" Vầng Trăng Máu: Cuộc Thảm Sát Người Osage và Sự Ra Đời của Tổ Chức FBI - David Grann & Phạm Quốc Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vầng Trăng Máu: Cuộc Thảm Sát Người Osage và Sự Ra Đời của Tổ Chức FBI - David Grann & Phạm Quốc Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup David Grann VẦNG TRĂNG MÁU Cuộc thảm sát người Osage và sự ra đời của tổ chức FBI Phạm Quốc Anh dịch Phát hành: Saigon Books Nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ 2018 LỜI NGƯỜI DỊCH Trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi các nguồn nhiên liệu tái tạo được tôn vinh là nguồn nhiên liệu phát triển bền vững, không phát thải và thân thiện với môi trường, dầu mỏ cùng các nhiên liệu hóa thạch khác bị buộc tội là thủ phạm gây ra biến đổi khí hậu cùng hàng loạt các cáo buộc khác về ô nhiễm môi trường. Người ta dường như đã quên mất rằng, dầu mỏ từng là nhân tố thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ toàn cầu trên nhiều lĩnh vực từ cuối thế kỷ XIX và xuyên suốt thế kỷ XX, cho tới khi các nguồn nhiên liệu tái tạo và thay thế khác thực sự ổn định, đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu của con người. Có thể nói, dầu mỏ và các sản phẩm từ nó vẫn có chỗ đứng riêng trong lịch sử phát triển của nhân loại. Từ giếng dầu đầu tiên được khoan bởi “Đại tá” Edwin Drake[1] vào năm 1859, dầu mỏ đã nhanh chóng soán ngôi của than, trở thành loại nhiên liệu chính được sử dụng trong mọi hoạt động của con người. Lịch sử thế giới ghi nhận nó như một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khai sinh ra nền thương mại hiện đại ngày nay. Trước đó, chưa từng xuất hiện một ngành công nghiệp rõ rệt nào có tầm ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới như vậy. Trong khoảng thời gian đó, dầu mỏ có giá trị ngang với vàng, gần như đồng nghĩa với tiền bạc, mỗi thay đổi nhỏ liên quan đến giá dầu có thể khiến bất kỳ cá nhân, tổ chức hay thậm chí cả quốc gia lâm vào cảnh lụi bại. Tiềm ẩn trong giá trị của dầu mỏ là quyền lực, có thể tác động và quyết định cục diện chính trị toàn cầu. Lịch sử thế giới ghi nhận nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu quy mô lớn nổ ra để giành quyền kiểm soát tài nguyên được ví là “vàng đen” này. Từ Thế chiến thứ Nhất, thứ Hai, cho tới chiến tranh vùng Vịnh, không nơi nào có dấu vết dầu mỏ mà không từng chứng kiến những cuộc chiến khốc liệt xảy ra. Dưới sự thống trị độc tôn, dầu mỏ là tiền bạc, là quyền lực, là mạch sống và là nền tảng, phần nào tạo nên cuộc sống của con người ngày nay. Cuốn sách độc giả đang cầm trên tay là một công trình nghiên cứu khá tận tâm, cho thấy một góc nhìn về những cuộc chiến tranh giành dầu mỏ ở quy mô nhỏ, gói gọn trong phạm vi các ngôi làng quy hoạch dành cho những thổ dân bản địa châu Mỹ vào đầu những năm 1900. Cuốn sách phơi bày lịch sử đẫm máu trải dài nhiều thập kỷ, mà nạn nhân chính là một trong những bộ tộc thổ dân hùng mạnh nhất thời bấy giờ, những người Osage. Bị Chính phủ Mỹ buộc rời khỏi vùng đất rộng lớn màu mỡ sau cuộc Nội chiến, người Osage phải ly hương và định cư trên một vùng đất mới khô cằn không sức sống. Nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ nằm dưới những làng định cư này, trong cơn sốt dầu mỏ trên khắp nước Mỹ, người Osage trở thành những cư dân giàu có nhất thế giới. Từ cuộc sống săn bắt trong những căn lều gỗ nhỏ, từ gia sản gần như là hai bàn tay trắng, người Osage bỗng chốc có người hầu kẻ hạ, có xe hơi, dinh thự và tất cả những vật phẩm xa xỉ nhất thời bấy giờ. Dầu mỏ được coi như điềm phúc bất ngờ được ban tặng bởi Đấng tối cao mà người Osage luôn kính sợ, nhưng họ không ngờ rằng, nó cũng chính là điềm báo chết chóc bao trùm lên vận mệnh của toàn bộ tộc. Bản thân cuốn sách này không chỉ có giá trị với những người công tác và làm việc trong ngành dầu khí (một trong những ngành mũi nhọn của Việt Nam), những người quan tâm tới góc khuất và các lớp trầm tích bị vùi lấp của lịch sử, những người có thói quen mở rộng hiểu biết của bản thân thông qua việc tìm hiểu về các tổ chức lớn có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới, mà còn là một trải nghiệm quý báu dành cho toàn bộ những độc giả quan tâm và tìm đọc cuốn sách. Bởi lẽ, dù các sự kiện trong sách đều xoay quanh dầu mỏ, nhưng thông qua câu chuyện của mình, cuốn sách đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh rất sinh động về xã hội, giữa người da trắng và thổ dân bản địa nước Mỹ thời bấy giờ. Từ những xung đột văn hóa, nỗ lực đồng hóa thổ dân bản địa, hệ thống luật pháp non nớt của chính quyền mới, cho tới cơn sốt vàng đen và những âm mưu tàn độc, tất cả đều có thể mang lại cho bạn đọc góc nhìn đa chiều, nhận thức và hiểu biết nền tảng về các mâu thuẫn cũng như sự đối chọi gay gắt giữa các thế lực trong xã hội. Bên cạnh đó, độc giả còn có cơ hội để hiểu hơn về những “mặt tối” đáng sợ của lợi ích, của quyền lực và của đồng tiền; từ đó, tìm lấy cho mình một điểm cân bằng trong cuộc sống. Thông qua cuốn sách này, bạn đọc sẽ có thêm hiểu biết về những trang lịch sử đã bị xé nát một cách thô bạo, những con người vô tội bị đẩy ra bên rìa xã hội - không được công nhận, không được bảo vệ, không làm gì sai nhưng vẫn phải chịu ngược đãi, phân biệt và không được quyền đòi “công lý”. Họ không được coi là con người, buộc phải sống trong nỗi uất ức và sợ hãi, không còn dám đặt lòng tin vào bất cứ ai, kể cả những người thân trong gia đình. Nỗi đau của họ, mất mát của họ có lúc chẳng khác nào một trò mua vui trên mặt báo, trong những cuộc đàm tiếu. Khi không còn lợi ích, hết thảy dễ dàng bỏ rơi, mặc họ chìm vào quên lãng. Như tựa đề của mục cuối cùng khép lại cuốn sách, đây quả thật là “lời khóc than của máu”! CHƯƠNG 1 NGƯỜI ĐÀN BÀ BỊ ĐIỂM TỬ “Chẳng có điều gì xấu xa có thể làm hỏng buổi đêm hôm ấy. Cô ấy biết điều đó vì cô ấy đã lắng nghe. Không có những âm thanh tội lỗi. Không có tiếng cú rúc lên phá vỡ bầu không gian tĩnh lặng. Cô ấy biết điều đó vì cô ấy đã lắng nghe suốt đêm dài.” - Trích Sundown, viết bởi John Joseph Mathews 1. MẤT TÍCH Vào tháng Tư, hàng triệu bông hoa li ti nở rộ khắp các ngọn đồi sồi đen và những đồng cỏ rộng lớn trên vùng đất của bộ tộc Osage ở Oklahoma. Những bông violet và những bông ngọc trâm xen kẽ với những đóa thiên thảo nhỏ bé. Nhà văn người Osage John Joseph Mathews đã quan sát và miêu tả cảnh tượng này trông như thể “các vị thần đã tung lên một cơn mưa hoa giấy”. Vào tháng Năm, khi những con sói đồng cỏ cất tiếng hú bên dưới vầng trăng tròn thẳm, những loài cây cao hơn như thài lài hay cúc vàng mắt đen không ngừng vượt lên trên các nụ hoa li ti ấy, lấy đi ánh sáng và nước của chúng. Các đài hoa nhỏ tàn lụi, những cánh hoa dập dìu bay đi, để rồi chẳng bao lâu lại nằm chôn vùi dưới đất. Đây chính là lý do khiến những thổ dân Osage gọi tháng Năm là tháng của vầng trăng bẻ-hoa. Vào ngày 24 tháng 5 năm 1921, Mollie Burkhart - một cư dân trong làng định cư Osage thuộc vùng Gray Horse, Oklahoma - bắt đầu cảm thấy lo sợ, rằng điều gì đó đã xảy tới với một trong ba người chị em của cô: Anna Brown. Anna Brown ba mươi tư tuổi, lớn hơn Mollie chưa đầy một tuổi, đã biến mất cách đây ba hôm. Theo cách gọi đầy mỉa mai của gia đình, cô thường hay “đi chơi tới bến”, nhảy nhót và uống rượu với bè bạn cho tới rạng sáng. Nhưng riêng lần này, một đêm đã trôi qua, và rồi một đêm nữa, Anna vẫn chưa xuất hiện trước hiên nhà Mollie như thường lệ, với mái tóc đen dài hơi xù và đôi mắt đen láy ánh lên như thủy tinh. Mỗi lần Anna bước vào nhà, cô thích cởi tuột giày. Mollie bắt đầu thấy nhớ những âm thanh dịu dàng của Anna khi thong thả bước đi trong căn nhà. Giờ đây, hết thảy chỉ còn lại sự lặng thinh trống trải. Mollie đã mất đi một người em gái tên Minnie gần ba năm về trước. Cái chết đến quá đột ngột, và mặc dù các bác sĩ cho rằng đây là “một ca lao lực cá biệt”, Mollie vẫn luôn đau đáu ngờ vực. Khi ấy, Minnie mới chỉ hai mươi bảy tuổi và lúc nào cũng khỏe mạnh. Giống như bố mẹ của mình, Mollie và các chị em đều có tên trong phả hệ dòng tộc Osage, họ đều là thành viên chính thức của bộ tộc. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ sở hữu cả một gia tài. Vào đầu thập niên 1870, bộ tộc Osage bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ của mình và di cư tới một vùng đất đầy sỏi đá tưởng chừng vô giá trị ở phía đông bắc Oklahoma. Sau đó vài thập kỷ, họ phát hiện ra rằng, mảnh đất này chứa đựng những vỉa dầu mỏ lớn nhất nước Mỹ thời bấy giờ. Để khai thác dầu, những người đi thăm dò phải trả tiền thuê đất và thuế tài nguyên cho bộ tộc Osage. Vào khoảng đầu thế kỷ XX, mỗi thành viên trong bộ tộc bắt đầu nhận được séc theo mỗi quý. Giá trị ban đầu chỉ vỏn vẹn vài dô la, nhưng dần dần, khi ngày càng nhiều dầu mỏ được khai thác, số tiền này lên tới vài trăm, rồi vài nghìn đô la. Khoản tiền nhận được gần như năm nào cũng tăng, giống như các khe suối trên thảo nguyên hội tụ rồi tạo nên con sông Cimarron rộng lớn đầy bùn lầy, cho tới khi lũy kế của chúng lên tới hàng triệu đô la (Chỉ riêng năm 1923, bộ tộc nhận được hơn 30 triệu đô la). Do đó, người Osage được coi là một trong những cư dân giàu có nhất trên thế giới. “Hãy nhìn xem!”, tuần báo Outlook của New York đã thốt lên: “Thay vì chết đói, những tên thổ dân lại tận hưởng nguồn thu nhập ổn định tới mức làm các nhà băng tái mặt vì ganh tị”. Công chúng ngỡ ngàng trước sự phồn vinh của bộ tộc, điều này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh từ lần chạm trán tàn bạo đầu tiên với thổ dân châu Mỹ, cũng chính là tội ác khai sinh ra đất nước này. Các phóng viên trêu ngươi độc giả của họ bằng những câu chuyện về “người Osage quyền uy” và “những tên triệu phú da đỏ”, với những biệt phủ xây bằng gạch, đất sét đỏ và những chiếc đèn chùm, với những chiếc nhẫn kim cương, áo khoác lông thú, xe hơi và tài xế riêng. Một tay viết kinh ngạc khi thấy những cô gái Osage theo học các trường nội trú tốt nhất và diện những bộ đồ thời thượng của Pháp, cứ như thể “những cô nàng trẻ trung xinh tươi trên các đại lộ của Paris” bất thần xuất hiện ở ngôi làng quy hoạch nhỏ bé này. Cùng lúc ấy, các tay phóng viên mau mắn chộp lấy bất kỳ bằng chứng nào về lối sống truyền thống của tộc Osage, nhồi vào đầu óc công chúng hình tượng những tên thổ dân “hoang dã”. Một bài viết miêu tả “những chiếc xe hơi xa xỉ được xếp quây tròn quanh đống lửa trại, nơi các chủ nhân ăn vận sang trọng với làn da nâu bóng đang nấu thịt theo cách của người cổ”. Một bài khác viết về một nhóm thổ dân Osage đi bằng máy bay tư nhân tới nhảy trong một lễ hội - một khung cảnh “vượt quá sức tưởng tượng của những tiểu thuyết gia viễn tưởng”. Tóm gọn lại suy nghĩ của đám đông về người Osage, tờ Washington Star viết: “Câu cảm thán ‘Ôi đám thổ dân nghèo khổ’ nay có thể đổi thành ‘Ồ, những tên da đỏ giàu có’ được rồi”. Gray Horse là một trong những làng định cư lâu đời của khu quy hoạch. Khu vực này bao gồm Fairfax (một ngôi làng lân cận, lớn hơn với gần 1.500 dân) và Pawhuska (thủ phủ của Osage, với dân số hơn 6.000 người), là nơi có tốc độ phát triển chóng mặt. Đường phố nhốn nháo bởi những chàng cao bồi, những người đi tìm vận may, những kẻ buôn rượu lậu, những nhà tiên tri, các dược sĩ, những tên tội phạm, cả những viên cảnh sát trưởng Hoa Kỳ, những nhà đầu tư đến từ New York và các đại gia dầu mỏ. Xe hơi băng băng trên những lối đi lát gạch cho ngựa, mùi xăng dầu lấn át mùi hương của đồng cỏ. Quạ đậu theo bầy dòm xuống từ đường dây điện thoại. Có cả những nhà hàng - quán rượu, nhà hát và các sân chơi polo. Mặc dù Mollie không vung tay tiêu xài như hàng xóm của mình, cô cũng xây được một căn nhà gỗ rộng rãi, xinh đẹp ở Gray Horse, gần túp lều cũ có khung bằng cọc gỗ với những tấm thảm dệt tay và mái phủ bằng vỏ cây của gia đình. Cô sở hữu vài chiếc xe hơi và một nhóm người hầu - những kẻ vét-nồi cho dân da đỏ. Đây là cách người định cư nhạo báng nhóm người lao động nhập cư này. Đám người hầu thường là dân da den hoặc dân Mễ Tây Cơ (Mexican). •§• Mollie là người cuối cùng thấy Anna trước khi cô biến mất. Hôm ấy, ngày 21/5, Mollie thức dậy lúc rạng sáng, một thói quen ăn sâu từ thời bố cô còn cầu nguyện với mặt trời mỗi sáng. Cô đã quen nghe bản hợp ca của những chú chim sáo, chim dẽ và đàn gà thả đồng, giờ đây bị át đi bởi tiếng mũi khoan dập trên mặt đất. Khác với nhiều người bạn đã bỏ lơ trang phục Osage truyền thống, Mollie khoác trên vai mình tấm vải thổ dân. Thay vì để kiểu tóc ngắn uốn cong, cô xõa mái tóc đen dài của mình ngang lưng, để lộ khuôn mặt cuốn hút với hai gò má cao và đôi mắt nâu to tròn. Chồng cô, Ernest Burkhart, thức dậy cùng cô. Anh là một chàng trai da trắng hai mươi tám tuổi có nét điển trai thường thấy ở vai quần chúng trong các bộ phim của phương Tây: tóc nâu ngắn, đôi mắt màu xanh xám, cằm vuông. Chỉ có cái mũi làm hỏng bức chân dung. Nhìn nó như thể từng bị đấm một đôi lần trong quán rượu. Lớn lên ở Texas, Ernest Burkhart là con trai của một nông dân trồng bông nghèo. Anh mê mẩn những câu chuyện về Ngọn đồi Osage - dấu tích xưa cũ của vùng biên nước Mỹ nơi cao bồi và thổ dân vẫn thường qua lại. Năm 1912, Ernest mới mười chín tuổi. Giống như Huck Finn, anh gói ghém đồ đạc tìm đường rời đi, tới ở với ông chú - một gã chăn gia súc độc đoán tên là William K. Hale ở Fairfax. “Ông ta không phải loại người nhờ anh làm điều gì đó, ổng sẽ bảo anh phải làm điều đó”, Ernest từng nói như vậy về Hale, người được coi như người cha thứ hai của anh. Dù chủ yếu làm việc vặt cho Hale, thi thoảng anh vẫn nhận lái xe thuê. Nhờ đó, anh gặp Mollie khi nhận lái xe cho cô quanh khu làng. Ernest thường hay uống rượu lậu và chơi xì tố kiểu thổ dân với những tay nhiều tai tiếng, nhưng ẩn dưới sự phong trần là nét dịu dàng có đôi chút ngại ngùng, và Mollie đã phải lòng anh vì điều đó. Dù sinh ra là người Osage nhưng Mollie có học sơ qua tiếng Anh ở trường. Tuy thế, Ernest vẫn kiên trì học tiếng mẹ đẻ của Mollie cho tới khi có thể dùng nó để nói chuyện với cô. Mollie mắc bệnh tiểu đường, và Ernest luôn săn sóc cô mỗi khi khớp cô đau nhức hay bụng cô quằn quại. Khi biết một người đàn ông khác có tình cảm với cô, anh khẽ nói với cô rằng anh không thể sống thiếu cô được. Họ đến với nhau không hề dễ dàng. Đám bạn thô kệch của Ernest chế nhạo anh là “tên chồng thổ”. Và mặc dù cả ba chị em gái của Mollie đều lấy chồng da trắng, cô vẫn cảm thấy mình có trách nhiệm kết hôn với người cùng tộc, như cách cha mẹ cô nên duyên. Dù vậy, được sinh ra trong một gia đình vừa tuân theo lề lối người Osage vừa tin vào Chúa, Mollie không lý giải được tại sao Chúa cho cô tìm thấy tình yêu chỉ để tước đoạt nó đi. Vì thế, vào năm 1917, cô và Ernest trao nhẫn và trao lời thề yêu thương nhau mãi mãi. Tới năm 1921, họ có một cô con gái hai tuổi tên là Elizabeth và một cậu con trai mới chỉ tám tháng tuổi tên là James (tên thân mật là Cao Bồi). Tại thời điểm đó, Mollie đang chăm sóc người mẹ già Lizzie. Bà chuyển tới sống cùng cô sau khi cha cô mất. •§• Ngày 21/5 đáng ra phải là một ngày thật dễ chịu với Mollie. Cô rất thích làm tiệc chiêu đãi và đang tổ chức một bữa tiệc trưa nhỏ. Chuẩn bị xong, cô cho lũ trẻ ăn. Cao Bồi thường hay bị đau tai, và cô thổi vào tai bé cho tới khi bé nín khóc. Mollie chăm sóc ngôi nhà của cô rất tỉ mỉ, cô điều phối đám người hầu chuẩn bị đón khách. Mollie nhờ Ernest gọi Anna, xem xem Anna có thể tới và thay cô chăm sóc Lizzie một hôm được không. Anna là chị cả trong nhà, cô luôn có một vị trí đặc biệt trong mắt của mẹ mình. Mặc dù Mollie mới là người chăm sóc Lizzie, nhưng Anna mới là đứa con được mẹ nuông chiều. Khi Ernest nói với Anna rằng mẹ cô cần cô, cô hứa sẽ bắt taxi tới ngay. Không lâu sau, Anna xuất hiện với một đôi giày đỏ chót, váy ngắn và một tấm vải thổ dân trùng tông màu, trong tay cô mang một chiếc ví da cá sấu. Trước khi bước vào, cô chải vội mái tóc rối bù vì gió và trát phấn lên mặt. Dù vậy, Mollie vẫn có thể nhận thấy bước chân lảo đảo và giọng nói líu nhíu vì say rượu của Anna. Mollie không giấu nổi vẻ bực dọc. Một vài vị khách đã tới, trong đó có hai anh em của Ernest - Bryan và Horace Burkhart. Họ là những người bị vàng đen cám dỗ, đã chuyển tới sống ở Quận Osage và thường giúp việc cho Hale trên nông trại. Một bà dì của anh, người hay thốt ra những lời lẽ kỳ thị chủng tộc cũng ghé qua. Mollie không mong Anna chọc giận mụ già ấy. Anna cởi tuột giày và bắt đầu làm loạn. Cô lôi một chai rượu từ trong túi và mở nắp, mùi rượu whisky lậu tỏa ra nồng nặc. Khăng khăng rằng mình cần phải nốc hết cả chai trước khi bị các nhà chức trách tóm - do lệnh cấm toàn quốc đã ban hành một năm - cô mời thực khách mỗi người một hớp chai rượu lậu mà cô cho là ngon nhất. Mollie biết gần đây Anna có nhiều chuyện phiền muộn. Cô vừa ly dị chồng, một người kinh doanh xe cho thuê tên Oda Brown. Từ đó, Anna dành nhiều thời gian hơn cho những khu lộn xộn của vùng quy hoạch, nơi mọc ra để công nhân dầu mỏ nghỉ lại và tiêu khiển - những khu như Whizbang, ở đó con người chỉ có việc đi tiểu vào ban ngày và làm tình vào ban đêm. “Nơi chứa đựng mọi sự phóng đãng và trụy lạc”, như một quan chức Chính phủ Mỹ nhận định: “Bài bạc, rượu chè, gái gú, lừa lọc, trộm cắp, giết người”. Anna bị mê hoặc bởi những chốn tối tăm nơi cuối đường: những cửa tiệm bên ngoài trông tử tế nhưng bên trong lại ẩn giấu các căn phòng ngập tràn rượu lậu. Về sau, một người hầu của Anna đã khai với nhà chức trách rằng cô ấy uống rất nhiều whisky và “rất buông lơi với đàn ông da trắng”. Tại nhà của Mollie, Anna bắt đầu tán tỉnh em trai của Ernest, người mà cô nàng thi thoảng vẫn hẹn hò. Anh chàng trông ủ rũ hơn Ernest và có đôi mắt ánh vàng bí hiểm cùng mái tóc mỏng chuốt keo bóng ngược ra phía sau. Một sĩ quan nói anh giống như một cậu chàng lông bông. Khi thấy Bryan mời một hầu nữ đi nhảy vào tối hôm đó, Anna nói rằng nếu anh còn bỡn cợt với người phụ nữ khác, cô sẽ giết anh. Trong lúc ấy, dì của Ernest lầm bầm, đủ lớn để tất cả đều nghe thấy, rằng bà xấu hổ nhường nào khi cháu trai của mình lại kết hôn với một người da đỏ. Mollie cự lại một cách tế nhị rằng người hầu đang phục vụ bà dì là người da trắng - một sự nhắc nhở trần trụi về trật tự xã hội trong ngôi làng. Anna tiếp tục quậy phá. Cô cự cãi với khách, với mẹ mình, với Mollie. “Cô ấy vừa uống rượu vừa sinh sự”, một người hầu khai rằng: “Tôi không hiểu cô ấy nói gì, nhưng rõ ràng là cô ấy đang cãi lộn”. Người này còn nói thêm: “Anna khiến cho mọi việc trở nên tồi tệ, và tôi đã rất lo sợ”. Tối hôm đó, Mollie dự định ở lại chăm sóc mẹ mình, còn Ernest sẽ dẫn các vị khách tới Fairfax, cách nhà năm dặm về hướng tây bắc, để gặp Hale và xem vở nhạc kịch đang được lưu diễn mang - tên Bringing Up Father. Nội dung vở kịch nói về một người Ai-len nhập cư nghèo khổ trúng vé số một triệu đô la đang chật vật hòa mình với giới thượng lưu. Bryan, khi ấy đang đội nón cao bồi, liếc đôi mắt sáng quắc nhìn từ dưới vành nón, xin phép và muốn đưa Anna về nhà. Trước khi họ rời đi, Mollie giặt quần áo cho Anna, cho Anna ăn chút gì đó, giúp chị mình tỉnh táo và trở về với bản chất nhanh nhẹn và duyên dáng. Cả hai ngập ngừng một lúc, sẻ chia giây phút bình lặng và hòa thuận. Rồi Anna cười chào tạm biệt, để lộ một chiếc răng trám vàng. •§• Mỗi đêm trôi qua, Mollie càng thêm lo âu. Bryan khẳng định anh đã đưa Anna về thẳng nhà trước khi quay lại xem vở kịch. Sau khi đêm thứ ba trôi qua, tuy nhẹ nhàng nhưng quả quyết, Mollie hối thúc mọi người hành động. Cô phái Ernest tới kiểm tra nhà của Anna. Ernest thử xoay núm cửa trước - cửa bị khóa! Từ cửa sổ nhìn vào, các căn phòng trông tối thui và không có người. Ernest đứng đó một mình trong cái nóng. Vài ngày trước, có một cơn mưa rào nhẹ, nhưng rồi những tia nắng mặt trời vẫn rọi xuống không thương tiếc xuyên qua các tán sồi đen. Vào mùa này trong năm, cái nóng làm đồng cỏ trở nên mờ ảo và khiến những ngọn cỏ cao kêu răng rắc dưới mỗi bước chân. Ở phía xa, dưới ánh sáng nhờ nhờ, có thể thấy khung của các tháp khoan hiện ra. Người hầu chính của Anna ở ngay bên cạnh căn nhà bước ra. Ernest hỏi cô ấy: “Cô biết Anna ở đâu không?”