấy một đĩa thức ăn, phòng khi ông ấy ghé qua. Chẳng ai biết chắc được chuyện gì.”
Bà lão im lặng trong khi Robert và Kari ăn. Xong bữa, bà dọn đĩa đi. “Bây giờ tôi dọn giường cho hai anh chị,” bà nói. “Cứ vào cái giường lớn ấy.”
“Chúng cháu không phải vợ chồng,” Kari nói.
“Người ta phải nằm cùng giường,” bà lão nói. “Không thì làm sao có con được. Còn con cái thì cần bố mẹ. Tôi biết quá đi chứ, mặc dù con tôi chẳng đến thăm tôi bao giờ.”
Robert nhún vai và cười ngu ngơ với Kari.
“Ít nhất thì ở đây cũng ấm áp,” anh nói.
Họ nằm cạnh nhau trên giường, nhìn lên trời còn vương một vệt sáng. Anh nằm bên phải, cô bên trái, như một đôi vợ chồng già quen chỗ cố định. Anh quay sang và đặt tay lên bụng cô. Cô gỡ tay anh ra. “Không, tôi đã nói rồi.”
“Tôi cứ nghĩ là nếu mình đã nằm cạnh nhau ở đây…” Robert nói. “Đừng làm tôi thất vọng,” cô đáp lại.
Robert quay về chỗ mình. “Tôi chưa có nhiều đàn bà,” anh nói. “Còn tôi thì quá nhiều đàn ông,” cô trả lời, “và bây giờ chính là lúc tôi không cần thêm một người mới nữa.”
Anh khoanh tay trên ngực. Mấy phút sau cả hai cùng thiếp đi.
CHƯƠNG 13
Cô mơ thấy mình vừa sinh hạ một đứa bé. Không biết nó là con trai hay con gái. Bà mụ bế đứa bé đi, bảo sẽ quay lại ngay, nhưng rồi đi thẳng. Tỉnh dậy cô thấy mắt mình đẫm nước. Cô ngồi dậy trên giường và hối hận vô cùng. Lẽ ra cô không được làm việc đó. Lỗi lầm lớn của cô là năm ngoái đã phá thai, cô phải giữ nó mới đúng, và bây giờ lẽ ra đứa trẻ đã có mặt trên đời. Cơ thể cô trống hoác, nhưng nó vẫn biết thực ra hôm nay là thời điểm sinh nở.
Chín tháng một tuần. Đó là thời gian cần thiết để tạo thành một con người, và đứa trẻ cũng được bảo vệ lâu như thế trước ảnh hưởng bên ngoài. Sau đó bắt đầu nỗi cô đơn ghê gớm. Elina cố nghĩ sang chuyện khác. Cô đi ra chỗ để thùng giấy đựng hồ sơ vụ Ylva Marieanne Malmberg mà tối qua cô lại đem về nhà. Chuyện đời của Ylva nằm gọn trong một thùng giấy.
Cuốn lịch bỏ túi của năm 1978 nằm trong một túi nylon. Chín tháng một tuần… Ylva sinh con gái hôm 2/5/1979. Đứa trẻ cân nặng bình thường và phát triển đầy đủ. Elina tính ngược lại. Thời điểm thụ thai phải vào ngày 25/8/1978, nhất định cũng là thời điểm mà Ylva ở bên bố đứa trẻ, nếu hắn là người giết cô.
Cô xem ô lịch cả năm trong cuốn lịch nhỏ màu đỏ. Ngày 25/8/1978 là ngày thứ Sáu. Không phải một ngày đặc biệt gì để thụ thai, cô nghĩ bụng. Cô mở sổ tay ra. “Cuộc sống tình dục của Ylva?” cô viết rồi gạch dưới thật đậm. Cô giở các trang lịch đến tận ngày 25/8 và ngừng lại, đặt cuốn lịch xuống. Phải tóm lấy ý tưởng khi nó trôi qua trong đầu, cô nghĩ và vớ ngay cây bút. Cô vào phòng khách, ngồi xuống sofa và quấn tà áo khoác trong nhà thật chặt quanh chân.
Chỉ có một khả năng duy nhất để phá vụ này mà thôi, cô nghĩ. Và đó là, bố đứa trẻ đồng thời là tên sát nhân. Nếu đó là một người khác thì họa chăng cô phải có phép màu mới nhận ra dấu hiệu, cái dấu hiệu bé xíu mà
những người khác không nhìn thấy. Bố đứa trẻ, người tình… người đàn ông từng đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời Ylva, không chỉ khi cô chết. Có thể cho người đó hiện hình bằng cách ấy. Có thể anh ta đã tồn tại từ lâu xung quanh cô, hoặc là một người mới quen. Nhưng hai người ở cùng nhau vào thời điểm trước hay sau ngày 25/8 là một điều chắc chắn. Elina lại mở cuốn lịch ra và xem lại thứ Hai cùng tuần, ngày 21/8. Ở đó có chữ “Khai giảng.”
Elina lắc đầu. Cả một trường học, nhiều đàn ông, giáo viên lẫn học viên. Cô xem lại ngày 25/8. “Ở Monaco.” Tên một tiệm nhảy đầy thanh niên. Danh sách các sát thủ tiềm năng hôm ấy hầu như vô tận.
Trong cuốn lịch bỏ túi, mỗi ngày là một ô gồm sáu dòng kẻ. Đôi khi Ylva ghi đầy ô, hoặc chỉ vài chữ rời rạc. Elina nhận ra hai cách chỉ thời gian. “Khai giảng” là một sự kiện nằm trong thì tương lai, một sự việc có thể sẽ xảy ra hoặc sắp phải hoàn tất, được ghi trước để nhớ. “Ở Monaco” ám chỉ một việc đã rồi. Đó là một ghi chép nhật ký, viết vào sổ sau khi chuyện đã xảy ra. Elina lật đi lật lại các trang lịch. Suốt cả năm, ngày nào cũng có ghi chép. Chủ yếu ghi lại những việc Ylva đã làm hôm đó. Cuốn lịch này có thể coi như nhật ký. Rõ ràng đó là một thói quen, và Ylva đã viết nhật ký trong nhiều năm, Elina nghĩ. Trong tập hồ sơ có ba quyển nhật ký và một cuốn lịch nữa.
Elina muốn thâm nhập vào thế giới của Ylva. Cô muốn, cô hy vọng và mong sao mấy cuốn nhật ký và lịch sẽ hé lộ những người đàn ông Ylva đã gặp gỡ. Nhưng điều đó khó đưa lại một dấu vết nào rõ rệt mà các đồng nghiệp của cô chưa tìm ra. Cùng lắm là một phỏng đoán vu vơ nào đó mà các điều tra viên ngày ấy không chú trọng, hoặc một dấu hiệu chỉ mình Elina nhìn thấy được. Nhưng chuyện đó cũng chẳng khả quan lắm. Cô phải tự dựng cho mình một hình ảnh về con người Ylva. Một hình ảnh riêng hẳn. Cô phải nhìn Ylva bằng cặp mắt của một phụ nữ, không như các nam đồng nghiệp khác. Mấy cuốn nhật ký và lịch chỉ là xuất phát điểm cho cách đặt câu hỏi mới. Cô phải nói chuyện với những người từng quen Ylva. Nhưng thời gian quá gấp gáp và cô không thể làm việc đó trong giờ hành chính. Cô phải xắn thời gian đó từ chỗ khác ra và chọn lựa một số ít đối tượng thôi. Chọn ai bây giờ?
“Roger, anh trai,” cô ghi vào sổ tay. “Ai đó trong nhóm cùng thuê nhà. Một người cùng đi Ấn Độ. Bạn học ở Tärna Folkhögskola. Bạn gái hoặc
người quen ở Västerås. Một người đàn ông có quan hệ tình dục.” Bảy người cả thảy, cô nghĩ. Phải nhanh tay lên mới được. Mình phải lựa ra đúng người.
Cô mở tập hồ sơ. Giữa đống giấy tờ, cô tìm được một quyển vở khoảng ba mươi trang khổ A4. Trên trang bìa đề “Danh mục các dữ kiện trong lịch và nhật ký.” Trong đó liệt kê tám quyển nhật ký từ 1965 đến 1977 và lịch năm 1978.
Nghĩa là còn năm cuốn nhật ký nữa. Elina tự hỏi, liệu chúng bị mất hay đã trả lại. Và nếu trả lại rồi thì hiện trong tay ai. Vì sao thiếu cuốn 1979? Cô suy nghĩ và ghi vào sổ tay.
