" Vị Hạt Táo - Katharina Hagena & Lê Quang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vị Hạt Táo - Katharina Hagena & Lê Quang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U) —✥— THỰC HIỆN EBOOK: • Chụp sách: Hà • Nguồn sách, Chuyển text, Tạo ebook: NYT Katharina Hagena VỊ HẠT TÁO Lê Quang dịch Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam 2016 Tặng Christoph Ký ức phỏng có ích gì, nếu nó cứ khăng khăng đòi trung thực. Paul Valéry Chương 1 A nna qua đời năm mười sáu tuổi bởi chứng sưng phổi không sao lành được, bởi tim bà tan nát và ngày đó chưa phát hiện ra Penicillin, cái chết đến vào một chiều muộn tháng Bảy. Em gái Bertha của bà vừa nức nở vừa chạy ra vườn, chứng kiến tất cả các quả phúc bồn tử đỏ thắm bỗng trở nên trắng lốp cùng lúc Anna trút hơi thở khò khè cuối cùng. Khu vườn rộng lắm, vô số những bụi phúc bồn tử rậm rạp trĩu nặng quả. Lẽ ra phải hái hết rồi mới đúng, nhưng hồi Anna lâm bệnh chẳng ai màng gì đến. Bà tôi hay kể cho tôi nghe chuyện đó, vì chính bà ngày ấy đã phát hiện ra những trái phúc bồn tử để tang. Từ đấy trở đi, trong vườn bà tôi chỉ còn phúc bồn tử đen và trắng, cứ thử trồng một bụi dâu đỏ là lại thất bại, vì nó chỉ trổ quả trắng mà thôi. Nhưng cũng chẳng ai phiền lòng, vì dâu trắng cũng ngọt gần như dâu đỏ, và khi ép nước thì không bị lem ra yếm, còn món thạch phúc bồn tử thì lấp lánh một vẻ trong suốt huyền bí. “Nước mắt cho đời sau” - bà tôi gọi thế. Đến tận giờ, mấy tủ dưới tầng hầm vẫn đựng nhiều lọ thạch phúc bồn tử từ năm 1981, một mùa hè đẫm lệ, mùa hè cuối cùng của Rosmarie. Có lần mẹ tôi tìm dưa chuột muối và thấy một lọ đựng những giọt lệ hậu chiến của năm 1945. Mẹ đem tặng cho Hội thợ xay bột, và khi bị tôi hỏi vì cớ gì trọng đại mà lại tặng món thạch tuyệt vời của bà ngoại cho bảo tàng địa phương, mẹ nói là nước mắt ấy đắng lắm. Bà tôi, Bertha Lünschen, họ gốc là Deelwater. Bà mất sau bà Anna nhiều thập kỷ, song ở thời điểm ấy bà đã quên bẵng chị gái mình là ai, quên cả chính tên mình và không biết hiện tại đang vào tiết đông hay hè. Bà còn không biết dùng giày, sợi len hay cái thìa vào việc gì. Trong vòng mười năm, bà rũ bỏ mọi hồi ức với sự thanh thản lãng đãng hệt như khi bà vén nhúm tóc bạc cắt ngắn khỏi gáy hoặc vun mấy vụn bánh tưởng tượng trên bàn thành nhúm. Tôi nhớ tiếng động từ làn da tay bà khô cứng quẹt lên mặt gỗ của bàn bếp hơn cả nhớ nét mặt bà. Nhớ cả những ngón đeo nhẫn của bà khum khum giữ nhúm vụn bánh ảo, tựa như cố níu lại những bóng hình đang lướt qua trong tâm trí, nhưng cũng có thể bà Bertha chỉ tránh cho vụn bánh rơi xuống sàn hoặc định đem cho đàn sẻ vốn vẫn ham tắm cát trong vườn khi hè đến và bới tung cả củ cải lên. Sau này cái bàn ở nhà dưỡng lão có mặt nhựa, thế là tay bà lặng tiếng. Trước khi mất hẳn trí nhớ, bà đã đưa chúng tôi vào di chúc. Mẹ tôi, Christa, thừa kế mảnh đất, dì Inga nhận chỗ trái phiếu. Tôi, người của lớp hậu sinh, thừa hưởng ngôi nhà. Đồ trang sức, bàn ghế, vải vóc, đồ bạc chia đều cho mẹ tôi và các dì. Bản di chúc của bà Bertha viết hai năm rõ mười, và cũng khô khan như thế. Trái phiếu không giá trị đáng kể. Trên mảnh đồng cỏ ở vùng bình nguyên trũng Bắc Đức thì chả ma nào muốn sống, ngoài mấy con bò. Tiền mặt chẳng có mấy, và ngôi nhà thì cũ rồi. Chắc chắn bà Bertha phải nhớ là ngày xưa tôi yêu ngôi nhà này chừng nào. Nhưng mãi sau lễ an táng chúng tôi mới biết đến ý nguyện cuối đời của bà. Tôi lên đường một mình. Một chuyến đi dài dằng dặc vất vả. Tôi khởi hành từ Freiburg, phải đi nhiều chuyến xe lửa suốt dọc đất nước cho đến khi xuống bến đối diện nhà bà ở làng Bootshaven, sau khi được cái xe buýt hầu như không có khách lắc lư chở từ một nhà ga tỉnh lị vắng ngắt qua nhiều làng xóm. Tôi bã người vì chuyến đi, tràn ngập nỗi buồn cùng cảm giác tội lỗi như người ta thường có khi vừa mất đi một người họ hàng không quen biết mấy. Dì Harriet cũng đến. Có điều bây giờ dì không tên là Harriet nữa, mà là Mầu Ni, tuy dì không mặc cà sa vàng, cũng không cạo trọc, chỉ có tràng hạt với hình đạo sư cho thấy tâm thế giác ngộ mới của dì. Tuy nhiên với mái tóc ngắn nhuộm đỏ nâu cùng đôi giày thể thao Reebok trông dì khác hẳn đám hình nhân vận đồ đen đứng thành từng nhóm trước bệ thờ. Gặp dì Harriet tôi mừng quá, dù thấy áy náy và xáo động vì lần cuối gặp dì đã trước đây mười ba năm, vào dịp đám ma Rosmarie, con gái dì. Tâm trạng xáo động thì tôi không lạ gì, vì mỗi lần nhìn mặt mình trong gương là tôi lại nghĩ tới Rosmarie. Lễ mai táng Rosmarie thật nặng nề, có lẽ mai táng cô gái mười lăm tuổi nào mà chẳng nặng nề. Như mọi người sau này kể lại, tôi ngất lịm đi. Tôi chỉ còn nhớ đến làn hương ngọt nồng nàn ướt át tỏa ra từ vòng hoa huệ tây trên quan tài, nó bít chặt lỗ mũi, sùi bọt trong khí quản khiến tôi ngộp thở. Rồi đảo điên rơi vào một hố trắng sâu hun hút. Sau đó tôi tỉnh dậy trong bệnh viện. Khi ngã, tôi đập trán vào cạnh đá và người ta phải khâu vết thương, cái sẹo bên trên sống mũi như một vết chàm nhàn nhạt không phai. Đó là lần đầu tôi ngã và ngất, sau đó còn nhiều lần nữa. Đó là cơ địa của gia đình này. Ví dụ như dì Harriet. Sau khi con gái mất, dì bập vào một tín giáo mới. Đám bạn bè thân quen nói, dì đã nhập vào tà giáo của Bhagwan, thương thế chứ. Nhưng chữ “tà giáo” chỉ được thì thào khe khẽ, tựa như sợ đám tà giáo ấy phát hiện ra mình, cạo trọc đầu như những người điên bị tống đầy thuốc an thần trong phim Bay trên tổ chim cúc cu, rồi bị xua ra phố ngất ngư đi bộ, khua chiêng gõ mõ với niềm hân hoan như con nít. Nhưng trông dì Harriet không có vẻ định giở bộ chiêng trống ra trong lễ mai táng Bertha. Nhìn thấy tôi, dì ôm chặt tôi vào lòng và hôn lên trán. Hôn lên cái sẹo phía trên sống mũi thì đúng hơn, nhưng không nói lời nào mà đẩy tôi sang phía mẹ tôi đứng bên cạnh. Trông mẹ tôi như vừa khóc ba ngày liền. Tim tôi co thắt lại thành một cục nhàu nhĩ khi thấy mẹ. Thật khủng khiếp khi phải chôn cất mẹ mình, tôi nghĩ thầm khi buông mẹ ra. Cha tôi đứng cạnh và đỡ mẹ, trông ông nhỏ hơn nhiều so với lần gặp cuối, mặt ông có những nếp nhăn tôi chưa từng thấy. Dì Inga đứng cách một quãng, mắt đỏ mà trông vẫn xinh đến ngạt thở. Cái miệng xinh xắn của dì trễ xuống, nhưng trông không như khóc, mà rất kiêu hãnh. Dù áo dài của dì giản dị kín đáo, trông nó vẫn không như đồ tang mà đầy vẻ khêu gợi. Dì đến một mình. Dì nắm tay tôi. Tôi thoáng giật mình, một luồng điện từ tay trái dì phóng sang tôi. Tay phải dì đeo một vòng hổ phách. Tay dì Inga chạm vào thấy cứng, ấm và khô. Hôm đó là một chiều tháng Bảy đầy nắng. Tôi nhìn những người khác, nhiều phụ nữ tóc trắng đeo kính dày, xách túi đen. Bạn cà phê của bà Bertha. Cựu thị trưởng, và dĩ nhiên phải có mặt Carsten Lexow, ông giáo già của mẹ tôi. Vài bạn học và chị em họ xa của hai dì. Thêm ba người đàn ông cao to với vẻ nghiêm trang lúng túng, nhận ngay ra là những người theo đuổi dì Inga ngày nào, vì họ chẳng dám nhìn thẳng mặt dì tuy không rời mắt khỏi dì. Nhà Koop hàng xóm cũng đến, vài người nữa mà tôi không rõ quan hệ, hình như từ nhà dưỡng lão hoặc công ty dịch vụ tang lễ, cũng có thể là nhân viên cũ ở văn phòng công chứng của ông ngoại. Xong việc, mọi người vào nhà hàng cạnh nghĩa trang, uống cà phê với bánh bơ. Như sau mọi lễ mai táng, tất cả các khách phân ưu lập tức bắt đầu mở miệng, thoạt tiên khe khẽ, rồi càng lúc càng ồn ào. Ngay cả mẹ tôi và dì Harriet cũng chuyện trò sôi nổi. Ba cây si lúc này vây quanh dì Inga dạng ẳ ẳ cẳng, ưỡn thẳng lưng. Có vẻ như dì Inga cũng tiên liệu niềm ngưỡng mộ đó, nhưng dì tiếp nhận nó với vẻ giễu cợt dịu dàng. Mấy bà bạn cà phê ngồi cạnh nhau tán chuyện, môi dính đường và vụn hạnh nhân. Họ ăn như họ nói: chậm rãi, ồn ào và dai dẳng. Cha tôi và ông Lexow giúp hai cô bồi bàn bưng mấy khay bạc đựng cả núi bánh bơ cắt vuông từ bếp ra, đặt hết ấm cà phê này đến ấm khác lên bàn. Các bà bạn cà phê đùa một chút với hai người đàn ông chu đáo ấy, cố lôi họ vào vòng tán chuyện. Trong khi cha tôi nghiêm túc đùa lại thì ông Lexow cười sợ sệt rồi trốn sang bàn bên. Dù gì thì ông vẫn phải sống tiếp ở đây. Trời vẫn ấm khi chúng tôi rời nhà hàng, ông Lexow dùng kẹp kim loại cặp túm gấu quần rồi leo lên chiếc xe đạp đen không khóa dựa cạnh tường, ông khẽ vẫy tay rồi đi về hướng nghĩa địa. Cha mẹ tôi và các dì dừng chân ở cửa quán, hấp háy nhìn về mặt trời đang lặn. Cha tôi hắng giọng: - Mấy vị ban nãy ở phòng công chứng, mọi người biết rồi đấy, bà có để lại di chúc. Thì ra họ là luật sư. Cha tôi chưa xong, ông há miệng rồi ngậm lại. Ba người phụ nữ vẫn ngắm tiếp vầng mặt trời đỏ, không hé miệng. - Họ đợi ở nhà. Rosmarie chết cũng vào hè, nhưng đêm đến vẫn có vị của mùa thu lan tỏa trên đồng cỏ. Người nằm trên nền đất sẽ lạnh đi rất nhanh. Tôi nghĩ đến bà nằm dưới đất, nghĩ đến cái huyệt ẩm tối mà bà nằm trong đó. Đất đầm lầy, đen và nặng, nhưng dưới đó là cát. Đống đất xúc lên nằm cạnh mộ bà đang khô đi dưới nắng, còn cát cứ chuội đi, trôi thành từng dòng như trong đồng hồ cát. Có lần bà Bertha thở dài não nuột: - Đó là bà đấy, đầu bà đây này. Bà hất đầu về phía cái đồng hồ cát trên bàn bếp rồi vội đứng dậy khỏi ghế. Hông bà gạt cái đồng hồ rơi khỏi bàn, khung gỗ mỏng tang gẫy gập, thủy tinh vỡ thành từng mảnh văng tung toé. Tôi còn nhỏ, và căn bệnh của bà chưa đến nỗi gây chú ý nhiều. Tôi quỳ xuống, lấy ngón tay trỏ di cát trắng trên nền đá đen trắng. Cát mịn lấp lánh trong ánh đèn bếp. Bà đứng cạnh tôi, thở dài, hỏi tôi vì sao tôi làm vỡ cái đồng hồ cát. Khi tôi nói, chính bà làm vỡ nó, bà lắc đầu, cứ thế lắc đầu quầy quậy. Rồi bà hót những mảnh thủy tinh vào xô đựng xỉ than. Dì Harriet nắm vai tôi, tôi giật bắn mình. Dì hỏi: - Đi thôi chứ? - Vâng, tất nhiên. Tôi lựa cách thoát khỏi tay nắm mềm mại của dì, dì thả tay ngay, và tôi cảm thấy ánh nhìn của dì từ bên sườn. Chúng tôi tản bộ về nhà, Bootshaven là một làng nhỏ xíu. Mọi người chỉ gật đầu chào khi chúng tôi đi ngang qua. Vài bà già đứng ra bắt tay cả nhà, trừ cha tôi. Tôi không quen ai, nhưng có vẻ như họ đều biết tôi và - tuy đã ý tứ hạ giọng trước nỗi đau của chúng tôi nhưng không giấu vẻ đắc thắng rằng thần chết đã túm đi một người khác - nhận xét tôi rất giống con bé Lüttje Christel. Mãi một lát sau tôi mới hiểu ra, con bé Lüttje chính là mẹ tôi. Từ xa đã thấy ngôi nhà. Nho dại phủ kín tường mặt tiền, các cửa sổ tầng trên chẳng khác gì mấy vết lõm hình chữ nhật trên nền lục sẫm. Hai cây phong già cỗi nơi cổng vào mọc cao đến tận mái. Khi sờ vào tường bên, tôi nhận được hơi ấm tỏa ra từ những viên gạch đỏ thô nhám. Một luồng gió thốc vào giàn nho, hai cây phong ngả xuống, ngôi nhà khe khẽ thở. Các luật sư đứng trước bậc tam cấp dẫn lên hành lang. Một người quẳng điếu thuốc đi khi thấy chúng tôi về, rồi hấp tấp cúi xuống nhặt đọt thuốc. Khi chúng tôi bước lên bậc tam cấp rộng, anh ta cúi xuống, anh thấy là chúng tôi đã thấy anh làm gì, cổ anh đỏ ửng và chăm chú lục lọi trong cặp giấy của mình. Hai người kia nhìn dì Inga, cả hai đều trẻ hơn dì, nhưng lập tức xoắn lấy dì. Một người trong họ lấy chìa khóa từ trong cặp, đoạn nhìn chúng tôi có vẻ dò hỏi. Mẹ tôi đón chiếc chìa khóa, đút vào ổ khóa. Khi chiếc chuông đồng cạnh bản lề phía trên rung lên, trên mặt cả ba chị em đều nở nụ cười giống hệt nhau. - Ta vào phòng làm việc đi. Dì Inga nói rồi đi trước. Mùi hành lang sau cửa làm tôi ngất ngây, thoang thoảng mùi táo và gạch cũ, chiếc rương hồi môn chạm khắc của cố Käthe kê sát tường, bên phải và bên trái nó là mấy ghế đẩu gỗ sồi khắc gia huy với hình trái tim bị cưa đôi. Gót giày của mẹ tôi, của dì Inga khua lách cách, cát nghiến rào rạo dưới đế da, riêng dì Harriet chậm chạp theo sau trên đôi giày Reebok êm ru. Phòng làm việc của ông ngoại được dọn ngăn nắp. Mẹ tôi cùng người luật sư trẻ vứt thuốc ban nãy đẩy bốn chiếc ghế lại, ba chiếc một bên còn chiếc kia đối diện. Cái bàn giấy đường bệ của Hinnerk kê cạnh tường, giữa hai cửa sổ hướng ra lối vào và hai cây phong. Ánh sáng luồn lách giữa các lá phong, đổ bóng lấm chấm trong phòng. Bụi bay lung linh. Không khí mát lạnh. Các dì và mẹ tôi ngồi xuống ba cái ghế sẫm màu, một trong ba luật sư dùng cái ghế bàn giấy của Hinnerk. Cha tôi với tôi đứng sau lưng ba chị em, hai luật sư kia đứng cạnh tường bên phải. Chân bàn và tựa lưng vừa cao lại vừa thẳng, ai ngồi vào lập tức tạo ra các góc vuông: giữa bàn chân và ống đồng, đùi và lưng, cẳng tay và bắp tay, cổ và vai, cằm và cổ. Ba chị em trông như tượng Ai cập trong hầm mộ. Dù ánh sáng chập chờn làm chúng tôi chói mắt, nó không làm căn phòng ấm lên. Người đàn ông ngồi trên ghế văn phòng của Hinnerk, không phải người quăng đọt thuốc lá, bật khóa cặp tài liệu, có vẻ như đó là dấu hiệu cho hai người kia, họ hắng giọng, kính cẩn nhìn ông, rõ ràng là cấp trên của mình, ông ta tự giới thiệu là cộng tác viên của cựu cộng tác viên của Heinrich Lünschen, ông ngoại tôi. Ông đọc và giải thích bản di chúc của Bertha, cha tôi được chọn làm người thực thi. Một chuyển động trơn tru duy nhất chạy qua người ba chị em khi nghe thấy tôi được nhận ngôi nhà. Tôi ngồi phịch xuống ghế, nhìn vị cộng tác viên của cựu cộng tác viên. Người quăng thuốc lá nhìn lại, tôi cụp mắt nhìn chằm chằm xuống mảnh giấy in các bài hát cho đám tang vẫn nắm chặt trong tay. Các nốt nhạc của dòng ca từ Ôi mái đầu đầy máu và thương tích đã in sang bàn tay tôi. Máy in phun. Trước mắt tôi hiện ra những mái đầu đầy máu và thương tích, tóc như tia mực đỏ phun, lỗ trên hộp sọ, những lỗ hổng trong trí nhớ của Bertha, cát từ đồng hồ cát. Nếu đủ nhiệt độ thì cát sẽ biến thành thủy tinh. Tôi sờ lên vết sẹo, không, không có cát rịn ra từ đó, chỉ có bụi văng ra từ cái áo dài nhung của tôi khi tôi nắm tay lại và đặt chồng lên nhau trên đầu gối. Tôi quan sát vết sút chỉ mỏng mảnh bắt đầu từ đầu gối, luồn tận dưới lớp nhung the màu đen của áo dài. Tôi cảm thấy dì Harriet nhìn mình và ngước lên. Ánh mắt dì đầy vẻ thương hại, dì vốn ghét ngôi nhà này. Để tưởng nhớ Rosmarie. Ai đã nói thế nhỉ? Quên rồi. Lưới trí nhớ của Bertha càng thưa thì những tảng hồi ức rơi lọt qua càng lớn. Bà càng lẫn thì những miếng len bà đan càng tức cười hơn, vì bà luôn bỏ sót mũi đan, đan gộp vào nhau hoặc móc thêm mũi mới vào bên rìa theo đủ các hướng, khiến chúng phình ra và cụm lại, thủng lỗ và rối nhẹm, xoắn xuýt vào nhau. Mẹ tôi đã thu thập những miếng len bà đan ở Bootshaven đem về nhà. Mẹ cất chúng vào một thùng bìa cứng trong tủ quần áo ở phòng ngủ. Tình cờ có lần tôi thấy cái thùng đó và, nửa kinh sợ nửa buồn cười, bày những tác phẩm tạo hình bằng len đan đó ra giường cha mẹ. Mẹ tôi nhìn thấy. Lúc đó tôi đã chuyển khỏi đây còn Bertha đang ở nhà dưỡng lão. Chúng tôi ngắm các hình thù cổ quái bằng len đó một lúc. - Rốt cục thì ai cũng phải giữ lại nước mắt của mình ở đâu đó. Mẹ tôi nói như để thanh minh, rồi mẹ lại cất hết vào tủ. Chúng tôi không bao giờ đả động đến mấy thứ Bertha đan nữa. Rồi tất cả lục tục ra khỏi phòng làm việc, đi dọc hành lang ra cửa. Chuông kêu lanh canh. Đám đàn ông bắt tay chúng tôi rồi đi mất, chúng tôi ngồi xuống bậc tam cấp ngoài trời. Hầu như bậc đá vàng nhạt mài nhẵn nào cũng có vết nứt, nhưng không nứt ngang mà chạy theo chiều dọc: những miếng mỏng bong ra, nằm rời, có thể nhấc lên như vung nồi. Ngày xưa không nhiều miếng bong như thế, sáu hay bảy miếng, chúng tôi vẫn dùng làm chỗ giấu bí mật, giấu lông chim, hoa và thư vào đó. Ngày ấy tôi còn viết thư, còn tin vào những điều đã viết, đã in và đã đọc. Bây giờ thì thôi rồi. Tôi là thủ thư ở thư viện Đại học Freiburg, tôi làm việc với sách, tôi mua sách cho mình, đúng thế, đôi khi cũng mượn. Nhưng có đọc không? Không. Ngày trước thì có, đúng thế, tôi đọc không biết mệt, đọc trên giường, khi ăn, trên xe đạp. Nhưng bây giờ thì chấm hết. Đọc cũng giống như sưu tầm, và sưu tầm giống như cất giữ, và cất giữ giống như nhớ, và nhớ giống như không biết chính xác, và không biết chính xác giống như đã quên, và quên giống như rơi, mà tôi thì không được rơi nữa. Đó là lời giải thích. Nhưng tôi ưa nghề thủ thư. Vì những lý do giống như lý do khiến tôi không đọc nữa. Thoạt tiên tôi nghiên cứu Đức ngữ, nhưng khi làm bài tập tôi nhận ra là tất cả sau khi nhập thư mục đều vô nghĩa. Danh mục, mục lục từ khóa, sách cẩm nang, bảng liệt kê đều có vẻ đẹp riêng của chúng mà nếu đọc qua loa không thể phát hiện được, hệt như một bài thơ đánh đố. Khi tôi xuất phát từ một cuốn tự vị phổ thông với những trang giấy nát bét vì nhiều người sử dụng, rồi qua nhiều sách nữa để tiếp cận một tiểu luận khoa học chuyên môn cao mà trước tôi chưa hề có ai khác ngoài thủ thư sờ đến trang bìa, lòng tôi tràn ngập niềm thỏa mãn, khác một trời một vực với cảm nhận của tôi đối với những gì tự viết ra. Thêm nữa, những gì ta viết ra cũng là thứ mà ta không phải ghi nhớ, nghĩa là thứ mà ta có thể yên tâm quên đi, vì bây giờ ta đã biết là nó ở đâu, thế là những gì tôi nói về sự đọc lại được xác nhận lần nữa. Tôi đặc biệt yêu nghề này ở một điểm, là được lục lọi trong đống sách bị lãng quên, những cuốn sách nằm đó cả trăm năm, hình như chưa được đọc lần nào, bám đầy bụi, tuy nhiên vẫn sống lâu hơn hàng triệu người không đọc chúng. Cho đến nay tôi đã tìm ra bảy, tám cuốn như thế, và lâu lâu lại đến thăm chúng, tuy chẳng khi nào chạm tay vào. Có lúc tôi hít hơi chúng. Như hầu hết sách thư viện, chúng hôi hôi. Hôi nhất là cuốn sách về phào chỉ trong kiến trúc Ai Cập cổ đại, đen thui và nhàu nhĩ. Tôi chỉ vào nhà dưỡng lão thăm bà một lần duy nhất. Bà ngồi ở phòng mình, sợ hãi nhìn tôi và đi ngoài ra quần. Một cô hộ lý vào thay tã cho bà. Lúc chia tay, tôi hôn lên má bà, má bà lạnh, và môi tôi cảm nhận được tấm lưới đan bằng những nếp nhăn mềm mại phủ lên da bà. Trong khi tôi ngồi đợi trên bậc tam cấp, lấy ngón tay di theo những vết nứt, mẹ ngồi hai bậc trên tôi và nói xuống. Mẹ nói khẽ, không hết câu, cứ như âm hưởng giọng mẹ còn bập bềnh trôi hồi lâu trong không khí. Tôi bực mình tự hỏi vì sao dạo này mẹ hay nói kiểu ấy. Mãi đến khi được mẹ ấn một cái chìa khóa màu đồng thau to tướng vào lòng, trông giống đạo cụ sân khấu cho một vở cổ tích Giáng sinh vì có đầu ngạnh uốn cong, tôi mới ngộ ra việc gì đang xảy ra ở đây. Mọi người bàn về ngôi nhà và các con gái của bà Bertha đang ngồi trên bậc tam cấp sứt sẹo, về chị của bà sinh ra trong nhà này và nay đã qua đời, về tôi, và về Rosmarie đã mất trong nhà này. Và về tay luật sư trẻ hút thuốc. Thiếu chút nữa tôi không nhận ra anh ta, nhưng không nghi ngờ gì cả, anh là em trai của Mira Ohmstedt, cô bạn gái thân nhất của chúng tôi. Bạn thân nhất của Rosmarie và của tôi. Chương 2 C ha mẹ tôi, hai dì và tôi qua đêm ở ba phòng trọ của quán Dorfkrug. - Nhà chị lại xuống Baden. Sáng hôm sau mẹ nói. Nói đi nói lại, cứ như tự thuyết phục phải tin điều đó. Các dì thở dài, chẳng khác gì mẹ nói sắp thoát nợ. Mà cũng có thể thế thật. Dì Inga đi cùng đến Bremen. Tôi ôm dì và bị điện giật. - Mới sáng sớm đã thế rồi ạ? Tôi sửng sốt hỏi. - Hôm nay sẽ nóng đấy. Dì Inga thanh minh. Dì khoanh tay trước ngực, hai tay vuốt nhanh từ vai xuống đến khuỷu tay, rồi dì xòe ngón tay ra vẩy vẩy. Có tiếng lách tách khe khẽ khi các tia điện phóng ra từ đầu ngón tay. Ngày xưa Rosmarie thích bị dì Inga phóng điện. - Dì làm mưa sao nữa đi! Chị hay xin xỏ, nhất là khi chúng tôi ở ngoài vườn lúc tối trời. Rồi chúng tôi kính cẩn quan sát những chấm sáng lóe lên ở tay dì Inga trong nháy mắt. - Có đau không ạ? Chúng tôi hỏi, và dì lắc đầu. Nhưng tôi không tin dì. Dì rúm người lại khi dựa vào thành xe, khi mở tủ, khi bật đèn hay máy truyền hình, có lúc dì đánh rơi đồ vật. Thỉnh thoảng tôi vào bếp, bắt gặp dì Inga ngồi xổm dưới đất, lấy chổi con quét các mảnh vỡ. Nếu tôi hỏi thì dì nói: - Ồ không, chuyện vặt ấy mà, dì hậu đậu quá. Nếu không tránh được phải bắt tay ai đó, dì xin lỗi vì làm họ giật mình hoảng hốt. Rosmarie gọi dì là “Thần Sét”, nhưng ai cũng biết là chị ấy khâm phục dì. - Tại sao mẹ không làm được thế? Và tại sao con không làm được? Có lần chị hỏi Harriet. Dì Harriet nhìn con gái và đáp, Inga không có cách nào khác để giải tỏa căng thẳng trong người, còn Rosmarie thì liên tục giải thoát năng lượng nên không thể trữ được điện, và Rosmarie nên mừng vì thế. Dì Harriet luôn