"Văn Phòng Thám Tử Số 1 Dành Cho Các Quý Bà - Alexander McCall Smith full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Phòng Thám Tử Số 1 Dành Cho Các Quý Bà - Alexander McCall Smith full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách: VĂN PHÒNG THÁM TỬ SỐ 1 DÀNH CHO CÁC QUÝ BÀ Tác giả: Alexander McCall Smith Dịch giả: Phạm Thị Xuân Thảo Nguyên tác: The No.1 Ladies’Detective Agency Nhà xuất bản: Công an nhân dân Năm xuất bản: 9/2009 Số trang: 288 Giá tiền: 46.000 Đồng Đánh máy: Thùy An, Quang Vinh, Đặng Mai, Mai Nhung, Hương Mai, Thanh Tâm Kiểm tra: Quang H Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thӵc hiện: 03/12/2010 Making Ebook Project #71 – www.BookaholicClub.com Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org Ramotswe nói. “Thật buồn phải dọn dẹp vào tối thứ Sáu trong khi nhӳng người khác đang nghĩ tới chuyện đi chơi”. Bạn đang đọc ebook VĂN PHÒNG THÁM TỬ SỐ 1 DÀNH CHO CÁC QUÝ BÀ của tác giả Alexander McCall Smith do Bookaholic Club chế bản theo Dӵ án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến nhӳng chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết nhӳng ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến nhӳng chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dӵng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. LỜI GIỚI THIỆU 50 tuổi mới bắt đầu có tác phẩm gây chú ý, giờ đây sau 10 năm, giáo sư luật Alexander McCall Smith đã trở thành một trong những nhà văn ăn khách nhất thế giới. Riêng 9 cuốn tiểu thuyết của ông về nữ thám tử châu Phi Mma Ramotswe đã bán được 25 triệu bản ở 42 nước. Loạt tác phẩm này còn được đạo diễn đoạt giải Oscar A. Minghella (Bệnh nhân người Anh) chuyển thể thành phim. Alexander McCall Smith, sinh 1948 ở Zimbabwe (châu Phi), cho tới gần đây vẫn còn giảng về luật y tế ở ĐHTH Edinburgh và là cố vấn của Chính phủ Anh. Vì sao một giáo sư người Anh lại nảy ra ý tưởng viết về một nӳ thám tử người châu Phi ở Botswana? Đơn giản là vì McCall Smith có thời gian giảng dạy ở Botswana và sau đó ông thường xuyên đến đất nước nguyên là thuộc địa Anh này. Một lần ở đó, ông thấy một phụ nӳ mang một con gà sang biếu nhà hàng xóm. Ông bị ấn tượng bởi sӵ vui tính, nồng hậu và dí dỏm của người phụ nӳ phốp pháp ấy tới mức kể từ đó, hình ảnh chị cứ ám ảnh ông hoài, khiến ông thầy cần phải viết về chị. Năm 1998, cuốn tiểu thuyết đầu tiên về nhân vật nӳ thông minh và đôn hậu ấy ra đời, mở đầu cho 8 cuốn tiếp theo. Thành công thật khủng khiếp: Cho tới nay bộ sách đã bán được 25 triệu bản và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Câu chuyện của McCall Smith cũng khá đơn giản: Precious Ramotswe, một phụ nӳ thích giúp đỡ người khác, một ngày nọ bỗng nảy ra ý định thành lập hãng thám tử nӳ đầu tiên ở Botswana, mang tên "No.1 Ladies Detective Agency". Chẳng bao lâu sau, hãng nhận được nhiều hợp đồng tới mức khiến Mma (Bà) Ramotswe phải nhận thêm Grace Makutsi vào làm nӳ trợ lý. Họ có lúc phải lần theo nhӳng ông chồng ngoại tình, khi thì phải tìm ra nhӳng đứa trẻ bị bắt cóc hoặc phá nhӳng vụ án tống tiền. Nhӳng vụ khác: Bác sĩ Lugeba có gian lận tiền khám bệnh hay không? Chồng chưa cưới của Grace Makutsi đã bị lầm đường lạc lối? Điều gì bí ẩn trong khu bảo tồn động vật hoang dã Mokolodi? Tóm lại, toàn nhӳng vụ rất đời thường, không hề có đổ máu hay rùng rợn. Thế nhưng chúng vô cùng lôi cuốn, đặc biệt là thông qua nhân vật nӳ thám tử Mma Ramotswe. Mỗi khi đọc xong một câu chuyện về Mma Ramotswe, người ta lại có cảm giác sảng khoái, dường như sӵ dí dỏm của câu chuyện đã “lây” được niềm vui sang người đọc. Bản thân McCall Smith từng nói, văn học cần phải làm cho cuộc đời vui vẻ hơn, ít nhất là nhẹ nhàng hơn. Nhờ bộ truyện Mma Ramotswe, ngành du lịch Botswana trở nên phát đạt. Rất nhiều độc giả sau khi đọc tác phẩm của McCall Smith có nhu cầu đến tìm hiểu thêm về đất nước thanh bình và thân thiện hiện chỉ có 1,6 triệu dân này. Ở đó thậm chí người ta lập ra nhӳng “tour Mma Ramotswe”, đi qua nhӳng địa điểm du lịch có dính dáng đến nhân vật chính trong tiểu thuyết. TT&VH Online “Nhӳng cô con gái của Wayward. Nhӳng ông chồng mất tích. Nhӳng đối tác hào hoa, đa tình. Nếu bạn gặp vấn đề rắc rối, thì hãy đến thăm Precious Ramostwe, nӳ thám tử xinh đẹp và duy nhất ở Botswana. Nhӳng phương pháp điều tra của cô ấy có thể không theo lối cổ truyền, phong cách cô ấy không giống như quý bà Marple, nhưng cô ấy có sӵ nhiệt tình, trí thông minh, khả năng trӵc giác khôn ngoan, và sӵ trợ giúp đắc lӵc của J.L.B.Matekoni. Precious sẽ cần tất cả điều đó khi cô bắt đầu lần theo dấu vết của một đứa trẻ mất tích, vụ án đã cuốn nӳ anh hùng của chúng ta vào một loạt nhưng tình huống kỳ lạ và cӵc kỳ nguy hiểm. “Tôi đã bị say mê bởi nhân vật Precious Ramotswe và sӵ hài hước tinh tế trong văn phòng của Alexander McCall Smith, sӵ khêu gợi khéo léo của ông về một Anthony Minghella văn hóa. “Có một cái gì đó lôi cuốn tuyệt diệu trong phong cách mà Alexander McCall Smith viết về cuộc sống hằng ngày ở Botswana… Thật khó để đánh giá về một nhà văn đương thời hơn là trӵc tiếp đọc tác phẩm của ông. Nhӳng tiểu thuyết của ông cũng vô cùng hài hước: Tôi phát hiện ra rằng mình không thể không cười khi nghĩ về văn chương của ông. Craig Browm, Mail on Sunday Cuốn sách này dành tặng cho: Anne Gordonv-Gillies ở Scotland; Joe và Mimi McKnight ở Dallas, Texas Chương 1 Ông bố Cô Ramotswe có một văn phòng thám tử ở châu Phi, dưới chân ngọn đồi Kgale. Tài sản của văn phòng này gồm: một xe tải nhỏ màu trắng, hai cái bàn làm việc, hai cái ghế, một cái điện thoại, và một cái máy chӳ cũ kӻ. Có một cái ấm để cô Ramotswe – nӳ thám tử duy nhất ở Botswana dùng để pha trà bụi đỏ, và ba cái cốc – một cho cô, một cho thư ký của cô và một cho khách hàng. Một văn phòng thám tử còn cần cái gì nӳa nhỉ? Các văn phòng thám tử dӵa vào khả năng trӵc giác và trí thông mình của con người, cả hai yếu tố này Ramotswe đều có thừa. Tất nhiên chẳng một nhà kho nào có thể chưa đủ chúng. Nhưng cũng có một cảnh có thể xuất hiện không ở nhà kho. Làm thế nào miêu tả cái mà bạn thấy khi nhìn ra cánh cửa văn phòng của Ramotswe? Phía trước có một cây keo, một bụi cây gai lốm đốm nhӳng chiếc lá hình lưỡi dao của Kalahari với nhӳng cái gai trắng vĩ đại là một sӵ cảnh báo; ngược lại, nhӳng chiếc lá cây ô liu xám thật mềm mại. Vào buổi chiều hoặc buổi sớm mát mẻ, bạn có thể nhìn thấy nhӳng chú chim Go-Away trên nhӳng cành cây hay ít nhất cũng nghe thấy tiếng chim. Và xa xa cây keo, trên con đường bụi bặm, nhӳng ngôi nhà trong thị trấn nằm dưới nhӳng bóng cây và bụi rậm. Phía đường chân trời, trong hơi nóng tỏa ra lờ mờ, nhӳng ngọn đồi như không có thӵc che kín nhӳng ụ mối. Mọi người gọi cô là Ramotswe, mặc dù nếu muốn trang trọng hơn họ có thể gọi cô ấy là bà Ramotswe. Vì thế cô luôn là Ramotswe thay vì là Precious Ramotswe, một cái tên rất ít người biết tới. Cô là một thám tử giỏi và là một phụ nӳ tốt bụng. Bạn có thể nói: một phụ nӳ tốt ở một đất nước tốt. Cô yêu đất nước mình, Botswana, một vùng đất thanh bình; và yêu Châu Phi cùng tất cả bộ tộc ở đây. Ramotswe nói rằng cô không xấu hổ khi được gọi là một con vẹt Mӻ. Cô yêu tất cả nhӳng gì được Chúa tạo ra, nhưng cô đặc biệt biết làm thế nào để yêu nhӳng con người sống trên vùng đất này. Họ là người của cô, là anh chị em của cô. Nhiệm vụ của cô là giúp đỡ họ giải quyết nhӳng bí ẩn ở nơi họ sống. Đây là việc mà cô được gọi tới làm. Trong nhӳng lúc nhàn rỗi, khi chẳng có vấn đề gì cấp bách phải giải quyết, và khi mọi người dường như buồn ngủ vì hơi nóng, cô sẽ ngồi dưới tán cây keo. Đây là nơi bụi bặm và nhӳng chú gà con thỉnh thoảng lại gần và mổ vào ngón chân cô. Tuy nhiên nó lại là nơi dường như thúc đẩy suy nghĩ. Chính ở chỗ này Ramotswe sẽ suy ngẫm về vài vấn đề mà hàng ngày có thể rất dễ bị gạt sang một bên. Trong mọi việc Ramotswe nghĩ thì vài việc đã được suy tính trước. Tôi ở đây, nӳ thám tử duy nhất trên khắp Botswana, ngồi trước văn phòng thám tử của mình. Nhưng chỉ vài năm trước ở đây không có văn phòng thám tử nào, và trước đây, trước khi có bất cứ tòa nhà nào thì nơi này chỉ có nhӳng cây keo, bờ sông ở chỗ này và Kalahari ở đằng kia, thật gần. Trong nhӳng ngày đó, thậm chí Botswana cũng chưa có, chỉ có Chính phủ bảo hộ Bechuanaland, và trước nӳa có đất nước của Khama cùng nhӳng con sư tử mang gió nóng trong nhӳng cái bờm. Nhưng bây giờ hãy nhìn xem: một văn phòng thám tử ở ngay Gaborone cùng với tôi, một nӳ thám tử béo đang ngồi ngoài trời và nghĩ làm thế nào để việc ngày hôm nay trở thành việc ngày mai. Cô Ramotswe thành lập Văn phòng thám tử số 1 dành cho các quý bà bằng số tiền thu được từ việc bán gia súc của bố mình. Ông cụ sở hӳu một đàn gia súc lớn và chỉ có mỗi một người con; vì vậy mỗi một con vật trong gần hai trăm con gồm cả nhӳng con bò Brahmin trắng từ thời tӵ tay ông nuôi nấng cũng đi theo cô. Nhӳng con gia súc được chuyển từ chuồng nuôi quây tại Mochudi trong bụi bặm, dưới sӵ trông nom của nhӳng cậu bé nói luôn mồm cho tới khi đại lý vật nuôi tới. Họ bán được giá hời vì năm đó có nhiều trận mưa lớn và cỏ mọc tươi tốt. Trở lại nhӳng năm trước khi phần lớn khu vӵc nam Châu Phi bị tàn phá bởi nạn hạn hán thì có một vấn đề nảy sinh. Mọi người run lên cầm cập, đợi chờ, giӳ chặt lấy đàn gia súc của mình, như thể không có chúng bạn sẽ trắng tay. Nhӳng người khác cảm thấy tuyệt vọng rồi tìm cách bán gia súc đi vì nhӳng cơn mưa biến mất hết năm này sang năm khác và họ nhìn nhӳng con vật của mình càng lúc càng gầy thêm. Ramotswe vui mừng vì trận ốm của bố đã ngăn cản quyết định của ông, đến bây giờ giá cả tăng lên và nhӳng con gia súc được giӳ lại bán với giá rất hời. “Bố muốn con có công việc kinh doanh riêng của mình.”, ông đã nói với cô lúc hấp hối. “Bây giờ con sẽ bán được đàn gia súc với giá cao. Hãy bán chúng và mua một cửa hàng. Có thể là một cửa hàng thịt hoặc một cửa hàng chai lọ. Bất cứ cái gì con thích”. Cô nắm lấy tay bố mình và nhìn sâu vào mắt người đàn ông mà cô yêu quý hơn bất cứ ai trên đời. Bố cô, người bố thông minh của cô. Hai lá phổi của ông bám đầy bụi từ các hầm mỏ kia và tằn tiện, tích cóp để cho cô một cuộc sống tốt đẹp. Thật khó thể nói qua làn nước mắt, nhưng cô đã cố gắng nói: “Con sẽ thành lập một văn phòng thám tử phía dưới Gaborone. Đó sẽ là văn phòng nổi tiếng nhất Botswana. Văn phòng số 1”. Trong giây lát đôi mắt cha cô mở to và dường như ông đang gắng sức để nói. “Nhưng… nhưng…”. Nhưng ông đã chết trước khi kịp nói thêm điều gì. Ramotswe gục lên ngӵc ông, khóc than cho tất cả phẩm giá, tình yêu cùng sӵ khổ đau đã đi theo ông. Cô dӵng một biển hiệu sơn bằng nhӳng màu sáng, nhӳng màu sau này làm nổi bật đường Lobatse bên lề thị trấn chỉ dẫn tới tòa nhà nhỏ mà cô ấy thuê: Văn phòng thám tử số 1 dành cho các quý bà. Đáp ứng tất cả các vấn đề bí mật và các yêu cầu. Đảm bảo sự hài lòng cho tất cả các bên. Dưới sự điều hành cá nhân. Việc thành lập văn phòng của cô thu hút sӵ quan tâm của công chúng. Có một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Botswana. Tại cuộc phỏng vấn, cô cho rằng không lịch sӵ lắm khi nhằm vào trình độ chuyên môn của cô. Trên một bài báo của Thời báo Botswana, công chúng hài lòng hơn vì người ta tập trung vào thӵc tế cô là nӳ thám tử duy nhất ở đất nước này. Bài báo được cắt ra, phô tô, và dán lên một tấm bảng nhỏ dễ nhìn đặt bên cạnh cửa ra vào văn phòng. Sau sӵ khởi đầu chậm chạp, cô khá ngạc nhiên nhận ra rằng các dịch vụ của mình được mọi người quan tâm. Các bà ế chồng bàn bạc với cô về độ đảm bảo khả năng tài trợ của các đối tác kinh doanh tiềm năng, và về vụ lừa gạt bị nhӳng công nhân nghi ngờ. Trong hầu hết các vụ án, cô có đủ khả năng bắt kịp ít nhất vài thông tin về khách hàng. Khi cô không thể, cô từ chối nhận thù lao. Điều này có nghĩa là hầu như chẳng ai trong số nhӳng người hợp tác với cô thấy không thỏa mãn. Cô phát hiện ra mọi người ở Botswana thích được nói chuyện và hầu như đề cập cô là một thám tử tư sẽ làm mất tính khách quan của thông tin về mọi mặt của các vấn đề. Cô tâng bốc mọi người để tiếp cận và việc đó làm cho họ trở nên ba hoa. Việc này diễn ra với Happy Bapetsi, một trong nhӳng khách hàng đầu tiên của cô. Tội nghiệp Happy! Mất đi người bố rồi tìm thấy ông, và lại mất ông lần nӳa… Cô Ramotswe quan sát khách hàng của mình trong khi nhấm nháp tách trà. Cô tin rằng mọi điều bạn muốn biết về một con người đều được thể hiện trên khuôn mặt. Điều này còn hơn một câu hỏi về sӵ quan tâm tới nghiên cứu kӻ lưỡng đường nét và ngoại hình bình thường. Tất nhiên cả đôi mắt: chúng rất quan trọng. Đôi mắt cho phép bạn nhìn thấu bên trong một con người, hiểu thấu bản chất của họ, và đó là lý do tại sao người có việc muốn che giấu lại đeo kính râm trong nhà. Họ là nhӳng người bạn phải quan sát rất cẩn thận. Thấy rõ ràng Happy Bapetsi là người thông minh. Cô ấy cũng có ít lo lắng. Điều này thể hiện ở chỗ không có nếp nhăn nào trên khuôn mặt cô ấy, tất nhiên trừ nhӳng nếp nhăn khi cười. Vì thế Ramotswe đoán đó là lo lắng về một người đàn ông. Người đàn ông nào đó xuất hiện và làm hỏng mọi thứ, phá hủy hạnh phúc của cô ấy bằng cách cư xử tồi tệ của anh ta. “Đầu tiên hãy để tôi kể cho cô nghe một chút về bản thân tôi”. Happy Bapetsi nói. “Cô biết không, tôi tới từ Moun, ngay trên Okavango. Mẹ tôi có một cửa hàng nhỏ và tôi sống cùng bà trong ngôi nhà phía sau cửa hàng. Chúng tôi nuôi rất nhiều gà và sống rất hạnh phúc. “Mẹ nói với tôi rằng bố đã bỏ đi từ lâu rồi, từ khi tôi còn là một đứa bé. Ông đã bỏ việc ở Bulawayo và không bao giờ trở về. Một vài người đã viết thư cho chúng tôi – trong đó có một người Motswana đang sống ở đó nói rằng ông ta nghĩ bố tôi đã chết, nhưng không chắc lắm. Ông ta nói mình đã tới gặp vài người tại bệnh viện Mpilo và khi đang đi dọc hành lang ông thấy họ khiêng một cái càng, và người chết nằm trên cáng trông rất giống bố tôi. “Vì thế chúng tôi cho rằng có thể bố đã chết, nhưng mẹ không bận tâm nhiều tới việc đó vì mẹ chưa bao giờ thӵc sӵ yêu bố. Và tất nhiên tôi thậm chí không nhớ bố, vì vậy việc đó không gây nhiều khó khăn cho tôi. “Tôi đi học ở Maun tại một ngồi trường của nhӳng người truyền giáo đạo Thiên chúa. Một trong số họ phát hiện ra tôi có thể làm số học khá tốt và ông ấy đã dành rất nhiều thời gian giúp đỡ tôi. Ông ấy nói rằng ông chưa gặp cô bé nào làm toán giỏi như tôi. “Tôi nghĩ việc đó rất kỳ lạ. Tôi có thể nhìn một nhóm nhӳng con số và chỉ việc ghi nhớ. Rồi tôi nhận ra rằng tôi đã thêm nhӳng con số vào trong đầu mình, thậm chí không cần suy nghĩ về việc đó. Chuyện đó đối với tôi thật dễ dàng. Tôi chẳng phải làm gì cả. “Tôi làm các bài kiểm tra rất tốt và vào cuối ngày tôi rời trường tới Gaboronne học cách làm thế nào trở thành một nhân viên kế toán. Một lần nӳa việc đó rất dễ dàng với tôi. Tôi có thể nhớ tất cả các bảng số và hiểu ngay lập tức. Rồi ngày tiếp theo tôi có thể nhớ chính xác từng con số và viết tất cả chúng ra nếu cần. “Tôi có công việc tại ngân hàng và được thăng chức lần này tới lần khác. Bây giờ tôi là phó kế toán trưởng và không nghĩ mình có thể tiến xa hơn vì tất cả mọi người lo lắng rằng tôi sẽ làm họ trông thật ngớ ngẩn. Nhưng tôi không bận tâm. Tôi có mức lương rất cao và có thể hoàn thành mọi công việc vào lúc ba giờ chiều, thỉnh thoảng sớm hơn. Sau đó tôi đi mua sắm. Tôi có một ngôi nhà đẹp với bốn phòng và tôi rất hạnh phúc. Tôi nghĩ vào tuổi ba mươi tám có được tất cả nhӳng thứ đó là đủ rồi”. Cô Ramotswe mỉm cười. “Tất cả thật thú vị. Cô nói đúng. Cô đã làm tốt”. “Tôi rất may mắn”, Happy Bapetsi nói. “Nhưng rồi chuyện này xảy ra. Bố tôi quay trở về”. Ramotswe nén một tiếng thở dài. Cô không mong chuyện này; cô đã nghĩ chắc chỉ là vấn đề về bạn trai. Nhӳng ông bố là một vấn đề khác hoàn toàn. “Ông ấy chỉ gõ cửa”, Happy Bapetsi nói. “Đó là một chiều thứ Bảy và tôi đang nghỉ ngơi trên giường thì nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi thức dậy, đi tới cửa ra vào, và người đàn ông này ở đó, khoảng sau mươi tuổi, đứng đó với cái mũ trên tay. Ông ấy nói với tôi rằng ông là bố tôi và ông đã sống ở Bulawayo một thời gian dài nhưng bây giờ quay về Botswana và tới gặp tôi. “Cô có thể hiểu tôi choáng váng như thế nào. Tôi đã ngồi xuống hoặc tôi nghĩ hẳn mình đã ngất xỉu trong khi chờ đợi ông ấy nói tiếp. Ông ta nói chính xác tên của mẹ tôi và nói rằng ông xin lỗi trước kia đã không liên lạc gì. Rồi ông ta hỏi liệu ông có thể ở lại một trong nhӳng phòng trống không v ông chẳng còn chỗ nào để đi. “Tôi nói tất nhiên ông ta có thể ở lại. Theo một góc độ nào đó thì tôi rất hào hứng được gặp bố mình và cho rằng thật tốt nếu có thể đền bù tất cả nhӳng năm tháng đã mất và có ông sống cùng tôi, đặc biệt từ khi người mẹ đáng thương của tôi qua đời. Vì vậy tôi dọn giường cho ông và nấu một bӳa thịnh soạn có bít tết và khoai tây. Ông ta ăn rất nhanh rồi yêu cầu thêm nӳa. “Đó là khoảng thời ba tháng trước. Kể từ đó ông ta sống trong căn phòng đó và tôi làm mọi việc cho ông ta. Tôi làm bӳa sáng, nấu bӳa trưa trong bếp rồi làm bӳa tối muộn lúc đêm. Mỗi ngày tôi mua cho ông ta một chai bia và cùng mua ít quần áo mới cùng một đôi giày tốt. Tất cả việc ông ta làm là ngồi trên cái ghế trước cửa và nói tôi phải làm gì tiếp theo”. “Nhiều người đàn ông như thế”, Ramotswe ngắt lời. Happy Bapetsi gật đầu. “Người này đặc biệt giống thế. Ông ta không rửa cái nồi nào kể từ khi đến và tôi mệt mỏi khi phải chạy sau ông.