"
Vào Trong Dòng Nước - Paula Hawkins & Huyền Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vào Trong Dòng Nước - Paula Hawkins & Huyền Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Dành tặng mọi kẻ phiền phức
Từ rất trẻ tôi đà nứt toác.
Có những điều nên mặc gió cuốn đi
Có những điều lại đừng nên làm thế
Là điều gì thì tùy ý từng người
Trò Xổ số, Emily Berry
Giờ ta đã biết rằng ký ức không cố định cũng không bị đóng băng, giống như những lọ mứt trong chạn của Proust, mà bị biến đổi, bị phân rã, bị tái tập hợp, và tái phân loại lại theo mỗi lần hồi tưởng. Ảo giác, Oliver Sack
Vũng Sông Chết đuối
Libby
“Lại lần nữa đi! Lại lần nữa đi!”
Đám đàn ông trói cô lại lần nữa. Lần này khác: ngón cái bàn tay trái với ngón cái bàn chân phải, ngón cái bàn tay phải với ngón cái bàn chân trái. Dây thừng thắt quanh eo. Lần này, họ mang cô vào trong dòng nước.
“Xin làm ơn,” cô bắt đầu cầu xin, bởi vì cô không chắc có thể một lần nữa đối mặt với nó, làn nước đen cùng cái lạnh giá. Cô muốn quay trở về với mái ấm đã không còn tồn tại nữa, quay trở về cái thời cô cùng người dì còn ngồi trước lò sưởi kể chuyện cho nhau nghe. Cô muốn ở trên giường của cô trong ngôi nhà nhỏ của hai dì cháu, cô muốn trở về thời thơ ấu, muốn được hít mùi khói củi, mùi hoa hồng cùng hơi ấm ngọt ngào từ làn da dì.
“Xin làm ơn.”
*
Cô chìm xuống. Đến lúc họ lôi cô lên lần thứ hai, môi cô đã tím tái, còn hơi thở cô đã tắt vĩnh viễn.
PHẦN MỘT
*Jules*
2015**
Chị có chuyện cần nói với em, phải không? Chị đang cố nói với em chuyện gì? Em có cảm giác đã trôi khỏi cuộc trò chuyện này lâu lắm rồi. Em đã mất tập trung, em mải nghĩ đến vấn đề khác, chuyện này chuyện kia, em đã không lắng nghe, và em đã đánh mất mạch chuyện. Thế đấy, giờ thì em đã chú ý rồi đây. Chỉ có điều, em không thể thôi nghĩ rằng em đã bỏ lỡ mất vài điểm quan trọng.
Khi họ đến báo cho em, em đã tức giận. Ban đầu thì nhẹ nhõm, vì khi hai sĩ quan cảnh sát xuất hiện trên ngưỡng cửa nhà ta đúng lúc ta đang tìm vé tàu, chuẩn bị chạy ra khỏi cửa đi làm, ta sẽ lo sợ điều tệ hại nhất. Em lo cho người em quan tâm - bạn bè em, người yêu cũ của em, đồng nghiệp em. Nhưng chuyện không phải về họ, người ta bảo thế, chuyện là về chị. Vậy nên em thấy nhẹ nhõm, chỉ trong thoáng chốc thôi, và rồi sau đó họ kể cho em nghe chuyện đã xảy ra, điều chị đã làm, họ bảo em rằng chị đã ở trong dòng nước và thế rồi em giận điên lên. Giận dữ và sợ hãi.
Em nghĩ mãi không biết sẽ nói gì với chị khi em đến đó, làm sao em lại biết chị hành động thế này là cốt để chọc giận em, để khiến em bất an, dọa cho em sợ, để đập nát cuộc sống của em. Để khiến em chú ý, để lôi em quay trở về nơi chị muốn. Và được rồi đấy, Nel, chị đã thành công: em đã ở đây, nơi em không bao giờ muốn quay lại, để chăm sóc con gái chị, để dọn dẹp mớ bòng bong chết tiệt của chị.
THỨ HAI, NGÀY 10 THÁNG TÁM***Josh*
Cái gì đó đã đánh thức tôi. Tôi rời khỏi giường đến phòng vệ sinh và để ý thấy cửa phòng bố mẹ đang mở, và khi ngó vào tôi thấy mẹ không ở trên giường. Bố vẫn đang ngáy như mọi khi. Đồng hồ báo thức radio cho biết giờ đang là 4:08. Tôi nghĩ chắc mẹ đang ở dưới nhà. Mẹ thường khó ngủ. Giờ cả hai đều thế, nhưng bố tôi uống thuốc liều mạnh đến độ ta có đứng ngay bên giường mà hét vào tai thì ông ấy cũng chẳng thèm tỉnh dậy.
Tôi rón rén xuống cầu thang và thường thì tình hình sẽ là mẹ đang bật ti vi xem mấy quảng cáo chán ngắt về các loại máy móc giúp ta giảm cân hay lau sàn nhà hay thái rau củ theo đủ các cách khác nhau và rồi sau đó mẹ sẽ ngủ thiếp đi. Nhưng ti vi không bật, mẹ cũng không trên sofa, vậy nên tôi biết chắc hẳn mẹ đã ra ngoài rồi.
Mẹ đã làm thế vài lần - ít nhất theo tôi biết là thế. Tôi đâu thể lúc nào cũng theo dấu vị trí của tất cả mọi người chứ. Lần đầu tiên, mẹ bảo tôi mẹ chỉ ra ngoài đi dạo cho thoải mái đầu óc, nhưng rồi sau đó có một sáng tôi thức dậy thì thấy mẹ đã đi đâu mất và lúc nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi thấy ô tô của mẹ đã không còn đậu trước nhà như thường lệ.
Tôi nghĩ có khi mẹ đi dạo ven sông hoặc thăm mộ Katie. Thỉnh thoảng tôi vẫn làm thế, tuy nhiên không phải là vào giữa đêm khuya. Tôi sợ đi trong bóng tối, thêm nữa tôi cứ cảm thấy chuyện đó thật kỳ dị, vì đó chính
là điều Katie đã làm: chị dậy giữa đêm đi ra sông và không quay trở lại. Tuy nhiên, tôi hiểu tại sao mẹ lại hành động như vậy: giờ đây đó là cách giúp mẹ có thể đến gần Katie nhất, thay vì có lẽ cứ ngồi trong phòng chị, một việc khác tôi biết thỉnh thoảng mẹ vẫn làm. Phòng Katie cạnh phòng tôi và tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ khóc.
Tôi ngồi xuống sofa đợi mẹ, nhưng hẳn tôi đã ngủ thiếp đi, vì lúc tôi nghe tiếng của mở thì trời bên ngoài đã sáng và khi tôi nhìn lên đồng hồ trên mặt lò sưởi thì đã là bảy giờ mười lăm. Tôi nghe tiếng mẹ đóng cửa ra vào lại sau lưng và rồi bước thẳng lên cầu thang.
Tôi theo mẹ lên tầng. Tôi đứng ngoài phòng ngủ, quan sát qua khe nứt trên cửa. Mẹ đang quỳ cạnh giường, bên phía bố đang nằm, mặt mẹ đỏ bừng, dường như vừa mới chạy. Mẹ thở hồng hộc, vừa gọi,“Alec, dậy đi. Dậy đi,” vừa lay người bố. “Nel Abbott chết rồi,” mẹ nói. “Họ tìm thấy cô ta trong dòng nước. Cô ta đã nhảy xuống.”
Tôi không nhớ là mình có nói gì, nhưng ắt hẳn tôi đã gây nên tiếng động gì đó, vì mẹ ngước lên nhìn tôi và lồm cồm đứng dậy. “Ôi, Josh,” mẹ nói, tiến lại phía tôi. “Ôi, Josh.” Nước mắt lăn dài trên mặt mẹ và mẹ ôm chầm lấy tôi. Khi tôi giằng người ra khỏi vòng ôm của mẹ, mẹ tôi vẫn đang khóc, nhưng mẹ cũng đang mỉm cười. “Ôi, con yêu” mẹ nói.
Bố ngồi dậy trên giường. Bố dụi mắt. Phải mất đến cả thế kỷ bố tôi mới tỉnh táo hẳn.
“Anh không hiểu. Khi nào… Em bảo là tối qua hả? Làm sao em biết?”
“Em ra ngoài mua sữa,” mẹ nói. “Ai cũng bàn tán chuyện đó… trong cửa hàng. Họ phát hiện ra cô ta lúc sáng nay.” Mẹ ngồi xuống giường và
lại bắt đầu khóc. Bố ôm mẹ nhưng đồng thời chăm chăm nhìn tôi và vẻ mặt bố có gì đó rất lạ.
“Mẹ đi đâu vậy?” tôi hỏi mẹ. “Mẹ đã đi đâu vậy?”
“Tới cửa hàng, Josh ạ. Mẹ vừa nói còn gì.”
Mẹ nói dối, tôi những muốn nói thế. Mẹ đã biến mất tận mấy tiếng đồng hồ, làm gì có chuyện mẹ chỉ đi mua sữa. Tôi những muốn nói thế, nhưng tôi không thể, bởi vì bố mẹ tôi đang ngồi trên giường nhìn nhau, và họ có vẻ vui mừng.
THỨ BA, 11 THÁNG TÁM**
*Jules*
Em vẫn nhớ. Trên ghế sau chiếc xe cắm trại, gối chất lên thành chồng ở chính giữa đánh dấu ranh giới giữa lãnh thổ của em và của chị, trên đường đến Beckford nghỉ hè, chị bồn chồn phấn khích - chị nóng lòng đến đó - em thì xanh rớt vì say xe, cố không nôn.
Tôi không chỉ nhớ lại chuyện đó, tôi còn cảm thấy nó. Chiều nay tôi cũng cảm thấy đúng cái cảm giác buồn nôn ấy, gò người trên vô lăng như một mụ già, lái xe nhanh và ẩu, đánh võng ra tận giữa đường khi rẽ, đạp phanh quá gấp, cố gắng quá đà để cứu vãn tình hình khi nhìn thấy những chiếc ô tô đang tới. Tôi lại có nó, cái cảm giác ấy, cứ nhìn thấy một chiếc xe tải trắng vùn vụt về phía mình trên một cung đường hẹp là lại nghĩ, Mình sẽ đánh tay lái, mình sẽ làm thế, mình sẽ ngoặt xe sang thẳng làn đường của nó, không phải vì tôi muốn mà vì tôi phải làm như vậy. Cứ như thể đúng vào phút cuối tôi sẽ mất hết tự chủ thật. Nó giống như cảm giác khi ta đứng trên rìa vách đá, hay trên mép sân ga, và ta cảm thấy một bàn tay vô hình nào đó đang đẩy ta về phía trước. Và nếu thế thì sao? Nếu tôi cứ dấn một bước về phía trước thì sao? Nếu tôi đánh tay lái thì sao?
(Xét cho cùng, em và chị cũng chẳng khác nhau nhiều lắm.) Điều khiến tôi băn khoăn là chẳng hiểu sao tôi lại nhớ rất rõ ràng. Quá rõ ràng. Sao tôi có thể hồi tưởng rõ mồn một những chuyện xảy ra từ
hồi tám tuổi mà lại chẳng thể nhớ nổi mình đã nói với đồng nghiệp chuyện không thể dời lịch họp với khách hàng tuần tới chưa? Chuyện muốn nhớ thì tôi không nhớ được, trong khi những chuyện tôi cố hết sức để quên thì cứ hiện về. Càng đến gần Beckford, nó lại càng trở nên không thể chối bỏ, quá khứ vọt về phía tôi như những con chim sẻ bay vụt khỏi hàng rào cây, khiến ta giật mình và không đường trốn tránh.
Tất thảy sự tươi tốt đó, màu xanh không thể tin nổi đó, màu vàng tươi rực rỡ của cây kim tước trên đồi, nó khắc sâu vào trí não em, mang theo một cuốn phim thời sự của ký ức: bố mang em, đương la hét và không ngừng vặn vẹo vì phấn khích, vào trong dòng nước, hồi em tầm bốn năm tuổi, chị nhảy từ trên bãi đá xuống sông, mỗi một lần lại trèo lên cao hơn, cao hơn nữa. Những chuyến picnic trên bờ cát cạnh vùng sông, vị kem chống nắng trên lưỡi em; vụ bắt con cá nâu béo mẫm trong dòng nước ngầu bùn lờ đờ chảy xuôi dòng từ Cối Xay. Chị về nhà máu chảy thành dòng trên chân sau một cú nhảy tính toán nhầm, cắn chặt một cái khăn bếp trong khi bố vệ sinh vết rách vì chị không muốn khóc. Không muốn khóc trước mặt em. Mẹ, đang mặc váy hè màu xanh nhạt, đi chân trần trong bếp nấu cháo ăn sáng, lòng bàn chân mẹ màu nâu sẫm. Bố đang ngồi trên bờ sông, vẽ phác họa. Sau này, khi chúng ta lớn hơn, chị mặc quần soác denim và áo bikini bên dưới áo phông, lẻn ra ngoài giữa đêm khuya để gặp một anh chàng. Không phải một anh chàng bất kỳ nào, là anh chàng đó. Mẹ, gầy hơn và yếu hơn, đang ngủ trên ghế bành trong phòng khách, bố đang dần khuất bóng trên những con đường đi dạo hun hút cùng với bà vợ phốp pháp trắng xanh đội mũ che nắng của ông cha sở. Em nhớ một trận bóng đá. Mặt trời bỏng rẫy trên mặt nước, mọi ánh mắt đổ dồn vào em; chớp chớp mắt ngăn dòng lệ, máu trên bắp đùi em, tiếng cười rung lên trong tai
em. Em vẫn nghe thấy nó. Và bên dưới tất cả, tiếng của dòng nước xiết. Tôi chìm đắm quá sâu vào trong dòng nước đó, đến độ không nhận ra mình đã tới nơi. Tôi đã ở đó, trung tâm thị trấn; nó xuất hiện trước mặt tôi đột ngột như thể tôi đã nhắm mắt lại và được đưa vào đến nơi, và tôi còn chưa kịp ý thức được gì thì đã thấy mình đang chậm rãi chạy xe xuyên qua những con đường nhỏ hẹp nườm nượp những chiếc xe hai cầu, lờ mờ đá hồng nơi rìa tầm nhìn, tiến về nhà thờ, tiến về cây cầu cổ, giờ thì đầy cẩn trọng. Tôi dán mắt vào con đường rải nhựa phía trước và cố không nhìn cây cối, không nhìn dòng sông. Đã cố không nhìn rồi, nhưng vẫn chẳng tài nào cưỡng lại được.
Em đỗ xe bên vệ đường và tắt máy. Em nhìn lên. Trước mắt em là cây cối và những bậc thang đá, xanh ngắt màu rêu và trơn trượt sau cơn mưa. Em nổi da gà khắp toàn thân. Em nhớ lại cảnh tượng này: cơn mưa buốt giá giội xuống lớp nhựa đường, những ánh đèn xanh nhoang nhoáng ganh đua với ánh chớp để chiếu sáng dòng sông và bầu trời, hơi thở phả ra thành từng đám khói trắng phía trước những khuôn mặt hoảng loạn, và một cậu bé, trắng bệch và run bần bật, được một nữ cảnh sát dắt qua những bậc thang lên đường cái. Cô cảnh sát nắm chặt bàn tay cậu bé, đôi mắt cô mở to hoang dại, đầu cô ngoẹo hết hướng này sang hướng khác khi cô hét gọi ai đó. Em vẫn có thể cảm thấy nguyên vẹn những cảm xúc tối hôm đó, nỗi kinh hoàng và sự mê hoặc. Em vẫn có thể nghe rõ lời chị nói văng vẳng trong đầu: Sẽ như thế nào nhỉ? Em có tưởng tượng được không? Khi phải chứng kiến mẹ mình chết?
Tôi nhìn sang chỗ khác. Tôi khởi động xe và quay trở lại đường cái, lái xe qua cây cầu nơi con đường nhỏ bắt đầu ngoằn ngoèo. Tôi dõi mắt tìm ngã rẽ - chỗ rẽ đầu tiên bên trái nhỉ? Không, không phải, ngã rẽ thứ hai.
Nó kia rồi, khối đá cũ kỹ khổng lồ màu nâu, Nhà Cối Xay. Cảm giác gai gai râm ran trên da tôi, mát lạnh và ẩm ướt, tim tôi đập dồn dữ dội, tôi đánh xe qua cánh cổng để mở vào lối xe trong nhà.
Một người đàn ông đứng ở đó, đang xem điện thoại. Một cảnh sát mặc cảnh phục. Ông ta bước nhanh về phía ô tô và tôi hạ kính cửa sổ xuống.
“Tôi là Jules,” tôi nói. “Jules Abbott. Tôi là… em gái chị ấy.” “Ồ.” Ông ta có vẻ lúng túng. “Vâng. Đúng rồi. Tất nhiên. Nghe này,” ông ta liếc mắt về phía ngôi nhà, “hiện giờ không có ai ở đây đâu. Con bé… cháu gái cô… con bé ra ngoài rồi. Tôi không biết đích xác là ở đâu…” Ông ta lôi điện đàm ra khỏi thắt lưng.
Em mở cửa xe bước ra ngoài. “Tôi vào trong nhà được chứ?” em hỏi. Em ngước nhìn lên ô cửa sổ để mở, nơi từng là phòng cũ của chị. Em có thể nhìn thấy chị vẫn đang ở đó, ngồi trên bậu cửa sổ, hai chân vắt vẻo bên ngoài. Chóng cả mặt.
Viên cảnh sát có vẻ không biết làm sao. Ông ta quay đi tránh mặt tôi, khẽ nói gì đó vào điện đàm rồi xoay người lại. “Được, không vấn đề gì. Cô cứ vào trong đi.”
Tôi lơ mơ leo lên bậc thềm, nhưng tôi nghe thấy tiếng nước và ngửi thấy mùi đất, đất trong bóng râm của ngôi nhà, bên dưới tán cây, ở những chỗ ánh mặt trời không chiếu tới, mùi hăng của lá mục, và thứ mùi ấy đã lôi tôi trở về quá khứ.
Tôi đẩy mở cửa trước, gần như trông ngóng sẽ nghe thấy giọng mẹ gọi với ra từ bếp. Không cần suy nghĩ, tôi biết mình sẽ phải huých hông đẩy cánh cửa khi nó hơi kẹt vào sàn. Tôi bước vào hành lang, đóng cửa lại sau lưng, hai mắt chật vật tập trung trong bóng tối, tôi rùng mình trước hơi
lạnh đột ngột.
Trong bếp, một cái bàn gỗ sồi kế bên dưới cửa sổ. Vẫn là cái cũ đó nhỉ? Nó trông cũng na ná, nhưng không thể có chuyện đó, từ hồi ấy đến giờ nơi này đã sang tay không biết bao nhiêu người. Nếu muốn biết chắc chắn, em có thể bò xuống dưới gầm bàn để tìm kiếm những dấu hiệu hai chị em mình để lại, nhưng chỉ cần nghĩ đến việc đó thôi nhịp tim em đã dồn dập hẳn lên.
Em nhớ lại cách nó bắt nắng buổi sáng, cảnh tượng chị ngồi ở phía bên trái bàn, đối diện bếp lò, chị bao trọn tầm nhìn ra cây cầu cổ, được đóng khung một cách hoàn hảo. Đẹp biết nhường nào, ai cũng nhận xét thế về quang cảnh ấy, nhưng chẳng ai từng nhìn cho ra nhìn. Họ chưa từng mở cửa sổ để nhoài người ra ngoài, họ chưa từng nhìn xuống cái bánh xe nước đang dần mục nát, họ chưa từng nhìn vượt quá ánh mặt trời đùa nghịch trên mặt nước, họ chưa từng thấy được dòng nước này thực sự là như thế nào, màu đen ngả lục và nhung nhúc cả vật sống lẫn vật chết.
