"
Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam full mobi pdf epub azw3 [Văn Hóa]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam full mobi pdf epub azw3 [Văn Hóa]
Ebooks
Nhóm Zalo
SƠN NAM
VĂN MINH MIỆT VƯỜN
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA 1992
Thay lời tựa
MIỆT VƯỜN là xưng danh sẵn có.
Tiếng văn minh kèm theo phía trước là do người khởi thảo tập sách này nêu lên, nghĩ rằng văn minh là nếp sống vật chất, là ăn, mặc, ở, cách thức sanh nhai. Trong hoàn cảnh địa lý và lịch sử đặc biệt, dân Việt đã sáng tạo một nếp sống hùng mạnh, phóng khoáng, đã chinh phục. Lẽ dĩ nhiên, nếu người Tây Ban Nha, người Nhật, người Lào, người Cam Bốt gặp một hoàn cảnh lịch sử, địa lý tương tự thì họ có phản ứng khác, cất nhà, cày cấy theo hình thức khác. Vì họ không nằm ở trong nguồn văn minh Việt Nam.
Ông kỳ lão già trên bảy mươi tuổi, nếu sanh trưởng ở Cái Bè, ở Tam Bình, ở Sa Đéc thì đã là một pho tượng “văn minh Miệt Vườn” bằng xương bằng thịt.
Là kẻ hậu sanh, chúng tôi thử sưu tầm, sắp xếp theo thứ tự để tự học, và cho ấn hành với hy vọng là có thể gợi hứng cho các bạn trẻ hiếu học. Người Pháp nói đến công trình thực dân của họ, với thái độ “khoa học” của người chủ điền Hãng, người chủ vườn cao su. Chúng tôi cố gắng viết lại chuyện cũ, theo quan điểm của một người dân Việt, với thái độ bao dung, vì thực dân Pháp đã đi rồi. Mục đích của việc ôn cố nầy chỉ là để tri tân.
Tài liệu thiếu thốn, sự nhận xét có thể lệch lạc, dám mong độc giả tha thứ và chỉ dạy thêm.
S.N.
MỘT ĐỊA DANH
Khi nghiên cứu về cá tính của xã hội, văn hóa ở Nam Phần, nhiều người tỏ ra thất vọng vì miền này dường như không cống hiến được chút gì mới mẻ vào kho tàng văn hóa chung của tổ quốc Việt Nam.
Nhiều sử gia giàu thiện chí đã chấm dứt và cũng là mở đầu về Nam Phần với vài chi tiết khô khan, theo lối biên chép cổ điển: đại khái, người Việt đến Mô Xoài (Bà Rịa) rồi đến vùng Đồng Nai - Có Trần Thắng Tài đến cù lao Phố (Biên Hòa). Dương Ngạn Địch đến vùng Mỹ Tho, Mạc Cửu đến vùng Hà Tiên. Từ những năm ấy về sau, miền Nam có gì mới lạ? Việc khẩn hoang được xúc tiến như thế nào? Vùng đất Nam Phần có gì xứng đáng để gọi là “địa linh nhân kiệt”, so với miền Bắc, Trung Phần? Thậm chí, đến nay nhiều người nhận định vùng đất Nam Phần là nơi lại căn, tạp nhạp.
“Lai căn” là không còn giữ được tánh chất nguyên thủy của dân Việt - như trường hợp đứa con rơi, đứa con lai.
“Tạp nhập” là rời rạc, không tổng kết được, chỉ là những bộ phận vô nghĩa, “không ra cái gì hết”, không xứng đáng ngồi riêng một chiếu… tại đình làng!
Những nhà khảo cứu đã thất vọng vì họ dùng phương pháp sai lầm, mang nặng óc thực dân, tinh thần tự tôn. Sai lầm căn bản vẫn là xem Nam Phần như một nước, một dân tộc riêng biệt. Dưới mắt họ thì “nước Nam Kỳ” nầy quá nhàm chán vì những lý do sau đây:
- Tại Nam Phần, không gặp những di tích xưa như lăng tẩm Huế, chùa Thiên Mụ (ở Trung Phần), như đền Ngọc Sơn, chùa Một Cột, đền Hùng Vương, chùa Thầy (ở Bắc Phần), trống đồng, tô chén xưa (ở Thanh Hóa).
- Tại Nam Phần, chẳng có phong tục, tập quán gì độc đáo: ngày Tết, ngày Vu Lan, Trung Thu đúng là đầu Ngô mình Sở, làm sao so sánh được với Trung Phần, nói chi đến Bắc Phần. Về nghi thức quan hôn tang tế thì người ở Nam Phần chưa am tường gì cả, đó là chưa nói đến lối phát âm, lối ca hát.
Dưới mắt nhà khảo cổ, đất Nam Phần chỉ được chú ý từ khi tìm ra vùng thị trấn Óc Eo, ở núi Ba Thê (An Giang). Thị trấn nầy gặp một thời hưng thịnh từ hồi đầu kỷ nguyên Tây Lịch đến khoảng thế kỷ thứ [?]
Ngoài ra, còn một số dụng cụ bằng đá, tìm ở Xuân Lộc nhưng không tiêu biểu bằng những sọ người ở Hòa Bình, Bắc Sơn.
Nam Phần là phần đất Việt Nam. Ai muốn tìm những gì “cổ xưa, thuần túy” thì cứ tìm ở Thanh Hóa, ở Huế, ở Hòa Bình, Bắc Sơn.
Nam Phần là vùng đất mới.
Người Việt từ sông Hồng, sông Mã, từ sông Hương, sông Thu Bồn lần hồi đến Nam Phần, dùng kinh nghiệm của tiền nhân mà áp dụng vào nơi có địa thế, khí hậu khác, áp dụng với tinh thần sáng tạo, trong bối cảnh lịch sử khác.
Muốn hiểu cá tánh của Nam Phần, tốt hơn hết là nên sưu tầm và nghiên cứu theo nhãn quan của nhà xã hội học, xem Nam Phần là nơi mà dân Việt tiếp thâu nhưng phản ứng khi gặp văn hóa Tàu, Miên, Chàm, Pháp, Mỹ.
Đó là sự thụ ứng về văn hóa (Acculturation). Thái độ nghiên cứu ấy giúp chúng ta hiểu rõ cái lợi và cái hại của tình trạng gọi là “lai căn” và “tạp nhạp”. Lắm khi đó là nét đẹp.
Miền Nam bộc lộ vài nét, vài đức tính mà ai cũng phải nhìn nhận.
Trong tiểu thuyết lịch sử nhan đề “Đỗ Nương Nương Báo Oán”, tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh đã cho nhân vật đối đáp:
“ - Mấy ông nhớ cái gì mà un đúc được tinh thần quốc gia, biết thương nước thương dân? Không phải nhờ vua chúa hay sao?
“ - Không. Không phải vậy… Chúng tôi sanh trưởng trong đất Gia Định là vùng ông cha của chúng tôi liều xương máu mà chiếm cứ, rồi rưới mồ hôi nước mắt mà khai thác. Chúng tôi nhờ hy sinh với công lao của tổ tiên mà nung đúc tinh thần quốc gia, thương đất nước, thương giống nòi, chớ có nhờ cái gì khác đâu.(…)
“ - Bây giờ ông hiểu tâm hồn người Gia Định hay chưa?
“ - Hiểu rồi.
“ - Ừ, ở đây mọi người đều như vậy hết thảy. Có cái gì trong bụng thì trút ra hết, không thèm giấu giếm vì ghét cái thói phách lối, láo xược, giả dối, bợ đỡ.”