Ông ta cũng tiêu rất nhiều tiền của tôi vào nhӳng viên vitamin và thịt khô thỏi. “Cô biết tôi sẽ không bӵc mình vì chuyện này, chỉ trừ một việc. Tôi không nghĩ ông ấy là cha đẻ của tôi. Tôi không có cách nào chứng minh điều này, nhưng tôi nghĩ người đàn ông này là một kẻ mạo danh. Ông ta đã nghe về gia đình tôi từ bố đẻ tôi trước khi ông qua đời và bây giờ chỉ giả vờ. Tôi nghĩ ông ta là người đang đi tìm một nhà dưỡng lão và rất vui mừng tìm thấy một nơi tốt như nhà tôi”. Ramotswe nhìn thẳng vào Happy Bapetsi đầy sửng sốt. Không nghi ngờ gì việc cô ấy đang nói là sӵ thӵc. Điều làm cô bӵc mình là sӵ vô liêm sỉ, sӵ mặt dày mày dạn của con người. Làm thế nào một người dám đến ở và lạm dụng sӵ giúp đỡ của người khác hoàn toàn xa lạ! Một mánh khóe lừa đảo! Một kiểu trộm hoàn toàn có thӵc! “Cô có thể giúp tôi không?” Happy Bapetsi hỏi. “Cô có thể tìm hiểu xem liệu người đàn ông này có thӵc sӵ là bố tôi không? Nếu đúng thì tôi sẽ trở thành một đứa con gái sẵn sàng làm tròn bổn phận và thừa nhận ông ta. Nếu ông ta không phải bố đẻ tôi, ông ta sẽ phải đi chỗ khác”. Ramotswe trả lời không chút ngập ngừng. “Tôi. Có thể mất một hoặc hai ngày, nhưng tôi sẽ tìm ra!” Tất nhiên nói dễ hơn làm. Ngày nay có các xét nghiệm máu, nhưng cô rất nghi ngờ liệu người này có đồng ý làm như thế không. Không, cô sẽ phải cố thử làm vài việc khôn khéo hơn, nhӳng việc sẽ chỉ ra liệu ông ấy có đúng là bố thật hay không, ngoại trừ việc cãi nhau. Cô dừng dòng suy nghĩ. Đúng rồi! Trong kinh thánh có nói về chuyện này. Cô nghĩ không biết Solomon đã làm cái gì nhỉ? Cô Ramotswe mượn chiếc áo y tá của bạn mình – Sister Gagwe. Nó hơi chật, đặc biệt ở chỗ cánh tay vì dù sao Sister Gogwe cũng nhỏ hơn cô. Nhưng khi cô mặc áo vào và cài biển tên y tá lên trông cô giống một y tá thӵc thụ của Bệnh viện Hoàng tử Marina. Cô nghĩ quả là sӵ ngụy trang khéo léo, và cô ghi nhớ để sử dụng lần sau. Khi lái xe tới nhà Happy Bapetsi trong chiếc xe tải nhỏ, cô suy ngẫm tại sao truyền thống giúp đỡ họ hàng của người Châu Phi lại làm hư hỏng con người. Cô biết một người đàn ông, một hạ sĩ cảnh sát, đã phải nuôi một người chú, hai người cô và người em họ thứ hai. Nếu bạn tin vào đạo đức của người Setswana cổ, bạn không thể từ chối cưu mang một người họ hàng, và có rất nhiều điều để nói về chuyện đó. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhӳng tên lang băm và nhӳng kẻ ăn bám có cơ hội dễ dàng hơn để hành nghề tại nơi nào khác. Cô nghĩ họ là nhӳng kẻ tàn phá hệ thống đất nước này. Họ là nhӳng kẻ đang làm cho nhӳng lề thói cũ mang tiếng xấu. Khi tới gần ngôi nhà cô tăng tốc độ. Đây là một chuyến đi làm việc thiện. Xét cho cùng, ông bố đang ngồi trên ghế trước cửa nhà kia sẽ nhìn thấy cô trong đám mây bụi. Ông bố ở đó, tất nhiên rồi, vì ông ta trông thấy chiếc xe tải nhỏ màu trắng quét thành một vòng trên sân. Ramotswe tắt máy và chạy ra khỏi xe, lao về phía ngôi nhà. “Tôi là Dumela”, cô giới thiệu vội vã. “Ông có phải là bố của Happy Bapetsi không?” Ông bố đứng dậy. “Đúng”, ông ta nói đầy tӵ hào. “Tôi là bố nó”. Ramotswe thở hổn hển như thể đang cố gắng lấy lại hơi. “Tôi rất tiếc phải báo cho ông biết đã xảy ra một vụ tai nạn. Happy đã bị ô tô cán và nhập viện trong tình trạng rất nguy kịch. Thậm chí bây giờ các bác sӻ vẫn đang tiến hành cổ”. Ông bố bật lên nhӳng tiếng rên rĩ: “Trời! Con gái tôi! Happy bé bỏng của tôi!” Ramotswe nghĩ ông này quả là một diễn viên giỏi, trừ phi… Không, cô tin vào trӵc giác của Happy hơn. Một cô gái có thể nhận ra bố đẻ của mình dù cho cô ta đã không gặp ông từ khi còn là một đứa bé. “Vâng”, cô tiếp tục. “Rất đáng buồn. Cô ấy rất yếu. Và họ cần nhiều máu để tiếp cho cô ấy”. Ông bố giận dӳ. “Họ phải truyền máu cho nó. Thật nhiều máu. Tôi có thể trả tiền”. “Vấn đề không phải là tiền”, Ramotswe nói. “Máu rất sẵn nhưng chúng tôi lại không có đúng nhóm máu. Chúng tôi sẽ phải lấy máu từ người trong gia đình cô ấy, và ông là người thân duy nhất của cô ấy. Chúng tôi buộc phải yêu cầu ông cho máu”. Ông bố nặng nhọc ngồi xuống. “Tôi là một ông già”, ông ta nói. Ramotswe cảm thấy sӵ việc đang tiến triển. Đúng, người đàn ông này là một kẻ mạo danh. “Lý do chúng tôi tới gặp ông”, cô nói, “vì cô ấy cần rất nhiều máu, chúng tôi sẽ phải lấy một nửa số máu của ông. Và việc đó rất nguy hiểm cho ông. Thӵc tế là ông có thể chết”. “Chết?” “Vâng”, Ramotswe nói, “nhưng ông là bố của cô ấy và chúng tôi hiểu ông sẽ làm việc này vì con gái mình. Bây giờ ông có thể đi ngay với tôi không? Đừng để sӵ việc trở nên quá muộn. Bác sӻ Moghile đang đợi”. Ông bố há hốc mồm, rồi ngậm miệng lại. “Đi nào”, Ramotswe nói, vươn tay ra và tóm lấy cổ tay ông ta. “Tôi sẽ giúp ông ra xe “Không”, ông ta nói. “Tôi không muốn làm việc này”. “Ông phải làm”, Ramotswe nói. “Bây giờ thì nhanh lên”. Ông bố lắc đầu. “Không”, ông ta đau đớn nói. “Tôi sẽ không đi. Cô biết đấy, tôi không phải là bố đẻ của Happy. Có sӵ hiểu nhầm ở đây”. Ramotswe bỏ cổ tay ông ta ra. Sau đó khoanh tay lại, đứng trước mặt ông ta và tuyên bố thẳng thừng: “Vậy ông không phải bố của Happy! Tôi hiểu rồi, hiểu rồi. Thế ông đang làm gì khi ngồi trên cái ghế kia và ăn thức ăn của cô ấy? Ông có biết Bộ luật Hình sӵ Botswana viết gì về loại người như ông không?” Ông bố nhìn xuống đất và lắc đầu. “Nào”, Ramotswe nói. “Ông đi vào nhà và lấy đồ của mình đi. Ông có năm phút. Sau đó tôi sẽ đưa ông ra tới trạm xe buýt và ông sẽ lên một chuyến xe. Thӵc sӵ ông sống ở đâu?” “Lobatse”, ông bố nói. “Nhưng tôi không thích quay lại đó”. “Được rồi”, cô nói. “Có thể nếu ông bắt đầu làm việc gì đó thay vì chỉ ngồi trên ghế ông hẳn sẽ thích nơi đó hơn. Ở đó bây giờ đang là vụ chanh. Một sӵ bắt đầu lại thì thế nào?” Ông bố trông thật đáng thương. “Vào trong!” cô ra lệnh. “Ông còn bốn phút”. Khi Happy Bapetsi về nhà cô ta phát hiện ra ông bố đã đi và căn phòng của ông được dọn sạch sẽ. Có một tờ giấy của Ramotswe trên bàn ăn. Cô ta đọc nó rồi mỉm cười. “Rốt cuộc đó không phải là bố đẻ của cô. Tôi đã tìm ra sӵ thӵc bằng cách tốt nhất. Ông ta cho tôi biết về bản thân mình. Có thể một ngày nào đó cô sẽ tìm thấy bố đẻ của mình. Hoặc có thể không. Nhưng trong thời gian này, cô có thể vui vẻ trở lại”. Chương 2 Toàn bộ những năm về trước Ramotswe nghĩ chúng tôi không quên. Cái đầu của chúng tôi có thể nhỏ nhưng chứa đầy kӹ niệm như bầu trời lúc bị bao kín bởi nhӳng bầy ong. Hàng nghìn và hàng nghìn kӹ niệm, mùi vị, địa điểm, nhӳng điều nhỏ nhặt đã xảy đến với chúng tôi và bất ngờ quay lại để nhắc chúng tôi nhớ chúng tôi là ai. Tôi là ai? Tôi là Precious Ramotswe, công dân của Botswana, con gái của Obed Ramotswe. Ông ấy là một thợ mỏ và không còn trên đời này nӳa. Cuộc đời của ông không ghi lại được. Ai sẽ ghi lại cuộc đời của nhӳng con người bình thường? Tôi là Obed Ramotswe, sinh năm 1930, sống ở gần Mahalapye. Mahalapye ở giӳa Gabornoe và Francistown, trên con đường dường như dài vô tận. Tất nhiên hồi đó nó còn là một con đường bụi bặm và đường xe lửa cӵc kỳ quan trọng. Đường ray xe lửa đi xuống từ Bulawayo, đi vào Botswana tại Plumtree phía bên này và chặn đầu tất cả con đường tới Mafikeng phía bên kia. Khi còn là một cậu bé, tôi từng ngắm nhӳng đoàn tàu khi chúng dừng lại chỗ đường tránh tàu. Chúng để lại nhӳng đám mây hơi nước lớn, và chúng tôi tranh nhau tới thật gần. Nhӳng người đốt lò quát tháo và người trưởng ga thổi còi, nhưng chẳng bao giờ họ có thể tống khứ được chúng tôi. Chúng tôi trốn sau nhӳng cái cây và nhӳng cái hộp và lao ra để xin nhӳng đồng xu từ nhӳng ô cửa sổ đóng kín trên tàu. Chúng tôi thấy nhӳng người da trắng nhìn ra cửa sổ trông như nhӳng hồn ma, và thỉnh thoảng họ ném cho chúng tôi mấy đồng xu Rhodesian – nhӳng đồng xu to bằng đồng có một cái lỗ ở giӳa. Nếu chúng tôi may mắn, họ sẽ ném cho một đồng xu bằng bạc nhỏ xíu gọi là “tickey” đủ mua một hộp nước xi-rô. Làng Mahalapye rải rác nhӳng túp lều gạch làm từ bùn nâu phơi khô dưới ánh mặt trời và một vài tòa nhà lợp mái tôn. Tất cả về Chính phủ hoặc ngành đường sắt, và dường như với chúng tôi nhӳng ngôi nhà đó thể hiện sӵ xa xỉ không thể có được. Có một ngôi trường do một giáo sĩ người Anglica và một phụ nӳ da trắng có khuôn mặt bị cháy nắng một nửa quản lý. Cả hai người họ đều nói tiếng Setswana, thứ tiếng không phổ biến, nhưng họ nhất quyết dạy chúng tôi bằng tiếng Anh dù cho có phải đánh đập để đẩy tiếng mẹ đẻ của chúng tôi ra ngoài sân chơi. Phía bên kia đường là sӵ khởi đầu của vùng đất đai rộng lớn chạy thẳng tới Kalahari. Nó là mảnh đất không có nét gì nổi bật, lộn xộn với nhӳng cây gai lùn. Trên nhӳng cành cây cao có nhӳng chú chim mỏ rừng với nhӳng cái lông đuôi dài kéo lê. Nó là một thế giới dường như không có điểm cuối, và tôi nghĩ trước kia hắn Châu Phi rất khác. Mảnh đất không có điểm tận cùng. Một người có thể đi bộ hay cưỡi ngӵa mãi mãi, và anh ta sẽ không bao giờ tới được bất cứ đâu. Bây giờ tôi sáu mươi tuổi và không nghĩ Chúa trời muốn tôi sống lâu hơn nӳa. Có lẽ tôi sẽ sống được thêm vài năm nӳa, nhưng tôi nghi ngờ chuyện này. Tôi gặp bác sĩ Moffat tại Bệnh viện Hà Lan Cải cách ở Mochudi để kiểm tra sức khỏe. Chỉ bằng việc nghe lồng ngӵc ông ấy đã biết tôi từng là một thợ mỏ và nói rằng nhӳng hầm mỏ có nhiều cách khác nhau để làm tổn thương một người đàn ông. Khi ông ấy nói, tôi nhớ tới một bài hát mà nhӳng người thợ mỏ Sotho thường hát. Họ hát rằng: “Nhӳng khu mỏ ăn thịt người. Ngay cả khi bạn đã rời khỏi nó, nhӳng khu mỏ có thể vẫn đang ăn thịt bạn”. Tất cả chúng ta đều biết đó là sӵ thӵc. Bạn có thể bị chết do đá rơi hoặc bạn có thể bị giết sau đó, khi mà việc đi vào lòng đất chỉ còn là một kӹ niệm hoặc thậm chí bạn sẽ gặp ác mộng lúc nửa đêm. Nhӳng hầm mỏ sẽ lấy lại nhӳng gì chúng mất. Giờ đây chúng đang lấy lại từ tôi. Vì thế tôi không ngạc nhiên gì khi nghe bác sĩ Moffat nói. Một số người không thể chịu nổi tin này. Họ cho rằng mình sẽ sống mãi mãi và họ khóc lóc kêu gào khi phát hiện ra thời điểm của mình đang tới gần. Tôi không cảm thấy như thế, và tôi không nhỏ nước mắt khi bác sĩ báo tin. Điều duy nhất làm tôi buồn là tôi sẽ phải rời xa Châu Phi khi tôi chết. Tôi yêu Châu Phi như yêu cha mẹ mình, khi chết rồi tôi sẽ nhớ mùi của Châu Phi, vì bất cứ nơi nào tôi sắp tới sẽ không có mùi, không có vị. Tôi không nói mình là một người dũng cảm. Tôi không hề. Nhưng dường như thӵc sӵ tôi không bận tâm tới tin tức này. Tôi có thể nhìn lại sáu mươi năm cuộc đời mình và suy nghĩ về mọi thứ mình đã trải qua và làm thế nào tôi bắt đầu từ con số không và kết thúc với gần hai trăm con gia súc. Và tôi có một cô con gái ngoan, một đ con gái trung thành. Nó chăm sóc tôi rất chu đáo và pha trà cho tôi trong lúc tôi ngồi đây dưới ánh mặt trời, nhìn về phía nhӳng ngọn đồi xa xa. Khi bạn nhìn nhӳng ngọn đồi từ một khoảng cách từ bất cứ đâu trên đất nước này, chúng là màu xanh dương. Ở đây cách xa biển. Giӳa chúng ta và bờ biển Angola và Namibia, và thậm chí chúng ta có cả một đại dương trống trải toàn màu xanh dương ở trên và xung quanh chúng ta. Không thủy thủ nào cô đơn hơn con người đang đứng giӳa mảnh đất của chúng ta với hàng dặm hằng dặm bao quanh anh ấy. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy biển mặc dù tôi đã từng làm việc với một người trong các hầm mỏ và anh ta mời tôi tới quê hương mình ở Zulu. Anh ấy kể rằng ở đó có nhӳng ngọn đồi xanh lá cây vươn tới tận Ấn Độ dương và từ cửa sổ nhà mình nhìn ra anh ra thấy nhӳng con tàu xa xa. Anh ấy nói phụ nӳ trong làng mình uống loại bia ngon nhất đất nước và một người đàn ông có thể ngồi dưới ánh mặt trời nhiều năm và không bao giờ làm bất cứ việc gì ngoại trừ việc tạo ra nhӳng đứa trẻ và uống bia làm từ ngô. Anh ấy nói nếu tôi đi cùng thì có thể kiếm cho tôi một cô vợ và họ có thể bỏ qua thӵc tế tôi không phải là một người Zulu – nếu tôi sẵn sàng trả cho bố vợ một khoản tiền. Nhưng tại sao tôi muốn tới Zulu? Tại sao tôi chưa từng muốn bất cứ thứ gì ngoại trừ việc sống ở Botswana và cưới một cô gái Botswana? Tôi nói với anh ta rằng Zulu thật thú vị, nhưng mỗi người đàn ông đều có một bản đồ quê hương trong trái tim mình và trái tim sẽ không bao giờ cho phép bạn được quên nó. Tôi kể cho anh ta nghe ở Botswana không có nhӳng ngọn đồi màu xanh lá cây và biển giống quê hương anh, nhưng chúng tôi có Kalahari và đất đai trải dài vô tận vượt cả sức tưởng tượng của anh ấy. Tôi kể rằng nếu một người đàn ông được sinh ra trên mảnh đất cằn cỗi thì dù anh ấy mơ về mưa cũng không thӵc sӵ muốn, anh ta sẽ không bận tâm tới việc mặt trời dội xuống. Vì thế tôi không bao giờ đi cùng anh ấy tới Zulu và tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy biển nӳa. Tuy nhiên quyết định đó không làm tôi buồn, không bao giờ. Giờ đây tôi ngồi đây, gần với cái chết, và nghĩ về mọi việc đã xảy ra với mình. Mặc dù một ngày qua đi nhưng tâm trí tôi không về với Chúa và không suy nghĩ về việc gì sẽ xảy ra khi mình chết đi. Tôi không sợ cái chết vì tôi không quan tâm tới sӵ đau đớn, và nỗi đau tôi cảm nhận lại thӵc sӵ có thể chịu đӵng được. Họ cho tôi nhӳng viên thuốc – nhӳng viên màu trắng to và họ bảo tôi uống chúng nếu cơn đau ngӵc quá mạnh. Nhưng nhӳng viên thuốc làm tôi buồn ngủ mà tôi lại muốn thức hơn. Rồi tôi nghĩ về Chúa và băn khoăn ngài sẽ nói cái gì với mình khi tôi đừng trước ngài. Một vài người nghĩ rằng Chúa là người da trắng. Chúa truyền giáo cho con người từ xa xưa và dường như suy nghĩ này ăn sâu vào trí óc mọi người. Tôi không nghĩ vậy bởi vì chẳng có sӵ khác biệt gì giӳa người da trắng và người da đen; chúng ta như nhau; chúng ta đều là con người. Và dù sao đi nӳa Chúa đã ở đây trước khi nhӳng người truyền giáo tới. Chúng ta gọi ngài bằng một cái tên khác, và ngài đã không sống trên đất của người Do Thái; Ngài sống ở đây, ở Châu Phi, trong nhӳng hang đá, trên bầu trời, trên nhӳng mảnh đất chúng ta biết ngài thích tới. Khi bạn chết đi, bạn sẽ tới nơi nào khác và Chúa cũng sẽ tới đó, nhưng đặc biệt bạn sẽ không thể được lại gần ngài. Tại sao ngài lại muốn như vậy? Ở Botswana có câu chuyện về hai đứa bé, một anh trai và một em gái. Chúng được đưa lên thiên đàng nhờ một cơn gió lốc và thấy rằng thiên đàng tràn ngập nhӳng con gia súc màu trắng xinh đẹp. Đó là lý do tại sao tôi lại nghĩ về thiên đàng, và tôi hy vọng đó là sӵ thӵc. Tôi hy vọng rằng khi chết đi tôi sẽ thấy mình ở nơi có nhӳng con gia súc như thế, nhӳng con gia súc có hơi thở thơm tho, và tất cả chúng là của tôi. Nếu đó là nhӳng gì chờ đợi tôi thì tôi sẵn sàng đi ngay ngày mai, hay thậm chí ngay bây giờ, ngay giây phút này. Tôi nghĩ mình nên nói lời tạm biệt với Precious và cầm bàn tay con bé khi nhắm mắt. Hẳn sẽ hạnh phúc lắm. Tôi yêu đất nước tôi, và tôi tӵ hào là người Botswana. Chúng tôi không có nhӳng tù nhân chính trị, và không bao giờ có bất cứ tù nhân nào. Chúng tôi có nền dân chủ. Chúng tôi thận trọng. Ngân hàng Botswana đầy tiền, từ kim cương. Chúng tôi chẳng sở hӳu gì hết. Nhưng trong quá khứ nhӳng thứ này thật tồi tệ. Trước khi chúng tôi xây dӵng lại đất nước chúng tôi phải đi xuống Nam Phi làm việc. Chúng tôi tới nhӳng hầm mỏ, chỉ nhӳng người đến từ Lesotho, Mozambicque và Malawi cùng tất cả nhӳng quốc gia kia. Nhӳng hầm mỏ lấy đi nhӳng người đàn ông của chúng tôi và để người già và trẻ em ở nhà. Chúng tôi đào vàng và kim cương làm giàu cho nhӳng người da trắng. Họ xây nhӳng ngôi nhà lớn với nhӳng bức tường cùng nhӳng chiếc ô tô còn chúng tôi đào tro đổ xuống dưới chân họ, mang nhӳng viên đá cho họ xây nhà. Tôi tới nhӳng hầm mỏ khi mới mười tám tuổi. Sau đó chúng tôi có Chính phủ bảo hộ Bechuanaland và người Anh điều hành đất nước để bảo vê chúng tôi khỏi người Bua – người Phi gốc Hà Lan (hay đó là nhӳng gì họ nói). Có một Ủy viên hội đồng ở Mafikeng, trên biên giới Nam Phi, và lão ta lên đường nói chuyện với nhӳng người đứng đầu. Lão ta sẽ nói: “Mày phải làm cái này. Mà phải làm cái kia”. Và tất cả bọn họ vâng lời lão ta vì họ hiểu rằng nếu không làm thế lão sẽ khiến họ m nhà Patelt việc. Nhưng vài người trong số họ thông minh hơn. Trong lúc lão người Anh nói “Mày làm cái này”, họ sẽ nói “Vâng, vâng thưa ngài, tôi sẽ làm việc đó” mà thӵc ra sau lưng lão, toàn bộ thời gian họ làm việc khác hoặc chỉ giả vờ làm cái gì đó. Vì thế trong nhiều năm chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Đó là một hệ thống tốt của chính phủ. Họ muốn làm nhiều việc cùng một lúc; họ thường xuyên vướng bận suy nghĩ mình có thể làm gì tiếp theo. Đó không phải là điều mọi người cần. Mọi người cần được một mình để chăm sóc gia súc của họ. Sau đó chúng tôi rời Mahalapye và tôi sống ở Mochudi, nơi họ hàng bên mẹ tôi sinh sống. Tôi thích Mochudi và sẽ hạnh phúc nếu được sống ở đó, nhưng bố tôi nói tôi nên tới các hầm mỏ vì đất đai của ông không đủ nuôi tôi và vợ tôi. Chúng tôi không có nhiều gia súc và chỉ trồng đủ lương thӵc cung cấp cho mình trong năm. Do đó khi có tuyển dụng lái xe tải làm việc ngoài biên giới tôi đã theo họ và họ đặt tôi lên một cái cân, nghe lồng ngӵc và bắt tôi leo lên leo xuống một cái thang trong mười phút. Sau đó một người đàn ông nói tôi sẽ trở thành một thợ mỏ giỏi và họ ghi tên tôi vào một mảnh giấy. Họ hỏi tên ông chủ của tôi và hỏi liệu tôi đã từng có vấn đề với cảnh sát chưa. Tất cả chỉ có vậy. Ngày hôm sau tôi tiếp nhận một chiếc xe tải. Tôi có một chiếc hòm mà bố mua cho tôi ở cửa hàng của người Ấn Độ. Tôi chỉ có một đôi giầy, một chiếc áo sơ-mi rộng và vài cái quần đơn giản, ít thịt khô thỏi mà mẹ làm cho. Đấy là tất cả nhӳng gì tôi có. Tôi để cái hòm lên nóc xe tải và rồi tất cả mọi người trong gia đình tới tiễn tôi bắt đầu hát. Nhӳng người phụ nӳ khóc lóc và chúng tôi vẫy tay tạm biệt. Nhӳng thanh niên thường cố gắng không khóc hay tỏ ra buồn bã, nhưng tôi biết tất cả trái tim chúng tôi đã giá lạnh. Mất mười hai tiếng để đến Johannesnburg vì ngày đó đường xá gồ ghề và nếu xe tải chạy quá nhanh có thể bị gãy trục. Chúng tôi đi qua tây Transvaal, đi qua hơi nóng, bị nhốt trong xe tải như nhӳng con gia súc. Cách mỗi tiếng người lái xe sẽ dừng lại và đi vòng ra phía sau đưa nhӳng bi đông nước đã được họ đổ đầy ở mỗi thị trấn chúng tôi đi qua. Các bạn chỉ được phép cầm bi-đông vài giây và trong thời gian đó cố uống càng nhiều nước mình có thể. Nhӳng người đã trải qua hành trình này lần thứ hai hoặc lần thứ ba đều biết chuyện này và họ có nhӳng chai nước để chia sẻ nếu bạn bị khát khô. Tất cả chúng tôi cùng ở Botswana, và một người không thể thấy nổi một nạn dân Botswana. Nhӳng người đàn ông lớn tuổi nói rằng bây giờ họ phải ký nhận làm việc cho các hầm mỏ, họ không còn là nhӳng cậu bé nӳa đâu. Họ nói rằng chúng tôi sẽ thấy ở Johannesburg nhӳng việc mà chúng tôi chưa bao giờ nghĩ là chúng có thӵc, và nếu chúng tôi yếu ớt hoặc ngu ngốc, hay nếu chúng tôi không làm việc thӵc sӵ chăm chỉ thì kể từ giờ trở đi cuộc đời của chúng tôi sẽ chẳng có gì ngoài sӵ đau đớn. Họ nói chúng tôi sẽ thấy sӵ độc ác và sӵ yếu đuối, nhưng nếu chúng tôi bám lấy một người Botswana và làm việc như nhӳng người lớn tuổi hơn thì chúng tôi sẽ sống sót. Tôi nghĩ có thể họ đang phóng đại. Tôi nhớ nhӳng thanh niên lớn hơn nói với chúng tôi về trường học đầu tiên mà chúng tôi phải tới và cảnh báo chúng tôi về cái chỉ huy đầu óc chúng tôi. Tất cả nhӳng gì họ nói chỉ để dọa dẫm chúng tôi, và thӵc tế khác hoàn toàn. Nhưng nhӳng người đàn ông này lại nói hoàn toàn đúng. Cái chỉ huy đầu óc chúng tôi chính xác là cái họ đã tiên đoán, và thậm chí còn tồi tệ hơn. Ở Johannesburg họ đào tạo chúng tôi trong hai tuần. Tất cả chúng tôi khá cân đối và khỏe mạnh, nhưng chẳng ai bị đưa xuống hầm mỏ cho đến khi anh khỏe mạnh hơn. Vì vậy họ đưa chúng tôi tới một tòa nhà mà họ đã làm nóng bằng hơi và bắt chúng tôi nhảy lên nhảy xuống nhӳng băng ghế dài khoảng bốn tiếng mỗi ngày. Việc này là quá sức với vài người và họ suy sụp thế lӵc rồi bị trả về. Nhưng chẳng biết làm sao tôi đã sống sót qua thử thách đó và vượt qua chặng tiếp theo của khóa đào tạo. Họ kể cho chúng tôi biết chúng tôi sẽ được đưa xuống các hầm mỏ như thế nào và cho biết về công việc chúng tôi sẽ phải làm. Họ nói về sӵ an toàn và cảnh báo nếu chúng tôi bất cẩn đá sẽ rơi xuống đè chết chúng tôi. Họ đưa một người đàn ông cụt hai chân tới và đặt anh ta lên một cái bàn rồi để anh ra kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với anh ấy. Họ dạy chúng tôi tiếng Funagalo, ngôn ngӳ được dùng để ra các mệnh lệnh dưới lòng đất. Đó là một ngôn ngӳ kì lạ. Nhӳng người Zulu cười phá lên khi nghe ngôn ngӳ đó bởi vì có khá nhiều từ Zulu trong đó nhưng lại không phải là tiếng Zulu. Nó là một ngôn ngӳ rất tốt để bảo mọi người làm việc gì. Có nhiều từ ra lệnh như đẩy, cầm lấy, xô đẩy thô bạo, mang vác, chất đống, và không có từ nào về tình yêu, hạnh phúc hay nhӳng âm thanh của tiếng chim buổi sáng. Rồi chúng tôi đi xuống các hầm mỏ và được chỉ cho việc phải làm. Họ đẩy chúng tôi vào nhӳng cái cũi ở dưới có nhӳng bánh xe lớn, và nhӳng cái cũi này lăn đi nhanh như nhӳng con diều hâu đang bay trên con mồi của mình. Dưới đó họ có nhӳng tàu hỏa nhỏ chất đầy đá xanh và bụi. Họ đẩy chúng tôi lên đó, đưa chúng tôi tới cuối nhӳng đường hầm dài và tối tăm. Công việc của tôi là chất đá sau khi nó bị nổ tung và tôi làm việc này bảy tiếng mỗi ngày. Tôi trở nên khỏe mạnh, nhưng toàn bộ thời gian chỉ có bụi, bụi, bụi. Một vài hầm mỏ nguy hiểm hơn nhӳng chỗ khác, và tất cả chúng tôi biết là cái nào. Trong một hầm mỏ an toàn bạn hiếm thấy nhӳng cái cáng trên nền đất. Ngược lại, ở một hầm mỏ nguy hiểm nhӳng cái cáng thường xuyên được mang ra và bạn thấy nhӳng người đàn ông được đưa vào trong nhӳng cái cũi đang kêu khóc vì vết thương, hoặc thậm chí tồi tệ hơn là sӵ im lặng ở dưới nhӳng tấm chăn đỏ nặng nề. Tất cả chúng tôi hiểu cách duy nhất để sống sót là gia nhập vào một đội mà mọi người nhạy cảm với đá. Đây là cảm giác mà mọi thợ mỏ có. Anh ta phải có khả năng thấy được đá đang làm gì – nó đang cảm thấy thế nào – và phải biết khi nào cần thêm sӵ trợ giúp. Nếu một hoặc hai người trong đội không có được cảm giác đó thì cũng thành vấn đề với nhӳng người thợ giỏi khác. Đá sẽ rơi xuống cả thợ giỏi và thợ dốt. Có một việc khác ảnh hưởng tới các cơ hội sống sót của bạn, và điều này xuất phát từ loại thợ mỏ da trắng. Nhӳng thợ mỏ da trắng phụ trách các đội, nhưng nhiều người trong số họ lại làm việc rất ít. Nếu một đội tốt thì người đội trưởng biết chính xác phải làm cái gì và làm như thế nào. Thợ mỏ da trắng giả vờ ra lệnh, nhưng anh ta biết việc đó là của đội trưởng, người thӵc sӵ làm việc. Nhưng một gã thợ mỏ da trắng ngu ngốc – thӵc ra có vô số tên như thế - sẽ rất vất vả để chỉ huy đội của mình. Hắn ta sẽ la hét và đánh nhӳng người thợ nếu hắn nghĩ họ không làm việc nhanh nhẹn và việc này rất nguy hiểm. Thậm chí khi đá rơi, tên da trắng chẳng bao giờ ở đó. Hắn ta sẽ trở xuống đường hầm với nhӳng tên da trắng khác, đợi chúng tôi báo cáo rằng công việc đã hoàn thành. Chẳng lạ gì khi một tên da trắng đánh công nhân của mình nếu hắn nổi nóng. Chúng không định làm thế nhưng nhӳng đội trưởng luôn nhắm mắt làm ngơ và để cho bọn họ quen với việc đó. Thậm chí chúng tôi không được phép đánh trả, chẳng gì hết ngoài việc hứng chịu nhӳng cú đánh. Nếu bạn đánh một người da trắng thì bạn toi đời. Cảnh sát mỏ sẽ đợi bạn ở ngay cửa hầm và bạn có thể bị ngồi tù một hoặc hai năm. Họ tách chúng tôi ra vì đó là cách người da trắng làm việc. Tất cả người Swazi trong một nhóm, người Zulu ở một nhóm khác và người Malawia ở nhóm khác. Và cứ thế tiếp tục. Mọi người sống cùng người của mình và phải nghe lời đội trưởng. Nếu bạn không tuân theo và đội trưởng nói rằng một người đang gặp vấn đề thì họ sẽ trả bạn về nhà hoặc sắp xếp để cảnh sát đánh bạn cho tới khi bạn biết điều trở lại. Tất cả chúng tôi đều sợ người Zulu dù cho tôi có một anh bạn người Zulu tốt bụng. Người Zulu nghĩ rằng họ giỏi hơn bất cứ ai trong chúng tôi và thỉnh thoảng họ gọi chúng tôi là đàn bà. Nếu có một vụ đánh nhau thì hầu hết là giӳa người Basotho và người Zulu, nhưng không bao giờ là người Botswana. Chúng tôi không thích đánh nhau. Khi một người Botswana say xỉn vô tình đi tha thẩn vào nhà tập thể của người Zulu vào một tối thứ Bảy, họ sẽ đánh anh ta bằng roi tê giác và vứt anh ta nằm trên đường rồi chạy xe đè lên. May sao một xe cảnh sát thấy và cứu thoát anh ấy, nếu không anh ấy sẽ bị giết chết. Tất cả nhӳng người đi tha thẩn vào khu tập thể của họ đều có kết quả như vậy. Tôi làm việc trong các hầm mỏ đó nhiều năm và tích cóp được tất cả số tiền công của mình. Nhӳng người khác thì tiêu tiền vào các phụ nӳ ở thị trấn, rượu chè hoặc nhӳng bộ quần áo lạ lùng. Tôi không mua gì ngay cả một chiếc máy hát. Tôi gửi tiền về nhà thông qua ngân hàng Tiêu chuẩn và sau đó dùng tiền đó mua gia súc. Mỗi năm tôi mua vài con bò cái và để cho người em họ chăm sóc. Chúng sinh con, và từ từ đàn gia súc của tôi nhiều lên. Tôi nghĩ mình nên ở lại các hầm mỏ một thời gian nӳa bởi tôi chưa từng chúng kiến điều kinh khủng nào. Chuyện đó xảy ra sau khi tôi ở đó khoảng mười lăm năm. Tôi đã được giao một công việc tốt hơn nhiều, trợ lý cho người đặt thuốc nổ. Họ sẽ không đưa cho chúng tôi nhӳng giấy phép đặt thuốc nổ vì đó là công việc mà chỉ nhӳng người da trắng làm thôi. Tuy nhiên tôi được giao công việc mang thuốc nổ cho người đặt thuốc nổ và giúp anh ra đặt kíp nổ. Đây là một công việc tốt và tôi thích người làm việc chung với mình. Một lần anh ta để quên vài thứ trong đường hầm – cái hộp thiếc đӵng bánh xăng uých – và bảo tôi tìm nó. Vì thế tôi đi xuống đường hầm mà anh ta đang làm việc và tìm cái hộp đó. Đường hầm có nhӳng bóng đèn chiếu sáng gắn trên mái dọc đường nên khá an toàn để đi. Tuy nhiên tôi vẫn phải cẩn thận vì đâu đó có nhӳng đường hầm lớn đã được phá đá. Nhӳng đường hầm này dày hai trăm bước chân và họ mở rộng từ các phía của đường hầm để dẫn xuống mỏ được khai thác khác, giống như nhӳng con mối dưới lòng đất. Lần này tới lần khác nhӳng người đàn ông cãi nhau về nhӳng cái mỏ này và luôn luôn là lỗi của họ. Họ không xem xét mình đang đi ở đâu, hoặc mình đang đi dọc một đường hầm tối tăm khi mà pin trong đèn bão đang yếu dần. Thỉnh thoảng chẳng có lý do gì, một người vượt qua dễ dàng khó khăn, hoặc anh ra đã không may mắn và không còn muốn sống nӳa. Bạn có thể không bao giờ nói: có nhiều bánh xăng uých trong trái tim nhӳng con người xa quê hương. Tôi quành ở một ngã tư trong đường hầm và phát hiện ra mình ở trong một khoang tròn. Có một cái mỏ nӳa cuối đường này và có một biển cảnh báo. Bốn người đàn ông đứng bên bờ mỏ và đang giӳ chân tay một người khác. Khi tôi tới ngã tư, họ nh lên và ném anh ta về phía trước, ném qua cái mỏ và rơi vào bóng tối. Người đàn ông thét lên bằng tiếng Xhosa, và tôi nghe được điều anh ấy nói. Anh ta nói cái gì đó về một đứa bé, nhưng tôi không thể kịp nghe hết vì tôi không giỏi tiếng Xhosa lắm. Rồi anh ta chết. Tôi đứng im ở đó. Nhӳng người đàn ông kia vẫn chưa nhìn thấy tôi, nhưng chợt một người quay lại và hét lên bằng tiếng Zulu. Rồi bọn họ chạy về phía tôi. Tôi quay người lại và chạy ngược đường hầm. Tôi biết nếu để họ bắt được thì tôi sẽ phải đi theo nạn nhân kia xuống mỏ. Đó không phải một cuộc đua tôi có thể để mình thất bại. Mặc dù tôi đã bỏ chạy, nhưng nhӳng người đó đã nhìn thấy tôi và tôi sẽ bị giết. Tôi đã trông thấy vụ giết người và có thể trở thành nhân chứng, vì vậy tôi biết mình không thể ở lại các khu mỏ nӳa. Tôi nói chuyện với người đặt thuốc nổ. Anh ta là một người tốt và lắng nghe tôi nói khi tôi bảo sẽ ra đi. Không có một người da trắng nào khiến tôi có thể nói ra câu chuyện khủng khiếp đó, trừ người đàn ông này. Anh ta cố gắng thuyết phục tôi tới gặp cảnh sát. “Hãy kể cho họ việc anh nhìn thấy”, anh ta nói bằng tiếng Afrikaan. “Kể cho họ. Họ có thể bắt nhӳng tên Zulu đó và treo cổ chúng lên”. “Tôi không biết nhӳng người đàn ông đó là ai. Họ sẽ bắt tôi trước. Tôi sẽ về nhà thôi”. Anh ta nhìn tôi và gật đầu. Rồi anh ấy cầm lấy bàn tay tôi và lắc lắc. Đây là lần đầu tiên một người da trắng làm thế với tôi. Vì vậy tôi gọi anh ấy là anh trai, cũng là lần đầu tiên tôi làm thế với một người da trắng. “Anh hãy về nhà với vợ mình”, anh ấy nói. “Nếu một người đàn ông xa vợ quá lâu thì cô ấy sẽ bắt đầu lo lắng cho anh ta. Tin tôi đi. Về nhà và cho cô ấy nhiều đứa trẻ nhé”. Tôi âm thầm rời khỏi khu mỏ, giống như một tên trộm, và trở về Botswana năm 1960. Tôi không thể kể cho bạn trái tim tôi như thế nào khi vượt qua biên giới quay về Botswan và bỏ lại Nam Phi sau lưng mình mãi mãi. Ở nơi đó tôi cảm thấy mỗi ngày mình đều có thể chết. Sӵ nguy hiểm và bất hạnh treo trên đầu Johannesburg như một đám mây, và tôi không bao giờ thấy hạnh phúc ở đó. Ở Boswana lại khác. Không có nhӳng con chó; không có totsis với nhӳng con dao đợi để cướp bóc bạn; mỗi sáng bạn không phải dậy sớm để nghe tiếng mӻ nhân ngư khóc than gọi bạn xuống lòng đất nóng bỏng. Ở đây cũng không có nhӳng đám người đến từ nhӳng nơi xa xôi, tất cả đều nhớ nhà, tất cả đều muốn tới một nơi nào khác. Tôi đã ra tù – một nhà tù khổng lồ, đầy tiếng rên rỉ ở dưới ánh mặt trời. Khi tôi về nhà, bước xuống xe buýt ở Mochudi, nhìn thấy nhӳng ngọn đồi và nơi của người đứng đầu cùng nhӳng con dê, tôi chỉ đứng và khóc. Một người đàn ông tiến về phía tôi – một người tôi không biết – anh ta đặt tay lên vai tôi và hỏi tôi vừa trở về từ nhӳng khu mỏ phải không. Tôi trả lời và anh ta chỉ gật đầu rồi buông tay ra cho đến khi tôi ngừng khóc. Rồi anh ta cười và bỏ đi. Anh ta thấy vợ tôi đến đón, và anh ta không muốn cản trở sӵ đoàn viên này. Tôi đã lấy vợ được ba năm dù cho chúng tôi gặp nhau rất ít kể từ khi kết hôn. Tôi từ Johannesburg về thăm nhà khoảng một tháng một năm một lần, và đó là tất cả khoảng thời gian chúng tôi sống cùng nhau. Sau chuyến thăm cuối cùng vợ tôi mang thai, và con gái bé nhỏ của tôi ra đời trong khi tôi vẫn ở xa. Bây giờ tôi đã được gặp con bé. Vợ tôi bế con đón tôi ở bến xe buýt. Cô ấy đứng đó với đứa con trên tay. Với tôi, đứa con giá trị hơn tất cả vàng lấy được từ các khu mỏ ở Johannesburg. Precious giống mẹ, một phụ nӳ béo tốt. Con bé chơi trong sân bên ngoài ngôi nhà và cười vang mỗi khi tôi bế nó. Tôi có một con bò cái cho sӳa tốt, và tôi giӳ nó cho Precious. Chúng tôi cũng cho con bé uống nhiều xi-rô và ăn trứng hàng ngày. Mọi người nói con bé là đứa trẻ xinh đẹp nhất ở Bechuanaland và có nhiều phụ nӳ ở cách hàng dặm tới ngắm và bế con bé. Sau đó vợ tôi, mẹ của Precious qua đời. Chúng tôi sống ở ngoại ô Mochudi và vợ tôi đi từ nhà tới thăm bà cô của mình sống ở gần đường xe lửa Francistown. Cô ấy mang thức ăn tới đó vì bà cô đã quá già để tӵ chăm sóc bản thân và bà ấy chỉ có một đứa con trai bị bệnh không thể đi xa được. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Người ta nói rằng vì có một cơn bão và có sét nên cô ấy bỏ chạy mà không nhìn mình đang chạy về đâu. Nhưng cô ấy đã chạy trên đường xe lửa khi chuyến tàu từ Bulawayo chạy tới và đâm vào cô. Người lái tàu rất ân hận nhưng anh ta hoàn toàn không nhìn thấy cô ấy, có lẽ đó là sӵ thӵc. Người em họ của tôi tới chăm sóc Precious. Cô ấy m cho con bé, đưa nó tới trường và nấu ăn. Tôi quá đau buồn, và thầm nghĩ: Giờ đây tôi chẳng còn gì trên cuộc đời này ngoài Precious và đàn gia súc. Trong sӵ đau khổ, tôi đi ra chuồng nhốt gia súc để kiểm tra chúng và trả tiền cho nhӳng cậu bé chăn gia súc. Bây giờ tôi có nhiều gia súc hơn và thậm chí tôi còn nghĩ tới việc mua một cửa hàng. Nhưng tôi quyết định đợi và để cho Precious mua cửa hàng sau khi tôi chết đi. Hơn nӳa, bụi của các hầm mỏ đang tàn phá lồng ngӵc tôi, và tôi không thể đi nhanh hay nâng đồ vật. Một ngày trên đường về nhà từ chuồng gia súc tôi đã đi trên con đường chính nối Francistown với Gaborone. Đó là một ngày nóng rӵc và tôi đang ngồi dưới một cái cây bên lề đường đợi xe buýt vì hôm nay xe tới muộn hơn thường ngày. Hơi nóng làm tôi buồn ngủ nhưng tôi bị âm thanh của chiếc ô tô đang tới gần đánh thức. Đó là một cái ô tô to, tôi nghĩ nó là ô tô của Mĩ, và có một người đàn ông đang ngồi đằng sau. Người lái xe tiến tới tôi và nói với tôi bằng tiếng Setswana mặc dù biển số xe là từ Nam Phi. Người lái xe nói có một vết nứt ở bộ tản nhiệt và hỏi tôi có biết chỗ nào họ có thể lấy nước không. Khi chuyện đó xảy ra, có một bể nước cho gia súc dọc con đường dẫn tới chuồng gia súc của tôi, vì thế tôi đi với người lái xe và chúng tôi đổ đầy một can nước. Khi chúng tôi quay lại đổ nước vào bộ tản nhiệt, người đàn ông ngồi ghế sau đã đi ra và đang nhìn tôi. Ông ta mỉm cười để thể hiện lòng biết ơn sӵ giúp đỡ của tôi, và tôi cười đáp lại. Rồi tôi nhận ra tôi biết người đàn ông này, và đó là người quản lý tất cả các hầm mỏ ở Johannesburg – một trong số nhiều người của ngài Oppenheimer. Tôi đi về phía ông ấy và giới thiệu tôi là ai. Tôi nói rằng mình là Ramotswe, từng làm việc ở các khu mỏ của ông ấy, và tôi xin lỗi về việc mình đã ra đi sớm. Ông ấy cười lớn và nói rằng tôi thật tốt vì đã làm việc nhiều năm ở các hầm mỏ. Ông nói tôi có thể lên xe và ông ấy sẽ đưa tôi về Mochudi. Tôi đã về Mochudi trên xe của ông ấy, và người đàn ông quan trọng này vào nhà tôi. Ông gặp Precious và khen con bé rất ngoan. Sau đó ông đã uống chút trà rồi nhìn đồng hồ đeo tay. “Bây giờ tôi phải quay lại”, ông nói. “Tôi phải quay lại Johannesburg”. Tôi nói rằng vợ ông hẳn sẽ tức giận nếu ông không về đúng giờ ăn. Ông nói có thể là vậy. Chúng tôi đi ra ngoài. Ông mở túi và lấy ví ra. Tôi quay đi trong khi ông mở nó… Tôi không muốn lấy tiền nhưng ông cứ nài nỉ. Ông bảo rằng tôi đã từng là người của ngài Oppenheimer và ngài Oppenheimer thích chăm sóc người của mình. Rồi ông đưa cho tôi hai trăm đồng ran (đơn vị tiền tệ ở Cộng hòa Nam Phi), bảo tôi dùng nó mua một con bò đӵc vì tôi vừa bị mất một con. Ông hài lòng vì việc làm này. Tôi chúc ông thượng lộ bình an và ông bảo tôi nên sống yên ổn. Rồi chúng tôi chia tay nhau và tôi không bao giờ gặp người bạn này lần nào nӳa mặc dù ông luôn ở trong trái tim tôi. Chương 3 Bài học về những cậu bé và những con dê Obey Ramotswe sửa soạn một căn phòng phía sau ngôi nhà nhỏ ở rìa làng mà ông xây cho mình lúc ông trở về từ nhӳng hầm mỏ cho cô em họ. Ban đầu ông định biến nơi đây thành nhà kho chứa nhӳng cái hòm thiếc và nhӳng cái chăn thừa cùng nhӳng bình dầu hỏa dùng để nấu ăn, nhưng bất cứ đâu cũng có chỗ cho nhӳng thứ này. Thêm một cái giường, một tủ chén bát nhỏ và quét vôi trắng các bức tường, căn phòng nhanh chóng biến thành một chỗ ở. Theo con mắt của cô em họ, căn phòng lộng lẫy quá sức tưởng tượng của mình. Sau việc chồng cô bỏ đi sáu năm về trước, cô ấy đã quay về sống cùng với mẹ và bà ngoại và được ngủ trong một căn phòng chỉ có ba bức tường, một trong số chúng còn chưa chạm tới mái nhà. Họ đối xử với cô bằng sӵ khinh rẻ vì đối với nhӳng con người cổ lỗ, họ tin rằng một phụ nӳ bị chồng bỏ rơi chắc chắn sẽ chẳng còn thể diện gì. Tất nhiên họ phải mở cửa cho cô, nhưng đó là nghĩa vụ hơn là sӵ yêu mến. Chồng cô bỏ cô vì cô không sinh đẻ được. Đó là số phận khó có thể tránh được dành cho nhӳng phụ nӳ không có con. Cô đã chi một số tiền nhỏ để nhờ sӵ giúp đỡ của nhӳng thầy thuốc gia truyền. Một trong số họ đã hứa rằng cô sẽ mang thai trong vòng vài tháng chӳa trị. Ông ta đã đưa rất nhiều thảo dược, bột vỏ cây, và khi nhӳng loại thuốc này không công hiệu ông ta quay ra dùng bùa chú. Một vài bùa yêu thuốc lú làm cô phát bệnh, và một lần suýt giết chết cô. Chuyện này chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu đem lại sӵ hài lòng nhưng bệnh vô sinh vẫn vậy và cô hiểu rằng chồng mình đang mất kiên nhẫn. Sau đó anh ta nhanh chóng bỏ đi. Anh ta viết cho cô một lá thư từ Lobatse và tӵ hào kể cho cô biết vợ mới của anh ta đang mang thai. Rồi một năm rưỡi sau, một bức thư ngắn kèm bức ảnh của con anh ta được gửi tới cho cô. Chẳng có đồng xu nào được gửi về, và đó là lần cuối cùng cô nhận được tin tức của anh ta. Giờ đây, ôm Precious trong đôi tay, đứng trong căn phòng của chính mình với bốn bức tường quét vôi trắng chắc chắn, cô thӵc sӵ hạnh phúc. Giống như tất cả mọi người, cô cho phép Precious ngủ cùng mình và nằm thức trắng cả đêm để lắng nghe tiếng thở của đứa trẻ. Cô vuốt ve da con bé, cầm bàn tay nhỏ xíu giӳa nhӳng ngón tay của mình, thán phục sӵ hoàn hảo của thân thể con bé. Khi Precious ngủ suốt buổi trưa nóng nӵc, cô ngồi bên cạnh con bé, đan và khâu nhưng chiếc áo khoác và tất nhỏ xíu màu đỏ nhạt và xanh dương, và đuổi nhӳng con ruồi đang quấy rầy giấc ngủ của nó. Obey cũng hài lòng. Ông đưa tiền cho cô em họ mỗi tuần để mua thức ăn cho cả nhà và dành riêng một chút tiền tiêu vặt mỗi tháng. Cô xoay sở rất giỏi với các khoản tiền, và lúc nào cô cũng dành số tiền còn dư mua cái gì đó cho Precious. Obey không bao giờ có cơ hội quở trách cô, hoặc tìm ra sӵ thiếu sót trong việc dạy dỗ con gái ông của cô. Mọi việc thật hoàn hảo. Người em họ muốn Precious trở nên thông minh. Bản thân cô cũng tӵ học một chút, tuy nhiên cô đã cố gắng đọc sách và duy trì việc đó, và bây giờ cô cảm giác được mọi khả năng của sӵ thay đổi. Giờ đây đã có một đảng chính trị mà phụ nӳ có thể tham gia, mặc dù vài người đàn ông càu nhàu về việc này và nói rằng nó đang gây ra rắc rối. Phụ nӳ đang bắt đầu nói chuyện với nhau về số phận của mình. Tất nhiên chẳng ai công khai thách thức nam giới, nhưng giờ đây khi phụ nӳ nói chuyện với nhau đã có nhӳng lời xì xào bàn tán và nhӳng cái nhìn trao đổi. Cô nghĩ về cuộc đời mình; về cuộc hôn nhân vội vàng với người đàn ông cô gặp vài lần; về nhӳng phụ nӳ không có khả năng sinh đẻ như mình. Cô nhớ về nhӳng năm tháng sống trong căn phòng có ba bức tường cùng nhӳng công việc đổ lên đầu cô, không thù lao. Một ngày nào đó phụ nӳ sẽ có đủ khả năng cất tiếng nói của mình, có lẽ thế, và sẽ chỉ ra cái gì sai. Nhưng họ cần đủ khả năng để làm việc đó Cô ấy bắt đầu dạy Precious đếm. Họ đếm nhӳng con dê và gia súc. Họ đếm nhӳng cậu bé đang chơi trong đám bụi. Họ đếm cây, đặt cho mỗi cây một cái tên: cây cong; cây không lá, cây có nhӳng con sâu mopani thích ẩn mình, cây không có chim đậu. Rồi cô ấy nói: “Nếu chúng ta đốn ngã cái cây trông giống như một ông lão thì còn lại bao nhiêu cây?”