sống trong tâm linh. Dì đã nhiều lần đi vào tâm điểm của mình rồi lại ung dung quay trở lại, trước khi trở thành Mầu Ni và đeo tràng hạt gỗ nọ. Mẹ tôi cho rằng khi con gái dì chết, dì đã tìm cho mình một người cha và tự mình biến thành con gái. Dì tìm một thứ gì chắc chắn để giữ cho dì khỏi rơi, đồng thời giúp dì quên lãng. Tôi chưa bao giờ thỏa mãn với cách giải thích ấy. Dì Harriet ưa kịch tính chứ không thích sự bóng bẩy. Có thể dì khác đời nhưng không khi nào mê muội. Có lẽ dì cảm thấy ràng buộc với Osho đã khuất núi. Chắc chắn dì cảm thấy được trấn an, khi một người chết lại có thể sinh động đến thế, vì Bhagwan bằng xương bằng thịt chưa bao giờ gây ấn tượng với dì, và dì cười nhạo những tấm hình ông ta đứng trước vô số những chiếc ô tô to tướng của mình. Sau khi cha mẹ tôi và dì Inga đi khỏi, dì Harriet cùng tôi uống trà bạc hà trong phòng khách. Chúng tôi im lặng trong nỗi lưu luyến nhẹ nhàng. - Cháu vào nhà chứ? Dì Harriet hỏi. Dì nhỏm dậy, cầm chiếc túi du lịch cạnh bàn. Tôi nhìn thẳng vào mắt Osho đang mỉm cười trong khung gỗ của tràng hạt và gật đầu. Ông ta gật đầu đáp lại. Tôi cũng đứng dậy. Dì ôm tôi chặt đến phát đau, tôi không nói gì, chỉ nhìn phòng khách trống vắng qua vai dì. Mùi cà phê cùng hơi người ấm áp bao quanh đám khách phân ưu hôm qua, giờ này vẫn vấn vương dưới trần phòng thấp sơn trắng. Dì Harriet hôn trán tôi rồi đi ra. Đôi Reebok của dì cọ rin rít trên nền nhà đánh xi. Ra đến đường, dì quay lại vẫy. Tôi giơ tay. Dì ra bến xe buýt, xây lưng lại phía tôi. Vai dì hơi đổ ra trước, mái tóc đỏ cắt ngắn sau gáy dì lấp dưới cổ sơ mi đen. Tôi giật mình. Chỉ từ phía sau tôi mới thấy dì bất hạnh nhường nào. Tôi vội quay đi, ngồi xuống bàn ăn sáng. Tôi không muốn thương hại dì. Khi chiếc xe buýt rồ máy khởi hành làm rung cửa kính, tôi ngước lên, thoáng kịp nhìn thấy dì Harriet nhìn đăm đăm vào lưng ghế trước mặt. Tôi đi bộ về nhà. Túi không nặng, trong đó chỉ có chiếc áo dài nhung đen, tôi mặc một chiếc áo dài đen ngắn không tay, đi dép xăng đan đen đế cao, thuận tiện đi lâu lâu trên vỉa hè trải nhựa hoặc lấy sách trên giá. Sáng sớm thứ Bảy im ắng. Trước cửa hiệu Edeka có vài thanh niên ngồi trên xe máy ăn kem. Các cô gái liên tục lắc mái tóc mới gội. Trông mà ngại, cứ như cổ các cô quá thanh mảnh để đỡ nổi đầu, tôi chỉ sợ đầu các cô đột nhiên ngật ra sau hay sang bên cạnh. Chắc là tôi quá chú ý đến họ, vì tất cả ngừng nói chuyện và nhìn lại. Mặc dù thấy ngần ngại, tôi vẫn yên tâm khi đầu các cô gái ngừng lúc lắc và còn nguyên trên cổ chứ không gập xuống vai hay xuống ngực. Con đường chính ngoặt gấp sang trái, đi thẳng là một đoạn đường cấp phối chạy qua cây xăng BP và hai ngôi nhà, dẫn ra đồng cỏ. Lát nữa tôi sẽ bơm lốp xe đạp rồi đi đường này đến bờ mương. Hay đến tận hồ. Trời hôm nay sẽ nóng, dì Inga đã nói thế. Tôi đi bên mép phải. Phía tay trái đã có thể thấy cái cối xay lớn sau rặng dương, màu sơn còn mới, và tôi lấy làm tiếc khi màu sơn sặc sỡ làm nó mất vẻ trang trọng, chẳng khác gì bắt đám bạn cà phê lụ khụ của bà tôi mặc váy ngắn hở rốn. Nhà của Bertha, giờ đây sẽ là của tôi, đứng đối diện chếch cối xay. Tôi đứng trước lối vào, cánh cửa mạ kẽm còn khép và thấp hơn trong ký ức của tôi, chỉ đến ngang hông, tôi nhún chân bước vượt qua. Trong ánh sáng sớm mai, ngôi nhà là một khối vuông xám xịt, tàn tạ, với đoạn đường rộng trải đá xấu xí. Mấy cây phong đứng trong bóng tối. Lúc đi đến cầu thang, tôi thấy cả mảnh vườn phía trước dày đặc hoa păng xê. Những bông màu lam đang héo, nhiều bông nhợt màu, số còn lại đã chuyển màu nâu. Một rừng hoa păng xê tàn lụi. Tôi cúi xuống ngắt một bông, nó chẳng còn màu lam, mà xám và tím và trắng và hồng và đen. Ai đã chăm sóc mảnh vườn khi Bertha ở nhà dưỡng lão? Và ai chăm sóc ngôi nhà? Tôi sẽ hỏi em trai Mira. Bước vào nhà, lại một làn hương táo và mùi đá lạnh phả vào mặt tôi. Tôi đặt túi lên mặt rương rồi đi hết hành lang. Hôm qua chúng tôi chỉ đi đến phòng làm việc. Tôi không ngó vào các phòng, mà thoạt tiên chỉ mở cánh cửa cuối hành lang. Bên phải là cầu thang lên tầng trên, đi thẳng là xuống hai bậc, còn bên trái là nhà tắm mà có lần, đúng lúc mẹ đang tắm cho tôi, ông ngoại đã xuyên trần bay xuống. Ông định hù mọi người và trèo lên sảnh trên. Chắc các thanh ván đã oải, còn ông tôi người to béo. Ông bị gãy tay, còn chúng tôi bị cấm kể với ai về vụ này. Cửa lên lầu bị khóa. Chìa khóa treo trên tường bên cạnh, gắn vào một miếng gỗ nhỏ. Tôi không chạm vào. Sau đó tôi leo lên những phòng ngày xưa vẫn làm chỗ ngủ và nô đùa. Bậc thứ ba từ dưới lên cọt kẹt to hơn ngày xưa, nhưng cũng có thể vì cả nhà im ắng. Hai bậc trên cùng thì sao nhỉ? Ừ, hai bậc ấy vẫn kêu cọt kẹt, lại thêm một bậc dưới đó nữa. Tay vịn khẽ phát tiếng động khi tôi chạm vào. Trên này không khí ngột ngạt, lưu cữu như mùi những chiếc chăn len nằm trong rương. Tôi mở cửa sổ trong phòng lớn, rồi mở cả bốn cánh cửa, hai cửa của phòng mẹ và mười hai cửa sổ của năm phòng ngủ. Chỉ cái ô cửa mái chăng dày mạng nhện bên trên cầu thang là tôi không đụng vào. Bao năm nay, hàng trăm con nhện đã giăng mạng ở đây, bện rối rắm vào nhau, đầy xác ruồi khô cong. Đống lưới ấy tạo thành lớp vải bông trắng mềm, một tấm lọc ánh sáng đục như sữa hình vuông mờ mịt. Tôi nhớ đến mạng lưới nếp nhăn trên má bà Bertha. Mắt lưới thô đến nỗi dường như ánh sáng mờ ảo soi xuyên qua từ dưới da. Bertha trở nên trong suốt khi về già, ngôi nhà của bà trùm kín xung quanh. - Nhưng cả hai đều mờ ảo. Tôi nói to về hướng ô cửa mái, và mạng nhện rung rinh trong hơi thở. Trên này có ba cái tủ đồ sộ đựng quần áo. Rosmarie, Mira và tôi hay chơi ở đây. Mira là cô bé hàng xóm, hơn tuổi Rosmarie chút ít và hơn tôi hai tuổi. Ai cũng nói Mira là đứa rất lặng lẽ, nhưng chúng tôi không nghĩ thế. Dù nó không nói nhiều, nhưng vẫn gây khối chuyện xáo trộn khi xuất hiện bất kỳ ở đâu. Tôi chẳng tin vào lý do rằng nó toàn mặc đồ đen. Hồi ấy người ta thường mặc đen. Sự xáo trộn chắc nằm trong cặp mắt nâu dài mà giữa lòng đen và mi dưới luôn lộ ra một vệt trắng, và nó luôn kẻ một đường đen ở mi dưới, khiến mắt nó như nằm lộn ngược trên mặt. Mi trên thì hạ xuống gần lòng đen, đem lại cho nó một ánh nhìn đầy vẻ rình rập, đồng thời khêu gợi và uể oải, vì Mira rất xinh. Với cái miệng nhỏ tô son đỏ thẫm, mái tóc ngắn bồng bềnh nhuộm đen cùng cặp mắt ấy, trông nó như một diva phim câm phê ma tuý. Tôi nhìn thấy nó lần cuối khi nó mười sáu. Mấy hôm sau thì Rosmarie cũng đủ mười sáu, còn tôi mười bốn. Mira không chỉ mặc đồ đen, mà chỉ ăn những thứ màu đen. Ở vườn của Bertha nó chỉ ngắt quả mâm xôi đen, phúc bồn tử đen và anh đào chín thẫm. Khi ba chúng tôi làm picnic, bao giờ cũng phải gói sô cô la đắng hay bánh mì đen kẹp dồi tiết. Mira cũng chỉ đọc sách nào mà trước đó nó đã bọc bìa đen, nghe nhạc đen và tắm bằng xà phòng đen do cô nó gửi từ Anh về. Trong tiết họa nó không chịu dùng màu nước, chỉ vẽ bằng mực hay than, nhưng nó vẽ đẹp nhất lớp và cô giáo dạy họa vốn yêu nó nên không nói gì. - Phải vẽ lên giấy trắng đã là quá tệ rồi, đã thế lại còn lắm màu! Nó khinh bỉ nói, nhưng ai cũng biết nó thích vẽ trên giấy trắng. - Cháu cũng đến các buỗi lễ Đen[1] chứ? Dì Harriet hỏi. - Chẳng để làm gì ạ. Mira lạnh lùng đáp, đoạn nhìn dì qua cặp mi dày. - Ở đấy đúng là cái gì cũng đen, nhưng tởm lợm và ồn ào lắm cơ. Rồi nó mỉm cười uể oải, bồi thêm: - Nói cho cùng, cháu cũng không vào đảng Đen. Dì Harriet cười, đưa nó một hộp After Eight. Mira gật đầu rồi nhón một gói nhỏ giấy đen. Nhưng Mira vẫn có một đam mê. Một đam mê không mang màu đen, mà sặc sỡ, linh động và lấp lánh: Rosmarie. Mira làm gì từ sau khi Rosmarie chết thì chính dì Harriet cũng chẳng hay. Chỉ biết là nó không sống ở làng nữa. Tôi quỳ trên một cái rương hồi môn và tì tay chống lên bậu cửa sổ. Ngoài kia lá liễu rủ lung linh. Ồ, gió, tôi đã gần như quên nó trong mùa hè Freiburg nóng nực, giữa những bức tường bê tông lạnh lẽo của thư viện đại học. Gió là kẻ thù của sách. Trong phòng đọc cách ly dành cho sách cổ và sách hiếm không được phép mở cửa sổ. Tuyệt đối không. Tôi hình dung ra cảnh gió thổi tung các tờ rời trong bản thảo De signatura rerum ba trăm bảy mươi năm tuổi của Jakob Böhme và suýt nữa giơ tay đóng cửa sổ lại. Trên này rất nhiều sách. Phòng nào cũng có, và phòng lớn - từ đây tỏa ra các phòng khác trên tầng này - là nhà kho chứa tất cả những gì không được mang xuống tầng hầm: các đồ vải, và sách. Tôi vươn người ra cửa sổ, thấy bụi hồng leo lên mái che cửa ra vào rồi đổ từ tay vịn xuống dãy tường thấp cạnh bậc thang. Tôi trèo khỏi rương vì đau đầu gối, đi cà nhắc dọc các giá sách. Những cuốn bình luận về luật mà giấy nở ra cong queo, gần như đè bẹp quyển Bé Út và Thế chiến I mỏng mảnh. Gáy cuốn Bé Út in chữ Đức cổ. Tôi nhớ là trong đó có tên bà ngoại viết bằng kiểu chữ mẫu cho học sinh. Bộ Wilhelm Busch toàn tập ngoan ngoãn đứng cạnh tiểu sử tự thuật của Arthur Schnitzler. Đây là Odyssee, kia là Faust. Kant nép sát vào Chamisso, thư của Friedrich Đại đế xếp cạnh Cô nội trợ Pucki. Tôi thử đoán, liệu có phải sách được xếp tùy tiện hay theo một hệ thống nào đó. Có thể theo một mật mã mà tôi phải biết để giải. Không xếp theo độ lớn là chắc chắn rồi. Cũng không theo bảng chữ cái hay thứ tự xuất bản, nhà xuất bản, nước xuất xứ của tác giả hoặc chủ đề. Vậy là theo hệ thống tình cờ. Tôi vốn không tin vào sự tình cờ, nhưng tin vào hệ thống tình cờ. Nếu sự tình cờ có hệ thống thì nó sẽ không còn là tình cờ, và do đó, tuy không thể loại trừ, nhưng có thể tính ra. Ngoài ra là vớ vẩn hết. Vậy là tôi không hiểu được thông điệp của các gáy sách, nhưng tôi quyết định ghi nhớ để nghiên cứu sau. Sẽ có ngày tôi tìm ra gì đó, chắc chắn vậy. Mấy giờ rồi nhỉ? Tôi không đeo đồng hồ, chỉ dựa vào đồng hồ ở hiệu thuốc, cây xăng và hiệu trang sức, đồng hồ ngoài ga và ở nhà họ hàng. Trong nhà có nhiều đồng hồ tuyệt đẹp, nhưng chẳng cái nào chạy. Tôi chộn rộn vì ý nghĩ đang ở một nơi thiếu đồng hồ. Tôi đã ngắm giá sách bao lâu? Qua buổi trưa rồi? Mạng nhện ở ô cửa mái có lẽ đã dày thêm trong thời gian tôi lê la trên này. Tôi ngó lên ô chữ nhật mờ sáng, cố trấn tĩnh bằng cách tư duy theo phạm trù thời gian lớn. Đêm chưa đến, hôm qua là lễ mai táng, hôm nay thứ Bảy, mai sẽ là Chủ nhật, ngày kia tôi đã xin nghỉ, sau đó tôi cũng về lại Baden. Nhưng không xong. Tôi nhìn giá sách lần cuối, đóng cửa sổ các phòng tầng trên rồi đi xuống cầu thang còn kêu cọt kẹt khi tôi đã xuống dưới hồi lâu. Tôi vớ chiếc túi du lịch, ngập ngừng đứng trong hành lang. Sau một thời gian dài và có lẽ lần đầu một mình trong nhà, tôi cảm thấy như đang làm kiểm kê. Cái gì còn, cái gì thiếu, cái gì bị quên, cái gì đã thực sự đổi khác, cái gì bị cảm thấy là đã khác đi. Qua tấm kính ở cửa ra vào, tôi nhìn thấy hoa hồng, ánh nắng ngoài ruộng và đồng cỏ. Tôi sẽ thu xếp ở đâu? Ở trên lầu thì hơn, các phòng bên dưới của bà, dù bà không bước chân vào trong năm năm cuối. Bà ở nhà dưỡng lão ngót mười ba năm, song các dì hay đón bà về nhà buổi chiều. Nhưng đến lúc nào đó thì bà không muốn và sau này không thể leo lên ô tô được nữa, không thể đi lại, không thể nói năng. Tôi mở cửa vào buồng ngủ của Bertha. Buồng này cạnh phòng làm việc, các cửa sổ cũng hướng ra sân với mấy cây phong. Rèm chống nắng hạ xuống. Giữa hai cửa sổ là bàn trang điểm của Bertha. Tôi ngồi lên ghế, nhìn vào tấm gương gấp khổ lớn, trông giống một cuốn sách mở. Tay tôi với đến hai tấm gương bên rìa và gấp chúng vào trong một chút. Như ngày xưa, tôi nhìn thấy mặt mình phản chiếu qua lại vô số lần giữa các tấm gương, vết sẹo của tôi nhạt màu. Tôi lần lượt nhìn tôi trong các hình phản chiếu, đến nỗi chẳng biết chính mình ở đâu nữa. Mãi đến khi gập hẳn một tấm bên cạnh thì tôi mới thoát ra được. Tôi lại lên tầng trên và mở tung cửa sổ. Ngày xưa ở đây để mấy tủ quần áo cổ với các bộ trang phục tráng lệ bằng loại vải mịn màng cũ kỹ mà tôi ngày bé đều đã áp lên da thịt. Góc kia là các rương đựng vải lanh ép phẳng, áo ngủ và khăn bàn có thêu chữ lồng tên của cụ cố, bà Anna và Bertha, gối và vải trải giường, chăn len, chăn lông ngỗng, khăn đăng ten, khăn móc, khăn thêu lỗ cùng các súc vải màn cửa dài trong suốt. Các thanh xà không ốp, cửa mở toang. Đột nhiên tôi rùng mình, rồi không cầm nổi nước mắt vì mọi thứ đều đáng sợ, đồng thời cũng quá đẹp. Thực ra tôi là đứa mau nước mắt. Tôi đặt túi vào phòng mẹ ngày xưa, căn phòng có đường thông qua. Tôi moi ví từ một ngăn túi, đoạn chạy vội xuống thang, vớ chìa khóa treo trên móc cạnh cửa và mở cửa chính. Tiếng chuông ngân lên và tôi khóa cửa lại sau lưng, chạy xuống thang, hít căng phổi mùi hoa hồng, liếc sang sân mà ngày xưa là vườn mùa đông, hấp tấp vọt qua cửa tò vò có hồng leo và cửa hàng rào, thế là đã ra ngoài đường. Ở cây xăng ngay góc đường nhất định có bán đồ ăn. Tôi không muốn đến cửa hàng Edeka và thấy những cái đầu lắc lư của lũ choai choai, cũng chẳng khoái những cặp mắt tọc mạch của đám người ắt hẳn đã đông hơn vào giờ này. Cây xăng tấp nập người. Họ đang thực hành nghi thức rửa xe thứ Bảy. Trong nhà có hai cậu bé đứng trước giá bày sô cô la, trán nhăn lại, không thèm ngửng đầu khi tôi lách ngang qua. Tôi mua sữa, bánh mì đen, phô ma, một chai nước táo cùng một cốc to sữa chua trộn nước quả. Lấy thêm tờ báo, một túi bim bim và một thanh sô cô la hạt dẻ dự phòng. À, hai thanh cho chắc. Tôi có thể quay lại đây bất cứ lúc nào để lấy thêm sô cô la. Ra ngay quầy thanh toán. Lúc đi khỏi, tôi vẫn thấy hai cậu bé đăm chiêu đứng trước giá bày sô cô la. Trên bàn bếp của Bertha, trông mấy thứ đồ tôi mua về rất lạc lõng, thô thiển. Bánh mì gói ni lông, phô ma trong túi hàn kín, cốc sữa chua màu mè chói mắt. Lẽ ra tôi nên đến hiệu Edeka thì hơn. Tôi cầm miếng phô ma ra tay: sáu cục vuông vắn màu vàng giống hệt nhau. Những thứ được bảo quản này thật lạ lùng, một ngày nào đó có thể chúng sẽ được trưng bày trong bảo tàng quê hương của Hội thợ xay bột. Có lần tôi thấy một cuốn sách về nghệ thuật ẩm thực ở thư viện, trong đó có ảnh đồ ăn trưng bày. Đồ ăn thiu dần và người ta chụp lại quá trình đó. Nhất định đồ ăn đã bị tiêu hủy từ lâu, vào bụng lũ vi trùng đói khát, nhưng trên ảnh in choáng lộn nó được lưu lại như một dạng trung chuyển văn hóa. Sự bảo quản có gì đó tàn nhẫn, có thể sự lãng quên vĩ đại chẳng là gì khác ngoài một cách bảo quản trang trọng bên cạnh sự bảo quản tàn bạo diễn ra khắp nơi? Đồ ăn nằm trong sự lãng quên, rõ ràng tôi đang đói. Có lẽ tôi nên xuống tầng hầm tìm thạch phúc bồn tử. Ăn với bánh mì đen ngon lắm. Tôi quên mua bơ. Phòng bếp rộng và lạnh. Sàn là hàng triệu viên đá vuông đen trắng nhỏ xíu. Mãi về sau tôi mới biết khái niệm đá mài. Lúc còn nhỏ, tôi ngắm hàng giờ các họa tiết bằng đá mài. Một lúc nào đó, khi mọi thứ bắt đầu nhảy múa trước mắt, đột nhiên các chữ huyền bí hiện ra trên sàn bếp. Nhưng chúng luôn biến đi trước khi tôi kịp giải mã. Phòng bếp có ba cửa, tôi đi từ hành lang vào, ngoài ra còn có cửa chốt then đi xuống tầng hầm. Cửa thứ ba mở lên sảnh trên. Sảnh không trong nhà mà cũng chẳng ở ngoài, ngày xưa là chuồng bò, nền nhà là đất nện, có một rãnh thoát nước rộng. Xuống ba bậc từ bếp là thấy thùng rác, củi xếp bên tường trát vữa thô. Đi thẳng từ bếp qua chuồng bò thì ra đến vườn. Nhưng nếu rẽ ngay tay phải, như tôi bây giờ, là vào các phòng kho. Đầu tiên tôi mở cửa phòng giặt, ngày xưa là phòng vệ sinh không có nước dội, hôm nay chỉ kê hai tủ đông lạnh to tướng. Tủ trống trơn, mở nắp, dây cắm điện nằm chỏng chơ. Từ đây có một cầu thang nhỏ dẫn lên sảnh, nơi ông tôi hay làm ma để dọa. Sau phòng giặt là đến phòng lò sưởi, ngày xưa là sảnh trước vườn mùa đông, bây giờ toàn chậu cây và chậu hoa, bình tưới và ghế xếp. Phòng này có nền đá sáng màu cùng cửa kính lùa dẫn ra hiên lát đá như trong nhà. Cành liễu rủ chạm đất, chắn tầm nhìn ra tam cấp và cửa chính. Tôi ngồi xuống sô pha cạnh lò sưởi đen và nhìn ra ngoài. Không thấy gì sót lại của vườn mùa đông nữa, chỉ còn một khung cột thanh mảnh nhìn thấu, chẳng hợp với ngôi nhà gạch thô ráp chút nào. Chỉ có khung thép và kính. Dì Harriet đã cho dỡ bỏ cách đây mười ba năm, sau khi Rosmarie bị tai nạn. Chỉ nền đá màu sáng gợi nhớ đến nhà vườn bằng kính áp tường. Đột nhiên tôi nhận ra mình không muốn, không muốn có ngôi nhà này, đã từ lâu nó chẳng còn là ngôi nhà mà chỉ là ký ức, hệt như nhà vườn mùa đông đã thuộc vào dĩ vãng. Khi đứng dậy để kéo cửa lùa qua bên, tôi cảm thấy tay lạnh ngắt. Có mùi rêu mốc và bóng râm. Tôi đóng khe cửa lùa lại. Lò sưởi đã tàn, tỏa hơi lạnh. Tôi sẽ nói với em trai của Mira rằng tôi không muốn nhận thừa kế. Nhưng giờ tôi phải ra khỏi đây, đi khỏi và ra con mương gần sông. Tôi đứng phắt dậy, quay lại sảnh và lục tìm trong đống đồ lộn xộn ra một chiếc xe đạp còn tốt. Những xe đạp đời mới đều tồi, duy nhất chiếc xe đạp cũ rích màu đen của ông ngoại không có tăng xích là đi được, chỉ cần bơm lốp chút xíu. Nhưng tôi chỉ có thể lên đường sau khi đi một vòng lâu lâu quanh nhà để tìm cách chốt các cửa từ bên trong, rồi lại ra cửa khác có khóa bên ngoài, thế là quanh quẩn mãi mới ra đến vườn. Bertha còn thông thạo trong nhà một thời gian dài. Ngay từ hồi không thể đi đến cối xay mà không lạc đường, bà vẫn đi được ngay từ phòng giặt vào nhà tắm, kể cả khi có cánh cửa thông buồng nào đó bị chốt từ phía kia. Qua mấy chục năm, bà đã thuộc ngôi nhà như lòng bàn tay, và nếu giả sử được khám nghiệm pháp y thì người ta sẽ có thể dựa vào các nếp nhăn trong não hoặc hệ thống tuần hoàn máu để vẽ ra sơ đồ đường đi lối lại trong nhà. Phòng bếp là trái tim của bà. Tôi bỏ mấy đồ ăn mua ở cây xăng vào chiếc giỏ tìm được trên tủ lạnh. Quai giỏ bị gãy nên tôi kẹp giỏ vào khung đèo hàng rồi đẩy xe đạp qua sảnh rồi qua cửa ra vườn. Mọi người toàn gọi đó là cửa bếp, mặc dù cửa không ở bếp, chỉ từ bếp nhìn ra thì thấy nó. Mấy cành liễu sạt đầu tôi và ghi đông. Tôi đẩy xe ngang qua bậc tam cấp, đi dọc mé phải ngôi nhà, ngập đến mắt cá trong hoa păng xê. Ban nãy tôi phát hiện ra một chìa khóa bằng thép không gỉ trên móc cạnh cửa chính, và cái cửa mới duy nhất là cửa hàng rào mạ kẽm nên tôi thử chìa khoá. Chìa quay trơn tru trong ổ và tôi ra đến vỉa hè. Qua cây xăng, tôi rẽ trái đi về phía mương. Suýt nữa thì chiếc xe nặng nề của Hinnerk chuội đi trên nền cát ở khúc quành, nhưng tôi gượng đỡ được, đạp mạnh bàn đạp. Lò xo dưới yên cót két vui vẻ khi mặt đường nhựa ngày càng sứt sẹo và dần biến thành đường ruộng rải sỏi. Tôi quen đoạn đường thẳng tắp xuyên qua những đồng cỏ thả bò này. Tôi quen rặng bạch dương, dãy cột dây thép, hàng rào, mà không, tất nhiên nhiều thứ mới có. Tôi cũng tưởng sẽ nhận ra đàn bò loang lổ trắng đen, nhưng dĩ nhiên đó là ý nghĩ vớ vẩn. Gió thổi tung áo dài, và mặc dù áo không tay, nắng vẫn thiêu đốt trên nền vải đen. Lần đầu tiên tôi lại được hít thở từ khi về đây. Đường vẫn đi thẳng, đôi chỗ lên dốc rồi xuống dốc. Tôi nhắm mắt. Mọi người đều từng đi đường này. Anna và Bertha đi xe ngựa, mặc áo dài trắng. Mẹ tôi, dì Inga cùng dì Harriet trên xe đạp Rixe. Còn Rosmarie, Mira và tôi cũng đi những chiếc Rixe ấy, kêu cành cạnh và yên thì quá cao, khiến chúng tôi phải đứng lên bàn đạp để khỏi vẹo hông. Nhưng đố ai bảo được chúng tôi hạ yên xuống, vì đó là chuyện danh dự. Chúng tôi vận áo dài của Anna, Bertha, Christa, Inga và Harriet. Gió thổi bồng lớp vải lưới xanh dương hay đen và nắng lấp lánh trên nền xa tanh. Chúng tôi dùng cặp quần áo để tránh kẹt váy vào xích. Đạp xe chân trần ra sông. Người ta không được nhắm mắt đạp xe quá lâu, kể cả đi thẳng. Suýt nữa tôi va vào một hàng rào chuồng bò. Sắp đến nơi rồi. Tôi đã nhìn thấy phía xa cây cầu gỗ bắc qua mương. Tôi dừng xe trên cầu, tay bám vào thành cầu, chân vẫn để trên bàn đạp. Không một bóng người. Hai chiếc thuyền buồm buộc ở cầu bến, có vật kim loại nào đó khẽ đập lanh canh vào cột buồm. Rồi tôi xuống xe, đẩy xe qua cầu, lấy giỏ ra, ngả xe xuống nền cỏ và đi xuống dốc. Bờ sông không dốc mà chia thành hai đường rất hẹp sát bờ nước phủ đầy lau sậy. Ngày xưa chúng tôi rải khăn tắm vào chỗ nào không có sậy, nhưng sau nhiều năm bờ sông đã kín bưng nên tôi chọn chỗ trên một miếng ván gỗ cạnh bờ. Chân tôi nhúng xuống làn nước nâu đen, trông trắng bợt lạ lẫm. Nước