Elina mở cuốn lịch 1978, bắt đầu xem từ ngày 1/1. Chữ đầu tiên là “say,” tiếp đó là “Gần 16 giờ lên giường. Cùng P.*** (hình như thế, say quá).” Elina lấy cuốn lịch năm trước ra. Hôm giao thừa Ylva viết “Liên hoan Västegård 19 giờ.”
Cái tên P xuất hiện lần nữa trong mùa xuân, tháng Ba, lần này có hai ngôi sao sau dấu chấm. Trong lịch có nhiều ghi chép dạng này: S., S-n., K., D., L. và J. Bao giờ cũng kèm ký hiệu sao. Elina rút ra kết luận rằng các chữ cái là tên viết tắt của những đàn ông mà Ylva ngủ cùng và chấm điểm bằng số sao. Không đâu có dấu hiệu để nhận định rằng cô có mang cùng ai trong số đó. Cũng không đâu có dấu hiệu chứng tỏ cô có quan hệ gì khác với họ ngoài chuyện tình dục. Nhân vật K. còn được nhắc đến trong một trường hợp khác: Ylva cùng anh ta đi Västerås. Elina đoán là họ từ trường về.
Trong sổ không có một người đàn ông nào mà tên không được viết tắt, trừ Roger. Một lần vào mùa xuân, một lần mùa thu, Ylva viết: “Gọi điện cho Roger,” nhưng không viết nội dung cuộc đàm thoại. Elina đoán Roger trong sổ là anh trai Ylva.
Tên các phụ nữ thì lại viết đầy đủ. Phụ nữ không bị dồn gọn vào chữ cái đầu tên. “Gặp tay Don Juan của Fellini đi cùng Ingrid.” Hoặc “Học cùng Tarja.”
Một chữ cái khác đầu tên hiện ra năm lần, lần đầu vào hôm 18/3: “Bất ngờ gặp N.” Ghi chép tiếp theo về N. xuất hiện một tuần sau đó: “N. 19.” Một tháng sau: “N. 200.” Ngày 4/7 chỉ độc có chữ “N.” Và cuối cùng là hôm 27/8: “N. đến.”
27/8… ngày thụ thai. Elina đặt cuốn lịch xuống và xem lại danh mục các dữ kiện trong lịch và nhật ký do các đồng nghiệp lập ra. Một đoạn dài nói về N. Mười một người có tên riêng bắt đầu bằng chữ cái N đã bị thẩm vấn. Hầu hết là học viên hoặc giáo viên của trường Tärna Folkhögskola. Trong đó có cả một người hàng xóm và hai người khác từ Västerås. Nhóm điều tra xuất phát từ tên riêng bắt đầu bằng chữ N vì những chữ viết tắt khác có vẻ như cũng là tên riêng của đàn ông, ít nhất là trong ba trường hợp đã được nhận dạng. P. là Petter, S-n là Staffan, và K. là Kenneth. Cả ba đều công nhận có ngủ với Ylva. Nhưng N. vẫn là ẩn số đối với cảnh sát. Không một ai trong số những người bị hỏi cung có vẻ thích hợp với nhân vật này.
Elina nhấc điện thoại và chọn số 118 118. “Ở Arvidsjaur có ai tên là Åke Lestander không?” cô hỏi. Mấy giây sau cô có số điện thoại. Cô lưỡng lự vài giây. Làm sao giải thích được rằng cô điều tra trong một vụ của Lestander với tư cách nửa cá nhân đây? Có thể người ta sẽ hỏi ngược lại. Nhưng cô quyết định sẽ trả lời thẳng thắn nếu bị hỏi.
“Lestander đây,” đầu dây bên kia vang lên một giọng thanh thanh với âm hưởng địa phương, dễ nhận thấy người này cả đời không rời khỏi quê. Elina xưng tên và trình bày ý định gặp nhân viên phụ trách điều tra vụ sát hại Ylva Marieanne Malmberg.
“Chị tìm đúng người rồi đấy. Lạ thật. Cách đây mấy hôm bản thân tôi cũng nhớ đến vụ này.”
“Tại sao vậy?” Elina hỏi và nghĩ bụng, chính người kia phải đặt câu hỏi đó cho mình mới phải.
“Tôi không sao dứt hẳn khỏi vụ này được. Đã hai mươi lăm năm rồi, và sắp tới sẽ không thể truy tố thủ phạm nữa. Cho phép tôi hỏi tại sao chị lại quan tâm đến vụ này?”
“Sếp của tôi, à, sếp cũ của tôi nhắc đến vụ này, khiến tôi rất tò mò.” “Tôi đoán là chị nói đến Oskar Kärnlund. Lão già ấy có khỏe không?” “Không khỏe lắm. Ông ấy mới bị nhồi máu cơ tim, đúng nửa năm sau khi về hưu. May mà cũng qua khỏi.”
“Tệ quá nhỉ. Chị cho tôi gửi lời chào anh ấy, chúc anh ấy chóng bình phục. Tôi có thể giúp chị việc gì không?”
“Tôi đã tự cho phép xin hồ sơ về đọc.”
ẳ ẳ
“Thế à. Chẳng có hại gì. Chắc đã lâu chẳng ai sờ đến nó cả. Tôi cũng đã về hưu được bảy năm rồi.”
“Tôi tin người bố chưa lộ mặt của con gái Ylva chính là kẻ giết cô ta,” Elina nói. “Có lý do nào trực tiếp bác bỏ luận cứ ấy không?” “Không, ít nhất là theo tôi nhớ lại. Nhưng hồi đó chúng tôi không tìm ra người bố lẫn kẻ giết người. Ai muốn biết chuyện ấy? À, cả đứa con cũng không tìm thấy.”
“Nếu lấy ngày sinh của đứa con và tính ngược lại thì Ylva phải thụ thai gần ngày 25/8/1978. Trong lịch của cô ấy, vào thời điểm ấy xuất hiện chữ cái N. Nhưng không xác định được anh ta…”
Åke Lestander ngắt lời cô.
“Chúng tôi đã cố hết sức tìm N., nếu người đó được coi là nghi phạm. Nhưng không xong.”
“Anh có chắc chắn rằng đó là một trong những người đàn ông bị hỏi cung ngày ấy và tên riêng bắt đầu bằng chữ cái N?”
“Tôi không nhớ rõ nữa. Chị không thấy ghi trong hồ sơ à?” “Không có ghi chép nào liên quan trực tiếp cả. Có thể N là tên họ được viết tắt không?”
“Phỏng đoán thì cái gì mà không thể.”
“Hồi đó anh tìm thấy lịch và nhật ký ở đâu?”
“Trời ơi, ở đâu nhỉ? Tôi nhớ là ở trong tủ, tại nhà cô ấy ở Jäkkvik, không rõ có đúng không.”
“Thế năm quyển nhật ký không có trong hồ sơ thì nay ở đâu?” “Nhiều đồ vật của Ylva sau mấy năm được trả lại cho mẹ cô ấy. Bà ấy muốn thế.”
“Anh có biết tại sao không có lịch năm 1979 không?”
“Phải có chứ. Trong số những người chúng tôi hỏi chuyện có nhiều người tin chắc cô ấy có một quyển lịch trong năm cuối đời. Nhưng chúng tôi không sao tìm thấy nó. Đơn giản là nó mất tăm. Hoặc là cô ta đánh mất, hoặc ai đó đã lấy đi.”
“Anh có đoán con gái cô ấy ra sao không? Tôi muốn biết nhận định riêng của anh.”
“Dễ đoán nhất là đứa bé cũng thành nạn nhân trong vụ này, tất nhiên, và bị chôn ở đâu đó trên núi. Nhưng tôi mong nó sống sót. Ngày xưa, đôi khi nó hiện ra trong các giấc mơ của tôi và cất tiếng gọi mẹ.”
CHƯƠNG 14
“Chị có biết mình nói mơ không?”
Robert bổ một thanh củi nữa. Kari vừa ra khỏi nhà.
“Tôi nói gì cơ?”
“Chị nói lung tung, và khai hết các bí mật về mình. Bây giờ tôi biết khối chuyện.”
“Thôi đừng kể chuyện tiếu lâm nữa. Tôi nói gì vậy?”
“Chị nói: ‘Tên tôi cũng là Kari Solbakken.’”
Cô mỉm cười.