Rời khỏi bếp, vào trong hành lang, qua cầu thang, tiến sâu hơn vào bên trong nhà. Tôi đụng phải nó đột ngột đến độ nó gần như ném tôi, đang ở bên cạnh khung cửa sổ khổng lồ trổ ra sông - vào trong dòng sông, như thể chỉ cần mở cửa sổ ra, nước sẽ tràn vào lênh láng khắp bệ ngồi rộng rãi bằng gỗ chạy dọc bên dưới.
Tôi vẫn nhớ. Suốt những mùa hè ấy, mẹ và tôi ngồi trên chiếc ghế cửa sổ đó, tựa người lên gối, hai chân gác cao, các ngón chân gần như chạm hẳn vào nhau, sách để trên đầu gối. Một đĩa đồ ăn vặt đặt đâu đó, mặc dù mẹ chẳng bao giờ động vào.
Tôi không thể nhìn thẳng vào nó; lại nhìn thấy nó như thế, tôi không khỏi cảm thấy au lòng, tuyệt vọng.
Lớp vữa trát tường đã bong tróc, để lộ lớp gạch trần bên dưới, và toàn bộ bài trí đều mang đậm dấu ấn của chị: những tấm thảm phương Đông trên sàn, đồ nội thất bằng gỗ mun nặng nề, sofa ngồn ngộn và ghế bành bọc da, cộng thêm thừa mứa nến. Và nhìn đâu cũng thấy bằng chứng những mối ám ảnh của chị: bản in những bức tranh lồng khung to tướng, Ophelia của Millais, xinh đẹp và thanh thản, mắt và miệng hé mở, hoa nắm trong tay. Nữ thần Hecate của Blake, Lễ Sabbath của các phù thủy của Goya, Con chó chết đuối cũng của Goya. Em ghét bức tranh đó nhất, con vật tội nghiệp vật lộn giữ cho đầu nhô lên khỏi mặt nước triều dâng.
Tôi nghe được tiếng chuông điện thoại, nó dường như vọng đến từ tầng dưới ngôi nhà. Tôi lần theo âm thanh ấy đi qua phòng khách xuống vài bậc thang - hình như ở đó trước đây từng có một phòng kho, chất đầy đồ tạp nhạp. Có một năm nó bị ngập nước và mọi thứ còn lại đều bị bọc trong bùn, như thể ngôi nhà đã biến thành một phần lòng sông.
Em bước vào căn phòng từng là studio của chị. Nó chất đầy đồ nghề máy ảnh, màn hình, đèn cây, hộp đèn, một cái máy in, giấy tờ và sách chống đống trên sàn, các tủ hồ sơ sắp hàng áp tường. Và ảnh nữa, tất nhiên. Các bức ảnh của chị, phủ kín từng phần vữa trát tường. Đối với một con mắt còn non, có vẻ như chị là một người hâm mộ các cây cầu: cầu Cổng Vàng, cầu sông Dương Tử thành phố Nam Kinh, cầu Prince Edward Viaduct. Nhưng nhìn lại đi. Nó không phải là về những cây cầu, nó không phải một tình yêu nào đó dành cho những kiệt tác xây dựng ấy. Nhìn lại mà xem, rồi ta sẽ thấy không phải chỉ có các cây cầu, mà còn có Mũi Đá Trắng, rừng Aokigahara, vách đá Preikestolen. Các địa điểm mà những con người vô vọng thường tới để chấm dứt hết thảy, những thánh đường của sự tuyệt vọng.
Đối diện với cửa vào, những hình ảnh về Vũng Sông Chết Đuối. Lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại, từ mọi góc độ khả dĩ, mọi điểm ngắm: nhợt nhạt và phủ băng trong mùa đông, vách đá đen nổi bật, hay đang lấp lánh giữa mùa hè, một ốc đảo, xanh tươi mơn mởn, hay xám xịt với những đám mây dông trên đầu, lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại. Những hình ảnh nhòe mờ rồi hòa lẫn làm một, một cuộc tấn công choáng váng vào thị giác. Tôi có cảm giác như tôi đã ở đó, giữa chốn ấy, như thể tôi đang đứng trên đỉnh vách đá nhìn xuống dòng nước, cảm thấy sự rộn ràng khủng khiếp ấy, cái cám dỗ của sự lãng quên.
Nickie
Trong số họ, có những người tự nguyện vào trong dòng nước, cũng có những người không, và nếu ta hỏi Nickie - nói thế không có nghĩa là sẽ có người hỏi, bởi vì chưa từng có ai làm thế - thì câu trả lời là Nel Abbott đã kháng cự. Nhưng sẽ chẳng ai đi hỏi bà, cũng sẽ chẳng ai thèm lắng nghe bà, vậy nên thật ra là có nói gì thì cũng chẳng quan trọng. Với cảnh sát thì lại càng không. Cho dù hồi xưa không dính phải các rắc rối với họ thì bà cũng không thể nói với họ về chuyện này. Quá mạo hiểm.
Nickie có một căn hộ bên trên cửa hàng tạp hóa, thực chất chỉ có một phòng, với một căn bếp tiết kiệm diện tích và một phòng tắm nhỏ tí hin đến độ gần như chẳng xứng được gọi như thế. Sống cả đời người mà chỉ có thế này thì cũng không có gì nhiều để nói, không có gì nhiều để khoe khoang, nhưng bà có một chiếc ghế bành thoải mái kê gần cửa sổ trông ra quang cảnh thị trấn, và bà vẫn lấy đó làm chỗ để ngồi, chỗ để ăn và thậm chí thi thoảng còn làm chỗ ngủ, bởi vì suốt dạo gần đây bà hiếm khi chợp mắt được, nên có vẻ có lên giường hay không cũng chẳng mấy quan trọng.
Bà ngồi quan sát hết thảy những kẻ đến người đi, và nếu không nhìn thì bà cảm nhận. Thậm chí, khi ánh đèn xanh còn chưa nhoáng lên trên cây cầu, bà đã cảm thấy một điều gì đó. Bà không biết đó chính là Nel Abbott, ban đầu thì không. Người ta những tưởng tận mắt thấy là rõ nhất, nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Điều duy nhất bà biết là ai đó lại đi bơi. Tắt đèn, bà ngồi đó quan sát một người đàn ông dắt chó chạy lên trên các bậc thang, rồi một chiếc xe trờ đến; không phải một xe cảnh sát đúng kiểu, chỉ là một chiếc thông thường, màu xanh sẫm. Hẳn là thanh tra Sean Townsend, bà nghĩ, và bà đã đúng. Anh ta cùng người đàn ông dắt chó
quay ngược xuống các bậc thang và rồi nguyên cả một đoàn xe cảnh sát kéo đến, đèn hiệu xoay nhoang nhoáng nhưng không hú còi. Không cần thiết. Không cần vội.
Hôm qua, lúc mặt trời lên, bà xuống nhà lấy sữa và báo, ai ai cũng đang bàn tán, ai ai cũng đang nói, lại một vụ nữa đấy, lần thứ hai trong năm nay, nhưng khi họ nói người này là ai, khi họ bảo lần này là Nel Abbott, Nickie đã biết vụ thứ hai không hề giống vụ thứ nhất.
Ngay lúc đó, bà đã chớm nảy ra ý định đến gặp Sean Townsend để kể cho anh ta nghe. Nhưng dẫu là một thanh niên trẻ tuổi lịch sự tử tế, anh ta vẫn cứ là cớm, và là con trai của bố anh ta, nên cũng không thể tin anh ta được. Nickie hẳn sẽ chẳng bao giờ cân nhắc đến chuyện này nếu không phải bà vốn có đôi chút cảm tình với Sean. Anh ta cũng là người từng phải trải qua thảm kịch và có Chúa mới biết còn những gì sau đó nữa, và anh ta luôn đối xử tử tế với bà - anh ta là người duy nhất đối xử tử tế với bà, hồi chính bà bị bắt giữ.
Bị bắt lần thứ hai, thành thật mà nói là thế. Chuyện xảy ra cũng tương đối lâu rồi, tầm sáu bảy năm về trước. Bà gần như đã buông bỏ hết công việc kinh doanh sau lần thứ nhất bị kết án lừa đảo, bà chỉ giữ mối giao thiệp với một vài khách quen và mấy người trong giới phù thủy thỉnh thoảng vẫn đến viếng Libby, May và tất cả những người phụ nữ của dòng nước. Đôi khi vào mùa hè bà cũng bói bài tarot, thực hiện vài ba buổi gọi hồn; thỉnh thoảng, người ta nhờ bà gọi hồn một người thân, hoặc một trong những người bơi. Nhưng bà không chèo kéo để kiếm tiền, không hề làm như thế suốt một thời gian dài.
Nhưng rồi người ta cắt các khoản trợ cấp của bà lần thứ hai, vậy nên Nickie đành phải rời khỏi tình trạng bán nghỉ hưu. Với sự giúp đỡ của một
chàng tình nguyện viên ở thư viện, bà lập một trang web xem bói, với giá mười lăm bảng nửa giờ. Giá cả cũng tương đối tốt - cứ xét đến việc Susie Morgan trên truyền hình, trình độ đồng cốt chỉ đáng xách dép cho Nickie, vẫn thu phí 29,99 bảng cho hai mươi phút, mà ta thậm chí còn chẳng được nói chuyện trực tiếp với bà ta mà chỉ là với một người trong “tổ tâm linh” của bà ta thôi.
Bà mới lập trang web được vài tuần thì đã bị một nhân viên Cơ quan Tiêu chuẩn Chất lượng Anh tố cáo với cảnh sát vì tội “không cung cấp được những thông báo miễn trừ trách nhiệm cần thiết theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng! Nickie nói bà không biết là bà lại cần phải cung cấp thông báo miễn trừ trách nhiệm, cảnh sát bèn bảo bà luật đã thay đổi rồi. Sao bà biết được cơ chứ, bà hỏi. Và tất nhiên, câu đó khiến rất nhiều người cười nôn ruột. Cứ tưởng bà biết dự đoán cơ mà! Vậy ra bà chỉ nhìn được mỗi tương lai thôi hả? Quá khứ thì không?
Chỉ có thanh tra Townsend - hồi ấy mới chỉ là một cảnh sát quèn - là không hề cười cượt. Anh ta đã tỏ thái độ tử tế, giải thích rằng tất cả là do các luật mới của EU. Các luật của EU! Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng! Đã có thời, những người giống như Nickie thường bị khởi tố (đày đọa) theo Đạo luật Trừng trị phù thủy và Đạo luật Chống hành nghề tâm linh lừa đảo. Giờ họ lại đụng phải đám quan liêu châu Âu. Thật đúng là người hùng thất thế.
Vậy là Nickie đóng cửa trang web, thề sẽ tránh xa công nghệ và trở lại với cung cách xưa, nhưng thời buổi này hiếm hoi lắm mới có ai đấy đến. Bà phải thừa nhận rằng chuyện tìm thấy Nel chìm trong nước đã khiến bà hơi bất an. Bà không khỏi khó chịu trong lòng. Không phải cảm thấy tội lỗi
hay gì, vì đó đâu phải lỗi của Nickie. Tuy nhiên, bà vẫn thầm băn khoăn không biết bà có nói quá nhiều, để lộ quá nhiều. Nhưng chẳng ai có thể đổ lỗi rằng bà là người đã bắt đầu toàn bộ chuyện này. Nel Abbott vốn đã đang đùa với lửa rồi - cô bị ám ảnh bởi dòng sông cùng các bí mật của nó, thứ ám ảnh kiểu ấy không bao giờ kết thúc có hậu. Không, Nickie chưa bao giờ khuyên Nel đi tìm rắc rối, bà chỉ chỉ đường cho cô mà thôi. Và đâu phải bà không cảnh báo cô? Vấn đề là, chẳng ai chịu nghe cả. Nickie vẫn bảo rằng ở trong cái thị trấn này, có những người đàn ông sẽ đày cô vào địa ngục ngay khi nhìn thấy cô, luôn luôn như thế. Nhưng mọi người cứ cố tình nhắm mắt làm ngơ, chẳng phải thế sao? Chẳng ai muốn nhớ đến cái thực tế rằng nước con sông này đã nhiễm máu và nỗi oán giận của những phụ nữ bị đọa đày, những phụ nữ thiếu hạnh phúc, người ta vẫn uống nước đó ngày ngày.
Jules
Chị chẳng bao giờ thay đổi. Lẽ ra em nên biết điều đó. Em đã biết điều đó. Chị yêu Cối Xay cùng dòng nước và chị bị ám ảnh bởi những phụ nữ ấy, bởi những điều họ đã làm và những người họ đã bỏ lại phía sau. Và giờ thì thế này đây. Thật tình, Nel. Chị đã thực sự đi xa đến thế kia ư? Trên tầng, em ngập ngừng một lúc bên ngoài phòng ngủ chính. Các ngón tay đặt trên tay nắm cửa, em hít một hơi thở sâu. Em biết họ đã nói gì, nhưng em cũng hiểu rõ chị, nên em không thể nào tin lời họ được. Em có cảm giác chắc chắn rằng khi em mở cửa, chị sẽ ở đó, cao dong dỏng, và chẳng hề dễ chịu khi nhìn thấy em.
Phòng trống không. Nó toát lên cái không khí của một nơi chỉ vừa bị bỏ trống, như thể chị chỉ vừa ra ngoài chạy xuống tầng dưới để pha một tách cà phê. Như thể chị sẽ quay trở lại bất kỳ lúc nào. Em vẫn có thể ngửi thấy mùi nước hoa của chị vương trong không khí, một thứ mùi đậm hương, ngọt ngào và cũ kỹ, giống y như một trong những loại nước hoa mẹ thường dùng, Opium hoặc Yvresse.
“Nel?” em khẽ gọi tên chị, như muốn gọi hồn chị, giống như với một con quỷ. Sự im lặng đáp lời em.
Xa hơn nữa về phía cuối hành lang là “phòng của em” - căn phòng em từng ngủ: bé nhất trong nhà, phù hợp với người nhỏ tuổi nhất. Nó thậm chí còn có vẻ nhỏ hơn so với trong trí nhớ của em, tối tăm hơn, u sầu hơn. Một phòng đơn trống hoác, chỉ có một cái giường đơn không dọn và bốc mùi âm ẩm như mùi đất. Em chưa từng có một giấc ngủ ngon trong căn phòng này, em chưa từng được thư thái. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nếu
xét đến chuyện chị vẫn thích dọa cho em phát hãi như thế nào. Chị ngồi ở phía bên kia bức tường, cào móng tay lên lớp vữa trát, dùng sơn móng tay màu đỏ máu để vẽ các biểu tượng lên phía sau cửa ra vào, viết tắt tên những phụ nữ đã chết lên cửa sổ. Lại còn tất tật những câu chuyện chị đã kể cho em, về các phù thủy bị lôi tới dòng nước, hay những phụ nữ tuyệt vọng gieo mình khỏi vách núi xuống bãi đá tảng bên dưới, về một cậu bé hoảng loạn trốn trong rừng và chứng kiến cảnh mẹ mình nhảy xuống cái chết.
Em không nhớ vụ đó. Tất nhiên em không nhớ. Lúc xem xét cái ký ức về việc quan sát cậu bé, em thấy nó thật phi lý: nó rời rạc y như một giấc mơ. Chị đang thì thầm vào tai em - chuyện đó đã không xảy ra vào một buổi tối giá rét căm căm nào đó bên dòng nước. Dù sao đi nữa, chúng ta chưa bao giờ ở đây vào mùa đông, chẳng hề có những buổi tối giá rét căm căm bên dòng nước. Em chưa từng nhìn thấy một đứa trẻ nào hoảng loạn trên cầu giữa đêm khuya - em, vốn cũng chỉ là một đứa bé con, thì làm gì ở đấy chứ? Không, đó là một câu chuyện chị đã kể, rằng cậu bé đã núp giữa đám cây và nhìn lên thấy bà ấy ra sao, mặt bà ấy tái nhợt y như chiếc váy ngủ của bà ấy dưới ánh trăng, cậu ấy nhìn lên và thấy bà ấy gieo mình như thế nào, tay dang ra như cánh, vào trong không trung tĩnh lặng, tiếng kêu trên đôi môi bà ấy tắt lịm ra sao khi bà ấy đâm vào dòng nước tối đen.
Em thậm chí còn chẳng biết liệu có thật là từng có một cậu bé chứng kiến cảnh mẹ cậu ta chết, hay chính chị đã bịa ra toàn bộ chuyện ấy. Em rời khỏi căn phòng cũ của mình và sang phòng chị, nơi đã từng là phòng của chị, và nhìn bề ngoài thì giờ hẳn là phòng của con gái chị. Một đống bề bộn nào quần áo nào sách vở, một cái khăn tắm ẩm ướt nằm trên sàn, mấy cái ca bẩn trên bàn cạnh giường, mùi khói đi lởn vởn trong không
khí và mùi nồng sực của những bông huệ tây đang đà thối rữa héo rũ trong một cái bình cạnh cửa sổ.
Chẳng suy nghĩ gì, em bắt tay vào dọn dẹp. Em giữ thẳng đống chăn ga gối đệm, treo khăn tắm lên giá trong phòng tắm. Em đang quỳ gối để lấy một cái đĩa bẩn dưới gầm giường ra thì nghe thấy tiếng chị, như con dao găm đâm vào trong lồng ngực em.
“Cô đang làm cái đếch gì vậy?”
Jules
Em lồm cồm bò dậy, nụ cười đắc thắng nở trên môi, vì em đã biết mà - em biết họ nhầm rồi, em đã biết thật sự chị vẫn chưa ra đi. Và chị đứng đó, trên ngưỡng cửa, bảo em hãy cút MẸ NÓ ra khỏi phòng chị. Mười sáu, mười bảy tuổi, bàn tay nắm cổ tay em, những móng tay sơn màu cắm vào da thịt em. Chị bảo RA NGOÀI cơ mà, Julie. Con bò béo.
Nụ cười chết lịm, bởi vì tất nhiên làm gì có chuyện đó là chị chứ, đó là con gái chị, trông gần như giống hệt chị hồi thiếu nữ. Con bé đứng trên ngưỡng cửa, một tay chống lên hông. “Cô đang làm gì ở đây?” nó hỏi lại.
“Dì xin lỗi,” tôi nói. “Dì Jules đây. Chúng ta chưa gặp nhau lần nào, nhưng dì là dì của cháu.”
“Cháu không hỏi dì là ai,” con bé nói, nhìn tôi như nhìn một con ngốc. “Cháu hỏi là dì đang làm gì vậy. Dì đang tìm cái gì?” Đôi mắt con bé trượt khỏi mặt tôi và nó liếc về phía cửa phòng tắm. Tôi chưa kịp trả lời thì nó đã nói tiếp, “Cảnh sát đang ở dưới nhà,” và nó hiên ngang bỏ đi xuôi theo hành lang, chân dài, dáng đi uể oải, đôi dép tông vỗ trên mặt sàn lát gạch.
Tôi vội đuổi theo con bé.
“Lena” tôi nói, đặt tay lên cánh tay con bé. Nó giật tay ra như phải bỏng, quay ngoắt lại trừng mắt nhìn tôi. “Dì xin lỗi.”