. Người hầu trả lời rằng trước cơn mưa rào, cô có ghé qua căn nhà để đóng các cửa sổ còn mở: “Tôi nghĩ nước mưa sẽ tạt vào bên trong”. Khi ấy, cửa vẫn khóa, và không thấy Anna đâu. Cô ấy đã đi rồi. Tin tức về vụ mất tích của Anna lan đi khắp các khu, từ nhà ra xóm. Trong khoảng thời gian đó, dư luận càng hoang mang khi nghe tin về một người Osage khác, Charles Whitehorn, mất tích trước Anna một tuần. Hài hước và tốt bụng, anh chàng Whitehorn ba mươi tuổi kết hôn với một cô nàng có nửa dòng máu da trắng nửa dòng máu người Cheyenne. Một tờ báo địa phương miêu tả anh là người “rất có tiếng trong cả giới da trắng lẫn các thành viên trong bộ tộc”. Vào ngày 14/5, anh rời nhà ở vùng tây nam khu quy hoạch để đi tới Pawhuska. Sau đó, người ta không thấy anh trở về. Dù vậy, Mollie vẫn tìm lý do để tự trấn an mình. Mollie tưởng tượng sau khi Bryan đưa Anna về, Anna đã lẻn ra để tới trung tâm Oklahoma hoặc qua bên kia biên giới tới chốn Kansas phồn hoa. Có khi Anna đang nhảy trong một câu lạc bộ nhạc jazz nào đó, hoàn toàn không hay biết về sự hỗn loạn mình để lại phía sau. Thậm chí nếu Anna có gặp rắc rối đi nữa, Anna cũng tự biết bảo vệ mình. Anna luôn mang theo một khẩu súng ngắn trong chiếc ví da cá sấu. Rồi cô ấy sẽ sớm quay về thôi, Ernest trấn an Mollie. •§• Một tuần sau khi Anna biến mất, khi đang đứng trên một sườn đồi cách phía bắc khu trung tâm Pawhuska một dặm, một công nhân dầu mỏ phát hiện ra có thứ gì đó ló ra khỏi bụi cây gần sàn của tháp khoan. Anh ta tiến lại gần. Đó là một xác chết đang phân hủy, giữa hai con mắt là hai lỗ đạn. Nạn nhân đã bị bắn theo kiểu hành quyết. Trên sườn đồi, bầu không khí thật oi ả và ồn ào. Các choòng khoan làm rung chuyển mặt đất khi xuyên qua lớp đá trầm tích. Những cần móc nặng nề lắc lư qua lại trên các tháp khoan. Một đám đông xúm quanh xác chết khi ấy dã bị phân hủy tới mức không nhận dạng được nữa. Người ta tìm thấy trong túi nạn nhân một lá thư. Ai đó lấy nó ra, vuốt phẳng và đọc lớn. Bức thư được gửi cho Charles Whitehorn. Nhờ lá thư đó, họ mới biết anh chính là nạn nhân. Cùng lúc ấy, gần Fairfax, một người đang đi săn tại Three Mile Creek cùng cậu con trai và một người bạn. Khi hai người đàn ông đang lấy nước trên suối, cậu nhóc chợt thấy một con sóc và lập tức bóp cò. Sau tiếng nổ lớn, con sóc trúng đạn rơi xuống khe núi. Cậu liền chạy dọc theo sườn dốc rậm rạp tới bên khe núi. Không khí ở đây như quánh lại, cậu có thể nghe được tiếng nước chảy róc rách. Cậu tìm thấy con sóc và nhấc nó lên. Rồi cậu hét lớn: “Ôi bố ơi!”. Khi ông bố tới nơi, cậu nhóc đã trèo lên một tảng đá. Cậu huơ tay về phía bờ suối đầy rêu phong và nói: “Có người chết”. Một cái xác trương phềnh đang phân hủy thoạt nhìn giống một nữ thổ dân châu Mỹ. Cô ta nằm ngửa, mái tóc bết lại trong bùn, còn đôi mắt vô hồn ngước lên trời. Giòi bọ đang rỉa dần cái xác. Hai người đàn ông cùng cậu bé vội vàng rời khỏi khe núi, lao vút trên xe ngựa, băng qua thảo nguyên với bụi mù mịt sau lưng. Khi tới khu trung tâm Fairfax, vì không thấy viên cảnh sát nào, nhóm người dừng trước Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn (Big Hill Trading Company) - một cửa hàng tạp hóa và cũng là một trại hòm có quy mô. Họ nói với người chủ, Scott Mathis, về chuyện đã xảy ra. Mathis lập tức cho người làm dịch vụ tang lễ cùng một vài người nữa tới hiện trường. Họ đẩy thi thể lên một chiếc ghế xe ngựa và dùng dây thừng kéo lên khỏi khe núi, sau đó đặt nằm trong một cái thùng gỗ dưới tán cây sồi đen. Khi được ướp muối và đá lạnh, cái xác trương phình xẹp xuống như thể tất cả sự sống còn lại đã rỉ nốt ra ngoài. Người làm dịch vụ tang lễ cố gắng xác định xem người phụ nữ này có phải người quen của ông, Anna Brown, hay không. “Cái xác đã phân hủy và trương phù tới độ nứt toác, bốc mùi gớm lắm”, ông kể lại và còn nói thêm: “Nhìn đen thui như một tên mọi vậy”. Ông cùng đám đàn ông không nhận dạng được cái xác. Mathis, người quản lý tài chính của Anna, đã liên lạc với Mollie. Mollie dẫn đầu một toán người trông vô cùng lo lắng đi tới khe núi, bao gồm Ernest, Bryan, chị gái Rita của Mollie, và chồng Rita là Bill Smith. Đám đông người quen của Anna đi theo họ chỉ vì tò mò. Kelsie Morrison, một trong những kẻ buôn ma túy và rượu lậu khét tiếng, dẫn người vợ Osage của hắn đi theo. Mollie và Rita bước lại gần cái xác. Mùi tanh bốc lên nồng nặc. Bầy kền kền lượn lờ quanh bầu trời. Rất khó để nhận ra đây có đúng là Anna hay không - khuôn mặt của cái xác giờ chẳng còn lại gì - nhưng họ biết tấm vải thổ dân này là của cô, cả đống quần áo mà Mollie đã giặt cho cô nữa. Rồi chồng của Rita, Bill, lấy que nạy miệng của cái xác ra. Họ thấy những chiếc răng trám vàng của Anna. “Chắc chắn là Anna rồi”, Bill nói. Rita bắt đầu khóc. Chồng cô dìu cô ra chỗ khác. Cuối cùng, Mollie khẽ mấp máy “Đúng rồi” - đúng Anna rồi. Trong gia đình, Mollie là người điềm tĩnh nhất. Cô rời khỏi khe núi cùng Ernest, bỏ lại sau lưng dấu chỉ đầu tiên của bóng tối đe dọa sẽ phá hủy không chỉ gia đình cô mà là cả bộ tộc của cô. 2. LÀ BỞI TAY CHÚA HAY NGƯỜI? Một ban điều tra gồm các thành viên bồi thẩm và một thẩm phán trị an nhanh chóng được thành lập ngay tại khe núi. Những cuộc điều tra này là vết tích từ thời những thường dân tự coi trọng trách điều tra tội phạm và gìn giữ trật tự là của chính họ. Nhiều năm trôi qua từ Cách Mạng Mỹ, dân chúng vẫn phản đối việc thành lập các đơn vị cảnh sát vì nỗi lo sợ rằng họ sẽ trở thành lực lượng đàn áp. Thay vào đó, người dân tự phản ứng khi nghe tiếng hét cầu cứu bằng cách truy đuổi kẻ bị tình nghi. Benjamin N. Cardozo từng đánh giá những cuộc truy bắt này là “không hề yếu ớt và chậm chạp, mà đầy lòng trung thực và gan dạ, được thực hiện với bất kỳ dụng cụ và phương tiện thuận tiện nào trong tầm tay”. Mãi về sau, tới giữa thế kỷ XIX, những thành phố công nghiệp phát triển, hàng loạt các cuộc nổi loạn nổ ra ở thành thị. Khi mà nỗi khiếp sợ đối với các thành phần nguy hiểm của xã hội vượt trên nỗi khiếp sợ chính quyền, những đơn vị cảnh sát mới bắt đầu được thành lập tại Mỹ. Tới thời điểm Anna bị sát hại, việc người dân tự trị một cách không chính quy đã phần nhiều được thay đổi. Tuy vậy, dấu tích của việc này vẫn còn lại đâu đó, nhất là ở những vùng hẻo lánh. Thẩm phán trị an chọn thành viên bồi thẩm trong số những người đàn ông da trắng có mặt tại khe núi, bao gồm cả Mathis. Họ có trách nhiệm đưa ra kết luận về việc cái chết của Anna là bởi tay Chúa hay người. Nếu đây là một vụ án mạng, họ phải tìm cho ra thủ phạm và cách thức ra tay của chúng. Hai vị bác sĩ - hai anh em James và David Shoun - cũng là bác sĩ riêng của gia đình Mollie, được triệu tập để khám nghiệm tử thi. Cúi người phía trên xác chết và vây quanh bởi thành viên của ban điều tra, họ bắt đầu công việc. Mỗi tử thi kể một câu chuyện của riêng mình. Xương móng nứt - xương nằm trong cổ, hỗ trợ cử động lưỡi - có thể chỉ ra rằng nạn nhân đã bị xiết cổ. Những dấu vết trên cổ cho biết tên sát nhân đã gây án bằng tay hoặc dây thừng. Dù chỉ là một móng tay bị xước cũng cho thấy nạn nhân đã giằng co như thế nào. Trong một cẩm nang nổi tiếng về quy tắc hành nghề y của thế kỷ XIX có trích dẫn câu nói: “Khi thấy tử thi, một vị bác sĩ cần phải chú ý đến tất cả mọi thứ”. Anh em nhà Shoun đặt một tấm phản làm bàn tạm. Họ lấy từ trong túi ra một số dụng cụ cơ bản, bao gồm một cái cưa. Cái nóng len lỏi dần vào trong bóng râm. Ruồi nhặng bay thành đàn. Hai vị bác sĩ kiểm tra trang phục mà Anna mặc - từ chiếc quần dài thụng, tới cái váy của cô - tìm kiếm những vết bẩn hoặc vết rách bất thường. Không tìm được gì, họ chuyển sang chẩn đoán thời gian của cái chết. Việc này khó hơn, nhất là khi nạn nhân đã chết vài ngày. Trong thế kỷ XK, các nhà khoa học tin rằng họ đã giải được bài toán này bằng cách nghiên cứu các giai đoạn mà một tử thi biến đổi sau khi chết: bắt đầu từ sự co cứng các cơ (tử thi co cứng), tới sự giảm nhiệt độ (tử thi dần lạnh), và sau cùng là sự biến sắc của da do thiếu sự tuần hoàn máu (tử thi bầm tím). Nhưng các nhà bệnh lý học sớm nhận ra rằng, có quá nhiều yếu tố - từ độ ẩm không khí cho tới chất liệu quần áo người chết đã mặc - có thể ảnh hưởng tới tốc độ phân hủy, làm cho kết quả tính toán không thể hoàn toàn chính xác. Dù vậy, họ vẫn có thể dự đoán được một cách sơ bộ thời gian xảy ra cái chết. Anh em nhà Shoun tuyên bố rằng Anna đã chết trong khoảng từ năm tới bảy ngày. Hai vị bác sĩ xoay nhẹ đầu của Anna. Một mảng da đầu rớt ra để lộ một lỗ tròn phía sau hộp sọ. “Cô ấy đã bị bắn!”, một trong hai anh em thốt lên. Tiếng rì rầm nổi lên. Nhìn kỹ hơn, họ thấy chu vi của cái lỗ chỉ bằng cỡ cây bút chì. Mathis đoán vết thương này là do súng ngắn bắn đạn 0,32 inch. Họ lần theo đường đạn - nó được bắn ngay trên đỉnh đầu và xuyên thẳng xuống dưới. Không còn nghi ngờ gì nữa, Anna đã bị sát hại một cách tàn nhẫn. •§• Cảnh sát thời đó phần lớn chỉ là những tay mơ. Họ hầu như không tham gia lớp tập huấn nào, cũng không được đào tạo những phương pháp khoa học tối tân về nghiệp vụ, như lấy dấu vân tay hay phân tích vệt máu. Đặc biệt là cảnh sát tại vùng biên giới, phần lớn trong số họ từng là những tay đấu súng hoặc những kẻ đi săn. Nhiệm vụ của họ là ngăn chặn tội phạm và bắt sống kẻ tình nghi nếu có thể hoặc bắn hạ khi cần thiết. “Một viên cảnh sát thời đó là hiện thân hoàn toàn của pháp luật, không có gì đứng giữa anh ta và sự hủy diệt ngoài phán quyết của chính anh và ngón tay bóp cò súng”, tờ Tulsa Daily World đã viết như vậy vào năm 1928, sau cái chết của một viên cảnh sát kỳ cựu từng tuần tra tại lãnh thổ người Osage. “Trường hợp thường thấy là một viên cảnh sát đơn thương độc mã chống lại cả một bầy lưu manh”. Những đại diện luật pháp này nhận mức lương thấp tới đáng thương và chỉ được trọng dụng bởi tài rút súng nhanh. Do đó, không lấy gì làm lạ khi ranh giới giữa một viên cảnh sát tốt và một viên cảnh sát biến chất vô cùng mỏng manh. Kẻ đứng đầu băng đảng Dalton, một băng tội phạm khét tiếng trong thế kỷ XIX, cũng từng là cảnh sát phụ trách làng định cư Osage. Vào thời điểm Anna chết, cảnh sát trưởng Quận Osage - người giữ trọng trách bảo đảm trật tự và pháp luật trong khu vực - là một người đàn ông năm mươi tám tuổi, nặng tới một trăm ba mươi sáu kilogram, tên là Harve M. Freas. Trong một cuốn sách được viết năm 1916 về lịch sử Oklahoma, ông được miêu tả là “nỗi khiếp sợ của đám tội phạm”. Nhưng đồng thời cũng có những lời xì xầm vào ra, rằng ông hay qua lại với vài thành phần bất bảo, rằng ông để mặc đám đánh bạc và buôn rượu lậu tung hoành, chẳng hạn như Kelsie Morrison và Henry Grammer - quán quân cưỡi ngựa từng bóc lịch vì tội giết người và buôn rượu lậu có tổ chức trong khu vực. Một đàn em của Grammer sau đó thú nhận rằng: “Tôi được đảm bảo rằng nếu có bị tóm… thì 5 phút sau sẽ được thả liền”. Một nhóm công dân trong Quận Osage đã ban hành một nghị quyết - đại diện cho “tôn giáo, sự thượng tôn pháp luật, gia phong và đạo đức” - rằng “Bất cứ ai tin rằng một viên chức đại diện cho Luật pháp cần phải thực thi Luật pháp triệt để thì nên gặp hoặc viết thư ngay cho cảnh sát trưởng quận Freas để nhắc nhở ông rằng ông cần thực hiện trọng trách được giao”. Khi được thông báo Anna là nạn nhân của một vụ giết người, Freas đang bận rộn với vụ án của Whitehorn. Ông cử một trong những cấp dưới của mình đi thu thập chứng cứ cho vụ của Anna. Fairfax có một cảnh sát trưởng phụ trách toàn thành phố. Vị cảnh sát này đi theo cấp dưới của Freas tới khe núi nơi hai anh em nhà Shoun đang khám nghiệm tử thi. Để xác định hung khí, họ cần lấy được viên đạn còn đang kẹt trong hộp sọ của Anna. Họ cưa xuyên qua hộp sọ rồi cẩn thận nhấc bộ não lên, đặt trên tấm phản. “Không tài nào tìm được viên đạn”, vị bác sĩ tuyên bố sau khi khám nghiệm bộ não. Họ xuống khe suối và khám xét hiện trường. Cạnh một tảng đá trên bờ suối, những vệt máu đánh dấu nơi xác Anna được tìm thấy. Không tìm thấy viên đạn, nhưng một viên cảnh sát tìm thấy một cái chai trên mặt đăt, trong đó chứa ít chất lỏng màu trắng có mùi hệt như rượu lậu. Viên cảnh sát phỏng đoán Anna đang ngồi trên tảng đá uống rượu thì bị một ai đó bước tới từ sau lưng và bắn ở cự ly gần, khiến cô đổ gục ngay tức thì. Cảnh sát trưởng thành phố phát hiện ra hai dấu bánh xe hoàn toàn khác nhau chạy ở khoảng giữa con đường và khe suối. Ông kêu lên, phó cảnh sát trưởng quận cùng các thành viên của ban điều tra chạy lại. Có vẻ như cả hai chiếc xe đi tới khe suối từ phía đông nam rồi quay ngược trở lại. Không có thêm bằng chứng nào được thu thập. Do không được đào tạo nghiệp vụ phá án, những viên cảnh sát không để ý đến việc lấy dấu bánh xe, dấu vân tay trên chai rượu, hoặc kiểm tra xem trên người Anna còn tàn thuốc súng hay không. Họ thậm chí còn không chụp hình hiện trường, dù sao hiện trường cũng đá bị xáo trộn bởi hàng tá người đứng xem rồi. Có ai đó đã lấy một chiếc bông tai từ xác của Anna, mang tới đưa nó cho mẹ của Mollie, vì bà quá yếu, không thể đi ra khe suối được. Lizzie ngay lập tức nhận ra nó. Anna, chết rồi. Cũng như mọi thành viên khác trong bộ tộc Osage, sự ra đời của những đứa con là hồng phúc lớn nhất bà được trao bởi Wah’Kon-Tah - thế lực bí ẩn của sự sống, bao trùm cả mặt trời, mặt trăng, trái đất và những vì sao; thế lực mà nhờ vào đó người Osage đã kiến tạo nên sự sống của họ từ bao đời nay, với ước mong mang lại chút trật tự cho sự hoang mang và hỗn loạn trên mặt đất; thế lực tồn tại mà không tồn tại, vô hình, xa cách, hào phóng, tuyệt diệu và kỳ bí. Rất nhiều người Osage đã từ bỏ niềm tin lâu đời này, nhưng Lizzie thì không. (Một quan chức Chính phủ Hoa Kỳ từng phàn nàn rằng những phụ nữ như Lizzie là những người “mê tín, xem thường các hiểu biết và phong tục hiện đại”). Giờ đây có ai đó, hay cái gì đó, đã cướp đi đứa con lớn mà Lizzie yêu thương nhất trước khi bà xuôi tay. Đây có lẽ là một điềm báo, rằng Wah’Kon-Tah đã đòi lại hồng phúc đấng đã ban, và rằng thế giới này rồi đây sẽ còn rối ren hơn nữa. Do đó, sức khỏe của Lizzie ngày một tồi tệ. Buồn đau trong bà tự bản thân nó giống như một căn bệnh vậy. •§• Mollie trông cậy hoàn toàn vào Ernest. Một luật sư quen biết cả hai người bọn họ đã miêu tả rằng “anh ấy hết lòng vì cô vợ thổ dân cùng những đứa con một cách lạ kỳ… và đáng nể phục”. Ernest an ủi Mollie khi cô dốc sức tổ chức tang lễ cho Anna. Từ chuyện đặt hoa, cho tới chuyện chuẩn bị quan tài bằng kim loại màu trắng và một bia mộ cẩm thạch. Nhân viên dịch vụ mai táng thường tính phí cắt cổ để làm dịch vụ nói trên cho người Osage, bòn rút họ hết mức có thể, và lần này không phải ngoại lệ. Hắn đòi 1.450 đô la cho cái quan tài, 100 đô la để chuẩn bị và ướp xác, cùng với 25 đô la để thuê xe tang. Đến lúc hắn tính toán xong mọi phụ kiện đi kèm, tính tới cả găng tay cho người đào huyệt, tổng chi phí đã lên một con số cao ngất ngưởng. Một luật sư trong ngôi làng nhận xét rằng: “Anh không thể chôn cất một thổ dân Osage với cái giá dưới 6.000 đô la” - một cái giá rất cao thời bấy giờ. Tang lễ được tổ chức theo truyền thống của người Osage và lễ nghi của đạo Công giáo. Mollie từng theo học một trường dòng của Pawhuska và thường xuyên tham dự Thánh lễ. Cô thích ngồi trên băng ghế dài vào sáng sớm Chúa Nhật, ngắm nhìn những tia nắng xuyên qua từng ô cửa sổ và lắng nghe linh mục giảng đạo. Cô cũng thích trò chuyện với bạn bè khi rảnh rỗi vào những ngày Chúa Nhật ấy. Tang lễ cho Anna được cử hành trong nhà thờ. William Hale, chú của Ernest, là người rất thân cận với Anna và gia đình Mollie. Ngày hôm đó, ông là một trong số những người hộ tang. Vị linh mục hát tụng bài thánh ca “Ngày phán xét” (Dies Irae) đầy vần điệu từ thế kỷ XIII với câu kết luôn là lời khấn cầu: Ỡ HỠI CHÚA JESUS ĐẦY HỒNG ÂN, HÃY BAN ƠN CHO KẺ Đà CHẾT ĐƯỢC YÊN NGHỈ VĨNH HẰNG. Sau khi vị linh mục rảy nước thánh lên quan tài của Anna, Mollie đưa gia đình và những người thân khác tới một nghĩa trang ở Gray Horse, một nơi yên tĩnh và tách biệt trông ra thảo nguyên bất tận. Bố và em gái Minnie của Mollie cũng được chôn cất cạnh nhau tại đây. Kế bên là một huyệt mộ mới được đào lên, tăm tối và ẩm ướt, đang chờ đợi quan tài của Anna. Bia mộ cô có khắc dòng chữ “Hãy gặp tôi trên Thiên đàng”. Theo thông tục tại nghĩa trang, nắp quan tài sẽ được bật mở lần cuối trước khi hạ huyệt để người thân nói lời vĩnh biệt với người đã khuất, nhưng thi thể của Anna đang trong tình trạng không thể làm như vậy. Tệ hơn nữa, người ta không thể vẽ lên mặt cô ký hiệu của bộ lạc và của thị tộc cô - một truyền thống trong các đám tang của người Osage. Nếu nghi lễ này không được thực hiện, Mollie lo sợ rằng linh hồn của Anna sẽ bị lạc. Dù vậy, Mollie và gia đình đã để lại đủ thức ăn trong quan tài cho Anna để chuẩn bị cho hành trình ba ngày tới một nơi mà người Osage gọi là Bãi đất Săn bắn Hạnh phúc (Happy Hunting Ground). Những người thân lớn tuổi, như mẹ của Mollie, bắt đầu cất tiếng hát bài hát cầu nguyện của bộ lạc Osage, mong ước rằng Wah’Kon-Tah sẽ thấu lời của họ. Sử gia và nhà văn vĩ đại John Joseph Mathews (1894-1979) là người mang trong mình dòng máu Osage, đã ghi lại rất nhiều truyền thống của bộ lạc. Khi miêu tả một lễ cầu nguyện thông thường, ông viết rằng: “Nó lấp đầy trái tim con trẻ của tôi sự kính sợ và một niềm vui buồn lẫn lộn, một khát khao lạ kỳ. Khi nó kết thúc, tôi nằm đó trong sự hân hoan xen lẫn sợ hãi, mong rằng nó sẽ không chấm dứt, và rồi tôi lo sợ rằng nó sẽ tiếp tục. Sau này, khi lớn lên, tôi nghiệm ra rằng bài thánh ca này, với những vần điệu làm khuấy động lòng người, luôn kết thúc trước khi lời ca ngừng vang lên, trong những tiếng nấc đầy hoang mang”. Đứng trước ngôi mộ cùng Ernest, Mollie lắng nghe bài ca về cái chết của những người xưa, từng lời ca như thấm đẫm nước mắt. Oda Brown, chồng cũ của Anna, đã đau buồn tới mức phải cất bước quay đi. Chính giữa trưa - khi mặt trời, tạo vật vĩ đại nhất của Đấng Bí ẩn Toàn năng, lên tới điểm cao nhất - những người đàn ông bắt đầu hạ huyệt quan tài. Mollie đứng nhìn chiếc quan tài trắng dần nằm sâu trong lòng đất cho tới khi những tiếng khóc than rền rĩ đầy ám ảnh ngớt dần và thay vào đó là tiếng đất rơi lộp độp trên nắp quan tài. 3. VỊ VUA CỦA NHỮNG NGỌN ĐỒI OSAGE Cái chết của Anna Brown và Charles Whitehorn đã làm chấn động dư luận. Dòng tít trải dài trên mặt báo của tờ Pawhuska Daily Capital ghi: HAI VỤ ÁN MẠNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN GẦN NHƯ CÙNG MỘT LÚC. Hàng tá các giả thuyết về hung thủ được đặt ra. Hai viên đạn được lấy ra từ hộp sọ của Whitehorn có vẻ như được bắn ra từ một khẩu súng ngắn 0,32 inch - cùng loại hung khí bị nghi ngờ dùng để sát hại Anna. Phải chăng ngẫu nhiên mà cả hai nạn nhân đều là những thổ dân Osage giàu có, ở độ tuổi ngoài ba mươi? Hoặc có lẽ nào họ đã bị sát hại bởi một tay giết người hàng loạt - giống như tay bác sĩ H. H. Holmes, kẻ đã giết ít nhất 27 người, phần lớn là tại Hội chợ Thế giới năm 1893 ở Chicago? Lizzie để Mollie tự lo liệu