“Tên tôi cũng thế? Tôi nói thế nghĩa là gì nhỉ? Và nói với ai?” “À, còn chuyện khác nữa.”
“Gì nữa?”
“Chị gọi ‘mẹ.’ Có thể chị nói chuyện với mẹ. Có thể chị muốn nói với mẹ là chị tên gì, nếu chúng ta tìm thấy mẹ chị.”
Kari im lặng. Robert lại bổ củi tiếp. Kari nhìn quanh tìm kiếm. “Mình ở lại đây lâu hay sao?” cô hỏi.
“Tôi hứa với bà cụ sẽ bổ củi. Sau đó ta có thể đi, nếu chị muốn. Nhưng tôi nghĩ là mình có thể ở lại một hôm nữa. Bà cụ cho phép mình ở lại, nếu muốn. Cụ định kho thịt tuần lộc, ăn với khoai tây và dâu tự trồng.” “Thế thì ở lại. Tôi cũng chẳng vội gì.”
Cô ra khỏi cổng và đi dọc theo đường làng. Một chiếc xe tải chở gỗ về phía nam đi ngược lại. Đột nhiên cô chỉ muốn vẫy xe xin đi cùng. Thấy phụ nữ hẳn anh lái xe sẽ đỗ lại. Cô ngập ngừng giơ tay. Người lái xe có vẻ như nhận ra thái độ lưỡng lự của cô nên vẫn ầm ầm phóng tiếp. Đất rung dưới chân Kari. Tóc cô bị gió thổi bung lên. Rồi im ắng trở lại. Cô đi vào làng. Vì sao lại đi hướng này cô cũng không biết. Tiền cô để trong nhà, không thể mua bán gì được. Cũng chẳng có việc gì làm ở làng cả. Chân cô
như tự bước tới. Cô không nhớ mình đã tự vạch hướng đi lần nào chưa. Thường là cô đi theo những người khác.
Bây giờ là theo Robert. Tối qua cô đã cự tuyệt thẳng thừng. Thực ra cô cũng không ác cảm gì mà không ngủ với anh ta. So với những người khác mà cô từng có quan hệ thì, ít nhất là cho đến giờ, anh ta là người dễ thương. Tuy vậy cô đã nói không. Cô giữ khoảng cách với anh, không thì mọi việc lại như xưa thôi. Cô sẽ lại dễ dãi, lại bảo gì làm nấy.
Robert. Anh bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Hăm hai, hăm ba? Không làm chủ được cuộc đời mình. Hạng trẻ ranh, chưa phải đàn ông. Nhưng anh không đòi hỏi gì ở cô. Thậm chí cũng chẳng phật lòng khi bị cô từ chối. Khi ở trên giường anh muốn cô, đó cũng là chuyện bình thường, cả cô cũng thấy thế. Chính anh đề nghị cô đi tìm bố mẹ. Kỳ lạ là bản thân cô lại không nghĩ ra chuyện ấy, mặc dù kể từ khi biết sự thật không ngày nào là cô không âm thầm nói chuyện với mẹ mình. Cô xin mẹ lời khuyên, hỏi mẹ sẽ làm gì trong một số tình huống, và thích được mẹ an ủi. Nhưng cô không nghĩ đến việc đi tìm mẹ. Cũng không tìm bố, và hình ảnh ông cũng không thường trực bên cô. Cô tự hỏi, tình hình sẽ ra sao khi họ gặp nhau. Và cuộc tìm kiếm này sẽ làm cô biến đổi đến mức nào. Nỗi sợ hãi khiến cô ngóng tìm một chiếc xe tải chở gỗ khác.
Ở Hoting không có nhiều cửa hàng lắm. Kari đi bừa vào cửa hàng đầu tiên. Một cô gái hồ hởi chào Kari. Cô chào lại. “Anh chị ở nhà Nana đúng không?” cô gái hỏi.
Kari ngạc nhiên nhìn cô. “Nana?”
“Tên bà lão ấy mà.”
Kari gật. “Mai chúng tôi lại đi tiếp,” cô nói.
“Anh chị có họ với bà cụ à?” cô gái muốn biết.
“Không,” Kari đáp. “Chúng tôi thậm chí không quen bà cụ.” Cô gái dọn mấy thứ lên giá và nói tiếp: “Ờ, Nana không có họ hàng gì thì phải. Suốt đời bà ấy ở đây, ai cũng quen cả. Hình như bà ấy phát điên khi ông chồng chết trong rừng. Con gái thì chết từ hồi bé. Nana gần như suốt ngày ở ngoài nghĩa trang.”
“Bà ấy kể là chồng bà mai táng ở đây. Và kể là các con bà chẳng bao giờ về thăm mẹ.”
Cô gái lắc đầu. “Bà ấy làm gì còn con. Chỉ có một đứa con gái, nó chết khi lên năm. Bây giờ Nana toàn sống trong quá khứ thôi.”
Hôm sau hai người để Nana lại một mình. Bà tặng Kari một lọ mứt dâu. Ô tô đi tiếp về phương Bắc. Phong cảnh ngày càng thưa thớt hơn. Cây cối thấp và nhỏ đi. Những ngôi nhà bỏ hoang nằm rải rác cách xa nhau trên đồng cỏ thả tuần lộc. Nhiều đoạn đường xa lắc không có gì ngoài Robert và Kari.
CHƯƠNG 15
Elina không rõ nên tiến hành công việc ra sao. Hôm qua cô mẫn cán hoàn thành mọi việc mà người ta mong đợi ở cô. Cô tiếp nhận đơn tố cáo một vụ lừa đảo, nhưng phải đọc đi đọc lại mấy lần mới ghi nhớ được đôi chút.
Ngày lại ngày trôi đi… Cô nhìn vào lịch trên bàn. Ngày 1/10 được cô đánh dấu đỏ. Hôm nay thứ Tư, ngày 8/9, cơ may duy nhất để tiếp cận kẻ sát hại Ylva Marieanne Malmberg là tập trung tinh thần tối đa, không chỉ thỉnh thoảng mà thôi. Nhưng Jönsson sẽ không bao giờ cho phép. Sau lần bị phê bình tại buổi giao ban, cô đã mất hết khoản thời gian xông xênh. Có nên giấu giếm ăn bớt thời gian để làm vụ này không? Kỳ thực cô không muốn làm gì sau lưng John Rosén. Xin nghỉ phép? Cô hết phép rồi. Hồi tháng Hai cô đã sử dụng hết ba tuần. Đầu óc cô lơ mơ trôi đến với chuyến đi và người đàn ông trên cùng hành trình…
Elina chật vật quay về với hiện tại. Làm vào cuối tuần và sau giờ hành chính? Quá mệt mỏi và cũng không đủ. Biết đâu Jönsson lại cả tin cho là cô gộp hai vụ điều tra với nhau, qua đó cô sẽ có thêm thời gian? Có thể lắm chứ. Hồi mùa thu vừa rồi cô đã thành công một lần. Vụ bạo hành này cũng dính dáng gì đó với vụ sát hại Ylva Marieanne Malmberg. Chỉ có điều, cô không nghĩ ra dính dáng ở đâu.
Cô ngồi trong văn phòng. Trước mắt là khay đựng hồ sơ các vụ tồn đọng - đó là phần việc của cô. Elina bực bội nhìn tập giấy tờ. Cô lục trong đống biên bản thẩm vấn hồi mùa thu 1979, tìm số căn cước của Roger Malmberg và điền vào ô tìm trên màn hình. Một địa chỉ xuất hiện. Số 6 Salabacksgatan, Uppsala. Elina biết địa chỉ này. Mẹ Ylva đã sống ở đó, Ylva cũng lớn lên trong ngôi nhà ấy. Tổng đài cho cô số điện thoại. Một giọng đàn ông từ máy trả lời điện thoại của Roger Malmberg cho biết số di động. Sau hai hồi chuông Malmberg nhấc máy.
“Tôi gọi điện vì ba tuần nữa sẽ hết thời hiệu khiếu kiện vụ giết em gái ông,” Elina nói sau khi tự giới thiệu.
“Tôi không ngờ là vụ này chấm dứt sớm thế,” Roger Malmberg đáp. “Tôi chỉ nhớ là mùa xuân 1980 chúng tôi được tin Ylva chết. Tôi nghĩ lần cuối cùng tôi hay bố mẹ tôi liên hệ với cảnh sát đã cách đây hai mươi năm rồi.”