Con bé cụp mắt xuống, ngón tay xoa xoa chỗ tôi vừa chạm vào. Móng tay nó vẫn còn dấu sơn móng tay cũ màu xanh dương, các đầu ngón tay trông chẳng khác gì thuộc về một xác chết. Con bé gật đầu, không nhìn vào mắt tôi. “Cảnh sát cần nói chuyện với dì,” nó nói.
Con bé không giống như tôi trông đợi. Tôi đã hình dung ra một đứa
bé con, đang con quẫn trí, tuyệt vọng cầu an ủi. Nhưng con bé không như thế, tất nhiên, nó không phải đứa bé con, nó đã mười lăm và trưởng thành đến nơi rồi, còn về chuyện tìm kiếm sự an ủi - con bé có vẻ chẳng hề cần đến điều này, hoặc ít nhất, không phải là từ tôi. Xét cho cùng, nó là con gái chị tôi cơ mà.
Các điều tra viên đang đợi trong bếp, đứng cạnh bàn, nhìn ra phía cây cầu. Một người đàn ông dáng cao mặt lún phún những sợi râu màu muối tiêu và bên cạnh anh ta là một phụ nữ thấp hơn chúng một cái đầu.
Người đàn ông bước về phía trước, chìa một bàn tay ra, đôi mắt màu xám nhạt dán chặt lên mặt tôi. “Thanh tra Sean Townsend,” anh ta nói. Lúc anh ta đưa tay ra, tôi để ý thấy anh ta hơi run. Da anh ta có vẻ lạnh lẽo và mong manh khi áp lên da tôi, như thể là da của một người già hơn nhiều. “Tôi rất tiếc về mất mát của cô.”
Thật kỳ lạ biết bao khi nghe những lời lẽ ấy. Hôm qua họ cũng nói thế, lúc đến thông báo cho tôi. Tôi suýt nữa đã nói những lời ấy với Lena, nhưng giờ nó mang lại cảm giác khác hẳn. Mất mát của cô. Tôi những muốn nói với họ, chị ấy không mất đâu. Không thể. Các vị không hiểu Nel, các vị không biết chị ấy là người như thế nào đâu.
Thanh tra Townsend đang nhìn thẳng vào mặt tôi, chờ tôi nói gì đó. Anh ta lừng lững phía trên tôi, gầy và sắc, như thể ai đứng gần anh ta quá thì có khi bị cắt vào người. Tôi vẫn đang nhìn anh ta thì nhận ra người phụ nữ cũng đang quan sát tôi, với vẻ cảm thông sâu sắc.
“Tôi là hạ sĩ Erin Morgan,” cô nói. “Tôi rất lấy làm tiếc.” Cô có nước da màu ô liu, mắt đen, tóc đen ánh xanh như màu cánh quạ. Cô đã chải hết tóc ra sau để nó không chờm lên mặt, nhưng những lọn tóc xoăn ở thái dương và sau tai vẫn thoát khỏi vòng kiểm soát, khiến cô trông có vẻ đầu
bù tóc rối.
“Hạ sĩ Morgan sẽ là đầu mối giữa cô và cảnh sát.” Thanh tra Townsend nói. “Cô ấy sẽ thường xuyên cập nhật cho cô biết chúng tôi đã điều tra đến đâu.”
“Có cuộc điều tra à?” tôi lẳng lặng hỏi.
Người phụ nữ gật đầu mỉm cười và ra hiệu cho tôi ngồi xuống bàn bếp, tôi bèn làm theo. Hai cảnh sát ngồi đối diện tôi. Thanh tra Townsend cụp mắt xuống và chà lòng bàn tay phải ngang cổ tay trái anh ta với những chuyển động nhanh, giật cục: một, hai, ba.
Hạ sĩ Morgan đang nói với tôi, giọng nói bình tĩnh trấn an trái ngược hẳn với những lời lẽ thoát ra từ miệng cô. “Sáng sớm nay, một người đàn ông dắt chó đi dạo đã phát hiện ra thi thể của chị gái cô trong dòng sông, cô nói. Một giọng London, êm như làn khói. “Bằng chứng sơ bộ cho thấy cô ấy đã ở dưới nước được vài giờ.” Cô liếc nhìn sang viên thanh tra và rồi lại quay về phía tôi. “Cô ấy vẫn ăn mặc chỉnh tề, và các vết thương phù hợp với một cú ngã từ vách đá phía bên trên dòng sông.”
“Các vị cho rằng chị ấy bị ngã à?” tôi hỏi. Tôi nhìn từ hai viên cảnh sát cho tới Lena, vốn đã theo tôi xuống tầng dưới và giờ đang đứng ở phía bên kia căn bếp, tựa người vào quầy bếp. Chân trần, quần legging đen, áo ba lỗ xám chật căng trên hai xương quai xanh nhọn hoắt và hai núm vú nhỏ xíu, con bé phớt lờ mấy người chúng tôi, như thể chuyện đã xảy ra thật tầm thường, vô vị. Như thể nó là chuyện thường ngày. Con bé nắm chặt điện thoại trong bàn tay phải, ngón cái cuộn màn hình xuống, cánh tay trái ôm quanh cơ thể gầy gò, bắp tay phỏng chừng chỉ to bằng cổ tay tôi. Khuôn miệng rộng, sưng sĩa, lông mày đen, mái tóc vàng bết bẩn xõa xuống mặt.
Hẳn con bé đã cảm thấy tôi đang quan sát nó, vì nó nhướng mắt lên nhìn tôi và rồi thoáng trợn mắt, khiến tôi phải tránh mắt đi chỗ khác. Con bé nói, “Dì không nghĩ là mẹ ngã phải không?” con bé nói, môi cong lên. “Dì hiểu quá mà.”
Lena
Tất cả bọn họ đều nhìn tôi chằm chằm và tôi muốn hét thẳng vào mặt họ, bảo họ cút khỏi nhà chúng tôi đi. Nhà của tôi. Đây là nhà tôi, nhà của chúng tôi, nó sẽ không bao giờ là của dì. Dì Julia. Tôi tìm thấy dì ấy trong phòng tôi, lục lọi đồ đạc của tôi trong khi thậm chí còn chưa hề gặp tôi. Rồi dì cố gắng tỏ ra ân cần, bảo tôi rằng dì xin lỗi, như thể đúng lý ra tôi nên tin rằng dì cũng quan tâm cái khỉ gì đó.
Tôi mất ngủ đã hai ngày nay và tôi không muốn nói chuyện với dì hay với bất cứ ai. Cũng chẳng thèm sự giúp đỡ của dì hay lời chia buồn khỉ gió của dì, và tôi không muốn nghe những lý luận khập khiễng về chuyện đã xảy ra với mẹ tôi từ những người thậm chí chẳng hề quen biết mẹ.
Tôi vẫn cố giữ mồm giữ miệng, nhưng đến lúc họ nhắc đến chuyện có lẽ mẹ đã ngã như thế nào thì tôi không kiềm được cơn tức giận, bởi vì tất nhiên mẹ không ngã. Mẹ không ngã. Bọn họ không hiểu. Đây không phải một tai nạn ngẫu nhiên, mẹ đã chủ động làm thế. Ý tôi là, giờ thì chắc chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề, nhưng tôi cảm thấy mọi người ít nhất cũng nên thừa nhận sự thật.
Tôi bảo họ: “Mẹ tôi không ngã. Bà ấy đã tự nhảy xuống.” Cô nàng cảnh sát bắt đầu hỏi những câu ngu ngốc nào là tại sao tôi lại nói thế, có phải mẹ phiền muộn trong lòng và có phải trước đây mẹ đã từng thử làm thế rồi, và suốt trong lúc đó, dì Julia chỉ chăm chăm nhìn tôi bằng đôi mắt nâu sầu muộn như thể tôi là một đứa đồng bóng dở hơi. Tôi bảo họ: “Cô chú biết thừa bà ấy bị ám ảnh bởi vũng sông đó, bởi
tất cả những chuyện đã xảy ra ở đó, bởi tất cả những người đã chết ở đó. Cô chú biết chuyện đó. Thậm chí dì cũng biết,” tôi nói, nhìn Julia. Dì ấy há miệng ra rồi lại ngậm miệng vào, như một con cá. Tôi phần nào muốn kể cho họ nghe tất cả mọi chuyện, phần nào muốn giải thích rõ ràng với họ, nhưng làm thế cũng có được cái gì đâu? Tôi không nghĩ là họ đủ khả năng hiểu được.
Sean - Thanh tra Townsend, cách gọi hẳn là tôi nên dùng trong lúc trao đổi công việc chính thức - bắt đầu hỏi dì Julia này nọ: dì nói chuyện với mẹ tôi lần cuối khi nào? Trạng thái tinh thần của mẹ tôi khi đó ra sao? Có vấn đề gì phiền lòng mẹ tôi không? Và dì Julia ngồi đó mà dối trá. “Tôi không nói chuyện với chị ấy nhiều năm nay rồi,” dì nói, mặt đỏ lựng khi thốt ra những lời ấy. “Chúng tôi đã trở nên xa cách.”
Dì ấy có thể thấy rõ tôi đang nhìn và dì hiểu rõ tôi biết thừa dì là đồ rác rưởi nên càng lúc mặt dì càng đỏ, rồi dì cố gắng chuyển hướng sự chú ý đang dồn vào dì bằng cách nói chuyện với tôi. “Tại sao, Lena, tại sao cháu lại bảo mẹ cháu đã tự nhảy?”
Tôi nhìn Julia một hồi lâu trước khi trả lời. Tôi muốn dì biết rằng tôi đã nhìn thấu dì. “Cháu lấy làm ngạc nhiên vì dì hỏi cháu câu ấy đấy,” tôi nói. “Chẳng phải chính dì từng bảo mẹ rằng mẹ vẫn chờ mong cái chết hay sao?”
Dì bắt đầu lắc đầu rồi nói,“Không, không, dì không bảo thế, không phải như thế…” Đồ dối trá.
Viên cảnh sát kia - người phụ nữ - bắt đầu nói về chuyện họ “trong lần này không thấy có bằng chứng nào chứng tỏ đây là một hành động cố ý”, và rằng họ không tìm thấy thư từ gì. Đến lúc đó, tôi không cách nào không phá lên cười. “Cô chú tưởng là mẹ cháu sẽ để lại thư à? Mẹ cháu sẽ
chẳng để lại một cái thư khỉ gió nào đâu. Làm thế thì, nói thế nào nhỉ, tầm thường quá.”
Julia gật đầu. “Chuyện đó… đúng vậy đấy. Tôi có thể thấy rõ Nel muốn tất cả mọi người phải băn khoăn… Chị ấy thích sự bí ẩn. Và chị ấy cũng sẽ thích được làm trung tâm của một bí ẩn.”
Lúc đó, tôi chỉ muốn tát dì. Con mụ khốn kiếp ngu đần, tôi những muốn nói, đây cũng là lỗi của dì đấy.
Cô cảnh sát bắt đầu lăng xa lăng xăng, rót nước vào cốc cho tất cả mọi người rồi cố nhét một cốc vào tay tôi, và tôi chỉ thấy không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi biết tôi sắp òa khóc đến nơi nhưng tôi sẽ không làm thế trước mặt họ.
Thay vào đó, tôi về phòng, khóa cửa lại và khóc trong đó. Tôi quấn người trong một cái khăn quàng cổ, khóc một cách âm thầm hết mức. Tôi vẫn cố không nhượng bộ nó, cái thôi thúc được phó mặc bản thân cho cảm xúc và suy sụp, bởi vì tôi có cảm giác rằng một khi đã bắt đầu, nó sẽ không bao giờ dừng lại.
Tôi luôn cố không để cho những từ này bật ra, nhưng chúng vẫn trở đi trở lại trong đầu tôi: Con xin lỗi con xin lỗi con xin lỗi, là lỗi của con. Tôi không ngừng nhìn chăm chăm vào cửa phòng ngủ và tua đi tua lại trong đầu cái thời điểm buổi tối Chủ nhật đó khi mẹ vào chúc tôi ngủ ngon. Mẹ bảo, “Dù có chuyện gì xảy ra, con vẫn biết là mẹ rất yêu con, phải không, Lena?” Tôi lăn người đi và đeo tai nghe vào, nhưng tôi biết mẹ vẫn đứng đó, tôi có thể cảm nhận được mẹ đang đứng đó quan sát tôi, dường như tôi có thể cảm nhận được nỗi u sầu của mẹ và tôi đã lấy làm mừng vì tôi cảm thấy mẹ đáng bị như thế. Tôi sẵn lòng làm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì, để có thể đứng dậy ôm chầm lấy mẹ và nói với mẹ rằng tôi cũng yêu bà, và
mẹ hoàn toàn không hề có lỗi, lẽ ra tôi đừng bao giờ nói rằng lỗi hoàn toàn thuộc về mẹ. Nếu mẹ phạm phải tội lỗi gì đó, vậy thì chính tôi cũng vậy.
Mark
Hôm đó là ngày nóng nhất kể từ đầu năm và vì Vũng Sông Chết Đuối đang cấm người lai vãng, bởi những lý do hiển nhiên, Mark bèn lên thượng lưu sông bơi. Phía trước căn nhà nhỏ của gia đình Ward, nơi khúc sông nở rộng ra, con sông duỗi mình trải dài, dòng nước mát lạnh chảy xiết qua bãi đá cuội màu gỉ sét ven bờ, nhưng chính giữa sông, nước sâu và lạnh đến độ đủ sức giằng hơi thở ra khỏi buồng phổi ta và thiêu đốt da ta, cái lạnh theo kiểu khiến ta cười rú lên vì sốc khi chạm vào nó.
Và anh ta làm thế thật, anh ta cười rú lên - lần đầu tiên sau nhiều tháng, anh ta lại thấy muốn cười. Cũng là lần đầu tiên sau nhiều tháng, anh ta xuống nước. Đối với anh ta, dòng sông đã từ một nguồn thư giãn trở thành một chốn kinh hoàng, nhưng hôm nay nó đã chuyển đổi trở lại. Hôm nay, cảm giác thật đúng. Anh ta đã biết ngay từ lúc tỉnh dậy, đầu óc nhẹ nhõm sáng sủa hơn, chân tay thả lỏng hơn, rằng hôm nay là một ngày đẹp để đi bơi. Hôm qua, người ta đã phát hiện ra Nel Abbott chết trong dòng nước. Hôm nay là một ngày đẹp. Cũng không hẳn là anh ta cảm thấy một gánh nặng đã được dỡ bỏ, nhưng dường như một cái ê tô - một cái ê tô vẫn ấn vào hai bên thái dương anh ta, đe dọa sự sáng suốt của anh ta, đe dọa cuộc sống của anh ta - cuối cùng cũng đã được nới lỏng.
Một nữ cảnh sát đã đến nhà, một điều tra viên rất trẻ với vẻ ngọt ngào khá nữ tính khiến anh ta chỉ muốn kể cho cô nghe những chuyện thật sự không nên nói. Callie Gì Đó, tên cô là thế. Anh ta đã mời cô vào nhà và kể cho cô nghe sự thật. Anh ta bảo anh ta đã thấy Nel Abbott rời quán rượu vào tối Chủ nhật. Anh ta không nhắc đến chuyện mình đã đến đó với mục đích rõ ràng là để tình cờ gặp được cô ta, chuyện đó đâu có gì quan trọng.
Anh ta bảo họ đã nói chuyện với nhau, nhưng chỉ chớp nhoáng thôi, vì Nel đang vội.
“Hai người nói chuyện gì?” cô cảnh sát hỏi anh ta.
“Con gái cô ấy, Lena, là học sinh của tôi. Tôi gặp chút rắc rối với nó học kỳ vừa rồi - các vấn đề kỷ luật, đại loại thế. Con bé sẽ lại học lớp tiếng Anh của tôi vào tháng Chín này - đây là một năm quan trọng, năm phải thi lấy chứng chỉ GCSE - vậy nên tôi muốn đảm bảo rằng chúng tôi sẽ không gặp thêm bất kỳ vấn đề nào nữa.”
Đủ xác thực.
“Cô ấy bảo không có thời gian, rằng cô ấy còn bận nhiều công chuyện khác.”
Cũng xác thực, mặc dù không phải là toàn bộ sự thật. Không phải là không gì ngoài sự thật.
“Cô ấy không có thời gian trao đổi về các vấn đề ở trường của con gái cô ấy?” cô cảnh sát hỏi.
Mark nhún vai, trao cho cô nụ cười ủ dột. “Phụ huynh thì vẫn có người để tâm nhiều người để tâm ít mà,” anh ta nói.
“Khi rời khỏi quán rượu, cô ấy đi đâu? Cô ấy có lái xe không?” Mark lắc đầu. “Không, có lẽ cô ấy về nhà. Cô ấy đi bộ về hướng đấy.”
Cô điều tra viên gật đầu. “Sau đó anh không gặp lại cô ấy nữa à?” cô hỏi, và Mark lắc đầu.
Vậy đấy, nó có một phần là sự thật, một phần là dối trá, nhưng dù sao đi nữa cô cảnh sát có vẻ cũng hài lòng, Cô để lại cho anh ta tấm danh thiếp có số điện thoại để liên hệ và dặn anh ta liên lạc nếu có thêm bất kỳ thông
tin gì khác.
“Tôi sẽ làm thế,” anh ta nói, rồi anh ta nở nụ cười quyến rũ quen thuộc và cô chùn lại. Anh ta thầm hỏi không biết có phải mình đã tỏ ra quá lố không.
Giờ anh ta đã ngụp xuống dưới dòng nước, lặn xuống tiến về phía lòng sông, học ngón tay vào trong lớp bùn mềm dày. Anh ta cuộn người lại thành một quả bóng chật khít và rồi bằng một cú bung lực mạnh mẽ, anh ta đẩy người quay ngược trở lên mặt nước, hóp không khí vào trong buồng phổi.
Anh ta rồi sẽ nhớ con sông cho xem, nhưng đã đến lúc anh ta sẵn sàng lên đường rồi. Anh ta sẽ phải bắt đầu tìm một công việc mới, có lẽ ở Scotland, hay thậm chí có khi xa hơn nữa: Pháp, hoặc Italy, một nơi nào đó không ai biết anh ta đến từ đâu, hay đã có chuyện gì xảy ra trong quá khứ. Anh ta mơ về một cuộc sống không ràng buộc, một tờ giấy trắng, một quá khứ không tì vết.
Lúc lao người về phía bờ sông, anh ta cảm thấy cái ô tô lại một lần nữa siết nhẹ. Anh ta vẫn chưa thoát khỏi nguy nan. Vẫn chưa đâu. Vẫn còn đứa con gái nữa, nó vẫn có thể gây nên rắc rối, tuy nhiên vì nó vẫn im hơi lặng tiếng suốt bao lâu nay nên có vẻ như không có nhiều khả năng đến bây giờ nó sẽ phá vỡ sự im lặng của mình. Ta thích nói gì về Lena Abbott thì cứ việc nói thoải mái, nhưng chắc chắn một điều nó là đứa trung thành; nó là đứa biết giữ lời. Và có lẽ bây giờ, sau khi được giải thoát khỏi tầm ảnh hưởng độc hại của người mẹ, nó thậm chí còn có thể trở thành một người tử tế.
Anh ta ngồi trên bờ sông một lát, đầu cúi xuống, lắng nghe khúc ca của dòng sông, cảm nhận hơi ấm mặt trời trên hai vai. Sự hồ hởi của anh
ta đã bốc hơi cùng với những vệt nước trên lưng, nhưng lại để một thứ khác thế vào chỗ nó, không hẳn là cảm giác hy vọng, mà là một linh cảm thầm lặng rằng ít nhất ta cũng có thể hy vọng.