Nên nhớ rằng ông Hồ Biểu Chánh sáng tác quyển tiểu thuyết nầy lúc về già, vào khoảng cuối năm 1954.
Nhà văn Dương Nghiêm Mậu đã viết về Hồ Biểu Chánh, trong tạp chí Văn, số 80, ngày 15-4-67, (và cũng trích dẫn đoạn văn trên).
“ - Vào năm 1954, tôi đã có nhiều cơ hội đi từ Trung đến Nam, những chuyến đi ấy khiến tôi nhận ra giữa một nếp sống miền Bắc khác nếp sống miền Nam hay Trung ra sao. Có một điều chắc chắn, những thôn ấp miền Nam quyến rũ tôi không ít, không phải chỉ riêng sông rạch, ruộng vườn đáng yêu, nhưng con người miền Nam cũng đáng yêu, đáng yêu ở nơi chất phác, hào sảng, đơn giản, thẳng thắn, hiếu khách, không hình thức lễ nghi ràng buộc một cách khe khắc. Cái tinh thần bao dung rộng rãi đó hiện ra từ những lối đi, những bờ rào sơ sài, những ngôi nhà kiến trúc đơn giản như mở ra, những vườn cây trái không sắp xếp cho đến cách ăn mặc, câu nói, đãi khách xưng hô… trong đó tự nó có một trật tự hồn nhiên. Với một tấm lòng, đến bất cứ nơi đâu trong vùng sông Cửu Long chúng ta cũng gặp được những tri âm hào sảng một cách dễ dàng (…)
“Qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng ta còn tìm thấy đặc tính của người miền Nam. Cái đặc tính của một vùng đất mới mẻ ở mãi phía cực Nam khiến cho ảnh hưởng của Nho giáo không nặng nề như tại miền Bắc hay Trung, Phật giáo cũng có một vị trí trong ngay những người có Nho học…”
Ông Thang Lãng, trong bài về Hồ Biểu Chánh (cùng tài liệu dẫn thượng) đã viết:
“ - Lần đầu tiên, trong tiểu thuyết Việt Nam, người ta thấy giữa bạn bè, giữa vợ với chồng những cách xưng hô bình dân “mày, tao”. Hơn thế, Hồ Biểu Chánh còn là văn sĩ của miền Nam, dùng tiếng địa phương. Văn của ông là văn cùng chung truyền thống với Huỳnh
Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký tức là nói và viết “tiếng An Nam ròng”, là viết tiếng Việt “trơn tuột như lời nói”. Cái chủ trương của Trương Vĩnh Ký cũng là chủ trưởng của các văn gia miền Nam: chống lối văn đài các miền Bắc”.
Chúng tôi thấy không cần trích dẫn nơi đây những nhận xét của các nhà nghiên cứu Tây phương xác nhận rằng Việt Nam là quốc gia thuần nhứt từ Bắc vào Nam về ngôn ngữ, phong tục, so với Pháp, Trung Hoa.
Miền Nam tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp nhưng miền Nam không bao giờ phảng phất không khí một tỉnh lẻ của Trung Hoa, Pháp, hoặc Ấn Độ, mặc dù nhóm người tiên phong khẩn hoang là di thần bài Mãn phục Minh, mặc dù người Pháp xem đất Nam Kỳ là thuộc địa, mặc dù ở đồi núi hoặc đồng bằng miền Nam còn thấy nhiều pho tượng đá, di tích của Ấn Độ giáo.
Chúng ta không quên ghi lại vài tật xấu mà qua những buổi gặp mặt, lúc trà dư tửu hậu, chính người ở Nam Phần cũng xác nhận:
- Lửa rơm, nóng nảy từng chập, thiếu kiên nhẫn.
- Không óc tổ chức, thích những hành động cá nhân. - Trực tính, không có thủ đoạn quanh co.
Những danh sĩ miền Bắc, miền Trung đến đồng bằng sông Cửu Long thường ca ngợi không tiếc lời. Phạm Quỳnh tả lại khung cảnh Tiền Giang,1thi hào Tản Đà ca ngợi con cá tra và cái thú ngồi ca-nô trên sông Cửu Long, ở vùng Cao Lãnh. Vào năm 1927, thi hào Phan Khôi đã lưu lạc đến tận ven rừng U Minh - nói rõ hơn là đến vùng Tân Bằng, trên sông Trèm Trẹm, con sông ranh giới của U Minh thượng (đất cao) và U Minh hạ với dãy rừng tràm cầm thủy, mũi Cà Mau.
Phan Khôi tả lại vùng Tân Bằng, Cán Gáo ghê rợn, nào khỉ nào sấu, nào rắn độc. Sông Trèm Trẹm hóa ra sông Xích Bích, thi hào nhìn thực tế của đất nước đau thương vào năm 1927 mà ngâm nga: bài thơ dài, xin trích lại một đoạn sau đây:…
Canh khuya, sương nặng, liệu mà về đi.
Xoàng hơi cúc, khi khì cười mãi,
Tóc phất phơ dường trải bóng trăng.
Giữa dòng chiếc lá thung thăng,
Lần dò lối cũ, bâng khuâng chạnh niềm:
Gẫm thân thế ba chìm bảy nổi,
Lại phen nầy lạc lối đến đây.
Một đêm cảnh vội đổi thay.
Rồi ra sao nữa sau nầy, trăm năm…
Đồng bằng sông Cửu Long tự nó là một khu vực đa diện. Người ở Gò Công, Tân An khó tưởng tượng được khung cảnh miền Rạch Giá; người ở Cái Bè lấy làm hân hoan khi đến Châu Đốc - Thất Sơn. Người ở Tân Châu (Châu Đốc) cho rằng xứ của mình là đẹp, giàu sang dễ sống nhứt.
Địa danh “đồng bằng sông Cửu Long” mới xuất hiện từ năm mười năm nay, trong những kế hoạch quân sự, kinh tế. Người ở đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích khá tỉ mỉ những nét đặc biệt của từng vùng nhỏ trong đồng bằng. Họ gọi riêng rẽ:
- Miệt trên: vùng Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa có thể tính luôn vùng Tân An.
- Miệt Cao Lãnh: vùng chợ Cao Lãnh ngày nay, trước kia là quận lỵ của Sa Đéc.
- Miệt Đồng Tháp Mười.
- Mỹ, Vãng: Mỹ Tho, Vĩnh Long.
- Miệt Dưới, vùng Rạch Giá, Cà Mau.
- Miệt chợ Thủ, miệt Ông Chưởng, theo lòng Ông Chưởng, nối sông Hậu qua Sông Tiền, Tỉnh Long Xuyên.
- Miệt Xà Tón, Bảy Núi, tức là vùng Thất Sơn và quận lỵ Tri Tôn (Châu Đốc).
- Miệt Hai Huyện (cũng là miệt Chợ Thủ, Ông Chưởng).
- Miệt Vườn, gọi tổng quát những vùng cao ráo, có vườn cam vườn quít ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.
Miệt khác với Miền. Miền là khu vực rộng hơn. Người ở Mỹ Tho gọi Miệt Dưới để chỉ vùng Rạch Giá, Cà Mau. Khi gọi Miền Dưới, tức là nói đến vùng Hạ Châu (Tân Gia Ba, Mã Lai hoặc Nam Dương).
- Miệt Vườn tiêu biểu cho hình thức sanh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Chúng ta đã nghe những danh từ:
- Về vườn,
- Gái vườn,
- Công tử vườn, điếm vườn,
- Bắp vườn, nhà vườn.