với các nhà chức trách. Vào thời của Lizzie, bộ tộc Osage đã từ bỏ phần lớn các phong tục của họ. Louis F. Burns, một nhà sử học người Osage, viết rằng sau khi dầu mỏ được phát hiện, cả bộ tộc như bị “thả trôi lênh đênh trong một thế giới kỳ lạ”. Ông còn viết thêm: “Chẳng còn gì thân thuộc để bấu víu hay giữ cho mình không bị chìm trong thế giới phong lưu của người da trắng”. Thời trước, có một nhóm người thường được gọi là Lữ khách trong sương (Travelers in the Mist) chịu trách nhiệm dẫn dắt toàn bộ tộc Osage vượt qua những thay đổi đột ngột hay khi thị tộc du hành qua những vùng đất mới. Dù Mollie cũng thấy vô cùng hoang mang trước biến cố đột ngột này, cô vẫn tự vực dậy và dẫn dắt cả gia đình như một lữ khách trong sương của thời kỳ mới. Cô nói được tiếng Anh và lấy một người đàn ông da trắng. Cô không để bản thân sa vào những cám dỗ đã hủy hoại biết bao thành viên trẻ của bộ tộc, bao gồm cả Anna. Đối với một vài người Osage, đặc biệt là những người lớn tuổi như Lizzie, dầu mỏ là một điềm phúc bị nguyền rủa. “Ngày nào đó, chỗ dầu mỏ này sẽ hết và sẽ không còn những tấm séc dày cộp mỗi tháng từ Cha già Da trắng Vĩ đại nữa”, một tộc trưởng Osage đã nói vậy vào năm 1928: “Sẽ không còn xe hơi hạng sang và quần áo mới nữa. Ta biết khi đó chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn”. Mollie hối thúc các nhà chức trách điều tra về cái chết của Anna, nhưng chẳng ai quan tâm vì họ chỉ coi sự kiện này là “cái chết của một tên thổ”. Mollie phải quay sang nhờ cậy chú của Ernest - William Hale. Công việc kinh doanh của ông giờ đã phủ khắp cả quận, ông trở thành một nhân tố mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh gìn giữ luật pháp và trật tự trong khu vực - nhằm bảo vệ “những linh hồn kính sợ Chúa”, theo như ông từng nói. Hale có khuôn mặt tròn như cú, mái tóc đen khô cứng, đôi mắt nhỏ trũng sâu có ánh nhìn luôn cảnh giác. Ông đã định cư ở làng quy hoạch này được gần hai thập kỷ. Giống như phiên bản đời thực của nhân vật Thomas Sutpen trong tiểu thuyết của Faulkner, ông cứ như từ trên trời rơi xuống - một con người không có quá khứ. Đặt chân tới ngôi làng định cư với vài bộ quần áo và một cuốn Kinh Cựu Ước cũ nát, ông dốc toàn bộ sức lực vào cái mà một người quen lâu năm của ông gọi là “một trận chiến vì sự sống và sự giàu sang” trong một “hình thái văn minh nguyên sơ”. Hale được nhận vào làm người chăn gia súc cho một nông trại. Trước khi miền Tây có đường ray xe lửa, những người như Hale thường dẫn đàn gia súc từ Texas đi tới lãnh thổ của người Osage, nơi chúng có thể kiếm ăn trên những đồng cỏ xanh mướt; và rồi tới Kansas, để từ đó chuyển đi tới những lò mổ ở Chicago và các thành phố khác. Những chuyến đi như vậy mê hoặc người dân Mỹ bằng hình ảnh của những chàng cao bồi. Nhưng trong thực tế, công việc của họ lại chẳng lãng mạn xíu nào. Hale phải làm ngày làm đêm để đổi lấy vài đồng lương còi cọc. Ông vượt qua các cơn bão - những trận mưa đá, giông và bão cát - và sống sót qua những lần gia súc chạy tán loạn bằng cách dẫn chúng đi theo từng vòng tròn nhỏ dần trước khi chúng giẫm đạp lên ông mà chạy. Quần áo ông mặc quện mùi mồ hôi và phân bò, lúc nào xương khớp cũng ê ẩm, có khi còn gãy nữa. Sau cùng, ông cũng dành dụm và mượn được một ít tiền, đủ để mua một đàn gia súc riêng trong lãnh thổ Osage. “Ông ấy là người giàu nhiệt huyết nhất mà tôi từng biết”, một nhà đầu tư vào công việc kinh doanh của Hale nhớ lại: “Kể cả khi qua đường ông ấy cũng đi như thể đang đuổi theo hoài bão của mình vậy”. Hale sớm lâm vào cảnh phá sản - một thất bại đầy cay đắng đã làm bùng lên ngọn lửa tham vọng trong ông. Ông lại đầu tư vào kinh doanh gia súc, và thường chỉ ngủ trong một cái lều trên đồng cỏ lộng gió và lạnh lẽo. Nhiều năm sau đó, một phóng viên đã miêu tả cách mà ông bước đi cạnh đống lửa là trông như “một con thú bị xích lại”. Hai tay ông xoa vào nhau đầy lo lắng bên ngọn lửa. Gương mặt hồng hào của ông trông rạng rỡ dưới cái rét và sự phấn khích. Ông làm việc điên cuồng như thể không chỉ sợ bị đói mà còn sợ Chúa Cha trong cuốn Kinh Cựu Ước giáng xuống sự trừng phạt, như Chúa đã làm với Job. Ông trở nên vô cùng thành thạo việc đóng dấu nung, cưa sừng, thiến gia súc và bán cổ phiếu. Lợi nhuận ngày càng tăng, ông mua thêm nhiều đất của những người định cư tại Osage và các khu lân cận cho tới khi nắm trong tay diện tích lên tới 45.000 mẫu Anh gồm những đồng cỏ vào loại tươi tốt nhất vùng, thêm vào đó là một gia tài nhỏ ông tích góp được. Và rồi, ông tự làm chủ. Lột bỏ những cái quần vải sờn rách và cái nón cao bồi, ông vận lên mình bộ com-lê bảnh bao, thắt nơ ở cổ với chiếc mũ phớt trên đầu, đeo thêm một cặp kính gọng tròn nổi bật. Ông cưới một giáo viên và họ có với nhau một cô con gái. Ông còn ngâm thơ nữa. Pawnee Bill, bậc thầy huyền thoại của chương trình giải trí Miền Tây Hoang dã (Wild West), người từng là đối tác của Buffalo Bill, miêu tả Hale là “một quý ông đẳng cấp”. Ông được phong là phó cảnh sát trưởng quận dự bị tại Fairfax, và luôn giữ vị trí này. Dù chức vụ được giao chủ yếu mang tính danh dự, nhưng ông được phép mang theo mình huy hiệu và dẫn đầu những nhóm truy đuổi tội phạm. Thi thoảng, ông vẫn mang trong túi áo một khẩu súng ngắn và giắt một khẩu ở bên hông. Chúng là biểu trưng, như cách ông hay nói, cho quyền lực của một viên chức thực thi pháp luật. Với gia tài và vị thế ngày càng vững mạnh, đám chính khách tranh thủ sự ủng hộ của ông, ngầm hiểu rằng mọi sự sẽ không thành nếu không được ông chúc phúc. Ông lao động chăm chỉ hơn và khôn khéo hơn mọi đối thủ, khiến rất nhiều kẻ xung quanh ông chỉ mong ông chết quách cho rồi. “Đúng là có vài người không ưa ông ấy”, một người bạn của ông thú thực. Dù vậy, Mollie Buckhart và rất nhiều người khác vẫn coi ông là ân nhân vĩ đại nhất của Quận Osage. Ông giúp đỡ những người Osage trước cả khi họ phất lên nhờ dầu mỏ, quyên tiền cho từ thiện, trường học và bệnh viện. Khoác lên mình tấm áo của một nhà truyền giáo, ông ký tên các bức thư của mình là “Rev. W. K. Hale”. Một bác sĩ địa phương kể lại: “Tôi không nhớ nổi bao nhiêu người bệnh đã được ông ấy ra tay cứu giúp, hay bao nhiêu kẻ đói khát đã được ông ấy hào phóng cho ăn”. Sau ấy, Hale viết một lá thư cho phụ tá của tộc trưởng, ghi rằng: “Tôi chưa từng có những người bạn nào tốt như những người Osage… Tôi sẽ luôn là một người bạn chân chính của người Osage”. Tại mảnh đất tàn dư cuối cùng này của biên giới Hoa Kỳ, Hale được phong làm “Vị Vua của những ngọn đồi Osage”. •§• Hale thường lui tới nhà Mollie để gặp Ernest. Không lâu sau lễ tang của Anna, Hale xuất hiện để bày tỏ lòng thành kính với Mollie và mẹ cô. Ông thề sẽ đòi lại công lý cho Anna. Với sự tự tin quá đỗi cùng sự lọc lõi trong thế giới bí mật của người da trắng (ông thường mang một chiếc ghim cài đính hột kim cương biểu tượng cho các cuộc hội họp của Hội Tam Điểm), chuyện ông chẳng có bất cứ vai trò cụ thể nào trong cuộc điều tra vụ án mạng cũng không có gì là to tát. Ông vẫn luôn bày tỏ mối thân tình với Anna. “Chúng tôi là những người bạn cực tốt của nhau”, ông nói. Và trong một lần tới thăm, Mollie thấy ông bàn bạc hăng say với Ernest về chuyện tìm ra bằng được kẻ đã sát hại chị gái cô. Thành viên của ban điều tra cùng với công tố viên quận tiếp tục điều tra về cái chết của Anna. Không lâu sau tang lễ của cô, Mollie được gọi tới lấy lời khai tại Fairfax. Văn phòng thuộc Sở Nội vụ về Quan hệ với Người bản địa - cơ quan chuyên trách của Chính phủ về quan hệ với các bộ tộc, sau này được đổi tên thành Cục Quan hệ với Người bản địa - có một nhân viên hiện trường được phân về làm tại lãnh thổ người Osage. Người này có quen biết Mollie. Anh ta nói rằng cô ấy “sẵn lòng làm tất cả… để đưa những kẻ có tội ra trước pháp luật”. Các quan chức cử một thông dịch viên cho Mollie, nhưng cô xua tay tỏ ý không cần và bắt đầu nói dõng dạc bằng thứ tiếng Anh ngắn gọn, theo cách cô được các sơ dạy khi còn bé. Mollie thuật lại cho bồi thẩm đoàn nghe về lần Anna tới thăm nhà. Cô nói rằng Anna ra về lúc mặt trời lặn. Trong phiên làm việc tiếp sau đó, một quan chức chính phủ thẩm vấn cô: “Cô ấy đi bằng gì?”. “Cô ấy đi bằng xe hơi.” “Ai đi cùng cô ấy?” “Bryan Burkhart.” “Cô có biết họ đi hướng nào không?” “Về hướng Fairfax.” “Còn ai khác trên xe cùng Bryan và Anna?” “Không, chỉ có Bryan và Anna…” “Cô còn gặp cô ấy sau đó khi cô ấy còn sống?” Mollie cố đứng vững. “Không”, cô nói. “Cô có nhìn thấy cái xác sau khi nó được tìm thấy?” “Vâng.” “Khoảng bao lâu sau khi cô thấy cô ấy rời khỏi nhà mẹ cô cùng Bryan Burkhart thì cô thấy cái xác?” “Khoảng năm sáu ngày gì đó.” “Cô thấy cái xác ở đâu?” “Ở trên đồng cỏ… ngay đó đó.” Tại phiên tòa, trong khi Mollie nóng lòng muốn trả lời mọi câu hỏi để chắc rằng không điều gì bị bỏ sót, vị thẩm phán trị an và bồi thẩm đoàn lại gần như chẳng hỏi cô điều gì. Họ xem nhẹ cô bởi định kiến - vì cô là một thổ dân Osage và là một người đàn bà. Ban điều tra thẩm vấn cặn kẽ hơn đối với Bryan Burkhart, người đang bị bàn tán ra vào. Suy cho cùng, chỉ có anh ấy là người cuối cùng thấy Anna trước khi cô ấy mất tích. Bryan không được điển trai như ông anh Ernest, chồng Mollie. Ngoại hình của anh toát ra vẻ gì đó lạnh lùng. Đôi mắt anh luôn nhìn chằm chằm khiến người ta khó chịu. Hale từng bắt được anh trộm gia súc của ông, và để dạy đứa cháu một bài học, ông kiện đứa cháu ra tòa. Công tố viên quận thẩm vấn Bryan về cái ngày anh đưa Anna về nhà. “Đưa cô ấy về xong anh đã đi đâu?” “Vào thị trấn.” “Lúc đó là mấy giờ?” “Khoảng 5 giờ hay 4 giờ rưỡi.” “Sau đó anh không còn gặp cô ấy nữa?” “Không, thưa ngài.” Nghe xong, công tố viên ngưng một chút rồi hỏi lại: “Chắc chứ?”. “Chắc, thưa ngài.” Trong một buổi lấy lời khai sau đó, Ernest cũng bị hỏi cung. Một điều tra viên hỏi dồn anh về người em trai: “Anh hiểu rằng anh ta là người cuối cùng được nhìn thấy đi cùng cô Anna Brown chứ?”. “Tôi hiểu”, Ernest đáp lại, và thêm lời mà Bryan nói với anh: “Nó đưa cô ấy về nhà rồi đi luôn. Nó đã kể lại như vậy”. “Anh tin lời anh ta?” “Vâng, thưa ngài.” Bryan bị tạm giam ngay sau phiên xét xử đầu tiên. Đã vậy, họ còn giam luôn cả Ernest, phòng trường hợp anh đang bao che cho cậu em trai. Nhưng cả hai người đều được thả ra sớm ngay sau đó. Không có bằng chứng nào chống lại Bryan ngoài việc anh là người đi cùng Anna trước khi cô biến mất. Khi được hỏi anh có biết Anna đã chết như thế nào hay không, Ernest trả lời là “Không”, còn nói thêm: “Tôi không biết cô ấy có kẻ thù hay có ai ghét cô ấy hay không”. •§• Một giả thuyết được nhiều người đồng tình là hung thủ không phải người ở làng định cư. Thời xưa, kẻ thù của bộ tộc gây chiến ngay trên các đồng cỏ. Giờ đây, chúng xuất hiện dưới dạng những kẻ cướp tàu lửa, những kẻ cắp manh động và đám tuyệt vọng liều lĩnh. Đạo luật cấm đồ uống có cồn được thông qua chỉ làm người dân trong khu vực cảm thấy tình trạng vô pháp luật tồi tệ hơn khi có thêm nhiều tội phạm có tổ chức ra đời. Theo cách nói của một nhà sử học, đó là “tập hợp tội phạm hổ lốn nhất trong lịch sử nước Mỹ”. Chỉ có vài vùng hỗn độn như Quận Osage, nơi mà bộ luật bất thành văn của Miền Tây, những truyền thống đã gắn chặt các cộng đồng với nhau, vẫn còn được áp dụng. Bởi lẽ, số tiền kiếm được nhờ dầu mỏ đã vượt quá tổng giá trị của lượng vàng khai thác được từ tất cả các cơn sốt vàng ở Miền Tây cộng lại. Kho báu này thu hút đủ mọi loại tội phạm trên khắp cả nước. Một chức trách thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cảnh báo rằng số tội phạm đào tẩu đang lẩn trốn trong những ngọn đồi vùng Osage “có lẽ còn nhiều hơn ở bất kỳ quận nào trong tiểu bang hoặc bất kỳ tiểu bang nào thuộc Liên bang”. Trong số đó, có tên cướp rắn mặt Irvin Thompson, còn được gọi là Blackie bởi làn da tối màu của hắn (hắn có một phần tư dòng máu thổ dân Cherokee). Một viên cảnh sát đã miêu tả hắn là “gã hèn hạ nhất tôi từng xử lý”. Số má hơn nữa là Al Spencer, biệt danh là Bóng ma kinh hoàng, kẻ đi đầu trong việc cướp bóc rồi tẩu thoát bằng xe hơi thay vì dùng ngựa, được thừa hưởng danh hiệu tên tội phạm khét tiếng nhất vùng từ Jesse James. Tờ Arizona Republican nói rằng, Spencer có “đầu óc bệnh hoạn và đam mê phiêu lưu lạc lối”, rất có sức cuốn hút với “đám quần chúng có những sùng bái lầm lạc”. Thành viên trong băng đảng của hắn, bao gồm Dick Gregg và Frank “Jelly” Nash, cũng thuộc nhóm những tên tội phạm cộm cán nhất thời bấy giờ. Một giả thuyết đáng lo ngại hơn về cái chết của Anna là hung thủ giết cô đang trà trộn giữa cộng đồng trong lốt một con chiên ngoan đạo. Mollie và những người khác bắt đầu nghi ngờ chồng cũ của Anna - Oda Brown - một người tự nhận là doanh nhân, nhưng suốt ngày bù khú. Nghĩ lại mới thấy, thái độ cùng quẫn của y có vẻ quá đỗi giả tạo. Một điều tra viên ghi chú lại rằng: “Đây có thể là nỗi đau khổ từ đáy lòng hoặc là… một màn kịch”. Sau khi ly hôn, Anna không để lại cho y bất cứ thứ gì, mà trao quyền thừa kế toàn bộ gia tài của cô cho Lizzie. Kể từ sau lễ tang, Brown đã thuê luật sư và cố gắng nhưng bất thành trong việc hủy bỏ bản di chúc. Điều tra viên kết luận rằng Brown “hoàn toàn không có ý gì tốt đẹp và có thể bất chấp làm mọi việc chỉ vì tiền”. Vài tuần sau lễ tang, một người đàn ông bị bắt ở Kansas vì tội làm giả séc gửi một bức thư cho cảnh sát trưởng quận Freas nói rằng y có thông tin về cái chết của Anna. “Thưa Quý ngài”, y viết: “Tôi hy vọng có thể giúp được gì đó cho ngài”. Y không nói rõ là y biết gì. Dù vậy, ngay khi nhận được bức thư, cảnh sát trưởng quận lập tức “phóng nhanh như gió” trên một chiếc xe đến gặp người đàn ông này. Hale, được mật báo về tin tức đột biến này, cũng lập tức di chuyển tới trại giam. Khi bị hỏi cung, kẻ phạm tội làm giả séc, một gã trai hai mươi tám tuổi có dáng vẻ bồn chồn, khai rằng Brown trả y 8.000 đô la để giết Anna. Y miêu tả đã bắn vào đầu cô như thế nào, rồi vác cái xác trên vai đi xuống khe núi ra sao. Ngay sau lời tự thú của y, một đoàn cảnh sát ập vào bắt giữ Brown khi hắn đang đi công tác tại Pawhuska. Tờ Pawhuska Daily Capital lập tức đưa tin: HUNG THỦ GIẾT ANNA BROWN Đà TỰ THÚ. Bài báo cũng viết: “Oda Brown - chồng của nạn nhân - cũng bị bắt giữ”. Mollie và gia đình đau khổ tột cùng khi biết Oda là kẻ chủ mưu gây ra cái chết của Anna. Họ cảm thấy an ủi phần nào khi nghĩ tới việc y sẽ phải đền tội trước pháp luật, có lẽ bằng cách bị treo cổ hoặc ngồi ghế điện. Vài ngày sau, giới chức trách buộc phải thừa nhận rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ lời khai của kẻ giả mạo là đúng - cũng không thể xác minh được y đã có mặt tại Quận Osage tại thời điểm xảy ra án mạng hay Brown đã liên hệ với y hay không. Họ buộc phải thả Brown tự do. “Có rất nhiều lời khai”, dẫn lời cảnh sát trưởng quận: “Nhưng anh phải có bằng chứng, không thể nói suông được”. •§• Giống nhiều quan chức khác, công tố viên quận cũng phần nào nhờ Hale mới đắc cử. Khi bắt đầu tranh cử, những người cố vấn của ông nói rằng ông cần phải lấy lòng Hale, nên ông lui tới nông trại của Hale vài lần nhưng không lần nào gặp được. Cuối cùng, một vị thanh tra gia súc gợi ý: “Nếu muốn gặp Bill Hale[2], anh phải tới nông trại của ông ta sớm - ý tôi là sớm thật sớm ấy”. Vậy là, mới ba giờ sáng, vị công tố viên đã đậu chiếc Ford dòng T của mình trên nông trại và đánh một giấc. Được một lúc, ông bị đánh thức bởi một người đàn ông trông có vẻ tức giận đang đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, yêu cầu vị công tố cho biết lý do tại sao đậu xe trên đất người khác. Đó chính là William Hale. Vị công tố giải thích, và Hale nhớ ra rằng ông biết cha mẹ của vị này. Hai người từng cưu mang ông trong một cơn bão tuyết. Hale hứa rằng sẽ bỏ phiếu cho vị công tố. Một cố vấn của vị công tố nhận xét rằng Hale “không bao giờ nói dối ai, ông ta nói là làm”. Tới ngày bầu cử, vị công tố trúng phiếu ở mọi khu bầu cử trong địa bàn quận. Hale vẫn giữ mối quan hệ thân thiết và tham vấn cho vị công tố viên cùng các quan chức khác về vụ án mạng của Anna. Cuối cùng, vị công tố quyết định phải tìm cho bằng được viên đạn đã khiến cuộc điều tra đi vào bế tắc. Tòa án phát lệnh đào mộ lấy xác Anna lên. Scott Mathis, một người bạn của Hale và Mollie, đồng thời là giám đốc Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn, được giao nhiệm vụ giám sát công việc đầy ác nghiệt này. Ông đi cùng người làm mai táng và một người đào mộ tới nghĩa trang. Nấm mồ của Anna lúc này còn chưa kịp xanh cỏ. Họ bắt đầu dùng thuổng xúc đất, sau đó kéo chiếc quan tài màu trắng nhuốm màu bùn đất lên, rồi nạy bật nắp ra. Mùi tử khí xộc lên, lẫn vào không khí. Anh em nhà Shoun, hai người khám nghiệm tử thi ban đầu, xuất hiện tại nghĩa trang và bắt đầu tìm kiếm viên đạn lần thứ hai. Lần này, hai anh em đeo găng tay và lôi ra một con dao phay, chặt nhỏ phần đầu của cái xác Anna ra thành “thịt băm nhuyễn”, như cách mà người làm mai táng miêu tả. Nhưng lần này cũng vậy, cả hai không tìm thấy bất cứ thứ gì. Dường như viên đạn đã tan vào thinh không rồi. •§• Tới tháng 7 năm 1921, vị thẩm phán trị an khép lại vụ án, kết luận rằng cái chết của Anna được gây ra bởi “hung thủ không rõ danh tính”. Kết luận tương tự cũng được đưa ra cho vụ sát hại Whitehorn. Vị thẩm phán giữ lại vài bằng chứng ít ỏi mà ông thu thập được, phòng khi có phát hiện gì mới. Trong khi ấy, Lizzie ngày càng đau bệnh. Ngày qua ngày, bà như yếu thêm, sức sống mai một dần, cứ như thể bà mắc phải cùng chứng bệnh lao lực kỳ lạ đã cướp đi sinh mạng của Minnie. Quá tuyệt vọng, Mollie nhờ cậy những vị thầy lang Osage. Họ tụng kinh khi bầu trời phía đông nhuốm đỏ màu máu. Đồng thời, Mollie phó thác cho các thầy thuốc tân thời, chính là anh em nhà Shoun - người luôn mang tân dược đựng trong những chiếc túi màu đen. Tất cả dường như không hiệu nghiệm. Mollie thức đêm liên tục để chăm sóc mẹ, một trong những người đại diện cho sợi dây nối cuối cùng tới những giá trị sống cổ xưa của bộ tộc. Mollie không thể chữa lành cho mẹ, nhưng có thể cho mẹ ăn. Cô giúp mẹ chải những lọn tóc dài óng mượt màu bạc vương trên khuôn mặt. Vào một ngày tháng 7, chưa đầy hai tháng kể từ khi Anna bị sát hại, Lizzie qua đời. Mollie không thể làm mẹ cô sống lại. Linh hồn của Lizzie đã được gọi về bởi Chúa Jesus - Đấng Cứu Độ, và bởi Wah’Kon-Tah - Đấng Kỳ bí Vĩ đại. Mollie thấy trong lòng bộn bề bởi nỗi đau mất mát, như lời nguyện cầu đầy xót thương của người Osage: Xin hãy rủ lòng thương Hỡi Linh hồn Vĩ đại! Con đã khóc thương mãi không thôi, Xin hãy lau khô đôi mắt và cho con được bình thản. •§• Anh rể của Mollie, Bill Smith, là một trong những người đầu tiên băn khoăn liệu cái chết của Lizzie, một cái chết tới quá sớm ngay sau vụ án mạng của Anna và Whitehorn, có uẩn khúc nào không. Là một người đàn ông gai góc gan lỳ, Bill bày tỏ sự thất vọng tột cùng về kết quả điều tra của các nhà chức trách, và tự bắt tay vào đào sâu sự việc. Giống như Mollie, anh vô cùng ngạc nhiên về căn bệnh hết sức mơ hồ của Lizzie. Không một vị bác sĩ nào có thể xác định nhân tố gây bệnh. Hơn nữa, không ai giải thích được nguyên nhân tự nhiên gây ra cái chết là gì. Càng tìm hiểu, càng tham vấn với các bác sĩ và các điều tra viên địa phương, Bill càng chắc chắn rằng Lizzie đã chết bởi một thứ hết sức không bình thường: bà đã bị đầu độc. Bill chắc dạ rằng cả ba cái chết này đều có liên quan với mỏ vàng đen nằm dưới lòng đất của bộ tộc Osage. 