. Cô bắt Precious nhớ hàng loạt thứ - tên của các thành viên trong gia đình, tên các con gia súc mà ông cô bé đã sở hӳu, tên của nhӳng người đứng đầu. Thỉnh thoảng hai cô cháu ngồi bên ngoài cửa hiệu cạnh nhà, cửa hiệu Người bán buôn nghiêm túc nhỏ bé, và đợi một cái ô tô hay xe tải nhảy tưng tưng trên con đường đầy ổ trâu ổ gà. Người cô họ sẽ đọc to con số trên biển số xe và ngày hôm sau, có thể là ngay sau nӳa Precious phải nhớ nhӳng con số ấy khi cô hỏi. Họ cũng chơi rất nhiều trò chơi của Kim, một trong số đó là người cô họ để đầy nhӳng vật giống nhau trên một cái khay đan bằng tre nứa rồi phủ một tấm chăn lên và một vật được lấy đi. “Cái gì đã bị lấy đi khỏi cái khay?” “Một cái mắt dứa, tất cả đầu mẩu và bị nhai mắt”. “Còn gì nӳa không?” “Hết rồi ạ”. Cô bé không bao giờ sai. Đây là đứa trẻ nhìn mọi người và mọi thứ bằng đôi mắt to và nghiêm nghị. Và từ từ, không cần ai can thiệp, nhӳng đặc tính của sӵ tò mò và nhận thức đã được nuôi nấng trong đầu óc một đứa trẻ. Precious đến trường lúc sáu tuổi, cô bé đã biết chӳ cái, các con số tới tận hai trăm, và có thể đọc thuộc lòng toàn bộ chương một trong cuốn sách về gien được dịch sang tiếng Setswana. Cô bé cũng đã học một vài từ tiếng Anh và có thể đọc bốn đoạn một bài thơ tiếng Anh về nhӳng con tàu và biển cả. Các giáo viên bị ấn tượng và khen ngợi người cô họ về nhӳng gì cô bé đã làm được. Đây gần như là lời khen ngợi đầu tiên cô ấy nhận được cho bất cứ công việc nào cô từng làm. Obey cảm ơn cô và làm việc đó thường xuyên một cách hào phóng, tuy nhiên ông không hề có ý ca ngợi cô vì theo quan điểm của ông cô chỉ đang làm nhiệm vụ của mình và chẳng có gì là đặc biệt cả. “Chúng ta là nhӳng người đầu tiên cày xới thế giới khi Modise (Chúa) tạo ra nó lời trong một bài thơ Setswana cổ. “Chúng ta là nhӳng người làm ra thức ăn khi họ vẫn còn là nhӳng cậu bé, khi họ là nhӳng chàng trai, khi họ già và sắp chết. Chúng ta luôn luôn ở đó. Nhưng chúng ta chỉ là phụ nӳ và không ai biết tới chúng ta”. Bài học về những cậu bé Mma Ramotswe nghĩ: Chúa đặt chúng ta lên trái đất. Rồi ban đầu tất cả chúng ta là người Châu Phi bởi vì con người bắt đầu ở Kenya như tiến sĩ Leakey và bố của ông đã chứng minh. Vì thế nếu một người suy nghĩ thấu đáo về việc này, tất cả chúng ta là anh chị em, và thậm chí mọi nơi bạn nhìn, bạn nhìn thấy cái gì? Đánh nhau, đánh nhau, đánh nhau. Người giàu đang giết người nghèo; người nghèo đang giết người giàu. Ở khắp nơi, trừ Botswana. Điều đó nhờ vào ngài Seretse Khama, một người đàn ông tốt, người tạo ra Botswana và biến nó thành nơi tốt đẹp. Thỉnh thoảng cô ấy vẫn khóc thương cho ngài khi cô ấy nghĩ về trận ốm cuối cùng của ngài và tất cả bác sĩ giỏi ở London nói với Chính phủ: “Chúng tôi rất tiếc nhưng chúng tôi không thể cứu được Tổng thống của các vị”. Tất nhiên vấn đề là nhӳng người này dường như không hiểu sӵ khác nhau giӳa đúng và sai. Họ cần được nhắc nhở về chuyện này, dù họ sẽ không bao giờ bận tâm. Họ sẽ chỉ tìm cái gì tốt nhất cho họ, và rồi họ sẽ gọi đó là việc đúng đắn. Đó là cách hầu hết mọi người nghĩ. Precious Ramotswe đã học về điều tốt và điều xấu ở trường Chủ nhật. Người cô họ đã đưa cô bé tới đó khi cô lên sáu tuổi và cô bé tới đó mỗi chủ nhật không thiếu ngày nào cho đến khi mười một tuổi. Thời gian đó đủ cho cô bé học tất cả về đúng và sai, mặc dù cô bé bị bối rối – và vẫn tiếp tục thế - khi đó là điều hiển nhiên với nhӳng mặt khác của tôn giáo. Cô bé không thể tin rằng Chúa đi trên mặt nước – bạn không thể làm điều đó – hay cô bé đã tin câu chuyện thӵc sӵ phi lý về việc nuôi lớn năm nghìn người. Đó là nhӳng lời nói dối, cô bé tin chắc thế, và lời nói dối lớn nhất là Chúa không có bố trên trái đất này. Điều đó không đúng vì đến một đứa trẻ cũng biết rằng cần có một ông bố để tạo ra một đứa trẻ, và quy luật này áp dụng cho gia súc, gà và con người, tất cả như nhau. Nhưng đúng và sai – đó lại là cả một vấn đề, và cô bé nghiệm ra chẳng có sӵ khác nhau trong việc hiểu rằng nói dối, ăn cắp và giết người là sai trái. Nếu mọi người cần sӵ hướng dẫn rõ ràng, chẳng có ai làm việc đó tốt hơn Mma Mothibi, người điều hành trường Chủ nhật ở Mochudi hơn mười hai năm. Bà là một phụ nӳ thấp và thӵc sӵ tròn trịa, có giọng nói trầm đặc biệt. Bà dạy bọn trẻ nhӳng bài thánh ca bằng cả tiếng Setswana và tiếng Anh. Vì bọn trẻ học hát từ bà nên tất cả đội hợp xướng hát quãng tám thấp hơn nhӳng người khác, như thể nhӳng con ếch ộp. Bọn trẻ mặc quần áo đẹp nhất của mình, ngồi theo hàng sau nhà thờ khi buổi lễ kết thúc và được Mma Mothibi dạy dỗ. Bà đọc cho chúng nghe Kinh thánh, bắt chúng đọc thuộc đi đọc thuộc lại mười điều răn của Chúa và kể cho chúng nghe nhӳng câu chuyện tôn giáo trong quyển sách nhỏ màu xanh mà bà bảo xuất xứ từ London và không nơi nào trên đất nước này có quyển thứ hai. “Có nhӳng điều luật làm ta tốt lên”, bà ngâm. “Một cậu bé phải thường xuyên dậy sớm và cầu nguyện. Sau đó cậu ấy phải lau giầy của mình và giúp mẹ chuẩn bị bӳa sáng cho gia đình, nếu họ ăn sáng. Một vài người không ăn sáng vì họ nghèo. Rồi cậu phải tới trường và làm mọi việc giáo viên bảo cậu. Bằng cách đó cậu sẽ học được cách trở thành một cậu bé theo đạo Cơ đốc thông minh và sau này sẽ được lên thiên đường khi Chúa gọi cậu về với người. Với các cô bé, nhӳng điều luật cũng vậy, nhưng họ cũng phải cẩn thận với các cậu bé và phải sẵn sàng nói với các cậu bé rằng mình là tín đồ Cơ đốc. Một vài cậu bé sẽ không hiểu điều này…” Đúng, Precious Ramotswe nghĩ . Một vài cậu bé không hiểu điều này, và thậm chí ở đó, ở trường Chủ nhật có một cậu bé như thế. Đó là Josiah, một đứa trẻ xấu xa dù nó mới chín tuổi. Nó nài nỉ được ngồi cạnh Precious ở trường Chủ nhật, ngay cả khi cô bé cố gắng tránh nó. Nó thường xuyên nhìn cô bé và mỉm cười khuyến khích dù cho cô bé hơn nó hai tuổi. Nó cũng cố gắng thò chân chạm vào chân cô bé. Việc này làm cô bé bӵc mình và cô thay đổi chỗ ngồi để tránh xa nó. Nhưng tệ hại nhất là nó tháo khuy quần và chỉ vào cái mà bọn con trai có, và mong cô bé nhìn vào. Cô bé đã không làm thế vì đó là việc không nên xảy ra ở trường Chủ nhật. Dù sao đi nӳa, cái đó có gì là đặc biệt? Tất cả con trai đều có mà. Cuối cùng cô bé quyết định nói cho Mma Mothibi chuyện đó và bà nghiêm túc lắng nghe. “Các cậu bé, đàn ông”, bà nói, “bọn họ đều như nhau. Bọn họ nghĩ rằng cái đó là cái gì đặc biệt lắm và tất cả họ tӵ hào về nó. Bọn họ không hiểu rằng như thế thật lố bịch Bà bảo Precious hãy cho bà biết nếu lần sau có chuyện đó xảy ra. Chỉ cần cô bé giơ tay lên Mma Mothibi có thể nhìn thấy. Đó sẽ là ám hiệu. Tuần sau chuyện đó lại xảy ra. Trong lúc Mma Mothibi ở cuối lớp, nhìn vào nhӳng cuốn sách của trường Chủ nhật mà bọn trẻ đang đặt trước mặt, Josiah tháo một khuy quần và thì thầm với Precious rằng cô bé nên nhìn xuống. Cô bé vẫn nhìn vào sách của mình và từ từ giơ tay trái lên. Tất nhiên Josiah không trong thấy, nhưng Mma Mothibi thì thấy. Bà đi rón rén tới đằng sau cậu bé và giơ quyển sách Kinh thánh của mình lên cao. Rồi bà đập quyển sách xuống đầu nó, tiếng uӷch vang lên làm bọn trẻ chú ý. Sau cú đánh Josiah cài khóa lại. Bây giờ Mma Mothibi đi vòng lên trước mặt nó và chỉ vào vạt cài cúc đang mở của nó. Sau đó bà đưa quyển sách Kinh thánh lên và đập lên đỉnh đầu nó lần nӳa, thậm chí còn mạnh hơn lần trước. Đó là lần cuối cùng Josiah làm phiền Precious Ramotswe hay bất cứ bạn nӳ nào khác theo kiểu này. Về phần mình Precious đã học được một bài học quan trọng về cách xử lý bọn con trai, và bài học này sẽ theo cô trong thời gian dài, và chứng tỏ rất hӳu ích giống như tất cả nhӳng bài học của trường Chủ nhật. Sӵ ra đi của người cô họ Người cô họ chăm sóc Precious trong tám năm đầu cuộc đời cô bé. Cô ấy hoàn toàn có thể ở lại – việc này phù hợp với mong muốn của Obey vì cô trông nhà cho ông và không bao giờ than phiền hoặc đòi hỏi tiền bạc gì. Nhưng ông nhận ra, khi thời gian qua đi sẽ nảy sinh nhӳng vấn đề về lòng tӵ trọng và hẳn người em họ mong ước được kết hôn lần nӳa mặc cho chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Vì vậy ông sẵn lòng cầu phúc nếu cô em họ thông báo rằng cô ấy đang hẹn hò với một người đàn ông, rằng anh ta đã cầu hôn cô và cô đã nhận lời. “Em sẽ đưa Precious đi cùng em”, cô ấy nói. “Em có cảm giác bây giờ con bé như con gái mình. Nhưng còn anh…” “Đúng”, Obey nói. “Còn có anh. Em cũng sẽ đưa anh đi cùng Cô em họ cười phá lên. “Người chồng mới của em giàu có, nhưng em nghĩ anh ấy chỉ muốn cưới một mình em thôi”. Obey làm mọi việc chuẩn bị cho đám cưới vì ông là người họ hàng gần gũi nhất của cô ấy và ông cảm thấy đó là việc mình phải làm. Ông chuẩn bị sẵn sàng cho đám cưới vì tất cả nhӳng gì cô em đã làm cho ông. Ông chuẩn bị giết thịt hai con gia súc và mẻ bia đủ dùng cho hai trăm khách. Rồi, ông cầm tay cô em họ vào nhà thờ, nhìn thấy chú rể mới cùng nhӳng anh chị em họ xa khác, thấy bạn bè của họ và nhӳng người trong làng, nhӳng người được mời và không được mời, tất cả họ đang đợi chờ và quan sát. Sau lễ cưới, họ quay về nhà, nơi nhӳng tấm bạt bằng vải dầu đã được móc vào giӳa nhӳng cậy gai và nhӳng chiếc ghế đi mượn. Người già ngồi xuống trong lúc thanh niên nói chuyện với nhau và hít thịt cháy xèo xèo trên bếp lửa. Sau đó họ ăn, rồi Obey đọc một bài phát biểu cảm ơn cô em họ và người chồng mới cưới đáp lại rằng anh ta rất biết ơn Obey đã rất quan tâm chăm sóc cho vợ mình. Người chồng mới cưới có hai chiếc xe buýt làm giàu cho anh ta. Một chiếc hiệu Molepolode Special Express được đưa vào phục vụ lễ cưới. Nó được tô điểm bằng chiếc áo màu xanh nhạt. Trên chiếc còn lại, chú rể ngồi bên vô-lăng và cô dâu ngồi ngay sau. Có nhӳng giọt nước mắt vui mừng và tiếng rú lên của cánh phụ nӳ, rồi chiếc xe buýt lăn bánh vào con đường hạnh phúc. Họ xây nhà cách nam Gaborone mười dặm. Anh trai của chú rể xây ngôi nhà này bằng gạch non để tặng cho họ. Ngôi nhà có mái đỏ, tường trắng cùng sӵ kết hợp truyền thống với một cái sân có tường bao quanh ở phía trước. Đằng sau nhà có mái che làm bằng tôn mạ kẽm. Trong bếp, người em họ có một bộ xoong chảo sáng bóng và hai cái bếp. Cô cũng có một cái tủ lạnh chạy bằng năng lượng dầu hỏa mới của Nam Phi. Nó chạy vo ve cả ngày và giӳ cho mọi thứ bên trong mát lạnh. Mỗi buổi tốt, chồng cô mang về nhà doanh thu một ngày của hai chiếc xe, và cô giúp anh đếm tiền. Cô chứng tỏ mình là một kế toán tuyệt vời, và nhanh chóng điều hành một phần công việc với sӵ thành công đáng chú ý. Bằng nhiều cách khác nhau cô khiến chồng mới cưới hạnh phúc. Khi còn là một cậu bé, anh từng bị một con chó rừng cắn và để lại nhӳng vết thẹo trên mặt do một bác sĩ yếu kém ở Bệnh viện tuyên giáo người Scotlen khâu các vết thương. Không một phụ nӳ nào trước đây từng nói với anh rằng anh đẹp trai, và chính anh chưa bao giờ mơ về điều đó. Ngược lại vợ anh lại nói rằng anh là người đàn ông ưa nhìn nhất, rắn rỏi nhất mà cô từng gặp. Thӵc sӵ đó không hoàn toàn chỉ là nhӳng lời nịnh hót. Cô ấy nói sӵ thật vì cô ấy nhận ra được điều đó vì trái tim của anh ấy tràn đầy sӵ ấm áp và không tiếc nhӳng lời khen ngợi. “Cô biết là cháu đang nhớ cô”, cô viết thư cho Precious, “Nhưng cô hiểu cháu muốn cô được hạnh phúc. Bây giờ cô rất hạnh phúc. Cô có một người chồng rất tốt. Chú ấy mua cho cô nhiều quần áo đẹp và mỗi ngày đều khiến cô vui vẻ. Một ngày nào đó cháu sẽ tới đây và ở với chúng ta, và chúng ta sẽ lại cùng nhau đếm cây, gát nhӳng bài thánh ca như chúng ta đã từng làm. Bây giờ cháu phải chăm sóc bố cháu vì cháu đã đủ lớn để làm việc này và bố cháu cũng là một người tốt. Cô muốn cháu được hạnh phúc và cô cầu nguyện cho điều này mỗi đêm. Chúa phù hộ cho Precious Ramotswe. Đêm nay và mãi mãi Chúa dõi theo cháu. Amen”. Những con dê Khi còn nhỏ, Precious Ramotswe thích vẽ, khả năng mà người cô họ đã khuyến khích cô bé từ rất sớm. Cô ấy đã mua cho Precious một tập giấy vẽ và một bộ bút chì màu vào lần sinh nhật thứ mười, và tài năng của cô bé đã sớm được bộc lộ. Obey Ratmoswe đã rất tӵ hào về tài năng của cô bé được thể hiện qua phác họa cuộc sống hàng ngày ở Mochudi trên nhӳng trang giấy trắng trong vở nháp. Thật dễ dàng nhận ra một bức phác họa hồ nước trước bệnh viện và một bức tranh vẽ nӳ y tá trưởng đang chăm sóc một con lừa. Và trên trang giấy này là bức tranh một cửa hàng, cửa hàng Người bán buôn nghiêm túc nhỏ bé, với nhӳng vật phía trước có thể là nhӳng bao ngô hoặc có thể mọi người đang ngồi xuống. Có thể không nhận xét gì nhưng thӵc sӵ chúng là nhӳng bức phác họa xuất sắc và ông đã ghim vài bức lên nhӳng bức tường trong phòng khách, gần trần nhà, nơi nhӳng con ruồi đậu. Các giáo viên biết được khả năng này và nói rằng ngày nào đó cô bé sẽ trở thành một họa sĩ vĩ đại, nhӳng bức tranh của cô bé sẽ tràn ngập trên Lịch Botswana. Điều này động viên cô bé và bức phác họa này nối tiếp bức phác họa khác. Nhӳng con dê, gia súc, nhӳng ngọn đồi, nhӳng quả bí ngô, nhӳng ngôi nhà; có quá nhiều cảm hứng vẽ quanh Mochudi đến nỗi chẳng có mối đe dọa nào làm cô bé cạn đề tài. Trường học được phổ biến một cuộc thi vẽ dành cho thiếu nhi. Bảo tàng ở Gaborone yêu cầu mỗi trường trên toàn quốc gửi một bức tranh của một trong nhӳng học sinh vẽ về đề tài “Cuộc sống ở Botswana hôm nay”. Tất nhiên chẳng nghi ngờ gì về tác phẩm của ai sẽ được gửi đi. Precious được yêu cầu dành thời gian vẽ một bức tranh đặc biệt và sau đó bức tranh sẽ được gửi xuống Gaborone để đại diện cho Mochudi. Cô bé vẽ bức tranh vào một ngày thứ bảy. Cô bé mang vở nháp ra ngoài từ sớm và trở về nhà sau vài tiếng để hoàn chỉnh các chi tiết. Cô bé nghĩ đó là một bức tranh rất đẹp và giáo viên của cô bé rất hào hứng khi thứ hai tuần sau cô bé mang nó tới. “Bức tranh này sẽ đem lại giải thưởng cho Mochudi”, cô giáo nói. “Mọi người sẽ được nở mày nở mặt.” Bức tranh được đặt cẩn thận giӳa hai tấm bìa cứng gấp lại và gửi đi bằng đường thư bảo đảm tới bảo tàng. Sau đó là năm tuần im lặng. Trong suốt thời gian đó mọi người quên đi cuộc thi. Cho đến khi Hiệu trưởng nhận được lá thư và ông rạng rỡ đọc to cho Precious nghe. “Em dành giải nhất”, ông nói. “Em sẽ cùng tôi, cô giáo và bố em đi Gaborone để nhận giải thưởng từ Bộ trưởng Bộ Giáo dục tại buổi lễ đặc biệt”. Giải thưởng này quá lớn với cô bé. Cô bé đã khóc nhưng nhanh chóng nín ngay, và được phép về nhà sớm để báo tin này cho bố. Hai bố con đi cùng ông Hiệu trưởng tới buổi lễ bằng xe tải. Họ tới sớm và ngồi đợi cửa mở vài tiếng đồng hồ trong sân bảo tàng. Rồi cuối cùng cửa mở và nhӳng người khác tới: các giáo viên, người của các tờ báo, các thành viên Chính phủ. Rồi ngài Bộ trưởng tới trong chiếc ô tô màu đen và mọi người bỏ cốc nước cam xuống, nuốt vội nhӳng miếng bánh xăng-uých. Cô bé thấy bức tranh của mình treo ở một vị trí đặc biệt, trên khung kẻ viền, và có một tấm các nhỏ ghim phía dưới. Cô bé cùng cô giáo tới ngắm nó và trái tim đập thình thịch khi trông thấy tên mình được đánh máy gọn gàng bên dưới bức tranh: Precious Ramotswe (10) (Trường tiểu học công lập Mochudi). Và dưới dòng chӳ ấy bảo tàng tӵ ý đánh máy tên bức tranh: Gia súc bên bể nước. Cô bé đứng ngẩn ra, đột nhiên phát hiện ra việc này không đúng. Bức tranh vẽ nhӳng con dê nhưng họ lại nghĩ đó là gia súc! Cô bé sẽ nhận giải cho một b gia súc vì nhӳng nhầm lẫn tai hại này. “Chuyện gì thế con?” bố hỏi cô bé. “Con phải vui mừng chứ. Sao trông con buồn thế?” Cô bé không thể nói được gì. Cô sắp trở thành một tên tội phạm, thủ phạm của một vụ lừa đảo. Cô không thể nhận giải thưởng cho bức tranh vẽ gia súc vì đơn giản cô không xứng đáng. Nhưng bây giờ ngày Bộ trưởng đang đứng cạnh cô bé, và ông chuẩn bị đọc bài phát biểu. Cô bé nhìn chăm chú vào ông và ông mỉm cười. “Cháu là một họa sĩ giỏi”, ông nói. “Mochudi sẽ tӵ hào về cháu.” Cô bé nhìn xuống nhӳng ngón chân mình. Cô bé sẽ phải thú tội. “Nó không phải bức tranh vẽ gia súc”, cô bé nói. “Nó là bức tranh vẽ nhӳng con dê. Ngài không thể vì một thiếu sót mà trao giải cho cháu.” Ngài Bộ trưởng cau mày và nhìn vào cái nhãn. Rồi ông quay lại phía cô bé và nói: “Họ mới là nhӳng người mắc lỗi. Bác cũng nghĩ chúng là nhӳng con dê. Bác không nghĩ chúng là gia súc đâu.” Ông hắng giọng và Giám đốc bảo tàng yêu cầu mọi người im lặng. “Đây là bức tranh vẽ nhӳng chú dê xuất sắc”, ngài Bộ trưởng nói, “nó cho thấy thế hệ trẻ tài năng của đất nước này. Cô bé này lớn lên sẽ trở thành một công dân tốt và có thể là một họa sĩ nổi tiếng. Cô bé xứng đáng với giải thưởng của mình và bây giờ tôi sẽ trao nó cho cô bé”. Cô bé nhận gói quà, cảm thấy bàn tay ông đặt trên vai mình và nghe ông thì thầm: “Cháu là đứa bé thật thà nhất ta từng gặp. Làm tốt lắm.” Rồi buổi lễ kết thúc và sau đó một lúc họ quay về Mochudi trên chiếc xe tải mấp mô của ngài Hiệu trưởng. Một nӳ anh hùng đang trở về, một người mang giải thưởng đang trở v Chương 4 Sống cùng vợ chồng người cô họ Năm mười sáu tuổi, Mma Ramotswe rời trường học. (“Cô gái giỏi nhất trường này”, ông Hiệu trưởng tuyên bố. “Một trong nhӳng cô gái giỏi nhất Bostwana”). Bố cô muốn cô tiếp tục học, lấy chứng chỉ của trường Cambridge và thậm chí hơn nӳa, nhưng Mma Ramotswe đã chán Mochudi. Cô cũng chán làm việc kiểm kê và mất hàng tiếng đồng hồ đánh dấu các mặt hàng vào danh sách lưu kho mỗi thứ Bảy ở cửa hàng Người bán buôn nghiêm túc nhỏ bé. Cô muốn đi tới một nơi nào đó. Cô muốn cuộc đời của mình được bắt đầu. “Con có thể tới chỗ cô họ”, bố cô nói. “Nơi đó rất khác. Bố nghĩ con sẽ thấy rất nhiều việc đang diễn ra trong ngôi nhà đó.” Ông phải kìm nén nỗi đau để nói ra nhӳng lời đó. Ông muốn cô ở lại để chăm sóc mình, nhưng ông hiểu sẽ thật ích kӹ khi mong cuộc đời cô coi ông là mối quan tâm chủ yếu. Cô muốn sӵ tӵ do; muốn cảm thấy mình sẽ làm được gì đó cho chính cuộc đời mình. Và tất nhiên đằng sau sӵ quan tâm của ông là suy nghĩ về hôn nhân. Trong một thời gian rất ngắn, ông biết, sẽ có một người đàn ông muốn cưới con gái mình. Tất nhiên ông sẽ không bao giờ từ chối cô việc đó. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu người đàn ông muốn lấy con gái ông là một tên du côn hay một kẻ nghiện rượu, hoặc một tên lăng nhăng. Tất cả đều có thể! Có vô số kẻ như thế đang đợi một cô gái hấp dẫn để chúng theo đuổi và từ từ phá hủy cuộc đời cô ta. Nhӳng người đàn ông đó như nhӳng con đỉa; chúng hút lấy lòng tốt trong trái tim người phụ nӳ cho tới khi nó khô cằn và tất cả tình yêu của cô ấy bị cạn kiệt. Ông biết việc đó sẽ mất một thời gian dài vì dường như trong phụ nӳ tích trӳ lòng tốt bao la. Nếu một trong số nhӳng người đàn ông đó đến Precious thì một người bố như ông sẽ làm gì? Ông có thể cảnh báo cô về mối nguy hiểm, nhưng có bao nhiêu người lắng nghe sӵ cảnh báo về người họ yêu? Trước đây ông gặp chuyện này khá thường xuyên. Tình y một kiểu tình cảm mù quáng đến mức có thể nhắm mắt bỏ qua hầu hết nhӳng khuyết điểm rõ ràng. Bạn có thể yêu một tên sát nhân, và đơn giản không tin tình yêu của mình sẽ được nhiều như nhồi nhét trong một tích tắc để tӵ mình giết ai đó. Chẳng có lý lẽ gì để thuyết phục con bé. Nhà của cô em họ sẽ như bất cứ nơi nào, thậm chí nó không thể bảo vệ con bé khỏi bọn đàn ông. Rốt cuộc người cô họ có thể để mắt tới đứa cháu gái, và chồng cô ấy có lẽ đủ khả năng xua đuổi hầu hết nhӳng kẻ không phù hợp. Bây giờ anh ta là một người giàu có, có hơn năm cái xe buýt và có được quyền lӵc mà một người giàu có. Anh ta có thể giới thiệu vài thanh niên tốt cho con bé. Người cô họ vui vẻ đón Precious tới nhà. Cô ấy đã trang trí một căn phòng cho con bé, treo nhӳng bức rèm mới màu vàng dày dặn mà cô ấy mua ở cửa hàng Ok Bazaars trong chuyến mua sắm tại Johannesburg. Sau đó cô ấy chất đầy quần áo vào cái tủ com-mốt và đặt trên nóc tủ một bức ảnh của Giáo hoàng. Nền nhà được trải thảm trang trí hoa văn. Đó là một căn phòng sáng sủa, đầy đủ tiện nghi. Precious nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới. Cô có một công việc tại văn phòng công ty xe buýt. Ở đó cô nhận đơn và kiểm tra các con số trong các báo cáo của lái xe. Cô rất nhanh nhẹn trong việc này, và người chú họ nhận ra cô làm việc bằng hai thư ký lớn tuổi hơn cộng lại. Họ ngồi ở bàn mình và buôn chuyện cả ngày, hiếm khi chuyển các hóa đơn trên bàn, hiếm khi đứng lên để đặt ấm đun nước. Công việc này quá dễ dàng đối với Precious. Cô cũng sẵn sàng đưa ra các gợi ý và hiếm khi trong một tuần cô không đưa ra một gợi ý để làm sao văn phòng có thể hoạt động hiệu quả hơn. “Cô làm việc quá chăm chỉ”, một trong nhӳng thư ký nói với cô. “Cô đang cố gắng giành mất công việc cả chúng tôi.” Precious nhìn họ một cách vô hồn. Cô luôn làm việc chăm chỉ trong khả năng của mình với mọi công việc, và đơn giản cô không hiểu mọi người có thể làm việc khác như thế nào. Sao họ có thể ngồi đó như thế, và nhìn chằm chằm vào khoảng không phía trước mặt trong khi họ có thể cập nhật các con số hoặc kiểm tra hóa đơn của các lái xe. Tӵ mình cô kiểm tra, thường thì không được yêu cầu, và mặc dù mọi thứ luôn cập nhật thì thỉnh thoảng cô phát hiện ra một sӵ trái ngược nhỏ. Việc này chú họ cô giải thích là xuất phát từ việc trả sai tiền thừa cho khách. Việc này dễ xảy ra trên một chiếc xe đông khách, và nó không quá quan trọng, họ chỉ việc lờ đi. Nhưng Preccious phát hiện ra nhiều hơn thế. Cô phát hiện ra sӵ khác nhau của hơn hai nghìn pula trong các hóa đơn xăng và cô thu hút sӵ chú ý của chú họ vào việc này. “Cháu chắc chứ?” chú ấy hỏi. “Làm thế nào mà thất thoát hai nghìn pula?” “Bị ăn cắp chứ ạ?” Precious nói. Người chú họ gật đầu. Ông xem mình như một người chủ hiện đại – một người theo chủ nghĩa gia trưởng, đúng, nhưng đó là cái người đàn ông muốn đúng không? Ông không thể tin rằng bất cứ một nhân viên nào của mình lại lừa dối mình. Họ làm như thế sao khi mà ông rất tốt với họ và làm quá nhiều việc vì họ? Precious chỉ cho ông thấy làm thế nào tiền bị thất thoát, và nhӳng người kia cùng nhau hợp lại để đưa tiền vào một tài khoản hợp pháp của một người khác, thậm chí sau này cùng nhau biến mất. Chỉ một trong nhӳng thư ký có quyền sử dụng quӻ này, vì thế việc này phải do anh ta làm. Không có lời giải thích nào khác. Cô đã không thấy sӵ đối đầu, nhưng nghe thấy nó từ phòng khác. Viên thư ký căm phẫn, la hét phủ nhận với giọng to nhất. Sau đó là sӵ im lặng trong giây lát và cánh cửa đóng sầm lại. Đây là vụ án đầu tiên của cô. Nó là sӵ khởi đầu cho sӵ nghiệp của Mma Ramotswe. Sӵ xuất hiện của Note Mokoti Cô làm việc bốn năm tại văn phòng xe buýt. Người cô họ và chồng trở nên quen với sӵ hiện diện của cô và bắt đầu gọi cô là con gái. Cô không bận tâm tới chuyện này; họ là gia đình cô và cô yêu họ. Cô yêu người cô họ, thậm chí khi cô ấy vẫn đối xử với cô như một đứa bé và mắng cô công khai. Cô yêu chú họ, yêu cả nỗi buồn, khuôn mặt đáng sợ và đôi tay lớn của thợ cơ khí của chú ấy. Cô yêu ngôi nhà và căn phòng với nhӳng tấm rèm cửa màu vàng. Cô đã tạo ra một cuộc sống tốt đẹp cho chính mình. Mỗi cuối tuần cô về Mochudi thăm bố trên một trong nhӳng chiếc xe buýt của chú họ. Bố sẽ đang đợi ngoài nh ngồi trên cái ghế đẩu của ông, và cô sẽ khẽ nhún đầu gối cúi chào trước ông theo cách lâu nay rồi vỗ tay. Sau đó hai bố con sẽ ăn cùng nhau, ngồi trong bóng hành lang có mái che mà ông dӵng ở một phía ngôi nhà. Cô sẽ kể cho bố nghe về một tuần làm việc ở văn phòng xe buýt, và ông nắm bắt mọi chi tiết, hỏi nhӳng cái tên mà ông liên hệ tới nhӳng bảng phả hệ phức tạp. Theo cách nào đó mọi người được liên kết lại; chẳng ai có thể không ăn khớp với nhӳng ngóc ngách họ hàng xa xôi. Chuyện này cũng tương tӵ với gia súc. Gia súc có gia đình của chúng, và sau khi cô nói chuyện xong ông kể cho cô tin tức gia súc. Mặc dù ông hiếm khi đi ra chuồng gia súc nhưng hàng tuần ông có nhӳng bản báo cáo và ông có thể điều khiển cuộc sống gia súc thông qua nhӳng cậu bé chăn gia súc. Ông dõi theo đám gia súc, một khả năng kỳ lạ để nhận ra đặc điểm của nhӳng con bê trong giai đoạn trưởng thành. Bằng một cái liếc mắt ông có thể nói liệu một con bê trông kém phát triển có thể nuôi dưỡng và vỗ béo hay không. Và ông quay lại ý kiến mua nhӳng con vật và làm chúng khỏe lên, thành gia súc béo tốt (nếu có mưa nhiều). Ông nói rằng con người giống như gia súc của họ. Gia súc kém chất lượng, gầy yếu thì chủ của nó cũng vậy. Gia súc bơ phờ - gia súc đi lang thang không mục đích – thì cuộc sống của chủ nó cũng thiếu mục tiêu. Và nhӳng người gian dối, anh ta có nhӳng con gia súc không thật thà – chúng dối lừa thức ăn của con khác hoặc sẽ cố gắng chui vào đàn gia súc khác một cách êm thấm và lén lút. Obey Ramostwe là một quan tòa nghiêm khắc – với con người và gia súc – và cô thầm nghĩ: ông sẽ nói gì khi ông biết về Note Mokoti? Cô đã gặp Note Mokoti trên chuyến xe buýt về Mochudi. Anh ta đến từ Francistown và ngồi phía trước, hộp kèn trumpet đặt bên cạnh. Cô chú ý tới cái sơ mi đỏ và cái quần sọc nhăn của anh ấy; ngước nhìn đôi gò má cao và đôi lông mày khung vòm của anh ấy. Một khuôn mặt tӵ hào, khuôn mặt của người đàn ông từng được ngắm nhìn và đánh giá, và cô ngay lập tức cụp mắt xuống. Cô không muốn anh ta nghĩ cô đang ngắm anh, dù cô tiếp tục liếc anh từ chỗ mình ngồi. Người này là ai? Một nhạc công với cái hộp bên cạnh; có thể là một người thông minh từ trường đại học chăng? Xe buýt dừng ở Gaborone trước khi xuống phía nam trên con đường tới Lobatse. Cô ngồi tại chỗ của mình và thấy anh đứng dậy. Anh ấy đứng lên vuốt phẳng nhӳng nếp gấp trên quần và sau đó quay nhìn khắp xe buýt. Cô m thấy tim mình nhảy lên; anh ấy đã nhìn cô; không, anh ấy không nhìn, anh ấy đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Đột nhiên không suy nghĩ gì thì cô đứng dậy và lấy túi xách xuống khỏi giá. Cô sẽ xuống xe, không phải cô không có việc gì làm ở Gaborone mà vì cô muốn biết anh ấy làm cái gì. Bây giờ anh ấy đã xuống xe và cô vội vã, lẩm bẩm một lời giải thích nhanh với người lái xe, một trong nhӳng người của chú họ. Nhập vào đám đông, nhập vào ánh nắng buổi chiều muộn, bụi bặm và nhӳng người đi lại nóng nӵc, cô đợi chờ mình và nhìn anh ấy đang đứng không xa. Anh ấy đã mua một cái bánh ngô nướng của người bán hàng rong và giờ đang ăn nó. Cô cảm thấy lo ngại và dừng lại vì cô là một người xa lạ không chắc chắn nơi mình đến. Anh ấy đang nhìn cô và cô chợt bối rối. Anh ấy đã biết cô đang theo anh ư? Có lẽ thế. Cô nhìn kӻ lần nӳa, liếc nhanh về phía anh ấy và lúc ấy anh mỉm cười với cô rồi nhướng mày. Sau đó ném cái bánh ngô nướng đi, anh ta nhấc hộp kèn trumpet và đi về phía cô. Cô bị đóng băng, không thể đi được, như con mồi bị thôi miên trước một con rắn. “Anh đã thấy em trên xe buýt”, anh ấy nói. “Anh nghĩ anh đã gặp em trước đây rồi. Nhưng không phải.” Cô nhìn xuống đất. “Em chưa từng gặp anh”, cô nói. “Chưa từng”. Anh ta mỉm cười. Cô nghĩ anh ấy không run sợ, và một chút cảnh giác của cô đã bay mất. “Em gặp hầu hết mọi người ở đất nước này một hoặc hai lần”, anh ấy nói. “Không có người lạ.” Cô gật đầu. “Điều đó đúng.” Sӵ im lặng. Rồi anh ấy chỉ vào cái va li dưới chân. “Em biết đây là kèn trumpet. Anh là một nhạc công.” Cô nhìn vào cái va li. Nó có một cái nhãn có hình bên trên; bức tranh một người đang chơi ghi “Em thích âm nhạc không?” anh hỏi. “Jazz? Quella?” Cô nhìn lên và thấy anh vẫn mỉm cười với mình. “Vâng, em thích âm nhạc”. “Anh chơi trong một ban nhạc”, anh nói. “Bọn anh chơi trong quán bar ở khách sạn Thủ tướng. Em có thể tới và nghe. Bây giờ anh sẽ tới đó”. Họ đi tới quán bar chỉ mất mười phút từ bến xe buýt. Anh ấy mang cho cô một cốc nước và để cô ngồi phía sau, một bàn có một ghế đã làm nản lỏng nhӳng ai muốn ngồi cùng cô. Sau đó anh ấy chơi đàn và cô lo lắng, âm nhạc tuột qua tai và cô tӵ hào mình biết người đàn ông này, mình là khách của anh ấy. Đồ uống lạ và đắng; cô không thích vị của rượu nhưng đó là thứ bạn đang uống trong các quán bar và cô bận tâm mình sẽ trở nên lạc lõng ở chỗ này và mọi người sẽ chú ý tới cô. Sau cùng khi ban nhạc nghỉ giải lao, anh ấy tới gặp cô và cô thấy trán anh ấy lấp lánh mồ hôi. “Hôm nay anh chơi không tốt lắm”, anh ấy nói. “Vài ngày em có thể chơi tốt, vài ngày khác thì không thể”. “Em nghĩ anh rất giỏi. Anh chơi hay mà”. “Anh không nghĩ vậy. Anh có thể chơi tốt hơn. Có nhӳng ngày cây kèn chỉ nói chuyện với anh. Anh không phải làm bất cứ việc gì”. Cô thấy mọi người đang nhìn họ, và một hoặc hai người phụ nӳ đang nhìn cô giận dӳ. Cô có thể hiểu họ muốn được ngồi ở chỗ của mình. Họ muốn ở cạnh Note. Anh ấy đưa cô lên chuyến xe buýt muộn sau khi họ rời quán bar rồi đứng đó vẫy tay chào cô khi xe buýt chuyển bánh. Cô cũng vẫy tay chào và nhắm mắt lại. Bây giờ cô đã có bạn trai, một nhạc công chơi nhạc jazz, và theo đề nghị của anh họ sẽ gặp lại vào tối thứ Sáu tới và ăn thịt nướng ở Câu lạc bộ Gaborone. Anh ấy nói các thành viên trong ban nhạc luôn đưa bạn gái tới và cô sẽ gặp vài người thú vị ở đó, nhӳng người tốt tính, nhӳng người bình thường cô không gặp. Và đó là nơi Note Mokoti cầu hôn Precious Ramotswe và cô nhận lời anh ta một phần bởi sӵ tò mò, không nói bất cứ điều gì. Việc này xảy ra sau khi ban nhạc chơi xong và họ đang ngồi trong bong tối, xa khỏi tiếng ồn ào của nhӳng người uống rượu trong quán bar. Anh ấy nói: “Anh muốn kết hôn sớm và anh muốn cưới em. Em là một cô gái tốt và sẽ làm rất tốt vai trò một người vợ”. Precious không nói gì vì cô không chắc chắn, và sӵ im lặng của cô có nghĩa là đồng ý. “Anh sẽ nói chuyện với bố em về việc này”, Note nói. “Anh hy vọng bố em không phải là một người cổ hủ, không muốn quá nhiều gia súc để anh cưới được em.” Bố cô là thế, nhưng cô không nói gì hết. Cô nghĩ mình vẫn chưa đồng ý, nhưng có lẽ bây giờ đã quá muộn. Rồi Note nói: “Bây giờ em sẽ trở thành vợ của anh. Anh phải dạy em nhiệm vụ của nhӳng người vợ”. Cô không nói gì hết. Cô nghĩ đây là việc sẽ đến. Đàn ông như thế này, giống như các bạn cô ở trường đã nói co cô biết, tất nhiên đó là nhӳng cô gái dễ dãi. Anh ta ôm lấy cô và đẩy lưng cô xuống cỏ mềm. Họ đang ở trong nhӳng bóng cây và không có ai gần đó, chỉ có tiếng la hét và cười đùa của nhӳng người uống rượu. Anh ta cầm lấy tay cô và đặt lên bụng mình chẳng biết để làm gì. Rồi anh ta bắt đầu hôn cô, lên cổ, lên má, lên môi và cô nghe thấy cả tiếng đập thình thịch của tim, tiếng thở ngắn của mình. Anh ta nói: “Các cô gái phải học việc này. Có thằng con trai nào dạy em chứ?” Cô lắc đầu. Cô chưa biết, và bây giờ cô cảm thấy quá muộn. Cô không biết làm gì hết. “Anh rất vui”, anh ta nói. “Nói thẳng ra anh biết em vẫn còn trinh, điều này đối với một người đàn ông là tuyệt. Nhưng bây giờ mọi thứ sẽ thay đổi. Ngay bây giờ. Tối nay”. Anh ta làm đau cô. Cô yêu cầu anh ta dừng lại, nhưng anh ta ấn đầu cô xuống và tát vào má cô. Nhưng ngay lập tức anh ta hôn vào chỗ cú đánh vừa giáng xuống, và nói rằng anh ta không định làm thế. Tất cả thời gian anh ta đè lên cô và thỉnh thoảng dùng móng tay cào dọc lưng cô. Sau đó anh lật người cô lại, tiếp tục làm đau cô và dùng thắc lưng đánh vào lưng cô. Cô ngồi dậy và vơ quần áo nhàu nát của mình. Cô lo sợ ai đó đi ra ngoài nhìn thấy họ, anh ta thì chẳng hề mảy may. Cô mặc quần áo, khi mặc áo cô bắt đầu lặng lẽ rơi nước mắt vì nghĩ tới bố mình, người mà ngày mai cô sẽ gặp ở mái hiên, người sẽ cho cô biết tin tức của nhӳng con gia súc, người sẽ không bao giờ tưởng tượng chuyện gì xảy ra với cô đêm nay. Ba tuần sau Note Mokoti tới thăm bố cô và hỏi cưới Precious. Obey bảo ông sẽ nói chuyện với con gái mình. Ông đã nói chuyện với cô vào tuần tiếp theo khi cô về thăm ông. Ông ngồi trên ghế đẩu, nhìn kӻ con gái và bảo rằng cô sẽ không bao giờ phải kết hôn với bất cứ ai mà cô không muốn hoặc khi cô chưa muốn một chút nào. Chuyện ép uổng đã qua lâu lắm rồi. Ngày nay một phụ nӳ có thể sống một mình và ngày càng có nhiều phụ nӳ như thế. Cô có thể nói không với việc này. Đây là điều bố cô muốn nghe. Nhưng cô không muốn nói như thế. Cô sống dӵa vào nhӳng cuộc gặp với Note Mokoti. Cô muốn cưới anh ta. Cô biết rằng anh ta không phải người tốt, nhưng cô mong có thể thay đổi được anh ấy. Và khi tất cả đã được nói và làm chỉ còn lại nhӳng giây phút đen tối ký vào giấy đăng ký kết hôn. Nhӳng niềm vui anh ta đem lại cho cô là sӵ mê đắm. Cô thích điều đó. Thậm chí cô cảm thấy xấu hổ khi nghĩ về nó, nhưng cô thích điều anh ta đã làm với cô, sӵ làm nhục, sụ thúc giục. Cô muốn ở cùng anh ta, muốn anh ta chiếm hӳu mình. Nó giống như thứ đồ uống đắng nhưng lại có tác dụng ngược lại. Và tất nhiên cô cảm nhận mình đã có thai. Còn quá sớm để nói, nhưng cô cảm thấy đứa con của Note Mokoti ở trong mình. Một sinh linh run rẩy, yếu ớt đang ở trong cô. Họ kết hôn vào một chiều thứ Bảy cuối tháng Mươi, lúc ba giờ tại nhà thờ Mochudi với đàn gia súc đứng bên ngoài dưới bóng cây và trời cӵc kỳ nóng. Vùng nông thôn năm ấy khô hạn vì năm ngoái mưa không nhiều lắm. Mọi thứ khô nẻ và tàn héo. Chỉ còn lại một ít cỏ và bọn gia súc chỉ còn da bọc xương. Đây là thời gian khốn khó nhất. Mục sư nhà thờ làm phép cưới cho họ thở hổn hển trong bộ áo linh mục đen, lau trán bằng chiếc khăn tay to màu đỏ. Ngày nói: “Trong mắt Chúa các con đã thành vợ chồng. Chúa ban cho các con nhӳng trách nhiệm. Chúa theo bước chúng ta và bảo vệ chúng ta trong thế giới tội lỗi này. Chúa yêu các con chiên của người, nhưng chúng ta phải nhớ nhӳng trách nhiệm người đã giao cho chúng ta. Hai con có hiểu điều ta đang nói không?” Note mỉm cười. “Con hiểu”. Và mục sư quay lại phía Precious: “Còn con có hiểu không?” Cô nhìn vào khuôn mặt mục sư – khuôn mặt của bạn bố cô. Cô biết rằng bố đã nói chuyện với ông về đám cưới này và về việc ông không hề vui vì đám cưới. Tuy nhiên mục sư đã nói ông không thể can thiệp vào chuyện này. Giờ đây giọng nói ông dịu dàng, và ông nhẹ nhàng nắm lấy tay của cô trao cho Note. Khi mục sư làm thế, đứa trẻ trong cô cử động, cô cau mày vì cử động đột ngột và quá mạnh. Sau hai ngày ở Mochudi, sống trong nhà một người họ hàng của Note, họ đóng gói đồ đạc lên xe tải và đi xuống Gaborone. Note đã tìm thấy một nơi để ở trong nhà người quen nào đó gần Tlokweng – hai phòng ngủ và một bếp. Thật xa xỉ với hai phòng ở; một làm phòng ngủ được trang trí chiếc đệm đôi và một tủ quần áo cũ; phòng còn lại làm phòng khách và phòng ăn, có một cái bàn, hai chiếc ghế và một cái tủ buýp phê. Nhӳng tấm rèm màu vàng trong căn phòng của cô tại nhà người cô họ được đem treo lên. Chúng làm cho căn phòng này sáng sủa và vui mắt. Note để kèn trumpet và băng cát sét của anh ta ở đó. Mỗi lần anh ta tập hai mươi phút, và sau đó trong lúc nghỉ ngơi anh ta sẽ nghe một băng cát sét và gảy nhӳng giai điêu bằng cây ghi ta. Anh ấy biết mọi thứ về nhạc của người da đen sống ở ngoại ô – nó xuất xứ từ đầu, ai chơi loại nhạc đó, ai hát loại nhạc đó. Anh ta cũng biết đến các tên tuổi vĩ đại như Hugh Masekela của kèn trumpet, Dollar với đàn piano, ca sĩ Spokes Machomane. Anh ta biết từng người họ ở Johannesbugs, và biết tất cả đĩa nhạc họ từng phát hành. Cô ngắm anh lấy chiếc kèn từ trong hộp và lắp miệng kèn. Cô ngắm khi anh đưa kèn lên môi và đột nhiên, từ cái cốc nhỏ xíu bằng kim loại đối nghịch với âm thanh vỡ òa lên như con dao sáng lóe cắt ngang không khí. Rồi căn phòng nhỏ sẽ vang lên âm thanh và nhӳng con ruồi sóc bật ra khỏi trang thái lờ đờ uể oải của chúng. Chúng rì rầm xung quanh như thể nhӳng trang giấy đang xoay t Cô đi với anh ta tới các quán bar và ở đó anh tử tế với cô. Nhưng dường như anh ta chỉ hòa hợp trong nhóm của mình và cô cảm thấy anh thật sӵ không muốn cô ở đó. Có nhӳng người ở đó chẳng nghĩ gì ngoại trừ âm nhạc. Họ nói không thôi về âm nhạc, âm nhạc, âm nhạc. Một người có thể nói bao nhiêu về âm nhạc? Cô nghĩ họ không muốn cô ở đó và cô cũng không muốn tới các quán bar nӳa. Anh ta về nhà muộn và sӵc mùi bia. Thӵc ra là mùi chua giống như mùi sӳa ôi, và cô quay đầu đi khi anh ta đẩy cô xuống giường và lột quần áo cô. “Anh đã uống quá nhiều bia. Anh phải đi ngủ sớm thôi”. Anh ta nhìn cô bằng đôi mắt vô hồn. Tôi có thể uống nếu tôi muốn. Cô chỉ là một trong số nhӳng phụ nӳ chỉ biết ở nhà và phàn nàn phải không? Cô là thế phải không? “Em không phải thế. Em chỉ muốn nói anh phải đi ngủ thôi”. Nhưng cơn tức giận của anh ta không hề dịu bớt: “Cô làm tôi phải trừng phạt cô. Cô buộc tôi làm điều này với cô.” Cô kêu ầm lên và cố gắng chống cӵ, cố đẩy anh ta ra nhưng anh ta quá khỏe. “Đừng làm đau con”. “Con! Sao lại nói về đứa bé này? Nó không phải của tôi. Tôi không phải là bố của bất cứ đứa bé nào”. Người đàn ông lại cho tay vào, nhưng lần này là trong đôi tay cao su mỏng. Nó làm đôi bàn tay ông nhợt nhạt và không thành thạo, giống như đôi tay của người da trắng. “Cô có thấy đau ở đây không? Không à? Và ở đây?” C “Tôi nghĩ đứa bé ổn thôi. Nhӳng vết thương ở đây phải không? Chỉ bị thương ngoài da hay còn đâu nӳa không?”