Trong cầu hát bình dân, có câu:
Mẹ mong gả thiếp về vườn.
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.
Thương anh cũng muốn theo anh,
Ngặt cha với mẹ không đành thì sao?
Hoặc là:
Chuồn chuồn bay thấp
Mưa ngập ruộng vườn
Nghe lời nói lại càng thương,
Thương em, anh muốn lập vườn, cưới em.
- “Miệt Hai Huyện” gợi ý nghĩa cổ kính. Đó là nhóm người “Ngũ Quảng” từ Quảng Bình, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận… đã theo chân quan Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lập nghiệp, bảo vệ và phát huy văn hóa Việt Nam ở nơi phức tạp, giữa khu vực
mà người nông dân Trung Hoa và người Cao Miên đến định cư từ trước. Miệt Hai Huyện là khu vực rạch Ông Chưởng (Long xuyên). Hai Huyện, theo sự giải thích có thể chấp nhận được là huyện Tân Bình và huyện Phước Long, hai đơn vị hành chánh đầu tiên do Chúa Nguyễn thiết lập ở miền Nam, nay là vùng Gia Định và Biên Hòa, dưới sự đốc xuất của quan chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh.
Người ở Long Xuyên, được gọi là Hai Huyện, chắc là do xưa kia họ từ Biên Hòa, Gia Định xuống lập nghiệp. Hoặc họ là binh sĩ từ Ngũ Quảng vào, theo chân ông Nguyễn Hữu Cảnh đánh Cao Miên, rồi định cư tại Long Xuyên vào năm 1700, khi ông nầy mất. Họ tự cho là sang trọng không kém người Hai Huyện ở Biên Hòa - Gia Định. (Chúng tôi đã thử nghiên cứu về Dân Hai Huyện, xem Nói Về Miền Nam, do Lá Bối xuất bản 1968). Nên chú ý là ở miền Nam, gọi là quận chớ không là huyện: huyện; là tiếng miền Trung, được tồn cổ. Tại tỉnh An Giang (Long Xuyên) có đến 4 chỗ thờ ông Nguyễn Hữu Cảnh.
- Miệt Xã Tón - Bảy Núi, gợi ý nghĩa hoang vu, “anh hùng địa phương” một vùng gần như biệt lập, chưa khai thác đến mức.
- Miệt U Minh, chưa khai thác, vì thiếu nhơn công, thiếu phương tiện kỹ thuật. Nên nhớ rằng trước năm 1945, gọi là U Minh, chữ “rừng” chỉ mới được ghép vào sau này. U Minh nghĩa là tối và mờ, u u minh minh, cõi U Minh là cõi âm phủ! Ở đây cây cỏ dày bịt (U Minh Hạ), nước ngập linh láng, đất quá thấp, trước kia gọi là Láng Biển hoặc Láng U Minh.
Về địa danh Đồng Tháp Mười, mãi đến nay chưa ai giải thích rõ ràng. Một giả thuyết cho rằng ở đó có ngôi tháp mười từng của người Miên (?) nhưng các nhà khảo cổ chưa ai thấy rõ hoặc phỏng đoán nó như thế nào? Giả thuyết khác cho rằng “Tháp Mười” là tháp thứ mười, một trong những tháp canh (chòi canh) do Thiên Hộ Dương bố trí, lúc kháng Pháp. Trong Đại Nam Nhứt Thống Chí soạn vào đời Tự Đức không ghi địa danh Đồng Tháp Mười.
Miệt Vườn là nơi trù phú. Gái Miệt Vườn giỏi về nữ công nữ hạnh, nhìn nhận rằng chỉ có trai Gia Định mới xứng đáng làm người yêu:
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn,
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?
Dưỡng già, sống những ngày hưu trí ở Miệt Vườn là thong dong nhứt. Trai lớn lên mà lập vườn thì cơ sở làm ăn được vững chắc.
- Vườn là nguồn lợi quan trọng hơn ruộng.
- Gái vườn ở vào trình độ cao hơn gái quê.
- Đất vườn cao giá hơn đất ruộng.
- “Đất đai viên trạch” tức là đất ruộng, đất vườn và đất thổ cư, tiêu biểu cho thôn xóm. Cúng “mâm đất đai”, trước khi cúng vái ông bà,2 tức là cúng cho những người đầu tiên sáng lập thôn xóm, tiền hiền và hậu hiền.
KHU VỰC ĐỊA LÝ CỦA MIỆT VƯỜN
Miệt Vườn là vùng Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, sau này là một phần của Cần Thơ. Vùng “Miệt Vườn” là nơi có mật độ dân số cao nhứt, theo bản đồ phân phối cư dân. Và cũng phù hợp với vùng phù sa ven sông ít phèn, theo bản đồ thổ nhưỡng.
Ranh giới các tỉnh thay đổi nhiều, từ đời vua Tự Đức đến nay. Nói đến Mỹ Tho ta tính luôn đến vùng Bến Tre, Gò Công. Nói đến Vĩnh Long ta tính luôn tỉnh Trà Vinh.
Nhìn trên bản đồ Nam phần, Miệt Vườn hiện rõ rệt với nhiều địa danh chi chít, nhiều chợ quận, chợ làng gần nhau, nối liền nhau. Đó là vùng phía Nam, khi sông Tiền và sông Hậu sắp sửa chia ra chín cửa, đổ ra biển.
Hình thái khu vực Miệt Vườn giống như cái mỏ neo, đầu ở biên giới, hai cái ngạnh nằm ở Bến Tre, Gò Công (phía Đông) và ở Bải Xàu, Long Điền, Giá Rai (Bạc Liêu) phía Tây.
- Cần Thơ, Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long là Miệt Vườn, sát bên Tiền giang, Hậu giang với đất phù sa nước ngọt.
- Rạch Giá, Cà Mau là vùng đất phèn phía Tây.
- Phía Bắc là vùng quá nhiều phèn, Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.
Như vậy Miệt Vườn chỉ là khu vực nhỏ, trong toàn thể đồng bằng sông Cửu Long thuộc Nam phần.
Vườn là vườn tược. Muốn lập vườn tược, phải có vài điều kiện cần thiết:
- Đất cao, không bị ảnh hưởng ngập lụt hàng năm vào mùa mưa: đó là giồng, gò.
- Đất ít phèn, có phù sa mới.
- Có nước ngọt để tưới cây cối, đáp ứng nhu cầu về nước uống trong gia đình.
- Nước phải lưu thông từ mương ra sông Cái, không có hiện tượng lung bào sình lầy. Về phong thủy, gọi đó là vùng “sông sâu nước chảy” (thông lưu quán khái).
Miệt Vườn xây dựng trên đất giồng, đất gò ở ven sống Tiền sông Hậu, theo những con rạch đổ ra hai sông lớn nói trên, nhứt là về phía Nam, khi sông chia ra nhiều nhánh.
Về sông Cửu Long, xin trích lược sau đây những tài liệu trong quyển Địa Lý Việt Nam do Nguyễn Khắc Ngữ và Phạm Đình Tiểu biên soạn (cơ sở xuất bản Sử Địa, Sài Gòn 1969):
“ - Đến Nam Vang, sông Cửu Long có một nhánh ăn thông với Biển Hồ (Tonlé Sap) và chia hai nhánh là Tiền giang (cũng gọi là Mê Kong) và Hậu giang, tức là sông Bassac hay Ba Thắc.
1.- Tiền Giang là hạ lưu sông Cửu Long, giòng sông khá rộng, giữa sông có những cù lao rất lớn và chảy ra biển bằng sáu cửa.