4. THỪA HƯỞNG TỪ LÒNG ĐẤT Tiền ập đến một cách đột ngột, mau chóng và điên cuồng. Khi người ta vừa tìm ra dầu mỏ, Mollie mới mười tuổi, tận mắt chứng kiến cơn sốt bùng lên từ đó. Nhưng theo như lời kể của những bậc tiền bối, lịch sử rối ren dẫn đến việc người trong bộ tộc sở hữu những mảnh đất ngập dầu mỏ này bắt đầu từ thế kỷ XVII, khi mà người Osage có trong tay phần lớn lãnh thổ của miền trung đất nước - một lãnh thổ trải dài từ khu vực Missouri và Kansas cho tới Oklahoma, và còn dài mãi về phía tây, cho tới tận dãy núi Rockies. Vào năm 1803, Tổng thống Thomas Jefferson lúc ấy đã mua lại từ tay đế quốc Pháp lãnh thổ của Louisiana, trong đó có đất đai được thống trị bởi bộ tộc Osage. Jefferson thông báo với Bộ trưởng Hải quân rằng Osage là một bộ tộc hùng mạnh và “chúng ta cần giữ hòa thuận, bởi trên mảnh đất của họ, chúng ta yếu thế một cách thảm thương”. Vào năm 1804, một đoàn thủ lĩnh người Osage tới gặp mặt Jefferson tại Nhà Trắng. Jefferson nói với Bộ trưởng Hải quân của mình rằng người Osage, với những vị chiến binh cao hơn một mét tám, là “những người đàn ông cường tráng nhất chúng ta từng thấy”. Tại buổi gặp mặt, Jefferson gọi những vị thủ lĩnh là “con của ta”. Ông nói: “Đã từ rất xưa, tổ tiên chúng ta đã vượt qua những con sóng lớn để tới được đây, tới nỗi chúng ta chẳng còn ký ức gì về điều đó nữa. Sự sống đã được sinh sôi ở trên mảnh đất này, như các con đã làm… chúng ta bây giờ như người một nhà”. Ông nói tiếp: “Khi quay trở về, hãy nói với người dân của mình rằng ta che chở cho tất cả, rằng từ giờ trở đi ta sẽ là cha của họ, rằng dân tộc này coi họ như những ân nhân và những người bằng hữu”. Nhưng chỉ trong vòng bốn năm, Jefferson đã buộc những người Osage phải từ bỏ lãnh thổ của họ nằm ở giữa con sông Arkansas và sông Missouri. Thủ lĩnh bộ tộc Osage nói rằng người dân của họ “không được quyền lựa chọn, hoặc là ký vào hiệp ước hoặc bị coi là kẻ thù của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”. Trong hai thập kỷ sau đó, người Osage bị ép từ bỏ quyền sở hữu 1 triệu mẫu Anh đất do tổ tiên để lại, cuối cùng phải nương náu trên một mảnh đất dài 125 dặm và rộng 5 dặm về phía đông nam Kansas. Đây cũng là nơi thân sinh của Mollie lớn lên. Cha của Mollie được sinh ra vào khoảng năm 1844, với cái tên đặc chất Osage: Ne-kah-e-se-y. Thanh niên Osage thời đó thường bận quần làm bằng da hươu có tua rua cùng một đôi giày da mềm và quấn khố. Một chiếc thắt lưng dệt bằng tay thường được dùng để giữ túi đựng xì gà và rìu. Họ để ngực trần, đầu cạo nhẵn chỉ trừ một vạt tóc thẳng đứng từ đỉnh đầu xuống tới cổ, giống như đỉnh của chiếc nón của các chiến binh Sparta. Cùng những chiến binh khác, Ne-kah-e-se-y bảo vệ bộ tộc khỏi các cuộc tấn công. Trước mỗi trận chiến, ông thường bôi đen khuôn mặt bằng than củi và cầu nguyện với Wah’Kon-Tah, khẳng định rằng đã đến lúc “khiến kẻ thù phơi xác đỏ máu trên mặt đất”. Càng trưởng thành, Ne-kah e-se-y càng trở thành một nhân vật xuất chúng trong bộ tộc. Cẩn trọng và thấu đáo, ông có khả năng nghiên cứu tình hình trước khi đưa ra phương hướng hành động. Nhiều năm về sau, khi bộ tộc xây dựng hệ thống tòa án đầu tiên để xét xử các vụ án nhỏ, ông được bầu làm một trong ba vị thẩm phán. Lizzie lớn lên trong ngôi làng quy hoạch ở Kansas, nơi bà góp tay nuôi sống gia đình bằng cách thu hoạch ngô và lấy củi. Bà mang đôi giày và quần bằng da mềm, váy ngắn cùng một chiếc khăn choàng trên vai. Bà nhuộm đỏ phần giữa mái tóc biểu tượng cho đường đi của mặt trời. Một nhân viên Cục Quan hệ với Người bản địa sau này miêu tả rằng bà rất “cần cù” và là “một người có đức tính tốt”. Hai lần mỗi năm, khi Lizzie và Ne-kah-e-se-y còn trẻ, gia đình họ và toàn bộ thành viên trong bộ tộc thường gói ghém chút vật dụng mà họ có - quần áo, chăn mền, đồ nấu ăn, thịt khô, vũ khí - buộc chúng lên lưng ngựa và bắt đầu cuộc đi săn bò rừng linh thiêng trong vòng hai tháng. Khi một người trinh sát phát hiện một đàn bò, Ne-kah-e-se-y cùng những thợ săn khác chạy đua trên ngựa. Băng qua đồng cỏ, vó ngựa nện xuống mặt đất như những nhịp trống, bờm ngựa phất qua trên gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của họ. Một sinh viên y khoa người Pháp, người từng tháp tùng bộ tộc trong một cuộc đi săn vào năm 1840, kể lại rằng: “Cuộc đua này không hề khoan nhượng… Một khi con bò rừng bị đuổi kịp, nó sẽ cố chạy thoát theo hướng khác, luồn lách để đánh lừa kẻ thù của nó. Rồi khi biết chạy không thoát được, nó nổi khùng lên và chống trả kẻ đã gây hấn với nó”. Nếu gặp trường hợp đó, Ne-kah-e-se-y sẽ bình tĩnh rút cung và tên, thứ được người Osage coi trọng hơn cả một viên đạn. Con bò rừng bị bắn trọng thương. Người sinh viên y khoa nhớ lại: “Con thú thổ ra cả tràng huyết và quỵ ngã trước khi đổ sụm trên mặt đất”. Sau khi cái đuôi bị cắt bỏ - như một biểu tượng chiến thắng của người đi săn - không có thứ gì bị lãng phí: thịt được làm khô, quả tim được hun khói, ruột được làm thành xúc xích, mỡ từ não của con bò được bôi lên bộ da để làm thành dây thừng và tấm phủ cho lều. Những bộ phận khác cũng được sử dụng: sừng dùng để làm muỗng, phần gân làm dây cung, mỡ dùng bôi cho đuốc. Khi hỏi một vị thủ lĩnh Osage tại sao ông không sống theo cách của người da trắng, ông đáp: “Ta hoàn toàn bằng lòng với điều kiện sống này. Những khu rừng và con sông cung cấp đủ mọi nhu cầu tự nhiên rồi”. Người Osage được Chính phủ Hoa Kỳ bảo đảm rằng lãnh thổ Kansas sẽ mãi là nhà của họ, nhưng chẳng bao lâu sau nó lại bị tước đi bởi những người định cư khác. Trong đó có gia đình của Laura Ingalls Wilder, sau này là tác giả của Ngôi nhà nhỏ trên Thảo nguyên. “Sao mẹ không ưa những người thổ dân, hả mẹ?”, Laura hỏi mẹ trong một phân cảnh. “Mẹ chỉ không ưa họ thôi, và đừng liếm ngón tay thế, Laura.” “Đây là đất của thổ dân mà, phải không mẹ?”, Laura nói: “Sao mình lại tới đây, nếu như mẹ không thích họ?”. Một buổi tối nọ, cha của Laura giải thích rằng Chính phủ sẽ sớm đuổi những người Osage đi chỗ khác: “Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây, Laura. Người da trắng sẽ định cư tại đất nước này, và chúng ta sẽ ở vùng đất tốt nhất vì chúng ta tới đây trước và đã chọn ở đây”. Mặc dù trong cuốn sách, gia đình Ingalls đã rời khỏi làng định cư vì chịu sự đe dọa từ binh lính, nhưng thực tế là nhiều kẻ nhập cư trái phép đã dùng vũ lực để cướp đất. Vào năm 1870, người Osage - khi ấy đã bị tống ra khỏi những túp lều của họ, mồ mả cũng bị cướp lột sạch - đồng ý bán lại đất ở Kansas cho đám người nhập cư với giá 1,25 đô la một mẫu Anh. Đã vậy, những kẻ nhập cư mất kiên nhẫn còn giết hại vài người Osage, chặt thi thể và lột da họ. Một viên chức Cục Quan hệ với Người bản địa đã nói: “Trong câu hỏi này đã hàm ý câu trả lời, rằng ai trong đám người đó mới là man rợ”. •§• Người Osage ra đi tìm mảnh đất mới. Họ thương lượng để mua lại gần 1,5 triệu mẫu Anh từ đất của người Cherokee, tại nơi mà thời ấy còn là Lãnh thổ Người da đỏ. Một khu vực ở phía nam Kansas đã trở thành điểm dừng cuối cùng trên Con đường mòn đẫm nước mắt của rất nhiều bộ tộc khi bị buộc rời khỏi mảnh đất của họ. Mảnh đất hoang mà người Osage chọn định cư rộng lớn hơn Delaware, nhưng hầu hết những người da trắng coi đây là mảnh đất “hoang tàn, sỏi đá, khô cằn và chẳng thể trồng trọt gì được”, theo lời của một viên chức Cục Quan hệ với Người bản địa. Đó là lý do tại sao Wah-Ti-An-Kah, tộc trưởng Osage, đứng lên phát biểu trong một cuộc họp hội đồng rằng: “Người dân của ta sẽ hạnh phúc ở nơi đây. Người da trắng không thể cắm những thứ làm bằng sắt trên đất đai này. Người da trắng sẽ không màng tới mảnh đất này. Nơi đây có rất nhiều đồi… người da trắng không thích nơi nào có đồi, và họ sẽ không tới đây”. Ông nói thêm: “Nếu người dân ta đi về phía tây, nơi mặt đất đầy những túp lều, người da trắng sẽ tới những túp lều của chúng ta và nói ‘Ta muốn mảnh đất của ngươi’… Sớm muộn gì người Osage cũng sẽ mất đất và không nơi nương tựa”. Vậy là người Osage mua lại vùng đất này với giá 70 cent một mẫu Anh. Vào khoảng đầu những năm 1870, họ bắt đầu di cư tới vùng đất mới. “Tiếng kêu gào của những người già vang vọng không gian, đặc biệt là phụ nữ, những người đang khóc than trên những nấm mồ của con cái mà họ phải bỏ lại sau lưng mãi mãi”, một người chứng kiến cảnh tượng kể lại. Sau hành trình đầy khó nhọc tới làng quy hoạch mới, thành viên bộ tộc bắt tay vào xây dựng vài lán trại. Trại lớn nhất nằm ở Pawhuska, nơi mà sừng sững trên đỉnh đồi cao nhất là tòa nhà xây bằng sa thạch của Văn phòng Quan hệ với Người bản địa. Gray Horse là một vùng đất nằm phía tây của lãnh thổ, nơi chỉ có một nhúm các túp lều mới dựng. Tại đây, Lizzie và Ne-kah-e-se-y, cặp vợ chồng mới cưới năm 1874, đã định cư. Việc phải di cư hết lần này tới lần khác, cùng với “những căn bệnh của người da trắng” như thủy đậu, đã giáng một đòn chí mạng xuống toàn thể bộ tộc. Theo ước đoán, dân số bộ tộc giảm mạnh xuống còn khoảng 3.000 người - một phần ba so với trước đó 70 năm. Một viên chức Quan hệ với Người bản địa báo cáo rằng: “Tàn dư này là tất cả những gì còn sót lại của một dân tộc anh hùng đã từng thống trị toàn bộ khu vực này”. Người Osage vẫn đi săn bò rừng. Họ làm vậy không chỉ để kiếm lương thực mà còn là để tìm lại quá khứ. “Cứ như cuộc sống của thời xưa”, một thương nhân da trắng từng giao thương với bộ tộc cho hay: “Những người lớn tuổi có thói quen quây quần bên lửa trại trong tâm trạng bồi hồi và kể lại những câu chuyện về sự anh dũng khi ra trận hay trong cuộc đi săn”. Đến năm 1877, loài bò rừng gần như tuyệt chủng hoàn toàn - hiện trạng này diễn ra là do giới chức trách khuyến khích đám người định cư xóa sổ loài thú này. Theo cách nói của một sĩ quan quân đội, họ biết rằng “mỗi con bò chết đi là một tên thổ dân tới số”. Chính sách của Hoa Kỳ đối với những bộ tộc này đã chuyển từ ngăn chặn sang ép buộc đồng hóa, và các viên chức ngày càng gắt gao trong việc cải hóa những người Osage thành những con chiên đi nhà thờ, nói tiếng Anh và thành những nông dân ăn mặc đủ vải. Chính phủ còn nợ tiền trợ cấp cho bộ tộc khi bán mảnh đất ở Kansas, nhưng họ từ chối chi trả cho tới khi những người đàn ông tráng kiện như Ne-kah-e-se-y chịu làm ruộng. Kể cả khi những người Osage đã chấp nhận yêu cầu đó, Chính phủ vẫn cương quyết đòi chi trả dưới dạng quần áo và lương thực của chế độ bao cấp. Một tộc trưởng Osage than phiền: “Chúng ta không phải chó để bị cho ăn giống như chó vậy”. Không quen với cách làm nông của người da trắng và thiếu thịt bò rừng, người Osage bắt đầu lâm vào nạn đói. Xương của họ nhìn như sắp gãy tới nơi. Rất nhiều người trong bộ tộc bỏ mạng. Một đoàn đại biểu Osage, bao gồm tộc trưởng Wah-Ti-An-Kah, đã được phái đi, khẩn cấp tới Washington, D.C. làm đơn kiến nghị gửi tới ủy viên hội đồng phụ trách Quan hệ với Người bản địa nhằm bãi bỏ hệ thống bao cấp này. Theo miêu tả của John Joseph Mathews, thành viên đoàn đại biểu vận những tấm vải thổ dân và những chiếc quần bó đẹp nhất, còn Wah-Ti-An-Kah quấn quanh mình một tấm mền đỏ kín tới nỗi chỉ có thể nhìn thấy mắt của ông, đôi mắt sâu thẳm như rực cháy với toàn bộ lịch sử của bộ tộc. Đoàn đại biểu tới văn phòng của ủy viên hội đồng và ngồi đợi vị này. Khi vị ủy viên xuất hiện, ông nói với thông dịch viên rằng: “Hãy nói những quý ông này rằng tôi xin lỗi vì có một cuộc hẹn khác vào lúc này, tôi xin lỗi vì bây giờ mới nhớ ra”. Khi vị ủy viên dợm bước rời đi, Wah-Ti-An-Kah đứng chắn ngay trước cửa và buông tấm vải trên người xuống. Cả đoàn người kinh ngạc khi nhìn thấy ông gần như khỏa thân, chỉ mặc một tấm khố, đi đôi giày da mềm, trên gương mặt sơn họa tiết hệt như ông đang dẫn một đoàn quân ra trận. “Ông ta đứng sừng sững như một vị thần nguyên sơ của những khu rừng tăm tối”, Mathews đã viết vậy. Wah-Ti-An-Kah nói với thông dịch viên: “Hãy nói người này ngồi xuống”. Khi vị ủy viên làm theo, Wah-Ti-An-Kah nói: “Chúng tôi đã đi từ rất xa tới để nói về vấn đề này”. Vị ủy viên nói: “Rõ ràng ông không biết cư xử sao cho đúng mực, ông tới văn phòng này mà chẳng mặc gì và còn sơn họa tiết chiến tranh lên mặt, ông không đủ văn minh để biết sử dụng tiền”. Wah-Ti-An-Kah đáp rằng ông không thấy xấu hổ vì cơ thể mình. Sau khi ông cùng đoàn đại biểu liên tục thúc ép về vấn đề của họ, vị ủy viên đồng ý chấm dứt chính sách bao cấp. Wah-Ti-An-Kah cầm tấm vải đứng lên và nói: “Nói người này rằng mọi việc đã ổn, ông ta đi được rồi”. •§• Như nhiều bộ tộc khác, cha mẹ Mollie cố gắng gìn giữ truyền thống của mình. Đặt tên cho con cái là một trong những phong tục quan trọng của người Osage, bởi chỉ khi được đặt tên đứa bé mới được coi là thành viên bộ tộc. Mollie sinh ngày 1 tháng 12 năm 1886, có tên Osage là Wah-kon-tah he-um-pah. Những chị em của cô cũng được đặt tên như vậy: Anna là Wah hrah-lum-pah; Minnie là Wah-sha-she; và Rita là Me-se-moie. Nhưng khi nhiều người định cư tới sinh sống trên làng quy hoạch, quá trình hội nhập văn hóa diễn ra ngày càng nhanh. Họ trông không giống người Osage, thậm chí cũng chẳng giống người Cheyenne hay người Pawnee. Nhìn họ bẩn thỉu và tuyệt vọng, như William Hale, xuất hiện trên lưng ngựa trong bộ quần áo rách rưới - một người chẳng biết ở đâu mà đến. Kể cả những người định cư gắn bó với người Osage như Hale cũng một mực cho rằng cách sống của người da trắng là lựa chọn duy nhất, người Osage muốn tồn tại thì phải sống theo như vậy. Hale quyết tâm không chỉ thay đổi bản thân mà còn thay đổi bộ mặt của sự hoang dã nơi đây - ông quyết làm hàng rào cho thảo nguyên tự do này và tạo ra một mạng lưới những thị trấn cũng như những khu mậu dịch. Vào những năm 1880, John Florer mở ra khu mậu dịch đầu tiên ở Gray Horse, cha của Mollie, Ne-kah-e-se-y, thích lai vãng ở phía ngoài khu mậu dịch. Trong bóng râm, ông bán những tấm da động vật. Ở đây, Mollie đã làm quen với con trai của một người lái buôn, là người da trắng đầu tiên mà cô từng gặp, da anh ta tái nhợt như bụng cá vậy. Con trai của người lái buôn mang theo mình một cuốn sổ tay, trong đó ghi lại một sự kiện có khả năng biến đổi sâu sắc sự tồn tại của Mollie và gia đình cô, dù anh chỉ nhắc tới nó trong một ghi chú vắn tắt, như thể nó chỉ là một đầu mục mới trong cuốn sổ kế toán. Một ngày nọ, anh viết rằng, một người lái buôn bắt đầu gọi cha của Mollie là Jimmy. Chẳng bao lâu sau, nó thay thế hoàn toàn cho cái tên Osage của ông. “Các cô con gái của ông thường hay lui tới cửa tiệm nên cũng được đặt cho những cái tên như vậy”, anh ta viết. Và thế là Wah-kon-tah-he-um-pah biến thành Mollie. Mollie - cũng giống như mẹ cô, vẫn mặc quần ống bó, đi giày da mềm, mang váy ngắn, áo cánh và quàng trên mình một tấm vải thổ dân - thường ngủ trên sàn trong góc lều của gia đình và phải làm rất nhiều việc nặng nhọc trong nhà. Nhưng quãng thời gian ấy rất bình yên và hạnh phúc: Mollie có thể tận hưởng những điệu nhảy lễ hội cùng những bữa tiệc, chơi trò té nước trên suối rồi xem các chàng trai đua trên những con ngựa con băng qua đồng cỏ xanh ngát. Con trai người lái buôn viết tiếp: “Những ký ức vẫn phảng phất đâu đó như một giấc mơ không trọn vẹn, về một thế giới thần tiên vụt hiện lên trong tâm trí của một đứa trẻ với tất cả những nhiệm màu và bí ẩn của nó”. Vào năm 1894, Mollie được bảy tuổi. Cha mẹ cô được thông báo rằng họ phải ghi danh cho cô vào Trường Thánh Louis, một trường Công giáo nội trú dành cho học sinh nữ được thành lập tại Pawhuska, cách nhà cô hai ngày đường về phía đông bắc nếu đi bằng xe kéo. Một vị ủy viên Quan hệ với Người bản địa nói: “Tất cả thổ dân phải sống như người da trắng, hoặc tự nguyện hoặc bị cưỡng chế”. Cha mẹ Mollie bị cảnh báo rằng nếu họ không làm theo, Chính phủ sẽ cắt đứt chi phí viện trợ, mặc cho gia đình cô chết đói. Vậy nên, vào một buổi sáng tháng 3, Mollie bị dẫn ra khỏi nhà và bị tống lên một chiếc xe ngựa. Vì chiếc xe đi về hướng Pawhuska, nằm ở trung tâm làng quy hoạch, Mollie có thể nhìn thấy Gray Horse - giới hạn nhỏ bé quanh thế giới của cô lúc bấy giờ - dần khuất xa cho tới khi chỉ còn những cột khói bay lên từ đỉnh các túp lều và phai dần trên nền trời. Trước mắt cô, thảo nguyên trải dài đến tận chân trời như một đáy biển cổ xưa. Không một khu định cư, không một bóng người. Cứ như thể cô đã trượt chân và ngã nhào “khỏi tận cùng thế giới”. Từng giờ, từng dặm trôi qua, chiếc xe ngựa gập ghềnh đưa Mollie đi qua miền hoang dã, trống trải, vắng bóng người. Cuối cùng, khi ánh sáng tắt dần, người lái xe và Mollie dừng lại để dựng trại. Mặt trời chìm xuống trên thảo nguyên, cả bầu trời ánh đỏ màu máu rồi chuyển thành tối đen. Màn đêm dày đặc chỉ có ánh trăng và những ngôi sao đâm xuyên qua, cũng là nơi mà người Osage tin là nguồn gốc tổ tiên của họ. Mollie đã trở thành một lữ khách trong màn sương. Bao trùm quanh cô là các thế lực của màn đêm, chỉ nghe thấy mà không nhìn thấy, tiếng rên của những chú sói đồng cỏ cùng tiếng hú của bầy sói lớn và tiếng rít của những con cú, đều là hiện diện của linh hồn quỷ dữ. Ngày hôm sau, thảo nguyên bát ngát nhường chỗ cho những ngọn đồi cây phủ kín. Mollie và người lái xe đi qua những sườn đồi nhấp nhô, lướt qua những cây sồi đen râm mát và những hang động tối tăm - là những địa điểm hoàn hảo “để đánh úp”, theo lời một nhân viên Quan hệ với Người bản địa sợ hãi kể lại (Cậu ta nói thêm: “Để tôi nói anh nghe… có những tên tội phạm ngu dốt sẵn sàng làm bất cứ điều gì”). Họ đi mãi cho tới khi nhìn thấy bóng dáng của sự sống: một ngôi nhà một trệt xiêu vẹo sơn màu đỏ. Đó là một cửa hàng mậu dịch của người Osage, kế bên là căn nhà nhiều phòng trống lếch thếch và một tiệm rèn với một đống móng ngựa cao ngất ngưởng. Con đường lầy lội dẫn vào một con đường rộng còn lầy lội hơn, với những cửa hàng mậu dịch nằm rải rác ven đường. Những cửa tiệm này đặt mấy tấm phản gỗ xập xệ bên ngoài để giúp khách hàng tránh dẫm chân vào những vũng bùn gớm ghiếc. Những cây cột để buộc ngựa cùng các biển hiệu cũ nát trông như thể chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ làm chúng đổ sập. Vài cửa tiệm còn được thiết kế như có thêm một tầng lầu nhằm trông có vẻ bề thế hơn. Mollie đã tới Pawhuska. Mặc dù khu trung tâm của làng quy hoạch trông có vẻ nhỏ bé và tồi tàn - như một “khu mậu dịch nhỏ lầy lội”, theo cách một khách tham quan miêu tả - nhưng đây lại là khu định cư lớn nhất mà Mollie từng thấy. Cô được đưa đi thêm một dặm nữa, tới một tòa nhà bốn tầng làm bằng đá trông rất đáng sợ: trường truyền giáo dòng Thánh Louis. Ở đây, cô được những người phụ nữ sùng đạo mặc đồ trắng và đen bảo bọc. Mollie đi qua cửa chính - Mathews đã có lần mô tả lối vào của một trường nội trú Osage là “một cái miệng lớn đen thui, lớn hơn và tối hơn miệng của một con mèo hoang” - bước xuống một dãy mê cung những hành lang lộng gió. Những ngọn đuốc đốt bằng than lập lòe cháy trong bóng tối. Mollie phải gỡ tấm vải thổ dân trên vai xuống và mặc một cái váy trơn. Cô không được phép dùng tiếng Osage, mà phải tập cách nói như người da trắng, và được giữ một cuốn Kinh Thánh mở đầu bằng sự khai sinh của vũ trụ: “Thiên Chúa phán ‘Phải có ánh sáng’, liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối”. Học sinh được đưa vào khuôn phép và phải xếp hàng đi đều đến từng lớp một. Chúng được học chơi đàn piano, rèn viết chữ, học địa lý và số học. Cả thế giới như cuộn lại trong những biểu tượng kỳ lạ. Sự giáo dục này nhằm đồng hóa Mollie vào xã hội của người da trắng và biến cô trở thành một người phụ nữ lý tưởng theo cách nhìn nhận của các nhà chức trách. Vậy nên, trong khi những đứa bé Osage ở những ngôi trường khác phải học làm nông và dệt thảm, Mollie được đào tạo “nữ công gia chánh”: may vá, nấu nướng, giặt ủi và dọn dẹp nhà cửa. “Không bao giờ là đủ khi