. “Chỉ ở ngoài da thôi.” “Tôi hiểu. Tôi sẽ khâu ở đây. Tất cả mũi khâu sẽ tập trung ở đây vì da cô bị rách khá sâu. Tôi sẽ xịt thuốc lên vết thương nhưng có lẽ tốt hơn cô đừng nhìn trong lúc tôi khâu! Nhiều người nói rằng đàn ông không thể khâu vá, nhưng trong chuyện này bác sĩ chúng tôi không tệ đâu!” Cô nhắm mắt lại và nghe tiếng huýt sáo. Có hơi xịt lạnh trên da cô và rồi bác sĩ gây tê chỗ vết thương. “Vậy là chồng cô gây ra phải không? Tôi nói đúng chứ?” Cô mở to mắt. Bác sĩ đã hoàn thành mũi khâu vết thương và chuyển vài thứ cho y tá. Bây giờ ông đang nhìn cô trong khi tháo găng tay. “Chuyện này trước đây xảy ra bao nhiêu lần rồi? Có ai chăm sóc cô không?” “Tôi không biết. Tôi không biết”. “Tôi nghĩ cô sẽ quay về với anh ta phải không?” Cô mở miệng nói, nhưng ông ngắt lời cô: “Tất nhiên cô làm vậy. Chuyện này luôn luôn là như thế. Phụ nӳ luôn quay trở về”. Ông thở dài. “Có lẽ tôi sẽ gặp lại cô, cô biết đấy. Nhưng tôi hy vọng chuyện đó không xảy ra. Hãy cẩn thận”. Ngày hôm sau cô trở về với một cái khăn buộc quanh mặt để giấu đi nhӳng vết thâm tím và nhӳng vết xước. Cô bị đau ở cánh tay và bụng, vết thương được khâu đau nhói từng cơn. Ở bệnh viện họ cho cô uống thuốc và cô chỉ uống một viên trước khi lên xe buýt. Viên thuốc dường như có ích cho vết thương và có uống viên thứ hai trên hành trình về nhà Cửa ra vào mở. Cô bước vào, trái tim đập thình thịch trong lồng ngӵc, và cô thấy chuyện gì đã xảy ra. Căn phòng trống không, còn lại ít đồ đạc. Anh ta đã mang đi băng cát sét của mình, cái hòm sắt mới họ cùng nhӳng tấm rèm màu vàng. Trong phòng ngủ, anh ta dung dao rạch nát tấm đệm và chỉ còn nhӳng bông gạo trên nền nhà, làm căn phòng thật méo mó, biến dạng. Cô ngồi xuống giường và cứ ngồi đó nhìn xuống nền nhà cho tới khi người hàng xóm tới và nói rằng ai đó sẽ đưa cô lên xe tải về Mochudi, về với Obeb, về với bố cô. Cô ở đó chăm sóc bố mười bốn năm tiếp theo. Sau khi sinh nhật lần thứ ba mươi tư của cô một thời gian ngắn thì bố cô chết, và đó là thời điểm mà Precious Ramotswe – người từng trải qua một cuộc hôn nhân ác mộng, người mẹ của đứa trẻ đáng yêu trong năm ngày ngắn ngủi, trở thành nӳ thám tử đầu tiên ở Botswana. Chương 5 Việc bạn cần làm để mở một văn phòng thám tử Mma Ramotswe từng nghĩ rằng chẳng dễ gì để mở một văn phòng thám tử. Mi người luôn phạm sai lầm khi nghĩ rằng bắt đầu việc kinh doanh thật đơn giản và sau đó phát hiện ra tất cả nhӳng vấn đề tiềm ẩn và nhӳng yêu cầu không tiên đoán được. Cô nghe nhӳng ngươi đang kinh doanh nói rằng việc kinh doanh sẽ kéo dài bốn hoặc năm tuần trước khi họ hết tiền hoặc hết vốn, hoặc cả hai. Thӵc tế luôn khó khăn hơn bạn nghĩ. Cô tới gặp luật sư đã thu xếp cho cô thừa hưởng số tiền của bố mình ở Pilane. Ông tổ chức việc bán gia súc và đã bán được giá hời cho cô. “Tôi có rất nhiều tiền cho cô”, ông ta nói: “Đàn gia súc của bố cô đã tăng giá và tiếp tục tăng giá”. Cô nhận lấy tấm séc và tập giấy tờ ông ta đưa cho cô. Số tiền lớn hơn cô tưởng tượng. Nhưng tất cả số đây, được trả cho Precious Ramotswe qua ngân hàng Barclays của Botswana. “Cô có thể mua một ngôi nhà với số tiền này”, ông luật sư nói. “Và một công việc kinh doanh”. “Tôi sẽ mua cả hai thứ đó”. Ông luật sư trông thật hào hứng. “Cô kinh doanh cái gì? Một cửa hàng ư? Tôi có thể cho cô lời khuyên, cô biết đấy”. “Mộ văn phòng thám tử”. Ông luật sư nhìn vô hồn. “Chẳng có giá trị gì. Chẳng có gì hết”. Mma Ramotswe gật đầu. “Tôi biết điều đó. Tôi sẽ bắt đầu từ vạch xuất phát”. Ông luật sư nhăn mặt khi cô nói. “Việc kinh doanh này đánh mất tiền như chơi”, ông nói. “Đặc biệt khi cô không biết tí gì về việc mình đang làm.” Ông ta nhìn cô chằm chằm. “Đặc biệt là sau này. Và dù sau đi nӳa, phụ nӳ có thể trở thành thám tử không? Cô nghĩ họ có thể làm được chứ?” “Tại sao không?” Mma Ramotswe trả lời. Cô đã nghe nói mọi người không thích ông luật sư này, và bây giờ cô nghĩ có thể hiểu tại sao. Người đàn ông này quá tӵ tin vào bản thân mình. Việc cô làm thì ảnh hưởng gì đối với ông ta? Đó là tiền của cô, là tương lai của cô. Làm sao ông ta dám nói thế về phụ nӳ khi thậm chí ông ta không biết rằng khóa quần mình chỉ mới kéo một nӳa! Cô có nên nói với ông ta biết không nhỉ? “Phụ nӳ là nhӳng người biết chuyện gì đang xảy ra”, cô lặng lẽ nói. “Họ là nhӳng người có mắt. Ông chưa nghe về Agatha Christie à?” Ông luật sư hỏi lại. “Agatha Christie? Tất nhiên tôi biết bà ta. Vâng, chuyện đó đúng. Một phụ nӳ nhìn thấy nhiều hơn một người đàn ông. Bà ta nổi tiếng”. “Vì thế”, Mma Ramotswe nói, “khi mọi người thấy biển hiệu ghi Văn phòng thám tử số 1 dành cho các quý bà thì họ sẽ nghĩ gì nhỉ? H sẽ nghĩ nhӳng phụ nӳ kia biết chuyện gì đang diễn ra. Họ là nhӳng người như thế”. Vị luật sư vuốt ve cái cằm. “Có thể”. “Đúng”, Mma Ramotswe nói. “Có thể. Thêm nӳa, khóa quần của ông, thưa ông. Tôi nghĩ có thể ông không chú ý…”. Đầu tiên cô tìm một ngôi nhà ở góc đường Zebra Drive. Khá đắt, và cô quyết định bỏ qua vì cô cũng có thể đủ tiền để mua nơi nào đó để kinh doanh. Đó là một việc khó khăn hơn. Tuy nhiên cuối cùng cô tìm được một ngôi nhà nhỏ gần Kgale Hill, ở ngoài thị trấn. Đây là một chỗ tốt vì hàng ngày rất nhiều người đi bộ xuống con đường đó và sẽ nhìn thấy biển hiệu. Nó cũng khá hiệu quả như quảng cáo trên tờ Tin tức hàng ngày hay tờ Người bảo vệ Botswana. Mọi người sẽ nhanh chóng biết tới cô. Ngôi nhà cô mua ban đầu là một cửa hàng đại lý lớn nhưng được chuyển đổi thành một tiệm giặt là khô và cuối cùng là một cửa hàng bán chai lọ. Khoảng một năm nó bị bỏ không và nhӳng kẻ vô gia cư chiếm dụng bất hợp pháp. Họ nhóm lửa trong nhà, và trong mỗi phòng có một phần bức tường thạch cao bị đốt thành than. Nhưng chủ nhà từ Francistown đã quay trở về và tống cổ nhӳng kẻ vô gia cư, đặt một trạm quan sát. Đã có một hay hai vị khách tới trả giá nhưng vì tình trang ngôi nhà nên họ đánh tháo và giá nhà giảm xuống. Khi Mma Ramotswe đề nghị mua, chủ nhà đã nhảy lên vì vui mừng và trong bảy ngày cô nhận được đầy đủ giấy tờ. Có quá nhiều việc phải làm. Một thợ xây được gọi tới để thay nhӳng bức thạch cao bị phá hủy và sửa chӳa mái tôn. Và một lần nӳa cùng với đề nghị mua bán, công việc này cũng hoàn thành trong một tuần. Sau đó Mma Ramotswe làm nhiệm vụ sơn tường, và nhanh chóng cô sơn xong bên ngoài bằng màu nâu nhạt, bên trong màu trắng. Cô mua nhӳng tấm rèm màu vàng mới cho cửa sổ và trong một phút tiêu pha hoang phí bất bình thường, cô vung tiền mua hai bộ bàn ghế làm việc mới cho văn phòng. Bạn của cô, anh J.L.B Matekoni, chủ sở hӳu Cửa hàng xe máy Tốc độ ở Tlokwenf đem tới một chiếc máy chӳ cũ thừa ở chỗ anh ta. Chiếc máy chӳ vẫn hoạt động khá tốt. Cùng với tất cả nhӳng thứ đó văn phòng sẵn sang khai trương – sau khi cô có một thư ký. Đây là việc dễ nhất trong tất cả mọi việc. Một cú điện thoại tới Trường nghiệp vụ Văn phòng và Thư ký Botswana, ngay lập tức có câu trả lời. Họ nói có một phụ nӳ. Cô Makutsi là góa phụ của một giáo viên và đã vượt qua các bài kiểm tra đánh máy và nghiệp vụ thư ký với mức trung bình chín mươi bảy phần trăm. Cô ấy là thư ký lý tưởng – họ đảm bảo về điều này. Ngay lập tức Mma Ramotswe thích cô ấy. Cô Makutsi là một phụ nӳ gầy yếu có khuôn mặt khá dài và mái tóc tết bím được làm bóng bằng cây lá móng. Cô ấy đeo cặp kính hình ô van khung bằng nhӵa và tỏ ra rất nghiêm túc. Tuy nhiên nhìn bên ngoài lúc nào cô ấy cũng hơi mỉm cười. Họ khai trương văn phòng vào thứ Hai. Mma Ramotswe ngồi ở bàn của mình và cô Makutsi ngồi ở bàn cô ấy, đằng sau chiếc máy đánh chӳ. Cô nhìn Mma Ramotswe và mỉm cười, thậm chí rộng hơn bình thường. “Tôi sẵn sàng làm việc”, cô ấy nói. “Tôi sẵn sàng để bắt đầu”. “Ừm”, Mma Ramotswe nói. “Thӵc sӵ bây giờ còn sớm. Chúng ta vừa mới khai trương. Chúng ta sẽ phải đợi khách hàng tới”. Trong tim mình Mma Ramotswe hiểu sẽ chẳng có vị khách nào. Toàn bộ ý tưởng này là một sai lầm chết người. Chẳng ai muốn một thám tử tư, và tất nhiên không ai cần cô. Rốt cuộc, cô là ai? Cô chỉ là Precious Ramotswe ở Mochudi. Cô chưa từng tới London hay bất cứ nơi nào để tìm hiểu làm thế nào trở thành thám tử tư. Cô chưa bao giờ tới Johannesburg. Chuyện gì xảy ra nếu ai đó tới đây và nói: ‘Chắc chắn cô biết Johannesburg”, cô sẽ phải nói dối hoặc chẳng nói gì. Cô Makutsi nhìn cô và rồi nhìn xuống bàn phím máy chӳ. Cô ấy mở một ngăn kéo, nhìn săm soi vào bên trong, sau đó đóng lại. Lúc đó một con gà mái ở ngoài sân đi vào phòng và mổ cái gì đó trên nền nhà. “Đi ra”, cô Makutsi hét ầm lên. “Không gà qué gì ở đây hết!” Lúc mười giờ cô Makutsi rời khỏi bàn mình và đi vào phòng trong pha trà. Mma Ramotswe yêu cầu cô ấy pha trà bụi đỏ mà cô yêu thích. Nhanh chóng cô Makutsi mang ra hai tách trà. Cô ấy có một hộp sӳa đặc trong túi xách và lấy nó ra đổ vào mỗi tách trà một ít sӳa. Sau đó họ uống trà, nhìn cậu bé con ở ven đường ném đá vào một con chó xương xẩu. Lúc mười một giờ họ lại uống tiếp tách trà nӳa, và lúc mười hai giờ Mma Ramotswe duỗi chân thông báo cô sẽ đi bộ đến các cửa hàng để mua nước hoa cho mình. Cô Makutsi nói sẽ ở lạinghe điện thoại và tiếp đón bất cứ vị khách nào. Mma Ramotswe mỉm cười khi nghe cô ấy nói thế. Tất nhiên sẽ chẳng có vị khách nào cả và cô sẽ đóng cửa vào cuối tháng này. Cô Makutsi có hiểu cô ấy nhận được một công việc khó khăn không nhỉ? Một nӳ thư ký với mức trung bình chín mươi bảy phần trăm xứng đáng nhận một công việc tốt hơn. Mma Ramotswe đang đứng ở quầy trong cửa hàng, nhìn vào một lọ nước hoa khi cô Makutsi va mạnh vào cánh cửa ra vào. “Mma Ramotswe”, cô ấy đau đớn nói. “Một vị khách. Có một vị khách trong văn phòng. Một vụ lớn. Một người đàn ông đang mất tích. Về nhanh lên. Không còn thời gian đâu”. Vợ của nhӳng người đàn ông mất tích tất cả đều giống nhau, Mma Ramotswe nghĩ vậy. Ban đầu họ cảm thấy lo lắng và bị thuyết phục rằng có cái gì đáng sợ đã xảy ra. Sau đó sӵ nghi ngờ bắt đầu len lỏi, và họ băn khoăn liệu anh ta có bỏ đi với người phụ nӳ khác không (chuyện này luôn xảy ra với anh ta), rồi cuối cùng họ trở nên giận dӳ. Trong lúc giận dӳ, đa số họ không muốn anh ta quay về một chút nào hết, thậm chí nếu có tìm thấy anh ta. Họ chỉ muốn có một cơ hội để quát tháo anh ta. Cô nghĩ Mma Malatsi đang trong giai đoạn thứ hai. Cô ấy bắt đầu nghi ngờ anh ta đang nghỉ ngơi ở nơi nào đó trong khi cô ta ở nhà, và tất nhiên việc đó đang bắt đầu giày vò cô ấy. Có thể có thể có nhӳng món nợ phải trả, thậm chí cô ấy có vẻ là người hơi ít tiền. “Có lẽ cô nên kể tôi nghe một chút về chồng cô”, cô nói khi Mma Malatsi bắt đầu uống tách trà bụi đỏ đặc mà cô Makutsi pha. “Tên anh ấy là Peter Malatsi”, Mma Malatsi nói. “Anh ấy bốn mươi tuổi và anh ấy buôn bán đồ nội thất. Một công việc tốt và anh ấy làm ăn giỏi. Vì vậy anh ấy không thể bỏ đi vì các chủ nợ.” Mma Ramotswe gật đầu. “Hẳn có nguyên nhân khác”, cô nói, và sau đó thận trọng: “Cô biết đàn ông như thế nào rồi đấy. Phụ nӳ khác thì sao? Cô có nghĩ…”. Mma Malatsi lắc mạnh đầu>“Tôi không nghĩ thế”, cô ấy nói. “Một năm trước chuyện này có thể xảy ra, nhưng anh ấy đã thành tín đồ Cơ đốc giáo và gia nhập vào nhà thờ để hát và đi khắp nơi trong bộ đồng phục trắng”. Mma Ramotswe ghi lại điều này. Nhà thờ. Ca hát. Có một tôn giáo tồi ư? Một nӳ thuyết giáo đã quyến rũ anh ta rồi chăng? “Nhӳng người này là ai?”, cô hỏi. “Có thể họ biết điều gì đó về anh ấy”. Mma Malatsi rùng mình. “Tôi không chắc, cô nói hơi ngắt quãng. “Thӵc tế, tôi không biết. Anh ấy bảo tôi đi cùng một hay hai lần nhưng tôi từ chối. Vì thế các ngày Chủ nhật anh ấy đi một mình. Thӵc ra anh ấy đã biến mất vào một ngày Chủ nhật. Tôi nghĩ anh ấy đã tới nhà thờ.” Mma Ramotswe nhìn lên trần nhà. Vụ này sẽ không khó như vài trường hợp khác. Rõ ràng là Peter Malatsi đã bỏ đi cùng một trong nhӳng tín đồ Cơ đốc giáo. Bây giờ tất cả nhӳng gì cô phải làm là tìm xem nhóm tín đồ ấy là gì và cô sẽ theo dấu anh ta. Đây là câu chuyện cũ rích có thể biết trước kết quả; thậm chí cô quả quyết đó là một phụ nӳ Cơ đốc giáo trẻ trung. Nhưng cuối ngày tiếp theo, Mma Ramotswe đã soạn ra một danh sách của năm nhóm Cơ đốc giáo phù hợp với miêu tả. Hơn hai ngày sau cô theo dấu ba người đứng đầu trong số đó và hài lòng với kết quả là chẳng ai biết gì về Peter Malatsi. Hai trong số ba người họ cố cảm hóa cô, người thứ ba gần như xin tiền cô và đã nhận được một tờ năm pula. Khi cô xác định vị trí của người thứ tư, Đức cha Shadreck Mapeli, cô biết cuộc tìm kiếm đã kết thúc. Khi cô nhắc tới cái tên Malatsi, Đức cha rùng mình và lén liếc nhìn qua vai mình. “Cô là người của cảnh sát phải không?” Đức cha hỏi. “Cô là cảnh sát à?” “Nӳ cảnh sát.” Cô trả lời. “À!” ông nói một cách đau buồn. “Ý tôi nói tôi không phải là nӳ cảnh sát”, cô nói nh. “Tôi là một thám tử tư”. Nhanh chóng Đức cha lấy lại sӵ bình tĩnh. “Ai cử cô tới đây?” “Cô Malatsi”. “Ôi. Anh ta nói với chúng tôi anh ta không vợ”. “Anh ta đã làm thế”, Mma Ramotswe nói. “Và cô ấy đang lo lắng không biết anh ấy ở đâu”. “Anh ấy chết rồi”, Đức cha nói. “Anh ta đã về với Chúa”. Mma Ramotswe cảm thấy ông đang kể sӵ thật, và cuối cùng việc điều tra của cô cũng có kết quả. Bây giờ vấn đề còn lại phải làm là tìm hiểu anh ta đã chết như thế nào. “Ôi phải kể cho tôi”, cô nói. “Tôi sẽ không tiết lộ tên ông cho bất cứ ai nếu ông không muốn. Hãy kể cho tôi biết việc xảy ra như thế nào”. Họ đi xe của Mma Ramotswe tới bờ song. Bây giờ đang mùa mưa và cơn bão khiến họ không thể vượt qua con đường mòn. Nhưng cuối cùng họ cũng tới được bờ song và đỗ xe dưới một cái cây. “Đây là nơi chúng tôi tiến hành các lễ rửa tội”, Đức cha nói và chỉ vào một cái hồ nước ở chỗ phình ra trên dòng sông. “Đây là chỗ tôi đứng, ở đây, và đây là chỗ người xưng tội”. “Ông có bao nhiêu người xưng tội?” Mma ramotswe hỏi. “Tổng cộng có sáu người, gồm cả Peter Malatsi. Tất cả họ đi cùng nhau trong lúc tôi chuẩn bị cầm quyền trượng theo sau”. “Thật sau?” Mma Ramotswe nói. “Rồi chuyện gì xảy ra?” “Nhӳng người xưng tội đang đứng trong nước cùng nhau, khoảng chỗ này”. Đức cha ra dấu trên ngӵc. “Tôi đi vòng quanh để bảo các con chiên bắt đầu hátồi khi quay lại tôi nhận thấy chuyện đó đã xảy ra. Chỉ còn năm người đứng trong dòng nước”. “Một người đã biến mất!” “Đúng thế”, Đức cha hơi run run khi nói. “Chúa đã mang một người trong số họ về với sӵ che chở đùm bọc của người”. Mma Ramotswe nhìn xuống dòng nước. Đây không phải là một con sông lớn và nhiều năm nay đã bị thu hẹp lại thành nhӳng cái hồ tù đọng. Nhưng vào mùa mưa lớn như năm nay nó thể thành một dòng nước lũ. Một người không biết bơi có thể dễ dàng bị cuốn trôi, và thậm chí nếu ai đó bị cuốn đi thì xác của họ chắc chắn sẽ được tìm thấy ở hạ lưu. Có vô số người tới dòng sông này với mục đích này hay mục đích khác và họ nhìn thấy cái xác. Cảnh sát sẽ được gọi tới. trên báo sẽ đưa tin về cái xác chưa rõ tung tích được tìm thấy tại song Notwane; báo chí luôn tìm kiếm nhӳng chuyện như thế này. Họ sẽ không để có cơ hội này trôi qua. Cô nghĩ trong giây lát. Có một sӵ giải thích khác, và nó làm cô rùng mình. Nhưng trước khi đi sâu vào chuyện này cô đã biết tại sao Đức cha giӳ kín tất cả. “Ngài đã không gọi cảnh sát”, cô nói, cố gắng không nói như đang buột tội. “Tại sao không?” Đức cha nhìn xuống mặt đất. Hành động này theo kinh nghiệm của cô là của nhӳng người thӵc sӵ hối hận. Cô cho nhӳng kẻ không tỏ ra hối lỗi luôn luôn nhìn lên trời. “Tôi biết tôi nên báo cho họ. Chúa sẽ trừng phạt tôi về tội này. Nhưng tôi đã lo sợ rằng mình sẽ bị buộc tội về tai nạn của Peter đáng thương, và tôi nghĩ họ sẽ đưa tôi ra tòa. Có thể họ sẽ bắt tôi trả tiền bồi thường; điều đó sẽ làm cho nhà thờ của chúng tôi phá sản và chấm dứt việc thờ phụng Chúa”. Ông dừng lại. “Cô hiểu tại sao tôi giӳ im lặng và bảo tất cả các con chiên không nói gì hết không?” Mma Ramotswe gật đầu và nhẹ nhàng chạm vào cánh tay Đức cha. “Tôi không nghĩ ngài đã làm điều xấu”, cô nói. “Tôi chắc Chúa muốn ngài tiếp tục và Chúa sẽ không tức giận đâu. Đó không phải lỗi của ngài Đức cha ngước mắt lên và mỉm cười. “Thật là nhӳng lời tốt đẹp, con gái của ta. Cảm ơn con.” Chiều hôm đó Mma Ramotswe hỏi mượn người hàng xóm một trong nhӳng con chó của anh ta. Anh ta có một đàn năm con và cô ghét tất cả chúng vì tiếng sủa không dứt. Bọn chúng sủa vào buổi sáng giống như nhӳng con gà trống, và