Anh ta nghe thấy tiếng động và ngước nhìn lên. Ai đó đang đến. Anh ta nhận ra hình dáng bà, bước đi chậm rãi đến khổ sở của bà, và trái tim anh ta đập mạnh hơn trong lồng ngực. Louise.
Louise
Có một người đàn ông đang ngồi bên bờ sông. Thoạt tiên bà tưởng anh ta không mặc gì nhưng đến lúc anh ta đứng dậy bà có thể nhìn ra anh ta đang mặc quần bơi, ngắn, chật khít và bó sát. Bà cảm thấy mình đang để ý đến anh ta, để ý đến da thịt anh ta, và bà đỏ bừng mặt. Đó là Mark Henderson.
Đến lúc bà tới được chỗ anh ta, Mark đã quấn một cái khăn tắm quanh eo và trong cái áo phông qua đầu. Anh ta bước về phía bà, chìa tay ra.
“Dạo này bà thế nào, bà Whittaker?”
“Louise,” bà nói. “Xin hãy gọi thế.”
Anh ta cúi đầu xuống, hơi nhếch môi cười. “Louise. Dạo này bà thế nào?”
Bà cố gắng mỉm cười đáp lại. “Anh biết mà.” Anh ta không biết. Chẳng ai biết hết. “Họ vẫn nói với ta - bọn họ ấy, để tôi nói cho mà nghe! Các chuyên gia tư vấn nỗi đau vẫn bảo ta rằng ta sẽ có cả ngày tốt lẫn ngày xấu, và ta phải đương đầu với nó thôi.”
Mark gật đầu, nhưng ánh mắt anh ta trượt đi không nhìn thẳng vào mắt bà, và bà thấy hai gò má anh ta đỏ ủng lên. Anh ta đang ngại ngùng. Ai cũng ngại ngùng. Trước khi cuộc đời bà bị xé cho tan nát, bà chưa bao giờ nhận ra nỗi sầu đau lại khiến ta khó xử biết bao nhiêu, sự bất tiện lớn đến mức nào đối với tất cả những ai tiếp xúc với người có tang. Thoạt tiên, nó được thừa nhận, được tôn trọng và thuận theo. Nhưng sau một thời gian, nó lại chắn đường những thứ khác - những đối thoại, cười đùa, cuộc sống bình thường. Mọi người muốn để nó lại phía sau, muốn tiếp tục cuộc
sống, nhưng rồi ta lại ở đó, giữa lối đi, chặn ngang con đường, lôi theo sau đứa con đã chết.
“Dòng nước thế nào?” bà hỏi, và màu sắc trên mặt anh ta càng đậm hơn. Dòng nước, dòng nước, dòng nước - trong thị trấn này thì chẳng cách nào thoát khỏi nó được. “Lạnh nhỉ,” bà nói, “tôi đoán vậy.”
Anh ta giũ đầu như chú chó ướt. “Brừùừừừừ!” anh ta nói và bật cười ngượng ngập.
Một con voi đang chắn giữa hai người họ và bà cảm thấy bà cần phải chỉ nó ra.
“Anh đã nghe chuyện của mẹ Lena chưa?” Như thể anh ta vẫn chưa nghe vậy. Như thể trong thị trấn này còn có ai vẫn chưa biết vậy. “Rồi. Kinh khủng thật. Chúa ơi, chuyện thật kinh khủng. Sốc thế kia chứ.” Anh ta chìm vào im lặng, và vì Louise không đáp lại gì, anh ta lại nói tiếp. “Ừm… Ý tôi là, tôi biết bà và cô ấy…” Anh ta dừng lại giữa chừng, ngoái nhìn qua vai về phía ô tô riêng. Anh ta chỉ nhằm nhằm muốn được bỏ đi, anh chàng tội nghiệp.
“Không hẳn vừa mắt nhau?” Louise ướm lời. Bà nghịch nghịch sợi dây chuyền quấn quanh cổ, lôi lôi kéo kéo mặt dây, một chú chim sơn ca. “Không, chúng tôi không vừa mắt nhau. Dù có đúng như thế thì…”
Dù có đúng như thế là cách nói phù hợp nhất bà có thể tìm ra. Không vừa mắt nhau là một cách nói giảm nói tránh lố bịch, nhưng chẳng cần phải nói toạc móng heo ra làm gì. Henderson biết thừa về mối hiềm khích, và quỷ tha ma bắt bà đi nếu bà đứng bên dòng sông giả vờ như bà không lấy làm vui mừng vì Nel Abbott đã kết thúc cuộc đời ở trong nó. Bà không thể, bà không uốn.
Khi nghe các chuyên gia tư vấn về nỗi đau nói chuyện, bà đã biết họ
chỉ đang nói vớ nói vẩn, và bà sẽ không bao giờ, vĩnh viễn không bao giờ có thêm một ngày tốt đẹp nào nữa trong suốt phần đời còn lại, tuy nhiên, trong khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ vừa qua, đã có nhiều lúc bà cảm thấy thật khó để che giấu vẻ đắc thắng khỏi lồ lộ trên mặt.
“Có lẽ, theo một cách kinh khủng,” Henderson đang nói, “nó phù hợp đến kỳ cục, đúng không? Cái cách cô ấy đã…”
Louise gật đầu nghiêm trang. “Có lẽ đó đúng là điều cô ta muốn đấy. Có lẽ đó chính là điều cô ta đã muốn.”
Mark cau mày. “Bà cho là cô ấy… Bà nghĩ chuyện này đã được tính toán sẵn à?”
Louise lắc đầu. “Tôi thật sự chẳng biết gì hết.”
“Không. Không. Tất nhiên là không rồi.” Anh ta dừng lại. “Ít nhất… ít nhất bây giờ, thứ cô ấy đã bắt tay vào viết ấy sẽ không được xuất bản, phải không? Cuốn sách cô ấy đang viết về vùng sông ấy - nó chưa xong mà, phải không? Vậy thì nó không thể được xuất bản…”
Louise nhìn xoáy thẳng vào anh ta. “Anh nghĩ thế à? Tôi thì lại cho rằng cái cách cô ta chết sẽ khiến cho nó càng dễ được xuất bản hơn. Một phụ nữ viết sách về những người đã chết trong Vũng Sông Chết Đuối lại biến thành một trong những người bị chết đuối? Theo tôi thì sẽ có người muốn xuất bản nó đấy.”
Mark có vẻ hoảng. “Nhưng Lena… Chắc chắn Lena… Con bé sẽ không muốn…”
Louise nhún vai. “Ai mà biết được?” bà nói. “Tôi đoán con bé sẽ là người được hưởng nhuận bút.” Bà thở dài. “Tôi phải quay về thôi, anh Henderson.” Bà vỗ vỗ cánh tay anh ta và anh ta phủ bàn tay lên tay bà.
“Tôi rất tiếc, bà Whittaker,” anh ta nói, và bà không khỏi xúc động khi thấy nước mắt dâng lên trong đôi mắt của người đàn ông tội nghiệp. “Louise,” bà nói. “Cứ gọi tôi là Louise. Và tôi biết chứ. Tôi biết anh cảm thấy thế nào mà.”
Louise bắt đầu lên đường về nhà. Cuốc đi bộ ngược xuôi quãng đường ven sông này khiến bà mất mấy tiếng đồng hồ - trong cái nóng này thì thậm chí còn lâu hơn - nhưng bà chẳng thể tìm ra cách nào khác để giết thời gian. Nói thế không có nghĩa là chẳng có việc gì để làm. Còn có các đại lý bất động sản cần liên hệ, các môn học cần nghiên cứu. Một cái giường cần dọn dẹp và một tủ quần áo chật ních cần đóng bọc cất đi. Một đứa trẻ cần bàn tay phụ huynh chăm sóc. Có lẽ là ngày mai. Ngày mai bà sẽ làm những việc ấy, còn hôm nay, bà đi dạo bên sông và nghĩ về con gái mình.
Hôm nay, bà vẫn làm như hằng ngày, bà lục lọi trong ký ức vô dụng của mình, tìm kiếm những dấu hiệu ắt hẳn bà đã bỏ lỡ, những tín hiệu đáng báo động ắt hẳn bà đã vô tình đi lướt qua. Bà tìm kiếm những mảnh vụn, tìm kiếm những dấu hiệu mơ hồ của bất hạnh trong cuộc sống hạnh phúc con bà. Bởi vì, quả thật, họ chưa bao giờ lo lắng về Katie. Katie là đứa sáng dạ, tài năng, điềm đạm, mang một ý chí thép. Con bé đã bước vào thời thiếu nữ như thể đó chỉ là chuyện vặt, nó dễ dàng vượt qua chướng ngại vật: nếu có bất kỳ điều gì phiền lòng, thì đó là thỉnh thoảng Louise thấy buồn vì Katie có vẻ chẳng cần gì đến bố mẹ. Chẳng gì khiến nó hoang mang - kể cả bài tập ở trường, sự quan tâm ở giả tạo của người bạn thân thiếu thốn tình cảm, thậm chí đến cả sự nở rộ đột ngột, gần như choáng váng của nhan sắc trưởng thành của con bé. Louise vẫn nhớ rõ mồn một nỗi xấu hổ gắt gao, tủi nhục dâng lên trong lòng khi bà để ý thấy cánh đàn
ông đang nhìn vào cơ thể của bà hồi bà còn thiếu nữ, nhưng Katie chẳng thể hiện gì như thế hết. Thời thế khác nhau, Louise tự nhủ, con gái thời nay khác rồi.
Louise và chồng, Alec, không lo lắng về Katie, họ lo cho Josh. Vốn lúc nào cũng nhạy cảm, lúc nào cũng tỏ ra bất an, năm nay thằng bé lại gặp một chuyện gì đó, một chuyện gì đó đã quấy rầy nó, nó càng lúc càng trở lên rụt rè, càng sống nội tâm hơn, dường như mức độ tăng tiến theo từng ngày. Hai vợ chồng lo con trai bị bắt nạt, lo nó bị lưu ban, lo về những quầng thâm dưới mắt nó vào buổi sáng. Sự thật là - sự thật ắt phải là trong lúc họ chăm chăm dõi theo con trai, chờ đợi nó trượt chân thì thay vào đó, chính con gái họ lại vấp ngã, và họ đã không để ý, họ đã không có ở đó để đón đỡ con bé. Mặc cảm tội lỗi như một hòn đá mắc trong cổ họng Louise, bà vẫn không ngừng trông chờ nó làm bà tắc nghẹn, nhưng nó không làm thế, nó sẽ không làm thế, và bởi vậy bà vẫn phải tiếp tục thở, thở và nhớ lại.
Buổi tối trước đó, Katie tỏ ra trầm lặng. Chỉ có ba người họ ăn tối cùng nhau vì Josh đang ở nhà cậu bạn Hugo. Bình thường, không có chuyện sáng mai phải đi học mà tối hôm trước Josh lại được phép ở nhà bạn, nhưng hai vợ chồng đã đồng ý có ngoại lệ vì họ lo lắng cho thằng bé. Họ tận dụng cơ hội nói chuyện với Katie về chuyện này. Không biết con có để ý thấy, họ hỏi, dạo gần đây Josh có vẻ bất an quá không?
“Chắc em nó lo đến chuyện sang năm phải vào trường lớn” con bé đáp, nhưng nó nói mà không nhìn vào mặt bố mẹ, nó vẫn dán mắt vào đĩa thức ăn, và giọng nó thoáng dao động.
“Những thằng bé sẽ ổn cả thôi.” Alec nói. “Một nửa lớp thằng bé sẽ có mặt ở đó. Và con cũng sẽ có mặt ở đó nữa.”
Louise vẫn nhớ khi Alec nói câu này, bàn tay đang cầm cốc nước của con gái bà siết chặt hơn một chút. Bà vẫn nhớ con bé đã khó nhọc nuốt nước bọt và nhắm mắt lại trong thoáng chốc.
Họ rửa bát cùng nhau, Louise rửa còn Katie lau khô, vì máy rửa bát đã hỏng. Louise nhớ bà đã bảo không vấn đề gì đâu, nếu Katie bận học bài thì bà làm một mình cũng được, và Katie bảo, “Xong hết rồi ạ.” Louise nhớ rằng mỗi lần Katie đón lấy một cái đĩa từ tay bà để lau cho khô, con bé lại nấn ná các ngón tay trên ngón tay mẹ mình một thoáng lâu hơn cần thiết.
Chỉ có điều bây giờ Louise không tài nào dám chắc liệu bà có nhớ đúng toàn bộ những chuyện này hay không. Có phải Katie đã cụp mắt, nhìn xuống đĩa thức ăn? Có phải con bé đã nắm chặt chiếc cốc hơn, hay kéo dài sự đụng chạm hơn thật? Giờ thì chẳng cách nào nói chắc được, mọi ký ức của bà dường như đều mở rộng cửa cho các hoài nghi, nhầm lẫn. Bà không chắc có phải đây là ảnh hưởng từ cú sốc khi nhận ra hết thảy những gì bà đã biết chắc chắn lại không hề chắc chắn, hay do tâm trí bà đã trở nên mụ mẫm vĩnh viễn bởi đống thuốc ngủ bà uống mỗi ngày hàng tuần sau khi Katie chết. Louise đã nốc hết vốc thuốc này đến vốc thuốc khác, mỗi vốc đầy lại mang đến những giờ đồng hồ khuây khỏa trống rỗng, chỉ để rồi mỗi khi thức dậy, bà lại tiếp tục chìm vào trong ác mộng. Sau một thời gian, bà bắt đầu hiểu ra rằng mấy tiếng đồng hồ lãng quên ấy chẳng xứng nổi với nỗi kinh hoàng khi tái phát hiện sự thiếu vắng con gái, hết lần này đến lần khác.
Chỉ có một điểm này, bà cảm thấy bà có thể đoan chắc: khi Katie chúc ngủ ngon, nó đã mỉm cười và hôn mẹ theo đúng cách nó vẫn luôn làm. Nó đã ôm bà, không chặt hơn cũng không lâu hơn thường lệ, và nói, “Mẹ ngủ ngon nhé.”
Và làm sao nó có thể làm được như thế, khi đã biết rõ nó sắp làm gì? Trước mặt Louise, con đường mòn trở nên mờ nhòe, nước mắt đã che mờ tầm nhìn của bà, vậy nên mãi đến khi đến sát sạt rồi, bà mới để ý thấy dải băng chắn. Hàng rào cảnh sát. Cấm vượt qua. Bà đã leo được nửa đường lên đồi và đang tiến về phía đỉnh đồi, bà buộc phải ngoặt gấp sang bên trái để tránh quấy rầy mảnh đất cuối cùng Nel Abbott từng đặt chân lên.
Bà mạch leo lên đỉnh đồi rồi xuống sườn đồi, hai bàn chân đau nhức, mái tóc bết mồ hôi ép sát vào da đầu, xuống đến với bóng râm mời gọi nơi con đường chạy xuyên qua một vạt cây rậm bên mép vùng sông. Men theo con đường mòn tầm hơn một dặm, bà đến được chỗ cây cầu và trèo lên các bậc thang dẫn lên đường cái. Một nhóm thiếu nữ đang tiến tới gần từ phía bên trái bà và bà đưa mắt sang, như bà vẫn luôn làm thế, tìm kiếm bóng dáng con gái mình giữa nhóm đó, dò tìm mái đầu tóc màu nâu sáng của nó, nghe ngóng tiếng cười giòn giã của nó. Trái tim Louise lại vỡ tan lần nữa.
Bà dõi nhìn các cô gái, cánh tay họ choàng qua vai nhau còn người họ dán sát vào nhau, một khối cơ thể mơn mởn quấn quýt, và ở trung tâm của họ, Louise nhận ra, là Lena Abbott. Lena, con bé chìm trong cô độc suốt vài tháng vừa qua, đang được sống trong sự nổi tiếng. Nó cũng sẽ được nhìn chòng chọc, được thương xót và rồi, chẳng bao lâu sau, bị xa lánh.
Louise tránh khỏi đường đi của đám con gái và bắt đầu leo lên đồi về nhà. Bà khom vai, hạ thấp cằm xuống, hy vọng bà có thể im hơi lặng tiếng tránh sang đường khác, bởi vì nhìn thấy Lena Abbott là một chuyện thật kinh khủng biết bao, nó khơi dậy trong tâm trí Louise những hình ảnh khủng khiếp. Nhưng con bé đã phát hiện ra bà và gọi to, “Bác Louise! Bác Whittaker! Đợi cháu với.”
Louise cố bước nhanh hơn, nhưng hai chân bà nặng như chỉ còn tim bà xẹp xuống như một quả bóng cũ, trong khi Lena thì lại trẻ trung khỏe mạnh.
“Bác Whittaker, cháu muốn nói chuyện với bác.”
“Bây giờ thì không được, Lena. Bác xin lỗi.”
Lena đặt bàn tay lên cánh tay Louise, nhưng Louise rụt tay lại, bà không thể nhìn thẳng vào con bé. “Bác rất xin lỗi. Bác không thể nói chuyện với cháu bây giờ được.”
Louise đã biến thành một con quái vật, một sinh vật trống rỗng không chịu an ủi một đứa trẻ mồ côi mẹ, một kẻ - tệ hơn nữa, tệ hơn rất nhiều - không thể nhìn thẳng vào đứa trẻ đó mà không nghĩ rằng, Tại sao lại không phải là cháu? Tại sao cháu lại không phải là người ở trong dòng nước, Lena? Tại sao người đó lại không phải là cháu? Tại sao lại là Katie của bác? Tử tế, dịu dàng, hào phóng, chăm chỉ và giàu nghị lực - xuất sắc hơn cháu nhiều trên mọi phương diện. Lẽ ra con bé không bao giờ nên vào trong đó. Lẽ ra người đó là cháu mới phải.
Vũng Sông Chết Đuối, Danielle Abbott **
**(chưa xuất bản)
Mở đầu
Hồi mười bảy tuổi, tôi đã cứu em gái tôi khỏi chết đuối.
Nhưng đó, dù tin dù không, cũng không phải điểm khởi đầu cho tất cả những chuyện này.
Có những người bị hút về phía nước, những người vẫn duy trì một cảm giác nào đó nguyên thủy, còn sót lại từ ban sơ về những nơi có dòng chảy. Tôi tin rằng tôi là một người trong số họ. Tôi luôn giàu sức sống nhất mỗi khi ở gần dòng nước, mỗi khi tôi ở gần dòng nước này. Chính tại nơi đây, tôi đã học bơi, tôi đã học cách sống giữa thiên nhiên, chính tại nơi đây, cơ thể tôi được ở trong trạng thái hân hoan nhất, dễ chịu nhất.
Từ hồi chuyển tới Beckford năm 2008, tôi đã bơi trong dòng sông này gần như hằng ngày, hè cũng như đông, có lúc cùng con gái, có lúc chỉ một mình, và tôi đã bắt đầu bị mê hoặc bởi cái ý nghĩ rằng nơi đây, chốn ngất ngây của tôi, có thể đối với người khác lại là nơi dành cho nỗi khiếp hãi và kinh hoàng.
Hồi mười bảy tuổi, tôi đã cứu em gái tôi khỏi chết đuối, nhưng tôi đã bị ám ảnh bởi vũng sông Beckford từ trước đó rất lâu rồi. Bố mẹ tôi là những người hay kể chuyện, đặc biệt là mẹ tôi; chính từ miệng mẹ, tôi đã lần đầu tiên nghe về câu chuyện bi thảm của Libbg; về cuộc tàn sát kinh
hoàng ở ngôi nhà nhỏ của gia đình Ward, câu chuyện khủng khiếp về cậu bé chứng kiến mẹ mình nhảy sông. Tôi đã bắt mẹ kể cho tôi nghe, hết lần này đến lần khác. Tôi vẫn nhớ nỗi thất kinh của bố tôi (“Những câu chuyện này đâu phải dành cho trẻ con chứ”) và sự phản bác của mẹ tôi (“Tất nhiên là phải chứ! Chúng là lịch sử mà.”).