nói về tầm quan trọng của việc đào tạo bài bản cho những cô gái thổ dân”, một quan chức Chính phủ Hoa Kỳ nhấn mạnh, và thêm vào rằng: “Chẳng ra làm sao nếu người đàn ông làm lụng cần cù và siêng năng, mang lại lương thực và quần áo bằng sức lao động của mình, còn người phụ nữ lại không thể nấu nướng, may vá, cũng không biết gìn giữ trật tự cũng như sự ngăn nắp trong ngôi nhà. Chỉ có phụ nữ mới dính lấy những hủ tục lạc hậu, và truyền nó lại cho muôn đời con cháu về sau”. Rất nhiều học sinh người Osage ở trường của Mollie đã cố bỏ trốn, nhưng đều bị cảnh sát bắt lại và trói trên lưng ngựa mang về trường. Một năm học của Mollie kéo dài 8 tháng. Khi cô quay trở về Gray Horse, cô để ý thấy ngày càng nhiều cô gái thôi không mang vải thổ dân và giày da mềm; còn những chàng trai đã mặc quần dài thay vì quấn khố và đội những chiếc mũ rộng vành thay vì để chỏm tóc chính giữa trên đầu trần như xưa. Rất nhiều học sinh bắt đầu cảm thấy xấu hổ về cha mẹ mình, những người không thông thạo tiếng Anh và vẫn sống theo phong tục xưa. Một người mẹ Osage nói về con của bà như sau: “Tai nó không còn nghe những lời chúng tôi nói nữa rồi”. •§• Gia đình của Mollie không chỉ chơi vơi giữa hai thế kỷ, mà còn là giữa hai nền văn minh. Gia đình cô ngày càng lâm vào cảnh khó khăn hơn cuối những năm 1890, khi Chính phủ Hoa Kỳ thúc đẩy chiến dịch đồng hóa gắt gao tột độ: áp dụng chính sách phân lô. Thực hiện chính sách này, làng quy hoạch Osage sẽ bị chia nhỏ thành những mảnh có diện tích 160 mẫu Anh, trở thành bất động sản, và mỗi thành viên bộ tộc được nhận một mảnh đất, phần còn lại sẽ mở bán cho những người định cư đến từ bên ngoài. Hệ thống phân lô vốn đã được áp dụng với nhiều bộ tộc, được sử dụng nhằm chấm dứt cách sống bầy đàn và biến những thổ dân châu Mỹ thành những người sở hữu đất đai tư nhân - không hề ngẫu nhiên, việc này sẽ khiến cho việc mua đất trở nên dẽ dàng hơn. Người Osage biết chuyện gì đã xảy ra với dải đất của người Cherokee. Một thảo nguyên rộng lớn, một phần của lãnh thổ người Cherokee, nằm gần ranh giới phía tây của làng quy hoạch Osage. Sau khi Chính phủ Hoa Kỳ mua lại đất của người Cherokee, họ liền ra thông báo rằng vào giữa trưa ngày 16 tháng 9 năm 1893, mỗi người định cư sẽ giành được quyền sở hữu một trong 42.000 lô đất - nếu anh ta hay cô ta đặt chân lên đó trước! Nhiều ngày trước thời điểm đó, hàng vạn người đủ cả đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ đã tới, từ những nơi xa thật xa như California hay New York, tập trung dọc đường ranh giới. Đám người rách rưới, nhếch nhác này trải dài hết cả đường chân trời, như một đội quân tự tiêu diệt lẫn nhau. Cuối cùng, sau khi một vài “kẻ tới trước” cả gan lẻn vào sớm đã bị bắn, tiếng súng khai cuộc vang lên - MỘT CUỘC ĐUA GIÀNH ĐẤT KHỐC LIỆT CHƯA TỪNG THẤY NỔ RA, như một tờ báo đưa tin. Một phóng viên viết lại: “Những người đàn ông cố đánh gục nhau để chạy về phía trước. Những người đàn bà la hét, ngã sấp, ngất lịm đi, để rồi bị giày xéo lên và có khi là chết hết”. Phóng viên tiếp tục viết: “Đàn ông, đàn bà và những con ngựa nằm la liệt trên đồng cỏ. Chỗ nào cũng thấy họ đánh giết lẫn nhau chỉ để giành chủ quyền miếng đất mà người nào cũng nhận là mình đã tới trước. Người ta giương súng và rút gươm ra - một cảnh tượng hãi hùng nhưng đầy phấn khích, không ngòi bút nào có thể tả lại được. Đó là một cuộc giằng co, người ta vật lộn chỉ vì lợi ích cá nhân. Kẻ nào khôn ngoan sẽ sống sót”. Đêm hôm đó, dải đất của người Cherokee đã bị chia thành từng mảnh nhỏ. Bởi vì người Osage đã mua mảnh đất của họ, Chính phủ gặp khó khăn hơn trong việc áp dụng chính sách phân lô. Cả bộ tộc được dẫn dắt bởi một trong những tộc trưởng vĩ đại nhất: James Bigheart - người thông thạo bảy thứ tiếng, trong đó có tiếng của người Sioux, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin, và đã quen mang trên mình bộ đồ vét. Ông đã kịp thời ngăn chặn sự việc này. Nhưng sức ép ngày càng gia tăng, Theodore Roosevelt đã cảnh báo điều gì sẽ xảy tới với bất kỳ thổ dân nào từ chối chấp hành chính sách này: “Cứ để hắn, cũng như những tên da trắng chây ỳ không chịu làm việc, chết mục trên mặt đất nơi hắn sẽ ngã gục xuống đi”. Vào đầu thế kỷ XX, Bigheart cùng những thổ dân Osage biết rằng họ không thể né tránh thứ mà một viên chức Chính phủ gọi là “cơn bão lớn” đang mạnh lên từng ngày, chính phủ Hoa Kỳ đang bàn tính cách chia nhỏ lãnh thổ của người da đỏ, gộp lại thành một tiểu bang mới là Oklahoma (Trong ngôn ngữ của người Choctaw, “Oklahoma” có nghĩa là “người da đỏ”). Bigheart đã thành công trong việc trì hoãn áp dụng chính sách này trong vài năm - Osage là bộ tộc cuối cùng bị áp dụng chế độ đất phân lô trong lãnh thổ người da đỏ. Việc này đã mang lại cho bộ tộc nhiều lợi thế, đặc biệt là khi các quan chức chính phủ nóng lòng muốn phá bỏ những rào cản cuối cùng để thành lập tiểu bang. Vào năm 1904, Bigheart cử một chàng luật sư trẻ hăng hái tên John Palmer đi khắp đất nước để “liên tục cập nhật động thái từ Washington”. Là cậu con trai mồ côi của một lái buôn da trắng và một phụ nữ người Sioux, Palmer được nhận nuôi bởi một gia đình người Osage và cưới một phụ nữ Osage làm vợ. Một thượng nghị sĩ đến từ Oklahoma gọi Palmer là “tay thổ dân đĩnh đạc nhất thời bấy giờ”. Trong hàng tháng trời, Bigheart và Palmer cùng những thành viên khác của bộ tộc thương thảo với chính phủ về điều khoản trong việc phân lô. Phía Osage thuyết phục chính phủ cho họ phân chia đất theo lô chỉ cho các thành viên của bộ tộc, nhờ thế tăng diện tích đất mỗi thành viên sở hữu từ 160 lên tới 657 mẫu Anh. Chiến thuật này giúp tránh được những cuộc chạy đua điên cuồng trên đất của họ. Phía Osage cũng thành công trong việc thêm vào thỏa thuận một điều khoản mà tại thời điểm đó nghe rất kỳ lạ: “Tất cả dầu mỏ, khí, than, hay các loại khoáng sản khác nằm trong lòng đất… đều thuộc về Chính phủ Osage”. Họ biết có vài vỉa dầu nằm dưới đất của làng quy hoạch. Hơn một thập kỷ trước, một thổ dân Osage đã cho John Florer - chủ cửa hàng mậu dịch ở Gray Horse - xem một loại dung dịch lấp lánh như cầu vồng nổi lên trên bề mặt của một con suối ở phía đông làng quy hoạch. Người thổ dân này dùng chiếc mền nhúng vào dung dịch lạ, vắt nó ra đựng trong một cái lọ. Floret thấy chất lỏng này có mùi như mỡ bôi trơn trục xe có bán trong cửa hàng của mình. Ông vội mang mẫu vật cho những người khác coi, và họ đã xác nhận nghi ngờ của ông là đúng: đây chính là dầu mỏ. Chẳng ai ngờ được rằng cả bộ tộc đang ngồi trên một kho báu. Được sự chấp thuận của bộ tộc, Floret và một đối tác ngân hàng giàu có đã có hợp đồng thuê đất để bắt đầu công tác khoan. Tại thời điểm thương thảo việc phân lô, có vài giếng nhỏ đã bắt đầu khoan. Người Osage đã khôn ngoan giữ lại phần lãnh thổ cuối cùng này trong mảnh đất của họ - phần lãnh thổ mà họ không thể nhìn thấy được. Giống như những thành viên khác trong phả hệ bộ tộc Osage, Mollie và các thành viên trong gia đình được nhận một phần tương xứng - một phần trong quỹ khoáng sản của bộ tộc. Trong những năm tiếp theo, Oklahoma gia nhập Liên bang với tư cách tiểu bang thứ 46. Từ đó, thành viên trong bộ tộc có quyền bán đất bề mặt bởi họ đã thuộc địa phận Quận Osage. Nhưng để giữ quỹ khoáng sản nằm dưới quyền kiểm soát của bộ tộc, không ai được phép mua hay bán phần của mình. Những phần này chỉ có thể được kế thừa. Mollie và gia đình cô đã trở thành thế hệ đầu tiên được thừa hưởng từ lòng đất. •§• Bộ tộc cho những người da trắng đi thăm dò thuê đất ngày càng nhiều. Mollie thấy những người công nhân - những người tháo lắp thiết bị, tròng dây thừng, cạo mùn khoan, đốc công - lao vào làm việc điên cuồng. Sau khi hạ một ống thuốc nổ chứa đầy nitroglycerin xuống lòng đất, người công nhân lấm lem bùn đất liền kích nổ, thỉnh thoảng lại thấy những mẩu giáo hay đầu mũi tên của thổ dân châu Mỹ cổ đại văng lên. Họ nhìn chúng với ánh mắt đầy bối rối. Những người này dựng lên những khung gỗ cao vút trông như những ngôi đền, và nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ rất riêng: “Né ra, mấy thằng khỉ, né ra. Móc cái cần lên, mấy thằng ẻo lả. Cao quá. Vặn lỏng cổ cần khoan ra. Ròng cáp khoan xuống. Đưa đồ đỡ cần ra”. Rất nhiều người thăm dò khoan trúng giếng không có dầu, hay gọi là giếng “khô”, và bần thần bỏ đi trong nỗi thất vọng tràn trề. Một người Osage nhận xét rằng những người đàn ông da trắng này “hành động như thể ngày mai là tận thế vậy”. Vào khoảng đầu thế kỷ XX, tại phía đông lãnh thổ Osage, George Getty - một vị thẩm phán đến từ Minneapolis - bắt đầu hành trình đi tìm dầu mỏ trên Lô đất số 50 mà ông đã thuê với giá 500 đô la. Khi con trai ông - Jean Paul Getty - còn là một cậu bé, ông thường dẫn cậu đi thăm khu vực này. “Đó là những ngày tháng tiên phong”, Jean Paul - người sáng lập Công ty Dầu mỏ Getty - về sau đã nhớ lại: “Không xe hơi, điện thoại chỉ có vài cái, và rất ít đèn điện. Mặc dù đó là những năm đầu thế kỷ XX, bạn vẫn thấy khoảng thời gian đó như thể là thế kỷ XIX vậy”. Ông kể tiếp: “Đó như là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Cha mẹ tôi chẳng thấy được sức hấp dẫn của những chuyện đó như tôi. Cả nhà thường lui tới Lô đất 50, khoảng chín dặm vào sâu trong lãnh thổ Osage, trong một chiếc xe ngựa kéo. Thường mất vài tiếng đồng hồ, chúng tôi phải lội qua một con sông để tới đó”. Trước khi chạm trán với thổ dân, Jean Paul hỏi cha mình: “Họ có nguy hiểm không? Liệu mình có phải đánh đuổi họ đi không?”. Cha ông cười lớn. “Không”, ông nói: “Họ có vẻ trầm tính và thân thiện”. Vào một ngày xuân ẩm ướt năm 1917, Frank Phillips - một người đi khoan thăm dò, trước đó từng bán thuốc chống rụng tóc - đang đi cùng toán công nhân của ông trên Lô đất 185, cách Lô 50 chưa đầy nửa dặm. Họ đang khoan, bỗng tháp khoan rung lắc như thể có một đoàn tàu đang chạy nhanh qua. Từ phía dưới giếng khoan, tiếng gì đó nghe ùng ục vọng lên. Đám công nhân bắt đầu chạy, tiếng hét của họ bị nuốt chửng bởi một tiếng gầm lớn. Một thợ khoan tóm lấy Phillips, kéo ông ra khỏi sàn khoan ngay khi mặt đất nổ toang. Một cột dầu đen phun lên bầu trời. Mỗi phát hiện mới dường như đều ngoạn mục hơn phát hiện trước đó. Vào năm 1920, E. W. Marland, người từng nghèo khổ tới mức không đủ tiền mua vé tàu, đã phát hiện ra Burbank - một trong những mỏ dầu có quy mô khai thác lớn nhất cả nước: mỗi giếng mới lại cho ra 680 thùng dầu trong 24 giờ khai thác đầu tiên. Rất nhiều người Osage chạy ra xem những cột dầu phun lên khỏi mặt đất, tranh nhau những chỗ nhìn tốt nhất, cẩn trọng không tạo ra bất cứ tia lửa nào. Mắt họ dõi theo dòng dầu phun lên cao tới mười lăm, mười tám, thậm chí cả ba mươi mét trên mặt đất. Dầu phun tỏa ra xung quanh, bao trùm phía trên giàn khoan, trông như một thiên thần chết chóc đang trỗi dậy. Nó phủ kín toàn bộ khu vực mỏ, dính bết lên khuôn mặt của những công nhân và những người thăm dò. Kể cả như vậy, họ vẫn ôm chầm lấy nhau và tung nón lên để ăn mừng. Bigheart, người đã mất không lâu sau khi chính sách phân lô được áp dụng, được ca tụng là “Thánh Moses của những người Osage”. Và cái thứ khoáng sản đen đặc có mùi nồng nặc này được coi là điều tuyệt vời nhất trên thế giới. 5. TAY SAI CỦA QUỶ DỮ Tiền là phương tiện duy nhất mà Mollie có để thuyết phục những nhà chức trách da trắng lãnh đạm theo đuổi một vụ án mạng của người thổ dân. Sau khi Lizzie mất vào tháng 7 năm 1921, anh rể của Mollie - Bill Smith - đã bày tỏ mối nghi ngờ với các nhà chức trách về việc Lizzie có thể đã bị đầu độc từ từ. Thế nhưng, mãi tới tháng 8, các nhà chức trách vẫn chưa xem xét vụ việc này. Cuộc điều tra kéo dài ba tháng về cái chết của Anna cũng không có động tĩnh gì. Để hối thúc các điều tra viên, gia đình Mollie đưa ra một thông báo rằng bởi “sự sai trái của tội ác này” và là “mối hiểm họa cho những người khác”, gia đình sẵn lòng treo thưởng 2.000 đô la tiền mặt cho bất kỳ tin tức nào giúp họ bắt giữ kẻ thủ ác. Gia đình Whitehorn cũng treo thưởng 2.500 đô la cho ai bắt được kẻ đã sát hại Charles. Và William Hale, người đã quyết tâm quét sạch tội phạm khỏi Quận Osage, hứa sẽ trao thưởng riêng cho bất kỳ ai bắt được những kẻ giết người, dù còn sống hay đã chết. “Chúng ta phải ngăn những tội ác đẫm máu này lại”, ông nói. Thế nhưng, tình hình thực thi luật pháp ngày càng tồi tệ. Tổng chưởng lý Oklahoma buộc tội cảnh sát trưởng quận Freas về tội cố ý “không thi hành pháp luật”, thông đồng với đám buôn rượu lậu và đám cờ bạc. Freas chối bỏ mọi cáo buộc. Trong khi vụ án đang đợi để đưa ra xét xử, hai đại diện luật pháp đầy quyền lực này lao vào ẩu đả lẫn nhau. Trong tình trạng nguy cấp này, Hale thấy rằng đã tới lúc phải thuê một tai mắt cá nhân. Suốt phần lớn khoảng thời gian kéo dài từ thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, các thám tử tư là lực lượng đã lấp đầy khoảng trống của những đơn vị cảnh sát cũng như những người đứng đầu quan liêu, nghèo nàn, thiếu chuyên môn và biến chất. Trong văn học cũng như trong hình dung của nhiều người, những “tai mắt riêng tư” này - những mật thám, đặc vụ và tình báo - đã thay thế các viên cảnh sát, trở thành hình tượng của công lý đầy gai góc. Anh ta di chuyển trong những chốn hiểm nguy như những con hẻm dài tăm tối hay những cung đường lầy lội. Vũ khí ưa dùng của anh không phải là khẩu súng ngắn sáu viên. Thay vào đó, giống như Sherlock Holmes, anh dựa vào tài phân tích và suy luận xuất thần, khả năng quan sát những điều mà phần lớn mọi người giống như Watson khó thấy được. Anh tìm thấy trật tự trong mớ hỗn độn những manh mối và “biến những tội ác dã man - dấu tích của phần con trong phần người - thành những câu đố đầy trí tuệ”. Vậy nhưng, ngay từ xuất phát điểm, sự hào hứng với các thám tử tư luôn xen lẫn những ác cảm nhất định. Họ không được đào tạo hay quản lý, chính bản thân nhiều khi cũng có tiền án. Tuân phục các khách hàng sẵn lòng trả tiền cho họ, phần lớn thám tử tư bị xem như những kẻ lén lút đánh cắp bí mật của người khác (Những thám tử còn được gọi là “tay sai của quỷ dữ”). Vào năm 1850, Allan Pinkerton thành lập công ty thám tử tư đầu tiên của nước Mỹ. Trong tin quảng cáo, khẩu hiệu của công ty là “Chúng tôi không bao giờ ngủ”, được đặt dưới hình một con mắt mở lớn, gần giống với biểu tượng của Hội Tam Điểm. Từ đó, cụm từ “tai mắt riêng tư” ra đời. Trong cuốn sổ tay hướng dẫn những nguyên tắc và điều luật chung làm kim chỉ nam cho ngành này, Pinkerton thừa nhận rằng một thám tử phải bằng mọi cách “thoát khỏi ranh giới cứng nhắc của sự thật” và “dùng sự dối trá”. Mặc dù nhiều người không ưa công việc này, nhưng vẫn phải công nhận đây là một con quỷ cần thiết. Như một tai mắt riêng tư diễn giải, anh ta có thể là “một con rắn thảm hại” nhưng cũng là “kẻ báo thù thầm lặng, kín đáo và hiệu quả cho vị Thẩm phán Quyền uy khi mọi cách khác đều thất bại”. Hale thuê một viên thám tử tư có dáng vẻ trầm mặc từ Thành phố Kansas, người được biết dưới cái tên Pike. Để bảo toàn danh tính, Pike cải trang bằng cách ngậm tẩu thuốc và dán ria mép lên mặt rồi hẹn gặp Hale tại một địa điểm bí mật gần Whizbang (Những lãnh đạo văn minh như Hale coi Whizbang là một cái tên không đứng đắn, thay vào đó họ gọi nơi đây là Denoya, theo tên của một gia đình Osage quyền quý). Hale và Pike bàn bạc với nhau. Đằng sau lưng, từng cụm khói từ những mỏ dầu bay lên và tan dần trên bầu trời. Sau đó, Pike lặng lẽ lui về để làm công tác điều tra. Theo sự sắp đặt của Mollie và gia đình, người quản lý tài sản của Anna cũng thuê vài thám tử tư. Người quản lý này chính là Scott Mathis - chủ Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn. Ông là người quản lý lâu năm các vấn đề tài chính của Anna và Lizzie với tư cách một người giám hộ. Dựa trên quan điểm rằng nhiều người Osage không biết tiêu xài tiền của mình, Chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu Văn phòng Quan hệ với Người bản địa chỉ ra thành viên nào của bộ tộc có đủ khả năng tự quản lý quỹ ủy thác của mình. Dưới sự phản đối dữ dội của bộ tộc, rất nhiều thành viên, bao gồm Lizzie và Anna, bị xếp vào loại “không đủ năng lực”, bị buộc phải có một người giám hộ địa phương là người da trắng, giúp quản lý và hợp thức hóa tất cả chi tiêu của họ, từ tuýp kem đánh răng mua ở cửa tiệm nhỏ trở lên. Một người Osage là cựu chiến binh từng chiến đấu trong Thế Chiến I phàn nàn rằng: “Ta đã chiến đấu tại Pháp vì đất nước này, thế mà đến việc tự ký tờ séc của mình ta cũng không được làm”. Những người giám hộ thường được chọn từ những người da trắng có uy tín nhất Quận Osage. Mathis chọn ra một nhóm những tai mắt riêng tư, và người quản lý tài sản của Whitehorn cũng làm y hệt vậy. Những thám tử tư điều tra cái chết của người Osage thường là nhân viên của Văn phòng Thám tử Quốc tế William J. Burns trước khi bỏ ra làm riêng. Burns, nguyên là đặc vụ của Cơ quan Mật vụ, đã kế nhiệm Pinkerton trở thành thám tử tư được tung hô trên toàn thế giới. Với vóc dáng thấp, rắn chắc, một chùm ria mép che kín nửa khuôn mặt cùng mái tóc màu hung đỏ rối bù, Burns từng khát khao được làm diễn viên. Ông cũng gặt hái được chút danh tiếng nhờ viết những câu chuyện trinh thám rẻ tiền về các vụ việc của mình. Trong một cuốn sách của ông, ông tuyên bố: “Tên tôi là William J. Burns, chỗ ở của tôi có ở New York, London, Paris, Montreal, Chicago, San Francisco, Los Angeles, Seattle, New Orleans, Boston, Philadelphia, Cleveland, và bất cứ nơi đâu mà một người dân tuân thủ pháp luật cần một người biết cách âm thầm vạch trần những kẻ sát nhân giấu mặt hay moi thông tin từ những tên tội phạm ẩn danh có thể biến những người ngay thẳng thành con mồi của mình”. Dù bị đặt biệt danh là “thám tử trên mặt báo” vì liên tục tự quảng bá bản thân, ông có một chuỗi thành tích rất đáng nể, bao gồm việc tóm gọn những kẻ chịu trách nhiệm cho vụ đánh bom năm 1910 nhằm vào trụ sở chính của tờ Los Angeles Times, làm hai mươi người thiệt mạng. Tờ New York Times gọi Burns là “thám tử tuyệt vời, tài ba duy nhất mà đất nước này sản sinh ra được”, và Ngài Arthur Conan Doyle đặt cho ông một biệt danh mà ông hằng mong ước: “Sherlock Holmes của nước Mỹ”. Dù vậy, không như Sherlock Holmes, Burns đã mua chuộc các thẩm phán, táo tợn bắt cóc một nghi phạm, và thường xuyên dùng những phương pháp hèn hạ của những tên gián điệp hoàng gia. Từng có lần bị bắt khi đột nhập vào một văn phòng luật sư ở New York để lấy cắp chứng cứ, ông nói rằng đôi khi những phương pháp như vậy là cần thiết, giúp làm sáng tỏ một âm mưu, và rằng những thám tử tư phải vượt qua ranh giới như vậy “cả ngàn lần”. Burns trở thành hiện thân hoàn hảo cho công việc này. •§• Mùa hè năm đó, đội thám tử được Mathis thuê bắt đầu thâm nhập vào Quận Osage. Mỗi thám tử đặt mật danh cho mình bằng một con số, dùng để ghi lại trong báo cáo thường nhật. Khởi điểm, thám tử Số 10 yêu cầu Mathis - một thành viên hội thẩm của ban điều tra - dẫn tới hiện trường vụ án. “Mathis cùng tôi lái xe tới hiện trường nơi cái xác được tìm thấy”, Số 10 viết như vậy. Một thám tử khác thẩm vấn người hầu chính của Anna. Cô này tiết lộ rằng sau khi cái xác được tìm thấy, cô đã lấy một bộ chìa khóa và cùng em gái Anna là Rita Smith tới nhà của Anna. Tuyệt nhiên không có ai từ văn phòng cảnh sát tới khám xét nơi này. Cô đẩy khẽ cánh cửa và nhẹ nhàng bước vào trong. Họ nhìn thấy nhiều trang sức, những tấm vải khoác ngoài cùng nhiều bức hình của Anna. Những gia tài còn sót lại của cô giờ đây trông như tàn tích của một thành phố cổ xưa. Người hầu này là người giúp chọn đồ cho Anna mặc ngày cô biến mất. Cô ấy