sủa vào buổi đêm khi mặt trăng đã hiện trên bầu trời. Chúng sủa nhӳng đám đông, sủa khách qua đường, và thỉnh thoảng sủa chỉ vì chúng thấy quá nóng. “Tôi cần một con chó để giúp tôi trong một vụ án”, cô giải thích. “Tôi sẽ mang nó về an toàn và khỏe mạnh”. Người hàng xóm được tâng bốc nói: “Tôi sẽ đưa cho cô con chó này. Nó là con chó trưởng thành và có cái mũi rất thính. Nó sẽ là một con chó thám tử giỏi.” Mma Ramotswe thận trọng nhận lấy con chó. Nó là con vật to lớn màu vàng với cái mùi kinh tởm, lạ lùng. Đêm đó, cô đưa con chó lên sau thùng xe, buộc cổ nó vào tay cầm bằng một sợi dây. Sau đó cô bắt đầu lên đường xuống con đường mòn tới bờ sông. Ánh đèn pha làm nổi bật nhӳng cây gai và nhӳng tổ kiến trong bóng tối. Bằng một kiểu kỳ lạ, cô cảm thấy vui vẻ với sӵ cộng tác của con chó vốn không được ưa này. Bây giờ, bên cái hồ trong dòng sông, cô lấy một cái cọc khá to từ trên xe xuống và chọc xuống nền đất mềm gần mép nước. Sau đó cô chọc tức con chó, đẩy nó xuống hồ và buộc chặt sợi dây vào cái cọc. Lấy từ cái túi đem theo ra một khúc xương và nhử trước mũi con chó. Con vật kêu lên thích thú và ngay lập tức gặm lấy khúc xương. Mma Ramotswe đợi cách đó vài thước, phủ một cái chăn quanh chân để tránh muỗi và để khẩu súng trường cũ lên đầu gối. Cô biết có thể phải đợi lâu và hy vọng mình sẽ không ngủ quên mất. Dù cho cô ngủ quên thì chắc chắn con chó sẽ đánh thức cô khi thời điểm đến. Hai giờ đồng hồ qua đi. Bọn muỗi thật kinh khủng, da cô ngứa ngáy, nhưng đây là công việc và khi làm việc cô không bao giờ than phiền. Rồi bất thình lình con chó gầm gừ. Mma Ramotswe căng mắt trong bóng tối. Cô chỉ có thể óng của con chó và cô thấy nó đang đứng nhìn về phía dòng nước. Con chó lại gầm gừ và sủa một tiếng. sau đó nó lại im lặng. Mma Ramotswe đạp tung chăn ra, cầm đèn pin ở bên cạnh lên. Cô nghĩ chỉ một chút nӳa thôi. Có tiếng động ở mép sông và Mma Ramotswe biết đã đến lúc bật đèn pin lên. Khi chum sáng hiện lên, cô trông thấy, ở ngay mép sông, đầu của nó quay về hướng con chó đang co rúm lại, một con cá sấu lớn. Con cá sấu hoàn toàn không quan tâm đến ánh sáng. Đôi mắt nó dán vào con chó, và nó đang từ từ trườn về phía con mồi của mình. Mma Ramotswe đặt khẩu súng trường lên vai và đầu con cá sấu hoàn toàn trong tầm ngắm. Cô kéo cò súng. Khi viên đạn trúng con cá sấu, nó bất thình lình thay đổi tư thế, chính xác là một cú lộn nhào và lật ngửa ra sau, một nửa dưới nước, một nửa trên bờ. Nó co rút khoảng một hoặc hai giây rồi sau đó nằm bất tỉnh. Đó là một phát đạn hoàn hảo. Mma Ramotswe thấy mình đang run rẩy khi đặt khẩu súng xuống. Bố đã dạy cô bắn súng và ông làm việc đó rất giỏi, nhưng cô không thích bắn động vật, đặc biệt là cá sấu. Nhӳng con vật này thật không may mắn, nhưng nhiệm vụ bắt buộc cô phải làm. Và dù sao đi nӳa con cá sấu này đang làm gì ở đây? Nhӳng con vật này không thuộc về sông Notwane; hẳn nó đi hàng dặm qua đất liền hoặc bơi theo dòng nước lũ từ Limpopo tới đây. Con cá sấu tội nghiệp – đây là kết thúc cho một cuộc thám hiểm. Cô lấy con dao và rạch bụng con vật. Da nó thật mềm và dạ dày nhanh chóng lộ ra với nhiều phát hiện. Trong dạ dày nó có đá cuội dùng để tiêu hóa thức ăn, một vài miếng cá hôi hám. Nhưng chẳng có gì thu hút cô. Cô hứng thứ hơn khi phát hiện nhӳng chiếc vòng tay, nhẫn và đồng hồ đeo tay không tiêu hóa được. Chúng bị gặm mòn, và một hoặc hai vật trong số này được khảm nạm và nổi bật lên giӳa nhӳng thứ trong dạ dày. Mỗi thứ là một bằng chứng về sӵ xấu xa của con cá sấu. “Đây là tài sản của chồng cô phải không?” cô hỏi Mma Malatsi, trao cho cô ấy chiếc đồng hồ đeo tay lấy từ dạ dày con cá sấu. Mma Malatsi cầm chiếc đồng hồ và nhìn kӻ. Mmam Ramotswe biểu lộ sӵ đau đớn. Cô ghét nhӳng giây phút như thế này vì cô không còn lӵa chọn nào khác ngoài việc là người đem tin xấu tới Nhưng Mma Malatsi tỏ ra bình tĩnh khác thường. “Cuối cùng tôi biết anh ấy đã về với Chúa”, cô ta nói. “Và điều đó tốt hơn biết rằng anh ấy đang ở trong vòng tay của người phụ nӳ nào đó đúng không?” Mma Ramotswe gật đầu. “Tôi nghĩ là đúng”, cô trả lời. “Cô kết hôn chưa?”, Mma Malatsi hỏi. “Cô có hiểu kết hôn với người đàn ông là như thế nào không?” Mma Ramotswe nhìn ra cửa sổ. Có một cây gai bên cửa sổ nhưng trên cao cô thấy nhӳng ngọn đồi rải rác đá cuội. “Tôi có chồng”, cô nói. “Tôi đã một lần lấy chồng. Anh ấy chơi kèn trumpet. Anh ấy và tôi không hạnh phúc và bây giờ tôi vui vì mình không có chồng nӳa”. Cô dừng lại. “Tôi xin lỗi. Tôi không có ý khiếm nhã. Cô vừa mất chồng và cô hẳn rất buồn”. “Một chút thôi”, Mma Malatsi nói. “Nhưng tôi có rất nhiều việc phải làm”. Chương 6 Cậu bé Cậu bé mười một tuổi và nhỏ hơn so với tuổi. Họ đã thử mọi thứ để làm cu bé lớn lên nhưng vô ích, và bây giờ nếu bạn gặp cậu bạn sẽ nói cậu chỉ tám hay chín tuổi. Bố cậu từng nói với cậu: “Trước kia bố cũng là một cậu bé lùn. Bây giờ bố là một người đàn ông cao. Hãy nhìn bố. Việc này sẽ xảy ra với con. Con chỉ việc đợi thôi.” Nhưng trong thâm tâm bố mẹ cậu sợ rằng có cái gì không bình thường, có lẽ xương sống của cậu bị co rút và điều này cản trở phát triển của cậu. Gần bốn tuổi, cậu đã bị ngã từ trên cây xuống lúc đang lấy trứng chim và nằm bất động vài phút không thở cho tới khi bà cậu vừa chạy vừa khóc dọc cánh đồng dưa và bế cậu lên mang về nhà, tay cậu vẫn nắm chặt một quả trứng vỡ nát. Cậu hồi phục sức khỏe – hay tại thời điểm này họ nghĩ thế - nhưng họ nghĩ bước chân của cậu đổi khác. Họ đã đưa cậu tới phòng khám. Một y tá nhìn vào mắt và mồm cậu rồi tuyên bố cậu khỏe mạnh. “Các cậu bé lúc nào chẳng ngả. Chúng hiếm khi gãy cái gì lắm.” Cô y tá đặt tay lên vai cậu bé và vặn mình cậu. “Nhìn đi. Nó chẳng có vấn đề gì hết. Không có gì. Nếu có bị gẫy cái gì thì nó đã kêu ầm lên rồi.” Nhưng nhӳng năm tháng sau cậu bé vẫn nhỏ như thế. Mẹ cậu nghĩ về cú ngã và buộc tội mình đã tin vào cô y tá chỉ giỏi làm các thí nghiệm bệnh do giun ở trong máu và bang quang gây ra và kiểm tra các con sâu. Cậu bé tò mò hơn các đứa bé khác. Cậu thích tìm nhӳng viên đá trong thế giới đá và đánh bóng chúng bằng nước bọt. Cậu cũng tìm thấy vai viên đá đẹp – nhӳng viên màu xanh thẫm và nhӳng viên có màu đỏ hồng như bầu trời lúc chạng vạng. Cậu cất nhӳng viên đá ở trong nhà mình và học đếm chúng. Nhӳng cậu bé khác học đếm bằng cách đếm gia súc, nhưng cậu bé này dường như không thích gia súc - với cậu chúng thật thừa thãi. Vốn tính tò mò cậu thường chạy lon ton quanh các bụi rậm với nhӳng mục đích bí hiểm và bố mẹ cậu đã quen với việc cậu liên tục ở ngoài tầm mắt họ. Chẳng nguy hiểm nào có thể tới với cậu trừ phi cậu đủ không may mắm lại gần một con rắn hổ mang. Nhưng việc này không bao giờ xảy ra và bất thình lình cậu sẽ lại xuất hiện bên hàng rào vây gia súc, hoặc đằng sau nhӳng con dê, tay nắm chặt vài thứ kỳ lạ mà cậu tìm thấy – một cái lông chim kền kền, một con vật nhiều chân chết khô, sọ một con rắn bị tẩy trắng. Bây giờ cậu bé lại ra ngoài, đi dọc một trong nhӳng con đường mòn dẫn tới lối này và thường xuyên qua bụi cây đầy bụi. cậu đã tìm ra cái gì thu hút cậu – bãi phân còn mới của một con rắn – và cậu theo đường mòn để có thể nhìn thấy con vật. Cậu biết là nó vì có nhӳng hình cầu của lông trên đường và chỉ có thể là một con rắn. Cậu chắc chắn nó là lông của con thỏ đá vì màu của nó và vì cậu biết nhӳng con thỏ đá yếu đuối hơn so với một con rắn. Nếu cậu tìm ra con rắn, cậu sẽ giết nó bằng một hòn đá và lột da nó rồi làm một cái thắc lưng da thật đẹp cho cậu hoặc bố. Nhưng trời đang tối và cậu sẽ phải dừng lại. cậu sẽ không bao giờ thấy con rắn trong một đêm không trăng; cậu sẽ bỏ con đường mòn và đi tắt qua bụi rậm hướng về con đường bụi bặm để quay về, vượt qua cánh rừng khô cằn để về làng. Cậu dễ dàng tìm thấy đường và ngồi bên mép đường một lát, dùng các ngón chân đào lớp cát mềm màu hồng. cậu đang đói và biết rằng sẽ có cháo thịt và cháo đặc tối nay vì cậu đã thấy bà chuẩn bị món hầm. Bà thường xuyên cho cậu ăn nhiều thức ăn hơn mọi người - nhiều hơn cả phần của bố - và việc này làm hai chị của cậu tức giận. “Chúng cháu cũng thích thịt. Con gái cũng thích thịt.” Nhưng lý lẽ đó cũng không thuyết phục được bà của họ. Cậu đứng lên và bắt đầu đi bộ dọc con đường. Bây giờ trời khá tối và nhӳng cái cây, nhӳng bụi rậm thì đen sì, không rõ hình thù, đang hòa lẫn vào nhau. Đâu đó một con chim đang gọi đàn – một con chim săn mồi đêm – và nhӳng con côn trùng đêm kêu thét. Cậu cảm thấy một cơn đau nhức nhối ở tay phải, và vỗ lên nó. Một con muỗi. Đột nhiên, trên tán lá của cái cây phía trước có một dải sáng màu vàng. Ánh sáng vụt lên rồi tắt và cậu quay lại. Có một chiếc xe tải sau lưng cậu. Nó không thể là một cái ô tô vì đất cát bám quá dày. Cậu đứng bên lề đường và chờ đợi. Bây giờ ánh sáng chiếu lên người cậu, một chiếc xe tải nhỏ, loại xe tải nhỏ không mui, thành thấp, có hai cái đèn pha hướng lên và xuống theo độ xốc nảy của con đường. Giờ thì ở trước mặt cậu và cậu lấy tay che mắt. “Chào buổi tối cậu bé”. Lời chào truyền thống cất lên từ ca-bin xe. Cậu mỉm cười và đáp lại lời chào. Cậu có thể thấy rõ hai người đàn ông trong ca-bin – một thanh niên trẻ ngồi sau tay lái, người già hơn ngồi bên cạnh. Mặc dù không nhìn thấy mặt họ nhưng cậu biết họ là người lạ. Có cái gì là lạ trong giọng nói Setswana của họ. Đó không phải là giọng người địa phương thường nói. Một giọng nói. Một giọng nói kỳ lạ, bắt đầu cao hơn ở cuối mỗi từ “Cháu đang đi săn nhӳng con vật hoang dã phải không? Cháu muốn bắt một con báo gấm trong đêm tối sao?” Cậu lắc đầu. “Không, cháu chỉ đi về nhà thôi vì con báo gấm có thể bắt cháu trước khi cháu bắt được nó”. Người đàn ông cười vang. “Cháu đúng đấy, cậu bé. Tối nay, chú không thích thấy một con báo gấm đâu”. “Chúng ta sẽ đưa cháu về nhà. Nhà cháu có xa không?” “Không. Nhà cháu không xa. Nó ở ngay kia. Đường đó”. Người lái xe mở cửa và nhảy xuống, vẫn để động cơ nổ, cho cậu bé ngồi trên băng ghế. Sau đó anh ta quay lại, đóng cửa và vào số. cậu nhắc chân lên – có vài con vật dưới nền xe và cậu đã chạm vào một cái mùi ẩm ướt – có thể là một con chó hoặc một con dê. Cậu liếc nhìn người đàn ông bên trái mình, người già hơn. Thật vô lễ khi nhìn chằm chằm và thật khó để nhìn lâu trong bóng tối. Nhưng cậu đã nhận ra môi ông ta hoạt động không tốt và ông ấy cũng đang nhìn cậu. Cậu quay đi. Một cậu bé không bao giờ nên nhìn chằm chằm vào một người đàn ông như thế này. Nhưng tại sao nhӳng người này ở đây? Họ đang làm gì? “Nhà cháu kia kìa. Có bố cháu ở nhà. Các chú nhìn đi - ở đằng kia. Nhӳng ánh điện đó”. “Chúng ta có thể nhìn thấy”. “Nếu các chú muốn từ đây cháu có thể đi bộ. Nếu các chú dừng lại cháu sẽ chạy về. Có một con đường mòn”. “Chúng ta sẽ không dừng. Cháu có vài việc phải làm cho chúng ta. Cháu có thể giúp chúng ta vài việc”. “Họ đang mong cháu về. Họ đang đợi”. “Thương xuyên có ai đó đang đợi một đó. Thường xuyên”. Cậu đột nhiên thấy sợ hãi và nhìn người lái xe. Người đàn ông trẻ hơn mỉm cười với cậu. “Đừng lo. Chỉ ngồi yên thôi. Tối nay cháu sẽ tới một nơi khác”. “Các chú đang đưa chái đi đâu thế? Tại sao các chú lại đưa cháu đi xa thế này?” Người đàn ông lớn tuổi hơn vươn người ra và tóm lấy cậu. “Cháu không bị nguy hiểm đâu. Cháu sẽ về nhà vào lúc khác. Họ sẽ biết cháu không gặp nguy hiểm. Cháu biết chúng ta là nhӳng người tốt mà. Chúng ta là người tốt. Nghe này, ta sẽ kể cho cháu nghe một câu chuyện nhỏ trong lúc chúng ta đi. Câu chuyện sẽ làm cháu vui và giӳ trật tӵ”. “Có vài cậu bé chăn gia súc chăm sóc một đàn gia súc của người chú giàu có của mình. Ông ta là người giàu có nhất! Ông có nhiều gia súc hơn bất cứ ai ở Bostwana và gia súc của ông ấy to, to như này này, còn to hơn nӳa”. Một hôm nhӳng cậu bé phát hiện ra một con bê trong đàn biến mất. Nó là một con bê kỳ lạ có nhiều màu sắc, không giống bất kỳ con bê nào chúng từng thấy. Và chúng vui mừng khi thấy con bê trở về. Theo cách khác con bê rất không bình thường. Con bê có thể hát bài hát gia súc mà chúng ta có thể nghe thấy ở bất cứ nơi đâu gần đó. Nhưng các cậu bé không hề nghe thấy con bê đang hát. Các cậu bé yêu con bê này, và bởi vì chú ý đến nó quá nhiều nên chúng không nhận ra vài con khác đang đi lạc. Ông chủ tới. Ông ta tới đây, người đàn ông cao ráo cùng một cái gậy. Ông ta quát tháo các cậu bé và dùng gậy đánh gia súc, nói rằng nhӳng con bê kỳ lạ không bao giờ đem lại may mắn. Vì vậy con bê chết. Nhưng trước khi chết nó thì thầm điều gì đó với các chú bé và lúc này chúng có thể nghe thấy. Điều này thật đặc biệt. Và khi các cậu bé kể cho ông chủ điều con bê đã nói ông ta quỳ sụp xuống và khóc lóc Con bê là anh trai ông ta, cháu biết không, người đã bị một con sư tử ăn thịt rất lâu trước đó và đã trở về. Bây giờ người đàn ông này đã giết anh trai mình và ông ta không bao giờ hạnh phúc nӳa. Ông ta buồn. Rất buồn. Cậu nhìn khuôn mặt người đàn ông khi anh ta kể câu chuyện. Nếu đến tận giây phút này cậu không nhận thức được việc gì đang xảy ra thì bây giờ cậu đã hiểu. Cậu biết chuyện gì sắp xảy ra. “Tóm lấy thằng bé! Trói tay nó lại! Nó sẽ làm tao đi chệch đường nếu mày không trói nó lại”. “Tôi đang cố. Nó chống cӵ như một con quӹ”. “Giӳ lấy nó. Tao sẽ dừng xe.” Chương 7 Cô Makutsi xử lý bức thư Thành công của vụ án đầu tiên đã cổ vũ Mma Ramotswe. Giờ đây cô ã gửi mua và nhận một cuốn sổ tay hướng dẫn điều tra tư và đang xem xét kӻ chương này tới chương khác, đặc biệt cô dùng rất nhiều giấy. Trong vụ đầu tiên cô nghĩ mình không hề mắc một sai sót nào. Cô đã tìm ra thông tin bằng quá trình liệt kê các nguồn tin đơn giản và tìm kiếm chúng. Chuyện đó không mất nhiều công sức để giải quyết. Vụ án được tiến hành một cách có phương pháp thì khó mà đi sai hướng được. Sau đó có một cái bướu về con cá sấu và cô theo đuổi nó. Cuốn sổ tay xác nhận chuyện này như một kinh nghiệm hoàn toàn chấp nhận được. “Đừng không đếm xỉa gì tới cái bướu.”, cuốn sổ tay khuyên, “Nhӳng cái bướu là một dạng khác của sӵ hiểu biết”. Mma Ranmotswe thích câu đó và nói cho cô Makutsi. Thư ký của cô lắng nghe cẩn thận, sau đó đánh máy lại và trao cho Cô Makutsi là một đồng nghiệp dễ chịu và có thể đánh máy khá tốt. Cô ấy đã đánh báo cáo mà Mma Ramotswe đọc cho chép về vụ của Mma Malatsi. Nhưng có một chút vấn đề là cô ấy thật sӵ không nhận được cuộc điện thoại mời làm bất cứ vụ nào khác và Mma Ramotswe băn khoăn liệu việc kinh doanh có cần thuê một thư ký không. Và thậm chí như thế thì vẫn phải cần. Một văn phòng thám tử tư không có thư ký là loại văn phòng gì? Cô sẽ bị cười nhạo khi không có thư ký và các khách hàng – nếu thӵc sӵ còn ai nӳa, điều này thật đáng nghi ngờ- có thể sợ hãi mà bỏ đi. Tất nhiên cô Malatsi mở hòm thư. Trong ba ngày không có lá thư nào hết. Đến ngày thứ tư, văn phòng nhận được cuốn ca-ta-lô và một yêu cầu nộp thuế tài sản. Đến ngày thứ năm họ nhận được một lá thư gửi cho người chủ cũ. Rồi đầu tuần thứ hai, cô Malatsi mở một phong bì màu trắng dính đầy dấu ngón tay và đọc to cho Mma Ramotswe nghe. “Kính gửi Mma Ramotswe, Tôi biết về cô qua báo chí và biết cô mở một văn phòng mới ở ngoại ô thị trấn. Tôi rất tӵ hào cho Botswana vì từ bây giờ chúng ta có một người như cô trên đất nước này. Tôi là giáo viên ở một trường nhỏ tại làng Katsana, cách Gaborne ba mươi dặm, gần nơi tôi sinh ra. Tôi học ở trường Cao đẳng Sư phạm nhiều năm và đã qua các kỳ thi khác nhau. Vợ tôi và tôi có hai con gái và một con trai mười một tuổi. Con trai trai tôi gần đây đã bị mất tích và chúng tôi không thấy cháu hai tháng nay rồi. Chúng tôi đã tới gặp cảnh sát. Họ đã tổ chức một cuộc tìm kiếm lớn và đặt câu hỏi ở khắp nơi. Không ai biết bất cứ chuyện gì về con trai chúng tôi. Tôi đã nghỉ dạy ở trường và tìm kiếm vùng xung quanh làng. Không xa làng tôi có mấy quả đồi, nhӳng ngọn đồi đá cuội và trên đó có nhiều hang động. Tôi đã vào từng cái hang và tìm kiếm khắp ngóc ngách. Nhưng không có dấu vết gì của con trai tôi. Con trai tôi là một cậu bé thích đi lang thang vì nó đặc biệt yêu tӵ nhiên. Nó thường xuyên sưu tầm đá và nhӳng thứ tương tӵ. Nó biết rất nhiều bụi rậm và không bao giờ gặp nguy hiểm bởi sӵ dại d. Trong nhӳng vùng quanh đây không có con báo gấm nào hết và rất xa vùng Kalahari mới có sư tử. Tôi đã đi khắp nơi, gọi, gọi, nhưng con trai tôi không hề trả lời. Tôi tìm cả ở cái giếng của các bác nông dân nhӳng làng gần kề và yêu cầu họ kiểm tra nước nhưng vẫn chẳng có dấu vết gì của nó. Làm thế nào một cậu bé có thể biến mất trên bề mặt trái đất như vậy chứ? Nếu tôi không phải là một tín đồ Cơ đốc giáo thì tôi sẽ nói rằng con quӹ nào đó đã bắt và mang nó đi. Nhưng tôi hiểu nhӳng việc như vậy không thể xảy ra. Tôi không phải là một người giàu có. Tôi không thể trả tiền thuê thám tử tư, nhưng tôi xin cô, nhân danh Chúa Jesus, hãy giúp tôi một chút. Khi cô tiến hành điều tra các vụ án khác, làm ơn hỏi mọi người xem có ai biết chuyện gì đã xảy ra không, làm ơn hỏi họ nếu họ biết bất cứ điều gì về cậu bé tên là Thobiso mười một tuổi bốn tháng, con trai một giáo viên ở làng Katsana. Chỉ làm ơn hỏi họ thôi, và tóm lại nếu cô biết bất cứ tin gì hãy báo về địa chỉ của tôi dưới đây. Tên Thánh, Ernest Molai Pakopi, Dip.Ed.” Cô Malatsi dừng lại và nhìn Mma Ramotswe. Trong một giây cả hai cùng không nói gì. Rồi Mma Ramotswe phá vỡ sӵ im lặng. “Cô có biết gì về việc này không?”, cô hỏi. “Cô đã từng nghe bất cứ chuyện gì về cậu bé mất tích này không?” “Tôi nghĩ là có. Tôi nghĩ có tin gì đó trên báo về việc tìm kiếm một cậu bé. Tôi nghĩ họ cho là cậu bé đã bỏ nhà ra đi vì một vài lý do”. Mma Ramotswe bước tới và lấy lá thư từ cô thư ký. Cô cầm nó như cầm một tang vật tại phiên tòa- thận trọng để không làm hỏng bằng chứng. Nó nằm trong tay cô- một mảnh giấy quá nhẹ để chứa đӵng một nỗi đau lớn. “Tôi không nghĩ mình có thể giúp gì nhiều”, cô nhẹ nhàng nói. “Tất nhiên tôi có thể để ý. Tôi có thể nói cho người cha nghèo khổ ấy việc đó, nhưng tôi làm được gì khác? Ông ta biết các bụi rậm xung quanh Katsana. Ông ta biết mọi người. Tôi thӵc sӵ không th làm gì nhiều cho ông ấy”. Cô Makutsi dường như đã bớt căng thẳng. “Không”, cô ấy nói. “Chúng