“Ông bà còn sống cả chứ?” Elina hỏi.
“Không, bố mẹ tôi mất rồi. Có gì mới trong vụ này không?” “Rất tiếc là không. Nhưng vì được biết là thời hiệu khiếu kiện sắp hết và sau đó thủ phạm sẽ trắng án…”
Elina nhấn mạnh từng chữ để Roger Malmberg hiểu cô thật chính xác. “… nên tôi đã xem lại hồ sơ lần nữa. Tôi nghĩ là có một cách để làm tiếp vụ này. Nhờ khả năng xét nghiệm ADN và các phương pháp điều tra mới, có thể tìm ra chi tiết nào đó mà các đồng nghiệp hồi ấy không phát hiện ra.”
“Nghĩa là chị tái lập điều tra và nỗ lực lần nữa? Tôi rất biết ơn chị. Tôi không dám khẳng định là việc này luôn dằn vặt tôi, song từ khi vụ ấy xảy ra, không ngày nào tôi không nghĩ đến nó ở một khía cạnh nào đấy.”
“Tiếc rằng tôi phải làm ông thất vọng. Tôi làm việc ở Västerås, về nguyên tắc, vụ này không thuộc bộ phận chúng tôi mà phải đưa về Arvidsjaur. Nhưng đề nghị các đồng nghiệp ở đó mở lại điều tra là vô ích, vì họ không có các công cụ cần thiết.”
“Nhưng chẳng lẽ chị không được phép dễ dàng tiếp nhận vụ này? Phi lý quá.”
Cô nghe giọng ông đầy căm phẫn. Được đấy, cô nghĩ.
“Xét về thủ tục thì cần phải có một quyết định. Và do thời gian còn rất ít nên tốt nhất là một người họ hàng đệ đơn lên nhà chức trách.” “Tôi có thể làm việc đó, nếu chị thấy có ích,” Roger Malmberg trả lời. “Chị chỉ cần nói với tôi là viết đơn đến cơ quan nào.”
“Ông hãy gọi điện đến giám đốc Ban Hình sự Quốc gia ở Stockholm.” Cô cho ông một tên người và số máy lẻ. “Ở địa vị ông, tôi sẽ kể là nghe nói hiện nay có phương pháp mới khả dĩ phá hàng trăm vụ án trong cả nước, và trong vụ em gái ông thời hạn đã sắp hết. Ông đã nói chuyện với tôi, thanh tra hình sự Elina Wiik, viết là W-i-i-k. Ông có thể dẫn thêm là sếp cũ của tôi, ông Oskar Kärnlund, đã cung cấp một số ý tưởng, song tôi không thể làm gì vì lý do thủ tục.”
“Tôi sẽ gọi ngay lập tức.”
“Cám ơn. Tiếc là lúc này tôi không làm được gì hơn. Nếu tình hình thay đổi, ông có thể bớt thì giờ để khẩn trương hỗ trợ tôi được không?” “Chị có thể gọi tôi bất cứ lúc nào, theo số di động hoặc ở nhà.” Điện thoại của Elina đổ chuông lúc bốn rưỡi. Cô nhấc máy ngay. “Tôi là trưởng phòng Klinga,” một giọng nói vang lên, “ở văn phòng Ban Hình sự Quốc gia. Tôi nghĩ là chúng ta chưa được hân hạnh quen nhau, nhưng việc đó sẽ được cải thiện ngay lập tức.”
“Vâng…” Elina ngập ngừng trả lời.
“Mai chị có thể tới thành phố được không? Tôi định nói là tới Stockholm ấy mà. Người địa phương chúng tôi cứ có thói quen xấu, gọi Stockholm đơn giản là thành phố. Chúng ta sẽ cùng đi ăn trưa nhé?” “Kể ra thì không có vấn đề gì. Nhưng…”
“À, chị muốn biết ta sẽ nói chuyện gì? Tôi muốn bàn với chị về một vụ điều tra. Mười một rưỡi được không? Cửa vào phía Polhemsgatan. Chị cứ nói là đến chỗ Klinga.”
“Vâng, mười một rưỡi ngày mai.”
CHƯƠNG 16
Cơ thể cô đòi được để tâm đến. Nó chống cự. Người cô run lên. Đó là phản ứng cơ thể rõ rệt đầu tiên mà cô nhớ lại kể từ khi bị nôn ở nhà vệ sinh sân bay Arlanda. Kể từ cái hôm đó, cô có cảm giác mình bồng bềnh trôi như đám bọt nơi đầu sóng.
Cô quan sát Robert đang xếp lều lại. Không hề nghĩ phải giúp một tay. Mà anh cũng không đề nghị cô giúp. Tối qua họ dừng lại bên một bờ hồ. Robert dựng lều, thổi đệm cao su lên và nhặt củi vương vãi để nhóm lửa. Suốt thời gian ấy cô chỉ đứng nhìn. Xong mọi việc cô mới bắt tay vào xắt lát khúc xúc xích còn thừa, đặt lên các lát bánh mì bơ và phết mù tạt lên. Họ uống bia trong bữa ăn. Kari ăn rất ngon miệng.
Robert kể về các dự định của mình. Anh thích nhất được trở thành nhạc sĩ và họa sĩ. Graffiti đang mốt, anh khẳng định. Y như hip-hop và rap đã đè chết rock già cỗi, graffiti sẽ thế chân những bức tranh tẻ nhạt. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Anh rất giỏi. Rồi anh bắt đầu miêu tả phong cách của mình. Kari nghe quen như đã gặp đâu đó, nhưng lần này cô không cười nhạo anh nữa.
Họ ngủ thiếp đi bên cạnh nhau, lần này nép sát vào nhau hơn vì trời đêm rất lạnh. Cô ngủ sâu, và thức dậy vì rét run lên. Khi bò ra khỏi lều đi tiểu cô thấy một con chim ưng trên đầu.
Giờ thì cô đứng bên mép đường và đợi Robert xếp xong lều để nổ máy ô tô rồi chui vào xe cho ấm. Cô không biết họ đang ở đâu. Thoạt tiên Robert quyết định đi đường ngắn nhất tới Na Uy, nhưng sau đó anh nghĩ lại và chọn tuyến ít xe hơn. Cô thì thế nào cũng được. Robert vác túi đựng lều ra xe, ném vào cốp. Họ lên xe, Robert xoay chìa khóa điện. Chỉ nghe cạch một tiếng. Anh thử lần nữa. “Chó má thật,” anh chửi và kéo lẫy mở ca pô khám động cơ.
“Bị đứt một dây cáp ở bình điện,” anh kêu lên. “Khốn nạn rồi.”
“Anh không sửa được à?” Kari hỏi lại.
“Phải thay cáp điện mới,” anh trả lời. “Mình phải đợi có người nào đi qua, nhờ kéo đến xưởng sửa chữa gần nhất. Hoặc họ có dây đấu điện trong xe.”
Cô đứng ra cạnh ô tô và nhìn quanh. Cho đến hết tầm mắt chỉ có con đường đất ngoằn ngoèo. Cô không biết mấy giờ, nhưng đoán còn sớm lắm, vì không khí còn lạnh ngắt. “Chưa phải giờ cao điểm,” cô nói.
Họ lại vào xe. Kari co cẳng lên và tì cằm vào đầu gối. Robert toan vòng tay ôm để sưởi ấm và truyền cho cô cảm giác an tâm rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Nhưng anh không dám. Thay vào đó anh nhìn gương chiếu hậu để không bỏ qua xe nào đi tới.
“Nó đi đâu ấy nhỉ?” Robert hỏi khi một con tuần lộc chạy ngang đường.
“Đến chỗ bọn tuần lộc vẫn đến, và làm chuyện bọn tuần lộc vẫn làm,” Kari đáp. “Hồi lớp sáu tôi muốn trở thành nhà nghiên cứu hành vi,” cô nói tiếp. “Tôi quan sát con nhện giăng tơ. Tôi tự hỏi, nhện có bao giờ có thì giờ rảnh không, hay đơn giản là lúc nào cũng lười nhác. Thấy một con chó bị buộc trước cửa hàng, tôi cũng đứng lại xem nó làm gì. Con chó nghĩ gì khi ông chủ hay bà chủ buộc nó vào cột rồi đi mất? Nó có biết là phải đợi một lát hay sẽ ngồi đó cho đến chết? Tôi thấy rất thú vị. Lớn hơn một chút, tôi muốn thành một nhà du hành mạo hiểm. Một ông giáo nói với tôi là mọi thứ trên thế giới đều được phát hiện cả rồi. Duy nhất còn sót lại biển sâu. Tôi nảy ra ý định trở thành nhà khảo cổ học. Vả lại ông giáo ấy không có lý. Còn vô số thứ chưa được phát hiện, chỉ có điều, ta không nhìn ra chúng thôi. Phải khai quật chúng lên đã.”