nhớ lại rằng: “Tất cả mọi thứ ở nguyên vị trí” - chỉ trừ một thứ. Chiếc ví da cá sấu mà Anna đã mang tới bữa tiệc trưa ở nhà Mollie giờ đây nằm trên mặt đất, và “mọi thứ bên trong đã bị lấy hết”. Ngôi nhà dường như không mất đi đồ đạc gì, và hiện trạng của chiếc ví ám chỉ rằng Anna đã về nhà một lúc nào đó sau bữa tiệc trưa. Em rể Bryan của Mollie có thể đã khai thật về việc đưa cô về nhà. Nhưng liệu anh ta có đưa cô ra ngoài sau đó? Hay cô đã đi cùng ai khác? Số 10 liền nghĩ tới một thứ có nhiều khả năng chứa hàng tá manh mối: bảng kê khai các cuộc điện thoại gọi đi và nhận được của Anna. Vào thời đó, các cuộc điện thoại được nối máy bằng tay bởi một nhàn viên điều hành tổng đài. Các cuộc gọi đường dài thường phải dùng tới nhiều tổng đài một lúc. Những nhân viên điều hành này thường giữ lại một bảng kê khai viết tay các cuộc gọi. Dựa vào bảng kê khai của nhân viên ở Fairfax, khoảng 8 giờ 30 phút tối, vào đêm mà Anna biến mất, có ai đó đã gọi tới nhà cô từ điện thoại của một cửa tiệm ở Ralston, nằm cách Gray Horse sáu dặm về phía tây nam. Bảng này ghi lại rằng ai đó, rất có thể là Anna, đã nghe máy. Điều đó nghĩa là Anna có thể vẫn ở trong nhà cho tới 8 giờ 30 phút tối - thêm bằng chứng chứng tỏ Bryan đã khai thật về việc đưa cô về nhà. Vị thám tử tư cảm nhận vụ án sắp được phá, liền đi vội tới cửa tiệm ở Ralston - nơi cuộc gọi đi được ghi nhận. Người chủ một mực phủ nhận việc đã gọi tới nhà Anna và nói rằng không một ai được phép gọi đường dài bằng điện thoại của ông. Để củng cố lời khai này, không nhân viên điều hành nào tại Ralston ghi nhận một cuộc gọi đi tới nhân viên Fairfax. “Cuộc gọi này thật bí ẩn”, Số 10 viết lại. Anh nghi ngờ số gọi đi từ Ralston này là một “số giả” - tức là một nhân viên điều hành đã được đút tiền để hủy bản kê khai gốc, trong đó có số gọi đi thật. Ai đó có vẻ như đang che giấu việc làm của mình. Số 10 muốn điều tra sâu hơn về Oda Brown. “Sự nghi ngờ nhìn chung đổ dồn về người chồng cũ”, anh ta viết. Nhưng trời lúc đó đã tối muộn, anh kết thúc báo cáo của mình như sau: “Tạm dừng điều tra lúc 11 giờ tối”. •§• Một tuần sau, một thám tử khác trong nhóm - Số 46 - được cử đi để lần theo dấu vết của Brown ở Thành phố Ponca, 25 dặm về phía tây bắc của Gray Horse. Một cơn bão lớn quét dọc thảo nguyên và biến đường phố thành những con sông bùn. Vì thế, vị thám tử tư tới Thành phố Ponca thì trời đã tối, chỉ để phát hiện ra rằng Brown không ở đó. Người ta nói Brown đang tới thăm cha đẻ ở Perry, Oklahoma. Ngày hôm sau, Số 46 bắt tàu đi về hướng nam tới Perry, nhưng Brown cũng không có ở đó, giờ lại nghe nói anh ta đang ở Quận Pawnee. “Vì thế tôi rời khỏi Perry ngay khi bắt được chuyến tàu đầu tiên”, Số 46 viết vậy trong báo cáo. Đây chính là điều người đọc không thể thấy trong những cuốn truyện về Sherlock Holmes - sự nhàm chán của công việc thám tử ngoài đời, những manh mối không chính xác và những ngõ cụt. Số 46 cứ đi tới đi lui cho tới khi anh bắt gặp một người đàn ông hút thuốc lá dáng vẻ mảnh khảnh, vẻ nhìn gian giảo, có mái tóc màu nâu đỏ và đôi mắt xám vô hồn tại Quận Pawnee. Oda Brown đi với một phụ nữ người Pawnee - người mà y đã cưới sau cái chết của Anna. Số 46 giữ khoảng cách và lén đi theo cặp đôi này. Một ngày nọ, Số 46 tiếp cận Brown, thử làm thân với y. Trong cuốn cẩm nang Pinkerton có khuyên: “Một Thám tử thận trọng sẽ tiếp cận Tên tội phạm vào lúc hắn yếu đuối nhất và moi ra từ hắn bí mật đang ăn tươi nuốt sống hắn từ bên trong, tùy vào lòng cảm thông và sự tự tin mà Tên tội phạm có được”. Số 46 xoáy sâu hơn vào các thông tin mà Brown có. Khi Brown nhắc tới người vợ cũ vừa bị sát hại, Số 46 cố gợi để y nói về việc y đang ở đâu khi án mạng xảy ra. Brown có lẽ đã đánh hơi được anh bạn mới này là một thám tử chuyên nghiệp, y chỉ nói rằng lúc đó y đang ở bên một phụ nữ khác, nhưng không nói rõ là ở đâu. Số 46 nhìn Brown thật kỹ càng. Theo cuốn cẩm nang, bí mật của một tên tội phạm sẽ trở thành “kẻ thù” trong chính bản thân hắn và “làm hắn trở nên yếu đuối toàn diện”. Nhưng nhìn Brown không có vẻ là đang lo sợ. Trong khi Số 46 cố moi thông tin từ Brown, một thám tử khác - Số 28 - lại nghe được một bí mật động trời từ một nữ thổ dân người Kaw trẻ tuổi sống gần bờ tây của Quận Osage. Trong một tờ trình đã ký tên, người phụ nữ này cam đoan rằng Rose Osage - một thổ dân ở Fairfax - thú nhận với cô rằng cô ta đã giết Anna sau khi Anna cố ve vãn bạn trai của cô ta: Joe Allen. Rose nói rằng khi cả ba đang ngồi trong xe hơi, cô ta đã “bắn ả vào ngay giữa đỉnh đầu”. Sau đó, được Joe hỗ trợ, cặp đôi phi tang cái xác ở Three Mile Creek. Bộ đồ Rose mặc dính đầy máu của Anna, cô kể tiếp, nên Rose đã cởi bỏ và quăng lại ở gần con suối. Đó là một câu chuyện buồn, nhưng thám tử Số 28 rất phấn khởi với phát hiện này. Trong báo cáo thường nhật, anh ghi lại rằng anh đã dành nhiều giờ cùng Mathis và cảnh sát trưởng quận Freas - người vẫn đang đợi bị xét xử - lần theo dấu vết của “manh mối” có vẻ sẽ giúp phá được vụ án. Dù vậy, các thám tử tư vẫn phải vật lộn để củng cố câu chuyện của người này. Không ai thấy Anna đi cùng Rose hay Joe. Cũng không có bộ đồ dính máu nào được tìm thấy gần cái xác nơi con suối. Phải chăng người báo tin chỉ đơn giản làm vậy vì phần thưởng? Với từng thớ thịt xệ xuống khỏi cái cổ ngang bè và bộ ngực phình rộng, cảnh sát trưởng Freas thúc các thám tử tư mau chóng loại bỏ Rose và bạn trai cô ta khỏi danh sách nghi phạm. Sau đó, ông đưa ra một tin trái ngược, rằng hai tên sừng sỏ trong khu mỏ dầu đã bị nhìn thấy từng đi cùng Anna ngay trước cái chết của cô, và sau đó đã bỏ trốn. Các thám tử tư đồng tình điều tra theo hướng viên cảnh sát trưởng đưa ra. Riêng với những cáo buộc hướng đến Rose, Số 28 thề rằng: “Chúng ta sẽ theo đuổi giả thuyết này tới cùng”. •§• Các thám tử tư chia sẻ thông tin họ biết với Bill Smith, anh rể của Mollie, người vẫn đang theo đuổi cuộc điều tra của riêng mình. Anh chàng Smith 29 tuổi từng là một tên trộm ngựa trước khi vớ bẫm được một phần của cải của người Osage. Đầu tiên, anh ta cưới em gái Minnie của Mollie, và rồi chỉ vài tháng sau Minnie qua đời bởi “chứng lao lực” kỳ lạ vào năm 1918, tiếp theo anh ta cưới Rita chị gái của Mollie. Khi Bill uống say, anh ta nhiều lần thượng cẳng chân hạ cẳng tay với Rita. Một người hầu sau đó kể lại rằng sau một lần Bill và Rita cự cãi, “cô ấy bước ra với bộ dạng sưng bầm”. Bill nói với người hầu này: “Chỉ có cách đó mới trị được mấy ả thổ dân”. Rita thường dọa sẽ bỏ anh ta, nhưng cô ấy chưa bao giờ làm vậy. Rita rất nhạy bén, nhưng người thân của cô nói rằng óc phán đoán của cô đã bị lung lạc bởi “một tình yêu mù quáng”. Mollie có đôi chút nghi ngờ Bill. Theo cách nào đó, phải chăng anh ta cũng có trách nhiệm trong cái chết của Minnie? Hale tỏ rõ rằng ông không tin tưởng Bill. Có ít nhất một thẩm phán địa phương đoán rằng Bill đã “bán rẻ mối liên kết linh thiêng của hôn nhân vì những lợi ích thấp hèn”. Nhưng kể từ khi Anna bị ám hại, Bill đã điên cuồng truy lùng hung thủ trên mọi phương diện. Khi Bill biết một thợ may trong làng có thể có tin tức gì đó, anh cùng một thám tử tư tới để thẩm vấn ông ta, và nghe lại tin đồn đã quá nhàm tai: rằng Rose Osage đã giết Anna trong cơn cuồng ghen. Quá tuyệt vọng vì bế tắc, các thám tử tư quyết định đặt một thiết bị nghe lén Rose và bạn trai cô ta. Tại thời điểm đó, các quy định về việc sử dụng thiết bị theo dõi điện tử rất mông lung. Burns là một người ủng hộ nhiệt thành của Dictograph - một thiết bị nghe lén sơ khai có thể giấu trong bất cứ thứ gì từ đồng hồ cho tới đèn chùm. “Burns là người Mỹ đầu tiên thấy được những triển vọng phi thường của việc sử dụng thiết bị này trong công tác thám tử”, tờ Literary Digest đưa tin vào năm 1912: “Ông say mê nó tới nỗi luôn luôn mang theo trong túi mình một chiếc”. Giống như Allan Pinkerton, được biết đến với biệt danh “đôi mắt” vào thế kỷ XIX, Burns được biết tới với biệt danh “đôi tai” vào thế kỷ XX. Các thám tử ẩn mình trong một căn phòng khác, bắt đầu lắng nghe giọng nói có phần hơi rè của Rose và bạn trai cô bằng tai nghe. Nhưng cũng giống như các cuộc điều tra thường dân khác, niềm phấn khích ban đầu mau chóng nhường bước cho sự tẻ nhạt. Cuối cùng, các thám tử cũng chẳng bận tâm ghi lại những chi tiết nhỏ nhặt mà họ nghe được nữa. Khi sử dụng những phương tiện truyền thống hơn, họ phát hiện ra một chi tiết đáng kinh ngạc. Tài xế đưa Anna tới nhà Mollie vào cái ngày cô biến mất đã nói Anna kêu anh ta dừng lại tại nghĩa trang ở Gray Horse trước khi về. Cô trèo ra khỏi xe và loạng choạng bước đi giữa những tảng đá cho tới khi dừng lại trước phần mộ của cha cô. Trong tích tắc, cô đứng gần nơi mà chẳng bao lâu sau chính cô cũng được chôn ở đó, như thể cô tự đọc một lời nguyện tiếc thương cho chính mình vậy. Rồi cô quay trở lại chiếc xe, dặn tài xế nhờ ai đó mang hoa tới cho phần mộ cha cô. Cô muốn trông ngôi mộ lúc nào cũng phải thật đẹp. Khi họ tiếp tục đi, Anna nhoài người về phía anh tài xế. Anh có thể ngửi được hơi thở nồng nặc mùi cồn khi cô tiết lộ cho anh một bí mật: cô sắp làm mẹ của “một thiên thần bé nhỏ”. “Lạy Chúa tôi, không đời nào”, anh đáp. “Thật đó”, cô nói. “Không phải vậy chứ?” “Thật mà.” Sau đó, các thám tử đã xác minh câu chuyện này với hai người thân tín của Anna. Cô ấy cũng đã báo tin cho họ biết về việc mình mang thai. Có điều, không ai biết cha đứa bé là ai. Vào một ngày hè, một người lạ với bộ ria mép giống danh hài Chaplin xuất hiện tại Gray Horse xin được phụ giúp các thám tử tư. Người đàn ông mang bên mình một khẩu súng English Bulldog nòng ngắn cỡ 0,44 inch, tên là A. W. Comstock. Ông là một thẩm phán địa phương và là người giám hộ của một vài thổ dân Osage. Vài người nghĩ rằng Comstock, với cánh mũi bè và làn da sậm màu, có thể mang một phần dòng máu của thổ dân trong mình - một ấn tượng mà ông không hề tìm cách thay đổi khi thành lập văn phòng luật của riêng mình. “Thực tế, việc tự coi mình là một thổ dân chẳng phải sẽ giúp ông ta làm việc với những người thổ dân dẽ dàng hơn ư?”, một luật sư khác tỏ vẻ hoài nghi. William Burns đã từng điều tra Comstock về chuyện giúp đỡ trái phép một công ty dầu mỏ hối lộ Hội đồng Bộ tộc Osage để đạt được một thỏa thuận thuê đất có lợi, nhưng những cáo buộc này về sau vẫn chưa được làm rõ. Dựa trên hàng tá những mối liên hệ của Comstock với bộ tộc Osage, các thám tử tư chấp thuận để ông ta trợ giúp. Trong khi họ cố gắng thiết lập một mối liên hệ giữa cái chết của Charles Whitehorn và Anna Brown, Comstock cho họ biết những mẩu thông tin thu thập được từ mạng lưới tai mắt của mình. Có tin đồn rằng người vợ góa của Whitehorn - Hattie - đã thèm muốn tài sản của chồng mình từ lâu, và rằng cô ta ghen tức trước mối quan hệ của Whitehorn với một phụ nữ khác. Có khi nào người phụ nữ đó chính là Anna Brown? Giả thuyết đó dẫn tới câu hỏi nghe rất có lý tiếp theo: Phải chăng Whitehorn chính là cha của đứa bé? Các thám tử bắt đầu bám theo Hattie Whitehorn mọi lúc mọi nơi, bằng mọi cách không để bị phát hiện trong khi theo dõi: “Thám tử theo chân Bà Whitehorn từ Thành phố Okla tới Pawhuska… Rời Thành phố Okla, theo Bà Whitehorn tới Guthrie… Bám theo Bà Whitehorn, từ Tulsa tới Pawhuska”. Nhưng mọi cố gắng đều đi vào bế tắc. Cho tới tháng 2 năm 1922, chín tháng sau vụ sát hại Whitehorn và Anna Brown, công cuộc điều tra dường như đi vào ngõ cụt. Pike - viên thám tử được Hale thuê - đã chuyển sang điều tra các vụ án khác. Cảnh sát trưởng quận Freas không còn dẫn dắt cuộc điều tra. Cùng tháng đó, ông bị đuổi việc do một thẩm phán đã kết luận rằng ông có tội khi không thực thi pháp luật. Vào một đêm giá lạnh cùng tháng, William Stepson, chàng trai 29 tuổi người Osage, quán quân cuộc thi trói bò bằng dây thừng, nhận được một cuộc gọi. Sau đó, anh rời khỏi ngôi nhà ở Fairfax. Vài giờ sau, anh quay về với vợ và hai con, nhìn bệnh trông thấy. Stepson là một người đàn ông lực lưỡng, nhưng chỉ vài giờ sau đó anh qua đời. Sau khi khám nghiệm tử thi, các nhà chức trách kết luận rằng người mà anh hẹn gặp đã lén đầu độc anh, có khả năng bằng strychnine - một alkaloid màu trắng có vị đắng mà theo một luận thuyết y học tại thế kỷ XIX có “tồn chứa năng lượng phá hủy” nhiều hơn bất cứ loại độc dược nào khác. Luận thuyết miêu tả một con thú sau khi được tiêm strychnine trong phòng thí nghiệm đã có biểu hiện “rối loạn và run lẩy bẩy, các chi cứng lại và co giật”. Hơn nữa, “các triệu chứng này kéo dài cho tới khi con thú rơi vào trạng thái co giật không kiểm soát, đầu giật ngược ra sau, cột sống cùng các chi co cứng và cơ quan hô hấp nghẽn hoàn toàn do lồng ngực không thể cử động”. Những giờ phút cuối cùng của Stepson hẳn là một sự tra tấn ghê gớm: các cơ của anh co giật liên tục như thể bị chích điện; cổ anh vươn dài cứng đờ còn xương hàm như bị xiết chặt lại; phổi anh co thắt theo từng nhịp thở, cho tới khi anh chết ngạt. Tại thời điểm Stepson chết, các nhà khoa học đã tìm ra rất nhiều cách để phát hiện độc tố trong thi thể. Một mẩu mô tế bào có thể được lấy ra để kiểm tra sự tồn tại của một chuỗi các phần tử mang độc tố - từ strychnine đến arsenic. Đáng tiếc là những phương pháp này ít được áp dụng hơn cả phương pháp lấy dấu vân tay khám nghiệm hung khí. Năm 1928, một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia. Cuộc khảo sát này đã dẫn tới kết luận rằng cán bộ pháp y ở hầu hết các quận của Mỹ đều “non tay và không được đào tạo”, và rằng đây là “cán bộ với khả năng tầm thường và thiếu thốn trang thiết bị”. Ở Ở những nơi như Quận Osage, các cán bộ pháp y không hề được đào tạo nghiệp vụ và không có phòng thí nghiệm pháp y. Thế nên, đầu độc là phương pháp hoàn hảo để giết người. Độc dược được tìm thấy với số lượng lớn trong các sản phẩm nằm trên kệ của những tiệm thuốc hay cửa hàng thực phẩm. Không giống như súng, chúng có thể được sử dụng mà không gây ra tiếng động nào. Rất nhiều triệu chứng gây ra bởi độc dược bị lầm tưởng là ngộ độc thực phẩm thông thường - từ chóng mặt, tiêu chảy, đi tả cho tới đột quỵ. Sau khi lệnh cấm chất có cồn được ban hành, có quá nhiều ca tử vong do ngộ độc cồn hay các loại whisky tự chế độc hại. Do đó, một kẻ giết người có thể dễ dàng bỏ độc vào ly rượu lậu của nạn nhân mà không hề bị nghi ngờ. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1922, chưa đầy một tháng sau cái chết của Stepson, một phụ nữ người Osage tử vong, nghi ngờ do bị đầu độc. Một lần nữa, không một thí nghiệm phân tích độc tố nào được tiến hành. Sau đó, vào ngày 28 tháng 7 cùng năm, Joe Bates - một người đàn ông Osage khoảng ba mươi tuổi - nhận được một ít rượu whisky từ một người lạ. Sau khi uống một ngụm, anh bắt đầu sùi bọt mép và ngã gục. Anh này cũng được các nhà chức trách xác định tử vong bởi một chất độc lạ. Anh qua đời để lại một vợ và sáu người con. Tháng 8 năm đó, khi con số những ca tử vong mờ ám ngày càng leo thang, rất nhiều người Osage tìm đến Barney McBride - một người đàn ông da trắng 55 tuổi, kinh doanh dầu mỏ giàu có - thuyết phục ông tới Thủ đô Washington để thuyết phục các quan chức liên bang điều tra vụ việc. McBride kết hôn với một thổ dân Creek và đang chăm sóc con gái riêng sau khi vợ đã qua đời. McBride rất quan tâm tới cộng đồng thổ dân ở Oklahoma và được người Osage tín nhiệm. Một phóng viên miêu tả ông là “người đàn ông tóc bạc tốt bụng”. Dựa vào quan hệ rộng của ông với nhiều quan chức ở Washington, ông được coi là người đưa tin lý tưởng. Khi ông nhận phòng tại một nhà trọ ở thủ đô, ông nhận được một bức điện tín, một người phụ tá đang đợi gặp ông. Bức điện tín có nội dung: “Hãy cẩn trọng”. McBride mang theo mình một cuốn Kinh Thánh và một khẩu súng lục cỡ 0,45 inch. Tối hôm đó, ông ghé vào Câu lạc bộ Elks để chơi bi-da. Khi ông vừa bước ra, ai đó túm lấy và dùng túi vải trùm kín đầu ông. Sáng hôm sau, thi thể McBride được tìm thấy trong một cống nước ở Maryland. Ông bị đâm hơn hai mươi nhát, hộp sọ bị đập bể, trong tình trạng lõa thể, chỉ trừ vớ và đôi giày, trong đó có một tấm thẻ ghi tên ông. Bằng chứng pháp y cho thấy có nhiều hơn một kẻ thủ ác, và các nhà chức trách nghi ngờ chúng đã theo sát ông từ Oklahoma. Tin tức về vụ án mạng nhanh chóng tới tai Mollie và gia đình cô. Vụ sát hại này được tờ Washington Post gọi là “tàn bạo nhất trong lịch sử tội phạm của toàn Quận”, không đơn thuần chỉ là một án mạng. Nó giống như một lời nhắn, một lời cảnh báo. Trong bài báo, tờ Post đặt tựa đề với thông điệp ngày càng trở nên rõ ràng: ÂM MƯU GIẾT HẠI NHẮM TỚI NHỮNG THỔ DÂN GIÀU CÓ. 6. CÂY DU TRIỆU ĐÔ LA Kể cả khi nơi này xảy ra hàng tá vụ án mạng, những ông trùm dầu mỏ khét tiếng nhất thế giới vẫn lui tới đều đặn. Ba tháng một lần, vào đúng mười giờ sáng, những ông trùm này - gồm có E. W. Marland, Bill Skelly, Harry Sinclair, Frank Phillips và các anh em của ông - bước xuống ga tàu lửa ở Pawhuska trong những chiếc xe hơi sang trọng. Cánh nhà báo lại đưa tin về sự xuất hiện của họ với tựa đề: “ĐOÀN TRIỆU PHÚ” CHUẨN BỊ CÓ MẶT; PAWHUSKA GIỜ ĐÂY TRAO TRỌN THÀNH PHỐ CHO DOANH NHÂN DẦU MỎ; CÁC TRIỆU PHÚ CHỜ ĐỢI NHỮNG KHOẢNH KHẮC THÓT TIM. Các ông trùm tới vì buổi đấu giá những lô đất cho thuê của người Osage, một sự kiện tổ chức bốn lần trong năm bởi Bộ Nội vụ. Một sử gia gọi nơi này là “Monte Carlo của người Osage”. Tại lần tổ chức đấu giá đầu tiên vào năm 1912, chỉ một phần các mỏ dầu dưới lòng đất đang được khoan, còn giá để thuê một lô đất có diện tích 160 mẫu Anh đã tăng một cách chóng mặt. Vào năm 1923, tờ Daily Oklahoman viết: “Brewster, vị anh hùng trong câu chuyện ‘Brewster Triệu Đô’, đã lo lắng tới kiệt quệ khi cố gắng tiêu hết 1 triệu đô la trong vòng một năm. Nếu như Brewster ở Oklahoma… anh chàng đã có thể tiêu hết số tiền này với chỉ một cái gật đầu”. Khi thời tiết tốt, phiên đấu giá được tổ chức ngoài trời, trên một đỉnh đồi ở Pawhuska, dưới tán của một cây lớn được gọi với cái tên Cây Du Triệu Đô la. Có những người từ rất xa cũng tới để xem. Thi thoảng, Ernest cũng tham gia sự kiện cùng với Mollie và những thành viên khác trong bộ tộc. Những thành viên khác trong cộng đồng - bao gồm những người định cư có tiếng như Hale và Mathis (chủ Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn) - quan tâm sâu sắc tới những phiên đấu giá này. Dòng tiền đổ vào từ cơn sốt dầu mỏ đã giúp họ làm ăn phát đạt và hiện thực hóa giấc mơ tưởng như hoang đường về việc biến thảo nguyên hoang sơ thành một trung tâm giao thương. Người điều khiển phiên đấu giá - một người đàn ông da trắng cao lớn có mái tóc thưa và giọng nói sang sảng - bước lên đứng dưới tán cây. Ông thường mặc áo sơ-mi sọc màu sặc sỡ cùng cổ áo có thể tháo rời và một cái cà-vạt dài lướt thướt. Từ túi quần ông, một sợi dây kim loại buông thõng có một đầu nối với chiếc đồng hồ quả quýt. Ông là người dàn xếp hết các giao dịch buôn bán của người Osage. Với biệt danh Tướng Quân, người ta dễ nhầm ông là cựu chiến binh Thế chiến I. Thực ra, đó là một phần trong tên khai sinh của ông: Colonel Ellsworth E. Walters. Là một ông bầu cừ khôi, ông chào mời người đấu thầu bằng những lời hết sức đơn giản: “Nhanh nào các chàng trai, giếng dầu này mà khoan lên là ngập ngụa luôn đó”. Những lô đất ít giá trị nhất thường được chào hàng trước. Thế nên, các ông trùm thường nán lại đằng sau, nhường cuộc chơi cho những kẻ mới phất. Jean Paul Getty - người từng tham dự vài phiên đấu giá - hồi tưởng lại cách một mảnh đất dầu có thể thay đổi số phận một người thế nào: “Không có gì lạ khi một kẻ đi khoan thăm dò khánh kiệt, chỉ còn mẩu bánh mì cuối cùng và không một xu dính túi