Tiền Giang chảy qua Tân Châu, Cao Lãnh, Sa Đéc theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, khúc từ Vĩnh Long chảy ra biển qua Mỹ Tho gọi là sông Mỹ Tho, khúc sát biển gọi là sông Cửa Đại.
Phía bắc sông Cửa Đại, có một thoát lưu nhỏ gọi là sông Cửa Tiểu.
Từ Chợ Lách, Tiền Giang có một thoát lưu nhỏ là sông Ba Lai và một thoát lưu lớn là sông Hàm Luông.
Từ Vĩnh Long, Tiền Giang có một thoát lưu quan trọng là sông Cổ Chiên. Gần bờ biển, sông nầy tách ra thành một phần lưu là sông Cung Hầu.
2.- Hậu Giang chảy vào Việt Nam qua ngả Châu Đốc rồi chảy qua Long Xuyên và Cần Thơ.
Từ Cần Thơ ra biển, Hậu giang tách ra thành nhiều nhánh rồi tụ lại tạo thành nhiều cù lao. Ra gần bờ biển, Hậu giang tách ra thành 3 thoát lưu chảy ra biển bằng ba cửa Định An, Ba Thắc và Tranh Đề” (trang 97).
Cửu Long là chín con rồng, cửa sông là miệng con rồng. Con số chín này mang ý nghĩa phong thủy (như trường hợp con số bảy của dãy Thất Sơn). Người đặt tên đầu tiên có lẽ là ông Trịnh Hoài Đức, trong quyển Gia Định Thành Thông Chí.
Người địa phương gọi tổng quát là sông Cái. Thời xưa với nền kinh tế tự túc địa phương, ít ai rời tỉnh rời huyện. Như vậy là không có sự lầm lẫn giữa sông Cái này và sông Cái kia (Tiền và Hậu giang). Mấy con rạch từ sông Cái chảy vào ruộng thường mang tiếng Cái đứng đầu: Cái Sắn, Cái Bè, Cái Thia, Cái Mơn. Đồng bào địa phương thường phát âm lơ lớ, không rõ rệt là tiếng “Cái” nhưng là “Cải”. Phải chăng “Cải” là kẻ, theo nghĩa Kẻ Chợ, Kẻ Sặt?
Theo quyển Địa Lý Việt Nam nói trên, sông Cửu Long có lưu lượng rất mạnh, bằng sức nước sông Nil (Ai Cập).
- Về mùa khô, lưu lượng sông Cửu Long chỉ độ 60.000 thước khối mỗi giây, chứa độ 5 phần 10.000 trọng lượng phù sa (mỗi thước khối nước có nửa kilô phù sa). .
- Về mùa mưa, lưu lượng lên gấp đôi, 120.000 thước khối mỗi giây, chuyên chở độ 15 phần 10.000 trọng lượng phù sa3.
Có nhiều loại đất khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long:
1.- Đất phèn (Đồng Tháp Mười, vùng đất giữa Hậu giang và con Kinh Rạch Giá - Hà Tiên).
2.- Đất nước mặn ở gần bờ biển (Rừng Sát, Mũi Cà Mau), có độ acit cao.
3.- Đất dớn, ở U Minh Thượng, phần lớn do cây dớn, cây mật cật tạo nên than bùn (sols tourbeux), còn gọi đất mật cật.
4.- Phù Sa ở ven sông, rất ít phèn.
Miệt Vườn thành hình ở trên phù sa thuộc loại thứ tư này, trên đất giồng, đất thịt pha cát, nơi thuận lợi cho việc tạo lập nhà cửa và vườn tược.
Giáo sư Quách Thanh Tâm đã nghiên cứu về các giống đất ở châu thổ sông Cửu Long (tập san Sử Địa số 6, 1967) xin ghi lại vài nhận xét chánh yếu:
Miền Đông và miền Tây Nam phần đều thuộc châu thổ sông Cửu Long, miền Tây là nơi mới bồi đắp, phù sa mới.
Châu thổ này rất thấp, vùng ven biển có cao độ từ năm tấc đến một mét, phía Bắc châu thổ thì cao hơn từ một mét rưỡi đến hai mét, nói chung dốc độ rất thấp, phỏng định là 100 cây số thì dốc tuột xuống 1 mét.
Tóm lại, ngoài những đồi nhỏ ở Thất Sơn và ở ven biển Hà Tiên thì châu thổ sông Cửu Long thấp lè tè.
Nơi đất cao là sống đất ven sông, đất ven biển.
Đất cao thành hình nhờ hai hoàn cảnh:
1.- Trầm tích hóa học, nước mặn ngoài biển dâng lên gặp nước ngọt trong sông, các chất tiêu trong nước có thể kết tụ lại.
2.- Trầm tích tự nhiên do lùm cây, bụi cỏ ở bờ sông đóng vai trò quan trọng. “Đến mùa nước lủ tràn ra hai bên bờ, các vật liệu to tịch tụ lại ở ven sông vì nước mất tốc độ khi chảy tràn”. Trên vùng đất mới này, thảo mộc phát triển thêm, phù sa tràn qua bờ sông, lùm cây,
bụi cỏ chận giữ phù sa lại. Loại cây cỏ giữ phù sa là bần, lác, dừa nước, lau sậy, nga. Ở gần biển thì có ô rô, cóc kèn và cây vẹt, cây đước.
Tiền Giang là sông già, cong queo; ở gần khoảng Mỹ Tho, sông chảy cong có nhiều nhánh, nhiều cù lao. Phù sa được giữ lại nhiều hơn ở Hậu giang là con sông chảy thẳng, trẻ hơn Tiền Giang.
Nói đến Miệt Vườn, chúng ta thấy vùng đất rộng lớn phì nhiêu là ở Tiền giang nơi có nhiều giồng, từ Mỹ Tho ra biển.
Trên bản đồ từ Gò Công đến Trà Vinh, năm nhánh sông hiện ra rõ rệt: sông Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên (sông hoặc cửa Cung Hậu ở Tiền Giang và ba địa danh Định An, Ba Thắc, Tranh Đề ở Hậu giang chỉ là địa danh trên sách vở, trong thực tế không ai nói đến); ở Hậu giang, của biển bị cù lao Dung phân ra làm hai.
Trên sông Tiền hoặc sông Hậu, nơi cong queo thì ta đoán chắc là có giồng đất cát pha để tạo lập nhà cửa, vườn tược. Sông cong queo, khúc voi khúc vịnh, người ở trên giồng ngỡ rằng mình sống trên bờ hồ to rộng, trước mặt, hai bên cỏ cây bao quanh một màu xanh biếc4.
TỪ HỒI ĐẦU TÂY LỊCH
Đồng bằng sông Cửu Long là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu, sau Tây Lịch. Chúng ta có quá ít sử liệu về giai đoạn này. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ ba, sứ giả Trung Quốc đến đây ghi chép vài điều về khung cảnh, phong tục tập quán.
Danh hiệu của vương quốc này cũng rất mơ hồ. “Phù Nam” chỉ là phiên âm tiếng Phnom - theo tiếng Miến là núi (như trường hợp Phnom Penh, Nam Vang), chưa ắt vua chúa xưa gọi Vương Quốc của họ là Phnom! Sắc dân ở đây cũng không rõ rệt, có lẽ là người Anh đô nê diên. Nước gọi là Phù Nam đã từng giao thiệp với Trung Hoa, Ấn Độ. Năm 357, một người Ấn Độ làm vua ở xứ Phù Nam.