“Chị có học môn gì tương tự không?”
“Không… điểm tốt nghiệp phổ thông của tôi rất cao. Nhưng tôi không biết nên quyết định làm gì. Nếu chọn nhầm thì sao? Lúc đó tôi nghĩ thế. Mẹ chết một năm trước khi tôi tốt nghiệp phổ thông. Tôi thừa kế được ít tiền. Một thời gian dài tôi muốn làm gì thì làm. Lên đại học hay du lịch. Mặc dù trái đất đã được phát hiện, ít nhất là trên bề mặt, song nói đúng ra thì tôi đã thấy nó đâu? Với tôi nó còn mới, giống như…”
Cô chỉ tay ra đầm lầy trước kính chắn gió.
ẳ
“... tất cả những gì đằng kia. Nhưng tôi chẳng đi đâu cả, chỉ ngồi nhìn lên tường. Và hút thuốc. Đến tận hè vừa rồi. Tôi đi Việt Nam. Tôi nghĩ sau chuyến đi ấy mọi sự sẽ đổi khác. Sẽ tốt hơn. Nếu tôi nghiêm túc làm một việc gì đó. Nhưng rồi lại có những chuyện xảy ra như… và tôi vẫn chưa biết mình muốn gì.”
“Có khi đi ra thế giới chẳng hay hớm gì, nếu người ta không có chỗ để quay về?” Robert đón ý cô. “Người ta sẽ chỉ là một dạng đào tẩu.” “Tôi cũng vào trại thần kinh một dạo, mấy tháng thôi, và cũng cách đây vài năm rồi. Từ hồi ấy trở đi tôi uống thuốc chống trầm cảm.” Cô quay sang anh. “Tôi quên thuốc ở nhà rồi.”
“Chị phải mua thuốc mới, nếu chị cần,” Robert nói. “Có đắt không?” “Không, nếu người ta thường xuyên phải uống thuốc như tôi. Người bệnh chỉ phải tự trả đến một giới hạn nhất định. Mình có bao nhiêu tiền nhỉ? Sửa xe có đắt không?”
Robert tìm trong túi và lấy ra mấy tờ một trăm cu-ron gấp nếp nhiều lần. “Tôi không có nhiều lắm,” anh nói. “Có lẽ mình phải dùng ống hút để ăn trộm xăng từ các xe khác thay vì đi bơm ở trạm xăng. Dây điện chắc không đắt lắm. Tôi tự đấu được.”
“Tôi có mấy nghìn cu-ron trong tài khoản,” Kari nói. “Để tôi xem lại.” Anh quay hẳn lại nhìn phía sau. Một chiếc ô tô hiện ra trong đám mây bụi. Robert nhảy khỏi xe, đứng ra giữa đường và giơ tay vẫy rối rít. Chiếc xe dừng lại và tài xế quay cửa kính xuống. Robert đi đến. “Ông có dây đấu điện không? Tôi không đề được.”
“Tiếc là không,” người đàn ông đội mũ lưỡi trai xoay ngược trả lời. “Nhưng tôi có dây kéo xe, tôi có thể kéo anh, xưởng sửa chữa không xa đây mấy.”
“Bao xa?” Robert muốn biết.
“Đến xưởng Martinssons ấy à? Khoảng bảy mươi cây số. Tôi đánh xe ra trước một đoạn.”
Ông ta đánh xe vòng qua chiếc ô tô hỏng và hai người buộc dây kéo. “Anh phải giữ dây cho căng,” ông ta nói. “Cài số hai và nhấn còi nếu xe nổ máy được.”
ẳ
Máy nổ ngay, và họ lại tháo dây kéo ra. Họ đi thẳng mấy chục cây số. Trước một đoạn rẽ, người đàn ông dừng xe, chỉ tay qua cửa sổ mở. Robert rẽ, ông ta giơ tay chào trước khi đi tiếp.
Kari có cảm giác là họ đi sâu vào vùng núi. Cây cối ngày càng thấp và cằn cỗi hơn. Họ đi qua mấy ngôi nhà đứng riêng biệt, sau đó là nửa tiếng liền không thấy nhà nào. Cuối cùng họ đến một trang trại và đi vào sân. Một người đàn ông để ria mép, tóc mai dài và đeo khuyên tai bước từ nhà để xe ra. Trên cửa treo biển “Martinssons Ô tô & sửa chữa.” Một dãy mô tô trượt tuyết và một chiếc xe tải đỗ đằng trước.
“Tôi hàn lại được,” ông ta nói sau khi ngó vào khoang động cơ. “Hoặc các người phải đợi tôi đi mua đồ mới. Chiều nay tôi ra thành phố.” Kari nhìn quanh và hỏi thành phố ở đâu.
“Hàn lại thôi,” Robert nói.
“Trong bếp có cà phê đấy,” người đàn ông có tóc mai dài nói và đi tiếp vào nhà để xe, không quay lưng lại.
“Đi nào,” Robert nói với Karỉ và đi vào nhà.
Một ông già ngồi trong bếp. Robert tiến tới và chìa tay “Chào cụ,” anh nói. Ông già không động đậy.
Kari chờ ở hành lang. Cô không biết phải làm gì nên không dám bước vào nhà. Robert đi ra chỗ bếp lò có đặt ấm cà phê. “Cho cháu xin một cốc được không?” anh quay sang ông già hỏi.
Mặc dù không được trả lời, anh lấy hai cốc từ giá úp trên bồn rửa và rót cà phê.
“Mình có được phép không?” Kari hỏi.
“Ông ngoài kia nói được mà,” Robert trả lời. “Tôi đói quá, lại đây nào.” Kari ngập ngừng ngồi xuống chiếc ghế cách xa ông già. Robert mở cánh cửa vào kho trữ đồ ăn và tìm được một rổ bánh mì sấy. Trong tủ lạnh
có bơ. Anh phết bơ lên hai chiếc bánh mì cóc và đưa một chiếc cho Kari. “Tôi mù,” chợt ông già lên tiếng, “nhưng tôi đã được thấy nhiều.” “Cụ đã thấy gì?” Robert hỏi.
“Tôi đã thấy con cú bay.”
“Ở ngoài kia?”
“Cú chỉ bay bên ngoài thôi.”
“Vâng, dĩ nhiên,” Robert nói và cắn một miếng to.
“Tôi đã thấy thời gian trôi đi,” ông già nói. “Nó trôi ngang cửa sổ nhà tôi. Và tôi đã thấy con chó của Rutus.”
“Con chó của ai vậy?”
“Tôi thấy con chó của Rutus.”
Rồi ông im lặng. Ông ngồi im trên ghế, không động đậy chút nào. Khi Robert hỏi tuổi ông, ông không trả lời. Kari ăn thật nhanh rồi giật tay áo Robert.
Khi quay ra sân họ không thấy một bóng người. Nhà để xe đã đóng. Robert ấn tay nắm nhưng cửa khóa. “Ông ấy đi rồi thì phải,” anh nói và quay sang nhìn Kari. “Tôi muốn đi khỏi đây,” cô nhất quyết. “Tôi không muốn ở lại đây.”
Robert vào xe và xoay chìa khóa điện. Động cơ nổ ngay. Anh leo khỏi xe và ngó quanh.
“Nhất định không thể hơn một trăm cu-ron,” anh lẩm bẩm và rút một tờ ra khỏi túi quần, kẹp vào cửa nhà để xe. Đúng lúc đó người đàn ông có tóc mai dài từ sau nhà đi tới. Ông cầm tiền, không nói một câu. “Chúng ta đang ở đâu?” Robert hỏi.
“Đang ở đây,” ông ta trả lời.
“Chúng tôi muốn đi Na Uy,” Robert nói.
Ông chỉ tay ra đường. “Cứ đi về phía núi. Sau một tiếng sẽ có đường rộng hơn. Rẽ trái là đi Na Uy.”
Robert ngồi xuống sau tay lái, và Kari vội lên xe. Họ từ từ ra khỏi sân. Lúc Kari quay lại nhìn thì người đàn ông đã biến mất.