lại đào trúng mỏ và trở nên giàu có”. Tương tự, một quyết định đấu giá sai cũng dẫn tới phá sản: “Ngày nào cũng có kẻ trúng mánh và có kẻ thua cuộc”. Những doanh nhân dầu mỏ sốt sắng nghiên cứu các bản đồ địa chất, cố lượm lặt tin tức về những hợp đồng thuê từ những “chuyên gia địa chất” hay gián điệp. Sau giờ nghỉ trưa, phiên đấu giá tiếp tục với những mảnh đất giá trị hơn. Mọi con mắt đổ dồn về phía các ông trùm, những người có quyền lực ngang cơ, hoặc thậm chí hơn hẳn những ông trùm ngành xe lửa và thép tại thế kỷ XIX. Vài người trong số họ bắt đầu dùng sức ảnh hưởng để bẻ cong tiến trình lịch sử. Năm 1920, Sinclair, Marland, cùng những doanh nhân dầu mỏ khác chống lưng cho chiến dịch tranh cử thành công của Warren Harding. Một doanh nhân ở Oklahoma nói với một người bạn rằng việc Harding đắc cử đã ngốn của ông tới 1 triệu đô la. Nhưng khi Harding làm chủ Nhà Trắng, một sử gia ghi chú rằng: “đám doanh nhân liếm mép thèm thuồng”. Nhờ vỏ bọc của một công ty ma, Sinclair hối lộ hơn 200.000 đô la cho Bộ trưởng mới của Bộ Nội vụ: Albert B. Fall. Một doanh nhân khác phái con trai đưa tận tay vị bộ trưởng 100.000 đô la trong một gói màu đen. Đổi lại, viên thư ký để những ông trùm tự do khai thác mỏ dầu vô giá mang tính chiến lược của hải quân. Sinclair thuê riêng được một lô đất tại Wyoming, mà bởi hình dạng của một tảng sa thạch gần đó, khu đất được biết tới với cái tên Teapot Dome. Người đứng đầu Standard Oil cảnh báo một người từng làm cho chiến dịch tranh cử của Harding rằng: “Tôi biết Bộ Nội vụ chuẩn bị hoàn thành hợp đồng cho thuê khu đất Teapot Dome. Khắp trong ngành, người ta đều biết có gì đó mờ ám ở đây rồi… Tôi nghĩ anh nên nói với Tổng Thống là nó rất mờ ám”. Lợi nhuận bất chính từ khu mỏ này vẫn còn là bí ẩn với công chúng, và khi những ông trùm tiến về phía Cây Du Triệu Đô la, đám đông dạt ra nhường đường cho các ông như thể các ông là những hoàng tử của chủ nghĩa tư bản. Trong phiên đấu giá, sự căng thẳng giữa các ông đôi lúc trở nên quá độ. Frank Phillips và Bill Skelly từng có lần choảng nhau, lăn lộn trên mặt đất như những con chồn dại, trong khi Sinclair gật đầu với Tướng Quân và quay bước với phần thắng cầm chắc trong tay. Một phóng viên nói: “Các lão làng của Sàn Giao dịch chứng khoán New York chưa từng chứng kiến cuộc đấu đá nào kịch tích như của đám doanh nhân dầu mỏ có tiếng trên toàn bang và toàn quốc, đánh lộn lẫn nhau để giành từng lô đất”. •§• Ngày 18 tháng 1 năm 1923, năm tháng sau vụ sát hại McBride, nhiều ông trùm dầu mỏ lại tụ họp tại một phiên đấu giá khác. Khi ấy là mùa đông, họ gặp nhau trong Nhà hát Constantine tại Pawhuska. Đây được mệnh danh là “tòa nhà được trang hoàng nhất toàn Oklahoma”. Rạp hát này có những cây cột và bức tường xây theo phong cách Hy Lạp, cũng như một giàn ánh sáng thắp quanh sân khấu. Như thường lệ, Tướng Quân bắt đầu phiên với những lô đất giá trị thấp trước. “Đấu giá bao nhiêu đây?”, ông nói lớn: “Hãy nhớ rằng, không có lô nào bán thấp hơn 500 đô la nhé”. Một giọng nói vang lên từ đám đông: “Năm trăm”. “Tôi có năm trăm”, Tướng Quân đọc to: “Có ai sáu trăm không? Từ năm lên sáu. Năm-sáu, năm-sáu, cảm ơn, sáu! Giờ tới bảy, sáu-tới-bảy…”. Tướng Quân dừng lại, rồi hét lớn: “Bán cho quý ông này giá sáu trăm đô la”. Dần về cuối ngày, giá cho những lô đất mới tăng lên dần dần: mười nghìn… năm mươi nghìn… một trăm nghìn… Tướng Quân nói đùa: “Phố Wall thức dậy rồi đây”. Lô 13 được bán với giá hơn 600.000 đô la, cho Sinclair. Tướng Quân hít một hơi thật sâu. “Lô 14”, ông nói, nằm ở giữa mỏ Burbank trù phú. Đám đông nhao lên. Rồi một giọng nói từ tốn vang lên ngay giữa căn phòng: “Nửa triệu”. Đó là một đại diện từ Công ty Dầu Gypsy, một công ty liên kết với Dầu Vùng Vịnh, ông đang ngồi với một tấm bản đồ trải trên đầu gối và không hề ngẩng lên. “Ai ra giá sáu trăm nghìn đây?”, Tướng Quân hỏi. Tướng Quân nổi tiếng với khả năng nhận ra dù chỉ một cái gật đầu hay cử chỉ rất khẽ của người đấu giá. Tại các phiên đấu, Frank Phillips và một người em của ông thường ra hiệu hết sức kín đáo - nhướn chân mày hoặc vẩy tàn thuốc. Frank giỡn rằng em trai ông từng để mất 100.000 đô la chỉ vì đập ruồi. Tướng Quân biết đọc vị các khán giả của ông. Ông chỉ vào một người đàn ông mái tóc muối tiêu đang ngậm một điếu xì gà chưa hút. Ông ta là đại diện của một tổ chức có phần của cả Frank Phillips và Skelly - hai đối thủ nay đã trở thành đồng minh. Người đàn ông tóc muối tiêu gật đầu rất khẽ. “Bảy trăm”, Tướng Quân hét vang, nhanh chóng hướng về phía người ra giá đầu tiên. Một cái gật đầu nữa. “Tám trăm”, Tướng Quân nói. Ông lại hướng về người ra giá đầu tiên, người đàn ông với tấm bản đồ nói: “Chín trăm”. Một cái gật đầu nữa từ ông tóc muối tiêu với điếu xì gà chưa hút. Tướng Quân đọc to từng từ một: “Một triệu đô la”. Vậy mà phiên đấu giá vẫn tiếp tục. “Một trăm mười nghìn, giờ tới mười hai”, Tướng Quân nói: “Mười một - tới mười hai - tới mười hai”. Cuối cùng, không ai lên tiếng nữa. Tướng Quân nhìn chằm chằm người đàn ông tóc muối tiêu, lúc này vẫn đang ngậm xì gà trong miệng. Một phóng viên trong khán phòng nhận xét, lúc ấy “căng thẳng tới ngột ngạt”. Tướng Quân lên tiếng: “Đây là Burbank, thưa các ngài. Đừng bỏ lỡ cơ hội của mình”. Không ai nhúc nhích hay hó hé gì. “Bán”, Tướng Quân hét: “Với giá một triệu một trăm nghìn đô la”. Những phiên càng về sau giá lại càng cao hơn rất nhiều so với phiên kế trước, phá vỡ kỷ lục cả về phiên có giá cao nhất lẫn số tiền bội thu. Có lô được bán giá gần 2 triệu đô la, trong khi con số thu về cao nhất từ một phiên đã leo lên tới gần 14 triệu đô la. Một phóng viên tờ Tạp chí Harper’s Monthly viết: “Đâu sẽ là điểm dừng? Mỗi một giếng mới được khoan là thổ dân lại giàu có thêm chừng ấy”. Phóng viên này viết thêm: “Thổ dân Osage đang trở nên giàu có tới mức họ sẽ cần phải làm gì đó về việc này”. •§• Số lượng người Mỹ da trắng bày tỏ sự lo ngại với gia tài của người Osage ngày càng tăng - một cơn thịnh nộ được các tờ báo hun nóng thêm. Cánh báo chí thường đưa những tin thêu dệt quá sức, như một người Osage bỏ cây đàn piano đắt tiền ra sân rồi để đó, hay mua một chiếc xe hơi mới chỉ vì xe cũ bị bể bánh. Tạp chí Travel viết bài: “Thổ dân Osage ngày nay sống xa hoa như những ông hoàng. Nhìn vào cách tiêu xài phung phí, có thể thấy Đứa con Hoang đàng chỉ đơn giản là một người tiêu pha chừng mực được thừa hưởng sở thích dùng ngà voi”. Một bức thư gửi cho biên tập tờ Independent (một tạp chí ra hàng tuần) ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này, cho rằng người Osage là một đám chẳng-được-tích-sự-gì, giàu lên chỉ “đơn giản bởi vì Chính phủ chẳng may đặt chúng trên một mảnh đất chứa dầu mà người da trắng chúng ta phải đi khai thác giùm cho chúng”. John Joseph Mathews cay đắng nhớ lại đám phóng viên “khoái trá với những ảnh hưởng tiêu cực của sự giàu sang lên những con người Thời Đồ Đá Mới, với sự tự mãn và trí khôn của những kẻ vô học”. Những bài báo này hiếm khi, hay nói đúng hơn là không bao giờ, đề cập tới việc số đông người Osage đã khôn ngoan đầu tư hết tiền của họ như thế nào, hoặc việc chi tiêu của người Osage phản ánh các phong tục tổ tiên cho rằng vị thế của bộ tộc có liên hệ mật thiết với độ hào phóng của các thành viên. Rõ là trong Thập niên Ầm ĩ (Roaring Twenties), thời gian được F. Scott Fitzgerald miêu tả là “cơn bùng nổ lớn nhất, rực rỡ nhất trong lịch sử”, không phải chỉ có người Osage mới hoang phí như vậy. Marland - ông trùm dầu mỏ tìm ra mỏ Burbank - đã xây một dinh thự 22 phòng ở Thành phố Ponca, để rồi bỏ hoang để xây một dinh thự còn lớn hơn nữa. Với toàn bộ nội thất thiết kế theo phong cách lâu đài Palazzo Davanzati ở Florence, dinh thự này có 55 phòng (bao gồm một phòng khiêu vũ có trần dát vàng lá và đèn chùm pha lê Waterford), 12 phòng tắm, 7 lò sưởi, 3 căn bếp và 1 thang máy lót da trâu rừng. Tầng trệt có một bể bơi cùng nhiều sân mã cầu, một sân golf với năm cái hồ và vô số đảo nhân tạo. Khi bị chất vấn về sự xa xỉ này, Marland trơ trẽn trả lời: “Với tôi, mục đích tiêu tiền là để mua, và để xây. Đó là điều tôi đã làm. Và nếu ý của họ là như vậy, thì tôi có tội rồi”. Vậy mà chỉ vài năm sau, ông nghèo túng tới nỗi không trả nổi hóa đơn tiền điện và phải bỏ hoang dinh thự của mình. Sau một thời gian trên chính trường, ông cố thăm dò thêm một mỏ dầu lớn nhưng thất bại. Kiến trúc sư của ông kể lại: “Lần cuối tôi thấy ông ấy, hình như ông ấy đang ngồi trên một thùng dầu ở đâu đó phía đông bắc thành phố. Khi ấy trời mưa, ông ngồi đó thẫn thờ, mặc trên mình một cái áo mưa và đội nón. Hai hay ba công nhân của ông đang làm việc trên giàn khoan di động với hy vọng khoan trúng dầu. Tôi đau đớn tới nghẹn ngào khi rảo bước quay đi và không cầm được nước mắt”. Một doanh nhân dầu mỏ lẫy lừng ở Oklahoma nhanh chóng đốt hết 50 triệu đô la và phải sống trong cảnh bần cùng. Khác với những người Mỹ giàu có, rất nhiều người Osage không thể tiêu xài theo cách họ muốn bởi liên bang đã áp đặt hệ thống giám hộ tài chính (Một người giám hộ nhận xét một người Osage trưởng thành “như một đứa trẻ lên sáu lên tám, khi anh ta nhìn thấy đồ chơi mới, anh ta sẽ muốn mua nó”). Điều luật này bắt buộc chỉ định các giám hộ cho bất cứ thổ dân châu Mỹ nào bị Bộ Nội vụ liệt vào nhóm “thiếu trình độ”. Trong thực tế, quyết định chỉ định một giám hộ hầu như lúc nào cũng dựa trên lượng huyết thống thổ dân của chủ tài sản, hay còn được tòa án tối cao gọi là “điểm yếu chủng tộc”. Một thổ dân châu Mỹ thuần được mặc định cần phải có giám hộ, trong khi người có dòng máu lai thì hiếm khi bị vậy. John Palmer, anh chàng mồ côi mang một phần dòng máu Sioux được một gia đình Osage nhận nuôi và là người đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo toàn quyền sở hữu tài nguyên của bộ tộc, đã lập luận trước thành viên Quốc hội: “Xin đừng để dòng máu da trắng hay thổ dân xác định việc các ngài sẽ tước đi từ thành viên của bộ tộc này bao nhiêu. Thuần huyết thống hay không không phải vấn đề. Các quý ngài đây không nên giải quyết mọi việc theo cách đó”. Nhưng lập luận đó bị gạt qua một bên. Các thành viên Quốc hội tập trung trong căn phòng ủy ban lót sàn gỗ và dành hàng giờ liền nghiên cứu từng chi tiết về việc chi tiêu của người Osage như thể đất nước đang lâm nguy. Trong một phiên tòa tiểu ban Hạ viện năm 1920, các nhà làm luật rà qua một bản báo cáo từ một thanh tra chính phủ được cử tới để điều tra về thói quen tiêu dùng của bộ tộc, bao gồm cả gia đình Mollie. Thanh tra viên trích dẫn với vẻ không hài lòng về “Trường hợp Q”: một hóa đơn 319,05 đô la do Lizzie - mẹ của Mollie - đã mua sạch cửa hàng thịt trước khi bà qua đời. Viên thanh tra một mực cho rằng chính phủ đã bị ma xui quỷ khiến khi thương thảo thỏa thuận quyền lợi dầu mỏ với bộ tộc. Bừng bừng lửa giận, ông tuyên bố: “Tôi đã tới thăm và làm việc ở hầu hết các thành phố trên đất nước. Tôi không còn lạ gì đám ung nhọt bẩn thỉu và sặc mùi tội lỗi ở các nơi ấy nữa. Tôi chưa bao giờ hoàn toàn tin vào câu chuyện của ngôi làng Sodom và Gomorrah - nơi những kẻ tội lỗi và trụy lạc đã trả giá và bị tiêu diệt - cho tới khi tiếp xúc với đám thổ dân này”. Ông tha thiết mong Quốc hội cứng rắn hơn. “Bất cứ người da trắng nào trong Quận Osage cũng có thể nói với các ngài rằng đám thổ dân ngày càng trở nên điên rồ”, ông nói thêm: “Đã tới lúc hoặc chúng ta siết chặt kiểm soát tài sản của chúng hoặc từ bỏ mọi kỳ vọng trong việc biến thổ dân Osage thành những công dân đích thực”. Vài đại biểu và nhân chứng cố xoa dịu những chỉ trích hướng về người Osage. Trong phiên tòa kế tiếp, thậm chí một thẩm phán từng là giám hộ khẳng định rằng những thổ dân giàu có tiêu tiền không khác gì người da trắng. “Cuộc sống của người Osage mang đậm tính nhân văn”, ông nói. Hale cũng cho rằng chính phủ không nên thể hiện sự độc đoán với quyết định tài chính của người Osage. Nhưng vào năm 1921, hệt như khi chính phủ áp dụng hệ thống bao cấp để trả tiền đất đã lấy đi của người Osage, Quốc hội thực hiện những chính sách kiểm soát hà khắc hơn về việc chi tiêu của người Osage. Các giám hộ không chỉ tiếp tục quản lý tài chính; mà dưới điều luật mới, thổ dân được chỉ định giám hộ cũng bị “hạn chế”, nghĩa là không ai có thể rút ra hơn vài nghìn đô la mỗi năm từ quỹ ủy thác của người ấy. Chẳng ai quan tâm đến việc những người Osage cần tiền cho con cái đi học hay chi trả viện phí. “Chúng tôi có rất nhiều trẻ nhỏ”, tộc trưởng cuối cùng của bộ tộc, khi ấy hơn tám mươi tuổi, giải thích trong một thông cáo báo chí: “Chúng tôi muốn nuôi dạy và giáo dục chúng, chúng tôi muốn chúng sống thoải mái, và chúng tôi không muốn tiền của mình bị cất giữ bởi những người chẳng hề quan tâm đến chúng tôi”. Ông nói tiếp: “Chúng tôi muốn tiền của mình ngay bây giờ. Chúng tôi sở hữu nó. Nó là của chúng tôi, và chúng tôi không muốn những kẻ độc đoán ngăn không cho chúng tôi sử dụng nó… Đây là sự bất công với toàn bộ tộc. Chúng tôi không đáng bị đối xử như con nít. Chúng tôi tự lo liệu được cho bản thân mình”. Là người thuần huyết thống Osage, Mollie cũng nằm trong số bị hạn chế, nhưng ít nhất thì chồng cô, Ernest, là giám hộ của cô. Không chỉ Chính phủ liên bang can thiệp vào vấn đề tài chính của bộ tộc. Người Osage còn bị những kẻ lợi dụng vây quanh - “một bầy diều hâu”, như cách một thành viên phàn nàn trong buổi họp hội đồng. Đám quan chức địa phương hám lợi quyết vơ vét tài sản của họ. Bầy cướp tìm mọi cách cướp đoạt tài khoản ngân hàng của họ. Phường lái buôn đòi hỏi họ phải trả “giá đặc biệt”, là giá nhân lên gấp bội lần. Đám kế toán và luật sư lươn lẹo tìm cách lợi dụng tư cách pháp nhân nửa vời của những thổ dân Osage thuần chủng. Thậm chí một người phụ nữ da trắng 30 tuổi ở Oregon còn gửi thư tới bộ tộc để tìm và kết hôn với một người đàn ông Osage giàu có: “Làm ơn chỉ cho tôi người thổ dân giàu có nhất mà các ngài biết. Ông ta sẽ thấy tôi chân thật và tốt đẹp hơn bất cứ người nào”. Trong một phiên họp Quốc hội, một tộc trưởng Osage khác là Bacon Rind đứng ra làm chứng rằng người da trắng đã “dồn chúng tôi về vùng hẻo lánh, khắc nghiệt nhất của Hoa Kỳ, với suy nghĩ rằng chúng ta sẽ đẩy đám thổ dân này tới một vùng khô cằn sỏi đá và bỏ mặc chúng ở đó”. Giờ đây, vùng khô cằn sỏi đá hóa ra lại có trị giá hàng triệu đô la. Ông nói: “Giờ ai cũng muốn nhảy vào và kiếm chút đỉnh”. 7. NHỮNG THỨ ĐẦY TĂM TỐI Ngày đầu tiên của tháng 2 năm 1923, trời trở lạnh dữ dội. Gió buốt thổi từng cơn trên thảo nguyên rộng lớn và rít mạnh qua khe núi, làm các tán cây rung lắc liên hồi. Vạn vật như đông cứng trên thảo nguyên. Bầu trời không một bóng chim, và mặt trời nhìn hiu hắt xa xôi. Vào ngày nọ, hai người đàn ông đang đi săn cách Fairfax bốn dặm về phía tây bắc. Họ nhìn thấy một chiếc xe hơi nằm trên bãi đất trũng đầy sỏi đá. Không dám lại gần chiếc xe, họ quay lại Fairfax để trình báo cơ quan chức năng. Một phó cảnh sát quận cùng viên cảnh sát tư pháp địa phương lên đường đi điều tra. Trong ánh chiều mờ dần, họ bước xuống con đường dốc hướng về phía chiếc xe. Những tấm rèm buông kín các ô cửa, và chiếc xe loại Buick dễ khiến người ta liên tưởng tới một quan tài màu đen. Tại ghế người lái, tấm rèm khẽ hé, phó cảnh sát trưởng nhòm vào bên trong. Một người đàn ông ngồi sụp xuống đằng sau vô-lăng. “Chắc là một gã say”, viên phó cảnh sát nói. Nhưng khi vừa vặn cánh cửa mở ra, ông thấy máu trên ghế ngồi và sàn xe. Người này đã bị bắn chết từ sau gáy. Góc bắn cùng thực tế cho thấy không có khẩu súng nào trong xe đã loại bỏ khả năng tự sát. “Tôi cho rằng anh ta đã bị sát hại”, viên phó cảnh sát hồi tưởng lại sau đó. Sau vụ sát hại dã man công nhân dầu mỏ McBride, đã sáu tháng trôi qua kể từ khi người ta phát hiện thêm một vụ án mạng đầy nghi vấn. Thời điểm hai viên cảnh sát nhìn trân trối vào người đàn ông ngồi trong xe, họ nhận ra những vụ án mạng này đang tiếp diễn. Xác chết đã đông cứng vì cái lạnh, và lần này không khó để nhận dạng nạn nhân. Henry Roan - một thổ dân Osage 40 tuổi đã có vợ và hai con. Anh từng tết tóc thành hai lọn dài trước khi bị buộc phải cắt chúng đi ở trường nội trú, đồng thời bị ép đổi tên cũ là Roan Horse. Dù hai lọn tóc không còn, dù đã nằm chết cứng ở trong xe, khuôn mặt dài, điển trai và thân thể cao ráo gọn gàng vẫn có nét nổi bật của một chiến binh Osage. Hai viên cảnh sát quay trở lại Fairfax và thông báo cho thẩm phán trị an biết. Họ cũng bảo đảm rằng Hale biết tin này. Thị trưởng Fairfax giải thích: “Roan coi W. K. Hale là bạn thân”. Roan là một trong những thổ dân Osage bị tước đoạt quyền sử dụng tài sản, và thường mượn tiền của Hale. “Chúng tôi là bạn tốt, anh ấy thường nhờ tôi giúp đỡ mỗi lúc khó khăn”, Hale kể lại, và còn nói thêm rằng ông đã cho người bạn vay nhiều tới nỗi Roan để tên Hale với tư cách người thừa hưởng khoản bảo hiểm nhân thọ trị giá 25.000 đô la của mình. Vài tuần trước khi chết, Roan gọi điện thoại cho Hale, tâm trí rối bời. Roan mới phát hiện ra vợ anh đang ngoại tình với một người tên Roy Bunch. Hale liền tới thăm Roan và cố an ủi bạn mình. Vài ngày sau, Hale bắt gặp Roan tại một ngân hàng ở trung tâm Fairfax. Roan hỏi vay vài đô la. Anh vẫn u sầu vì người vợ, và muốn làm vài ly rượu. Hale khuyên bạn không nên uống: “Henry, anh nên bỏ rượu đi. Nó đang làm hại anh đó”. Ông cảnh báo rằng những cán bộ kiểm soát rượu lậu sẽ “tóm được” anh. “Tôi không mang nó vào trung tâm đâu”, Roan nói: “Tôi sẽ giấu đi mà”. Nói rồi Roan bỏ đi, cho tới khi xác anh được phát hiện. Lại một lần nữa, nghi thức rùng rợn được tái hiện. Viên phó cảnh sát quận và cảnh sát pháp lý quay lại khe núi cùng Hale. Khi ấy, màn đêm đã nuốt trọn toàn bộ hiện trường. Họ đậu xe thành hàng trên đỉnh đồi rồi rọi đèn pin xuống vùng sâu phía dưới - nơi mà một viên cảnh sát hỗ trợ gọi là “thung lũng tử thần đích thực”. Hale đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống nơi mà cuộc khám nghiệm bắt đầu. Các viên cảnh sát chui ra chui vào chiếc Buick liên tục. Một trong hai anh em nhà Shoun kết luận rằng thời điểm cái chết xảy ra là khoảng mười ngày trước. Các viên cảnh sát ghi chú lại tư thế của Roan khi chết - “hai tay chắp lại trước ngực và đầu gục trên ghế ngồi”. Viên đạn bắn xuyên qua mắt phải của anh làm vỡ kính chắn gió. Họ ghi nhận những mảnh kính vỡ trên mui và xung quanh xe. Họ ghi chú lại cả những đồ vật anh mang theo: “Một tờ 20 đô la, 2 đồng bạc và một đồng hồ bằng vàng”. Họ ghi chú lại những dấu xe trên nền đất bùn đã đông cứng của một chiếc xe khác, được cho là xe của kẻ thủ ác. Tin tức về vụ án mạng lại dấy lên những cảm xúc đau đớn nhói lòng. Tờ Osage Chief - trong cùng số báo ra ngày hôm đó có đăng một bài tưởng nhớ Abraham Lincoln như nguồn cảm hứng cho toàn thể nước Mỹ - đưa tin ngay trên trang nhất: HENRY ROAN BỊ BẮN BỞI KẺ KHÔNG RÕ DANH TÍNH. Tin này khiến Mollie thực sự bị sốc. Năm 1902, hơn một thập kỷ trước khi gặp Ernest, cô và Roan kết hôn chóng vánh. Chỉ sót lại vài mẩu thông tin về mối quan hệ này, nhưng gần như chắc chắn đó là hôn nhân được sắp đặt. Cặp đôi trẻ tuổi - Mollie khi ấy mới mười lăm - bị ép kết hôn để bảo tồn phong tục đang dần biết mất. Hôn nhân này được thực hiện theo tục lệ người Osage, ly hôn trên giấy tờ là không cần thiết, cả hai chỉ đơn giản là đường ai nấy đi. Dù vậy, cả hai vẫn mang theo mình ký ức về rung động thoáng qua, không ai bị tổn thương và thậm chí trong lòng còn thấy chút ấm áp. Rất nhiều người trong quận đến dự đám tang Roan. Những người già hát bài ca truyền thống về cái chết, chỉ có điều giờ đây nó như được hát cho người đang sống, những người phải chịu đựng thế giới đầy chết chóc này. Hale một lần nữa làm người khiêng quan tài, mang trên vai thi thể của một người bạn. Một trong những vần thơ Hale thích nhất là đoạn thơ mô phỏng lời của Đức Chúa giảng trên đỉnh núi: Sức phán đoán của anh em có thể sai, nhưng có một người luôn “chu toàn mọi việc”. Đi suốt chặng đường đời, anh em hãy luôn giữ điều này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, chính anh em cũng hãy làm cho người ta. ” Mollie luôn tham gia hỗ trợ các nhà chức trách, nhưng đến khi họ bắt đầu điều tra cái chết của Roan, cô trở nên lo lắng. Cô tự biến mình thành sản phẩm của tinh thần tự-gầy-dựng kiểu Mỹ. Cô sắp xếp từng chi tiết của quá khứ như cách cô dọn dẹp nhà cửa. Bản thân cô chưa bao giờ nói với Ernest - người chồng thứ hai có máu ghen bẩm sinh - về đám cưới truyền thống Osage với Roan. Ernest luôn sẻ chia cùng cô vào những thời điểm khủng hoảng này. Họ vừa có với nhau đứa con thứ ba, một bé gái tên là Anna. Nếu Mollie cho các nhà chức trách biết mối quan hệ của cô với Roan, cô sẽ phải thừa nhận rằng mình đã lừa dối Ernest trong suốt những năm qua. Cô quyết định không nói lời nào, cả với chồng và với các nhà chức trách. Mollie cũng có những bí mật của riêng mình. •§• Sau cái chết của Roan, bóng đèn điện bắt đầu xuất hiện trước hiên nhà người Osage, treo lủng lẳng từ mái nhà, trên bậu cửa sổ và trên những cửa sau. Tất cả bừng sáng trong màn đêm thăm thẳm. Một phóng viên Oklahoma quan sát thấy rằng: “Đi theo bất kỳ hướng nào từ Pawhuska, anh cũng sẽ thấy bên ngoài các ngôi nhà của thổ dân Osage được thắp sáng bởi đèn điện, khiến người lạ dễ lầm tưởng họ đang khoe khoang sự giàu có từ dầu mỏ. Nhưng bất kỳ người Osage nào cũng biết, ánh đèn sáng giúp bảo vệ họ khỏi bóng ma nham hiểm, một bàn tay vô hình đã tàn phá toàn bộ vùng đất của họ và biến chúng thành Đồi Sọ - những bãi đất đầy xương người chết… Câu hỏi luôn được đặt ra ở đây là: Ai sẽ là người tiếp theo?”