Vị trí nước Phù Nam được xác định, sau khi các nhà khảo cổ Pháp tìm ra nhiều di tích ở Óc Eo. Đây là di tích một thương cảng xưa và lớn. Óc Eo là tên ngày nay của vùng đất ở chân núi Ba Thê, giữa Hậu Giang và vịnh Xiêm La (An Giang), chẳng ai biết xưa kia thương cảng ấy mang tên gì.
Nhờ sự khai quật muộn màng ấy (năm 1942) mà ngành khảo cổ ở Đông Dương tiến thêm một bước. Chân núi Ba Thê có một thương cảng, thương cảng ấy đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt kinh tế nước Phù Nam mà sử gia Trung Hoa ghi lại, nhưng trước 1942, chẳng ai biết rõ đích xác ở đâu.
Tại Óc Eo, chân núi Ba Thê, xưa kia là thương cảng với nhiều ngôi đền xây bằng gạch, nhiều nhà sàn cất gần nhau. Mấy ngôi nhà này nhứt định là nơi buôn bán tấp nập, căn cứ vào số bông tai, nhẫn (cà rá), chuỗi hột đào được tại chỗ.
Nhiều giả thuyết được nêu ra.
Bọn thương gia Ấn Độ vào thế kỷ thứ 2, thứ 3 sau Tây Lịch đã đến đồng bằng sông Cửu Long để mua bán. Họ mua gia vị, thổ sản ở phía bắc (vùng núi Tà Lớn, núi Đậu Khấu), tích trữ trong kho để chờ khi thuận gió, chở đem về Ấn Độ.
Những món đào xới được ở vùng Óc Eo xác nhận rằng việc thương mãi ngày xưa rất phồn thịnh, thương cảng này liên lạc trực tiếp với Ấn Độ, Ba Tư và gián tiếp với La Mã. Thương cảng này là nơi tạp chủng.
Dân ở thương cảng này lấy gạo ở đâu mà ăn?
Các nhà khảo cứu Pháp như L.Malleret, B.Ph.Groslier5 phỏng đoán rằng thuở ấy chung quanh thương cảng nghề nông khá phát đạt, dân địa phương biết đào kinh để làm ruộng sạ (ruộng không cấy, gieo xuống rồi gặt, cây lúa mọc nhanh theo con nước lụt) bằng cớ là hiện nay còn nhiều dấu tích của kinh đào, hiện rõ ràng trên không ảnh, đào theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, nhằm mục đích tháo nước lụt ra biển, đồng thời mấy ngọn nước ngọt này giúp cho đất sạch phèn, tống nước mặn ra vịnh Xiêm La. Kinh đào khiến cho tàu buôn (từ Ấn Độ đến vịnh Xiêm La) vào thương cảng dễ dàng.
Chúng tôi thấy vài nghi vấn đáng nêu lên:
- Đào kinh là vấn đề khó khăn, đòi hỏi nhân công đông đảo, nhứt là đào kinh to và sâu để tàu buôn vượt qua dễ dàng, không bị mắc cạn khi mùa hạn đến.
Hồi đầu nhà Nguyễn, Thoại Ngọc Hầu và quan Tổng Trấn Lê Văn Duyệt cho đào kinh Vĩnh Tế và kinh núi Sập - Rạch Giá (Thoại Hà), vấn đề nhân công còn khó giải quyết huống gì hồi trên ngàn năm về trước, khi hệ thống kinh đào dài hơn nhiều lần.
Bảo rằng từ khoảng thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ năm sau Tây Lịch có làm ruộng ở vùng phụ cận núi Ba Thê là quá đáng nếu không là vô lý. Đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, khu tứ giác Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá vẫn là hoang vu, dân chúng chỉ làm ruộng ở các giồng đất cao gần bờ sông, bờ biển hoặc ở sát chân núi. Lúa sạ được phổ biến quá muộn. Nếu từ hơn ngàn năm về trước mà vùng này đã có làm ruộng, dầu là ruộng sạ, thì ít ra ngày nay chúng ta cũng gặp ở giữa đồng, dọc theo những con kinh xa xưa ấy (còn di tích chụp lại theo không ảnh) vài dụng cụ nông nghiệp, một mớ nồi chén lu hũ bị lấp dưới đất phù sa.
Mãi đến nay, chưa ai gặp những di tích ấy. Theo chúng tôi thì dân số ở nước Phù Nam không quá đông đảo, sống dễ dàng nhờ lúa gạo sản xuất từ chân núi, từ bờ sông Hậu (trên các giồng) đem đến. Đồng Ba Thê là đất hoang.
Sau khi nước Phù Nam bị sáp nhập vào nước Chân Lạp thì tình thế thay đổi hẳn. Từ địa vị chư hầu, nước Chân Lạp trở nên hùng mạnh, thôn tính nước Phù Nam. Thủ đô của Chân Lạp phỏng định là ở vùng trung lưu sông Cửu Long, gần ranh Lào - Miên hiện nay.
Danh từ Chân Lạp này cũng quá mơ hồ, các sử gia đời nhà Đường đã ghi lại vậy thì hay vậy, chẳng ai biết Chân Lạp là nghĩa gì, xuất phát từ tiếng nào được phiên âm lại. Thời kỳ Chân Lạp, vùng đồng bằng sông Cửu Long (phía Việt Nam ngày nay) trở thành kém quan trọng. Kinh đô đóng ở phía Bắc, trọng tâm ở chính trị và kinh tế cũng dời về trên ấy. Sử gia đời Đường phân chia nước Chân Lạp ra hai vùng:
- Thủy Chân Lạp (vùng đất thấp).
- Lục Chân Lạp (vùng đất cao).
Thủy Chân Lạp có lẽ về vùng Nam phần hiện nay, khởi đầu từ vùng đất thấp ở Đồng Tháp Mười và vùng Láng linh, gần Châu Đốc, vùng núi Ba Thê.
Trong giai đoạn này, vùng cực Nam đồng bằng sông Cửu Long bị lu mờ, sau thời hưng thịnh tuyệt đỉnh với thương cảng Óc Eo.
Tại sao có sự lu mờ đó?
Óc Eo, vùng núi Ba Thê (An Giang) với thuyền buôn tấp nập, một đô thị vào hàng quan trọng ở Đông Nam Á bỗng nhiên bị xóa tên trên bản đồ, trong ký ức mọi người, về sau này, sử gia không biết mà nhắc tới. Nhiều giả thuyết được nêu ra:
- Một trận thiên tai khủng khiếp đã xảy đến, thí dụ như sóng thần (raz de marée), làm ngập lụt thành phố, nước biển cuốn theo hàng ngàn người.
- Nạn ngoại xâm xảy ra, đối phương đánh úp thình lình, tàn sát dân chúng, cướp bóc tài sản, đập phá đến thờ. Sau đó đối phương rút lui.
Các nhà khảo cứu B.Ph. Groslier, L. Malleret tỏ ra dè dặt, nêu giả thuyết cho rằng khi trung tâm kinh tế và chính trị được dời về phía Bắc thì sinh hoạt ở thương cảng Óc Eo trở nên kém quan trọng. Có lẽ vùng Vũng Thơm (gần Sóc Trăng ngày nay) tiếp nối vai trò của Óc Eo, thuyền bè ngoại quốc đi lên kinh đô Chân Lạp theo cửa sông Hậu giang bên Nam Hải thay vì đi theo kinh đào, phía vịnh Xiêm La.