đầm lầy mà. Để tránh nhìn chân mình, tôi cố đọc các tên thuyền. “Sine”, vớ vẩn, chắc chỉ là một phần tên không bị che khuất. Cái tên kia tôi không đọc được vì nó hướng vào bờ. Chỉ thấy mấy chữ cái “the” ở cuối tên. Tôi nằm ngửa ra, để chân ngâm trong nước. Có mùi nước, đồng cỏ, mùi lá rữa và hóa chất tẩm gỗ. Tôi ngủ bao lâu? Mười phút? Mười giây? Tôi co ro rút chân về, vòng tay lên đầu lấy giỏ. Nhưng tôi không sờ thấy cái giỏ mục đan bằng cành liễu, mà chạm vào chiếc giày thể thao. Tôi định hét lên mà không thành tiếng. Lập tức tôi lật sấp, nhỏm dậy, mắt tóe đom đóm và đầu ù ù váng vất tựa như cống tràn vừa mở ra ngay bên cạnh. Nắng chói chang, trời trắng lóa. Đừng có ngất, cầu bến hẹp lắm, mình sẽ chết đuối mất. - Trời ơi, xin lỗi. Cho tôi xin lỗi. Cho tôi xin. ẳ Giọng quen quá. Tiếng ù trong đầu khẽ hẳn. Trước mắt tôi là anh chàng luật sư mới vào nghề trong bộ đồ tennis. Tôi giận điên người. Thằng em trai ấm đầu của Mira, nó vẫn gọi thằng cu này là gì nhỉ? - Tôi biết, tôi đã làm chị giật mình, rất đáng tiếc. Giọng anh chàng đã rắn rỏi hơn, và tôi nghe ra chút tức giận trong đó. Thế là tốt. Tôi nhìn anh ta, không nói gì. - Không phải tôi theo đuôi chị hay làm gì đó tương tự, tôi vẫn hay đến tắm ở đây, nghĩa là trước tiên tôi chơi tennis, sau đó tôi bơi, người cùng chơi với tôi không bao giờ đi bơi cùng, nhưng tôi toàn ra cầu bến này, tôi xuống đến nơi mới thấy chị, rồi tôi thấy chị đang ngủ và định bỏ đi, đúng lúc đó chị túm giày tôi, tất nhiên chị không biết đó là giày của tôi, nhưng nếu chị biết đi nữa thì tôi cũng không trách chị, vì tôi là người làm chị giật mình, còn bây giờ thì… - Khiếp quá, cậu luôn nói kiểu ấy à? Cả ở tòa án? Cậu làm việc ở phòng luật đó thật à? Cậu em Mira cười phá lên. - Iris Berger. Đối với các chị thì tôi ngày xưa là một thằng đần, và có vẻ như không có gì thay đổi. - Có vẻ thế. Tôi vươn người lấy chiếc giỏ. Dù cậu em trai của Mira có điệu cười thân thiện, tôi vẫn rất bực mình. Vả lại tôi đói, đang muốn một mình, không chuyện trò với ai cả. Nhất định cậu ta định nói về bản di chúc, về ý tôi định làm gì với ngôi nhà, tôi nên ký bảo hiểm nhà, cũng như tất cả những hệ quả khi tôi nhận thừa kế. Nhưng tôi thì lại chẳng muốn bàn tới mấy chuyện đó nữa, thậm chí chẳng thèm nghĩ đến. Đúng lúc nhỏm dậy, tay cầm giỏ và trong thâm tâm đã chuẩn bị xong một bài diễn thuyết đầy khinh thị, tôi ngạc nhiên thấy cậu em trai của Mira đã leo lên đến nửa dốc. Cậu ta khá vội. Tôi mỉm cười. Cái T-Shirt trắng của cậu lấm cát đỏ ở vai phải. Xong bữa picnic tôi xếp lại giỏ, nhìn ra sông lần nữa, nhìn dọc mương, hai chiếc thuyền, một chiếc đã hơi xoay ngang nhưng tôi vẫn không đọc được tên, ngoài chữ “ethe” ở cuối, có lẽ là Margarethe, một cái tên hay để đặt cho thuyền. Tôi leo lên xe đạp của Hinnerk, phóng về nhà. Về nhà mình, nghe có được không? Hơi kỳ, và lạ lẫm thế nào ấy. Gió cắt nát những tiếng chuông nhà thờ trên đồng cỏ nhưng tôi vẫn nghe ra là mấy giờ. Có cảm giác như mới đầu giờ chiều, một giờ, hai giờ hoặc muộn hơn. Mặt trời, đồ ăn, cáu bẳn và giật mình, giờ lại đi ngược gió làm tôi mệt rũ. Qua cây xăng tôi rẽ phải lên vỉa hè, đẩy xe qua cửa lúc nãy không khóa, lội qua thảm hoa păng xê rồi dựng xe trước cửa bếp. Tôi xoay chìa khóa lớn bằng đồng. Một tiếng xoạch, hai tiếng, và tôi vào đến hành lang lạnh, cầu thang thở dài, tay vịn rên rỉ, không khí dưới mái nhà nóng nực ngột ngạt. Tôi ném mình xuống giường mẹ. Tại sao vải trải giường lại mới tinh nhỉ? Dưới các lỗ thêu lấp lánh chiếc gối tím. Lỗ là hoa. Lỗ trên gối. Khi thêu lỗ, cái bị mất đi là cái quan trọng. Toàn bộ nghệ thuật ở đó. Nếu nhiều lỗ quá thì chẳng còn gì nữa. Lỗ trên gối. Lỗ trong đầu. Khi tỉnh dậy, tôi thấy lưỡi dính vào vòm họng. Tôi loạng choạng qua cửa bên trái vào phòng dì Inga. Ở đó có bồn rửa tay. Dòng nước lợ màu nâu ậm oẹ tóe từng đợt vào bồn trắng. Tôi ngắm trong gương vết hằn của vỏ gối trên má mình, một loạt vòng tròn đỏ. Dần dần nước chảy đều hơn, chỉ thỉnh thoảng giật cục, và cũng trong hơn. Tôi hất nước lên mặt, cởi đồ ướt mồ hôi ra, áo dài, đồ lót, cởi hết, và khoan khoái đứng trần truồng trong phòng dì Inga, sàn nhựa xanh xám lạnh toát dưới chân. Dì Inga là người duy nhất không trải thảm trong phòng. Phòng của mẹ tôi, cố Käthe và dì Harriet có thảm sợi đay màu đỏ nâu, đi chân trần thấy ram ráp. Trên tầng mái có trải thảm sợi vỏ cây trên nền gỗ. Chỉ phòng con gái, bây giờ là kho, có sàn gỗ, nhưng chết cứng vì bị phủ kín một lớp sơn nâu dày. Tôi lên tầng mái thênh thang, mở cánh cửa tủ gỗ dẻ, tất cả áo dài vẫn treo ở đó, màu đã xỉn bớt nhưng không thể không nhận ra chiếc áo dài đẹp như mơ của dì Harriet mặc ở vũ hội tốt nghiệp, và chiếc váy vàng kim tuyến của mẹ trong lễ đính hôn, chiếc váy đen phất phới điệu đà hồi thập kỷ ba mươi là của Bertha. Tôi lục tiếp, cho đến khi tìm được chiếc áo dài tơ tằm xanh đen đính cườm lấp lánh quanh cổ của dì Inga. Tôi mặc nó lên người. Có mùi bụi và oải hương, gấu bị rách, thiếu vài hạt cườm, nhưng mát rượi trên ngực, dễ chịu hơn ngàn lần cái áo dài đen mà tôi vừa mặc ngủ. Trước đó tôi chưa khi nào ở nhà này lâu lâu mà lại không đổi áo dài của mình lấy áo dài từ các tủ quần áo ngày xưa. Cả ngày hôm nay tôi mặc đồ riêng của mình mà cứ như hóa trang. Mặc chiếc áo dài của dì Inga, tôi đi vào phòng dì và ngồi xuống ghế mây. Mặt trời chiều lấp ló chiếu qua các ngọn cây vào phòng, khiến không khí có màu xanh dịu. Những vân ngoằn ngoèo trên nhựa trải sàn lay động như nước. Gió luồn qua cửa sổ, tôi cảm thấy như đang ngồi trong dòng chảy dịu dàng của một con sông xanh. Chương 3 D ì Inga đeo hổ phách. Những sợi dây chuyền dài với hạt mài tròn, thấy cả côn trùng nhỏ bên trong. Chúng tôi tin là chúng sẽ rũ cánh và bay mất nếu lớp vỏ nhựa cây vỡ ra. Tay dì đeo một chiếc vòng lớn màu vàng đục. Dì đeo trang sức biển, nhưng không vì căn phòng đại dương hay vì chiếc váy trinh nữ biển, mà như dì nói, vì lý do sức khỏe. Từ lúc còn bé tí, dì đã làm bất cứ ai vuốt ve dì bị điện giật, không mạnh đáng kể, nhưng nhìn thấy tia lửa điện, nhất là vào buổi đêm, khi Bertha cho dì bú là thoáng bị điện giật, gần như bị cắn, trước khi dì bắt đầu bú. Bà không kể với ai, cả với mẹ tôi Christa. Ngày ấy mẹ tôi mới lên hai và mỗi lần chạm vào em gái là rúm người lại. Inga càng lớn thì càng tích điện mạnh hơn. Giờ ai cũng biết chuyện đó, nhưng thực ra thì mỗi đứa trẻ có cái gì đó khác biệt với những đứa khác, cũng là thứ khiến nó bị trêu chọc hay được trầm trồ, và ở Inga là những cú phóng điện. Ông ngoại tôi, Hinnerk, phát cáu khi Inga lại gần radio làm nhiễu sóng thu. Lúc đó radio kêu loạt soạt, và trong mớ âm thanh nhiễu loạn, đôi khi Inga nghe tiếng ai đó khẽ nói với nhau hoặc gọi tên dì. Mỗi lần Hinnerk nghe radio thì dì không được vào phòng khách. Tuy nhiên cứ ở phòng khách là ông luôn nghe radio. Nếu không ở phòng khách thì ông ngồi trong phòng làm việc, ở đó đằng nào cũng chẳng ai dám quấy ông. Vì vậy vào mùa lạnh Hinnerk và Inga chỉ nhìn thấy nhau ở bàn ăn. Mùa hè, mọi người đều ở ngoài trời. Buổi tối Hinnerk ngồi ở sân sau hoặc đi xe đạp qua đồng cỏ. Inga tránh xe đạp vì có nhiều kim loại và ma sát. Chỉ Christa thích đi xe, thế là vào các tối mùa hè và Chủ nhật, Hinnerk cùng Christa đi xe đạp ra mương, đến hồ đầm lầy, đi thăm anh chị em họ ở các làng bên. Inga ở nhà, hiếm khi rời khuôn viên, vì vậy dì thuộc lòng mọi thứ hơn ai khác. Bà Koop, láng giềng của Bertha, ngày xưa kể cho chúng tôi rằng Inga ra đời vào một ngày dông bão dữ dội, sấm chớp đổ xuống quanh nhà, và đúng lúc một tia chớp làm cả căn nhà rung chuyển từ trên xuống dưới thì Inga chào đời, cả căn phòng sáng bừng như giữa ban ngày, Inga im thin thít cho đến khi tiếng sấm nổ thì một tiếng khóc mới lọt ra từ cái miệng đỏ bé xíu, và từ đó trở đi dì có điện. “Con bé Lüttje tội nghiệp”, bà Koop giải thích cho bất kỳ ai muốn nghe, “chưa được tiếp đất”, mà còn lơ lửng bồng bềnh “ở một thế giới khác”. Thú thực là Rosmarie sau này bịa thêm câu “Con bé tội nghiệp”. Nhưng cũng rất hợp với cách nói của bà Koop, nhất định thế. Dù thế nào thì chúng tôi cũng không bao giờ kể lại cho nhau chuyện này mà không quàng thêm câu “Con bé tội nghiệp”, chúng tôi thấy thế hay hơn. Christa, mẹ tôi, thừa hưởng của dòng họ Deelwater thân hình cao lớn cùng cái mũi dài nhọn. Còn nhà Lünschen truyền cho mẹ mái tóc nâu dày, nhưng môi mẹ sắc nét, lông mày rậm và đôi mắt xám thì nhỏ. Quá góc cạnh để được coi là đẹp hồi những năm năm mươi. Tôi giống mẹ, nhưng tất cả ở tôi - đầu, tay, cơ thể, ngay cả đầu gối - đều tròn trịa hơn Christa. Quá tròn trịa để được coi là đẹp hồi thập kỷ chín mươi. Đó cũng lại là điểm chung giữa hai mẹ con. Harriet, dì út, không hẳn xinh đẹp, nhưng trông quyến rũ - lúc nào cũng hơi bù xù, má đỏ, tóc nâu hạt dẻ và hàm răng chắc khỏe, hơi khểnh. Dáng đi bộp chộp của dì cùng đôi bàn tay to rất gợi nhớ hình ảnh một chú cún con. Nhưng Inga thì xinh lắm. Cao như Bertha, thậm chí cao hơn. Mọi chuyển động của dì rất duyên dáng, khả ái, không hẳn ăn nhập với phong cảnh miền Bắc cằn cỗi. Tóc dì sẫm màu, sẫm hơn Hinnerk, mắt dì xanh lam như mẹ, nhưng to hơn và rợp bóng hàng mi cong vút. Miệng dì cũng cong, đỏ và có nét giễu cợt. Giọng dì dịu dàng, trong vắt, dù vậy các nguyên âm hơi rung thêm ở cuối câu, khiến cả những lời vô thưởng vô phạt cũng hàm chứa ý hứa hẹn. Tất cả cánh đàn ông đều mê Inga. Nhưng dì luôn giữ khoảnh cách với họ, có lẽ không hẳn vì tính toán mà vì lo ngại những phản ứng vật lý nếu dì hôn họ chứ chưa nói đến lúc thả mình vào vòng tay họ. Vậy nên dì lẩn tránh, ở nhà nhiều, nghe đĩa trên cái máy quay đĩa to kềnh càng mà một chàng si tình khôn khéo và tài hoa đã lắp cho dì từ các phụ tùng kiếm được, và dì khiêu vũ một mình ở phòng riêng, trên nền nhà trải nhựa phản chiếu ánh sáng mờ đục. Bên cạnh mấy cuốn cẩm nang về kỹ thuật điện trên giá sách của dì còn có những cuốn tiểu thuyết tình ái thê lương dày cộp. Ngày trước mẹ tôi kể rằng dì Inga thích đọc cuốn cổ tích cũ kỹ nát bét của cố Käthe nhất, những chuyện về mụ phù thủy hổ phách sống dưới đáy biển, dụ dỗ người ta xuống đó. Lúc bé dì đã đeo trang sức bằng hổ phách, sau khi đọc một cuốn giáo khoa kỹ thuật điện rằng “electron” trong tiếng Hi Lạp là hổ phách, một vật liệu tích điện rất tốt. Tốt nghiệp phổ thông, dì học nghề chụp ảnh, cho đến giờ dì có một hiệu ảnh riêng rất danh tiếng ở Bremen. Dì chuyên sâu về ảnh cây lá, đã có vài triển lãm nhỏ và ngày càng nhiều hợp đồng trang trí phòng chờ, phòng hội nghị hay những không gian khác, nơi người ta dành hàng tiếng đồng hồ để nhìn chòng chọc lên mấy bức tường và lần đầu tiên ngộ ra rằng thân cây dẻ nuột nà như đùi phụ nữ trong tất ni lông hoặc đa số các cây đại thụ có nét mặt người. Dì chưa bao giờ kết hôn. Bây giờ dì đã vượt ngưỡng năm mươi và xinh đẹp hơn đa số các nàng nõn nà hăm lăm. Rosmarie, Mira và tôi tin chắc dì có người tình. Có lần dì Harriet nói xa gần là chính anh bạn lắp đĩa hát có cực nhiều hoa tay trong kỹ thuật điện, nhưng dạo ấy dì Inga còn sống cùng gia đình, mà chuyện yêu đương của ba chị em thì vô tưởng dưới con mắt cú vọ của Hinnerk. Rosmarie tự hỏi chuyện gì xảy ra với các tình nhân của dì. Họ chết vì vỡ tim sau khi được phép tận hưởng khoảnh khắc viên mãn nhất, thiêng liêng nhất đời họ? Quả là một cái chết tráng lệ, Rosmarie tin vậy. Mira nói, có thể Inga không hề đụng chạm da thịt, mà làm mọi chuyện trong một bộ đồ cao su mỏng tang. - Tất nhiên bộ đồ ấy màu đen, nó nói thêm. Tôi bảo, có lẽ dì cũng làm chuyện ấy như mọi người khác, duy chỉ trước đó dì tiếp đất bằng cách chạm vào lò sưởi hay thứ gì tương tự. - Có đau không nhỉ? - Mira băn khoăn. - Mình hỏi dì nhé? Nhưng chính Rosmarie cũng đâu dám hỏi. Inga cũng chụp ảnh người, nhưng chỉ chụp gia đình. Thực ra dì chỉ chụp mẹ dì mà thôi. Hình tượng Bertha càng mờ nhạt đi thì Inga càng chụp chân dung bà nhiều hơn. Cuối cùng dì chỉ chụp có chớp, thứ nhất vì bà tôi hầu như không rời khỏi phòng ở nhà dưỡng lão - bà đã quên cách đi ra sao, và thứ hai vì Inga ngoan cố hy vọng ánh chớp của máy ảnh sẽ xuyên thủng lớp sương mù đang ngày càng bao phủ dày đặc lên óc Bertha. Sau khi tôi đến thăm Bertha trước đây bốn năm, dì Inga cho tôi xem một thùng đầy chân dung đen trắng của mẹ. Trên bốn cuộn phim cuối, Bertha lúc nào cũng có vẻ mặt thất thần khó hiểu như nhau, miệng hơi hé, mắt mở to với con ngươi thu lại nhỏ xíu theo phản xạ. Không hề nhìn thấy bà nhận thức hay miễn cưỡng. Bertha không thể và cũng chẳng muốn nữa. Ảnh sờn cũ. Vài tấm mờ hoặc rung, chẳng có vẻ do dì Inga chụp. Ánh sáng chói lóa xóa hết các nếp nhăn sâu của Bertha, khiến da mặt bà trơn và trắng, nổi bật trên nền xám đằng sau. Trắng như mặt bàn mica mà bà vẫn phủi tay lên, và cũng trống rỗng như thế. Sau khi tôi trả lại ảnh, dì ngắm chúng hồi lâu trước khi xếp lại vào thùng. Rõ ràng dì thuộc lòng từng tấm một và biết phân biệt chúng, vì khi xếp vào thùng, có vẻ như dì phải tuân thủ một thứ tự nào đó. Tôi muốn ôm dì, nhưng không thể đường đột thế, vì vậy tôi lấy cả hai tay nắm tay dì thật chặt, nhưng dì đang toàn tâm toàn ý vào việc phân loại các tấm ảnh kỳ khôi, giống hệt nhau của mình, cái vòng tay bằng hổ phách liên tục va cành cạch vào thùng. Tiếng càng chống xe đạp bằng kim loại miết xuống sân, sau đó tiếng lạch xạch từ giá đèo hàng vọng từ bên dưới qua cửa sổ mở. Tôi nhoài người ra xem nhưng người khách đã đi khuất góc nhà để nhấn chuông cửa chính, cái xe đạp đen trông quen quen. Tiếng chuông vang lên. Tôi vội chạy xuống thang, đi dọc hành lang và cố nhòm qua tấm kính cạnh cửa chính. Một ông già đứng ra trước ô cửa nhỏ. Tôi ngạc nhiên mở cửa. - Ông Lexow! Đang cười thân thiện để chào, vẻ mặt ông chợt bối rối khi thấy tôi. Tôi chợt nhớ mình đang mặc đồ gì, và thấy xấu hổ. Chắc chắn ông tưởng tôi là một con bé dở hơi leo lên tầng trên, cởi truồng lục lọi tủ quần áo rồi đóng bộ lên người nhảy múa dưới mái nhà, thậm chí trên mái nhà, dạng ấy cũng đã từng có trong gia đình này rồi. - Ối, ông tha lỗi cho bộ dạng của cháu, ông Lexow. Tôi lắp bắp cố tìm lời giải thích. - Áo dài của cháu bị dính bẩn mà cháu không đem theo đồ thay, ông thấy đấy, trong nhà thì ngột ngạt quá… Nụ cười thân thiện lại tái hiện ngay. Ông giơ tay trấn an. - Áo dài của dì Inga, đúng không? Hợp với cháu lắm. Cháu thấy chưa, ông đã nghĩ là sẽ có ai đó ở nhà. Trong bếp chẳng còn gì, ông đoán thế, và thế là… ông định… Bây giờ đến lượt ông Lexow lắp bắp. Tôi lùi một bước để ngỏ ý mời ông bước vào, đóng cửa sau lưng ông và đỡ lấy cái túi vải bông mà ông giơ ra trong lúc nói chuyện. Trước khi tôi kịp nghĩ nên đưa ông vào đâu trong những phòng lạnh tanh này thì ông đã xin phép được đi trước, rồi ông đi dọc hành lang vào bếp. Ông nhẹ nhàng lấy lại cái túi, lôi ra một bát nhựa to, mở một ngăn kéo bên dưới mà không cần tìm lâu, lấy một cái nồi đặt lên bếp. Tôi lại gần. Ông không nói gì nữa, chỉ đi lại rất thông thạo trong bếp của Bertha. Tôi chẳng cần hỏi cậu em Mira cũng biết ai trông coi nhà và vườn khi Bertha vắng mặt. Tôi ngập ngừng đổi thế đứng vài lần. Mặc dù bếp rộng, tôi vẫn làm vướng chân ông. - Cháu gái, lấy cho ông ít rau mùi trong vườn được không? Ông đưa tôi cái kéo. Tôi đi từ sân, qua giữa hai cây phong ra luống rau trong vườn của Bertha. Dây kim ngân leo trên hàng rào. Cửa vườn khép hờ, kêu kin kít khi tôi đẩy ra. Rau mùi ở ngay đầu luống, bị phủ kín bởi hành lá. Tại sao lại có một vệt rau mùi thưa thớt ở đây nhỉ? Mùi mọc từ hạt mà. Giống như đám đậu đũa có hoa trắng, hồng và cam. Cạnh đó là luống tỏi tây vát chéo. Dưới đất, giữa cỏ băng và cúc La Mã, lá dưa chuột phủ lông măng mọc đầy, cố chen lấn cỏ dại hay ít nhất cũng bị lây nấm mốc sang. Hoa môi và bạc hà đã cùng nhau xâm chiếm toàn bộ các luống, quây kín các gốc phúc bồn tử trắng, lùm dâu gai dặt dẹo và gốc cây mâm xôi. Chắc là ông Lexow đã cố giữ vườn rau cho Bertha, nhưng ông không có năng khiếu xếp chỗ từng loại rau và dịu dàng gọi chúng nảy nở như bà. Tôi bước xéo qua vườn, tìm đến những bụi cây biết kính trọng trí nhớ của Bertha hoặc biết cưỡng lại sự suy tàn của nó. Kết quả là một. Bụi cây móng rồng khe khẽ tỏa hương. Phi yến chọc những mũi giáo xanh lên bầu trời dần tối. Đậu cánh chim cùng cúc La Mã sáng bừng nền đất, hoa chuông gật gù chào tôi. Giữa các cây phúc bồn tử và mâm xôi chủ yếu là các cây mọc hoang. Nền đất ở góc này đỏ như gỉ sắt, phủ đầy lá kim rụng xuống. Bước chân nhún nhảy và không gây tiếng động. Ngày xưa Rosmarie, Mira và tôi chăng vải tuyn cũ giữa các gốc cây làm nhà cho tiên. Trong đó chúng tôi diễn rất nhiều các vở ngôn tình dài lê thê, rối rắm. Thoạt tiên chỉ có các chuyện về ba nàng công chúa bị một người hầu phản phúc bắt cóc đem bán. Sau nhiều năm làm việc cực nhọc họ đã trốn khỏi nhà cha mẹ nuôi tàn bạo. Họ sống trong rừng cho đến khi nhờ một ngẫu nhiên may mắn gặp lại cha mẹ thật. Rồi họ quay lại trừng phạt những kẻ ác đã làm khổ mình. Rosmarie nhận phần “đào tẩu”, tôi “tái ngộ” và Mira “phục thù”. Tôi đi ra cửa vườn hướng về phía khoảnh rừng con, nhòm vào khối không gian xanh sẫm. Không khí phả mùi nhựa và lạnh. Tôi rét run, nắm chặt chiếc kéo và quay về đám rau mùi. Vừa cắt được một bó nhỏ thì tôi đã ngửi mùi đất và bếp núc, mặc dù các lá xoăn đã ngả vàng. Có nên cắt thêm ít lá cần tây? Thôi. Tôi nhớ lại buổi chiều cùng Rosmarie và Mira trong vườn. Đó là lần cuối tôi nói chuyện với Mira. Tôi đứng dậy, đi qua cửa nhà kho, nền đất lạnh như băng. Tôi chạy mấy bậc tam cấp lên bếp và ngây ngất vì mùi xúp rau lan tỏa khắp phòng. Tôi đặt bó mùi cạnh nồi xúp bốc khói. Ông Lexow thoáng ngửng lên cảm ơn. Tôi đã đi hơi lâu để làm một nhiệm vụ cỏn con. - Xong ngay đây. Ông đã bày xong bàn. Đúng thế, trên bàn bếp là một đĩa trắng sâu lòng, cạnh nó là chiếc thìa bạc lớn. - Nhưng ông cũng phải ăn cùng chứ, ông Lexow. - Ừ, Iris ngoan, ông cũng ăn. Chúng tôi ra bàn ngồi. Nồi xúp trên bàn, rau mùi xắt nhỏ trên cái thớt gỗ. Chúng tôi ăn món xúp tuyệt hảo với những miếng khoai cắt quân cờ, đậu Hà lan, đậu đũa xắt nhỏ và rất nhiều vòng tỏi tây trong suốt. Rồi ông Lexow ngồi thẳng lưng lên. Ông muốn nói gì đó, nhưng tôi chỉ nhận ra điều đó khi chính mình ngửng lên để nói chuyện. Chúng tôi cùng lúc thốt lên: - Ông Lexow. - Iris thân mến. - Ông nói trước đi. - Không, cháu trước. - Vâng, cháu chỉ định cảm ơn, món xúp đến đúng lúc, và cảm ơn ông đã trông nom nhà và vườn. Cảm ơn ông lắm, cháu không biết trả ơn ông thế nào đây, bù đắp cho thì giờ và tình yêu mà ông đã… Ông Lexow ngắt lời tôi. ẳ - Thôi mà. Ông muốn cho cháu biết một điều mà chẳng nhiều người biết. Nói đúng hơn là chỉ hai chúng ta biết, người thứ ba thì chúng ta vừa mai táng hôm qua, không rõ người ấy còn nhớ không? Cháu vừa nhắc đến tình yêu. Khi cháu mở cửa và ông thấy cái áo dài này, thì… - Cháu xin lỗi ông, cháu hiểu là đã làm ông bất bình, nhưng cháu… - Không, không, lúc cháu mở cửa, ông tưởng là… Cháu biết không, dì Inga nhà cháu, nói thế nào nhỉ, Inga và ông… - Ông yêu dì à? Dì đẹp lắm. Ông Lexow nhíu mày. - Đúng. Không. Không phải như cháu có thể vừa đoán. Ông yêu Inga như… như… một người bố. - Vâng, tất nhiên. Cháu hiểu chứ. - Không đâu, ông biết là cháu không hiểu, ông yêu Inga như một người bố, vì đó là ông. - Là một người bố. - Đúng. Không. Bố của dì cháu, ông là bố Inga. Ông yêu Bertha. Xưa nay. Cho đến tận phút chót. Với ông, đó là một vinh dự, một món nợ, nghĩa vụ của ông là chăm sóc ngôi nhà. Xin cháu đừng cảm ơn ông, đừng, ông xấu hổ lắm, đó là việc duy nhất ông có thể làm cho bà cháu, ý ông là, sau chừng ấy… Trán ông Lexow lấm tấm mồ hôi. Gần như ông sắp khóc. Tôi đã thôi ăn. Bố của dì Inga. Tôi không hề tính đến khả năng đó. Nhưng tại sao không? Inga có biết không? - Inga biết, ông đã viết cho dì cháu khi Bertha vào nhà dưỡng lão. Ông đề nghị với Inga rằng ông sẽ trông coi ngôi nhà cho đến khi, à, nghĩa là chừng nào Bertha còn ở đó. Ông Lexow trấn tĩnh, giọng ông đã rắn rỏi hơn. Tôi đứng dậy, đi vào phòng ông bà lấy đôi tất len của Hinnerk và một cái áo len xám của Bertha trong tủ gỗ sồi. Tôi ngồi xuống bàn trang điểm để đi tất. Bertha ngoại tình? Tôi lập cập quay về bếp. Bàn đã dọn sạch. Trên bàn có hai chiếc cốc, ông Lexow, bố của dì tôi, như một kiểu