Mẹ đã gieo vào trong tôi một hạt mầm, và rất lâu trước khi em gái tôi vào trong dòng nước, rất lâu trước khi tôi giơ một cái máy ảnh lên hay đặt bút trên trang giấy, tôi đã dành hết giờ này sang giờ khác mơ mộng giữa ban ngày, tưởng tượng xem nó ắt hẳn phải như thế nào, cái cảm giác ấy ắt hẳn phải ra sao, dòng nước ắt hẳn phải lạnh đến dường nào đối với Libbg vào ngày hôm đó.
Đến tuổi trưởng thành, bí ẩn khiến tôi lao tâm khổ tứ, tất nhiên, là bí ẩn của chính gia đình tôi. Đáng lý ra nó chẳng nên được coi là một bí ẩn, nhưng nó lại thế đấy, bởi vì, bất chấp mọi nỗ lực hàn gắn của tôi, em gái tôi vẫn không thèm mở miệng với tôi trong suốt nhiều năm. Trong sự im lặng bất tận của nó, tôi đã cố hình dung xem điều gì đã lôi cuốn nó đến với dòng sông giữa đêm hôm khuya khoắt, và dẫu là người có trí tưởng tượng độc nhất vô nhị, tôi vẫn đành thất bại. Bởi vì em gái tôi vốn chẳng bao giờ là người dễ kích động, không bao giờ hành xử lỗ mãng. Có lẽ nó ranh mãnh, xảo trá, có thù tất báo y như dòng y sông ấy thật, nhưng tôi vẫn không sao hiểu nổi. Tôi không biết liệu có phải mình sẽ vĩnh viễn không hiểu nổi hay không.
Tôi quyết định, trong lúc vẫn tiếp tục cố gắng tìm hiểu bản thân, gia đình và những câu chuyện chúng tôi kể cho nhau nghe, tôi sẽ tìm cách lý giải tất cả những câu chuyện về Beckford, rằng tôi sẽ viết lại tất thảy những giờ khắc cuối cùng, theo như tôi tưởng tượng ra, trong cuộc đời
những phụ nữ đã đi đến Vũng Sông Chết Đuối Beckford.
Tên của nó đã mang sức nặng; tuy nhiên, nó là gì chứ? Một nhánh sông, thế thôi. Một đoạn sông uốn khúc. Ta sẽ tìm thấy nó nếu ta bám theo con sông trên mọi đoạn sông quanh co khúc khuỷu, phình ra và chảy tràn, trao sự sống và đồng thời tước đoạt sự sống. Dòng sông chỗ thì mát lạnh sạch trong, chỗ thì tù đọng nhơ bẩn; nó uốn éo luồn qua khu rừng và như thanh thép cắt xuyên qua đồi Cheviot mềm mại, rồi sau đó, ngay ở phía Bắc Beckford, nó chảy chậm lại. Nó nghỉ ngơi, trong chốc lát, ở Vũng Sông Chết Đuối.
Đây là một địa điểm mang đậm chất đồng quê: những cây sồi tỏa bóng mát che cho con đường, cây tiêu huyền và cây sồi nằm rải rác trên các sườn đồi, và một bờ sông phủ cát nằm thoai thoải bên sườn Nam. Một nơi rất tiện cho người ta vầy nước, để dẫn đám trẻ đến; một địa điểm picnic hoàn hảo cho một ngày nắng.
Nhưng vẻ ngoài của nó là lừa dối, vì đây là chốn chết chóc. Dòng nước, tối sẫm và phẳng lặng như gương, che giấu hết thảy những gì nằm bên dưới: rong rêu quấn lấy ta, lôi ta xuống dưới, những tảng đá lởm chởm cào rạch da thịt ta. Phía bên trên, sừng sững vách đá xám đen: một sự thách thức, một sự khiêu khích.
Chính nơi đây, hàng bao thế kỷ qua, đã tước đoạt sinh mạng của Libby Seeton, Mary Marsh, Anne Ward, Ginny Thomas, Lauren Slater, Katie Whittaker, và còn hơn thế nữa - vô số những người khác, không mặt không tên. Tôi những muốn hỏi tại sao, và bằng cách nào, và cái gì đã được cuộc sống và cái chết của họ kể cho chúng ta nghe về chính bản thân chúng ta. Có những người thà không hỏi những câu này, những người thà làm thinh, lấp liếm, im lặng. Nhưng tôi không bao giờ là người đành lòng yên lặng.
Trong tác phẩm này, trong cuốn hồi ký về cuộc đời tôi và cũng sông Beckford này, tôi muốn bắt đầu không phải bằng chuyện chết đuối, mà bằng chuyện bơi lội. Bởi vì đó chính là nơi khởi nguồn của nó: với sự bơi lội của các phù thủy - thử thách từ dòng nước. Ở đó, tại vũng sông của tôi, chốn đẹp đẽ bình yên cách nơi tôi ngồi hiện tại không đến một dặm, chính là nơi người ta đã mang họ đến, trói họ lại và ném họ vào trong dòng sông, để chìm hoặc để bơi.
Có người nói rằng những người phụ nữ đã để lại trong dòng nước một phần nào đó của chính họ, có người lại bảo nó chiếm giữ một phần sức mạnh của họ, vì kể từ hồi ấy, nó đã dụ hoặc đến hai bên bờ sông những con người thiếu may mắn, kẻ tuyệt vọng, người bất hạnh, kẻ yểu mệnh. Họ đến đây để bơi cùng các chị em gái của mình.
Erin
Beckford, đó là một chốn kỳ quái chết bầm. Có những lúc, nó thật đẹp, đến mức gần như nghẹn thở, nhưng nó cũng thật kỳ lạ. Nó khơi dậy cảm giác về một chốn xa cách, tách biệt hẳn với hết thảy mọi thứ xung quanh. Tất nhiên, nó cách hàng dặm so với bất kỳ đâu - ta sẽ phải lái xe cả mấy tiếng đồng hồ mới tiếp cận được bất kỳ nơi nào có ánh sáng văn minh. Đấy là trong trường hợp ta xếp Newcastle vào dạng có ánh sáng văn minh, mà tôi thì không chắc mình nghĩ thế. Beckford là một nơi kỳ lạ, nhan nhản những con người kỳ quặc, với một lịch sử quái dị rõ rành rành. Và, xuyên suốt trung tâm của nó là dòng sông này, và nó là thứ kỳ dị hơn hết thảy - dường như ta rẽ theo đường nào cũng đụng phải nó, đi theo hướng nào cũng đụng phải nó, bằng cách nào đó, đến cuối cùng, ta sẽ luôn luôn quay về chỗ dòng sông.
Tay thanh tra cũng có vẻ xa cách thế nào đó. Anh ta là dân địa phương, vậy nên tôi cho rằng cái vẻ ấy cũng là lẽ đương nhiên thôi. Tôi đã nghĩ thế vào lần đầu tiên để mắt đến anh ta, sáng hôm qua lúc người ta lôi xác Nel Abbott ra khỏi dòng nước. Anh ta đang đứng bên bờ sông, tay chống hông, đầu cúi xuống. Anh ta đang nói chuyện với ai đó - sau mới biết hóa ra là bác sĩ pháp y - nhưng từ xa nhìn lại, trông anh ta chẳng khác gì đang cầu nguyện. Đó chính là suy nghĩ đã nảy ra trong đầu tôi lúc đó - một tu sĩ. Một người đàn ông dong dỏng mặc trang phục tối màu, dòng nước đen làm phông nền, vách đá đen đằng sau anh ta, và dưới chân anh ta là một phụ nữ, tái nhợt và thanh thản.
Tất nhiên không phải thanh thản, mà là đã chết. Nhưng khuôn mặt cô ta không biến dạng, nó không bị tàn phá. Nếu ta không nhìn đến phần thân
thể còn lại của cô ta, chân tay bị gãy hay xương sống bị vẹo, ta hẳn đã cho rằng cô ta bị chết đuối.
Tôi tự giới thiệu bản thân và lập tức cảm thấy anh ta có điểm kỳ lạ - đôi mắt đẫm lệ, hai bàn tay run run được anh ta cố gắng kiềm chế bằng cách xoa vào nhau, lòng bàn tay xoa lên cổ tay - nó khiến tôi nhớ đến bố tôi những khi vừa qua một trận nhậu nhẹt bét nhè, khi ta cần biết liệu đường mà nói nhỏ và cúi đầu.
Có vẻ như trong bất kỳ trường hợp nào, biết đường cúi đầu xuống cũng luôn là ý hay. Tôi mới lên miền Bắc chưa đầy ba tuần, sau một cuộc thuyên chuyển chớp nhoáng từ London xuất phát từ một mối quan hệ nông nổi với đồng nghiệp. Thật lòng mà nói, mong muốn duy nhất của tôi là được bắt tay làm việc của mình và quên hết mớ lộn xộn ấy đi. Ban đầu, tôi chắc mẩm sẽ bị tống cho một vụ chán ngắt, vậy nên tôi không khỏi ngạc nhiên khi họ muốn tôi tiếp nhận một vụ tử vong đáng ngờ. Một phụ nữ, xác cô ta nằm giữa sông được phát hiện bởi một người đàn ông đang dắt chó đi dạo ngoài trời. Nạn nhân vẫn mặc quần áo chỉnh tề, vậy nên không có chuyện cô ta đã đi bơi. Ông chánh thanh tra giải thích với tôi. “Gần như chắc chắn là một vụ nhảy sông,” ông ta bảo tôi. “Cô ta ở Vũng Sông Chết Đuối Beckford mà.”
Đây cũng là một trong những vấn đề đầu tiên tôi hỏi thanh tra Townsend. “Anh có nghĩ là cô ta tự nhảy xuống sông không?” Anh ta nhìn tôi một thoáng, anh ta xem xét tôi. Rồi anh ta chỉ lên đỉnh vách đá. “Lên trên kia đi,” anh ta nói, “tìm cảnh sát kỹ thuật hình sự xem họ có phát hiện được gì không - bằng chứng vật lộn, máu, vũ khí. Điện thoại của cô ấy sẽ là một khởi đầu tốt đấy, vì cô ấy không mang theo trong người.”
“Anh nói đúng.” Trên đường rời khỏi đó, tôi liếc nhìn người phụ nữ và nghĩ thầm trông cô ta mới buồn bã làm sao, giản dị và không trang điểm.
“Tên cô ấy là Danielle Abbott,” Townsend nói, hơi lên giọng. “Cô ấy sống trong vùng. Cô ấy là nhà văn và nhiếp ảnh gia, tương đối thành công. Cô ấy có một con gái, mười lăm tuổi. Vậy nên là không, để trả lời cho câu hỏi của cô, tôi không nghĩ có khả năng cô ấy tự nhảy xuống.”
Chúng tôi cùng nhau leo lên vách đá. Ta đi theo con đường mòn từ bãi cát hẹp dọc sườn vùng sông cho tới khi nó ngoặt sang phải, xuyên qua một lùm cây, sau đó là một con dốc chạy lên đồi tới đỉnh vách đá. Con đường mòn thỉnh thoảng lại lầy lội - tôi có thể thấy những vết trượt của giày ủng, xóa sạch những dấu chân lưu lại trước đó. Trên đỉnh vách đá, con đường ngoặt gấp sang trái và rồi lại chạy từ trong đám cây cối ra, dẫn sang bên phải về phía gờ một vách đá. Dạ dày tôi nhộn nhạo.
“Lạy Chúa.”
Townsend ngoái lại liếc qua vai. Anh ta có vẻ hơi thích thú. “Sợ độ cao à?”
“Một nỗi sợ hoàn toàn hợp lý là nhỡ mình lỡ bước rồi ngã chết mất,” tôi đáp. “Anh không nghĩ là họ nên dựng rào chắn hay sao đó à? Không an toàn lắm nhỉ?”
Thanh tra không trả lời, chỉ tiếp tục tiến về trước, quả quyết bước về phía rìa vách đá. Tôi theo sau, nép người vào những bụi kim tước để tránh nhìn qua vách đá thẳng đứng xuống dòng nước bên dưới.
Viên cảnh sát kỹ thuật hình sự - râu tóc rậm rì mặt mày nhợt nhạt, hình như mấy người làm nghề này luôn trông như thế - không có mấy thông tin có thể xem như tích cực.
“Không máu, không vũ khí, không có dấu hiệu vật lộn rõ rệt nào,” ông ta nhún vai nói. “Thậm chí còn không có mấy thứ kiểu như lá tươi rụng nữa cơ. Tuy nhiên, máy quay của cô ta hỏng rồi. Và không có thẻ nhớ trong.”
“Máy quay?”
Râu Rậm quay sang tôi. “Cô có tin nổi không? Cô ta đã bố trí một máy quay có tính năng tự động kích hoạt khi có chuyển động, đây là một phần của cái dự án mà cô ta đang tiến hành.”
“Tại sao?”
Ông ta nhún vai. “Để quay phim những người lên đây… để xem họ lên đây làm gì? Cô biết đấy, thỉnh thoảng cô sẽ bắt gặp vài kẻ lập dị lảng vảng quanh đây, vì toàn bộ lịch sử của nơi này. Hoặc có khi cô ta muốn bắt được cảnh một người đang lúc nhảy xuống…” Ông ta nhăn mặt lại.
“Lạy Chúa. Và ai đó đã phá hỏng máy quay của cô ta rồi? Chậc, chuyện đó… thật phiền phức.”
Ông ta gật đầu.
Townsend thở dài, khoanh tay trước ngực. “Quả là vậy. Mặc dù cũng không nhất thiết là chuyện đó có ý nghĩa gì. Trước đây đồ nghề của cô ấy cũng từng bị người khác cố tình phá hoại rồi. Dự án của cô ấy bị nhiều người dân ở đây ghét bỏ lắm. Thực ra,” anh ta dấn thêm vài bước tiến tới sát mép vách đá hơn và tôi cảm thấy đầu óc quay mòng mòng, “tôi không chắc liệu cô ấy có thay máy quay sau lần bị phá hoại gần đây nhất không.” Anh ta ngó ra ngoài mép đá. “Còn có một cái khác nữa, phải không nhỉ? Gắn cố định đâu đó dưới kia. Có gì ở đó không?”
“Phải, có vẻ như nó vẫn còn nguyên vẹn. Chúng tôi sẽ mang nó vào, nhưng…”
“Nó sẽ chẳng cho thấy cái gì đâu.”
Râu Rậm lại nhún vai. “Có lẽ cho thấy cô ta đang tiến vào trong khung hình, nhưng nó sẽ chẳng cho ta biết chuyện gì đã xảy ra trên này đâu.”
Hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc đó, và chúng tôi dường như chẳng tiến thêm được bước nào trong việc tìm hiểu xem chuyện gì đã thật sự xảy ra ở trên đó. Không tìm thấy điện thoại của Nel Abbott, một chuyện tương đối kỳ quái, mặc dù có lẽ cũng không đến nỗi quá kỳ quái. Nếu cô ta chủ định nhảy thì khả năng cao là cô ta đã vứt nó đi từ trước. Nếu cô ta bị ngã thì hẳn nó vẫn còn nằm đâu đó dưới nước, có thể nó đã chìm xuống lớp bùn hoặc bị cuốn đi nơi khác. Nếu cô ta bị đẩy xuống thì tất nhiên kẻ đã đẩy cô ta có lẽ đã tước nó khỏi cô ta trước tiên, nhưng dựa vào việc chẳng có bất kỳ dấu hiệu vật lộn nào trên vách đá, có vẻ như không có mấy khả năng ai đó đã giật nó ra khỏi người cô ta.
Tôi bị lạc đường lúc trở về sau khi đưa Jules (KHÔNG PHẢI Julia, có vẻ thế) đến bệnh viện để nhận dạng thi thể. Tôi thả cô trở lại nhà Cối Xay và trong lúc vẫn đinh ninh mình đang quay về phía đồn cảnh sát thì phát hiện ra không phải vậy: sau khi băng qua cầu, chẳng hiểu sao tôi đã vòng một vòng rồi hóa ra lại quay lại con sông. Như tôi đã nói đấy, rẽ theo đường nào cũng đụng phải dòng nước. Dù sao đi nữa, tôi cũng đã rút điện thoại ra, và đang cố hình dung xem mình đã đi tới chỗ nào thì phát hiện ra một nhóm mấy đứa con gái đang đi bộ trên cầu. Lena, cao hơn hẳn một cái đầu so với các bạn, đã tách khỏi nhóm.
Tôi bỏ xe lại và bám theo sau con bé. Tôi có chuyện muốn hỏi nó, một chuyện dì nó đã nhắc đến, nhưng tôi còn chưa bắt kịp nó thì nó đã bắt đầu tranh cãi với người khác - một phụ nữ, có lẽ bốn mươi tuổi. Tôi thấy Lena
túm cánh tay bà ta, người phụ nữ giằng ra rồi giơ cả hai bàn tay lên mặt, như đang sợ bị đánh. Rồi họ đột ngột tách ra, Lena rẽ trái còn người phụ nữ thẳng bước leo lên đồi. Tôi theo sau Lena. Nó nhất quyết không chịu cho tôi biết chuyện vừa rồi là sao. Nó khăng khăng chẳng có gì không ổn cả, rằng hoàn toàn không có chuyện cãi cọ gì, rằng dù sao đi nữa đấy cũng chẳng phải việc của tôi. Một màn trình diễn thái quá, nhưng nước mắt hoen thành vệt trên mặt nó thật. Tôi ngỏ ý đưa nó về nhà, nhưng nó bảo tôi xéo đi cho khuất mắt.
Tôi đã làm thế. Tôi lái xe về đồn và thuật lại với Townsend chi tiết màn nhận dạng thi thể chính thức của Jules Abbott
Phù hợp với bầu không khí chung, cuộc nhận diện thi thể này cũng thật quái dị. “Cô ấy không khóc,” tôi nói với sếp, và anh ta làm một cử chỉ kiểu như gục gặc đầu, ra chiều muốn nói, Ôi dào, thế cũng bình thường. “Đâu có bình thường,” tôi khăng khăng. “Đây đâu phải cú sốc bình thường. Nó thật kỳ quái.”
Anh ta chuyển người trên ghế. Anh ta đang ngồi đằng sau bàn làm việc trong một văn phòng bé tí hin ở phía sau đồn cảnh sát, và nhìn chung, anh ta có vẻ quá lớn so với căn phòng, như thể chỉ cần đứng dậy là anh ta sẽ đụng đầu vào trần. “Kỳ quái thế nào?”
“Khó giải thích lắm, nhưng có vẻ như cô ấy đang nói mà không hề phát ra bất kỳ âm thanh nào. Và ý tôi không phải muốn nói đến kiểu nức nở âm thầm đâu. Lạ lắm. Môi cô ấy mấp máy như là đang nói gì đó… và không chỉ là nói gì đó, mà là nói với ai đó. Đang trò chuyện.”
“Nhưng thật ra cô không thể nghe được gì?”
“Không gì hết.”
Anh ta liếc nhìn màn hình laptop trước mặt và lại quay nhìn tôi. “Có
vậy thôi à? Cô ấy có nói gì với cô không? Bất kỳ điều gì, bất kỳ điều gì hữu ích?”