ta không thể giúp người đàn ông nghèo khổ này được”. Mma Ramotswe đọc một lá thư và cô Makutsi đánh máy nó cẩn thận. Sau đó nó được cho vào phong bì, dán tem và đặt vào một cái khay đỏ mới mà Mma Ramotswe đã mua về từ Trung tâm sách Botswana. Nó là bức thư thứ hai được gửi đi từ Văn phòng thám tử số 1 dành cho các quý bà, bức thư thứ nhất, là hóa đơn hai trăm năm mươi pula gửi cho Mma Malatsi- bên trên hóa đơn được viết: “Người chồng quá cố của cô- giải quyết bí ẩn cái chết của anh ta”. Tối hôm đó, trong ngôi nhà ở Zebra Drive, Mma Ramotswe chuẩn bị cho mình bӳa ăn với cháo đặc và bí ngô. Cô thích đứng trong bếp, ngoáy cái nồi, suy xét nhӳng sӵ kiện xảy ra trong ngày, nhấp nháp cốc trà bụi đỏ to mà cô đặt bên cạnh bếp lò. Hôm nay đã xảy ra vài việc, một phần đến từ bức thư. Một người đàn ông tới với thắc mắc về món nợ lớn và bất đắc dĩ cô phải đồng ý giúp ông ta lấy lại nó. Cô không chắc một thám tử tư nên làm loại công việc này không- chẳng có gì trong sổ tay nói về việc đó- nhưng ông ta nài nỉ và cô thấy khó mà từ chối được. Sau đó là chuyến viếng thăm của một người phụ nӳ quan tâm tới chồng mình. “Anh ấy về nhà đầy mùi nước hoa”, cô ta nói, “và tủm tỉm cười nӳa. Tại sao một người đàn ông lại về nhà với mùi nước hoa và mỉm cười?” “Có lẽ anh ta đang hẹn hò với một phụ nӳ khác”. Mma Ramotswe mạo hiểm nói. Người phụ nӳ đó nhìn cô với vẻ kinh hãi. “Cô nghĩ anh ta làm chuyện đó? Chồng tôi sao?” Họ đã bàn bạc về khả năng này và đồng ý rằng người phụ nӳ sẽ tӵ giải quyết vấn đề với chồng mình. “Có thể có lời giải thích khác”, Mma Ramotswe động viên. “Ví dụ như?” “Ngày nay nhiều đàn ông dùng nước hoa”. Cô Makutsi nêu ý kiến. “Họ nghĩ nó làm họ không còn mùi cơ thể. Cô biết mùi của đàn ông rồi đó”. Vị khách xoay ghế lại và nhìn chằm chằm vào cô Makutsi. “Chông tôi không có mùi”, cô ta nói. “Anh ấy là người sạch sẽ”. Mma Ramotswe ném cho cô Makutsi một cái nhìn cảnh báo. Cô sẽ phải nói với cô ấy về cách giӳ im lặng khi khách hàng ở đây. Nhưng dù có bất cứ chuyện gì đã xảy ra trong ngày hôm nay, suy nghĩ của cô vẫn quay về với lá thư của người giáo viên và câu chuyện về cậu bé mất tích. Hẳn người đàn ông nghèo và vợ ông ta bứt rứt lắm. Họ sẽ suy nghĩ cái gì trong đầu khi mỗi giờ trôi đi không có tin tức của đứa con trai, và cậu bé có thể gặp nguy hiểm bất cứ lúc nào, có thể bị kẹt trong một cái mỏ cũ; cũng có thể cậu không khóc nổi nӳa trong khi cứu hộ ở ngay phía trên. Hoặc có thể bị bắt cóc- ai đó đã bắt cậu trong đêm đó. Kẻ ác độc nào có thể làm việc này với một đứa trẻ vô tội? Làm thế nào lờ đi tiếng khóc của cậu bé khi nó cầu xin được về nhà? Nhӳng chuyện đó có thể xảy ra ngay ở đây, bất cứ đâu ở Botswana. Ý nghĩ làm cô rùng mình vì sợ hãi. Cô bắt đầu băn khoăn liệu đây có là công việc đúng đắn cho cô. Tất cả xuất phát từ suy nghĩ tích cӵc rằng một ai đó có thể giúp đỡ mọi người giải quyết các khó khăn của họ, nhưng rồi nhӳng khó khăn đó đang làm đau lòng họ. Trường hợp Malatsi là một ngoại lệ. Cô đã nghĩ Mma Malatsi sẽ phát điên lên khi cô đưa ra bằng chứng chứng mình chồng cô ta bị một con cá sấu ăn thịt, nhưng cô ấy dường như chẳng thể hiện gì. Cô ta đã nói gì? Sau này tôi có nhiều việc phải làm. Thật kỳ lạ, thật vô cảm khi vừa mất chồng mà nói vậy. Cô ta không còn cần anh ấy nӳa sao? Mma Ramotswe dừng lại, cái thìa đã chìm xuống nửa bề mặt nồi cháo đặc đang sôi. Khi mọi người vô cảm theo kiểu đó, bà Christie mong rằng người đọc tỏ ra nghi ngờ. Bà Christie sẽ làm gì nếu bà ta thấy phản ứng lạnh lùng của cô Malatsi? Bà ta sẽ nghĩ: Người phụ nӳ này đã giết chồng mình! Đó là lý do tại sao cô ta vô cảm với tin về cái chết của anh ấy. Cô ta biết trước chồng mình đã chết! Nhưng còn con cá sấu, nhӳng người xưng tội và các con chiên khác thì sao? Không, chắc chắn cô ấy vô tội. Có lẽ cô ta muốn anh ấy chết đi và lời cầu khấn đã được một con cá sấu đáp lại. Trong mắt Chúa bạn sẽ làm gì để thành một kẻ sát nhân nếu sau này chuyện gì đó xảy ra? Bạn hiểu là Chúa biết bạn muốn ai đó chết vì chẳng có bí mật gì bạn có thể giấu người. Tất cả mọi người biết điều đó. Cô dừng lại. Đến lúc lấy bí ngô ra khỏi nồi và ăn rồi. Phân tích cuối cùng đã giải quyết được tất cả vấn đề lớn của cuộc đời. Bạn có thể nghĩ và nghĩ và chẳng đi tới đâu, nhưng bạn vẫn phải ăn món bí ngô. Việc đó đưa bạn trở về thӵc tại. Việc đó cho bạn một lý do để tiếp tục. Bí ngô. Chương 8 Cuộc nói chuyện với J.L.B Matekoni Sổ sách cho thấy công việc có vẻ không tốt. Cuối tháng đầu tiên, Văn phòng tám tử số 1 dành cho các quý bà đang thua lỗ. Có ba khách hàng trả tiền, và hai người đến xin lời khuyên, nhận lời khuyên và từ chối trả tiền. Cô Malatsi đã trả hai trăm năm mươi pula; Happy Bapetsi trả hai trăm pula cho việc phát hiện ra người bố giả của cô ta; và một nhà buôn địa phương trả một trăm pula để tìm ra kẻ đang sử dụng điện thoại của ông ta gọi đường dài trái phép tới Francistown. Giá có thêm một người trả số tiền là năm trăm năm mươi pula; nhưng lương của cô Makutsi là năm trăm tám mươi pula một tháng, thậm chí chưa tính nhӳng chi phí phụ trội khác như phí xăng xe và điện thoại cho văn phòng. Tất nhiên việc kinh doanh cần thời gian để ổn định - Mma Ramotswe hiểu điều này- nhưng bao lâu thì không thua lỗ nӳa? Cô đã có một khoản tiền lớn thừa hưởng từ gia sản của bố mình nhưng cô không thể sống dӵa vào nó mãi mãi. Cô nên nghe lời bố; ông đã muốn cô mua một cửa hàng thịt và việc đó an toàn hơn nhiều. Đó là việc đầu tư đảm bảo chắc chắn. Nhưng có gì thú vị trong việc đầu tư như thế chứ? Cô nghĩ tới J.L.B. Maketoni, chủ sở hӳu Cửa hàng xe máy Tốc độ trên phố Tlokweng. Bây giờ đó là công việc kioanh kiếm được nhiều lợi nhuận. Không thiếu khách hàng vì mọi người biết tính chất công việc của anh ta. Đó là sӵ khác biệt giӳa họ, cô nghĩ vậy. Anh ta biết mình đang làm gì trong khi cô thì không. Mma Ramotswe đã biết J.L.B. Maketoni nhiều năm rồi. Anh ấy tới từ Mochudi, và chú anh là bạn thân của bố cô. J.L.B. Maketoni bốn mươi tuổi – lớn hơn Mma Ramotswe mười tuổi, nhưng anh coi cô như bạn đồng lứa và thường hay nói: “Với nhӳng người ở tuổi chúng ta…” Anh là người hoàn hảo và cô thắc mắc tại sao anh ấy chưa tái hôn. Anh không đẹp trai nhưng có khuôn mặt ưa nhìn và đáng tin. Anh là kiểu đàn ông mà bất cứ phụ nӳ nào cũng muốn đưa về nhà mình. Anh ấy sẽ sửa đồ đạc, ở nhà buổi tối và thậm chí có thể phụ giúp một vài việc nhà- vài việc mà ít người đàn ông từng nghĩ tới sẽ làm. Nhưng anh ấy vẫn độc thân và sống một mình trong ngôi nhà lớn gần một sân bay cũ. Thỉnh thoảng khi lái xe qua cô thấy anh ấy ngồi dưới mái hiên - J.L.B. Maketoni ngồi trên một cái ghế, nhìn ra nhӳng cái cây trong vườn nhà. Một người đàn ông như thế nghĩ cái gì nhỉ? Anh ta ngồi đó và nghĩ có một cô vợ cùng nhӳng đứa con chạy quanh sân sẽ tốt như thế nào hay sao? Hay anh ta ngồi đó và nghĩ về cái ga ra và nhӳng chiếc ô tô anh ta phải sửa? Có thể là như vậy. Cô thích gặp Maketoni ở ga ra và nói chuyện với anh ấy ở văn phòng to lớn của anh ấy với nhӳng đống hóa đơn và đơn đặt hàng khi có chỗ trống. Cô thích nhìn vào các cuốn lịch trên tường có nhӳng bức tranh đơn giản về mẫu người đàn ông cô thích. Cô thích uống trà đӵng một trong nhӳng cái cốc của anh ấy có nhӳng dấu vân tay trơn bên ngoài trong lúc hai trợ lý của anh đưa xe tới chỗ nhӳng cây mít và đốn mạnh dưới gốc. J.L.B Maketoni thích nhӳng cuộc gặp gỡ như thế. Họ sẽ nói về Mochudi, hoặc các chính sách, hay chỉ trao đổi tin tức trong ngày. Anh ấy sẽ nói cho cô biết ai đang gặp rắc rối với xe của mình và họ nói họ sẽ đi đâu. Nhưng ngày hôm đó họ nói về tài chính, về các vấn đề điều hành một doanh nghiệp đang chi nhiều hơn thu. “Chi phí nhân công là vấn đề lớn nhất,” J.L.B. Maketoni nói. “Em thấy hai chàng trai ở dưới cái xe kia không? Em không biết họ làm gì cho tôi. Lương tuần của họ, thuế của họ, bảo hiểm của họ nếu chiếc xe rơi vào đầu họ. Tất cả tăng lên. Và cuối một ngày chỉ còn lại một c hai pula cho tôi. Không bao giờ nhiều hơn”. “Nhưng ít nhất hiện anh không thua lỗ”, Mma Ramotswe nói. “Em lỗ mất ba mươi pula trong tháng đầu tiên. Em chắc chắn sẽ còn tệ hại hơn”. J.L.B. Maketoni nói: “Chi phí nhân công. Cô thư ký của em người đeo cặp kính to. Đó là nơi tiền của em chảy vào”. Mma Ramotswe gật đầu. “Em biết. Nhưng anh cần một thư ký nếu anh có một văn phòng. Nếu em không có thư ký thì em sẽ bị dính chặt ở đó cả ngày. Em không thể ghé vào đây và nói chuyện với anh. Em cũng không thể đi mua sắm”. J.L.B. Maketoni với cốc nước của mình. “Sau này em cần có nhӳng khách hàng tốt hơn”, anh ấy nói. “Em cần hai vụ lớn. Em cần vài người giàu có giao cho một vài vụ án”. “Vài người giàu ư?” “Đúng. Mấy người giống… giống như ngài Patel”. “Tại sao ông ta lại cần một thám tử tư?” “Người giàu có vấn đề của họ”, J.L.B. Maketoni nói. “Em không bao giờ hiểu đâu”. Họ chìm vào im lặng, quan sát hai thợ cơ khí trẻ thay một bánh xe của chiếc xe họ đang sửa. “Nhӳng cậu bé ngu ngốc”, J.L.B. Maketoni nói. “Chúng không cần làm thế”. “Em đang nghĩ”, Mma Ramotswe nói. “Hôm trước em nhận được một lá thư. Nó là em rất buồn, và em băn khoăn rốt cuộc em có nên trở thành một thám tử tư hay không”. Cô kể cho anh ấy về bức thư của bố cậu bé bị mất tích, và cô giải thích cô cảm thấy không đủ khả năng giúp ông bố đó như thế nào. “Em không thể làm bất cứ việc gì cho ông ấy. Em không phải là một người có phép màu. Nhưng em cảm thấy rất tiho ông ta. Ông ta nghĩ con trai mình ở trong bụi rậm hay bị con vật nào bắt mất. Làm sao một ông bố chịu đӵng được chuyện đó?” J.L.B. Maketoni cười ha ha. “Anh đọc tin đó trên báo rồi. Anh đọc về cuộc tìm kiếm. Và anh biết ngay từ đầu cuộc tìm kiếm là vô vọng”. “Tại sao?” Mma Ramotswe hỏi. Trong giây lát J.L.B. Maketoni im lặng. Mma Ramotswe nhìn anh ta rồi nhìn cây gai qua cửa sổ. Nhӳng chiếc lá xanh xám nhỏ bé, giống như nhӳng lá cỏ đang ấp chồng lên nhau để chống lại cái nóng; và bên trên là bầu trời không một gợn mây và mùi của bụi. “Vì cậu bé đó đã chết”, J.L.B. Maketoni nói, lấy tay vẽ một hoa văn ảo trong không khí. “Chẳng con vật nào bắt cậu bé hoặc ít nhất không con vật bình thường nào dám làm thế. Có thể bọn tokoloshe (nhóm người phân biệt chủng tộc ở Zulu-Châu Phi). Ôi, đúng thế”. Mma Ramotswe im lặng. Cô tưởng tượng ông bố- ông bố của cậu bé đã chết, và trong giây phút cô nhớ tới buổi chiều kinh khủng ở Mochudi, tại bệnh viện, khi y tá tới chỗ cô, đồng phục thẳng thớm và cô thấy cô y tá đang khóc. Một người có thể không bao giờ trở lại như trước đây. Nhӳng vì sao đã ra đi. Ánh trăng biến mất. Nhӳng con chim ngừng tiếng hót. “Sao anh nói cậu bé đã chết?”, cô hỏi. “Có thể anh nhầm lẫn và sau này…” J.L.B. Maketoni lắc đầu. “Không. Cậu bé đó sẽ bị hiến tế. Bây giờ cậu bé đã chết”. Cô đặt cái cốc rỗng xuống bàn. Bên ngoài, trong cửa hàng, một thanh nối bánh xe rơi xuống gây ra tiếng động, âm thanh lanh lảnh. Cô liếc nhìn bạn mình. Đây là vấn đề mà mọi người không nên nói đến. Bởi nó sẽ đem lại sӵ sợ hãi cho trái tim mạnh mẽ nhất. Đây là điều cấm kӷ lớn nhất. “Sao anh lại chắc chắn đến thế?” J.L.B. Maketoni mỉm cười. “Nào tới đây Mma Ramotswe. Ngay khi anh tiếp tục em sẽ biết. Chúng ta không thích nói về nó phải ? Nó là việc người Châu Phi chúng ta xấu hổ nhất. Chúng ta biết nó xảy ra nhưng chúng ta không thể ngăn cản được. Chúng ta biết cái gì đang xảy ra với bọn trẻ bị mất tích. Chúng ta biết”. Cô nhìn kӻ anh ấy. Tất nhiên anh ấy đang nói sӵ thӵc vì anh là một người đàn ông tốt, đáng tin tưởng. Và có thể anh ấy đúng chẳng việc gì mọi người thích nghĩ về người khác quá nhiều, nhӳng lời giải thích ngớ ngẩn cho chuyện đã xảy ra với một cậu bé bị mất tích, hầu hết hoàn toàn giống điều mà J.L.B. Maketoni nói. Cậu bé đã bị một thầy mo bắt đi và giết để làm thuốc. Ngay ở đây, ở Botswana, cuối thế kӹ hai mươi, dưới lá cờ tӵ hào, trong sương mù của tất cả nhӳng thứ biến Botswana thành một đất nước hiện đại, chuyện này đã xảy ra, trái tim của bóng tối đập thình thịch như một cái trống. Cậu bé bị giết vì vài người có sức mạnh ở đâu đó đã ủy nhiệm cho thầy mo làm thuốc tăng lӵc cho mình. Cô nhìn xuống “Có thể anh đúng. Cậu bé đáng thương…” “Tất nhiên tôi đúng”, J.L.B. Maketoni nói. “Và em có biết tại sao người đàn ông tội nghiệp đó phải viết một lá thứ cho em không? Bởi vì cảnh sát sẽ chẳng làm gì để tìm hiểu chuyện đó xảy ra đâu và như thế nào. Bởi vì họ sợ. Tất cả bọn họ. Họ cũng sợ như tôi và cả hai chàng trai ngoài kia cũng thế. Sợ hãi, Mma Ramotswe. Lo sợ cho cuộc sống của chúng ta, tất cả chúng ta- có thể thậm chí cả em”. Mma Ramotswe đi ngủ lúc mười giờ, muộn hơn nửa tiếng so với thường lệ, thỉnh thoảng cô thích nằm trên giường để đèn bàn và đọc một tờ tạp chí. Giờ thì cô mệt mỏi, và tờ tạp chí tuột khỏi tay, làm tiêu tan nhӳng cố gắng để tỉnh táo của cô. Cô tắt đèn và cầu nguyện, thì thầm, mặc dù không có ai trong nhà trừ cô. Luôn luôn cùng một lời cầu nguyện, cho linh hồn của bố cô, Obey, cho Botswana và cho nhӳng cơn mưa giúp nhӳng vụ mùa bội thu và gia súc béo tốt, và cho đứa con gái nhỏ của cô giờ đã bình an trong đôi tay Chúa Jesus. Tinh mơ hôm sau cô thức dậy trong sӵ khiếp sợ, nhịp đập trái tim bất bình thường, miệng khô đắng. Cô ngồi dậy và với công tắc đèn, nhưng khi công tắc bật chẳng có gì xảy ra hết. Cô bỏ tấm ga trải giường sang một bên- không cần chăn trong thời tiết nóng nӵc này và xuống giường Đèn hành lang cũng không sáng và cô đi ra sân với chân trần. Thị trấn đang trong bóng tối, nhӳng cái cây mờ mờ, hình dáng không rõ nét, nhӳng khúc đen sì. Cô mở miệng nói, nhưng tiếng không vang ra. Và dù sao đi nӳa nói thật nguy hiểm. Vì vậy cô quay vào nhà, từ từ, từng chút từng chút một, hướng về cửa bếp. Khi vào trong, cô đóng sầm cánh cửa sau lưng và với ổ khóa. Khi cô xoay chìa thì điện sáng và căn bếp tràn ngập ánh sáng. Cái tủ lạnh bắt đầu kêu ro ro; một cái đèn trên bếp điện nhấp nháy trước mắt cô: 3:04; 3:04. Chương 9 Bạn trai Có ba ngôi nhà khá lạ ở đất nước này, và Mma Ramotswe cảm thấy một chút thoải mái khi được mời tới hai trong số ba ngôi nhà đó. Ngôi nhà nổi tiếng nhất là Mokolodi, một tòa nhà kiểu lâu đài ở giӳa bụi rậm phía nam Gaborone. Ngôi nhà này có cổng chào và nhӳng cổng phụ trên đó có nhӳng con chim mỏ sừng làm bằng st, có lẽ đó là công trình vĩ đại nhất ở nước này và tất nhiên ấn tượng hơn nhà Phakadi ở phía bắc khá gần với nhӳng hồ nước thải. Mặc dù đã có tiền đền bù nhӳng hồ nước thải này vẫn hấp dẫn một lượng lớn các loài chim, và từ mái hiên nhà Phakadi ta có thể thấy cuộc chiến giӳa nhӳng con chim hồng hạc đang đậu trên làn nước xanh rì. Nhưng bạn không thể làm việc đó nếu gió thổi mạnh và việc này thường xảy ra. Chỉ có ngôi nhà thứ ba được coi là một ngôi nhà khác biệt vì rất ít người được mời tới và tổng thể Gaborone chỉ có thể nhìn ngắm bên ngoài ngôi nhà, nhưng không nhiều lắm vì nó được bao quanh bởi bức tường rào màu trắng. Hoặc theo lời kể của nhӳng người được mời đến ngôi nhà vì một vài lý do đặt biệt. Tất cả nhӳng lời kể đều nói về sӵ sang trọng mỏng manh của nội thất bên trong. “Giống như cung điện Buckingharm”, một phụ nӳ được gọi tới trang trí hoa một vài lần nói thế. “Thậm chí còn đẹp hơn. Tôi nghĩ rằng nӳ hoàng sống còn đơn giản hơn một chút so với nhӳng người trong ngôi nhà Nhӳng người được nói đến là gia đình ngài Paliwala Sundigar Patel, chủ của tám cửa hàng – năm cửa hàng ở Gaborone và ba cửa hàng ở Francistown - một khách sạn ở Orapa, và một chuỗi cửa hàng cung cấp thiết bị ở Lobatse. Không nghi ngờ gì ông ta là một trong nhӳng người giàu nhất đất nước này, nếu không nó là người giàu nhất. Nhưng ở Botswana con số người giàu đếm trên đầu ngón tay vì chẳng ai đầu tư vào gia súc, và mọi người biết rằng tiền không đầu tư vào gia súc sẽ chỉ có bụi đi vào dạ dày. Ông Paliwalar Patel tới Botswana năm 1967 ở tuổi hai mươi lăm. Ông không có nhiều tiền trong túi, nhưng bố ông, một nhà buôn ở vùng hẻo lánh của Zululand đã đưa tiền cho ông mua cửa hàng đầu tiên của mình ở khu thương mại Châu Phi. Cửa hàng này là một thành công vĩ đại; ông Patel mua hàng hóa từ các thương nhân trong cảnh khốn rồi sau đó bán chúng với lợi nhuận thấp nhất. Việc kinh doanh thịnh vượng và cửa hàng này nối tiếp cửa hàng khác, tất cả hoạt động theo cùng một triết lí thương mại. Vào sinh nhật thứ năm mươi của mình, ông ta dừng lại việc mở rộng đế chế của mình và tập trung vào việc phát triển giáo dục gia đình mình. Ông có bốn đứa con- con trai Wallace, hai cặp chị em song sinh Sandri và Pali và cô con út tên là Nandira. Wallace đã được gửi đi học ở một trường dành cho nhӳng người giàu có tại Zimbabwe, nhằm thỏa mãn tham vọng của ông Patel biến cậu thành một quý ông. Ở đó cậu học chơi criket. Và trở nên nham hiểm. Cậu được nhận vào một trường y chuyên khoa Răng Hàm Mặt sau khi trường nhận tài trợ lớn từ ông Patel rồi trở về Durban thành lập phòng khám nha khoa thẩm mĩ. Ở một vài điểm cậu đã rút ngắn tên mình- “nhằm mục đích thuận tiện” và trở thành ngài Wallate Pate BDS (Natal). Ông Patel phản đối sӵ thay đổi này. “Sao bây giờ con lại là ngài Wallate Pate BDS (Natal)? Tại sao? Con không thấy xấu hổ hay đại loại như thế ư? Con nghĩ rằng chỉ có ta là ngài Paliwalar Patel BA thôi sao ?” Anh con trai cố gắng xoa dịu bố. “Nhӳng tên ngắn thì dễ nhớ hơn bố ạ. Pate, Patel - cũng là một thôi. Vì vậy tại sao phải thêm chӳ vào cuối cơ chứ? Tư tưởng hiện đại là phải ngắn gọn. Ngày nay chúng ta phải trở nên hiện đại. Tất cả mọi thứ hiện đại, ngay cả một cái tên”. Không có sӵ phản ứng nào từ hai cô, cả hai được đưa tới Natal để lấy chồng theo nguyện vọng của ông bố. Cả hai người con rể bây giờ đều tham gia công việc kinh doanh và đang chứng tỏ họ tính toán tốt với nhӳng con số và một sӵ hiểu biết về tầm quan trọng của việc thắt chặt lợi nhuận cận biên. Rồi tới Nandira lúc đó mười sáu tuổi và là học sinh của trường Maru-a-Pula ở Gaborone, ngôi trường tốt nhất và đắt nhất đất nước này. Cô thông minh và thường xuyên nhận được nhӳng lời khen tốt đẹp từ phía nhà trường. Ông Patel mong muốn có một cuộc hôn nhân tốt đẹp mãi mãi cho cô- có thể là vào ngày sinh nhật thứ hai """