ông trẻ, đứng bên bếp và quấy trong chiếc nồi con. Tôi ngồi xuống ghế mình, thu hai chân lên mặt ghế. Lát sau, sữa bốc khói trong cốc, ông Lexow cũng ngồi xuống và kể lại ngắn gọn những gì xảy ra ngày trước. Chương 4 G iáo viên trẻ Carsten Lexow đến Bootshaven. Anh mới hai mươi, người làng Geeste, gần Bremen. Trường ở Bootshaven là một phòng học lớn, tập trung tất cả các trẻ con có nghĩa vụ đi học. Một giáo viên duy nhất dạy cùng lúc tất cả học sinh và tất cả các môn. Mỗi năm chỉ một lần, cụ thể là một tuần sau khi hết nghỉ hè, mục sư ghé qua chào các học sinh mới của lớp kiên tín. Bố Carsten buôn hàng xén, ông qua đời bốn năm trước khi Carsten chuyển đến Bootshaven vì hậu quả vết thương trong chiến tranh. Một viên đạn của quân Pháp di chuyển trong cơ thể ông ngót tám năm, cuối cùng lọt vào phổi ông, chấm dứt cuộc du hành của nó, đồng thời chấm dứt cả cuộc sống của nhà buôn hàng xén Carsten Lexow Cha. Bố Carsten là người kiệm lời, ông ở cửa hàng là chính, chứ đối với gia đình thì luôn là người lạ. Mẹ Carsten đổ lỗi cho viên đạn xê dịch khiến ông không về nhà được cho trọn, nhưng có thể tính cách ông đơn giản là vậy. Không chỉ bán những mặt hàng nhỏ, nhiều thứ ở ông cũng nhỏ, chân ông ngắn, mũi ông và tóc ông ngắn, những câu ông nói và lòng kiên nhẫn của ông cũng ngắn nốt. Chỉ có đoạn đường xê dịch của viên đạn trong cơ thể ngắn ngủn của ông là dài, nhưng khi nó rốt cục đến đích thì đoạn đường xuống âm phủ cũng ngắn như cuộc đời ông vậy. Quả phụ Lexow một mình điều hành tiếp cửa hàng xén, thỉnh thoảng Carsten giúp mẹ làm sổ sách. Cậu không có anh chị em, nhưng em trai của quả phụ Lexow, một viên chức bưu điện cao cấp độc thân, ngỏ ý muốn hỗ trợ chị và cháu chút ít. Vì Carsten không mấy mặn mà với cái nghề bán kim chỉ, bà góa đồng ý cho con trai đi Bremen học sư phạm. Carsten ở đó hai năm, cho đến khi nhận việc dạy trường làng ở Bootshaven, dù chẳng hề làm đơn xin. Ông giáo cũ qua đời vì đột quỵ ngay giữa tiết học, nhưng vì ông có thói quen ngủ gật giữa giờ nên bọn trẻ chẳng để ý đến tấm thân sụm xuống. Như mọi khi ông ngủ gật, mười bốn đứa trẻ khẽ khúc khích cười rời lớp sau hồi chuông trưa. Lần đó chúng cũng quên ông giáo cho đến sáng sớm hôm sau, rồi chúng thấy ông vẫn ngủ tiếp trong tư thế như hôm qua. Không ai ngạc nhiên khi lớp học không khóa, vì ông giáo già nổi tiếng đãng trí. Nhưng rồi học sinh lớn tuổi nhất, Nikolaus Koop, liều mạng gọi đánh thức ông giáo nhỏ thó nhợt nhạt dậy. Đầu ông gập hẳn xuống ngực, chỉ còn thấy vầng trán. Không thấy thầy trả lời, Nikolaus tiến lại gần và quan sát kỹ thầy. Gia đình nhà Koop là nông dân như hầu hết dân làng. Nikolaus Koop hay phụ việc mổ thịt và đã có lần thấy con bò chết khi đẻ. Nó hấp háy mắt, quay về phía các bạn rồi bình tĩnh nói, ngắt dài giữa từng chữ, có lẽ hôm nay không học nữa, tất cả về nhà đi. Mặc dù Nikolaus là một thằng bé yếu thế, và tuy lớn tuổi nhất lớp song lại không phải đứa cầm đầu, nhưng tất cả học sinh đều ngoan ngoãn đi về. Cả Anna Deelwater và em gái Bertha cùng các học sinh khác rời khỏi trường. Nhà hai chị em ở ngay cạnh nhà Koop, thường ngày cả ba vẫn đi cùng đường, nhưng hôm đó hai chị em về một mình, im lặng, đầu cúi gằm. Nikolaus Koop nhấn chuông ở nhà mục sư ngay cạnh trường để báo tin. Ông mục sư đang ngồi đọc báo bên bàn giấy. Ngay hôm đó ông viết cho bạn là mục sư của làng Geeste, và ba hôm sau Carsten Lexow về Bootshaven làm thầy giáo làng, vừa kịp đưa đám người tiền nhiệm, thế là mọi bên đều thỏa mãn. Dân làng vui mừng được thấy mặt thầy giáo mới ngay. Và Carsten Lexow cảm thấy hạnh phúc vì được mặc bộ complet đen may từ hồi đưa ma bố. Ngoài ra, đây còn là một dịp tốt để trình diện với mọi người, trước khi họ bịa đủ thứ chuyện về anh. Dĩ nhiên người ta vẫn bịa chuyện, vì Carsten Lexow cao lớn, thon thả và tóc đen, chải rẽ ngôi rất khó. Mắt anh xanh, nhưng một hôm, khi anh ngửng đầu khỏi vở trong tiết học, Anna Deelwater phát hiện một vòng vàng quanh con ngươi anh, và từ giây phút đó cho đến tận cuối cuộc đời ngắn ngủi của mình, cô bị xích chặt vào cái vòng đó. Chỉ có một tấm ảnh duy nhất của Carl Deelwater với Anna Deelwater, con gái đầu lòng của Käthe, thực ra là Katharina. Nhưng ảnh được in thành nhiều bản. Mẹ tôi giữ một tấm, phòng dì Inga treo một tấm, Rosmarie lấy băng dính dán một tấm vào tủ quần áo của mình. Bác Anna, các dì và mẹ tôi vẫn gọi Anna như thế, có mái tóc sẫm màu như bố bác. Trên ảnh cứ như bác có mắt đen, nhưng dì Inga giải thích là ảnh bị phơi sáng sai. Chúng tôi chỉ có thể cả quyết là mắt bà Anna xám và dài, lông mày rậm hình cánh ẳ cung chứ không thẳng. Lông mày bà Anna nổi bật trên khuôn mặt, tạo ra vẻ bí hiểm, hoang dã. Bà thấp hơn Bertha, bù lại thì mập hơn. Bertha chân dài, tóc vàng và vui vẻ, bề ngoài và bản tính có vẻ đối lập với chị, nhưng thực ra cả hai đều nhỏ nhẹ, gần như nhút nhát, và dính vào nhau như hình với bóng. Cả hai cũng thì thào, khúc khích nhiều như các cô gái khác cùng lứa, nhưng chỉ với nhau. Có người cho họ là kiêu kỳ, vì Carl Deelwater có nhiều ruộng nhất và có nông trại lớn nhất Bootshaven. Ngoài ra ông còn mua đứt một ghế băng riêng ở hàng đầu cho mình cùng gia đình trong nhà thờ, khắc tên họ ông. Không phải vì ông là người đặc biệt mộ đạo. Ông hiếm khi đến nhà thờ, nhưng đã đến, vào những dịp đại lễ như Phục sinh, Giáng sinh, Tạ ơn, thì ông ngồi hàng đầu trên ghế băng riêng với vợ và các con gái, khiến cả làng phải trố mắt nhìn. Nhiều chủ nhật trong năm, khi ông không đến nhà thờ, ghế băng cũng trống và cả làng lại trố mắt nhìn. Anna và Bertha kiêu hãnh vì nông trại lớn nhà mình cũng như ông bố tuyệt vời. Tuy ông cũng băn khoăn chuyện thừa kế nhưng không bao giờ lấy đó làm cớ trách vợ và các con, mà luôn tìm cách chiều chuộng “ba cô nương” hết mực. Hai cô con gái phải tham gia công việc nông trại, giúp mẹ trong nhà và hỗ trợ cô đầu bếp Agnes, cô đến làm mỗi ngày và phải gọi là bà mới đúng, bà đã có ba con trai trưởng thành. Họ làm nước quả với Agnes và vặt lông gà, nhưng thích nhất và chủ yếu là làm vườn. Cuối tháng Tám trở đi, họ chỉ thu hoạch táo. Giống táo xanh được trẩy đầu tiên, ăn có vị chanh, và đã cắn một miếng là không thể ăn hết ngay trước khi miếng táo ngả nâu. Táo xanh không đem nấu được, mùi thơm của nó bay nhanh như gió tháng Tám là mùa táo chín. Sau đó đến giống táo Cox Orange, trước tiên là cây lớn đứng sát tường nhà và được tường gạch đỏ trữ nhiệt cả ngày truyền hơi nóng, quả trên cây này do đó to hơn, ngọt hơn, chóng chín hơn các cây khác. Từ tháng Mười thì các cây khác đều chín. Anna và Bertha di chuyển trên cây cũng nhanh nhẹn như dưới đất. Trước đây mấy năm một phu ngựa đã đóng đinh mấy tấm ván lên một cành táo Boskoop chĩa ngang, có thể đặt các giỏ táo lên. Nhưng hai cô ngồi luôn lên ván, đọc sách cho nhau nghe, uống nước quả, ăn táo cùng bánh bơ do Agnes đem ra khi con trai cô ghé qua và được mời ăn cùng. Ít nhất thì cô có thể kể là Bertha và Anna cũng ăn bánh, nếu ai đó hỏi vì sao còn thừa lại ít bánh thế. Nhưng chẳng ai hỏi. Tất nhiên ông Lexow không kể cho tôi nghe chuyện bánh bơ của Agnes. Tôi còn không tin là ông biết có Agnes trên đời. Tôi ngồi ở bàn bếp trong nhà Bertha, nhìn ảnh bà lúc còn bé, và ảnh bà Anna luôn có ánh nhìn như nhau khi chụp ảnh. Tôi uống cốc sữa âm ấm, nhớ đến những thứ Bertha kể cho mẹ và mẹ kể cho tôi nghe, những thứ dì Harriet kể cho Rosmarie và Rosmarie kể cho Mira và tôi nghe, những thứ bọn tôi tự bịa ra hay ít nhất là hình dung thêm. Có vài bận bà Koop kể cho chúng tôi chuyện chồng bà phát hiện thầy giáo chết trong lớp ra sao. Cậu bé hàng xóm Nikolaus Koop khi xưa đã trở thành một nông dân hiền lành chăm chỉ, bị đục nhân mắt và cực kỳ sợ vợ. Cặp mắt đeo kính dày cộp của ông hấp háy lia lịa mỗi khi nghe tiếng vợ. Mí mắt ông giật giật như con chim sẻ đập cánh khi bay nhầm vào phòng khách mở cửa của nhà Deelwater rồi không biết đường ra. Dì Harriet nhảy dựng dậy, ra lệnh cho chúng tôi mở hết các cửa sổ để con chim không lao vào cửa kính mà gãy cổ. Chim bay rồi, chỉ còn hai sợi lông vương lại trên bậu cửa sổ. Nikolaus Koop thường hấp háy mắt, ngoài ra chúng tôi còn thấy ông quen đẩy kính lên trán mỗi khi nhìn vợ. Mira cho rằng ông tự làm khiếm thị để khỏi nhìn thấy vợ, như một dạng đường thoát hiểm, giống cửa sổ mở. Nhưng Rosmarie cả quyết là, khác với con chim, ông sợ không phải mình mà là vợ bị gãy cổ. Ngày ấy chúng tôi chẳng thể biết là chính Rosmarie sẽ bị gãy cổ khi rơi qua tấm kính. Tôi phải tự suy luận ra một số chi tiết mà ông Lexow cố giải thích cho tôi. Lúc đó tôi nhìn vào đôi mắt xanh của ông và phát hiện ra, cái vòng quanh con ngươi ông lúc này không còn vàng, mà đã ngả thành màu nâu. Lòng trắng trong mắt ông đã nhuốm vàng, ông qua ngưỡng tám chục lâu rồi. Nhưng ông là ai mới được chứ? Ông trẻ của tôi? Không, là bố của dì tôi thì ông là ông tôi. Nhưng ông tôi là Hinnerk Lünschen chứ không phải Lexow. Ông chỉ là một “người bạn của gia đình”, một nhân chứng. Trước đó mấy năm, khi bà ngoại quên hẳn có tôi trên đời, mẹ tôi đã đến chỗ Bertha hai tuần. Đó là một trong những chuyến viếng thăm cuối cùng trước khi Bertha vào nhà dưỡng lão. Vào một buổi chiều ấm áp, hai người ngồi trên bãi cỏ trồng cây ăn quả phía sau nhà. Đột nhiên Bertha nhìn chằm chằm Christa, rất tỉnh táo và quyết liệt như đã lâu rồi không thế, dõng dạc báo cho mẹ tôi biết, Anna thích táo Boskoop, nhưng Bertha thích táo Cox Orange cơ. Tựa như đó là điều bí mật cuối cùng mà bà phải truyền lại. Anna thích Boskoop, Bertha thích Cox Orange. Vào mùa thu, tóc ba chị em thơm phức hương táo, váy áo và hai tay thì dĩ nhiên rồi. Họ nấu táo xay và nước táo và thạch táo với quế, họ thường có táo trong túi yếm và một quả cắn dở trong tay. Đầu tiên Bertha cắn nhanh một vòng rộng quanh bụng quả táo, sau đó rón rén ăn dưới chũm nụ, rồi mới ăn quanh cuống, miếng nhân có hột thì ném đi. Anna ăn nhấm nháp chậm rãi, từ dưới lên trên, không chừa lại gì. Bà nhai chỗ hột táo cả tiếng đồng hồ. Khi Bertha nói bên trong hột táo độc, Anna đáp, nhưng hột táo có vị hạnh nhân. Bà chỉ nhổ cuống ra thôi. Chuyện ấy Bertha đem ra kể cho tôi khi bà thấy tôi ăn táo giống hệt Anna. Mà nói chung đa số mọi người ăn táo như thế. Vào hè thì Carsten Lexow cho học sinh nghỉ một ngày tránh nóng, và gọi là đi hái dâu. Bertha cười và bảo, cô thích hái dâu nhất. Carsten Lexow để ý hàm răng nhỏ, trắng của cô học trò cùng động tác vụng về của bàn tay to khi cố dồn tóc vào bím sau gáy. Vì thầy giáo hay nhìn mình và có thể Bertha cũng hay chọc giận thầy bằng những nhận xét cợt nhả, cô đỏ mặt quay đi. Thầy Lexow nhìn chòng chọc theo Bertha, tim đập thình thịch và không nói gì. Anna nhìn thấy tất, nhận ra ánh mắt thầy Lexow dõi theo em gái mình, nhận diện thầy như nhận ra mặt mình trong gương, rồi vội vã chạy theo em gái, má đỏ lựng và đầu cúi gằm. Anna yêu Lexow, Lexow yêu Bertha, còn Bertha? Thực tế là Bertha yêu Heinrich Lünschen mà tất cả đều gọi là Hinnerk. Anh là con trai chủ nhà hàng Dorfkrug, một kẻ không tấc đất cắm dùi. Gia đình anh chỉ sở hữu hai mảnh ruộng nho nhỏ ở tận rìa làng, cho một gã còn khố rách áo ôm hơn thuê. Hinnerk ghét nhà hàng của bố mẹ mình. Ghét mùi nấu nướng cùng mùi bia thiu trong quán vào sáng sớm hôm sau. Ghét những cuộc cãi cọ ầm ĩ, hung hăng của bố mẹ như cuộc giải hòa cũng ầm ĩ, hung hãng không kém. Hinnerk là con trai cả, một trong những em trai anh có lần nói trong bếp tối đèn và phải lắng nghe một vụ cãi cọ rất kịch liệt, chắc nhà lại sắp có thêm em trai. Hinnerk bật dậy, anh ghét những vụ mang thai liên tục của mẹ. - Sao mày biết? - Thì thế, hai người cứ cãi nhau xong là nhà lại chuẩn bị có thêm em trai. Hinnerk cười khan. Phải đi khỏi đây thôi. Ghét quá. Ông Deelwater nhận ra rằng mục sư và ông giáo già khen trí lực của Hinnerk một cách cường điệu. Hinnerk thông minh hơn cả làng, anh tự biết chứ, và vài kẻ không ngu khác cũng biết điều đó. Hinnerk hay tới nhà Deelwater. Trong vụ thu hoạch, anh phụ một tay và được trả vài đồng. Mục sư cho anh nhiều tiền hơn, khiến Hinnerk, vốn là người kiêu hãnh, đến lúc nào đó lại sinh ra ghét ông ta. Nhân dịp thuận lợi đầu tiên, khi đưa đám mẹ, anh liền ra khỏi giáo hội. Tốt nhất là tiết kiệm tiền nghe giảng đạo. Bài giảng nào cũng thế cả, bài nào chẳng giống bài nào, ông mục sư chỉ điền tên khác vào mà thôi, dù rằng thế cũng là giỏi rồi. Mục sư đã chi nhiều tiền cho Hinnerk đi học đại học, cho phép anh sử dụng thư viện của mình, dù cũng phải thú thực sách vở ở đó khá nghèo nàn. Ông rất tự ái, không chỉ vì sự vô lễ và vô ơn của Hinnerk, mà còn vì Hinnerk đã tiệm cận quá sát chân lý. Nhưng hai cuộc thi luật đều đỗ điểm cao rồi, và gã luật sư trẻ, vừa đính hôn với con gái nhà Deelwater, không còn bị phụ thuộc tài chính vào mục sư nữa. Ông biết thế, và cũng biết rằng Hinnerk biết ông biết thế, đó chính là lý do khiến ông cáu nhất. Tôi nhớ đến Hinnerk Lünschen như một người ông rất đáng yêu, với một năng khiếu là nằm bất cứ chỗ nào cũng có thể nhắm mắt ngủ được, và ông cũng tận dụng năng khiếu này. Ừ thì tính tình của ông thay đổi như thời tiết, nhưng ông không còn là người hậm hực thù ghét nữa, mà đã thành một công chứng viên kiêu hãnh, một giám đốc văn phòng luật kiêu hãnh, người chồng kiêu hãnh của một bà vợ xinh đẹp và qua đó là chủ nhân kiêu hãnh của một ngôi nhà đáng kiêu hãnh, là người bố kiêu hãnh của ba cô con gái xinh đẹp và hai cháu ngoại xinh gấp bội phần - như ông luôn nhắc đi nhắc lại với Rosmarie và tôi trong khi xúc một tảng kem vào đĩa pha lê. Mọi thứ đều đổi khác, giờ đây lắm kẻ ghét Hinnerk, nhưng bản thân ông chẳng ghét ai nữa, rốt cục thì ông đã đạt được mọi mục đích đã vạch ra. Ông vẫn là người đàn ông thông minh nhất làng, và bây giờ tất cả đều biết thế. Ông thậm chí còn sai vẽ một tấm gia huy để xóa đi xuất xứ thấp kém của mình. Thật nực cười, vì nói cho cùng, mọi người tìm đến ông vì ông nói tiếng địa phương với họ, chứ nào vì gia phả cao quý của ông. Vậy nên tấm gia huy đóng khung bị cất vào kho, phòng ngủ cũ của cô giúp việc, và bây giờ nó vẫn treo trong đó. Tuy nhiên tôi cũng nhớ là mỗi khi ngắm gia huy, trên đôi môi sắc nét của ông vẫn thoáng một nụ cười đầy ẩn ý: thỏa mãn hay tự trào? Có lẽ chính ông cũng không rõ. Bertha yêu Hinnerk. Bà yêu cái hào quang bí ẩn của ông, tính kiệm lời cũng như miệng lưỡi nhạo báng cay độc đối với người khác. Tuy nhiên, mỗi lần thấy bà và Anna là mặt ông sáng lên, ông mỉm cười, đùa cợt, và ông biết ngẫu hứng đọc ngay một bài thơ về miếng táo Anna đang định đưa nốt lên miệng hoặc hát một đoạn tụng ca dành cho bím tóc bên trái của Bertha, hay đi bằng tay trên sân khiến lũ gà hoảng hốt chạy táo tác. Hai cô gái cười phá lên, Bertha ngượng ngùng mân mê cái nơ ở bím tóc trái, còn Anna làm ra vẻ bàng quan và cố giấu nụ cười khi ném miếng táo cắn dở vào bụi cây, lần này không ăn hết cả quả nữa. Nhưng thoạt tiên Hinnerk muốn Anna. Dĩ nhiên ông biết bà là con gái đầu lòng của Carl Deelwater, nếu không thế thì có lẽ ông cũng không muốn bà, ít nhất là chẳng đến mức quyết liệt như vậy. Nhưng đâu phải vì ông ham khoản thừa kế. Hay ít nhất không chỉ vì thế. Chủ yếu ông khâm phục cả con người bà, tính tự tin bình thản của bà mà ông tuyệt đối thiếu. Tất nhiên ông không thể không thấy vẻ đẹp của bà, thân hình bà với cặp vú tròn trịa, vòng hông và tấm lưng dẻo dai. Vẻ bàng quan đằm thắm mà Anna tỏ ra với ông khiến ông phát sốt, nhưng ông luôn chú ý đối xử như nhau với hai cô gái. Vì tính toán hay vì tôn trọng? Vì cảm tình với Bertha hay vì thương hại cô em gái mà ông chưa rõ thái độ? Bà ngoại tôi biết mình là lựa chọn số hai của Hinnerk. Bà đã có lần kể cho Rosmarie và tôi biết, không hề cay cú, cũng chẳng luyến tiếc, mà rất khách quan, tựa như không thể khác. Bọn tôi chẳng thích nghe chuyện đó, thậm chí hơi giận Bertha, bọn tôi cho rằng tình yêu không được phép thế. Và dù không hề thỏa thuận nhưng bọn tôi không đem kể cho Mira biết. Giờ đây, khi Inga không còn là con gái của Hinnerk, tôi có thể hiểu rõ hơn vì sao Bertha không hề cay cú với Hinnerk, có thể thông cảm vì sao bà lại nhụt như thế. Thêm nữa, ở bà cái gì phải đến thì sẽ đến, táo rơi đâu thì nằm đấy, và nhìn chung, như bà vẫn ưa nói, táo cũng không rơi xa gốc. Ở tuổi sáu ba, Bertha ngã từ cây táo xuống, từ đó đánh mất dần từng ký ức, và bà buồn rầu buông tay đầu hàng sự xuống dốc đó. Xưa nay mọi động thái của số phận - trong gia đình tôi cũng thế - đều bắt đầu với một cú ngã. Và với một trái táo. Ông Lexow nói từ tốn và nhìn vào cốc mình. Trời đã bắt đầu nhập nhoạng, chúng tôi bật ngọn đèn có chao bằng rơm bên trên bàn bếp. Một đêm, ông Lexow vừa kể vừa ngó vào cốc sữa, cả ngày trước đó rất nóng bức ngột ngạt, ông đi dạo, và không ngẫu nhiên mà đi ngang nhà Deelwater. Ngôi nhà chìm trong bóng đêm. Ông chầm chậm qua cổng vòm, đi dọc theo nhà và nhà kho đến vườn quả. Chợt ông thấy ngượng khi lẩn quất ở đây, ông toan đi thẳng một mạch, trèo qua hàng rào ra đồng cỏ rồi từ đó ra đường dọc mương. Khi đi đến dưới những cây táo rậm rạp, ông rú lên. Có gì đó cứng cứng đập đúng trên mắt trái ông. Vật đó không phải đá, vì không hẳn cứng như thế, nhưng ướt, và nó vỡ ra khi va vào thái dương ông. Một trái táo. Hay một miếng táo thì đúng hơn. Thiếu chũm nụ và phần dưới quả táo, nửa trên có cuống vỡ làm đôi nằm trước mũi giày ông. Lexow chựng lại, thở gấp gáp và ngắt quãng, có tiếng sột soạt trên cây. Ông căng mắt nhìn qua tán lá, nhưng trời quá tối. Carsten cảm giác nhìn thấy lờ mờ cái gì đó to to màu trắng trên cây. Lại có tiếng sột soạt và các cành cây rung bần bật. Khi cô bé nhảy đánh bịch xuống đất, đứng sát mặt ông, Carsten vẫn không nhận ra mặt ai. Khuôn mặt lại gần hơn và hôn lên môi Carsten, ông nhắm mắt, cặp môi mềm mại, vương vị táo. Giống táo Boskoop. Và có vị hạnh nhân, ông sẽ không bao giờ quên hương vị đó. Trước khi Carsten kịp cất tiếng, cái miệng con gái đó lại hôn lên môi ông lần nữa, lần này thì ông hôn trả và cả hai chìm vào thảm cỏ dưới gốc táo, những ngón tay vụng về hối hả giật tung quần áo trên người. Nàng tiên cây của Carsten chỉ mặc độc chiếc váy ngủ, không quá khó để giải phóng tấm thân bên dưới, nhưng khi hai người cùng cố tự cởi đồ của mình và của người kia, lại đồng thời muốn hôn người kia và không thả một giây khỏi vòng tay mình, thì quả cũng không đơn giản, nhất là khi cả hai đâu có thạo cái việc họ đang làm. Nhưng họ cứ làm việc đó và còn nhiều nữa, mặt đất quanh họ cháy lên hừng hực, khiến cây táo trên đầu họ, dù đã vào tháng Sáu, đâm nụ lần thứ hai trong năm. Dĩ nhiên ông Lexow không kể gì về những âu yếm được trao đổi dưới gốc táo, mà tôi cũng chẳng muốn, nhưng những lời khẽ khàng mà cháy bỏng của ông, trong khi mắt ông vẫn cắm vào cốc, gợi lên trong tôi hình ảnh quen thuộc, cứ như đã từng có ai kể cho tôi một lần rồi, cứ như lúc còn bé tôi đã từng nấp nghe lỏm người lớn chuyện trò và mãi bây giờ mới hiểu ra. Thế là câu chuyện của Carsten Lexow là một phần câu chuyện của riêng tôi, và một phần câu chuyện của tôi về lịch sử bà ngoại tôi, và một phần câu chuyện của tôi về câu chuyện của bà ngoại tôi về lịch sử của bà Anna. Tôi không biết và có lẽ cũng sẽ không bao giờ được biết, liệu Carsten Lexow có lúc nào đó gọi to tên Bertha và thế là cô gái quẫy khỏi vòng tay ông, chạy mất, liệu ông trong lúc mải mê âu yếm cặp vú căng tròn của cô ta đã nhận ra rằng mình nhầm nên bỏ tay ra, liệu cả hai cho đến phút chót vẫn cứ làm như không biết người kia biết gì, để rồi sau đó im lặng rời nhau ra và chẳng bao giờ đến lại với nhau nữa. Nhưng những gì mọi người trong làng xì xào và những gì lọt vào tai Rosmarie và tôi và Mira hết lần này đến lần khác đều xoay quanh cây táo già giống Boskoop trong vườn ăn quả của nhà Deelwater đột nhiên bung hoa trong một đêm hè ấm áp rồi sớm hôm sau phủ màu trắng toát như có sương giá. Dù vậy những nụ hoa huyền bí ấy thiếu sức sống, và ngay trong buổi sáng hôm ấy, chúng lặng lẽ rụng xuống đất thành từng búi dày. Cả nông trại đứng quanh cây táo, kính sợ, nghi ngại, sung sướng hay đơn giản chỉ kinh ngạc. Duy nhất Anna Deelwater chẳng nhìn thấy gì, cô bị cảm lạnh, cổ hơi rát và phải ở lại trên giường, cô nằm bẹp, lửa thiêu trụi lớp lông mao nhỏ xíu