“Cô ấy hỏi về cái vòng tay. Có vẻ như Nel giữ một cái vòng tay từng là của mẹ họ, và cô ta luôn đeo nó không rời. Hoặc ít nhất cho đến lần gặp Jules gần nhất, cách đây vài năm, thì Nel vẫn luôn đeo nó.” Townsend gật đầu, gãi gãi cổ tay.
“Không có dấu vết gì của nó trong đám tư trang của cô ta, tôi đã kiểm tra rồi. Cô ta đeo một chiếc nhẫn - không có đồ nữ trang nào khác.” Anh ta chìm vào im lặng một lúc lâu đến độ tôi nghĩ có khi cuộc nói chuyện đã kết thúc. Tôi toan rời khỏi phòng thì đột nhiên anh ta nói, “Cô nên hỏi Lena về chuyện đó xem.”
“Tôi đã định thế đấy chứ” tôi bảo anh ta, “chỉ có điều con bé chẳng hề có hứng thú nói chuyện với tôi.” Tôi kể lại cho anh ta nghe về cuộc chạm trán trên cầu.
“Người phụ nữ đó,” anh ta nói. “Miêu tả bà ta xem nào.”
Vậy là tôi tuân lệnh: vừa qua bốn mươi, hơi đậm người, tóc đen, mặc áo cardigan dài màu đỏ bất chấp cái nóng.
Townsend săm soi tôi một hồi lâu.
“Không phát hiện được gì sao?” tôi hỏi.
“Ồ có chứ,” anh ta nói, nhìn tôi như thể đang nhìn một đứa nhóc đặc biệt ngây ngô. “Đó là Louise Whittaker.”
“Và bà ta là?”
Anh ta cau mày. “Cô vẫn chưa có bất kỳ kiến thức nền gì về nơi này hả?”
“Thật tình là chưa,” tôi nói. Tôi muốn chỉ ra cho anh ta thấy rằng việc
bổ túc cho tôi bất kỳ kiến thức nền liên quan nào hẳn có thể được xem như công việc của anh ta, vì anh ta là người địa phương cơ mà. Anh ta thở dài và bắt đầu gõ lên bàn phím máy tính. “Cô nên đẩy nhanh tốc độ với toàn bộ chuyện này đi. Lẽ ra cô phải được cung cấp tài liệu.” Anh ta đập một phím Enter đặc biệt cứng đầu, như thể anh ta đang nện lên một chiếc máy đánh chữ chứ không phải một cái iBook nhìn đã thấy đắt đỏ. “Và cô cũng nên đọc hết bản thảo của Nel Abbott đi.” Anh ta ngẩng lên nhìn tôi và cau mày. “Dự án cô ấy đang tiến hành ấy? Nó sẽ thành một dạng như sách ảnh để bàn, tôi nghĩ thế. Các bức ảnh và các câu chuyện về Beckford.”
“Một cuốn lịch sử địa phương á?”
Anh ta thở hắt ra. “Đại loại thế. Cách hiểu của Nel Abbott về các sự kiện. Về các sự kiện chọn lọc. Sự… thêu dệt của cô ấy về mọi chuyện. Như tôi đã nhắc đến rồi đấy, không phải một thứ được nhiều người dân địa phương ưa thích. Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng có bản sao mọi thứ cô ấy đã viết tính đến giờ. Một điều tra viên sẽ kiếm cho cô một bản. Cứ hỏi Callie Buchan nhé - cô sẽ tìm thấy cô ấy ngoài kia. Vấn đề là một trong những vụ việc cô ấy viết lại chính là vụ Katie Whittaker, tự tử hồi tháng Sáu. Katie là bạn thân của Lena Abbott và Louise, mẹ cô bé, cũng từng một thời thân thiết với Nel. Họ đã cãi nhau, có vẻ như là về nội dung tác phẩm của Nel, và rồi sau đó khi Katie chết…”
“Louise đổ lỗi cho cô ta,” tôi nói. “Bà ta nghĩ Nel phải chịu trách nhiệm.”
Anh ta gật đầu. “Phải, đúng như vậy.”
“Vậy tôi cũng nên đi nói chuyện với bà ta nhỉ, bà Louise này này?” “Không,” anh ta đáp. Hai mắt anh ta vẫn dán vào màn hình. “Để tôi
làm cho. Tôi quen bà ta. Tôi là người đã điều tra cái chết của con gái bà ta.”
Anh ta lại chìm vào im lặng một hồi lâu. Anh ta không xua tôi đi, vậy nên cuối cùng tôi nói. “Có nghi ngờ nào rằng có một ai khác liên quan đến cái chết của Katie không?”
Anh ta lắc đầu. “Không. Không có nguyên nhân rõ ràng, nhưng cô cũng biết thừa rồi đấy, thường thì cũng làm gì có đâu. Dù sao đi nữa, với những người bị bỏ lại thì cũng chẳng có nguyên nhân hợp lý nào. Nhưng Katie đã để lại thư tuyệt mệnh.” Anh ta đưa một bàn tay lên che mắt. “Đó chỉ là một thảm kịch thôi.”
“Vậy là năm nay đã có hai phụ nữ chết trong dòng sông đó?” tôi hỏi. “Hai phụ nữ quen biết nhau, có mối liên hệ…” Viên thanh tra không nói gì, anh ta không nhìn tôi, tôi thậm chí còn chẳng chắc liệu anh ta có đang nghe hay không. “Đã có bao nhiêu người chết ở đó rồi? Ý tôi là, tổng cộng ấy?”
“Kể từ khi nào?” anh ta hỏi, lại lắc đầu. “Cô muốn lần ngược lại xa đến đâu?”
Như tôi đã nói đấy, kỳ quái quá mức.
Jules
Em luôn cảm thấy hơi sợ chị. Chị biết điều đó, chị thích nỗi sợ của em, thích cái sức mạnh mà nó cho phép chị đàn áp em. Vậy nên em cho là, dù thế nào đi nữa, chị hẳn sẽ thích buổi chiều hôm nay.
Họ đề nghị em nhận dạng xác chết - Lena tình nguyện đi, nhưng họ bảo con bé không được, vậy nên em đành phải đồng ý. Nào còn ai khác đâu. Và mặc dù không muốn nhìn thấy chị, em biết mình vẫn buộc phải làm, bởi vì thà nhìn thấy chị còn hơn là tưởng tượng ra chị; nỗi kinh hoàng do tâm trí khơi dậy luôn luôn tệ hơn nhiều so với bản thân nó. Và em cần phải nhìn thấy chị, bởi vì cả hai ta đều biết em sẽ không tin chuyện đó, không tài nào thuyết phục bản thân tin rằng chị đã ra đi, cho tới chừng nào em nhìn thấy chị.
Chị nằm trên băng ca giữa phòng lạnh, một tấm khăn phủ màu xanh lục nhạt phủ lên người. Một người đàn ông trẻ tuổi đang đứng đó, mặc bộ quần áo phẫu thuật, gật đầu chào em cùng điều tra viên, và cô ấy cũng gật đầu chào lại. Lúc anh ta chìa tay ra để kéo ngược tấm khăn phủ, em đã nín thở. Em không nhớ nổi kể từ hồi còn nhỏ tới giờ đã khi nào em cảm thấy sợ hãi đến vậy chưa.
Em đã đợi chị nhảy dựng lên với em.
Chị không làm thế. Chị bất động và xinh đẹp. Khuôn mặt chị luôn bộc lộ rất nhiều - rất nhiều cảm xúc, niềm vui hay vẻ nham hiểm - và nó vẫn còn y nguyên ở đấy, những dấu vết của nó, chị vẫn là chị, vẫn hoàn hảo, và rồi suy nghĩ ấy bất chợt lóe lên trong đầu em: chị đã nhảy xuống.
Chị đã nhảy xuống?
Chị đã nhảy xuống?
Cái từ đó, nó dường như sai sai thế nào đó trong miệng em. Chị sẽ không nhảy xuống. Chị sẽ chẳng bao giờ làm thế, đó không phải cách để làm điều đó. Chị đã từng nói với em như thế. Vách đá không đủ cao, chị bảo. Khoảng cách từ đỉnh vách đá tới mặt nước chỉ có năm mươi lăm mét - người ta có thể vẫn sống sót sau cú rơi. Vậy nên, chị bảo, nếu ta nghiêm túc có ý định đấy, nếu ta thật lòng nghiêm túc có ý định ấy, ta cần phải đảm bảo chắc chắn. Đầu chúc xuống trước. Nếu nghiêm túc có ý định ấy, đừng chỉ nhảy, mà nên lao đầu xuống cơ.
Và trừ phi ta nghiêm túc có ý định ấy, chị bảo, còn không thì làm thế làm gì chứ? Đừng có biến mình thành khách du lịch. Chẳng ai thích khách du lịch đâu.
Người ta có thể sống sót sau cú rơi, nhưng điều đó không có nghĩa là họ sẽ như thế. Rốt cuộc thì chị thế này đây, chị đã không lao đầu xuống. Chị đã cho chân xuống trước và vậy là chị thế này đây: chân gãy, lưng gãy, cả người gãy. Điều đó nghĩa là sao, Nel? Có phải thế có nghĩa là chị đã chùn chân? (Không giống chị chút nào.) Phải chăng chị không thể chịu đựng được nó, cái ý tưởng chúc đầu xuống trước, hủy hoại khuôn mặt xinh đẹp của chị? (Chị lúc nào cũng vô cùng phù phiếm.) Với em thì chuyện này chẳng hề hợp lý. Nói một đằng làm một nẻo và đi ngược lại ý muốn của mình không phải là phong cách của chị.
(Lena bảo chẳng có bí ẩn gì ở đây hết, nhưng con bé thì biết gì cơ chứ?)
Em cầm tay chị và nó có vẻ thật xa lạ trong tay em, không chỉ bởi vì nó lạnh ngắt mà còn vì em không nhận ra được hình dạng của nó, cái cảm giác khi chạm vào nó. Lần cuối cùng em nắm tay chị là khi nào nhỉ? Có lẽ
là lúc chị với tìm tay em ở lễ tang của mẹ? Em vẫn nhớ đã xoay người tránh khỏi chị, xoay người sang phía bố. Em vẫn nhớ biểu cảm trên mặt chị (chị đã trông đợi điều gì?) Trái tim em đã trở nên đờ đẫn trong lồng ngực, nhịp đập của nó chậm lại theo tiếng trống tang.
Ai đó nói. “Xin lỗi, nhưng cô không được phép chạm vào cô ấy.” Bóng điện kêu vo vo phía trên đầu em, chiếu sáng làn da chị, nhợt nhạt và tái xám trên nền thép bên dưới chị. Em đặt ngón tay cái lên trán chị, lướt ngón tay theo sườn mặt chị.
“Xin đừng chạm vào cô ấy.” Điều tra viên Morgan đang đứng ngay phía sau em. Em có thể nghe thấy tiếng thở của cô ấy, chậm rãi và đều đặn, át tiếng đèn điện vo vo.
“Đồ đạc của chị ấy đâu?” em hỏi. “Quần áo chị ấy đã mặc, nữ trang của chị ấy?”
“Chúng sẽ được trả lại cho cô,” điều tra viên Morgan nói, “sau khi bên pháp y kiểm tra xong xuôi.”
“Có cái vòng tay nào không?” em hỏi cô ấy.
Cô ấy lắc đầu. “Tôi không biết, nhưng cho dù cô ấy mang theo gì thì nó cũng sẽ đều được trả lại cho cô thôi.”
“Đúng lý ra là phải có một chiếc vòng tay,” em lặng lẽ nói, nhìn xuống Nel. “Một chiếc vòng tay bạc có móc gài bằng mã não. Nó là của mẹ chúng tôi, nó được khắc các chữ cái đầu tên của bà ấy. SJA. Sarah Jane. Chị ấy lúc nào cũng đeo nó. Mẹ luôn làm thế. Và rồi đến lượt chị.” Viên cảnh sát nhìn em chằm chằm. “Ý tôi là, chị ấy làm thế. Ý tôi là Nel làm thế.”
Em lại hướng ánh mắt chăm chú vào chị, vào cái cổ tay mảnh mai của
chị, vào nơi cái móc bằng mã não hẳn sẽ yên vị trên những đường gân xanh. Em muốn chạm vào chị lần nữa, sờ vào làn da chị. Em có cảm giác chắc chắn rằng em có thể đánh thức chị dậy. Em thì thầm tên chị và đợi chị cựa mình, chờ đợi đôi mắt chị chớp mở và dõi theo em khắp căn phòng. Em đã nghĩ có lẽ em nên hôn chị, biết đâu cái mẹo với nàng công chúa ngủ trong rừng có hiệu quả, và em không khỏi mỉm cười, vì chị thể nào cũng căm ghét cái ý tưởng đó. Chị chẳng bao giờ là công chúa, chị chẳng bao giờ là người đẹp thụ động chờ đợi một chàng hoàng tử, chị khác hẳn. Chị về phe bóng tối, về phe bà mẹ kế độc ác, về phe bà tiên xấu, mụ phù thủy.
Em cảm thấy ánh mắt cô điều tra viên đang dán lên người em và em mím môi lại kìm nén nụ cười. Mắt em khô cong và cổ họng em trống rỗng, và khi em thì thầm với chị, dường như chẳng hề có âm thanh nào phát ra. “Chị muốn nói gì với em?”
Lena
Lẽ ra phải là tôi mới đúng. Tôi là người gần gũi nhất về mặt huyết thống với mẹ, là người thân trong nhà. Người yêu thương bà. Lẽ ra phải là tôi mới đúng, nhưng họ lại không cho phép tôi đi. Tôi bị bỏ lại một mình, chẳng có việc gì để làm ngoài ngồi trong ngôi nhà trống trải mà hút đến điếu thuốc cuối cùng. Tôi tới cửa hàng trong làng mua thêm - bà béo ở đó thỉnh thoảng vẫn đòi xem giấy căn cước của tôi nhưng tôi biết hôm nay thì không. Tôi vừa đi khỏi thì nhìn thấy mấy con ranh cùng trường - Tanya và Ellie cùng với cả đám ấy - đang bước trên đường cái tiến về phía tôi.
Tôi cảm thấy sắp nôn đến nơi, tôi bèn cúi đầu xuống, rẽ tránh sang hướng khác và bắt đầu rào chân hết tốc lực, nhưng chúng nó đã nhìn thấy tôi, chúng gọi vàng lên và cả đám bắt đầu chạy để bắt kịp tôi. Tôi không biết chúng định làm gì. Hóa ra, khi bắt kịp tôi, cả đám bèn ôm chầm lấy tôi và bảo chúng lấy làm thương tiếc thế nào, và Ellie thật ra còn mặt dày nhỏ ra mấy giọt nước mắt giả dối chết tiệt. Tôi mặc cho chúng đu lên người, mặc cho chúng khoác tay quanh người tôi và vuốt tóc tôi. Quả thật cảm giác được đụng chạm cũng khá dễ chịu.
Chúng tôi lên cầu - tụi nó đang tính chuyện lên chỗ căn nhà nhỏ của gia đình Ward để làm vài viên thuốc rồi đi bơi - “Nó sẽ giống như một cuộc thức canh linh cữu vậy, kiểu như một lễ kỷ niệm,” Tanya nói. Ngu hết sức. Nó có thật lòng cho rằng hôm nay tôi còn có tâm trạng để chơi thuốc và đi bơi ở dòng nước ấy? Tôi vẫn đang cố nghĩ xem nên nói gì thì nhìn thấy Louise và đúng là chẳng khác gì chết đuối vớ được cọc, vậy là tôi có thể lẳng lặng tách ra khỏi chúng mà chúng chẳng làm gì được.
Thoạt đầu, tôi tưởng bác ấy không nghe tiếng tôi gọi, nhưng lúc bắt kịp bác, tôi thấy bác đang khóc và không muốn ở cạnh tôi. Tôi tóm chặt bác. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi chỉ muốn bác đừng bỏ đi, đừng bỏ lại tôi ở đó mặc cho lũ kền kền chó đẻ kia nhìn ngó và giả vờ buồn bã trong lúc vẫn thích thú thưởng thức màn kịch chết bầm. Bác ấy cố giằng ra, nậy từng ngón tay của tôi ra, và bác bảo, “Bác xin lỗi, Lena, bác không thể nói chuyện với cháu bây giờ được. Bác không thể nói chuyện với cháu được.”
Tôi những muốn nói gì đó với bác, kiểu như: Bác đã mất con gái còn cháu đã mất mẹ. Điều đó không khiến chúng ta hòa nhau ư? Bây giờ bác vẫn không thể tha thứ cho cháu sao?
Nhưng tôi không nói gì, và rồi đúng lúc đó cô nàng cảnh sát không biết gì kia xuất hiện và dường như muốn hiểu mọi chuyện theo hướng chúng tôi đã cãi nhau, vậy nên tôi cũng thuận theo rồi đi bộ về nhà một mình.
Tôi cứ tưởng đến lúc tôi về nhà thì dì Julia đã quay lại rồi. Thật tình, chuyện đó thì mất bao nhiêu thời gian chứ, đi đến nhà xác, nhìn người ta kéo khăn phủ ra sau và bảo, vâng, đúng là chị ấy đấy? Không có mấy khả năng dì Julia sẽ muốn ngồi với mẹ, nắm tay mẹ, an ủi mẹ, giống như tôi sẽ làm.
Lẽ ra phải là tôi mới đúng, nhưng họ không cho tôi đi.
Tôi lặng lẽ nằm trên giường. Tôi thậm chí chẳng buồn nghe nhạc vì tôi cảm thấy tất cả mọi thứ đều mang cái ý nghĩa khác này, cái ý nghĩa trước đây tôi đã không nhìn ra và bây giờ nó khơi lên quá nhiều đau đớn nên chẳng dễ gì mà đối mặt được. Tôi không muốn cứ khóc mãi, nó khiến lồng ngực tôi đau đớn, cổ họng tôi đau đớn, và tệ hơn hết thảy là chẳng có ai đến giúp tôi. Chẳng còn lại ai để giúp tôi. Vậy nên tôi nằm trên giường,
hút thuốc triền miên cho đến lúc nghe tiếng cửa chính mở. Dì Julia không lớn tiếng gọi tôi hay làm gì tương tự, nhưng tôi nghe tiếng dì trong bếp, mở rồi đóng tủ bát, loảng xoảng tiếng nồi niêu. Tôi đợi dì đến gặp tôi, nhưng cuối cùng, tôi chỉ phát chán lên và thấy buồn nôn vì hút thuốc quá nhiều và đói ngấu, vậy nên tôi xuống dưới tầng. Di đang đứng bên bếp khuấy gì đó và giật mình lúc quay lại thấy tôi. Không phải kiểu giật mình bình thường khi ta bị ai đó hù và rồi phá lên cười; nỗi sợ hãi vẫn ở nguyên trên mặt dì ấy.
“Lena,” dì nói. “Cháu ổn chứ?”
“Dì có thấy mẹ không?” tôi hỏi.
Dì gật đầu và nhìn xuống sàn. “Chị ấy có vẻ… đúng là chị ấy.” “Thế thì tốt,” tôi nói. “Cháu mừng là thế. Cháu không muốn nghĩ rằng mẹ…”
“Không. Không. Không như vậy đâu. Không gãy nát.” Dì quay trở lại với ngăn lò sưởi. “Cháu có thích spaghetti Bolognese không?” dì hỏi. “Dì đang nấu… dì đang nấu món ấy đấy.”