CHƯƠNG 17
“Đợi chút.”
Người gác cổng nhấc điện thoại và nói mấy câu với đầu dây bên kia. “Mấy phút nữa ông ấy ra,” ông nói. “Bà có thể ngồi đợi bên kia.” Elina ngồi xuống chiếc ghế băng hướng ra cửa sổ. Lần cuối cô đến Sở
Cảnh sát Stockholm trên bán đảo Kungsholmen cách đây hai năm. Nhớ lại lần đó, bất giác cô mỉm cười. Cô đã xúc phạm một tay trưởng phòng cảnh sát an ninh không nhiệt tình cộng tác. Có phải ông ta tên là Karlsson không nhỉ? Karlsson có nốt ruồi? Dĩ nhiên cô xử sự không hay lắm. Nhưng cuộc gặp gỡ này sẽ tử tế hơn. Một người đàn ông cao lớn xuất hiện và nhìn Elina. Cô đoán đó là trưởng phòng Klinga và nhỏm dậy. To thế, cô nghĩ bụng. Anh sẽ được chiêm ngưỡng bộ mặt hoành tráng nhất của tôi, không phải ai cũng có dịp may ấy đâu nhé. Elina cười rạng rỡ và chìa tay ra.
“Klinga,” người đàn ông nói và đáp lại nụ cười của Elina. Ông bắt tay cô. “Cứ gọi tôi là Steve.”
Giống Steve Lloyd? Elina nghĩ bụng và cố nhịn để không cười phá lên. “Đồng nghiệp gọi tôi là Wiik,” cô nói. “Các bạn thì gọi Elina. Tùy anh chọn đấy.”
Ông cười. “Thế thì tôi chọn Elina. Tôi đâu dám làm gì khác khi nghe danh tiếng của chị.”
Ông khoác tay cô đưa ra cửa. “Tôi nghĩ mình có thể đến một nhà hàng gần đây. Đi bộ được.”
Họ đến một nhà hàng Ý ở Hantverkargatan. Nhiều thịt hơn Pizza. Khăn ăn bằng vải ca rô xanh lá cây.
“Chúng tôi rất quan tâm theo dõi các vụ phiêu lưu của chị,” ông vào chuyện khi họ ngồi xuống một bàn ở góc vắng. “Tất cả mọi người ở đây đều rất ấn tượng.”
Elina mỉm cười thúc thêm. Cứ thế tiếp tục đi, cô nghĩ. Khởi đầu thế là thuận lợi đấy.
“Dĩ nhiên cũng có đồng nghiệp phải tiêu hóa cú sốc sau vụ phá án gần đây nhất của chị. Chắc chị hiểu rõ rằng chị là một trong những nguyên nhân chính khiến sếp của cảnh sát an ninh mất ghế chứ?”
“Như tôi được biết thì chuyện đó có những lý do khác,” Elina bác lại. Klinga phẩy tay. “Lý do khác thì bao giờ chả có. Thật sự và giả hiệu.” Ông nhổm lên trước với điệu bộ tin cậy hơn. “Chị quá biết là hiện tại
mọi thứ đang như trứng để đầu đẳng. Tất cả đều rình ngáng chân nhau. Nhân viên Ban Hình sự Quốc gia cho rằng họ bị thiệt thòi về lương bổng, khiến chuyện càng rối thêm. Tệ hơn nữa là dư luận dần dần kém tin cậy chúng ta. Cũng một phần có lý, tôi buộc phải công nhận. Đôi khi tất cả đều bị săm soi như nhau, bất kể Palme bị sát hại hay chỉ là một vụ đào tường khoét ngạch.”
Cô im lặng suy nghĩ, ông ta kể lể dài dòng với mục đích gì vậy? “Tóm lại là chúng tôi cần những người như chị, những cộng tác viên hăng hái và dám đảm đương các vụ hóc búa chứ không sớm bỏ cuộc.” Ông ngả người vào lưng ghế. “Và cũng được cảm tình của giới truyền thông nữa, chớ quên điều đó.” Ông mỉm cười. Rõ ràng ông tự hài lòng với chính mình. “Thế thôi đã,” ông nghiêm trang nói tiếp. “Hôm qua, người thân của một nạn nhân bị giết gọi điện cho tôi. Một vụ lâu rồi. Tôi nhớ đó là anh của nạn nhân. Ông ta nói, một tháng nữa thủ phạm sẽ trắng án, nhưng chị muốn xới lại lần nữa.”
“Ba tuần nữa,” Elina cải chính. “Em ông ấy tên là Ylva Malmberg. Người ta tìm thấy cô ấy bị siết cổ chết, cách đây gần hai mươi lăm năm. Anh nói đúng, tôi đã xem lại vụ này, nhưng nó không thuộc về những vụ của chúng tôi ở Västerås và sếp của tôi không ưa cử người đi làm việc khác. Tiếc là tôi không thể làm gì được.”
“Đúng thế,” Klinga nói. “Nếu chúng tôi can thiệp vào thì tình hình lại khác. Nhưng tất nhiên, khi trung ương chọc vào chuyện của địa phương thì bao giờ cũng có vấn đề. Thế nào cũng lại có kẻ kêu ca bọn thành phố bắt nạt…”
Bắt nạt nhà quê? Elina nghĩ. “Tôi sẵn sàng nhận vụ này,” cô nghiêm trang nói. “Mặc dù chỉ còn mấy tuần nữa thôi. Nhưng tôi tin là có khả năng
phá được vụ này.”
Chưa nói xong cô đã hối hận về cách dùng từ của mình. Người ta sẽ cho cô là kẻ điên rồ thiếu thực tế nếu cô thất bại. Tại sao cô không vin vào một nguyên tắc cao hơn như ý thức nghĩa vụ chẳng hạn, hoặc tinh thần trách nhiệm, vốn là những thứ mà các sếp và chính trị gia luôn thích nhai đi nhai lại? Nhưng Klinga có vẻ như chẳng để ý lắng nghe.
“Thôi được,” ông nói. “Để tôi xem có thể làm gì được không.” “Nếu tôi được phép hỏi: tại sao lãnh đạo Ban Hình sự Quốc gia lại quan tâm đến chuyện này?”
“Tôi đã nói rồi. Cảnh sát không bao giờ chịu thua.”
Thì ra là phục vụ quan hệ công chúng, Elina nghĩ. Thanh tra hình sự Wiik, một nữ cảnh sát kiên định ở tỉnh, vững vàng trong đấu tranh vì pháp luật và trật tự. Họ muốn gì cũng được, cốt là để mình làm vụ này.
Bữa ăn trưa trôi qua với những chuyện vặt thường nhật trong giới cảnh sát. Elina ngạc nhiên tại sao Klinga không hỏi lấy một câu về vụ Ylva Marieanne Malmberg.
Gần ba giờ chiều Elina về đến Sở Cảnh sát Västerås. Lập tức điện thoại réo chuông, trên màn hình hiện số của Jönsson. Ông muốn gặp cô. Giọng ông kém thân thiện.
Cô cặp hồ sơ vụ lừa đảo dưới nách và đi tới phòng Jönsson. “May mà anh gọi điện cho tôi,” cô nói, không để Jönsson kịp mở miệng. “Tôi vừa định hỏi anh mấy chuyện trong vụ này.” Cô vung mấy tờ giấy lên và mỉm cười xã giao.
“Để lúc khác,” Jönsson nói. “Tôi vừa nhận được điện thoại của trưởng phòng Klinga từ Stockholm. Có thể chị biết là có việc gì rồi chứ?” Elina ước gì không phải trả lời. Cô cố tạo vẻ mặt ngây ngô. Jönsson giơ ngón trỏ lên và trông như sắp nổi cơn lôi đình, nhưng ông không nói lời nào. Ông hạ ngón tay xuống rồi mới nói.
“Ông trưởng phòng ấy ủng hộ chuyện chị - chứ không phải ai khác - nhận điều tra một vụ sắp hết thời hiệu khiếu kiện, và nói là chị đã chứng minh tính sáng tạo trong việc điều tra các vụ án mạng, vì lý do đó có lẽ chị là người thích hợp với nhiệm vụ này. Ngoài ra ông ấy còn nói rằng giám
đốc Ban Hình sự Quốc gia muốn chúng ta soi lại các vụ giết người cũ, vì điều đó chứng tỏ cảnh sát không bao giờ bỏ cuộc khi điều tra các trọng án. Tóm lại, ông ấy tin rằng qua vụ này có thể nhanh chóng được điểm ở Stockholm, và chuyện đó còn quan trọng hơn là chúng ta hoàn thành công việc ở đây.”