mềm mại trong khí quản của cô và ngày càng lan tỏa, cho đến khi hai lá phổi phát viêm, cuối cùng suy nhược hẳn. Carsten Lexow không bao giờ gặp lại cô. Bốn tuần sau khi cây táo trổ hoa thì cô qua đời. Một ca viêm phổi bi thảm. Ông Lexow nhìn đồng hồ và muốn biết có nên đi về. Tôi không biết đã mấy giờ, nhưng cũng không biết chuyện tiếp diễn ra sao, thực ra thì hai chúng tôi không biết gì hơn về chuyện riêng của ông với Bertha. Song có lẽ ông nên về? Ông nhận ra tôi lưỡng lự và nhỏm dậy tắp lự. - Cháu xin ông, ông Lexow, ta đã kết thúc đâu. - Không, ta chưa kết thúc, nhưng có lẽ buổi tối nay đã kết thúc? - Có thể. Hôm nay thế đã. Tối mai ông có quay lại không? - Không, tối mai họp ban quản trị làng, ông không bỏ được. - Hay ta uống cà phê chiều mai? - Cảm ơn cháu. - Cháu cảm ơn ông đã làm món xúp. Cả sữa nữa. Cả nhà và vườn nữa… - Không có gì mà. Iris, cháu biết là ông mới phải cảm ơn và xin lỗi. ẳ - Với cháu thì ông chẳng việc gì phải xin lỗi cả. Vì sao chứ? Vì ông yêu bà cháu cho đến lúc chết, hay vì cái chết của bà Anna? Cháu xin ông. - Không, đó không phải lý do để ông xin cháu tha lỗi… Ông vừa nói vừa thân thiện nhìn tôi, và tôi hiểu ra vì sao bà Anna nhà tôi si mê ông. - …mà chỉ vì không ai trong gia đình cháu biết ông có chìa khóa vào nhà, kể cả dì Inga của cháu cũng không biết, chỉ nghĩ là thỉnh thoảng ông đi xem vòng quanh nhà. Ông lục trong túi quần, và lần thứ hai tôi được ấn chiếc chìa khóa nhà to tướng màu đồng thau vào tay. Hình như ông sở hữu chìa khóa phụ cho nhiều cửa, tôi nghĩ vậy khi đặt chiếc chìa khóa ấm hơi người lên bàn bếp. Tôi tiễn thầy giáo và người tình ngày xưa của bà ngoại ra cửa. - Ngày mai, giờ cà phê ông nhé? Ông khẽ phẩy tay rồi đi hơi nặng nề xuống bậc tam cấp, đi khuất sau bụi hồng và rẽ phải đến chỗ dựng xe đạp bên tường. Tôi nghe tiếng càng chống xe mài trên lối đi, liền sau đó là tiếng đi na mô ngân lên khe khẽ khi ông đi trên vỉa hè cạnh bờ dậu. Tôi cởi tất, lấy chìa khóa trên móc và đi đóng cổng. Tôi ra vườn, ở những góc nhất định như có hình bóng Bertha hiện ra trong đêm. Vườn của bà bây giờ cũng đã trở thành một trong những búi len rối tinh rối mù mà bà cất trong tủ: những hố đất toang hoác, bụi cây tràn lan, đây đó phảng phất một họa tiết. Anna thích Boskoop, Bertha thích Cox Orange. Ngày ấy Bertha muốn nói gì với mẹ tôi? Bà nhớ gì, và muốn quên gì? Sự quên lãng chẳng bao giờ không để lại một dấu vết gì đó, nó luôn bí mật khiến ta chú ý đến nó và nơi nó ẩn náu. Nụ hôn của cô gái có vị táo Boskoop, ông Lexow kể thế. Một tháng sau vụ cây táo mùa hè trổ hoa kỳ diệu, khi Bertha vừa nức nở vừa chạy ra vườn, bà chứng kiến tất cả các quả phúc bồn tử đỏ thắm bỗng trở nên trắng lốp. Những quả đen thì vẫn đen. Còn tất cả những quả khác giờ đây mang màu trắng xám ngả xanh nhạt của tro tàn. Năm ấy có nhiều nước mắt và thạch phúc bồn tử cực ngon. Chương 5 B an đêm tôi tỉnh dậy vì lạnh. Tôi đã để ngỏ cả hai cửa sổ và hai cửa sang phòng Christa, giờ đây gió đêm lùa qua lạnh ngắt. Tôi kéo chăn lên, nghĩ đến mẹ. Mẹ ưa lạnh, ở Baden mùa hè rất nóng, nóng đến nỗi mẹ tôi không chỉ đủ lý do mua máy điều hòa không khí mà còn vặn nó lên mức lạnh nhất, uống gì cũng bỏ đá, và cứ cách mấy tiếng lại xuống tận tầng hầm để lấy một ly kem va-ni trong tủ đá. Nhưng đến mùa đông thì các bãi khai thác sỏi, hồ đào cát, kênh rạch và các nhánh nhỏ của sông Rhin chóng đóng băng hơn các hồ ao ở vùng trũng Bắc Đức lắm mưa. Lúc đó mẹ trượt băng. Mẹ trượt băng chẳng giống bất kỳ ai, không duyên dáng lắm, mẹ không khiêu vũ, không, mẹ bay, mẹ lao hùng hục, mẹ bốc hỏa trên mặt băng. Ông ngoại mua cho mẹ một đôi giày trượt màu trắng từ rất sớm. Bản thân ông rất kiêu hãnh về tài trượt băng của mình, tuy chỉ thu gọn vào hai động tác là phóng nhanh về phía trước và đi lùi theo đường lượn sóng. Ông cũng biết trượt một vòng rộng bằng cách chéo chân ngoài lên chân trong. Nhưng những gì con gái Christa của ông biết làm thì không do ông bày cho. Christa trượt vòng số tám lớn, chống tay vào mạng sườn và ngả người vào cua, lấy đà rồi co gối nhảy thật cao năm, bảy cú liền, mỗi lần nhảy lại xoay người nửa vòng, lúc tiến lúc lùi vun vút trên mặt băng trơn. Hoặc quay tròn trên một chân, bàn tay xỏ găng vươn lên bầu trời mùa đông và đuôi sam văng tít. Thoạt tiên Hinnerk tự hỏi có nên dung thứ cái kiểu trượt băng đó không. Mọi người nhòm ngó, vì quả thực cũng ngứa mắt. Nhưng rồi ông tin rằng mọi người xì xào chỉ vì ghen tị, thế là ông quyết định vui vẻ ngắm con gái mình cùng các trò kỳ quái của nó trên băng. Thêm nữa là con gái ông bình thường vốn ngoan ngoãn, dịu dàng và chăm chút, lúc nào cũng có ý làm vừa lòng bố yêu. Mẹ làm quen cha tôi trên mặt sông Lahn đóng băng, cả hai đều học đại học ở Marburg. Christa học Thể dục và Sử, cha tôi theo môn Vật lý. Dĩ nhiên cha tôi không thể không để ý đến mẹ tôi trên băng. Thỉnh thoảng có một đám người tụ tập trên cây cầu bắc qua sông và quan sát mẹ tôi. Tất cả nhìn xuống bóng người cao lớn mà thoạt tiên không thể biết đàn ông hay đàn bà. Cặp đùi trong ống quần nâu bó chẽn là của đàn ông rồi, đôi vai cũng vậy, cả đôi tay to trong găng da lộn cùng mái tóc nâu cắt ngắn dưới mũ len - trước khi đến giảng đường lần đầu Christa đã cắt béng đuôi sam. Chỉ vòng mông là hơi quá nở một chút đối với đàn ông, đôi má ửng hồng quá căng, và nét nối từ dái tai xuống hàm dưới rồi tiếp tục xuống cổ là một đường cong nuột nà khiến cha tôi tự hỏi, liệu nên gọi đó là hình pa ra bôn hay hình sin. Và ông tự ngạc nhiên khi cảm thấy nhu cầu muốn tìm tòi, liệu đường cong đó sẽ chạy tiếp đến đâu, như thế nào dưới vòng khăn len dày màu trứng sáo. Cha tôi, Dietrich Berger, thoạt tiên không bắt chuyện với cô gái trượt băng, mà chỉ chiều nào cũng ra sông Lahn và thỉnh thoảng nhìn. Hồi đó cha tôi sống cùng bà nội tôi, là con út trong số bốn anh chị em. Vì anh trai đã ra khỏi nhà và bà nội tôi ở góa, ông gánh hết trọng trách của người chủ gia đình. Tuy nhiên ông đảm nhận trách nhiệm ấy một cách dũng cảm và không cho là vất vả, cũng có thể vì chẳng để tâm nghĩ ngợi chuyện đó. Hai bà chị tuy trêu chọc, càu nhàu và cười nhạo khi bị ông quy định mấy giờ tối phải về nhà, nhưng họ mừng vì ông gánh trách nhiệm cho cả nhà. Tôi hầu như không biết bà nội mấy. Bà mất khi tôi còn rất bé, và tôi chỉ nhớ mỗi cái váy len dày cộp của bà cùng cái váy lót hồ cứng cọ vào quần tất bằng ni lông nghe như hát. Một bà tiên phúc hậu, như dì Inga vẫn nói. Mẹ tôi thì lại nói khác: mẹ chồng chỉ lo cho nhà khác mà bỏ bễ nhà mình, ít khi vào bếp, và giá mà chăm sóc các con mình hơn nữa thì tốt. Cha tôi là người vô cùng ngăn nắp tỉ mẩn, ông muốn có một trật tự mang tính hệ thống, dọn dẹp theo vận trù học và làm vệ sinh phải có hiệu suất. Sự bừa bãi làm ông đau như cứa vào da thịt. Tối tối ông theo sau lưng bà nội tôi để dọn dẹp. Tính hài hước dí dỏm là đức tính mà bốn đứa con không được học từ người mẹ tưng tửng. Không làm người khác vui đã đành, cha tôi chỉ biết giải trí khi được mẹ tôi bày cho, mãi về sau này, sau khi rốt cục cũng bắt chuyện với mẹ tôi vào cuối mùa trượt băng ở Marburg. Khi băng bắt đầu xốp, dưới cầu xuất hiện vũng nước, cha tôi lấy hết can đảm, và sau mười bốn ngày lượn đi lượn lại quanh nhau ông nghiêm trang tự giới thiệu và nói: “Hệ số ma sát trượt trung bình của giày trượt trên băng là 0,01 không phụ thuộc vào trọng lượng người, lạ thế chứ?” Christa đỏ lựng mặt mũi, thấy vụn băng trên thanh trượt dưới giày đã tan và nhỏ giọt như nước mắt từ kim loại sáng bóng. Không, cô không biết chuyện đó, và vâng, lạ thật đấy. Sau đó cả hai im bặt. Cuối cùng Christa hỏi, sau một quãng nghỉ dài, rất dài, vì sao anh biết rõ thế. Ông trả lời nhanh và xin phép được chỉ cho cô xem Viện Vật lý. Ở đó cũng có một cái máy làm băng khô. Được ạ, Christa nói mà không ngửng lên, với nụ cười gượng gạo trên khuôn mặt đỏ ửng. Dietrich gật đầu nói: “Tạm biệt”, và hai người nhanh chóng rời nhau, thở phào. Hôm sau sông Lahn nứt toác, những tảng băng mềm ngả màu nâu nâu, lô xô đẩy nhau về phía bờ, và Dietrich không biết tìm cô gái trượt băng ở đâu. Trong đêm, trăng chiếu vào gối tôi và đổ bóng sắc cạnh. Tôi quên kéo màn cửa. Giường bằng nệm ba miếng khá hẹp, chăn thì nặng. Lẽ ra tôi phải gọi điện cho Jon từ lâu rồi mới phải, ít nhất cũng nên nhớ đến anh lấy một lần. Nỗi áy náy làm tôi tỉnh hẳn. Giờ thì tôi nghĩ đến anh. Jonathan, mới gần đây còn là bạn trai tôi, bấy giờ là bạn-dĩ-vãng, bạn-đã cắt của tôi. Anh thậm chí không biết tôi ở đây, nhưng có lẽ cũng chẳng hề hấn gì, nói cho cùng thì anh cũng không ở chỗ tôi đã ở trước khi về đây. Anh sống bên Anh, và chắc sẽ ở lại đó. Nhưng tôi thì không. Cách đây hai tháng, khi anh hỏi có nên chuyển về sống chung không, tôi đột ngột có cảm giác là đã đến lúc phải về nhà. Ngay cả khi tôi rất yêu đất nước của anh. Đúng thế, vì tôi hiểu rõ ra rằng mình không hẳn vì yêu anh, mà đúng hơn là vì yêu đất nước của anh mà ở lại đó lâu thế, nên tôi phải ra đi. Giờ thì tôi ở đây. Giờ thì thậm chí tôi còn sở hữu một mảnh đất ở xứ này. Tôi nhất quyết không coi đó là một điềm gì, nhưng nó củng cố quyết định ở lại đây nơi tôi. Khi người ta mất trí nhớ, thoạt tiên thời gian trôi đi rất nhanh, để rồi sau đó lại đứng yên. “Ôi chao, chuyện ấy xưa lắm rồi”, bà Bertha của tôi nói thế về những chuyện xảy ra trước một tuần, ba chục năm hay mười giây, vừa nói bà vừa phẩy tay, giọng bà pha chút hờn trách. Bà là người luôn cẩn trọng. Hay bà bị sát hạch? Não bị cắt bồi như lòng sông không lát bê tông. Thoạt tiên chỉ vài miếng nhỏ bên rìa rã ra, rồi cả mảng lớn đổ ào ào xuống nước. Con sông biến dạng, đổi dòng chảy, mất cả vẻ đương nhiên của nó. Cuối cùng mọi thứ tắc nghẽn, nước trào loạn xạ tứ phía. Những trầm tích trắng trong não cản mọi luồng điện, tất cả các đầu tiếp xúc và cuối cùng là cả con người bị bao bọc kín bưng: cách ly, hoang đảo, nút thắt, Anh quốc, điện tử và vòng hổ phách của dì Inga, nhựa cây hóa cứng trong nước, nước cứng lên khi trời lạnh tái tê, thủy tinh cũng từ silic, silic là cát, còn cát thì chảy qua đồng hồ cát, và tôi thì phải ngủ thôi, muộn rồi. Tất nhiên hai người gặp lại nhau, ít lâu sau mùa trượt băng trên sông Lahn. Ở Marburg, muốn tránh chạm trán nhau cũng khó. Lại càng khó, khi người ta chủ ý tìm nhau. Ngay tuần sau đó hai người gặp nhau tại vũ hội của Viện Vật lý, khi mẹ tôi đến đó cùng một bạn học, con trai một đồng nghiệp của ông tôi. Thường thì họ không đi chơi với nhau, vì hai ông bố của họ rất muốn ghép đôi. Điều đó khiến Christa đần ra khi có mặt anh, và anh ta trông ngố hẳn khi thấy cô. Riêng tối hôm đó thì lại thành công tốt đẹp. Christa quá bận tâm ngó nghiêng xung quanh nên cô rất thanh thản. Còn chàng kia thì lần đầu tiên không cảm thấy vẻ lạnh lùng của cô bạn đi cạnh vốn hay làm lưỡi và não anh đông cứng ra sao, thậm chí đôi ba lần anh còn gợi được ở cô một nụ cười bằng những bình luận sắc bén về những người đầu tiên dũng cảm ra sàn nhảy. Chính Christa là người gợi ý chàng trai tới vũ hội ở Viện Vật lý. Và mặc dù lại sinh ra nói nhịu khi nhìn cặp môi mím chặt của cô, chàng vẫn hiểu đủ ý và mời cô đến vũ hội. Christa thấy Dietrich trước, thực ra thì cô dự tính sẽ gặp ông, còn ông thì không. Vì vậy vẻ ngượng ngùng của cô đã thuyên giảm đôi chút khi ông nhìn thấy cô. Cặp mắt xám của ông bừng sáng, ông vung cả hai tay lên rồi mới nghiêng đầu khẽ cúi chào. Ông hớn hở tiến thẳng tới trước mặt Christa và lập tức mời cô nhảy, sau đó mời điệu tiếp theo, rồi mời cô một ly vang trắng, xong đó lại nhảy với cô. Chàng trai đi cùng Christa bối rối ngồi quan sát mọi sự từ bàn nước. Một mặt thì chàng thấy thoải mái vì lần này trôi chảy và chàng không phải nói chuyện với cô, nhưng chàng vẫn dự cảm có gì đó không ổn lắm. Thêm vào đó, chàng có một cảm giác pha trộn giữa sửng sốt, thỏa mãn lẫn ghen tuông khi thấy cô gái đi cùng mình là một bạn nhảy đắt giá. Chàng quyết định đứng dậy mời cô nhảy ngay. Ngược với kế hoạch mà chàng đã phác thảo cho tối nay. May sao, chàng nhảy kém, còn cha tôi nhảy đẹp. Và mẹ tôi nhảy đẹp với cha tôi, vì thực ra ông đã thấy cô trên băng, điều đó khiến mẹ trút bỏ được tính nhút nhát đến ngạt thở. Lý do là thế, và cũng vì cha tôi còn nhát hơn mẹ tôi. Từ đó họ là đôi nhảy mút mùa tại tất cả các vũ trường Marburg: Khiêu vũ đón tháng Năm, Vũ hội mùa hè, Liên hoan khoa, Vũ hội trường đại học. Lúc nhảy thì không phải nói chuyện, nếu không muốn, và xung quanh có nhiều người, muốn về nhà lúc nào cũng được. Nói cho cùng, khiêu vũ là thể thao, một dạng trượt băng đôi - Christa nghĩ thế. Mấy cô em gái Christa lập tức nhận thấy cô có bí mật gì đó. Trong kỳ nghỉ giữa các học kỳ mà dĩ nhiên Christa về Bootshaven, cô luôn là người đầu tiên ra nhòm hòm thư lúc sáng sớm - như tất cả các cô gái có chuyện bí mật. Nhưng đáp lại câu hỏi lúc xoáy lúc nịnh của hai cô em, Christa chỉ đỏ mặt lên và cười hoặc đỏ mặt lên và im lặng. Học kỳ sau, khi dì Inga đến Marburg học Lịch sử nghệ thuật, hai chị em đến vũ hội cho sinh viên mới. Trước đó Inga đã được giới thiệu với Dietrich khi ông đi cùng một nhóm bạn sinh viên. Một chàng sinh viên thể thao cao lớn đẹp trai lọt vào mắt xanh của Inga, và cô cho đó là Dietrich. Song khi thấy Christa không thèm để mắt tới đôi giày cao gót rất hợp với chiếc áo dài tơ tằm nâu, mà xỏ vào đôi giày ba-lê đế mỏng thì Inga hiểu ngay sự tình: gã Dietrich Berger một mét bảy mươi sáu. Họ đính hôn trong năm ấy, rồi khi mẹ tôi tròn hăm tư và hoàn tất kỳ thực tập đáng ghét tại một trường cấp ba ở Marburg, hai người kết hôn, chuyển xuống vùng Baden là nơi cha tôi được nhận vào một Trung tâm nghiên cứu vật lý. Từ đó mẹ tôi héo hắt vì nhớ nhà. Bà không thể quên Bootshaven, và bà gắn bó máu thịt với ngôi nhà mà bây giờ thuộc về tôi. Mặc dù bà sống lâu hơn nhiều ở nơi đang sống, so với thời gian ở Bootshaven, bà vẫn tin dưới đó chỉ là nơi tạm dừng chân. Mùa hạ đầu tiên trong những mùa hạ nóng bỏng, ẩm ướt và lặng gió ở đó làm bà tuyệt vọng. Khi mất ngủ vì nhiệt kế không xuống dưới vạch 30, bà trằn trọc toát mồ hôi, nhìn lên chao đèn thủy tinh đục dưới trần nhà và cắn môi đợi trời hửng. Rồi bà dậy làm bữa sáng cho chồng. Mùa hạ nhường chỗ cho mùa thu nhạt nhẽo, rồi rốt cục cũng đến mùa đông lạnh ngắt quang mây. Sông hồ đóng cứng băng. Mấy tuần liên tục. Lúc ấy mẹ tôi biết là bà sẽ ở lại. Tôi ra đời vào tháng Mười một năm sau. Tôi chưa bao giờ gắn bó với vùng Baden, với nước Anh lại càng không, dù tôi cố nghĩ vậy nhiều năm liền. Với Bootshaven cũng không nốt. Tôi lớn lên và đi học ở miền Nam Đức, đó là nơi tôi có các bạn gái thân nhất, nhà cha mẹ, những hàng cây, hồ khai thác cát và công việc. Nhưng trên miền Bắc là mảnh đất, ngôi nhà, và trái tim mẹ tôi. Đó là nơi tôi sống qua tuổi thơ và chấm dứt nó. Em họ Rosmarie của tôi nằm ở nghĩa trang trên này. Và ông ngoại tôi. Bây giờ thêm Bertha. Tôi không rõ vì sao Bertha không để lại ngôi nhà cho mẹ tôi hay một trong các dì tôi. Có thể đó là niềm an ủi cho bà tôi, rằng tôi sẽ kéo dài dòng họ Deelwater thêm một thế hệ. Nhưng chẳng ai yêu ngôi nhà như mẹ tôi yêu nó, có lẽ thuận tình nhất là cho mẹ tôi thừa kế ngôi nhà. Sau đó thì sớm hay muộn nó cũng thuộc về tôi. Mẹ tôi biết làm gì với đồng cỏ thả bò? Tôi phải bàn với em trai của Mira. Tôi thấy xốn xang khi nghĩ đến lúc bàn chuyện ngôi nhà cùng Max Ohmstedt. Vì tôi sẽ phải hỏi tình hình Mira thế nào. Tôi dậy lúc sáng sớm. Các buổi sáng Chủ nhật thường khác mọi hôm, có thể nhận ra ngay. Không khí khác về chất nặng hơn, qua đó cái gì cũng có vẻ bị trì lại đôi chút. Ngay cả những tiếng động vốn quen tai cũng có âm hưởng khác. Chúng bị nén xuống, đồng thời cũng sắc nhọn hơn. Lý do chắc chắn là bởi thiếu tiếng ồn ào xe cộ, hoặc thiếu cả khí than trong không khí. Mà có khi chỉ vì vào những ngày Chủ nhật người ta chú ý hơn đến không khí và tiếng động, chứ trong tuần chẳng ma nào làm chuyện đó. Kỳ thực tôi không tin, bởi vì những ngày Chủ nhật trong kỳ nghỉ cũng thế. Trong kỳ nghỉ hè tôi thích nằm rốn lại trong buổi sáng đầu tiên, lắng nghe những tiếng động bên dưới. Tiếng cầu thang kẽo kẹt, tiếng gót giày khua trên sàn bếp. Cửa bếp ra tiền sảnh bị kẹt, luôn kêu cót két khi ai đó mở ra và bị đóng lại đánh sầm, khiến cái then kim loại rung lên. Ban ngày nó được rút ra, treo lủng lẳng bên khung cửa. Ngược lại thì cánh cửa từ hành lang vào bếp lại dễ bung ra, và cứ mỗi lần cửa ra sảnh bị đẩy bật là cửa kia buột khóa, đung đưa lạch cạch trong gió lùa. Cái chuông đồng ở cửa nhà buông tiếng lanh canh khi ông ngoại đi khỏi nhà, lấy xe đạp ở sảnh đến văn phòng. Ông đẩy xe qua cửa sảnh ra ngoài, dựng nó ở vườn, đi ngược vào nhà, chốt cửa sảnh từ bên trong rồi đi xuyên qua bếp, dọc hành lang rồi qua cửa trước để ra ngoài. Vì sao ông không qua sảnh ra ngoài luôn? Chắc vì ông muốn chốt cửa sảnh từ bên trong chứ không muốn khóa từ bên ngoài bằng chìa. Nhưng tại sao không dùng chìa để khóa từ bên ngoài? Theo tôi đoán, đơn giản là ông muốn lấy tay ấn lên nắm đấm bằng đồng bóng loáng trên cánh cửa lớn trước nhà, dừng chân vài giây ở bậc tam cấp trên cùng như người chủ nhà, rút tờ báo trong thùng thư khi đi ngang và đút vào cặp, đi xuống tam cấp, lên xe đạp, nhấn chuông và chào một tiếng ngắn gọn đanh thép về phía cửa sổ bếp trước khi phóng vào buổi ban mai. Giả sử ông cứ lùi lũi lỉnh ra cửa sau đi làm thì quả là chẳng xứng với hình ảnh mà ông và mọi người chờ đợi ở một công chứng viên. Kể cả khi ông không còn làm giám đốc văn phòng công chứng, một thời gian dài cho đến khi ông qua đời, chẳng ai trong số đối tác dám tiếp nhận phòng giấy của ông, mặc dù đó là phòng lớn nhất và đẹp nhất. Ông ra khỏi nhà là trong bếp vang lên tiếng bát đĩa lách cách, tiếng phụ nữ nói cười, tiếng chân hối hả, tiếng dập cửa, nhưng do tiếng vọng trong căn bếp trần cao mà giọng nói méo đi, không thể biết mọi người đang nói chuyện gì. Tuy nhiên vẫn cảm nhận chính xác được những xúc cảm bập bềnh ở đó. Nếu giọng trầm và nén, câu chữ ngắn ngủi và nghỉ nhiều giữa quãng, là có vấn đề. Còn nếu nói nhiều và nhanh, liên tục cùng một giọng và khá to, thì là kể chuyện thường ngày. Nghe nhiều tiếng cười khúc khích và giọng thì thào hay thậm chí tiếng reo cố kìm thì tốt nhất là mặc quần áo cho nhanh rồi nhẹ chân đi xuống nhà, vì các bí mật không được tiết lộ nhiều lần trong ngày. Sau này, khi bà Bertha đã mất trí nhớ, bà không nói to nữa, mà nghỉ những quãng dài ngắn khác nhau, và nếu có vẻ nghỉ dài quá thì luôn có những giọng khác hấp tấp chen vào. Thường là nhiều giọng cùng lúc, đột ngột rộ lên rồi lại hạ xuống cũng nhanh như vậy. Sáng sớm hôm nay dĩ nhiên chẳng nghe thấy gì. Vì tôi ở nhà một mình. Không khí yên tĩnh nhắc tôi nhớ đến một buổi sáng sớm khác, trước đây mười ba năm, cũng im ắng như vậy. Chỉ đôi khi có tiếng cửa hay cốc chén, còn thì im phắc, như chỉ xảy ra sau một chấn động. Như tai điếc đặc sau tiếng súng. Sự yên tĩnh giống một vết thương. Rosmarie chỉ hơi chảy máu cam, nhưng trên làn da nhợt nhạt, sợi máu mỏng mảnh sắc cạnh nom như đang nhạo báng chúng tôi. Tôi dậy, rửa mặt trong phòng dì Inga, chui vào chiếc áo dài đen nhàu nhĩ rồi xuống nhà pha trà. Tôi tìm được một loạt trà túi, thậm chí cả một gói bỏng bột ngô, tuy đã có mùi tủ lạnh nhưng chưa đến nỗi ỉu. Chắc từ hồi dì Inga ở đây. Trong tủ lạnh còn sữa của ông Lexow. Sau đó tôi đạp xe ra bốt điện thoại cạnh cây xăng, gọi đến Freiburg. Tất nhiên là chủ nhật, nhưng tôi biết băng ghi thoại ở thư viện trường vẫn chạy. Tôi nói rằng phải xin nghỉ thêm ba ngày để giải quyết chuyện thừa kế ở đây. Rồi tôi đi tiếp đến hồ đầm lầy. Còn sớm lắm, vì tất cả những người tôi gặp trên đường đều dắt chó và đều chào bằng nụ cười ý tứ, bí hiểm mà những người dậy sớm chính cống, nghĩa là cả vào Chủ nhật, vẫn nhờ đó mà nhận ra nhau. Đường ra hồ dễ tìm. Như hầu hết mọi con đường ở đây, nó chạy thẳng qua đồng cỏ, xuyên qua các mảnh rừng nhỏ. Một lúc nào đó tôi rẽ phải và theo con đường rải đá vuông lổn nhổn qua một làng có ba nông trại kèm vựa cỏ cùng máy kéo. Sau đó vòng qua hai quả đồi. Lại qua đồng cỏ, trong mảnh rừng tiếp theo lại rẽ phải. Đây rồi. Một khay tròn bằng thủy tinh đen. Bữa nào tôi sẽ tìm trong tủ mấy bộ đồ bơi cũ, vì tôi không muốn gây điều tiếng nơi công