Có lẽ trong năm nào đó, nước sông Hậu giang dâng tràn quá mức bình thường, khiến cho mùa màng bị tiêu hủy nên dân chúng rủ nhau di cư về miền đất cao ở phía Bắc, vùng Cao Miên ngày nay.
Hai giả thuyết này gẫm lại không ổn cho lắm.
Chúng ta biết rằng ruộng sạ khai thác hàng năm, tùy theo nước dâng lên đúng mức, hoặc quá nhiều hoặc quá ít mà mùa màng tốt hay xấu.
Nếu đôi ba năm liên tiếp mà nước lụt cao quá mức trung bình thì vài năm sau đất ruộng vẫn canh tác được.
Vùng chân núi Ba Thê được xem là phồn thịnh, chu vi thành phố khá rộng: ba ki-lô-mét bề dài, một ki-lô-mét bề ngang, theo hình chữ nhựt. Thiết tưởng chúng ta không nên phỏng định quá cao dân số ở thương cảng ấy. Nếu là cuộc di dân thì tại sao dân chúng bỏ sót lại khá nhiều nữ trang? Việc canh tác ruộng nương vào thuở ấy không quá phồn thịnh, nếu có thì ruộng nương tập trung ở gò đất sát Hậu giang chớ không phải ở vùng nước mặn đồng chua ăn qua vịnh Xiêm La vì mãi đến trước năm 1945, người Việt Nam với trình độ canh tác tinh vi, khôn khéo hơn đã phải bó tay, vì điều kiện nhân công và kỹ thuật.
Như đã nói, theo sử gia đời nhà Đường thì phần đất Nam Phần ngày nay thuộc Thủy Chân Lạp. Cuối thế kỷ thứ tám, riêng ở Thủy Chân Lạp có ít nhất là năm tiểu quốc chia giành ảnh hưởng. Triều đại Cailendra ở đảo Java (Nam Dương) cử binh vượt biển; phải chăng
thương cảng Óc Eo và đa số đền đài bị hủy diệt nhơn chuyến chinh phạt này?
Về việc khai thác đồng bằng sông Cửu Long thì tài liệu quá mơ hồ trong thời kỳ nầy. Khi người Pháp mới đến, họ chú ý một tấm bia khắc chữ Phạn (Sanscrit) tìm được ở Đồng Tháp Mười, chở về Tòa Hành Chánh tỉnh Sa Đéc, năm 1878-1879, đến năm 1928 thì chở về Viện Bảo Tàng Sài Gòn. Trên bia, nét chữ đã phai mờ, nhiều đoạn mất hẳn. Đáng chú ý nhất là câu thứ hai:
- Nhờ ơn của nhà Vua mà “biển sữa tươi” được tát cạn, trở thành một ao nhỏ chứa đầy cao lương mỹ vị.
Và câu thứ bảy, trên tấm bia:
- Đức Vua trẻ tuổi ấy được phong cho cai trị một vương quốc chinh phục trong sình lầy (un royaume conquis sur la boue) (Theo bản dịch từ chữ Phạn ra Pháp văn của G.Coedès, tập Kỷ Yếu trường Viễn Đông Bác Cổ, đệ nhất lục cá nguyệt, 1931).
“Tát cạn biển sữa tươi” là điển tích của Bà La Môn Giáo. Thần Vishnu sáng lập ra vũ trụ, trong vũ trụ có một vùng biển lạ thường chứa đầy sữa tươi, dưới đáy biển ấy, nếu tát cạn thì gặp bầu thuốc trường sanh bất tử.
Để làm công việc phi thường ấy, thần Vishnu vác trọn đỉnh núi Mandare đặt xuống biển, con rắn thần Vasuki quấn chung quanh chót núi; chót núi đóng vai trò cây cốt, đầu và đuôi rắn thì quơ qua lại. Bao nhiêu nhân công nắm đầu và đuôi rắn mà tát…
Tấm bia nói trên xác nhận rằng ở vùng Đồng Tháp Mười xưa kia dân chúng đã cố gắng khẩn hoang, cấy lúa. Kết quả như thế nào, chúng ta chưa nắm được tài liệu chính xác nhưng chắc là không khả quan. Ở Hưng Thạnh Mỹ, ở Thân Cửu Nghĩa thuộc chu vi Đồng Tháp ngày nay, ta còn gặp tượng thần Vishnu, ngoài ra, còn mấy pho tượng tạc bằng cây mù u.
Trong thời kỳ đồng bằng sông Cửu Long là lãnh thổ của Phù Nam và Thủy Chân Lạp, chúng ta chỉ tìm thấy những tài liệu trên, liên quan đến vùng Đồng Tháp, vùng Ba Thê, bên tả ngạn và hữu ngạn
của sông Cửu Long. Hai vùng này mãi đến đầu thế kỷ thứ hai mươi vẫn còn u trệ.
Ở vùng đất giồng cao ráo ở ven sông phía Nam, gần biển thì sinh hoạt kinh tế , văn hóa như thế nào, khi trên đất Cao Miên bắt đầu hưng thịnh, nước nhà được thống nhứt, vua chúa đang phấn khởi bắt tay vào việc xây cất Đế Thiên Đế Thích?
Có thể nói là số người Miên ở miền dưới nầy lo khai khẩn trên đất giồng, lập đền chùa, làm chút ít ruộng trên đất gò.6
Nhiều địa danh còn phảng phất tiếng Miên, nhưng chúng ta nên dè dặt, không phải nơi nào tên Miên là nơi đó có người Miên đến lập nghiệp, từ thuở xa xưa! Vùng U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang) mang tên là “Tai Lách”, nhưng vào cuối thế kỷ 19, người Việt khẩn hoang không gặp nơi đó một căn chòi nào cả. Cũng ở Rạch Giá, theo sông Cái Lớn, còn một nơi gọi là Rạch Tia (hoặc Rạch Tìa), theo tiếng Miên đó là rạch nuôi vịt. Vào khoảng năm 1910 rất gần đây, con rạch này không có tên, chưa có người ở. Một người Hoa Kiều đến ngọn rạch, cất trại để nuôi vịt Tàu, bầy vịt tha hồ lội tới lui trên dòng rạch mà ăn ốc ăn cá. Người Miên ở vùng lân cận căn cứ vào đó mà đặt tên. Nghiên cứu địa danh là vấn đề đòi hỏi công phu và nhiều thận trọng, thí dụ như giả thuyết cho rằng Sa Đéc, do tiếng Miên Phsar Dek, nghĩa là chợ bán sắt mà ra thì không đáng tin cậy cho lắm.7 Các nhà khảo cổ Pháp hỏi người địa phương, được giải thích như thế nào thì ghi lại như thế ấy, lắm khi là sự giải thích gượng ép. Người sanh đẻ tại Sài Gòn chưa ắt hiểu tại sao gọi là Sài gòn? Sài gòn là gì?
Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 17, chúng ta tạm phỏng đoán được là người Miên sống tập trung ở vùng đất giồng cao ráo, nhiều nhứt là ở vùng Sóc Trăng và Trà Vinh, vùng đồi núi Thất Sơn; kinh tế vẫn còn thấp kém, chỉ có sự đổi chác sản phẩm ở trong địa phương nhỏ.
Năm 1658 đánh dấu giai đoạn quan trọng trong lịch sử khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nhóm di thần bài Mãn phục Minh được Hiền Vương cho phép đến khẩn hoang tại cù lao Phố (Biên Hòa), tại vùng Mỹ Tho. Vào năm 1695, Mạc Cửu đến Hà Tiên.
Mạc Cửu và nhóm ở Biên Hòa lo việc mua bán.
Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho chú trọng vào nông nghiệp. Đại Nam Nhứt Thống Chí ghi chép rằng nhóm nầy đóng thuế cho triều đình, lập ra chín trang trại. Mãi đến nay chưa ai xác định rõ ràng vị trí.
Một vị trí mang tên là Tam Lạch. Phải chăng đó là Tầm Lách (tiếng Miên âm lại), ngày nay là vùng chợ Lách (Vĩnh Long). Thi sĩ Tôn Thọ Tường còn gọi chợ Lách là vùng “Lách Cần Thay”.
Một trang trại khác mang tên là Bả Canh. Không nghi ngờ gì nữa, đó là vùng Mỹ Tra (Cao Lãnh), căn cứ theo bài văn bia ở mộ ông tiền hiền Nguyễn Tú. Nhưng cũng theo bài văn bia nầy thì khu vực Bả Canh đã trở thành hoang vắng, hồi đầu đời Gia Long, khi ông Nguyễn Tú đến.8
Khi Gia Long tẩu quốc đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, ngài được sự ủng hộ tích cực về nhân lực, vật lực của đám nghĩa sĩ đất Ba Giồng. Ba Giồng là những giồng ở tả ngạn sông Cửu Long, gần Mỹ Tho (xem Đại Nam Nhứt Thống Chí, Nam Kỳ Lục tỉnh, tập thượng, trang 105-106 và trang 116). Sự phát triển về kinh tế, nhứt là nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long là lý do chánh khiến người Huê kiều ở cù lao Phố (Biên Hòa) dời xuống vùng đất Chợ lớn ngày nay, làm ăn dễ sanh lợi hơn, sau khi quân Tây Sơn đốt sạch “Nông nại (Đồng Nai) đại phố”, vào năm 1778. Vị trí vùng Chợ lớn thuận lợi để đón nhận lúa gạo, cá tôm từ Mỹ Tho, Vĩnh Long chở đến.
GIỮA HAI THẾ KỶ XIX VÀ XX
Chúng ta nghe những lời thuật lại rất đáng tin cậy của mấy ông kỳ lão: cọp, sấu còn hoành hành ở miền quê Bến Tre, Gò Công, An Hóa vào khoảng 1900 - 1910, nào riêng gì vùng sình lầy phía Cà Mau. Bên bờ Hậu giang, ngày nay vùng Phong Điền nổi danh trù phú với vườn cam vườn quít, - vào khoảng 1900, cọp vẫn còn tại đó. Vài bầy voi xuất hiện lần chót ở Rạch Giá để kéo nhau về bên kia biên giới Cao Miên; chúng ta gặp nhiều địa danh như Láng Tượng, Giếng Tượng.
Dân Việt đã tạo cơ sở để định cư lâu dài. Con người sống nào chỉ cần cơm ăn, áo mặc. Phải trồng thêm rau cải, cây trái, phải chọn nơi dưỡng già, nơi gởi xương khi mãn phần, phải đào tạo thế hệ trẻ dính liền về lịch sử, về văn hóa với triều đình. Thời vua chúa, triều đình là tượng trưng của “Sơn Hà Xã Tắc”, của Tổ Quốc. Lập đình thành hoàng, cất chùa miễu, rước thầy dạy học là nhu cầu tinh thần cấp bách. Trước khi người Pháp đến, cơ sở văn hóa, chánh trị ở nông thôn vùng Định Tường, Vĩnh Long và một phần An Giang đã khá vững chắc. Thuở ấy, một tỉnh rộng bằng ba bốn tỉnh ngày nay. Vùng Gò Công, Tân An dính vào tỉnh Gia Định; Sa Đéc là phần đất của tỉnh An Giang.
Vĩnh Long và Định Tường là hai nơi quan trọng nhứt nhì. Dinh Long Hồ (Vĩnh Long) là đồn binh quan trọng bậc nhứt, phân phát binh sĩ cho An Giang, Hà Tiên, Cao Miên khi có chiến trận. Trấn Vĩnh (Vĩnh Long) đã từng bao gồm luôn vùng Rạch Giá (1788). Người Vĩnh Long đúng là người “Dinh”, theo nghĩa là người sang trọng ở thành thị không quê mùa, nào kém người ở Dinh Trấn Biên (Biên Hòa), Dinh Phiên Trấn (Gia Định).
Cơ sở văn hóa và chính trị ấy được chứng minh và thử lửa: Phan Thanh Giản đậu Tiến sĩ, Bùi Hữu Nghĩa đậu Thủ khoa, ngoài ra còn những ông “học sinh” và những ông “nhiêu”. Thủ khoa Huân dám sống chết với đất Mỹ Tho, Trương Công Định xứng đáng là Quản cơ điều khiển vùng đồn điền Gia Thuận (Gò Công), Nguyễn Trung Trực chống giữ vùng Nhật Tảo, Thiên Hộ Dương xứng danh là một điền
chủ yêu nước. Bốn vị anh hùng chống Pháp nầy đều là người sống chết với Miệt Vườn.
Chúng ta không quên ông Trương Vĩnh Ký, một tín đồ công giáo hiền lành, thông minh, quê ở Cái Mơn (lúc bấy giờ Cái Mơn thuộc tỉnh Vĩnh Long), được các cố đạo chú ý cho du học ở Poulo Penang (Mã Lai). Sự liên lạc giữa Cái Mơn và Mã Lai đem cho Miệt Vườn nhiều loại cây mới: măng cụt, bòn bon, chôm chôm. Poulo Penang, nơi ông Trương Vĩnh Ký du học là nơi có nhóm người Bà Ba lập rẫy mía. Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa (chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba).
Cái Mơn trở thành vườn cây tốt đẹp, phân phát loại cây giống cho toàn thể vùng đồng bằng. Chúng tôi không được biết kỹ thuật chiết nhánh, tháp nhánh đã có ở Cái Mơn từ lúc nào, - có lẽ muộn hơn, sau nầy.
Nhà cửa, thói ăn nết ở tại Miệt Vườn trước khi người Pháp đến như thế nào? Dân số gồm bao nhiêu?
Đại Nam Nhứt Thống Chí soạn vào cuối đời Tự Đức, hoặc trễ hơn nữa, ghi vài chi tiết đáng chú ý:
- Tỉnh Vĩnh Long: Bao quanh có chợ Vĩnh Thạnh, chợ Long Hồ, ghe thuyền tụ tập, phố sá liên tiếp, thành ra một yếu địa hình thắng danh khu đô hội vậy… Ngoài ra còn có Tiền giang, sông sâu nước chảy hùng dũng… Nói về địa lợi thì đồng bằng ngàn dặm, có ruộng vườn phì nhiêu xanh tốt.
Tài liệu trên cũng ca ngợi miền phù sa Miệt Vườn:
- Đất xốp mà mềm dẻo rất là phì nhiêu. Nước tuy đục mà ngọt tưới rửa được tiện lợi. Nơi bến sông bờ biển có thủy liễu (cây bần) mọc thành hàng, cành lá xanh rờn không hề biến đổi. Cây cỏ nở hoa đậu trái không phân biệt mùa xuân hay mùa thu. Nơi ruộng sâu, cắt cho sạch cỏ rồi vãi lúa giống xuống không tốn công cầy bừa. Nhiều sông ngòi lưu thông nhưng không tích tụ khí lam chướng, duy có khí thấp nhiệt thường nung nấu nên có bệnh phong.