. Những vụ án mạng làm dấy lên bầu không khí khủng hoảng bao trùm toàn bộ người dân trong vùng. Người ta nghi ngờ hàng xóm và bạn bè. Người vợ góa của Charles Whitehorn nói rằng rồi cô cũng “không thoát khỏi” bàn tay của những kẻ đã sát hại chồng cô. Một vị khách qua đường từng nghỉ tại Fairfax kể lại rằng, tất cả như bị “tê liệt trong sợ hãi”. Một phóng viên thuật lại: “Một tấm màn bí ẩn và đen tối bao trùm những thung lũng chứa đầy dầu mỏ của vùng đất Osage”. Bất chấp nguy hiểm đang cận kề, Mollie và gia đình vẫn theo đuổi để tìm cho ra kẻ giết người. Bill Smith kể cho vài người biết rằng anh ngày càng thấy “bất an” với việc điều tra của mình. Đêm nọ, khi anh và Rita đang ở trong ngôi nhà của họ - khá biệt lập với Fairfax - cả hai nghe thấy có gì đó chuyển động bên ngoài ngôi nhà. Rồi âm thanh đó dừng lại. Cái gì đó, hoặc ai đó, đã bỏ đi. Vài hôm sau, Bill và Rita lại nghe thấy tiếng động rần rần. Chắc chắn là những kẻ đột nhập đang đứng bên ngoài, cố vặn núm cửa đột nhập, rồi biến mất. Bill nói với một người bạn rằng “Rita rất sợ hãi”, và dường như Bill cũng nhụt hết dũng khí rồi. Chưa đầy một tháng sau cái chết của Roan, Bill và Rita rời bỏ ngôi nhà, để lại hầu hết đồ đạc. Cả hai chuyển vào một căn nhà hai tầng trông tao nhã, với một mái hiên và một nhà để xe gần trung tâm Fairfax (Họ mua lại ngôi nhà của bác sĩ James Shoun, vốn là bạn thân của Bill). Hàng xóm vài người có nuôi chó giữ nhà. Chúng thường sủa chỉ với tiếng động nhỏ nhất. Chúng sẽ báo động nếu kẻ đột nhập tính quay lại. “Giờ khi đã chuyển nhà”, Bill nói với một người bạn: “Có lẽ chúng sẽ để chúng tôi yên”. Không lâu sau, một người đàn ông xuất hiện trước cửa nhà của họ. Ông ta nói với Bill rằng ông nghe nói Bill đang bán vài mảnh đất vườn. Bill nói ông nghe nhầm rồi. Bill để ý thấy người đàn ông này có ánh nhìn rất man dại. Giống một tên tội phạm, mắt y cứ đảo quanh ngôi nhà như để thăm dò. Đầu tháng 3, lũ chó canh lần lượt chết từng con. Xác của chúng được tìm thấy trên thềm nhà và dưới lòng đường. Bill chắc chắn rằng chúng đã bị bỏ độc. Anh và Rita cảm thấy như bị bóp nghẹt trong căng thẳng. Anh tâm sự với một người bạn rằng có lẽ anh “không sống được bao lâu nữa”. Ngày 9 tháng 3, hôm ấy gió cuốn lồng lộng, Bill lái xe cùng một người bạn tới trang trại nằm trên bờ tây làng quy hoạch của tên buôn rượu lậu Henry Grammer. Bill nói với bạn rằng anh cần uống một ly. Thật ra, Bill biết rằng Grammer - người được tờ Osage Chief mệnh danh “tay sừng sỏ nhất quận” - nắm trong tay nhiều bí mật và có thể điều khiển cả một thế giới ngầm. Cuộc điều tra cái chết của Roan lần ra một phát hiện. Đó là trước khi biến mất, Roan đã nói sẽ tới mua rượu whisky tại trang trại của Grammer. Trùng hợp là Anna cũng thường mua whisky tại đây. Grammer từng là một ngôi sao đấu ngựa biểu diễn tại Quảng trường Madison và được trao ngôi vị quán quân cuộc thi trói bò bằng dây thừng. Y từng bị cáo buộc cướp tàu lửa; là một kẻ buôn rượu lậu có tiếng, móc nối với đám du côn ở Thành phố Kansas; và là một tay súng cừ khôi. Hệ thống pháp lý lỏng lẻo dường như không làm gì được y. Vào năm 1904, ở Montana, y bắn chết một người chăn cừu mà chỉ lĩnh án ba năm tù. Trong một sự việc gần đây, tại Quận Osage, một người đàn ông tới bệnh viện trong tình trạng máu chảy xối xả do bị bắn, luôn miệng rên: “Tôi chết mất, tôi chết mất”. Anh nói Grammer là kẻ đã bắn mình, rồi ngất lịm. Nhưng khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và nhận ra rằng mình chưa về với Chúa, anh một mực cho rằng không biết ai đã bắn mình. Với đế chế rượu lậu ngày càng hùng mạnh, Grammer cai trị một toán cướp dưới tay. Trong đó có Asa Kirby (một tên cướp có răng mạ vàng sáng lóa) và John Ramsey (tên trộm bò trông có vẻ lành nhất băng đảng của Grammer). Bill cùng người bạn tới trang trại của Grammer lúc trời nhá nhem tối. Trước mặt họ là một ngôi nhà gỗ và một trang trại rộng lớn, ẩn giấu đằng sau khu vườn là những thùng phuy năm trăm ga lông bằng đồng. Grammer tự lắp máy phát điện riêng cho ngôi nhà để băng của y có thể hoạt động bất kể ngày đêm, không còn cần tới ánh trăng yếu ớt để nấu rượu lậu nữa. Thấy Grammer không có nhà, Bill nói một người làm lấy cho vài hũ whisky. Anh hớp một ngụm. Bill uống thêm chút nữa, rồi cùng người bạn lái xe về Fairfax, đi qua những dãy bóng đèn điện - những ánh đèn lo sợ, như họ hay gọi - khẽ rung rinh trong từng cơn gió. Bill đưa bạn về nhà, sau đó đi về, rồi đậu chiếc Studebaker trong nhà để xe. Rita đang ở nhà cùng Nettie Brookshire, người hầu da trắng 19 tuổi thường hay ở lại qua đêm. Cả hai đi ngủ sớm. Gần ba giờ sáng, một người sống gần đó nghe thấy một tiếng nổ lớn. Vụ nổ làm chấn động tất cả những nhà xung quanh, làm vỡ hết cửa kính và bẻ nghiêng cây cối cùng các biển báo. Trong một khách sạn ở Fairfax, một người bảo vệ trực đêm đang ngồi cạnh cửa sổ bị hất văng xuống đất cùng hàng tá mảnh vụn kính. Tại một phòng khác của khách sạn, một vị khách ngã dúi dụi về phía sau. Cửa của những ngôi nhà gần tâm vụ nổ bị xé vụn. Những dầm gỗ gãy giòn như xương. Một nhân chứng khi ấy mới chỉ là một cậu bé sau này đã kể lại: “Dư chấn của đêm hôm ấy tưởng như còn mãi”. Mollie và Ernest cũng cảm nhận được vụ nổ. “Mọi thứ đều rung lắc”, Ernest nhớ lại: “Lúc đầu tôi tưởng là do sấm”. Mollie sợ hãi vùng dậy và ngó ra ngoài cửa sổ. Cô thấy có gì đó cháy ở đằng xa, như thể mặt trời thô bạo đã đâm xuyên qua màn đêm. Ernest tới bên cửa sổ và đứng cạnh cô, cùng nhìn thảo nguyên đang rực sáng. Ernest xỏ vội quần dài và chạy ra ngoài. Nhiều người loạng choạng bước từ trong nhà ra với vẻ kinh hãi, tay xách theo đèn và bắn súng chỉ thiên để ra hiệu cho những người khác cùng tập trung lại thành một đoàn đông. Họ chạy bộ và đi xe hơi, hướng về nơi xảy ra vụ nổ. Càng tới gần, người ta càng hét lớn: “Nhà của Bill Smith! Đó là nhà của Bill Smith!”. Có điều, giờ đây nó đã không còn là một ngôi nhà, chỉ còn tàn tích của những khúc gỗ cháy dở, những thanh kim loại oằn cong. Những món đồ nội thất mà Bill và Rita mới mua cách đó mấy ngày ở Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn bị nghiền nát, những mảnh giường còn lại nằm vắt vẻo trên dây cáp điện thoại, còn những mảnh vụn vương vãi khắp nơi trong làn khói đen kịt. Cả chiếc xe Studebaker cũng bị phá nát. Một nhân chứng khó nhọc lắm mới tả lại được: “Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra nữa”. Rõ ràng có ai đó đã đặt bom dưới ngôi nhà và kích nổ. Ngọn lửa nuốt trọn những thứ còn lại trong đống đổ nát và bùng lên dữ dội. Những người cứu hỏa tình nguyện mang nước từ giếng lên, cố gắng dập tắt đám cháy. Mọi người nháo nhác tìm Bill, Rita và Nettie. “Lại đây, có một phụ nữ ở trong này”, một người cứu hộ hét lớn. Vị thẩm phán trị an tham gia cuộc tìm kiếm cùng Mathis và anh em nhà Shoun. Thậm chí trước khi những mảnh thi thể được tìm thấy, nhân viên nhà xác của Công ty thương mại Ngọn Đồi Lớn đã có mặt cùng với xe tang. Một nhân viên tang lễ của công ty đối thủ cũng có mặt. Cả hai lượn qua lại như những con chim săn mồi. Những người cứu hộ lùng sục khắp đống đổ nát. James Shoun là chủ cũ của căn nhà, anh biết rõ phòng ngủ chính nằm ở đâu. Khi đang tìm kiếm ở gần khu phòng ngủ, anh nghe thấy một tiếng nói vọng ra. Những người khác cũng nghe thấy, âm thanh dù yếu ớt nhưng rất rõ ràng: “Cứu tôi! Cứu!”. Một người chỉ tay về đống tàn tích đang cháy âm ỉ phía trên nơi giọng nói phát ra. Lính cứu hỏa dội nước lên khu vực. Khi hơi nước bốc lên, tất cả vội vàng đào bới đống gạch đá vụn. Càng làm họ càng nghe thấy tiếng nói kia lớn dần, át cả tiếng ồn ào xung quanh. Cuối cùng, một gương mặt ám khói đen bị cháy xém lộ ra. Đó là Bill Smith. Anh ta đang quằn quại trên giường của mình. Đôi chân anh bị nghiền nát tới nỗi không nhận ra được. Lưng và hai bàn tay cũng vậy. David Shoun sau này kể lại rằng, trong từng ấy năm làm bác sĩ anh chưa từng thấy ai đau đớn như vậy: “Anh ấy la hét dữ dội trong cơn đau tồi tệ”. James Shoun cố gắng xoa dịu Bill, nói rằng: “Tôi sẽ không để anh chịu đau đớn đâu”. Khi đoàn người dọn dẹp những mảnh vỡ, họ thấy Rita đang nằm bên cạnh Bill trong chiếc đầm ngủ. Gương mặt cô vẫn vẹn nguyên, trông như thể đang ngủ và chìm trong một giấc mơ nhẹ nhàng. Nhưng khi dựng cô dậy, họ thấy phía sau hộp sọ cô đã bị nghiền nát. Sự sống trong cô không còn nữa. Khi Bill nhận ra vợ mình đã chết, anh rống lên thảm thiết. “Rita đã mất rồi”, anh lặp đi lặp lại. Anh nói với một người bạn đứng gần đó: “Anh có khẩu súng nào không…”. Khi ấy, Ernest đang khoác tạm lên người cái áo choàng tắm, đứng nhìn trân trối. Anh không rời mắt khỏi cảnh tượng hãi hùng ấy được và luôn miệng lẩm nhẩm: “Lửa lớn quá”. Nhân viên tang lễ Ngọn Đồi Lớn xin phép được mang thi thể Rita đi, và Ernest đồng ý. Ai đó phải mang cô ấy đi trước khi Mollie nhìn thấy. Rồi Mollie sẽ nói gì khi biết lại một người chị nữa bị sát hại? Mollie, người được cho rằng sẽ qua đời trước vì bệnh tiểu đường, lại là người duy nhất còn sót lại. Đoàn người không thể tìm ra Nettie. Vị thẩm phán trị an kết luận rằng người phụ nữ trẻ có gia đình và một con ấy đã bị “thổi tung thành từng mảnh”. Những mảnh thi thể còn lại không đủ để làm khám nghiệm. Dù vậy, người nhân viên tang lễ còn lại vẫn tìm và nhặt đủ để làm tang lễ và đòi chi phí chôn cất. “Tôi đang định quay lại để lấy nốt xác của cô người hầu, nhưng hắn ta đã nhanh chân hơn”, nhân viên Ngọn Đồi Lớn nói. Bác sĩ cùng những người khác nâng Bill Smith dậy. Bill thở không ra hơi. Họ đỡ anh lên một chiếc xe cứu thương rồi đưa tới Bệnh viện Fairfax. Tại đó, anh được David Shoun tiêm cho rất nhiều mũi giảm đau. Anh là người duy nhất còn sống, nhưng trước khi người ta kịp thẩm vấn anh đã rơi vào hôn mê. Phải mất một lúc, những viên cảnh sát địa phương mới tới được bệnh viện. Viên cảnh sát pháp lý cùng các cán bộ khác mới tham dự một phiên tòa ở Thành phố Oklahoma về. “Thời điểm vụ việc xảy ra đã được tính toán rất kỹ”, một cán bộ điều tra sau này để ý. Thời điểm vụ nổ xảy ra là lúc tất cả các cán bộ “đều đi vắng”. Sau khi nghe tin và quay vội trở lại Fairfax, các viên cảnh sát thắp đèn pha chiếu sáng phía trước và lối cửa sau của bệnh viện, phòng trường hợp kẻ giết người quay lại để xử nốt Bill. Lính canh có vũ khí cũng được huy động để tuần tra. Trong cơn mê sảng, chơi vơi giữa sự sống và cái chết, Bill thi thoảng lẩm nhẩm: “Chúng giết Rita rồi, và giờ tới lượt tôi”. Người bạn đi cùng anh tới trang trại của Grammer đến thăm anh. “Anh ta chỉ nói nhảm thôi”, người bạn nhớ lại: “Tôi không hiểu anh ta nói gì hết”. Sau gần hai ngày, Bill mới tỉnh lại. Anh hỏi về Rita. Anh muốn biết cô sẽ được chôn cất ở đâu. David Shoun nghĩ rằng Bill lo sợ mình sẽ chết và chuẩn bị nói ra điều gì đó, tiết lộ những điều anh biết về vụ đánh bom và những kẻ giết người. “Tôi đã cố moi thông tin từ anh ấy”, vị bác sĩ sau đó khai với các nhà chức trách: “Tôi hỏi, ‘Bill, anh có biết ai đã làm chuyện này không?’. Tôi rất nóng lòng muốn biết sự thật”. Nhưng vị bác sĩ nói, cuối cùng Bill không tiết lộ gì cả. Ngày 14 tháng 3, bốn ngày sau vụ đánh bom, Bill Smith qua đời - thêm một nạn nhân trong Thời kỳ Khủng hoảng của người Osage. •§• Một tờ báo tại Fairfax cho đăng một bài xã luận nói rằng vụ đánh bom này là việc không thể chấp nhận được - “vượt quá sức chịu đựng khi đạo đức con người có thể bị hạ thấp tới như vậy”. Bài xã luận yêu cầu luật pháp phải “truy tìm không sót ngõ ngách nào để tìm bằng được những kẻ thủ ác và mang chúng ra trước vành móng ngựa”. Một lính cứu hỏa tại hiện trường nói với Ernest rằng những kẻ đứng đằng sau vụ việc này “đáng bị ném vào đống lửa và thiêu cho tới chết”. Vào tháng 4 năm 1923, Thống đốc Oklahoma - ngài Jack C. Walton - phái điều tra viên giỏi nhất bang tới Quận Osage: Herman Fox Davis. Davis là một luật sư từng làm thám tử tư cho văn phòng của Burns, có vẻ ngoài chau chuốt bóng bẩy. Đôi mắt ông sáng lên sau làn khói thuốc của điếu xì gà. Một viên chức thi hành luật pháp gọi ông là “thám tử của những tiểu thuyết rẻ tiền”. Rất nhiều thổ dân Osage tin rằng chính quyền địa phương đã cấu kết với những kẻ giết người và chỉ có một người từ bên ngoài như Davis mới có thể phá vỡ sự cấu kết này, tìm ra lời giải cho số lượng ngày càng tăng những vụ án mạng. Vậy mà chỉ vài ngày sau, người ta bắt gặp Davis đi lại với những tên tội phạm cộm cán nhất trong vùng. Một điều tra viên khác bắt được Davis đang nhận hối lộ từ chủ một sòng bạc địa phương để hắn yên ổn làm ăn. Không lâu sau, người ta nhận ra rằng điều tra viên được biệt phái từ tiểu bang cũng chỉ là một tên vô lại. Vào tháng 6 năm 1923, Davis ra hầu tòa vì tội nhận hối lộ và lĩnh án hai năm tù. Nhưng vài tháng sau, hắn được thống đốc bang tha trước hạn. Sau đó, Davis và một vài kẻ khác lên kế hoạch cướp và sát hại một thẩm phán có tiếng. Lần này, Davis lãnh án chung thân. Tháng 11, Thống đốc Walton bị buộc tội và buộc rời khỏi văn phòng một phần vì lạm dụng hệ thống tha tù trước thời hạn (và tội “không kiểm soát, để một bầy sát nhân và tội phạm làm hại những công dân trung thực của bang”), còn một phần vì nhận hối lộ từ ông trùm dầu mỏ. E. W. Marland và xây một dinh thự khang trang. Trong lúc các vụ bê bối được làm sáng tỏ, W. W. Vaughan - một thẩm phán 54 tuổi sống ở Pawhuska - lại cố hành động thật đứng đắn. Nguyên là công tố viên luôn tìm mọi cách để bài trừ tội phạm như “những con ký sinh sống nhờ vào người lương thiện”, ông phối hợp chặt chẽ với các thám tử tư nhằm giải quyết các vụ giết hại người Osage. Vào một ngày tháng 6 năm 1923, Vaughan nhận được một cuộc điện khẩn từ người bạn là George Bigheart - cháu họ của tộc trưởng huyền thoại James Bigheart. Bigheart khi ấy 46 tuổi, được đưa vội đến bệnh viện Thành phố Oklahoma vì nghi ngờ bị đầu độc. Bạn ông nói rằng ông có thông tin về những vụ giết hại người Osage, nhưng chỉ đồng ý tiết lộ cho Vaughan, người mà ông tin tưởng. Khi Vaughan hỏi về tình trạng của Bigheart, người ta nói Vaughan phải nhanh lên. Trước khi đi, Vaughan dặn vợ mình - người vừa sanh hạ đứa con thứ mười của hai người - một địa điểm bí mật nơi ông giấu những bằng chứng thu thập được về các vụ giết người. Nếu ông có bất cứ mệnh hệ gì, ông dặn, bà phải ngay lập tức giao nộp chúng cho cơ quan chức trách. Bà cũng sẽ thấy tiền dành cho mấy mẹ con được cất ở đó. Khi Vaughan tới bệnh viện, Bigheart vẫn còn tỉnh táo. Có những người khác ở trong phòng, Bigheart ra hiệu yêu cầu họ ra ngoài. Sau đó Bigheart nói hết những gì ông biết, bao gồm cả những tài liệu dùng làm chứng cứ. Vaughan ở bên Bigheart thêm vài giờ cho tới khi bác sĩ tuyên bố Bigheart đã qua đời. Vaughan liền gọi ngay cho cảnh sát trưởng Quận Osage, nói rằng ông có tất cả những thông tin mà viên cảnh sát này cần. Vaughan cho biết sẽ bắt chuyến tàu đầu tiên để quay lại. Viên cảnh sát gặng hỏi thêm về việc liệu ông có biết ai đã giết Bigheart không. Ôi, tôi còn biết nhiều hơn thế, Vaughan nói. Ông cúp máy và đi tới nhà ga. Ở đây, người ta thấy ông bắt chuyến tàu đêm. Tuy vậy, khi tàu dừng ở trạm vào sáng hôm sau, không ai thấy bóng dáng ông đâu hết. NGƯỜI BIẾN MẤT ĐỂ LẠI TƯ TRANG TRÊN KHOANG TÀU PULLMAN, tờ Tulsa Daily World đưa tin. BÍ ẨN BAO TRÙM VỤ MẤT TÍCH CỦA W. W. VAUGHAN Ở PAWHUSKA. Hội Hướng đạo sinh Nam, với thiếu đoàn đầu tiên toàn Hoa Kỳ thành lập ở Pawhuska vào năm 1909, tham gia cuộc tìm kiếm Vaughan. Những con chó săn được dùng để lần theo mùi của ông. Sau đó 36 tiếng, xác của Vaughan được tìm thấy gần đường ray xe lửa, cách Thành phố Oklahoma ba mươi dặm về phía bắc. Ông đã bị ném khỏi tàu. Cổ ông bị bẽ gãy, và trên người hầu như không còn một mảnh vải, giống như người công nhân dầu khí McBride. Những tài liệu Bigheart đưa ông đã biến mất. Khi bà vợ góa của Vaughan tới điểm cất giấu tài liệu, tất cả đã bị dọn sạch. Thẩm phán trị an được một công tố viên hỏi liệu có phải Vaughan đã biết quá nhiều. Vị thẩm phán đáp: “Rõ rồi, thưa ngài, và có mang giấy tờ nhiều giá trị trên mình nữa”. Con số người chết chính thức trong Thời Kỳ Kinh Hoàng của người Osage đã lên tới ít nhất 24 người. Trong số các nạn nhân, có hai người từng cố giúp sức cho quá trình điều tra: một người là chủ trại gia súc có tiếng người Osage (bị ném xuống cầu thang sau khi bị đánh thuốc mê), người còn lại bị bắn chết ở Thành phố Oklahoma khi đang trên đường tới trình báo thông tin cho quan chức tiểu bang. Tin tức về các vụ giết người bắt đầu lan rộng. Trong một bài báo với tựa đề “Lời nguyền Hắc Ám của người Osage”, tờ Literary Digest - một tờ báo được phát hành toàn quốc - đưa tin rằng các thành viên trong bộ tộc đã bị “bắn trên những đồng cỏ vắng vẻ, đâm chết khi đang ngồi trên xe hơi, hạ độc cho chết từ từ, hoặc bị nổ tung khi đang ngủ trong nhà”. Bài báo viết tiếp: “Ngay lúc này, lời nguyền vẫn ứng nghiệm. Liệu nó sẽ chấm dứt? Không ai biết câu trả lời”. Những cư dân giàu có nhất thế giới tính trên đầu người trở thành những cư dân bị sát hại nhiều nhất. Các bài báo sau đó mô tả những vụ giết người là “đen tối và đớn hèn như bất kỳ vụ án mạng nào trong thế kỷ vừa qua” và “trang sử đẫm máu nhất trong lịch sử tội phạm nước Mỹ”. Mọi nỗ lực nhằm giải đáp bí ẩn này đều thất bại. Bởi những mối nguy hiểm vô hình, thẩm phán trị an bị buộc không lập thêm ban điều tra vụ án mạng mới nữa. Ông sợ hãi tới mức phải đi vào căn phòng sau nhà và chốt chặt cửa lại để thảo luận về chúng. Cảnh sát trưởng quận mới thậm chí còn gác tất cả công cuộc điều tra lại. “Tôi không muốn dính líu tới nó”, ông thừa nhận, và còn nói bóng gió rằng: “Có một dòng nước ngầm như một con suối chảy vào vùng trũng. """