cộng. Nhưng lúc này thì chấp nhận vậy, đã có bóng người nào ở đây đâu. Tiếc là tôi không có lấy một chiếc khăn tắm, trong khi ở nhà có hai hay ba hòm to tướng đầy khăn. Tôi nhanh chóng trút bỏ áo dài và giày rồi lội xuống hồ. Quanh bờ kín cây cỏ, chỉ ngay gần bờ có một đoạn nông nhiều cát. Một đoạn bãi tắm cho một cá nhân. Tôi từ từ xuống nước. Một con cá quẫy ngang qua. Tôi rùng mình. Nước không lạnh lắm nữa. Bùn đáy hồ phòi qua giữa các ngón chân, tôi vội đạp mạnh và bơi. Khi bơi, tôi luôn cảm thấy an toàn. Không ai có thể rút mất đất dưới chân. Đất cũng không thể nứt gãy, sụt xuống, hoặc trượt đi. Nó cũng không thể toác ra hay nuốt chửng tôi. Tôi không đạp phải những gì mình không thấy, không lỡ giẫm phải thứ gì khiến mình hay người khác bị thương. Nước dễ phán đoán, lúc nào cũng như nhau. Đã đành là lúc trong lúc đục, khi lạnh khi nóng, tĩnh lặng hoặc nổi sóng, nhưng thành phần nước không đổi dù ở trạng thái khác nhau, nước lúc nào cũng là nước. Và bơi là bay đối với người nhát gan. Lơ lửng mà không sợ rơi. Tôi bơi không đẹp mắt lắm, đập chân không cân xứng, nhưng nhanh và chắc chắn, nếu cần tôi có thể bơi hàng giờ liền. Tôi yêu khoảnh khắc rời đất, đổi các nguyên tố, và yêu khoảnh khắc yên tâm thả mình cho nước nâng lên. Và, khác với đất và khí, nước nâng tôi thực sự. Tất nhiên là vẫn phải bơi. Tôi bơi chéo qua mặt hồ đen. Tay tôi chạm vào mặt nước chỗ nào là lập tức nó xô sóng, hóa lỏng và mềm mại. Chuyện ông Lexow vuột khỏi người tôi, tất cả mọi chuyện đều vuột khỏi người tôi, và tôi lại là tôi của ngày xưa. Tôi bắt đầu cảm nhận niềm vui được ở trong nhà này ba hôm. Nếu tôi giữ ngôi nhà lại thì sao? Tạm thời thế đã. Đến bên kia hồ, tôi không lên bờ. Khi chân chạm vào những lá rong đầu tiên, tôi quay đầu bơi trở lại. Lúc nào tôi cũng sợ có gì đó trong nước chạm vào tôi từ bên dưới. Tôi sợ những xác chết vươn cánh tay trắng mềm nhũn về phía tôi, sợ những con cá măng khổng lồ có thể đang bơi phía dưới tôi, ở những chỗ mà nước bỗng dưng trở lạnh cắt da. Ngày còn bé, có lần bơi giữa hồ khai thác cát, tôi đạp phải một gốc cây to thối ruỗng vốn không hiếm xuất hiện ở những ao hồ tương tự, bập bềnh trôi dưới mặt nước một đoạn. Tôi gào rú như một con điên và không chịu trở về bờ. Mẹ phải lôi tôi lên. Từ xa tôi nhìn về hướng chiếc xe đạp cùng đống quần áo đen đen trên dải cát trắng. Và tôi nhìn thấy rõ ràng một chiếc xe đạp khác cùng một đống quần áo khác. Rất xa đống quần áo của tôi, nhưng lại cũng chẳng đủ xa, vì đồ của tôi nằm khá chính giữa bãi cát ngắn. Và tôi không mặc đồ tắm. Hy vọng người đó là một phụ nữ. Cô ta đâu? Tôi phát hiện ra một chỏm tóc đen trên mặt nước, đang di chuyển về phía tôi, hai cánh tay trắng vung lên hạ xuống chậm rãi. Không. Không phải. Không thể thế được! Không thể đã lặp lại! Max Ohmstedt. Cậu ta bám đuôi mình? Max lại gần nhanh đến khó tin. Tất nhiên anh ta đã nhìn thấy xe đạp của tôi trước khi xuống nước. Nhưng anh ta có nhận ra là xe tôi không? Và cái áo dài đen? Max không ngửng lên mà cứ thế từ tốn cày nước đen. Lẽ ra tôi có thể bơi tránh anh ta, mặc quần áo và đạp xe về nhà mà anh ta không nhận ra. Sau này tôi tự hỏi, liệu có phải anh muốn cho tôi dịp để làm chính việc đó. Thay vào đó, tôi gọi to: - Xin chào. Max không nghe. Tôi phải kêu to hơn: - Chào anh! Và: - Max! Anh ngửng phắt đầu, nhìn về phía tôi, lúc này chúng tôi đã bơi ngang nhau. Anh vuốt mấy lọn tóc dính ướt nhẹp khỏi trán, bình thản nhìn tôi: - Chào chị. Anh nói hơi hụt hơi. Không mỉm cười, nhưng cũng không tỏ vẻ thiếu thân thiện. Rồi anh thoáng đưa tay lên khỏi nước và vẫy. Một động tác ngập ngừng, nửa như ngượng nghịu chào, nửa như định giảng hòa. Vẻ nghiêm nghị của anh khiến tôi khá cảm động, hệt như lọn tóc vuốt lên dựng đứng trên trán. Tôi phì cười: - Tôi đây mà. - Vâng. Chúng tôi làm như đang đứng đối diện nhau, cố hạn chế lúc lắc người, nhưng vừa phải đạp nước lia lịa cho khỏi chìm, vừa vắt óc tìm một chủ đề cho cuộc chuyện trò thân mật mà khách sáo. Tôi trần như nhộng còn anh là luật sư của tôi. Ý nghĩ đó làm bận óc tôi và không giúp cho câu chuyện nhẹ nhàng hơn. Đồng thời tôi tuyệt vọng tìm cách rút lui sao cho lịch sự. Khẽ gật đầu và mỉm cười, không quá thân thiết, khẽ buông câu “tạm biệt” rồi bơi tiếp, chiến lược đó khá thích hợp. Vậy tôi hít một hơi, thò tay khỏi nước để chào - và vô tình khoát một làn nước ập vào mồm. Tôi bị sặc nước khủng khiếp vì đang đúng lúc hít một hơi sâu, ho sặc sụa, tay đập loạn xạ lên mặt nước. Nước mắt trào ra, mặt tôi chắc chuyển màu khó coi lắm, khiến Max hơi nghiêng đầu và nheo mắt quan sát bộ dạng hoảng loạn của tôi trong làn nước đen dậy sóng. Một con chim đập cánh vụt bay lên, tôi ho, lặn xuống rồi lại trồi lên. Max bơi lại gần. - Chị ổn cả chứ? Trong khi cố lên tiếng, tôi phì một chút nước vào mặt anh. - Vâng, tất nhiên, ổn cả! - Tôi khò khè. - Còn anh? Max gật. Tôi hấp tấp bơi về bờ. Thỉnh thoảng tôi phải dừng tay để ho. Nhưng khi sắp lên bờ và quay đầu lại nhìn, tôi thấy Max bơi theo sau. Anh cùng quay lại với tôi và cũng ngừng vung tay. Trời ạ! Chẳng lẽ tôi phải trần truồng, vừa ho rũ rượi vừa chạy lên bờ? Tôi đã mường tượng rõ cảnh cố gắng kéo cái áo dài đen qua đầu và vai, và do người không lau khô nên mắc kẹt cả hai tay trong áo. Mắt không thấy gì, tay bị trói chặt trong lớp vải bông bền chắc, tôi ngã đè lên xe đạp, và khi lồm cồm bò dậy thì lỗ khoét tay áo móc phải bàn đạp. Rồi trong khi tôi bị quấn chặt, chân thấp chân cao lôi cái xe đạp đàn ông theo sau, tiếng hét man rợ của tôi sẽ còn vang sang tận bờ bên kia mặt hồ đen. Bất cứ ai đen đủi nghe phải tiếng hét đó, người ấy sẽ đứng tim và sẽ không bao giờ… - Iris. Tôi quay lại. Ít nhất lần này không phải đạp nước, vì tôi đã đứng được. - Iris, tôi đây, rất vui được gặp chị. Thật đấy. Mira cũng thích cái hồ này. Nó rất là, nói thế nào nhỉ, chị biết rồi đấy. - Nó màu đen, tôi biết. Nó màu đen, tôi biết? có thật là tôi vừa nói thế? Nhất định Max cho tôi là một con ngố. Tôi làm như vừa đùa một câu rất thông minh rồi hỏi: - Mira khỏe không? - Ồ, khỏe, chị ấy không sống ở đây lâu rồi. Cũng là luật gia. Ở Berlin. Bây giờ Max cũng đã đứng được trên nền cứng. Chúng tôi đứng cách nhau chừng hai sải tay. - Berlin. Hay đấy. Nhất định Mira làm việc trong một phòng luật danh tiếng, mặc đồ đen đắt tiền và đi ủng đen. Max lắc đầu. Có vẻ như anh định đáp lại, nhưng anh nghĩ ngợi và ngập ngừng nói: - Lâu rồi tôi không gặp chị ấy. Từ sau đám ma. Sau đám ma cô em họ của chị, chị ấy không mặc đồ đen nữa. Cũng không về đây nữa. Chúng tôi thỉnh thoảng gọi điện. Tôi không rõ vì sao tôi giật mình. Mira mặc đồ màu? Tôi nhìn Max. Anh khá giống Mira, nhiều tàn nhang hơn. Nhất định Mira đã tẩy bớt. Mắt anh nhiều màu. Trong đó có màu nâu, còn có màu sáng hơn, xanh lục hoặc vàng. Mi mắt cũng nặng như thế. Tôi nhớ rồi. Mắt Max thì tôi biết từ khi chúng tôi là trẻ con, nhưng cơ thể anh thì lạ. Hôm nay anh cao hơn tôi hẳn, hơi còng về phía trước, trắng, không hẳn to ngang nhưng vạm vỡ. Tôi lấy hết dũng khí. - Max. - Gì cơ? - Tôi không có khăn tắm. Anh nhìn tôi, hơi lúng túng, hất cằm về phía đống quần áo của mình và mở miệng. Nhưng trước khi anh kịp mời tôi dùng khăn của anh, tôi vội nói: - Cũng không có đồ bơi. Ý tôi là không mặc gì trên người. Tôi chùng người xuống một chút khi Max đưa mắt nhìn qua vai tôi. Anh gật. Hình như thoáng một nụ cười nửa miệng thì phải? - Được. Tôi đằng nào cũng định bơi một lát nữa. Chị cần gì thì cứ dùng tự nhiên. Anh gật đầu rồi bơi đi khỏi. Quả là một chàng trai dễ chịu và nghiêm túc, lại lịch lãm nữa, tôi lẩm bẩm khi bước lên bờ, ngạc nhiên vì sao ý nghĩ ấy mang vẻ nghiệt ngã. Thoạt tiên tôi không muốn dùng khăn tắm của anh, nhưng rồi tôi vẫn cầm lên và lau thật kỹ người, đến khi cái khăn ướt đẫm. Tôi mặc áo dài. Khi lên xe quay về, tôi nhìn qua bờ hồ bên kia và thấy Max đứng đó. Tôi thoáng vẫy, anh giơ tay, rồi tôi đi. Chương 6 T ôi về đến nhà khi lớp không khí trên mặt nhựa đường đã bị hun nóng bốc hơi lung linh và mặt đường trông tựa một dòng sông. Tôi đẩy xe đạp vào sảnh, ở đó lúc nào cũng hơi tối và ẩm bởi nền đất nện, các bức tường quét vôi tỏa hơi lạnh. Bờ vai trắng của Max trong nước đen. Mắt như đầm lầy. Bây giờ xem giấy tờ? Kiểm tra hồ sơ thừa kế? Tôi đã nhận được hồ sơ nào chưa? Tập trung mọi ký ức? Đi tiếp qua các phòng? Ra ngoài? Nằm trên ghế đọc sách? Đến thăm ông Lexow? Tôi lấy trong tủ ra một liễn sắt tráng men trắng và đi tới bụi cây phúc bồn tử. Cảm giác quen thuộc khi rón rén cầm vào chùm phúc bồn tử âm ấm như trứng sáo rồi lấy móng tay bấm đứt cuống, trong khi tay kia giữ chặt cành. Tôi nhanh tay ngắt đầy liễn. Ngồi xuống một cành thông chĩa ngang rồi lấy răng tuốt những quả phúc bồn tử vàng đục khỏi cọng xanh. Vừa ngọt lại vừa chua. Hột có vị đắng, và nước quả ấm. Tôi đi qua mảnh vườn nóng hừng hực vào nhà. Một con chuồn chuồn xanh to tướng bay giật cục trên bờ dậu, dừng giây lát trong không khí rồi vụt biến. Có mùi dâu chín, mùi đất và mùi gì đó hôi hôi: có lẽ là phân, xác súc vật hay quả lên men. Đột nhiên tôi thấy thích lấy tay nhổ hết đám cà rốt hoang mọc lan tràn. Tôi muốn quỳ xuống buộc những cây đậu răng ngựa, chắc do ông Lexow gieo, vào những cọc chống để chúng đừng leo bừa lên cọc rào. Thay vào đó, tôi ngắt vội mấy bông hoa chuông mọc cao rồi đóng cửa vườn, đi ngang các bậc tam cấp và cửa sổ bếp, mở cửa vào sảnh. Rời khỏi ánh nắng chói chang bên ngoài để vào không gian tranh tối tranh sáng, thoạt tiên tôi không nhìn thấy gì, một luồng hơi đất lạnh ùa dưới chiếc váy đen. Tôi lần mò dắt chiếc xe đạp ra ngoài. Rồi tôi đạp xe ra phố chính, về hướng nhà thờ. Nhưng thay vì rẽ trái thì tôi rẽ phải, đi ngang qua chuồng ngựa về nghĩa địa. Tôi để xe ở bãi trước, cạnh một chiếc xe đạp nam cũ kỹ, hái thêm mấy nhành anh túc đỏ cho đầy bó hoa chuông rồi đi đến mộ gia đình. Từ xa đã thấy ông Lexow. Mái tóc bạc của ông nổi bật trên nền lá xanh của dậu thường xuân. Ông ngồi trên ghế băng, cách mộ Bertha mấy bước chân. Hình ảnh ông làm tôi xúc động, đồng thời cũng thấy bị quấy quả. Tôi cũng muốn có lúc một mình chứ. Nghe tiếng chân tôi trên sỏi, ông nặng nề đứng dậy và đi về phía tôi. - Ông vừa định đi, chắc là cháu cũng muốn ở đây một mình. Tôi xấu hổ vì ông đã đọc ngọn ngành ý nghĩ của tôi, vì vậy tôi lắc đầu quầy quậy: - Không, không đâu ạ. Đằng nào cháu cũng định hỏi ông xem lát nữa ông có định ghé qua và kể nốt chuyện cho cháu không. Ông Lexow nhớn nhác nhìn quanh. - Ồ, có gì nữa đâu, ông nghĩ thế. - Vâng, nhưng sau đó còn gì nữa chứ ạ? Bertha cưới Hinnerk… còn ông? Ý cháu định nói là, làm sao ông có thể… có thể… Tôi ngượng ngùng ngắt lời. Không thể nói tiếp “làm bà cháu có mang” được! Ông Lexow nói khẽ, nhưng nhấn từng chữ. - Ông nghĩ là ông hoàn toàn không hiểu cháu nói chuyện gì. Bà Bertha nhà cháu là một người bạn tốt mà ông không có thể đem đến gì khác ngoài lòng kính trọng. Cảm ơn cháu đã có thiện ý mời ông, nhưng ông già rồi, ông phải đi ngủ sớm. Lexow gật đầu chào tôi, trong ánh mắt ông đã có chút gì đó lạnh nhạt len vào. Rồi ông gật đầu về phía các vòng hoa héo úa trên mộ Bertha, chậm chạp đi ra cổng. Ra thế. Ông đi ngủ sớm. Không gì khác ngoài lòng kính trọng. Tôi nhìn sang tấm bia của Hinnerk cùng nấm đất của Rosmarie với khóm hương thảo trồng bên trên. Ông Lexow đã quên buổi tối hôm qua rồi sao? Hay là người ta chỉ đãng trí khi có điều gì đó cần quên đi? Đãng trí có đơn giản chỉ là khả năng nhớ lại cái gì đó? Có thể người già không quên gì cả, họ chỉ không chịu lưu lại trong trí nhớ thôi. Con người không thể ghi nhớ một số lượng ký ức nhất định trở lên. Vậy thì quên cũng chỉ là một dạng nhớ. Giả sử người ta không quên gì hết thì cũng chẳng nhớ đến điều gì được. Lãng quên là một đại dương bao quanh các hòn đảo trí nhớ. Ở đó có các dòng chảy, vũng xoáy và các chỗ nông. Đôi khi bãi cát bồi trồi lên và lan đến chân đảo, đôi khi có gì đó biến mất. Bộ não có thủy triều. Riêng ở Bertha thì thủy triều lên nuốt trọn các đảo. Cuộc đời bà nằm đâu đó dưới đáy biển chăng? Và ông Lexow không muốn có kẻ nào lặn xuống đó? Hay ông tận dụng sự biến mất của bà để kể chuyện riêng của mình, câu chuyện mà trong đó ông có một vị trí? Ông ngoại thường kể cho Rosmarie và tôi về làng bên cạnh đã biến mất. Ngày xưa, theo lời Hinnerk, Fischdorf là một làng giàu có, giàu hơn cả Bootshaven, nhưng có lần dân làng chơi khăm ông mục sư. Họ kêu ông đến một người đang hấp hối, nhưng lại giấu con lợn sống dưới chăn. Ông mục sư cận thị xúc động làm lễ Xức Dầu cho con lợn. Khi con lợn đó kêu eng éc nhảy khỏi giường, ông mục sư phẫn nộ đến nỗi bỏ làng ra đi. Gần đến địa phận Bootshaven thì ông nhận ra đã quên cuốn Kinh Thánh, ông quay lại - và không thấy ngôi làng đâu nữa. Ở vị trí cũ của ngôi làng, bây giờ là một cái hồ lớn. Cuốn Kinh Thánh bập bềnh ở một chỗ nước nông gần bờ. Ông tôi luôn lấy câu chuyện đó làm cớ chê trách sự ngu si và thói nát rượu của các giáo trưởng. Vì họ không phân biệt được giữa người và lợn, để quên đồ của mình khắp nơi, rồi lại còn lạc đường, ông coi đó là nét đặc trưng và đứng hẳn về phía người làng Fischdorf. Hinnerk không thích nhìn thấy người nào thành đạt mà lại bị trừng phạt. Có thể Lexow chẳng phải bố của Inga. Có thể ông chỉ rình lấy đi thứ gì đó tốt nhất của Bertha, thứ mà không thuộc về ai khác cả. Dù sao thì Bertha luôn luôn yêu một mình Hinnerk. Tôi phải hỏi dì Inga mới được. Nhưng dì có thể cho tôi biết gì, ngoài một câu chuyện của người khác? Tôi đặt vội bó hoa tím đỏ lên mộ Rosmarie. Không thấy ông Lexow nữa. Bây giờ thì dẹp các chuyện cũ được rồi. Tôi sải bước quay về phía cổng. Trong khóe mắt tôi thấy bên trái có gì đó xê dịch giữa các nấm mộ. Tôi nhìn kỹ, thấy một người đàn ông áo trắng ngồi trong bóng râm của một cây mận, khá xa mộ gia đình nhà tôi. Tôi dừng chân. Bên cạnh người đàn ông là một cái chai. Người ấy cầm trong tay chiếc ly và ngửa mặt đón nắng. Tôi không nhìn rõ chi tiết, chỉ biết là anh ta đeo kính râm, nhưng không có vẻ là một người vô gia cư, cũng chẳng giống gia quyến có tang. Một vị trí lạ lùng. Bootshaven. Ai muốn sống ở đây? Và ai muốn được chôn ở đây? Tôi nhìn lần cuối cột đá đen mà dưới đó, ngoài ông bà cố, còn có bà Anna và Hinnerk. Bây giờ còn thêm Bertha và Rosmarie, em họ tôi. Các dì tôi đã mua chỗ của mình ở đó. Mẹ tôi thì sao? Liệu tâm hồn ốm đau vì nhớ nhà của mẹ có thực sự tìm được nơi yên tĩnh trong lòng đất cằn cỗi vùng đầm lầy này? Và tôi nữa? Liệu chủ sở hữu ngôi nhà gia đình có được vào ngôi mộ gia đình? Tôi rảo bước nhanh hơn, đóng cái cổng con lại. Xe đạp của Hinnerk đây rồi. Tôi lên xe, đạp về nhà. Vào nhà, tôi lấy một cốc nước lớn và ngồi ra bậc tam cấp phía trước, nơi hôm qua tôi cũng ngồi với bố mẹ cùng các dì. Ngày xưa Rosmarie, Mira và tôi hay ngồi ở đây: lúc bọn tôi còn nhỏ thì vì các bí mật dưới phiến đá, sau này vì hoàng hôn. Bậc tam cấp là một chốn tuyệt vời, nó vừa là một phần của ngôi nhà mà cũng là một phần vườn. Dây hồng leo phủ trên các bậc, nhưng nếu để ngỏ cửa chính thì mùi đá của hành lang trộn lẫn với hương thơm của hoa. Bậc thang không ở trên cũng không ở dưới, chẳng ở ngoài cũng chẳng ở trong. Nó được coi như sự chuẩn bị êm ả mà dứt khoát cho bước tiếp nối giữa hai thế giới. Có thể vì vậy mà bọn choai choai chúng tôi hay phải ngồi trên những bậc thang kiểu ấy hoặc tựa vào khung cửa, ngồi lên bờ tường, lang thang ở bến xe buýt, chạy trên tà vẹt đường sắt và nhìn trên cầu xuống. Như hành khách đợi đổi chuyến, bị cầm tù trong những phòng trung chuyển. Thỉnh thoảng Bertha ra bậc thang ngồi với bọn tôi. Bà chộn rộn, vì chính bà cũng có vẻ đang mong, song không rõ mong ai hay cái gì. Thường là bà đợi một người đã mất, bà đợi cha bà, sau này đợi Hinnerk, và một, hai lần đợi chị Anna. Đôi khi Rosmarie cầm một chai vang và ly ra, lấy từ kho rượu vang của Hinnerk dưới hầm. Dù là con trai một chủ quán, Hinnerk ít hiểu biết về rượu vang. Chủ yếu người ta vào quán Dorfkrug chỉ để uống bia. Hinnerk mua vang ở đâu có giá rất rẻ, thích vang ngọt hơn vang chua và thích vang trắng hơn vang đỏ. Mira chỉ uống loại đỏ sẫm, gần như đen. Dưới hầm đầy chai, bao giờ Rosmarie cũng tìm được một chai đỏ sẫm. Tôi không uống cùng. Rượu làm tôi ngu, quên tiệt mọi thứ, mất trí - người ta biết hết những hậu quả của rượu bia. Và tôi ghét nhìn thấy Rosmarie và Mira uống vang. Khi hai đứa ầm ĩ lên và cười nói huyên thuyên, tôi có cảm giác giữa chúng tôi mọc lên một màn hình vô tuyến khổng lồ. Tôi có thể nhìn qua kính, quan sát hai đứa như xem phim động vật về loài nhện khổng lồ đã tắt âm thanh. Thiếu lời thuyết minh chuyên môn, những động vật đó thật kinh tởm, lạ lẫm và xấu xí. Mira và Rosmarie không để ý xung quanh, cặp mắt nhện của hai đứa đã bắt đầu đờ đẫn, có vẻ như hai đứa thích thú khi thấy tôi nhìn chúng chòng chọc. Thường là tôi ở lại lâu hơn sức chịu đựng một chút, sau đó đứng phắt dậy và bỏ vào nhà. Không bao giờ tôi cô đơn hơn lúc đó, trên bậc tam cấp cạnh hai con nhện cái. Nếu Bertha có mặt thì bà uống cùng. Rosmarie rót thêm cho bà, và do Bertha chẳng nhớ đã uống một hay ba ly nên bà cứ đưa ly ra hứng. Hoặc bà tự rót thêm cho mình. Rồi bà nói linh tinh, bà cười, má bà ửng hồng. Mira giữ ý khi có mặt Bertha, có thể vì lễ phép, nhưng cũng có thể vì mẹ nó, bà Ohmstedt, vốn nổi tiếng có tửu lượng thượng thặng. Có lần Bertha nháy mắt với bọn tôi rồi nói một câu quen thuộc: “Táo không rụng xa gốc đâu.” Lập tức Mira mặt tái dại, trút hết ly vang đang đưa lên miệng vào gốc cây hồng. Rosmarie hay xúi Bertha uống, có thể nhờ đó biện hộ cho thói uống rượu của mình. Nhưng chị cũng có lý khi nói: - Bà uống đi, bà, uống rồi thì bà không khóc nữa. Bertha chỉ uống với chúng tôi trên bậc tam cấp một mùa hè. Sau đó bà như bị kiến đốt, không ngồi lâu một chỗ được, và cuối mùa hè sang năm thì Rosmarie chết. Mặt trời xuống thấp, ly của tôi đã cạn. Nhân tiện đã ở đây rồi thì tôi cũng có thể qua thăm bố mẹ Mira và hỏi về cô con gái. Cậu em trai chẳng kể gì nhiều. Lần này tôi không rẽ trái vào làng, mà đi về hướng thành phố. Chuông cửa vẫn ngân ba tiếng chim cúc cu quen thuộc như ngày xưa. Mảnh vườn khá um tùm, không còn hàng lối thẳng như kẻ chỉ. - Bố cậu lại áp dụng hình học không gian rồi, đúng không? Rosmarie thường trêu chọc khi Mira mở cửa cho bọn tôi. Bây giờ cỏ mọc cao, bờ dậu và cây không tỉa, chắc cũng không phải chỉ mới vài bữa. Thực ra thì không khó đoán, vậy mà tôi vô cùng sửng sốt khi Max ra mở cửa. Anh cũng thoáng ngạc nhiên, nhưng trước khi tôi kịp cất tiếng thì anh mỉm cười, tiến một bước lại gần, tỏ vẻ rất mừng rỡ. - Iris, vui quá. Tôi cũng đang định qua thăm chị hôm nay. - Thật ư? Tại sao tôi cao giọng thế nhỉ? Tất nhiên anh ta phải ghé qua, vì anh cũng gần như luật sư riêng của tôi. Max ngập ngừng nhìn tôi. - Tôi định nói là tình cờ quá. Thực ra tôi hoàn toàn không muốn đến chỗ anh! Nụ cười của anh đã nhạt đi một chút. - Ồ không, không, tôi nói, tất nhiên không phải thế, tôi chỉ định nói là tôi không hề biết anh ở đây. Nhưng giờ thì anh đây rồi, vậy tất nhiên là… tôi chấp nhận anh. Max nhướng mày. Tôi thầm trách mình, cảm thấy mặt đỏ dần. Đúng lúc định kiếm đường rút lui bằng một câu kết sắc sảo - đại loại như “ồ, thế thì tôi lại đi vậy” - thì Max cười khẩy: - Thật thế hả? Chị chấp nhận tôi? Tôi đã thầm ước bấy lâu nay. Thôi, đừng nói linh tinh nữa. Vào nhà đi. Iris! Hay mình cùng ra sân sau. Chị đi qua hành lang đi, chắc chị vẫn biết sân ở đâu. - Vâng. Tôi đi xuyên qua ngôi nhà từng rất thân thuộc, nhưng lại càng thấy lúng túng hơn. Đây đâu phải ngôi nhà mà tôi vẫn biết. Hình như không còn cánh cửa nào. Không có giấy dán tường. Không có trần! Tất cả chỉ là một phòng to, sơn trắng, đôi xăng đan của tôi kêu kin kít trên sàn gỗ trống trơn. Dãy bếp trắng bóng. Một cái sofa xanh to tướng, bẩn thỉu. Một tường sách. Tường kia kê giàn âm thanh khổng lồ, nhưng cũng rất thanh lịch. - Cha mẹ anh đâu? - Tôi ngạc nhiên. - Họ sống trong nhà để xe. Tôi kiếm nhiều tiền hơn đồng lương hưu của bố tôi mà. Tôi quay lại nhìn anh. Đáng yêu thế chứ! - Ê, đùa thôi. Mẹ tôi lúc nào cũng định đi khỏi đây, chị biết rồi đấy. Còn bố tôi ốm, ốm lắm. Lúc bố tôi khỏe lại thì hai người quyết định đi du lịch càng nhiều càng tốt. Họ có