“Ông ấy nói đến vụ nào vậy?” Elina hỏi.
“Đừng giả bộ nữa Wiik, chị biết rõ vụ nào rồi. Vẫn lại một mẹo thông thường của chị thôi. Bây giờ thì, một là tôi phải cho phép chị bắt tay vào một vụ cũ rích vô vọng, hai là tôi gọi điện bảo ông giám đốc Ban Hình sự Quốc gia là thằng ngu.”
Elina làm ra bộ bất bình. “Thế vụ này để cho ai làm đây?” cô nói và chìa hồ sơ vụ lừa đảo ra trước mặt Jönsson.
Jönsson lại đưa ngón trỏ lên, lần này chỉ ra cửa.
Cô khẽ đóng cửa rồi sang phòng John Rosén, kể cho ông nghe chuyện vừa xảy ra. Rosén thở dài.
“Hôm vừa rồi rõ ràng là chị không chú ý nghe tôi nói gì,” ông nói. “Có chứ,” Elina trả lời. “Nhưng tôi cho rằng việc này quan trọng hơn. Ít nhất là theo đánh giá của tôi. Quá đơn giản.”
“Jönsson sẽ không lui quân đâu,” ông nói. “Sau này chị sẽ phải phòng thủ cẩn thận đấy.”
“Jönsson sẽ chóng nản chí vì không bao giờ túm được tôi cả.” “Túm được quá đi chứ. Chị hãy tin tôi đi. Không sớm thì muộn. Nếu Jönsson không làm gì ngay thì lý do chỉ vì tránh cà khịa cấp trên. Nhưng nếu các sếp để mắt đi chỗ khác thì Jönsson sẽ ra tay ngay. Để tấn công chị.”
Elina rùng mình, tựa như muốn rũ bỏ lời cảnh báo của Rosén. “Nếu mọi người nghĩ là tôi lẩn tránh thì còn tệ hơn. Đành chung sống với lũ thôi. Anh có thể hỗ trợ tôi trong vụ này không, John?” “Jönsson sẽ không cho phép chị kéo thêm tôi vào vụ này đâu. Chuyện ấy thì chị phải hiểu chứ.”
“Tôi chỉ muốn anh kiếm cho tôi một công tố viên. Như một dạng trực ban chờ sẵn, phòng trường hợp tôi tìm ra một nghi phạm. Lúc đó thì phải vắt chân lên cổ và tôi không muốn bị tắc tị trong một hệ thống ngập ngụa
công việc. Anh có thể tìm cho tôi một người không nghỉ phép từ giờ đến 1/10 không? Đó là ngày hết hạn truy tố.”
Rosén gật đầu đầy vẻ chán chường.
“Và tôi cũng muốn bàn bạc về vụ này với anh. Tôi cần một người để nói chuyện.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” ông nói và trông còn chán chường hơn. “Cám ơn,” cô vui vẻ nói và nhìn vào ô lịch trên đồng hồ đeo tay. “Tôi còn ba tuần nữa thôi. Phải bắt đầu luôn. Không còn nhiều thì giờ nữa.”
Trước tiên, cô gọi điện ngay từ văn phòng mình cho Roger Malmberg để hẹn gặp. Nếu cần thiết, ông nên xin nghỉ phép. Họ thống nhất lịch hẹn vào chín giờ sáng hôm sau.
Sau đó, cô lựa tất cả các biên bản thẩm vấn trong hồ sơ ra. Cô định đọc theo hai hướng: một là tìm ra những cá nhân quan trọng cho lần thẩm vấn mới, hai là để nhìn vụ này trong một ngữ cảnh mới cũng như đánh giá lại các cá nhân đó. Ai sẽ bị nghi vấn là bố đứa trẻ hoặc/và kẻ sát nhân? Có ai biết bố đứa trẻ song lại có lý do để ngậm miệng? Ai là người nấp sau cái tên viết tắt là N.?
Cô quyết định chia các biên bản thành nhiều tập để đọc. Những người cùng đi Ấn Độ tách rời thành viên nhóm chung sống, họ hàng đứng riêng, các giáo viên cũng vậy. Cô phân loại cho đến khi trước mặt có cả thảy chín tập giấy.
Cô chỉ tạm ngừng đọc để dò lại trong ngân hàng dữ liệu xem người đó còn sống không và hiện đang ở đâu. Có vẻ như hầu hết các cá nhân bị thẩm vấn ngày đó vẫn còn sống. Tất cả những người hồi 1979 quen Ylva đều ở độ tuổi hai mươi đến ba lăm, có nghĩa là hiện nay từ bốn lăm đến sáu mươi tuổi. Rất ít người ở trường Tärna Folkhögskola bây giờ đã ngoài sáu mươi tuổi.
Lần từng bước một, Elina lọc ra những cá nhân mà cô định gọi điện. Ylva có quan hệ khá lâu với một người đàn ông ở nhóm chung sống. Người này hơn Ylva bảy tuổi và tên là Bernt Högstedt. Họ đi với nhau ngót ba năm. Ông ta sẽ biết nhiều về quan hệ của Ylva với đàn ông, Elina nghĩ.
Cô quyết định trước tiên sẽ gọi điện đến một trong các phụ nữ ở nhóm trên - Tina Möller, hiện vẫn sống ở Uppsala.
Có vẻ như tình hình lặp đi lặp lại khi Ylva đi Ấn Độ. Cô lại có quan hệ với một trong những đàn ông cùng nhóm. Elina quyết định nói chuyện với một người đàn ông khác trong nhóm đi Ấn Độ - Peter Fäldt. Người này cũng ở Uppsala.
Ở trường Tärna Folkhögskola, hình như Ylva chơi nhiều nhất với một cô gái trẻ hơn mình, Mikaela Andersson, nhà ở Sala. Cô này khai là không biết Ylva có mang với ai. Cuối buổi thẩm vấn, cô kể một chi tiết khá quan trọng: dạo mùa thu, giữa học kỳ, Ylva bị một vết bầm máu to ở cẳng tay. Mikaela Andersson hỏi tại sao, và Ylva kể là bị ngã.
Mùa thu, giữa học kỳ, Elina suy nghĩ. Khi đó Ylva hẳn biết mình đã có mang.
Một số giáo viên bị thẩm vấn, nhưng không ai biết gì cụ thể. Elina quyết định nói chuyện với Mikaela Andersson, sau đó với các giáo viên. Elina lọc ra trong đám bạn trai ngủ với Ylva người được đánh dấu bốn sao - Staffan. Một con đực xuất sắc đây, cô nghĩ. Ông ta có họ là Wallen và sống ở Tillberga, cách Västerås chừng mười cây số, rất thuận tiện. Hồ sơ liệt kê ra hơn hai trăm người. Elina lập ra một danh mục với tất cả tên tuổi, đánh dấu ngắn gọn như “cùng học,” “hàng xóm,” v.v. để dễ tìm ra họ trong đống giấy tờ.
Nói chính xác là không xác định được nghi phạm nào, cũng chẳng có ứng viên tiềm năng nào bị coi là bố đứa trẻ. Trừ nhân vật N. bí hiểm trong cuốn lịch bỏ túi vẫn chưa nhận diện được. Elina tự hỏi, liệu các đồng nghiệp của cô có bỏ sót kẻ sát nhân. Bình thường ra thì thủ phạm xuất hiện đâu đó trong hồ sơ, bị hỏi cung hay được nhắc đến, ngẫu nhiên hoặc khôn khéo lặn đi trong một đống danh tính.
Các điều tra viên cũng không thực sự tiếp cận nổi Ylva. Tất cả các câu trả lời đều có gì đó mơ hồ. Tựa như giữa Ylva và môi trường xung quanh có một khoảng cách khó định nghĩa. Không người nào thực sự quen Ylva. Việc Ylva chết cô đơn trên vùng núi nói lên tất cả.
Tuy nhiên quá trình điều tra cũng cho thấy một điểm khác: mọi giọng điệu của lời khai hợp thành một bản đồng ca với các chất giọng và âm hưởng khác nhau, song đều bị chi phối bởi một âm chủ đạo. Elina không rõ
các điều tra viên có nhận ra điều đó không. Cô cũng chưa định đặt tên cho sự đồng nhất đó, mà trước tiên cô muốn trò chuyện với những người đã được chọn lọc ra đã.