Tôi thích chứ, nhưng tôi không muốn nói cho dì biết, vậy nên tôi không đáp. Thay vào đó, tôi hỏi dì, “Tại sao dì lại nói dối cảnh sát?” Dì quay ngoắt lại, chiếc thìa gỗ trong tay dì vẩy nước xốt đỏ lên sàn. “Cháu nói thế là sao, Lena? Dì không nói dối…”
“Có, dì có nói dối. Dì bảo họ rằng dì chẳng bao giờ nói chuyện với mẹ cháu, rằng dì không có liên lạc gì trong nhiều năm…” “Thì đúng vậy mà.” Cả mặt lẫn cổ dì đều đỏ au, miệng dì trễ xuống như miệng một thằng hề, và tôi đã nhìn thấy nó, sự xấu xí mẹ từng nhắc đến. “Dì chẳng có bất kỳ liên lạc có ý nghĩa nào với mẹ cháu từ hồi…”
“Mẹ cháu gọi điện thoại cho dì suốt.”
“Không phải suốt. Thỉnh thoảng thôi. Và đằng nào thì bọn dì cũng đâu có nói chuyện.”
“Phải, mẹ kể với cháu là dì không chịu nói chuyện với mẹ, bất kể mẹ có cố gắng đến thế nào đi nữa.”
“Chuyện phức tạp hơn thế, Lena ạ.”
“Phức tạp như thế nào?” tôi bật lại. “Như thế nào?” Dì tránh mắt không nhìn tôi. “Đấy là lỗi của dì, dì biết thế.”
Dì bỏ cái thìa xuống và dấn thêm vài bước về phía tôi, hai tay chống nạnh, khuôn mặt đầy quan tâm, như một giáo viên đang sắp sửa bảo ta rằng bà ấy thất vọng đến thế nào trước thái độ của ta trong lớp. “Cháu nói thế là sao?” dì hỏi. “Lỗi nào của dì?”
“Mẹ đã cố gắng liên lạc với dì, mẹ muốn nói chuyện với dì, mẹ cần…”
“Mẹ cháu không cần dì. Nel chẳng bao giờ cần dì.”
“Mẹ cháu không hề sống vui vẻ!” tôi nói. “Dì thậm chí chẳng buồn quan tâm sao?”
Dì thối lui một bước. Dì lau mặt như thể vừa bị tôi nhổ nước bọt. “Tại sao mẹ cháu lại sống không vui vẻ? Dì không… Mẹ cháu chưa từng bảo là mẹ cháu sống không vui vẻ. Mẹ cháu chưa từng bảo dì rằng mẹ cháu sống không vui vẻ.”
“Vậy nếu mẹ bảo thì dì sẽ làm gì? Chẳng gì cả! Dì sẽ chẳng làm gì cả, dì vẫn luôn như vậy. Y như khi bà ngoại mất và dì đã tỏ thái độ hết sức đáng ghét với mẹ, hay như khi mẹ mời dì đến đây lúc nhà cháu chuyển đến, hay khi mẹ mời dì đến chơi hồi sinh nhật cháu và dì thậm chí chẳng
buồn đáp lại! Dì chỉ phớt lờ mẹ, y như mẹ không hề tồn tại. Mặc dù dì biết mẹ chẳng còn ai khác, mặc dù…”
“Mẹ cháu có cháu mà,” dì Julia nói. “Và dì không bao giờ ngờ rằng mẹ cháu sống không vui vẻ, dì…”
“Ồ, mẹ cháu thực sự sống không vui đấy. Mẹ thậm chí còn chẳng đi bơi nữa.”
Dì Julia đứng chết sững, dì quay đầu về phía cửa sổ như thể đang lắng nghe điều gì. “Cái gì?” dì hỏi, nhưng không nhìn tôi. Cứ như thể dì đang nhìn ai đó khác, hoặc nhìn vào hình phản chiếu của chính dì. “Cháu bảo sao?”
“Mẹ ngừng bơi. Từ lúc bắt đầu có ý thức, cháu vẫn nhớ mẹ thường ra bể bơi hay ra sông, ngày nào cũng như ngày nào, nó là sở thích của mẹ, mẹ cháu là một kình ngư. Ngày nào cũng như ngày nào, kể cả giữa mùa đông khi nước đóng băng và ta phải phá vỡ lớp băng trên mặt nước. Thế rồi mẹ ngừng. Cứ thế mà ngừng thôi. Mẹ cháu sống không vui vẻ đến như thế đấy.”
Dì không nói gì một hồi, dì chỉ đứng đó, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, như thể đang tìm kiếm ai đó. “Cháu có biết… Lena, cháu có nghĩ là mẹ cháu đã chọc ai đó không? Hoặc ai đó đã quấy rầy mẹ cháu, hoặc…?”
Tôi lắc đầu. “Không. Nếu có thì mẹ đã kể với cháu.” Nếu có thì mẹ đã cảnh báo tôi.
“Thật hả?” dì Julia hỏi. “Bởi vì, cháu biết đấy, Nel… mẹ cháu… chị ấy có một kiểu rất riêng, phải không? Ý dì là, mẹ cháu rất biết cách chọc tức người khác, biết cách khiến cho người ta phát điên…”
“Không, không phải như thế!” tôi quát lên, mặc dù quả thực thỉnh thoảng mẹ vẫn thế, nhưng chỉ với những người ngu ngốc, chỉ với những
người không hiểu mẹ thôi. “Dì chẳng biết gì về mẹ cháu hết, dì chẳng hiểu gì về mẹ cháu. Dì chỉ là một con mụ khốn kiếp hay đố kỵ - từ hồi còn trẻ dì đã như vậy và cả giờ vẫn vậy. Lạy Chúa. Thậm chí nói chuyện với dì cũng chẳng ý nghĩa gì.”
Tôi bỏ ra khỏi nhà mặc dù đang đói gần chết. Thà đói gần chết còn hơn là ngồi đó ăn cùng dì, việc đó giống như một sự phản bội vậy. Tôi không ngừng nghĩ đến cảnh mẹ ngồi đó, nói chuyện vào điện thoại, và sự im lặng ở phía đầu dây bên kia. Con mụ lạnh lùng khốn kiếp. Tôi đã từng có lần bực mình với mẹ vì chuyện đó, bảo mẹ, Sao mẹ không mặc xác nó đi? Quên dì ấy đi? Rõ ràng dì ấy chẳng muốn liên quan gì đến chúng ta. Mẹ nói, Dì là em gái mẹ, dì là người nhà duy nhất của mẹ. Tôi bảo, Thế còn con thì sao, con cũng là người nhà mà. Thế là mẹ bật cười nói, Con không phải người nhà. Con còn hơn cả người nhà. Con là một phần máu mủ của mẹ.
Một phần máu mủ của tôi đã ra đi, mà tôi thậm chí còn chẳng được phép gặp bà. Tôi không được phép siết tay bà hay hôn chào tạm biệt hay nói với bà rằng tôi hối tiếc biết bao.
Jules
Tôi không đi theo. Thật ra tôi không muốn bắt kịp Lena. Tôi không biết tôi muốn gì. Vậy nên tôi cứ đứng đó, trên thềm trước nhà, hai bàn tay chà xát hai bắp tay, đôi mắt dần quen với bóng tối nhá nhem đang mỗi lúc một dày đặc.
Em biết em không muốn gì: em không muốn đối đầu với con bé, không muốn nghe thêm gì nữa. Lỗi của em ư? Làm sao chuyện này lại là lỗi của em được? Nếu chị sống không vui vẻ, sao chị chẳng bao giờ nói cho em biết. Nếu chị nói với em, em hẳn đã lắng nghe. Trong đầu em, chị bật cười. OK, nhưng nếu chị bảo với em chị đã ngừng bơi, Nel, vậy thì em hẳn đã biết có chuyện không ổn. Bơi lội chính là cốt lõi sự lành mạnh tinh thần của chị, chị đã từng nói với em như thế, không có nó, chị gục ngã. Không thứ gì giữ được chị rời xa dòng nước, cũng hệt như không thứ gì có thể lôi em vào trong nó.
Có điều đã có thứ làm được. Có thứ hẳn đã làm được.
Tôi đột nhiên thấy đói cào cả ruột, chẳng hiểu sao đột nhiên lại thấy thèm khát mãnh liệt được lấp đầy cái dạ dày. Tôi quay vào trong nhà, tự lấy cho mình một bát mì Bolognese, rồi thêm bát nữa, và bát thứ ba. Tôi ăn và ăn và rồi, chán ghét chính bản thân, tôi lên gác.
Quỳ trong phòng tắm, tôi để đèn tắt. Một thói quen bỏ bễ từ lâu nhưng cũng vì đã quá lâu nên khi làm lại nó mang tới một cảm giác gần như an ủi. Tôi rạp người trong bóng tối, những mạch máu trên mặt căng ra đến mức chỉ chực vỡ tung, hai mắt tôi đầm đìa nước mắt trong lúc tôi tẩy ruột. Khi cảm thấy đã không còn giữ lại bất kỳ chút gì, tôi đứng dậy, xối nước, rồi
vã nước lên mặt, tránh ánh mắt của chính mình trong tấm gương nhưng thành ra lại khiến tầm mắt rơi xuống hình phản chiếu trên bồn tắm phía sau.
Tôi đã không ngồi ngâm mình trong nước hơn hai mươi năm nay rồi. Hàng mấy tuần liền sau vụ suýt chết đuối, tôi vẫn thấy khó mà tắm rửa cho tử tế. Đến khi tôi đã bắt đầu bốc mùi, mẹ đành phải lôi tôi vào dưới vòi hoa sen và giữ chặt tôi ở đó.
Tôi nhắm mắt lại, tiếp tục vã nước lên mặt. Tôi nghe thấy tiếng xe chạy chậm dần trên con đường nhỏ ngoài nhà, nhịp tim tôi tăng lên theo đà giảm tốc của chiếc xe, và rồi lại giảm bớt khi chiếc xe lại tăng tốc. “Chẳng có ai đến hết,” tôi nói to thành tiếng. “Chẳng có gì phải sợ.”
Lena vẫn chưa quay về, tuy nhiên tôi chẳng biết tìm con bé ở đâu trong thị trấn này, một chốn vừa thân quen lại vừa xa lạ. Tôi lên giường nhưng không ngủ được.
Mỗi lần nhắm mắt em lại nhìn thấy khuôn mặt chị, xanh tái và nhợt nhạt, môi tím bầm, và trong trí tưởng tượng của em, hai phiến môi ấy co rút vào bên trên lợi chị, và dẫu cho mồm chị đang đầy máu, chị vẫn mỉm cười.
“Thôi đi, Nel.” Tôi lại nói lên thành tiếng, y như một mụ điên. “Hãy thôi đi.”
Em dỏng tai lên chờ chị trả lời, nhưng đáp lại em chỉ có lặng im, thứ lặng im chỉ bị phá vỡ bởi tiếng nước chảy, âm thanh của ngôi nhà chuyển động, cựa mình, kẽo kẹt khi dòng sông xô qua. Trong bóng tối, em dò dẫm tìm điện thoại để trên nóc tủ đầu giường và nhấn số truy cập hòm thư thoại. Bạn không có tin nhắn mới, giọng nói điện tử thông báo với em, và có bản tin nhắn đã lưu.
Tin nhắn thoại gần nhất là của thứ Ba tuần trước, chưa đầy một tuần trước khi chị mất, vào lúc một rưỡi sáng.
Julia, chị đây. Chị cần em gọi lại cho chị. Xin em đấy, Julia. Chuyện quan trọng. Chị cần em gọi lại cho chị, ngay khi em có thể, được chứ? Chị… ừm… chuyện quan trọng lắm. OK. Bye.
Em nhấn phím 1 để tua lại tin nhắn, tua đi tua lại. Em lắng nghe giọng chị, không chỉ là cái chất giọng khàn khàn, cách phát âm chỉ phảng phất kiểu Mỹ nhưng cũng đủ gây khó chịu của chị, em lắng nghe chị. Chị đã cố nói gì với em?
Chị để lại tin nhắn giữa đêm hôm khuya khoắt và em nhận được nó vào đầu giờ sáng, lăn người trên giường nhìn vào cái ánh sáng trắng thông báo tin nhắn trên điện thoại. Em nghe ba tiếng đầu tiên chị nói, Julia, chị đây, và ngắt máy. Lúc đó, em mệt mỏi, xuống tinh thần và em không muốn nghe giọng chị. Em đợi về sau mới nghe nốt phần còn lại. Em đã không thấy có gì kỳ lạ và em không thấy có gì đặc biệt kích thích. Đó là kiểu hành động quen thuộc của chị: để lại những tin nhắn bí hiểm nhằm khơi gợi hứng thú của em. Chị vẫn làm thế hàng bao nhiêu năm rồi, và sau đó khi em gọi lại cho chị, một hai tháng sau, em nhận ra chẳng có cơn khủng hoảng nào, chẳng có bí ẩn nào, chẳng có sự kiện to tát nào. Chị chỉ đang cố gắng thu hút sự chú ý của em. Đó là một trò chơi.
Phải vậy không?
Em lắng nghe tin nhắn, hết lần này đến lần khác, và giờ khi đã nghe một cách tử tế, em không thể tin nổi lúc trước em đã không để ý đến cách nói hơi hổn hển của chị, lời lẽ có phần mềm yếu không hề giống như của chị, sự lưỡng lự, sự ngập ngừng.
Chị đã sợ.
Chị sợ gì? Chị sợ ai? Người dân trong ngôi làng này, những kẻ đã dừng lại nhìn chằm chằm nhưng không ngỏ lời chia buồn, những kẻ không mang thức ăn, không gửi hoa viếng? Có vẻ như, Nel, chị chẳng được người ta nhớ nhung nhiều lắm. Hay có lẽ chị sợ đứa con gái cáu kỉnh, lạnh lùng, kỳ lạ của chị, đứa con đã không khóc than cho chị, đứa cứ nhất quyết cho rằng chị đã tự giết mình, mà chẳng hề có bằng chứng, chẳng có căn cớ gì.
Em rời khỏi giường và rón rén lén qua cánh cửa bên cạnh vào phòng chị. Em đột nhiên cảm thấy mình dường như bé lại. Em vẫn thường làm thế này - lẻn qua cánh cửa phòng bên cạnh - khi bố mẹ chúng mình ngủ ở đây, khi em thấy sợ hãi giữa đêm, khi em gặp ác mộng sau khi nghe một câu chuyện chị kể. Em đẩy cửa mở ra và lẻn vào trong. Căn phòng có cảm giác ngột ngạt, ấm nóng, và khi nhìn thấy cái giường chưa được dọn dẹp của chị, em đột nhiên ứa nước mắt.
Em ngồi vắt vẻo trên mép giường, nhấc cái gối của chị, vải lanh đen xám mát lạnh với diềm màu đỏ máu, và áp lên người em. Em nhớ lại một ký ức vô cùng sống động về cái lần hai chị em mình vào đây nhân sinh nhật mẹ. Chị em mình làm bữa sáng cho mẹ, hồi đó mẹ đang ốm và chúng mình đã rất nỗ lực, cố gắng hòa thuận với nhau. Những sự hòa giải tạm thời ấy chẳng trụ được lâu: chị phát mệt vì em lảng vảng xung quanh, em không ngừng đánh mất sự chú ý của chị. Em dần dần lùi về bên mẹ và chị sẽ nheo mắt dõi nhìn, vừa khinh khỉnh vừa tổn thương.
Em không hiểu chị, nhưng nếu hồi ấy em mới chỉ thấy chị thật kỳ lạ thì bây giờ chị đã trở nên hoàn toàn xa lạ. Giờ em đang ngồi đây trong ngôi nhà của chị, giữa đồ đạc của chị, nhưng thứ mang lại cảm giác quen thuộc chính là ngôi nhà chứ không phải chị. Em đã không hề hiểu gì về chị từ hồi chị em mình còn choai choai, hồi chị mười bảy còn em mười ba. Kể
từ cái đêm mà, giống như một cây rìu bổ xuống một khúc củi, các sự kiện đã chẻ chúng ta ra, để lại một vết nứt rộng và sâu hoắm.
Nhưng mãi tới sáu năm sau, chị mới hạ cây rìu ấy xuống lần nữa và chia tách chúng ta vĩnh viễn. Chuyện xảy ra vào buổi thức canh. Mẹ vừa được chôn, chị và em hút thuốc trong vườn giữa một đêm tháng Mười một lạnh giá. Em vẫn đờ đẫn vì buồn đau, nhưng chị đã tự chữa lành bản thân từ bữa sáng và chị muốn nói chuyện. Chị kể với em về một chuyến đi chị sắp thực hiện, tới Na Uy, tới Pulpit Rock, một vách đá cao sáu trăm mét bên trên một vịnh hẹp. Em cố không nghe, bởi vì em biết nó là gì và em không muốn nghe về nó. Ai đó - một người bạn của bố - gọi với ra chỗ chúng ta, “Mấy đứa ở đó vẫn ổn cả đấy chứ hả?” Tiếng ông ta hơi líu nhíu. “Đang dìm cho sầu muộn chết chìm phỏng?”
“Chết chìm, chết chìm, chết chìm…” chị nhắc lại. Chị cũng đã say. Chị nhìn em từ bên dưới hai mí mắt sùm sụp, trong đôi mắt có một ánh sáng kỳ lạ. “Juulia,” chị nói, chậm rãi kéo dài tên em, “em có bao giờ nghĩ đến nó không?”
Chị đặt bàn tay lên cánh tay em và em hẩy tay ra. “Nghĩ về cái gì?” Em dợm đứng dậy, em không muốn ở với chị thêm giây phút nào nữa, em muốn ở một mình.
“Tối hôm đó ấy. Em có… em có bao giờ kể với ai về nó không?” Em lùi lại một bước tránh xa chị, nhưng chị đã tóm lấy bàn tay em và siết thật chặt. “Thôi nào, Julia… Nói thật cho chị nghe đi. Chẳng phải phần nào đó trong em cũng thấy thích thú à?”
Sau đó, em ngừng nói chuyện với chị. Việc đó, theo con gái chị, có nghĩa là em đã cư xử quá đáng với chị. Chị và em, chúng ta kể các câu chuyện của chúng ta theo những cách khác nhau, phải vậy không?
Em ngừng nói chuyện với chị, nhưng điều đó không ngăn được chị gọi điện cho em. Chị để lại những mẩu tin nhắn kỳ lạ, kể với em về công việc của chị hay con gái chị, một phần thưởng chị giành được, một tấm mề đay. Chị chưa bao giờ nói chị đang ở đâu hay với ai, mặc dù thỉnh thoảng em nghe thấy những âm thanh hậu cảnh, tiếng nhạc hay tiếng xe cộ, đôi khi là giọng nói. Đôi khi em xóa các tin nhắn và đôi khi em lưu chúng lại. Đôi khi em nghe chúng hết lần này đến lần khác, nghe nhiều đến độ thậm chí đến mấy năm sau em vẫn có thể nhớ rõ từng từ chị nói. Lúc thì chị tỏ ra bí hiểm, lúc lại giận dữ, chị nhắc lại những lời lăng mạ cũ, chị đào bới những mâu thuẫn đã bị vùi lấp từ lâu, bới móc những lời gièm pha ngày xưa. Chờ mong cái chết! Một lần, giữa lúc tình hình căng thẳng, mệt mỏi vì những ám ảnh bệnh hoạn của chị, em đã buộc tội chị vẫn chờ mong cái chết, và ôi chao, chị nhai đi nhai lại chuyện đó mới dai dẳng làm sao!