một căn hộ nhỏ ngoài thành phố. Thỉnh thoảng họ về đây thăm, và ngủ trong nhà xe. Nhưng xe tôi khá nhỏ, nên… - Max, đừng bẻm mép nữa cho tôi nhờ. Tôi định tìm bằng được một chỗ nào để bơi mà không bị anh bám đuôi. Anh có thể đơn giản tiết lộ mấy hôm tới anh có kế hoạch đi bơi ở đâu, để tôi còn tránh? - Đừng kiêu thế. Tôi chỉ làm những gì vẫn làm xưa nay. Đâu phải lỗi tôi, khi chị nghiên cứu kỹ thói quen của tôi rồi liên tục tình cờ xông ra cắt ngang đường tôi, thậm chí còn khỏa thân nữa chứ! Đã thế lại đến bấm chuông nhà tôi và hỏi han ỡm ờ! Max lắc đầu quay đi. Anh vào bếp. Anh mặc sơ mi trắng, lại bẩn ở lưng, lần này có vết màu xám và xanh lá cây, dường như anh dựa vào một thân cây già. Trong lúc anh bày chai cốc, tôi nghe anh buồn bã lẩm bẩm, lác đác mấy chữ “buông thả”, “tính cách yếu” và “áp lực”. Chúng tôi uống vang pha nước ngoài sân. Tất nhiên ly của tôi loãng hơn. Sân vẫn như ngày xưa, chỉ có mảnh vườn là hoang dại khủng khiếp, có tiếng dế gáy. Và tôi đói ngấu. - Tôi phải về đây. - Vì sao? Chị vừa đến cơ mà. Tôi còn chưa hỏi chị tìm bố mẹ tôi làm gì. Tôi cũng chưa hỏi chị làm gì và sống ở đâu, vì tôi đã biết hết từ trong hồ sơ. - Hả? Sao lại có thông tin về tôi trong đó? - Bí mật luật sư. Rất tiếc tôi không thể cho quý bà biết gì về các nữ thân chủ của tôi. - Nhưng nhất định có ai đó cung cấp cho anh thông tin về các nữ thân chủ của anh chứ? - Thì dĩ nhiên, nhưng tôi không nói đó là ai. - Dì tôi phải không? Inga hay Harriet? Max cười, không nói gì. - Tôi phải đi đây. Max. Tôi còn định, nghĩa là, tôi chưa, thôi, tôi đi đây. - Thôi được. Nhất định là có lý do cấp bách, nhưng tại sao chị không nói ngay? Có cần tôi nhắn lại gì cho bố mẹ tôi không? Và chị có muốn biết ngày mai tôi đi bơi ở đâu không? Và chị không muốn ăn tối với tôi à? Anh vừa đăm chiêu xoáy nút bấc khỏi cái mở nút chai vừa nói, đến câu hỏi cuối cùng mới ngửng lên nhìn. Tôi dựa vào lưng ghế, thở dài não nuột. - Có. Có chứ, tôi có muốn. Max, tôi rất rất rất muốn ăn tối với anh. Cảm ơn. Max nhìn tôi im lặng, cười hơi gượng gạo. - Thế nào? Anh chỉ hỏi làm phép thôi hả? Tôi ngạc nhiên hỏi. - Không, mà tôi đang đợi chữ “nhưng”. - “Nhưng” gì? - Chữ “nhưng” trong câu “Vâng, vâng, Max yêu nhất đời của tôi, tôi muốn, tôi muốn lắm, nhưng…”, ý tôi là thế. - Chẳng có “nhưng” nào cả. - Không có “nhưng”? - Không, ông tướng ạ. Nhưng nếu anh còn hỏi đi hỏi lại… - Thấy chưa, có chữ “nhưng” đấy chứ! - Ừ, đúng thật. - Tôi đã biết mà… Max thở dài, nghe có vẻ hài lòng, rồi anh đứng bật dậy và nói: - Bắt đầu nào. Ta đi xem có đồ gì trong bếp không. Chúng tôi tìm được rất nhiều thức ăn trong bếp. Tối hôm đó tôi cười nhiều, có thể hơi quá nhiều đối với một người về nhà đưa đám. Nhưng tôi thấy dễ chịu bên cạnh Max và cái tính trâng tráo lịch thiệp của anh. Anh có nhiều bánh mì, ô liu, mì sợi và nước xốt trong tủ lạnh, khiến tôi phải hỏi, có phải anh đợi khách hoặc sắp có khách. Anh thoáng im lặng, lúng túng nhưng chỉ lắc đầu. Rồi anh nhượng bộ và thú thực, anh dự định mời tôi, vì anh là một người mẫn cảm và làm tôi giật mình suýt chết ở mương, và anh không thể mường tượng là tôi đột nhập ngay tới đây. Vừa nói anh vừa cười ngượng nghịu, trét kem tỏi tây lên bánh mì. Tôi chẳng nói gì. Lúc tôi đứng dậy ra về thì trời đã tối. Max tiễn tôi ra xe đạp. Khi tôi đặt tay lên ghi đông, anh ấp tay anh lên tay tôi và hôn nhẹ cạnh môi tôi. Nụ hôn của anh như điện giật khiến tôi sửng sốt. Cả hai cùng lui lại nửa bước và tôi đạp đổ một chậu hoa. Tôi vội dựng lại rồi nói: - Xin lỗi. Cứ mỗi lần ở đâu thấy dễ chịu là tôi lại làm thế. Và Max nói, anh cũng thấy dễ chịu tối nay. Chúng tôi cùng im lặng đứng ngoài bóng đêm. Trước khi Max kịp làm gì hoặc không làm gì, tôi lên xe đi về nhà. Đêm hôm đó tôi lại khó ngủ. Lắm chuyện phải nghĩ quá. Và tôi lại dậy rất sớm. Những tia nắng còn run rẩy lần theo dọc bờ tường. Tôi ra khỏi giường, choàng lên người chiếc áo dài kim tuyến của mẹ, đi xe đạp ra hồ, bơi một lượt sang bờ kia rồi quay lại, vẫn lại gặp những người dắt chó đi dạo như hôm qua, nhưng không thấy Max. Tôi quay về, nấu trà, kẹp phô ma vào giữa hai lát bánh mì đen, đặt hết lên khay rồi bưng ra bãi cây ăn quả sau nhà. Ở đó có bàn ghế bạc phếch sương gió. Tôi kê hai chiếc ghế gấp trắng ra nắng, một cái đặt khay và cái kia để ngồi. Đôi chân trần của tôi ướt sương, cả gấu váy cũng thế. Cỏ ở đây đã lâu không được xén, nhưng chắc cũng chỉ từ khoảng bốn, năm tuần. Tôi uống trà với sữa của ông Lexow, quan sát những cây táo già và nhớ bà Bertha. Một ngày mùa Thu, bà ngã từ trên cây trong mùa thu hoạch táo, từ đó chẳng còn gì như trước. Dĩ nhiên không ai đoán trước được hậu quả, Bertha lại càng không. Nhưng sau đó bà hay đau vùng hông, không nhớ đã uống thuốc chống đau hay chưa. Bà hỏi đi hỏi lại Hinnerk là mình đã uống thuốc chưa, khiến Hinnerk sốt ruột và càu nhàu đáp lại. Bertha sợ thái độ đó, vì bà thực sự không biết và cam đoan là chưa hỏi ông lần nào. Vì Hinnerk luôn tỏ ra ngán ngẩm khi bị hỏi nên bà không hỏi nữa, nhưng bà mất hẳn tự tin trong nhiều việc. Bà không tìm được kính hay túi hay chìa khóa cửa. Bà lẫn lộn các lịch hẹn, và đột nhiên không nhớ ra tên của bà thư ký đã làm việc hơn ba chục năm trong phòng công chứng. Điều đó khiến bà bức xúc, rồi sinh ra lo nghĩ. Rốt cục, khi bà nhận ra rằng mọi sự ngày càng tệ đi và cũng chẳng ai ở gần để giúp bà hoặc bàn bạc với bà, khi không chỉ từng phần cuộc đời hôm nay và cả cuộc đời trước đây cứ thế chìm vào hư vô, thì bà kinh sợ. Nỗi sợ ấy khiến bà mau nước mắt, sáng sớm trên giường là tim bà đập dồn, đơn giản là bà không còn muốn dậy nữa. Hinnerk bắt đầu thấy xấu hổ vì bà, ông hạ giọng mắng bà. Bà không làm bữa sáng cho ông nữa. Đoạn đường từ bếp ra phòng ăn dài quá, và ở phòng này thì bà quên phải lấy gì từ phòng kia. Hinnerk dần dần phải tự rót sữa cho mình buổi sáng và đi mua bánh mì nho khô ở hiệu nướng bánh đối diện phòng công chứng. Thực ra ông không cần phải làm việc nữa, nhưng ông thấy không dễ chịu khi ở gần Bertha, nghe tiếng chân lập cập của bà vang lên khắp nhà. Như hồn ma bất an, bà lên thang xuống thang, lục lọi trong tủ, bới tung các đồ ngày xưa, xếp thành từng chồng rồi để đấy. Thỉnh thoảng có lần bà vào phòng ngủ, mặc hết áo nọ áo kia lên người. Nếu ra vườn, bà vồ vập chào đón những người lạ đi ngang qua cổng với những câu vừa hớn hở vừa rời rạc vô nghĩa, cứ như nhận ra bạn cũ. “Ôi, ông bạn thân nhất của tôi”, bà gọi qua bờ dậu táo gai, và người qua đường kinh ngạc quay lại xem ai là người đón nhận nụ cười vui sướng của bà lão nọ. Tính lẫn cẫn của bà khiến Hinnerk ngượng, nó không hẳn là một chứng bệnh gây đau đớn hay cần thuốc thang, nhưng chứng bệnh đó làm ông bực bội, xấu hổ. Mẹ tôi ở xa. Inga ở thành phố, bận bịu nghề nhiếp ảnh. Harriet thì đằng nào cũng bay bổng chín tầng mây, dì kinh qua nhiều giai đoạn nào đó, cứ ở mỗi giai đoạn lại có một ông chồng mới khiến Hinnerk phát điên, tệ hơn cả mọi lý do khác. Thỉnh thoảng ông gọi điện cho mẹ tôi, phàn nàn về Bertha, tuy nhiên không để lộ sự kích động ngày càng gia tăng. Inga là người đầu tiên nhận ra Bertha cần giúp đỡ. Mãi đến khi sự thể đã quá muộn thì chúng tôi mới ngộ ra rằng chính Hinnerk cần hỗ trợ. Chúng tôi đặt thức ăn cung cấp tận nhà. Lúc ăn trưa, Bertha không thích làm dây ra bàn. Cứ có vết bẩn trên khăn bàn là bà bật dậy đi kiếm giẻ lau, nhưng hầu như bà chẳng quay về bàn nữa. Còn nếu quay về thì bà không đem theo giẻ lau, thay vào đó lại là cái nồi, hộp cháo sữa hay cái tất quần. Nếu bà cho rằng tay áo tôi quá dài, có thể chấm phải thức ăn, bà nói: “Cẩn thận kẻo cháy đó.” Nhưng chúng tôi hiểu ý bà và xắn tay áo lên. Sau này chúng tôi không hiểu nữa, khiến bà tức giận đứng dậy, hoặc bà sụm người xuống và khóc không thành tiếng. Một bà bạn cà phê của bà, bà Thede Gottfried, mỗi tuần đến nhà ba ngày để lau nhà, dọn dẹp, đi chợ và đi dạo. Một lúc nào đó Bertha bắt đầu lạc đường. Bà ra phố, không nhớ đường quay về ngôi nhà nơi bà lớn lên. Ngày nào Hinnerk cũng đi tìm bà, nói chung bà ở đâu đó trong nhà hay ngoài vườn, nhưng cả nhà lẫn vườn đều rộng mênh mông, tìm hết ngày. Trong làng thì ai cũng biết Bertha, chẳng sớm thì muộn cũng có ai đó đưa bà về, nhưng đôi khi bà đem theo về một chiếc xe đạp của người khác. Lần khác, bà ra đường buổi đêm. May mà chiếc ô tô kịp phanh. Bà bắt đầu tiểu tiện ra quần, rửa tay trong bồn cầu và ném mọi thứ vào đó: phong bì, vòng dây chun, đinh ghim, cỏ dại… Bà lục trong túi cả trăm lần mỗi ngày để tìm khăn giấy, nếu không thấy, vì trước đó bà đã lấy ra rồi cho vào túi khác, bà tuyệt vọng vô cùng. Bà không biết chuyện gì xảy ra với mình, chẳng ai nói chuyện với bà. Thỉnh thoảng bà hỏi mẹ tôi hay các dì, giọng thì thào và sợ hãi: “Sẽ có chuyện gì?” hoặc “Mọi thứ vẫn như cũ chứ?” hoặc “Nhưng ẳ ngày xưa khác bây giờ, ngày xưa mẹ có mọi thứ, bây giờ chẳng còn gì.” Bà khóc nhiều lần trong ngày, có chứng giật mình, trán khi nào cũng toát mồ hôi lạnh, và sự kích động nội tâm khiến bà đột nhiên vùng đứng dậy và đi khỏi, chạy một đoạn ngắn hay đi lại không nghỉ trong căn nhà rộng lớn vắng bóng người. Các dì tôi cố trấn an bà, nói rằng đó chỉ là chứng tuổi già, và hoàn cảnh của bà còn tốt chán. Và mặc dù bà vẫn được một bác sĩ điều trị, chẳng ai nói chữ “bệnh” khi có mặt bà. Hinnerk hơn Bertha sáu tuổi. Ông bị trụy tim năm bảy lăm tuổi cũng là quá sớm, vì thực tình ông còn rất khỏe. Các bác sĩ đoán đây không phải cơn đau tim đầu tiên, nhưng ai chứng kiến các lần khác? Ông nằm viện hai tuần và mẹ tôi đến với ông. Mẹ nắm tay ông, ông thấy sợ, vì ông biết có thể giây phút tận cùng đã đến. Một buổi chiều ông gọi tên mẹ tôi với tất cả sự trìu mến như ông có thể nhưng không mấy khi thể hiện, rồi ra đi. Trong lúc đó các dì tôi ở chỗ Bertha. Các dì rất buồn vì không được chia tay, vừa buồn lại vừa giận, vì Hinnerk có một con gái yêu, còn hai đứa kia ít được gì từ bố, nhất là tình yêu, dĩ nhiên, vì giờ đây bà mẹ chỉ còn là một cái khung ọp ẹp, vì bây giờ mẹ tôi lại được phép biến về miền Nam với ông chồng chung thủy và đứa con gái đang chờ đợi để được an ủi vỗ về. Buồn và giận khiến hai dì nói với mẹ tôi những điều khủng khiếp. Họ trách mẹ tôi lẩn tránh trách nhiệm trông nom bà. Bertha lắng nghe và khóc, bà không hiểu chuyện gì đang diễn ra, nhưng bà nghe ra vị cay đắng cùng tình yêu không được đền đáp trào lên từ giọng các con gái bà. Christa có một quan hệ khá căng thẳng với các em mình trong suốt thời gian Bertha còn sống, mười bốn năm liền. Sau mỗi cuộc điện thoại và trước mỗi chuyến thăm, mẹ tôi mất ngủ mấy đêm liền. Hai năm sau khi Rosmarie chết, khi hai dì quyết định đưa Bertha vào nhà dưỡng lão và trước đó hỏi mẹ tôi với giọng châm chọc, liệu mẹ tôi có đón Bertha về nhà mình không, chứ Inga và Harriet đã chăm sóc mẹ đủ lâu rồi. Thời gian gần đây ba chị em đã dè dặt xích lại gần nhau hơn: họ là chị em, họ đã quá ngưỡng năm chục, đã chôn vùi nhiều mơ mộng, đã chôn Rosmarie, và bây giờ, bây giờ họ đã chôn mẹ mình. Đám cỏ giữa các gốc táo mọc cao hơn sau nhà. Tôi phải gặp ông Lexow lần nữa mới được, ông không thể dễ dàng tháo chạy như thế. Tôi uống trà, ăn bánh mì, thoáng nhớ đến Max và lắc đầu. Chuyện gì đã diễn ra hôm đó nhỉ? Nắng đã gắt hơn. Tôi cầm khay lên, toan bước vào nhà một cách trang trọng - không thể làm khác trong chiếc áo dài kim tuyến này - thì bỗng nhìn xuyên qua tán cây đến chuồng gà cũ. Có hình gì đó màu đỏ vẽ lên nền vữa xám. Tôi vòng qua mấy cây ăn quả đi đến căn nhà mà mẹ tôi và các em gái từng chơi búp bê ở đó. Rosmarie, Mira và tôi gọi nó là nhà mưa. Từ xa tôi đã thấy chữ “Nazi”[2] xịt sơn đỏ. Tôi giật mình quay phắt, cứ như định bắt gặp đứa xịt sơn nhảy vào bụi cây cơm cháy. Tôi cố dùng một hòn đá cạo chữ đó đi, nhưng không được. Khi cúi xuống nhặt hòn đá, tôi giẫm lên gấu áo dài, và lúc đứng dậy thì chỗ vải đã bở rách toạc, nghe như tiếng rít. Tôi chạy vào tiền sảnh, cố định thần - mắt tôi chưa quen với ánh sáng nhập nhoạng. Đâu đó trong hõm tường gần các thang leo tôi đã nhìn thấy mấy thùng sơn lớn. Tôi mở thùng đầu tiên, nhưng chỗ sơn thừa đã cứng quèo, nứt nẻ. Các thùng khác cũng không hơn gì. Sẽ làm sau vậy. Ai đã xịt sơn nhỉ? Một người trong làng? Một kẻ theo phái hữu hay phái tả? Một thằng dở hơi hay có chính kiến nghiêm túc? Dòng họ này có truyền thống đãng trí, có lẽ ai đó định tung ra một gợi ý chăng? Để quên chuyện đó đi, tôi bắt đầu với phòng làm việc của ông ngoại Hinnerk. Tôi muốn xem kỹ cái bàn giấy của ông. Ngày xưa có bánh kẹo dưới cái nắp đậy bên phải ở tầng dưới, After Eight, Toblerone và nhiều hộp kẹo đủ màu của MacIntosh. Tôi rất khoái những hộp ấy, vẽ hình quý bà trong áo dài tím và xe ngựa. Hình người đàn ông thì tôi thấy hơi chướng mắt với nụ cười cùng mũ trụ cao. Nhưng tôi rất sung sướng ngắm chiếc ô che nắng của quý bà và chân ngựa thanh mảnh. Đâu đó còn có hình con chó con màu đen thì phải? Cái lưng ong của quý bà áo tím hơi đáng lo. Không vì nụ cười tỏa sáng của bà mà tôi hết lo rằng bà có thể gãy đôi ở phần eo bất cứ lúc nào. Không dám nhìn lâu vào chỗ đó. Chúng tôi dính răng vào nhau khi nhai kẹo, và rủi thay, đôi khi chỉ còn loại kẹo có nhân trắng lạnh toát. Tôi thích nhất loại kẹo vuông màu đỏ, Rosmarie khoái mấy đồng tiền vàng, chỉ riêng Mira là ăn After Eight. Nhưng đôi khi ông ngoại chìa hộp ra mời thì nó cũng lấy một cái kẹo dẻo màu tím sẫm. Chìa khóa vẫn nằm trong hộc bàn. Chưa bao giờ Hinnerk bỏ thì giờ khóa các ngăn lại. Đằng nào thì cũng chẳng ai dám lục vào đồ của ông. Cơn thịnh nộ của ông không phân biệt giữa đồng nghiệp và người sai vặt, cháu gái và bạn của cháu, vợ và người hầu, bạn và thù. Đến các con gái ông cũng chẳng được nương nhẹ, cả khi chồng con họ đứng cạnh. Hinnerk là người của pháp luật, đồng nghĩa rằng ông là pháp luật. Hinnerk tin vậy. Nhưng Harriet thì không. Tôi mở khóa bàn, một mùi quen thuộc từ véc ni, hồ sơ và bạc hà xộc vào mũi tôi. Tôi ngồi xuống sàn, hít cái mùi đó và nhìn vào trong bàn. Quả nhiên có một hộp MacIntosh, rỗng, cạnh đó là một cuốn sách nhỏ màu xám. Tôi mở ra và thấy Hinnerk viết tên mình bằng bút mực ở trang đầu. Nhật ký? Không, không phải, sổ thơ. Chương 7 D ạo trước đã có lần Harriet kể cho chúng tôi về các bài thơ của Hinnerk. Cô tuy sống cùng nhà nhưng ít nói chuyện với ông và càng ít nói về ông, chính vì vậy chúng tôi thấy chuyện dì kể về thơ càng lạ hơn. Harriet tiếp cận với bố bằng cách lánh mặt. Lúc còn nhỏ, dì không ngớ ra trước mặt ông như Christa và Inga. Dì cũng không khóc như Bertha. Dì trốn mất. Bị bố mắng hay thậm chí nhốt vào phòng và khóa lại, dì nhắm mắt lại, thiếp đi. Thật thế, dì ngủ. Không mê muội, không vô tri, mà ngủ. Bản thân Harriet gọi tình trạng đó là bay và cả quyết là lần nào dì cũng mơ thấy mình bập bềnh trên đồng cỏ, từ từ lượn qua các cây táo và bay lên trời. Rồi dì đảo một vòng trên đồng cỏ và chỉ hạ xuống khi bố dập cửa đánh rầm rồi ra khỏi phòng. Hinnerk hồi nhỏ hay bị bố đánh nhưng ông không chạm vào ai, cho dù thịnh nộ đến mấy. Ông dọa đánh, gọi là “cải tạo vật lý”, ông sùi bọt mép và nhổ phì phì, ông quát lạc giọng và hét to đến đau cả tai, ông cay độc và hạ giọng, thì thào những điều khủng khiếp, nhưng chẳng bao giờ đánh cả, cũng chẳng bao giờ có ý định đánh ai. Harriet tận dụng mặt đó, ngủ thiếp đi và bay mất. Harriet thuộc loại các cô gái không chỉ đơn giản thích hay khen cái gì, mà si mê. Dì đặc biệt yêu trẻ con và động vật nhỏ. Học xong phổ thông, dì quyết định học thú y, dù không có năng khiếu khoa học tự nhiên. Tệ hơn cả khả năng yếu kém không tạo ra nổi các quan hệ logic là cái tật hễ cứ thấy thú vật ốm là khóc òa lên ngay. Ngay trong tuần thứ hai, bà giáo sư đã phải giải thích là dì không đến đây để yêu súc vật, mà để chữa bệnh cho chúng. Mẹ tôi kể rằng Harriet, sau giờ thực hành mổ xác thỏ, đã ném chiếc yếm trắng trước mặt thầy giáo phụ trách, và tiện thể ném cả khóa học vào sọt rác. Lúc dì bỏ ra khỏi lớp, thầy giáo ngơ ngác nhìn theo, nhưng dì không quay lại. Mẹ luôn kể chuyện đó khi có mặt Harriet, và dì xác nhận bằng tiếng cười khúc khích. Tôi không rõ dì tự kể cho mẹ nghe hay mẹ biết chuyện từ một bạn học nào đó của dì. Rosmarie cũng khoái chuyện này, và mỗi lần kể là mẹ tôi lại đổi đi vài chi tiết. Lần thì mổ xác mèo, lần khác lại là con chó con, thậm chí có khi là một con lợn rừng rất nhỏ. Sau đó Harriet học ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng không trở thành giáo viên như kế hoạch ban đầu của Hinnerk, mà dì làm biên dịch. Đó là sở trường của dì. Dì có khả năng thâm nhập trọn vẹn vào ý nghĩ và cảm xúc của người khác - dây nối bẩm sinh giữa hai thế giới không hiểu nhau. Dì nối giữa các chị. Giữa bà ngoại và bà thợ may mỗi năm qua nhà hai lần. Giữa ông ngoại và các giáo viên dạy dì. Vì dì hiểu tất cả mọi chuyện và mọi người nên dì rất khó tìm được một chỗ đứng cố định. Đứng - đằng nào cũng không dành cho dì: Harriet thường bay lơ lửng. Lơ lửng bên trên mọi chuyện thế gian. Tất nhiên luôn trong nguy cơ bị rơi đánh bịch xuống đất. Nhưng kể cũng lạ, các cú rơi của dì hiếm khi mạnh, dì chỉ loạng choạng mất chút độ cao mà thôi. Khi chạm đất, trông dì có vẻ xơ xác, mệt mỏi, chứ không bầm dập. Harriet là người duy nhất trong ba chị em có dính dáng đến mấy chuyện bồ bịch. Christa quá nhát. Inga có người theo đuổi, nhưng họ chỉ được ngắm từ xa chứ không được phép đụng chạm, mà có khi họ cũng chưa có âm mưu ấy. Harriet không hẳn là một người tình lắm mẹo hay nóng bỏng, nhưng chỉ cần ai đó ngắm dì theo một kiểu nhất định là dì đã rối hết ruột gan. Dì dễ dàng bị cuốn hút, và có khả năng thăng hoa khiến lũ con trai đứng tim. Dì có thể không phải dạng, như người ta vẫn nói, giỏi chuyện giường chiếu, bất kể nên hiểu khái niệm đó ra sao, nhưng dì làm cho đàn ông cảm thấy họ giỏi chuyện giường chiếu, và như thế thường hay hơn. Thêm nữa là dì, em gái út trong ba chị em, sinh ra đúng thời mà hoa lá, tình dục và hòa bình đóng một vai trò quan trọng. Không ở Bootshaven và ở ngôi nhà phố Geeste lại càng không. Khác với Christa và Inga, dì học đại học ở Göttingen, có vài cái sơ mi Ấn Độ trong tủ và thích nhất mấy cái quần mông bó gấu loe trông như được khâu lại từ vô số miếng da vuông, và dì bắt đầu nhuộm mái tóc màu hạt dẻ của mình bằng thuốc nhuộm Henna. Có lẽ Harriet là dân hippie, nhưng trong nhân cách của dì không có sự đứt quãng hay đột biến. Dì trở thành một người như vẫn thế xưa nay. Inga và Harriet chỉ cách nhau ba năm, còn Christa và Harriet cách nhau năm năm, mặc dù vậy họ xa nhau như hai thế hệ. Nhưng vì Harriet xuất thân từ một gia đình như thế, nên cuộc đời hippie của dì diễn ra một cách vừa phải. Dì không dùng ma túy loại nặng, cùng lắm là uống trà cần sa nhưng cũng không thích thú gì, tác dụng chủ yếu của nó là làm dì đói bụng. Tâm hồn phê phê của dì không có đủ thì giờ để tung cánh bay đến chân trời mới, vì Harriet liên tục bận tống thức ăn cho đầy dạ dày. Dì sống chung với một cô gái khác, Cornelia, cô này hơn tuổi dì một chút, tính tình nghiêm nghị và rất nhút nhát. Tuyệt đối không tiếp đàn ông. Mà cũng đâu có nhiều đàn ông. Đột nhiên một gã sinh viên ngành Y xuất hiện, Friedrich Quast. Mới cách đây mấy năm dì Inga kể cho tôi nghe về anh ta, vào một buổi tối, khi dì chỉ cho tôi xem các chân dung của Bertha, có lẽ giọng kể mê hồn và bản tính sục sôi của dì Inga khiến tôi tưởng tượng ra chuyện tình của Harriet trong những màu sắc vô cùng nóng bỏng. Friedrich Quast là một chàng trai tóc đỏ, da trắng với đôi chỗ xanh nhợt. Chàng kiệm lời, kín đáo. Chỉ đôi bàn tay đầy tàn nhang của chàng là sinh động, tự tin, và biết rõ phải đến đâu, và quan trọng là: biết phải làm gì khi đến đó. Harriet mê muội, nó khác hẳn với cách sờ mó hấp tấp, vụng về, dù chứa đầy cảm xúc của những chàng trai trước đó. Dì nhìn thấy chàng lần đầu tại một bữa liên hoan của cô bạn gái, chàng sống cùng nhà với em cô kia. Chàng đứng hờ hững bên lề, quan sát khách khứa. Harriet thấy chàng ngạo mạn và xấu trai. Chàng cao, gầy, mũi vừa dài vừa cong như mỏ chim. Chàng dựa vào tường, tựa như không thể đứng vững trên cặp cẳng sếu. Lúc Harriet ra về, chàng đang đứng hút thuốc ở tầng dưới, cạnh cửa ra vào. Không nói một câu, chàng mời dì một điếu, và Harriet cầm lấy vì tò