Đã sáu rưỡi rồi. Elina phải làm thêm giờ. Hôm nay là thứ Năm. Cô suy nghĩ có nên gọi điện cho Staffan Wallen ở Tillberga. Tên ông ta có trong danh bạ điện thoại. Cô lưỡng lự. Nếu ông ta có gia đình thì khó nói chuyện thoải mái về quan hệ tình dục với Ylva, ngay cả khi hai mươi lăm năm đã trôi qua. Cô nhấc điện thoại. Cứ để ông ta tự quyết định có muốn nói chuyện với mình không.
“Nửa tiếng nữa xin mời chị qua đây,” ông nói sau khi ngập ngừng khá lâu. Elina rời khỏi văn phòng ngay và ra ô tô. Trước khi đến thăm người tình bốn sao của Ylva, cô muốn ghé qua Sandgärdsgatan. Cô ghi lại tên hai người sống trong ngôi nhà này từ năm 1979. Cô đã thử gọi điện cho họ nhưng không ai nhấc máy. Bây giờ cô định bỏ danh thiếp vào hòm thư, kèm đề nghị gọi lại. Ngày Chủ nhật 27/8 trong lịch của Ylva có ghi “N. đến”, hy vọng một trong những người hàng xóm nhớ lại được.
Trước tiên, Elina bấm chuông trên cửa đối diện với căn hộ của Ylva. Không thấy ai mở, cô thả danh thiếp vào hòm thư. Trong khi bỏ đi, chợt cô dừng phắt lại như mọc rễ trước cửa căn hộ mà cô đã đến thăm cách đây mấy bữa. Cái tên viết trên khe bỏ thư đã biến mất. Cô còn nhớ đó là tên Hedlund. Ylva Hedlund, người tiếp chuyện cô hôm ấy, đã chuyển khỏi đây rồi sao? Từ thứ Hai? Elina bấm chuông. Không ai mở. Cô ra trước mặt tiền để nhìn lên. Không có chậu hoa nào trên bậu cửa sổ. Trên bao lơn phía sau nhà cũng thế. Căn hộ có vẻ như không người. Elina chau mày. Khó hiểu quá. Cô chậm rãi đi ra xe và lái về hướng Tillberga.
Nhà Staffan Wallen ở Pistonggatan, bên rìa một ngôi làng nhỏ nằm bao quanh nhà ga xe lửa. Tên phố đặt theo trục piston của động cơ. Hợp ra phết, Elina nghĩ. Wallen ra mở cửa, không hề gây ấn tượng của một người tình bốn sao. Năm nay ông năm mươi tư tuổi, chắc từ khi được Ylva chấm điểm cao đến nay mỗi năm ông tăng một cân. Ông đón chiếc áo khoác của Elina để treo lên móc. Nhìn cách ông cử động, Elina buộc phải tin là ngày xưa chắc chắn ông phong độ hơn nhiều.
“Bọn trẻ đi đá bóng cả rồi,” ông nói. “Hai đứa, mười lăm và mười bảy. Tôi nghĩ là nói chuyện về vụ giết người trước mặt chúng không hay lắm.”
Không có áo khoác hay măng tô trên mắc áo, và không có đôi giày nào ngoài hành lang cho phép đoán có mặt một phụ nữ trong nhà. Bừa bộn kinh khủng. Sống một mình với hai đứa trẻ mới lớn chắc không thể khác, Elina nghĩ bụng.
Staffan Wallen đặt hai tách lên bàn và rót cà phê, không hỏi xem cô có thích không.
“Phải nói là tôi rất ngạc nhiên,” ông nói. “Chuyện đáng sợ này có phải mới xảy ra hôm qua đâu.”
“Tôi chỉ muốn hỏi ông mấy câu về Ylva thôi,” Elina mào đầu, “và về quan hệ của ông với cô ấy.”
“Tôi không thuộc diện bị nghi vấn đấy chứ?” ông vừa hỏi vừa cười như để chứng tỏ việc đó vô lý chừng nào.
“Hoàn toàn không,” Elina nói. “Nhưng tôi nói chuyện với ông vì một lý do nhất định. Ông đã ngủ với cô ấy nhiều lần. Có thể đọc thấy trong hồ sơ và trong lịch của cô ấy.”
Giờ thì Staffan Wallen ngồi im như tượng trên ghế. “Vâng?” ông chỉ thốt ra được một tiếng.
“Quan hệ của ông với Ylva ra sao, bỏ qua khía cạnh tình dục?” “Chắc chuyện đó cũng ở trong hồ sơ chứ?”
“Rất ngắn thôi. Ông cứ kể cho tôi nghe đi.”
Ông thở ra một hồi lâu rồi mới trả lời: “Tôi không biết bây giờ thì thế nào, khi có Aids và những thứ tương tự. Nhưng hồi tôi còn trẻ thì người ta ngủ với nhiều bạn gái như có thể. Ít nhất là tôi đã làm vậy. Ylva là một trong số đó. Không hơn không kém.”
“Cô ấy có ý nghĩa gì đối với ông?”
“Một người cùng giường. Tôi nói thẳng tuột, xin chị tha lỗi. Nhưng hồi đó là thế. Hầu hết các bạn tôi cũng thế. Chúng tôi là đồ lợn, nhưng có lẽ ngày đó chúng tôi không ý thức được. Chỉ khi người ta biết yêu thì mọi chuyện mới khác đi. Lúc đó người ta mới lơ mơ chú ý đến con người.”
Ông nhìn quanh, tựa như sợ người mình yêu bất ngờ xuất hiện. Elina nhận ra ánh buồn bã trong mắt ông.
“Là một người cùng giường có làm cô ấy thỏa mãn không?”
Giọng Elina nghiêm khắc. Lập tức cô nguyền rủa hành vi thiếu chuyên nghiệp của mình. Nói cho cùng, cô muốn ông trả lời, trả lời một cách chân thành, không quanh co. Ông nhận ra giọng nghiêm khắc của cô, nhưng không xin lỗi.
“Khi tán tỉnh một cô gái thì dĩ nhiên người ta không nói ngay câu ấy ra. Phải khen ngợi cô ta, phải cố ra vẻ độc đáo. Tôi không nhớ rõ ngày ấy tôi nói gì và mọi chuyện với cô ấy ra sao. Nhưng cô ấy leo lên giường khá dễ dàng.”
“Cô ấy xử sự thế nào?”
“Chị định hỏi gì?”
“Cô ấy đối xử với ông ra sao?”
Ông im lặng, ngửa đầu ra phía sau, vẻ suy tư.
“Một dạng trò chơi thôi, đúng không? Tôi luôn cố gắng nói những câu thích hợp để chiếm được cảm tình của cô ấy. Nhưng sau đó cũng phụ thuộc vào khả năng biết lắng nghe. Tôi nghĩ Ylva thuộc dạng người muốn người khác lắng nghe. Thực ra ai cũng muốn vậy, nhưng cô ấy có vẻ hàm ơn khi được coi trọng.”
“Nhưng theo cách nhìn của ông thì đó cũng là một kiểu lừa dối, nếu xét kỹ những gì ông vừa nói về phụ nữ, đúng không? Ông làm cho cô ấy tin rằng trong mắt ông cô ấy là một con người, nhưng thực ra chỉ là một người cùng giường.”
“Ai mà biết được? Có thể cô ấy chấp thuận luật chơi thì sao? Có thể cô ấy cũng muốn đúng cái tôi muốn. Đàn bà và đàn ông có khác nhau đến thế không?”
Elina không muốn sa vào kiểu tranh luận này. Giả sử cô định trả lời thật thà thì cô sẽ tiết lộ quá nhiều về bản thân. Không thế thì chỉ toàn chuyện vớ vẩn. Staffan Wallen chân thật đến ngạc nhiên, nhưng cuộc đối thoại này là để thẩm vấn chứ không phải nói chuyện thân mật.
“Tôi thực sự tin như thế đấy,” Staffan Wallen nói tiếp. “Tôi định diễn đạt sự thể thế này: mặc dù đi tìm sự đồng thuận, cô ấy vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Không phải cô ấy là người không cương quyết, mà thiếu nhất quán thì đúng hơn.”
“Theo lịch của Ylva, ông đã gặp cô ấy bốn lần. Hay nhiều hơn? Hai người gặp nhau ở đâu?”
Ở Ừ
"""