Có những lúc chị lên con ủy mị, nhắc đến mẹ chúng ta, thời thơ ấu của chúng ta, hạnh phúc từng có và mất mát của chúng ta. Lại có lúc chị lên tinh thần, vui vẻ, kích động. Đến nhà Cối Xay đi! chị khẩn nài. Đi đi mà! Em sẽ yêu nó cho xem. Đi mà, Julia, đã đến lúc chị em mình bỏ toàn bộ chuyện vớ vẩn này lại đằng sau. Đừng bướng bỉnh nữa. Đã đến lúc rồi. Và rồi em giận điên lên - Đã đến lúc rồi! Ai cho chị cái quyền được quyết định đầu là lúc kết thúc vấn đề giữa chúng ta?
Em chỉ muốn một điều duy nhất là được để yên, được quên Beckford, quên chị đi. Em đã tự gây dựng một cuộc đời riêng - nhỏ bé hơn của chị, tất nhiên rồi, sao có thể không như thế chứ? Nhưng là của em. Bạn bè tử tế, các mối quan hệ tốt đẹp, một căn hộ nhỏ giữa một vùng ngoại ô xinh đẹp phía Bắc London. Một công việc trong ngành công tác xã hội cho em mục đích sống; một công việc khiến em phải dốc toàn tâm toàn lực và
khiến em thấy mình trọn vẹn hơn, bất chấp thu nhập kém cỏi và thời gian làm việc dài.
Em chỉ muốn được yên thân, nhưng chị không chịu. Có khi đôi lần một năm, có khi đôi lần một tháng, chị gọi điện: làm em xáo trộn, mất ổn định, bất an. Đúng kiểu chị vẫn luôn làm - đó là một phiên bản thời trưởng thành của hết thảy những trò chơi thuở nhỏ của chị. Và em vẫn luôn chờ đợi, em đợi một cuộc gọi mà em có thể thực sự đáp lại, một cuộc gọi để chị giải thích tại sao chị lại cư xử như vậy hồi chúng ta còn trẻ, tại sao chị đã làm tổn thương em rồi đứng nhìn để mặc em bị tổn thương. Một phần trong em cũng muốn nói chuyện với chị, nhưng trước hết chị phải xin lỗi em, trước hết chị phải cầu xin em tha thứ. Lời xin lỗi ấy chưa bao giờ tới, và em thì vẫn chờ đợi.
Em đến chỗ thành giường, mở ngăn kéo trên cùng tủ đầu giường. Có những tấm bưu thiếp, chưa ghi gì - ảnh chụp những nơi chị từng đặt chân, có lẽ vậy - bao cao su, chất bôi trơn, một cái bật lửa bằng bạc kiểu cũ khắc các chữ cái LS lên sườn. LS. Một người tình? Em lại quét mắt quanh phòng và chợt nhận ra trong căn nhà này chẳng hề có ảnh chụp đàn ông. Trên đây không, tầng dưới không. Thậm chí đến trong các bức tranh cũng gần như đều là phụ nữ. Cả những lúc chị để lại tin nhắn, chị có kể về công việc của chị, về ngôi nhà và Lena, nhưng chưa từng nhắc đến một người đàn ông nào. Đàn ông dường như chưa bao giờ có ý nghĩa quan trọng đối với chị.
Nhưng vẫn có một người, phải vậy không nhỉ? Cách đây lâu lắm rồi, từng có một chàng trai có ý nghĩa quan trọng với chị. Hồi còn thiếu nữ, chị vẫn thường lẻn khỏi nhà ban đêm, chị trèo ra ngoài qua cửa sổ phòng giặt, thả người xuống bờ sông và rón rén đi vòng quanh nhà, bùn ngập đến mắt cá chân. Chị bò trên bờ sông lên đường làng, và anh ta đợi chị ở đó.
Robbie.
Cứ nghĩ đến Robbie, nghĩ đến chị và Robbie là em lại có cảm giác như đang lao nhanh trên cái cầu vòm: hoa mắt chóng mặt. Robbie cao, to và tóc vàng hoe, môi cong lên thành một nụ cười chế nhạo thường trực. Anh ta có cái lối nhìn con gái khiến cô ta không còn là mình nữa. Robbie Cannon. Một con đực alpha, một kẻ đầu đàn, luôn bốc mùi lăn khử mùi Lynx và tình dục, vũ phu và nhỏ mọn. Chị yêu anh ta, chị bảo thế, mặc dù theo em thấy nó chẳng giống tình yêu cho lắm. Chị và anh ta chỉ hoặc là đè nhau ra hoặc là ném vào mặt nhau những lời mạt sát, chẳng bao giờ ở giữa hai trạng thái đó. Chẳng bao giờ có chút bình yên nào. Em không nhớ đã từng nghe thấy nhiều tiếng cười. Nhưng em vẫn nhớ rõ như in hình ảnh hai người bọn chị cùng nằm trên bờ sông, tay chân quấn quýt, bàn chân ngâm trong dòng nước, anh ta lăn người đè lên chị, ấn hai bên vai chị lún vào trong cát.
Hình ảnh ấy có gì đó thật gai mắt, khơi dậy trong em một cảm xúc em đã không cảm thấy một thời gian. Nỗi xấu hổ. Nỗi xấu hổ thầm kín, dơ dáy của một người thích thú trước hình ảnh khiêu dâm, trộn lẫn với một thứ khác, một thứ gì đó em không thể và cũng không muốn tìm hiểu cho rõ là gì. Em cố tránh mắt đi, nhưng em vẫn nhớ, đó không phải lần duy nhất em quan sát anh ta ở cùng chị.
Đột nhiên cảm thấy khó chịu trong lòng, em bèn đứng dậy khỏi giường chị và đi lại quanh phòng, nhìn ngắm các bức ảnh. Ảnh ở khắp nơi nơi. Tất nhiên rồi. Những bức ảnh chị lồng khung đặt trên tủ com mốt, rám nắng và tươi cười, ở Tokyo và Buenos Aires, đi trượt tuyết và trên bãi biển, ôm con gái trong vòng tay. Trên tường, những ảnh bìa tạp chí chị chụp được lồng khung, một phóng sự trang bìa tờ New York Times, các giải
thưởng chỉ nhận được. Nó đấy: toàn bộ bằng chứng về sự thành công của chị, chứng cứ cho thấy chị đánh bại em trên mọi mặt. Công việc, nhan sắc, con cái, cuộc sống. Và giờ chị lại đánh bại em lần nữa. Thậm chí kể cả trong chuyện này, chị đã thắng.
Một bức ảnh khiến em dừng khựng lại. Đó là bức ảnh chụp chị và Lena - không còn là một em bé nữa mà đã thành một cô bé, có lẽ năm sáu tuổi, cũng có khi lớn hơn, em chẳng bao giờ đoán chắc được tuổi của bọn trẻ con. Con bé đang mỉm cười, để lộ hàm răng nhỏ trắng tinh, và bức ảnh toát lên điều gì đó rất lạ, điều gì đó khiến cho tóc em dựng ngược lên; điều gì đó ở đôi mắt của con bé, dáng dấp khuôn mặt con bé, khiến nó có vẻ của một loài thú săn mồi.
Tôi có thể cảm thấy mạch máu rần rật trên cổ, một nỗi sợ xưa cũ đang trỗi dậy. Tôi trở lại giường nằm, cố không lắng nghe tiếng dòng nước, nhưng kể cả khi mọi cửa sổ đều đã đóng, ở tận tầng trên cùng ngôi nhà, âm thanh ấy vẫn không thể lờ đi. Tôi có thể cảm thấy nó đang xô vào tường nhà, luồn vào trong những vết gạch nứt, đang dâng lên cao. Tôi có thể nếm thấy nó, vấy bùn và bẩn thỉu trong miệng tôi, và da tôi dường như nhớp nháp.
Đâu đó trong ngôi nhà, em có thể nghe thấy tiếng ai đó đang cười, và nghe rất giống với tiếng chị.
THÁNG TÁM, 1993 **
*Jules*
Mẹ mua cho tôi một bộ đồ bơi mới, một bộ đồ cổ lỗ kẻ trắng xanh có “nâng ngực”. Nó có vẻ tương tự một món đồ của thập niên 1950, kiểu mà có lẽ Marilyn từng mặc. Béo ú và trắng bệch, tôi chẳng có vẻ gì giống Norma Jean, nhưng dù sao thì tôi cũng vẫn mặc vì mẹ đã tốn bao công mới tìm thấy nó. Tìm được đồ bơi cho một đứa như tôi đâu có dễ.
Tôi xỏ chiếc quần soóc màu xanh dương và tròng áo phông trắng quá khổ lên người. Lúc Nel xuống ăn trưa, mặc quần soóc denim không viền gấu và áo bikini buộc dây cổ, chị liếc nhìn tôi rồi hỏi, “Chiều nay em định ra sông à?” bằng một tông giọng lộ rõ chị không muốn tôi đi, và rồi chị bắt gặp ánh mắt mẹ và bảo, “Con không trông nó đâu, OK? Con đến đó tụ tập bạn bè mà.”
Mẹ nói, “Tử tế đi, Nel.”
Hồi đó, bệnh tình của mẹ đã thuyên giảm, nhưng mẹ vẫn yếu đến độ gió thổi nhẹ cũng lay, làn da màu ô liu của mẹ vàng ệch, như tờ giấy cũ, và Nel cùng tôi đều nhận được chỉ thị nghiêm khắc từ bố, buộc phải Sống Thuận Hòa.
Một phần của kế hoạch Sống Thuận Hòa ấy đồng nghĩa với việc Biết Hòa Nhập, vậy nên phải đó, tôi sẽ ra sông. Mọi người đều ra sông. Thật ra, ngoài việc đó ra thì cũng chẳng có gì khác để mà làm. Beckford không
giống như bãi biển, nó không có hội chợ vui chơi, không có các khu trò chơi điện tử, cũng chẳng có nổi một sân golf mini. Ở đây có nước, thế thôi. Khi hè đã sang được vài tuần, một khi các thói quen đã được thiết lập, khi tất cả mọi người đã hình dung ra được họ thuộc về nơi nào và có quan hệ với ai, một khi người bên ngoài và dân địa phương đã trộn lẫn vào nhau, khi ai bạn ai thù đã rõ, người ta bắt đầu kết thành từng nhóm lang thang dọc bờ sông. Bọn trẻ ít tuổi hơn thường bơi ở phía Nam nhà Cối Xay, nơi nước chảy chậm và dưới sông có cá để bắt. Đám trẻ hư lượn lờ ở ngôi nhà nhỏ của gia đình Ward, làm tình và chơi thuốc, chơi trò cầu cơ và tìm cách gọi lên những linh hồn giận dữ. (Nel từng bảo tôi rằng nếu săm soi thật kỹ, ta vẫn có thể phát hiện ra các vết máu của Robert Ward dính trên tường.) Nhưng đám đông lớn nhất sẽ tập trung ở Vũng Sông Chết Đuối. Bọn con trai nhảy từ vách đá xuống bơi còn đám con gái thì tắm nắng, nhạc được
bật và các vỉ nướng được châm lửa. Luôn có người mang theo bia. Tôi vẫn thích ở nhà hơn, trong nhà, tránh xa mặt trời. Tôi thích nằm trên giường đọc sách, hoặc chơi bài với mẹ, nhưng tôi không muốn mẹ phải lo lắng cho mình, mẹ còn nhiều vấn đề quan trọng hơn để lo nghĩ. Tôi muốn cho mẹ thấy tôi có thể giao lưu, tôi có thể kết bạn. Tôi có thể Hòa Nhập.
Tôi biết thừa Nel không muốn tôi đi. Đối với chị, tôi càng dành nhiều thời gian ru rú trong nhà càng tốt, và như thế sẽ càng làm bớt đi khả năng bạn bè của chị sẽ nhìn thấy tôi - vết nhơ, nỗi xấu hổ: Julia, béo, xấu và quê mùa. Chị thấy lúng túng khi phải đồng hành cùng tôi, lúc nào cũng vượt lên trước vài bước hoặc tụt lại phía sau cả chục bước; sự khó chịu của chị khi ở gần tôi lộ liễu đến mức đủ khiến cho người khác phải chú ý. Một lần, khi hai chúng tôi cùng nhau rời khỏi cửa hàng tạp hóa làng, tôi nghe thấy
một đứa trai làng bảo, “Nó chắc phải là con nuôi. Làm gì có chuyện con ranh béo ú đó là em ruột của Nel Abbott chứ.” Tụi nó cười phá lên, và tôi nhìn sang chị tìm kiếm sự an ủi, nhưng chỉ bắt gặp nỗi xấu hổ.
Hôm đó, tôi ra sông một mình. Tôi mang theo một cái túi xách đựng khăn tắm, một cuốn sách, một lon Diet Coke và hai thanh Snicker, phòng khi tôi thấy đói khi bữa trưa đã qua còn bữa tối chưa tới. Bụng tôi đau, lung tôi đau. Tôi muốn quay lại, về với sự riêng tư trong căn phòng nhỏ tối tăm mát mẻ của tôi, nơi tôi có thể được ở một mình. Không bị ai nhìn thấy.
Đám bạn của Nel đến ngay sau tôi một lát; bọn họ chiếm cứ bãi cát, vùng bờ cát hình bán nguyệt nhỏ bên trái vùng sông. Đấy là chỗ ngồi xịn nhất, địa hình dốc xuống nên ta có thể nằm ngâm ngón chân trong dòng nước. Có ba đứa con gái - hai đứa là dân trong làng còn một đứa tên Jenny từ Edinburgh đến với nước da trắng ngà đẹp tuyệt cùng mái tóc đen quá vai cắt bằng. Mặc dù là người Scotland, Jenny vẫn nói giọng Anh chuẩn, và đám con trai cố sống cố chết được ngủ với chị ta vì nghe nói chị ta vẫn là gái trinh.
Tất cả đám con trai ngoại trừ Robbie, tất nhiên, anh ta chỉ để mắt đến một mình Nel. Hai người họ gặp nhau hồi hai năm trước, khi anh ta mười bảy còn chị mười lăm, và giờ họ là một cặp chính thức trong hè, mặc dù họ vẫn được phép gặp gỡ những người khác vào khoảng thời gian còn lại trong năm, bởi vì nếu trông chờ anh ta chung thủy khi Nel không ở cạnh thì đúng là quá thiếu thực tế. Robbie cao tầm mét tám, điển trai và rất nổi tiếng, anh ta hay chơi bóng bầu dục, gia đình anh ta thuộc dạng có tiền.
Hồi Nel qua lại với Robbie, thỉnh thoảng chị lại trở về nhà mang theo những vết thâm tím trên cổ tay hay trên bắp tay. Khi tôi hỏi chị đã có chuyện gì, chị bật cười bảo, “Em nghĩ sao?” Robbie luôn gây ra một cảm
giác kỳ quái trong dạ dày tôi và tôi không sao kiềm chế nổi để khỏi trừng mắt nhìn anh ta mỗi khi anh ta lởn vởn xung quanh. Tôi đã cố không làm thế, nhưng tôi cứ nhìn anh ta suốt. Giờ anh ta cũng để ý thấy chuyện này bèn bắt đầu trừng mắt nhìn lại. Anh ta và Nel lôi chuyện này ra làm trò cười, và thỉnh thoảng anh ta lại nhìn tôi, liếm môi và cười phá lên.
Lúc tôi đến vùng sông, đám con trai cũng đã ở đó, nhưng chúng ở phía bên kia, đang bơi, đang leo lên bờ dốc, xô đẩy nhau ngã khỏi các tảng đá, cười đùa chửi thề và gọi nhau là gay. Dường như lúc nào cũng thế: đám con gái ngồi đợi, bọn con trai nhặng xị xung quanh đến khi phát chán thì lại vượt sang bờ bên này và làm trò này nọ với đám con gái, đám con gái thì có lúc cưỡng lại có lúc không. Toàn bộ đám con gái ngoại trừ Nel, người không sợ lặn vào trong dòng nước và làm tóc ướt nhẹp, người thích thú với tính thô bạo và hỗn loạn của trò chơi của chúng, người đã thành công đi trên sợi dây thăng bằng kéo căng giữa bên này là làm một người trong bọn con trai còn bên kia là làm đối tượng cơ bản cho ham muốn của chúng.
Tôi không ngồi với bạn bè Nel, tất nhiên. Tôi trải khăn tắm xuống dưới tán cây và ngồi một mình. Có một nhóm con gái khác nhỏ tuổi hơn, trạc tuổi tôi, ngồi cách tôi một quãng ngắn và tôi nhận ra một đứa trong đó tôi đã gặp từ những mùa hè trước. Nó mỉm cười với tôi và tôi mỉm cười đáp lại. Tôi khẽ vẫy tay với nó, nhưng nó đã nhìn tránh đi chỗ khác.
Trời nóng. Khi đó, tôi háo hức được vào trong dòng nước. Tôi có thể tưởng tượng ra rõ mồn một cái cảm giác của nó trên da mình, êm ái và sạch sẽ, tôi có thể tưởng tượng ra những đống bùn ấm áp bị giẫm xuống len vào giữa những ngón chân tôi, tôi có thể nhìn thấy ánh sáng màu cam ấm áp trên mi mắt khi tôi nằm ngửa trôi bồng bềnh. Tôi cởi áo phông ra,
nhưng làm thế cũng chẳng khiến tôi ngầu hơn chút nào. Tôi để ý thấy Jenny đang quan sát tôi và chị ta chun mũi lại rồi sau đó nhìn xuống mặt đất vì chị ta biết tôi đã nhìn ra vẻ ghê tởm trên mặt chị ta.
Tôi xoay người tránh khỏi bọn họ, nằm nghiêng về bên tay phải và mở sách ra. Tôi đang đọc Lịch sử bí mật. Tôi khát khao có một nhóm bạn giống như thế, gắn bó chặt chẽ, tách biệt và giỏi giang. Tôi muốn ai đó để tôi đi theo, ai đó sẽ bảo vệ tôi, ai đó được chú ý đến nhờ bộ não chứ không phải vì đôi chân dài. Tuy nhiên, tôi biết, nếu có những người như thế ở quanh đây hay ở trường tôi tại London, họ cũng sẽ không muốn kết bạn với tôi. Tôi không ngu ngốc, nhưng tôi không tỏa sáng.
Nel tỏa sáng.
Khoảng giữa buổi chiều, chị xuống sông. Tôi nghe chị la to gọi bạn, và lũ con trai hét gọi chị từ trên đỉnh vách đá chỗ chúng đang ngồi, chân đung đưa ra bên ngoài gờ vách đá, miệng phì phèo thuốc lá. Tôi ngoái lại qua vai, quan sát chị cởi quần áo ra rồi chậm chạp lội vào dòng nước, té nước lên người, tận hưởng sự chú ý.
Lúc này bọn con trai đang xuống khỏi đỉnh vách đá, xuyên qua rừng cây. Tôi lẫn người nằm sấp lại, cúi gằm mặt xuống, mắt dán chặt lên trang sách, những câu chữ nhạt nhòa. Tôi ước gì mình đã không đến đây, ước gì tôi có thể lần đi chỗ khác mà không bị ai để ý, nhưng tôi chẳng thể làm gì mà không bị ai để ý, chẳng thể làm gì theo đúng nghĩa đen của nó. Cái thân hình trắng phau dị dạng của tôi chẳng lần đi bất kỳ nơi đâu được.
Bọn con trai mang theo một quả bóng, và chúng bắt đầu đá qua đá lại. Tôi có thể nghe tiếng chúng í ới gọi nhau chuyền bóng, quả bóng vỗ vào mặt nước, tiếng đám con gái cười ré lên khi bị nước bắn vào. Rồi tôi cảm thấy nó, một cú đập mạnh đau nhói ở bắp đùi khi quả bóng đập trung vào
"""