mò và thấy được chú ý. Nhưng khi chàng châm lửa cho dì, bàn tay chắn gió chạm vào má dì, mà chàng cũng không thèm chứng tỏ sự động chạm đó là vô tình, thì đầu gối dì lập tức mềm nhũn. Dì kéo chàng về cùng, đúng ra là lúc dì đi thì chàng cứ thế đi theo. Cả hai đều hiểu chàng không định lịch thiệp tiễn dì về nhà. Hôm đó là thứ Sáu, Cornelia ở nhà bố mẹ như mọi cuối tuần. Friedrich Quast và Harriet ở lại hai đêm và hai ngày trong căn hộ của Harriet. Lúc đóng bộ vào Friedrich ít nói, hờ hững bao nhiêu thì lúc trần truồng bên cạnh Harriet trên giường chàng hừng hực, bay bổng bấy nhiêu. Đôi bàn tay tuyệt đẹp của chàng vuốt ve, co kéo, cày xới và bấu véo một cách quyết liệt cơ thể dì khiến dì ngừng thở. Có vẻ như chàng thạo cơ thể dì hơn chính dì. Friedrich liếm láp, đánh hơi và dò xét mọi thứ trên người dì với một nỗi tò mò, thích thú không thể so sánh với niềm vui tìm tòi của một đứa trẻ, mà phải gọi đó là sự tập trung đầy khoái lạc của một người sành điệu. Harriet luôn ghi sâu những ngày cuối tuần đó như một khóa học mà dì học được nhiều nhất về chính mình. Sự giải phóng tình dục của dì không liên quan nhiều đến thập kỷ sáu mươi bằng hai ngày hai đêm đó. Những lúc dì và Friedrich Quast không ngủ với nhau thì họ ăn bánh mì và táo. Harriet luôn trữ táo trong nhà. Friedrich hút thuốc. Họ chẳng nói nhiều. Mặc dù chàng học Y nhưng họ cũng không đả động đến chuyện tránh thai. Thậm chí Harriet còn quên hẳn đề tài đó. Chiều chủ nhật Friedrich Quast ra khỏi giường, găm một điếu thuốc vào môi, mặc quần áo rồi cúi xuống Harriet đang ngạc nhiên nhìn lên. Chàng nhìn vào mắt dì, nói là phải đi, hôn lên môi dì rất nhanh nhưng nồng nàn, rồi đi mất. Harriet nằm lại, không thấy bất ổn gì lắm. Dì nghe tiếng Cornelia vào cầu thang. Nghe hai người dừng chân một lát, lầm bầm gì đó, rồi tiếng Friedrich rảo cẳng đi xuống và một hồi lâu sau mới thấy bước chân Cornelia từ tốn lên thang. Có vấn đề, Harriet nghĩ, có vấn đề rồi. Và quả thật, ngay sau đó có tiếng gõ cửa. Cornelia kinh hoàng nhìn thấy Harriet trên giường, giữa thanh thiên bạch nhật, đầu bù tóc rối, má ửng hồng, mắt thâm quầng nhưng lấp lánh, môi đỏ như một vết thương. Mùi khói thuốc cùng nhục dục giáng vào Cornelia như một nhát búa, cô mấp máy mấy lần, nhìn Harriet gần như căm hận trước khi đóng cửa đi khỏi. Harriet cảm thấy tệ hại, nhưng không tệ hại như dì vẫn tưởng. Nhưng tâm trạng của dì thì tệ hại, rồi sau đó còn tệ hại hơn dì vẫn tưởng, khi Friedrich hôm sau và cả hôm sau nữa không quay lại. Cả cuối tuần tiếp theo dì lại nằm trên giường, lần này cô đơn và bất hạnh vô biên, khiến Cornelia lo lắng, suýt nữa thì mong chàng trai kia xuất hiện trở lại. Một tuần nữa trôi qua, đến lúc này Harriet đã hỏi được chàng ở đâu và viết cho chàng hai lá thư, thì tối thứ Bảy chàng nhấn chuông cửa nhà dì. Khi nhận ra ai đứng đó, dì nôn thốc tháo. Friedrich đỡ gáy dì, đưa dì trở lại giường, mở cửa sổ, thổi khói thuốc ra ngoài và đợi cho đến khi mặt dì có lại thần sắc. Rồi chàng đến với dì, đặt tay lên ngực trái. Harriet thở gấp gáp. Chàng ở lại đến sáng sớm thứ Hai. Vì nỗi đau mà dì phải chịu đựng hai tuần liền nên tất cả đều máu lửa hơn lần đầu. Harriet hiểu ra tại sao đam mê có tên như thế. Lúc chàng đi, Harriet hỏi với giọng đầy sợ hãi, liệu chàng có quay lại. Friedrich thoáng gật đầu rồi biến mất. Lại hai tuần liền bặt tin. Harriet cố giữ bình tĩnh nhưng không nổi, mỗi ngày trôi qua là dì lại rã rượi thêm, cứ mỗi khi cố gắng kiếm được một chỗ bám vào thì một chỗ khác lại lở ra. Điểm học tập của dì sút hẳn. Cornelia đề nghị dì kiếm chỗ ở khác. Bố mẹ thì trách móc vì dì trượt một kỳ thi. Dì gầy rộc, tóc xỉn đi. Khi chàng quay lại vào hai tuần sau, Cornelia đứng chắn cửa phòng dì và nói to, tuần sau cô sẽ ở chung với một bạn gái khác. Vì đang giữa kỳ thi nên cô phải ở lại cả cuối tuần ở Gottingen và cần yên tĩnh. Harriet ngượng, nhưng niềm vui tái ngộ Friedrich lớn hơn. Dì hỏi chàng có muốn đến ở cùng, và Friedrich gật đầu. Một vụ bê bối. Khi hay tin, Hinnerk nổi lôi đình, tuyên bố sẽ viết lại di chúc, ông từ mặt Harriet. Dì đừng có mà ló mặt về nhà. Kể cả vào dịp lễ Giáng sinh. Friedrich sống ở chỗ Harriet, nhưng có thể gọi là hai người thực sự chung sống? Chàng ngủ ở đó, có vài bộ quần áo để thay trong cái tủ của Cornelia. Nhưng sách vở, đồ đạc, tranh ảnh, bút, chăn gối, nghĩa là tất cả những gì thuộc về cuộc sống thì chàng không khi nào đem đến đây. Harriet bức xúc, nhưng Friedrich nói, chàng đâu có cần gì thêm. Thậm chí có lần Harriet bí mật mò đến chỗ người bạn từng chung sống với Friedric dạo nọ, nhưng anh ta không còn ở đấy. Anh ta đã học xong, quay về Sauerland để làm việc tại hãng của cha. Không ai trong nhà biết gì cụ thể về Friedrich Quast. Khi Harriet hỏi chàng để đâu các đồ đạc còn lại thì chàng đáp, sách của chàng cất trong một phòng nhỏ ở khoa Y, nơi chàng đang phụ trách một khóa học cho sinh viên mới. Còn các thứ khác? Cất tạm ở nhà bạn gái của mẹ chàng. Harriet ghen. Dì nghi mình không phải người phụ nữ duy nhất mà Friedrich đi lại. Mặc dù Friedrich thực sự thường xuyên ở chỗ dì và khi đó họ luôn ngủ với nhau, Harriet vẫn càng ngày càng tin là chàng nhất định có bạn gái khác. Khi thì một mùi lạ, khi thì chàng tức tốc ra đi sau khi liếc trộm đồng hồ. Harriet nhắm mắt. Và bay. Một lúc nào đó, dì mở mắt trở lại để xác định rằng mình bị bỏ rơi giữa chuyến bay. Đúng lúc bụng mang dạ chửa. Friedrich nhận ra điều đó còn trước cả dì. Đúng, dạo này dì hay bị chảy máu răng, có lần còn viêm lợi. Dì cũng thấy mình hay mệt, nhưng đó là vì những đêm trắng chỉ để làm tình với Friedrich chứ không để ngủ. Và vì bay. Dì không nhận ra ngực mình căng hơn, tuy có cảm thấy gì đó nhưng chẳng nghĩ ngợi gì thêm. Friedrich không nói gì, chỉ nhìn dì, hỏi về chu kỳ kinh. Harriet ngái ngủ nhún vai và nhắm mắt. Đêm hôm đó chàng đánh thức dì, nằm lên lưng dì, âu yếm mà quyết liệt chiều dì từ phía sau rồi bỏ đi ngay đêm ấy. Lúc đó Harriet chưa thấy điềm gì bất an. Cũng mệt, nhưng nào có gì ghê gớm. Khi ngó vào tủ chàng, dì thấy cả mấy thứ quần áo ít ỏi cũng không còn đó nữa, và dì nôn thốc tháo. Nhưng cảm giác buồn nôn ấy không mất đi nữa. Dì nôn buổi sáng, trưa, tối và cả ban đêm. Trong lúc quỳ trước bồn cầu trong phòng tắm, dì chợt nhớ lại câu hỏi cuối cùng của chàng. Harriet nhắm mắt thật chặt như có thể, nhưng dì không bay nữa. Dì hy vọng chàng sẽ quay về, nhưng dì chẳng tin. Và cái khả năng mà dì gọi là cảm nhận trực giác ấy đã không lừa dì. Hai thập kỷ trôi qua, Rosmarie chết đã năm năm, có lần Inga đi ngang một phòng mạch ở Bremen. Dì đọc tên trên biển theo thói quen chứ không quan tâm. Và khi đi đến ngã tư thì dì chợt nhớ lại cái tên trên biển. Dì quay lại. Quả nhiên: Bác sĩ Friedrich Quast, chuyên khoa tim. Dĩ nhiên. Chuyên gia về tim, Inga nghĩ bụng, xì mũi khinh bỉ, định di tiếp. Nhưng dì nghĩ lại và gọi điện cho cô em gái Harriet. Khi cái bụng to lên, dì Harriet không hề tuyệt vọng khi hiểu ra là sẽ một mình nuôi một đứa con không giá thú. Một lúc nào đó dì hết nôn ọe. Dì làm bài thi, thậm chí với kết quả tốt. Những ánh mắt và lời xì xào của các bạn chẳng làm dì bận tâm như dì tưởng, và người ta cũng không xì xào nhiều như dì tưởng. Chỉ khi dì tình cờ gặp Cornelia ngoài phố và cô ta, sau khi nhìn bụng dì đầy ẩn ý, lắc đầu đi thẳng, thì dì vào một tiệm cà phê ngồi khóc. Dì thu hết can đảm viết thư cho bố mẹ, cũng chẳng ngờ là câu trả lời lại như thế. Bertha viết cho con gái, bà mong Harriet về nhà. Bà đã nói chuyện với Hinnerk, và ông không sung sướng gì chuyện này. Nhưng - và đây là lần đầu tiên trong đời Bertha nêu ra luận cứ chống lại chồng mình - nhưng ngôi nhà không chỉ thuộc về Hinnerk, mà trước hết cũng là nhà của Bertha, là nhà của bố mẹ và đủ rộng cho con gái lẫn cháu ngoại. Harriet trở về Bootshaven. Khi Hinnerk nhìn thấy bụng dì, ông quay phắt về phòng làm việc, ở đó đến hết ngày. Nhưng ông không nói gì cả. Bertha đã thắng. Sẽ không ai được biết cái giá của bà phải trả cao chừng nào. Trong thời gian Harriet mang thai, người bố không nói một câu duy nhất với con gái mình. Bertha làm như không thấy gì và hàn huyên với cả hai, nhưng tối đến là bà chóng mệt, mái tóc vàng của bà bung khỏi búi tóc giả, trông bà kiệt quệ. Nhưng con gái út của bà không thấy điều đó, giờ đây dì lui hẳn vào cái vỏ ốc của mình. Sáng sớm dì ngồi ở phòng ngày xưa của mình và dịch. Nhờ sự móc nối tận tâm của một giáo sư rất tin tưởng vào dì - hay đơn giản chỉ là thương hại - dì liên hệ được với một nhà xuất bản chuyên làm tiểu sử. Loại sách này hợp với dì, và dì dịch thoăn thoắt. Dì gõ mười ngón trên cái máy chữ Olympia màu xám trong căn phòng áp mái, giữa chồng từ điển và tự vị, làm tái hiện những cuộc đời người lạ trong một ngôn ngữ mới. Bữa trưa dì xuống nhà. Mẹ và con gái cùng ăn trong bếp. Từ khi Harriet về nhà, Hinnerk ở lại văn phòng buổi trưa. Harriet rửa chén đĩa, còn Bertha ra nằm sofa ở phòng khách. Xong xuôi, Harriet lại làm việc, nhưng chỉ làm đến nửa buổi chiều. Khoảng bốn giờ thì dì nghỉ, trùm một cái túi nhựa mềm lên máy chữ, đẩy ghế vào. Lúc này dì đã bắt đầu uể oải, lần từng bước xuống thang. Nghe tiếng chân con gái là Bertha bỏ dở chỗ đậu đang nhặt, đặt giỏ quần áo xuống đất hay bỏ việc ghi chép sổ chi tiêu. Bà im bặt, lắng nghe và đưa tay lên cổ. Đôi khi một tiếng nấc khan lọt ra từ họng bà. Tất cả những động thái đó đều không vào mắt Harriet. Đã cuối hè. Dì chậm chạp ra vườn, vớ cái cuốc và dẫy cỏ trên luống. Đã thấy khó cúi lưng. Nếu dì không dạng rộng chân để có chỗ cho bụng thì nó sẽ gây tức thở và đau. Dù vậy Harriet vẫn nhổ cỏ dại. Từng ngày. Từng luống. Xong xuôi, dì quay lại từ đầu. Cả những hôm trời mưa dì ra bãi thả bò, ở đó chỉ có dây phơi quần áo, và lội qua thảm cỏ mọc cao, ra tận mấy luống mâm xôi để hái quả. Những giọt mưa khiến quả mâm xôi đen trông to ra, trĩu nặng và mềm. Nước mưa và nước quả chảy vào tay áo Harriet, cứ hái một quả là bụi cây lại rung lên như một con chó bị ướt. Sau một, hai tiếng trong vườn, dì ngồi lên chiếc ghế gấp cũ dưới mái hiên, dựa đầu vào tường nhà mà ngủ. Chuồn chuồn bay trên đầu dì, ong nghệ vướng vào lọn tóc đỏ của dì, nhưng Harriet chẳng cảm thấy gì. Dì không bay, không mơ, mà ngủ như chết. Bù lại thì đêm đến dì khó chợp mắt. Phòng áp mái nóng như thiêu, đắp chăn cũng nóng, mồ hôi rịn ra dưới bầu vú, cái bụng to cũng nóng. Không nằm sấp được. Nằm ngửa thì chóng mặt. Nằm nghiêng một lát thì các khớp bị đè đau ở đầu gối, hông và vai. Đã thế lại chẳng biết để tay bên dưới vào đâu, nó tê dại rất khó chịu. Đêm nào Harriet cũng dậy, nặng nề xuống tầng dưới đi vệ sinh. Nhưng khi bắt đầu đi hai lần mỗi đêm thì dì phải dùng cái bô đã từng dùng lúc còn bé, khi đường xuống tầng dưới còn quá xa, quá dốc và quá lạnh. Một khi đã dậy rồi thì Harriet không quay về giường ngay, cửa sổ mở, nhưng khí lạnh buổi đêm chỉ miễn cưỡng tràn vào các phòng tầng trên. Harriet ra đứng trước cửa sổ, gió đêm thổi phồng chiếc váy ngủ của dì tựa một cánh buồm lớn. Rosmarie có lần nghe Harriet kể lại rằng người làng đi dưới phố đã nhìn thấy một bóng ma trắng lởn vởn trên tầng áp mái. Nhất định đó là Harriet. Dì không bao giờ rời mảnh đất này, do đó một số người làng không hề biết là dì lại trở về. Tất nhiên đa số người làng đều thông tỏ mọi chuyện, cả về tình trạng của dì, miệng lưỡi thiên hạ mà. Hồi ấy bắt đầu xảy ra chuyện các cuốn sách trong tủ sách dưới mái nhà hoán đổi vị trí. Cứ vài tháng một lần. Đột nhiên tất cả sách đổi chỗ, và lần nào người ta cũng có cảm giác là chuyện đó không hề tùy tiện, mà theo một hình mẫu nhất định. Có lần chúng tôi cho rằng hình dạng cuốn sách mang tính quyết định, lần khác lại là bìa sách, đôi khi chúng tôi nhận thấy các tác giả đứng sát nhau hình như có điều gì muốn nói với nhau, lần khác thì các tác giả lại thù ghét, khinh bỉ nhau. Nhưng Harriet chẳng bao giờ thú nhận. - Mẹ làm thế để làm gì? - Dì hỏi con gái dì và tôi, trong khi nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên trìu mến. - Làm gì còn ai khác? Chúng tôi vặn lại. - Mẹ vẫn bay trong khi ngủ còn gì nữa. Rosmarie cố dồn. Harriet cười vang: - Ai kể cho bọn mày chuyện ấy vậy! Dì lại cười, lắc đầu rồi ra khỏi phòng. Thú thật tôi vẫn tự hỏi, ai là người đổi chỗ các cuốn sách. Hay đó là Bertha, mỗi khi bà từ nhà dưỡng lão về thăm nhà? Nhưng lúc này tôi quỳ trước bàn giấy ở tầng dưới của ông ngoại đã khuất núi và rất áy náy vì đã tìm ra cuốn sổ mà ông chép thơ trước đây hơn bốn thập kỷ. Tôi đặt nó lại chỗ cũ. Để dành cho lần khác. Bây giờ tôi phải ra chuồng gà. Ở Tôi lấy cái túi xanh có ví tiền trong đó và đi. Ở đầu làng có một cửa hiệu vật liệu xây dựng rất lớn. Tôi không khóa xe, đi vào cửa hàng và nhặt ngay một thùng sơn loại to, kể ra hai thùng thì tốt hơn nhưng tôi đi xe đạp nên không mang được nhiều, mà ngay đến một thùng cũng còn khó biết sẽ chuyên chở ra sao. Tôi lấy thêm một con lăn sơn, một chai dung dịch rồi ra quầy thu ngân, cô nhân viên dường trạc tuổi tôi, chăm chú quan sát tôi rồi nhếch mép. Tôi cầm mấy thứ đồ, rảo chân ra khỏi cửa hàng. Mãi tới lúc định kẹp thùng sơn lên giá đèo hàng và gấu áo dài bị vướng vào xích, tôi mới ngộ ra thái độ hỗn hào của cô nhân viên thu ngân. Tôi vẫn mặc chiếc áo dài kim tuyến, và cái gấu áo rách bươm, đã thế lại còn dính nhoe nhoét dầu, điều đó không làm tăng thêm sự tự tin, phấn chấn của tôi. Tôi nhồi con lăn sơn cùng chai dung dịch vào túi, đeo chéo qua vai, quấn tà áo dài và giắt vào gấu quần lót cho đỡ dài. Khi tôi lên chiếc xe đạp nam, suýt nữa thùng sơn nặng tụt khỏi giá đèo hàng. Tôi vừa vặn kịp đỡ nhưng xe loạng choạng suýt đâm phải một ông khách đang đi tới. Ông ta gọi với theo, nghe như có tiếng “ngáo đá”. Có lẽ ông ta cho rằng tôi ngồi xếp bằng tròn cả ngày trong nhà để xe với bồ để hít hết thùng sơn hai chục lít này đến thùng khác. Tôi bực bội quàng tay ra sau, ấn chặt thùng sơn lên giá đèo hàng rồi đi một tay về nhà, người mướt mát mồ hôi. Trước khi về đến nhà, tôi rẽ phải vào phố nhà Max, định hỏi xem có còn hồ sơ của ông ngoại lưu trữ dưới tầng hầm văn phòng. Thực ra thì tôi muốn gặp lại anh, vì suy nghĩ cả đêm không đem lại kết quả nào khác. Quai túi lúc này xiết vào cổ khá đau. Cái túi thì quăng đi quật lại giữa hai đầu gối, trong khi tà áo dài dần dần tuột khỏi gấu quần lót, mắc vào xích. Nhưng tôi không thể làm gì được vì một tay giữ thùng sơn còn tay kia nắm ghi đông. Rồi thì cũng chẳng đáng để tâm nữa, vì đúng lúc tôi đến chỗ Max thì bị một con dĩn bay vào mắt. Xót không chịu nổi. Tôi chẳng nhìn thấy gì nữa vì nước mắt tuôn ra dào dạt. Có chiếc ô tô đỗ chình ình bên lề phải, có được phép đỗ ở đó không nhỉ? Hình như được. Nhưng dù được hay không thì tôi cũng đâm vào nó. Tay buông thùng sơn, thả cả ghi đông, xe ngoẹo đi, trước đó sơn đã đổ túa xuống đường, và trước khi tôi kịp rú lên kêu cứu thì cái túi đựng chai dung dịch nặng trĩu đã đập vào mặt chủ nó. Tôi im bặt. Ít nhất thì nó cũng không quật tôi lăn xuống đất, vì tôi đã tiếp đất từ trước. Lúc này toàn bộ những gì trong thùng sơn bị vỡ toác đã đổ hết ra đường và vào cả tai tôi đang áp lên nền đất. Không sao nhỏm dậy được, vì chân tôi cùng cả cái túi đã móc vào xe đạp, chưa kể chiếc áo dài đã từng rực rỡ kim tuyến. Tôi không có ý định nằm ăn vạ ra đó, tôi muốn định thần, sắp xếp lại tứ chi rồi đẩy xe mấy bước còn lại về nhà. Đúng lúc ấy có tiếng chân bước đến sát tai phải. Tai trái thì điếc đặc vì đầy sơn trắng. - Iris? Iris, chị đó hả? Tiếng ai đó vang lên đâu đó bên trên tôi. Giọng Max. Tôi có cảm giác là mình đang trong tư thế không lấy gì làm mỹ mãn lắm và đã định kể lể dài dòng để giải thích, nhưng thực tế là tôi òa khóc. May thay, nhờ vậy con dĩn bị trôi ra khỏi mắt, tôi không còn phải hấp háy như lên cơn động kinh nữa. Trong lúc đầu óc tôi còn luẩn quẩn ý nghĩ đó và nhiều chuyện nữa, Max gỡ áo dài móc vào xe, tháo dây túi khỏi ghi đông. Anh dựa xe vào bụi cây hàng rào rồi quỳ xuống cạnh tôi. Nếu tôi đợi anh lúc này bế xốc tôi lên với cánh tay lực lưỡng đi trong hoàng hôn thì lầm to. Cũng có thể anh không muốn cái sơ mi xanh tuyệt đẹp bị lấm sơn trắng. Tôi cố đứng dậy, và cũng chẳng khó khăn gì, khi không còn vướng vào xe đạp nữa. - Chị đứng thẳng lên được không? Đau chỗ nào? Chỗ nào cũng đau. Nhưng tôi đứng thẳng lên được. Anh đỡ cùi tay tôi và đưa tôi vào vườn, sau khi ném thùng sơn rỗng tuếch vào thùng rác. - Ngồi xuống đi, Iris. - Nhưng tôi… - Không “nhưng” gì sất. Giờ thì không. Anh nhếch mép mỉm cười, nhưng nhìn mắt anh tôi biết anh lo lắng. - Max, để tôi vào phòng tắm gột mấy thứ này đi, trước khi nó ăn sâu vĩnh viễn vào da. Có vẻ như câu đó - không đi kèm tiếng nức nở và mắt hấp háy như động kinh - khiến anh yên tâm. - Được, đợi chút, tôi đi cùng. - Để làm gì? - Khổ quá, Iris, đừng bày trò nữa. Tôi ngồi trên nắp bồn cầu và để anh làm. Anh lau tai và má tôi rất nhẹ nhàng, dịu dàng, khiến tôi lại trào nước mắt. Max xin lỗi đã làm tôi đau. Tôi lại càng khóc to hơn. Anh thả miếng bọt biển, quỳ xuống sàn gạch men và ôm tôi. Đó cũng là lúc chiếc sơ mi xanh xinh đẹp của anh hy sinh. Tôi khóc thêm một chút trong khi dụi đầu vào cổ áo anh, nhưng chỉ vì ở đó có mùi thơm, nói chung rất dễ chịu. Rồi anh xem xét các vết trầy ở đầu gối và bàn tay. Mặt tôi không bị xước nhờ được cái túi che chở, chai dung dịch cũng còn nguyên. Sau đó anh ra ngoài, tôi bật vòi sen để gột chỗ sơn trắng còn dính trên tóc bằng dầu gội của đàn ông. Lúc tôi vận chiếc áo choàng xanh của đàn ông quay ra sân - chiếc áo kim tuyến đã hoàn toàn thay hình đổi dạng - anh đang nằm đọc báo trên ghế dựa. Cạnh anh là một chồng hồ sơ lớn. Tất nhiên, hôm nay là một ngày làm việc bình thường. Chẳng hiểu sao tôi đoán rằng anh ở nhà cơ chứ. - Sao anh không ở văn phòng? - Chị nên mừng là tôi ở nhà chứ. Đôi khi tôi đem giấy tờ về nhà. Anh cười, đặt tờ báo xuống và chăm chú quan sát tôi. - Màu sạch rồi, chỉ mặt chị vẫn chưa có màu cũ. Tôi chùi má. Max lắc đầu. - Không, ý tôi khác. Trông mặt chị nhợt nhạt quá. - Vì áo choàng của anh đó, màu không hợp với tôi. - Vâng, có thể. Hay chị thích mặc lại đồ cũ ban nãy hơn? Tôi nhún vai: - Được rồi, anh nói đúng, tôi thua, bằng lòng chưa? Tôi được phép ngồi chứ? Max đứng dậy, ấn tôi ngồi xuống ghế. Dễ thương quá. Tôi xấu hổ vì cái giọng càu nhàu vô cớ của mình và lại khóc. Max vội nói: - Không, đừng, Iris, ổn rồi mà, thật đấy. Xin lỗi, thật đấy, tôi xin lỗi. Chị rất dễ thương, còn tôi thì, tôi… Tôi lấy tay áo choàng của anh chùi mũi. -… còn tôi thì, khiếp quá, tôi chùi mũi bằng tay áo của anh! Max cười và nói, đúng là khiếp thật, và tôi nên nín đi, có lẽ nên uống ngụm nước đã để sẵn cho tôi trên bàn. Tôi làm như anh nói, ăn thêm cả hai miếng bích quy sô cô la cùng một quả táo. Max hỏi: - Chị mua sơn làm gì? - Để quét. - Thế hả. Anh nhìn tôi, tôi cười khúc khích. Nhưng rồi tôi nhớ đến hàng chữ trên chuồng gà và nghiêm mặt. - Anh biết không, ai đó viết chữ “Nazi” bằng sơn đỏ lên chuồng gà nhà tôi. Max ngửng lên. - Không, tôi không biết. - Và tôi định sơn chuồng gà. - Sơn cả chuồng? Với một thùng sơn? - Không. Nhưng cái giá đèo hàng của tôi chắc không tải nổi hai hoặc ba thùng, anh có nghĩ thế không? - Iris, sao chị không hỏi mượn ô tô của tôi hoặc nhờ tôi chở cho? - Max, làm sao tôi biết là anh đang ngả ngốn ở đây, thay vì tới văn phòng làm việc? Rồi tôi nói thêm: - Vả lại tôi đang trên đường đến nhà anh. Vừa nói tôi vừa rắn rỏi nhìn anh, hy vọng anh không nhận ra ngay rằng tôi đang sa chân vào những mâu thuẫn kì quái. Max nhăn trán, còn tôi hấp tấp nói tiếp: - Tôi muốn biết các anh còn tài liệu về ông tôi ở văn phòng nữa không. Một tay Nazi đã viết chữ đó, hay ai đó định buộc tội chúng tôi là Nazi? - Hiểu rồi. Tôi sẽ tìm xem. Dưới tầng hầm có mấy thùng bìa cứng của ông già để lại. Nhưng nếu có chi tiết nhạy cảm nào trong đó thì chắc chắn ông chị không cất giữ ở chỗ chúng tôi. - Đúng đấy. Vậy chỉ còn cách thú nhận là tôi muốn tới gặp anh. Max bối rối nhìn tôi. - Chị định nói mỉa tôi, hay định tán tỉnh tôi? - Tôi không nói mỉa: Anh đã cứu tôi, tôi đã dùng dầu gội đầu đàn ông của anh và xì mũi vào áo choàng tắm của anh, tôi còn nợ anh nhiều lắm. - Vậy là chị tán tỉnh tôi, Max đăm chiêu nói, được đấy. Anh gật đầu. """