Về phong tục, nếp sống thường nhạt thì dân tỉnh Vĩnh Long có vài nét sau đây:
- Tánh người ưa chịu nắng, ưng ăn đồ mặn, ăn mặc khí dụng có văn hoa mà cũng có chất phác. Hôn thú tang lễ giữ theo luật pháp lễ nghi. Kẻ sĩ chuộng thi thơ, dân thường ưa thương mãi. Nghề ruộng và nghề đánh cá đều nhơn theo lợi tự nhiên, dụng lực ít mà được lợi nhiều. Đất đai rộng, thức ăn nhiều, ít cần súc tích dành để. Nhiều người biết bơi lội, thiện nghệ câu cá sấu và đánh cọp. Bách công kỹ nghệ chưa được tinh xảo, hạng người quân tử hay chuộng lễ nghĩa, trọng danh tiết, còn hạng tiểu dân hay du thủ, phù phiếm, xa xỉ…
Ở tỉnh An Giang xưa, vùng Sa Đéc là trù phú nhứt. Cũng theo tài liệu dẫn thượng:
- Sa Đéc giang (sông Sa Đéc): sông trong nước ngọt, hai bên vườn ruộng mở mang béo tốt, nhân dân giàu đông.
- Chợ Vĩnh Phước: tục danh chợ Sa Đéc, chợ quán dọc theo bờ sông liên tiếp nối dài năm dặm, dưới sông có những bè bằng tre kết đậu khít nhau giăng hàng, hoặc bán tơ lụa và đồ khí dụng, hoặc bán dầu rái, than củi, mây, tre, muối mắm, còn trên phố sá cũng có bán đủ các hàng hóa tốt đẹp, là một thắng địa phồn hoa vậy.
Những cô gái ở Sa Đéc được khen ngợi:
- Nữ công ở huyện Vĩnh An khá hơn.
Khu vực cao ráo thuộc Ba Giồng, vùng Tân Hiệp, Tân Lý Tây, Bến Tranh ngày nay (thuộc tỉnh Định Tường) là đất xưa. Tân Lý Tây là nơi lập Trường Đồn dinh của chúa Nguyễn (1772). “Với đạo Trường đồn nầy, uy quyền chúa Nguyễn phát triển lên phía Tây Bắc đến biên giới Chân Lạp”9, đây là nơi tướng Đỗ Thanh Nhơn đồn trú. Đây cũng là Trấn Định, sau ly sở dời qua Mỹ Tho. Trước khi người Pháp đến, vùng đất cao ráo nầy có sinh hoạt kinh tế phồn thạnh, với chợ Lương Phú, Bến Chùa “đều là nhà ở bán lúa gạo, nên những ghe đến mua gạo thường đậu đông ở đấy, chỗ đây cũng gọi là Chợ lớn”10.
Đây là chợ Cái Bè: Ở huyện Kiến Hòa, tục danh chợ Cái Bè, phố xá trù mật, nhiều nhà làm nghề thợ nhuộm, nhà giàu hay trữ cau đem
bán cho thương nhân Sài gòn, và làm ghe thuyền để đi buôn bán ở Cao Man11. Chợ Cái Bè được ghi là chợ An Bình. Cái Bè đã là trị sở của Vĩnh Long, sau đó Vĩnh Long mới dời về thôn Long Hồ (tức là chợ Vĩnh Long ngày nay). Cái Thia là nơi sông sâu nước chảy12, “trong châu cây cối cao to, ruộng vườn béo tốt”.
Đời Tự Đức, dân số ở đồng bằng sông Cửu Long rất ít. Tỉnh Vĩnh Long (gồm luôn Trà Vinh và một phần Bến Tre) gồm 37.000 dân đinh đời Gia Long, qua đời Tự Đức, dân số chỉ còn 28.323 người. Định Tường có 19.800 người, đời Gia Long; đời Tự Đức có 22.584 người.
Cuối đời Tự Đức, triều đình thúc đẩy kế hoạch thành lập đồn điền. Miệt Vườn tức là đất giồng ở ven sông rạch đã có người định cư rồi. Kế hoạch đồn điền nhằm vào vùng khó khai thác, hãy còn hoang vu, hoặc là những vùng đông người Miên nhưng người Miên không khai thác hết.
Năm 1853, vua Tự Đức chấp nhận lời tâu của Nguyễn Tri Phương, tuyển mộ những lưu dân từ Bình Thuận trở ra các tỉnh phía Bắc, cho họ đến lập nghiệp tại hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, còn dư thì cho qua vùng kinh Vĩnh Tế, Tịnh Biên (theo biên giới Việt - Miên), hoặc xuống Ba Xuyên (Sóc Trăng).
Việc tuyển mộ này khá uyển chuyển, một hình thức là bán quân sự, một là dân sự.
1) Đồn điền là tổ chức bán quân sự (đã thực hiện từ đời Gia Long). Dân số tập trung, ban ngày cày bừa, ban đêm canh phòng, 50 người làm một đội, 500 người làm một cơ. Ai mộ được 50 người thì được phong làm suất đội, mộ được một cơ thì phong làm chánh đội, kiêm chức phó quản cơ. Sau một thời gian canh tác, mỗi đội trở thành một ấp, một cơ trở thành một tổng. Người làm suất đội mặc nhiên trở thành ấp trưởng, người làm chánh đội trở thành cai tổng (chức vụ quân sự kiêm luôn chức vụ dân sự).
Tài liệu không nói rõ những ai có thể gia nhập đồn điền? Chúng tôi đoán rằng dân đồn điền là những người tình nguyện hoặc những người còn trai tráng, phải làm phận sự quân dịch.
2) Một hình thức tuyển mộ khác là việc lập ấp, thuần túy dân sự, có lẽ dành cho người lớn tuổi, ngoài vòng quân dịch. Bất cứ ai mộ được mười người thì có thể đến gặp nhà cầm quyền để xin chỗ khai khẩn và lập hộ, người Hoa kiều có thể gia nhập.
Ai mộ được 30 người thì tha sưu thuế trọn đời, mộ được 50 người thưởng chức “chánh cửu phẩm”, được 100 người thời thưởng “chánh bát phẩm”. Thuế điền và thuế đinh được tạm miễn cho dân chiêu mộ lập ấp nầy.
Vùng Tịnh Biên (biên giới Việt - Miên, phía Châu Đốc) và vùng Ba Xuyên (Sóc Trăng) vẫn là mối lo âu thường xuyên của tướng Nguyễn Tri Phương. Ông muốn qui tụ một số đông dân Việt Nam để khẩn hoang, bên cạnh những nơi có người Miên cư trú, để cho tỷ lệ người Việt trong vùng được nâng cao. Lần sau, tướng Nguyễn Tri Phương tâu về vua Tự Đức và được chuẩn y; kế hoạch nhắm vào người lục tỉnh:
- Dân ở lục tỉnh muốn đến khẩn hoang ở Tịnh Biên, Ba Xuyên thì được tự do, chỉ cần một điều kiện là chịu sáp nhập với các tổng đã thành lập rồi.
- Tù phạm ở lục tỉnh có thể được tha tội nếu họ tình nguyện lập thành từng đơn vị 30 người để đến khẩn hoang nơi biên giới: dọc theo kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc) dọc theo Giang Thành (Hà Tiên).13
Những việc chiêu mộ nói trên nặng về nhu cầu chiến lược quân sự, lo ứng phó với nạn ngoại xâm từ Cao Miên, từ Xiêm La, đồng thời củng cố miền biên giới. Trong thực tế, việc chiêu mộ gặp nhiều khó khăn. Quan tổng đốc An Hà (An Giang và Hà Tiên) tâu về triều đình, xin cho dân chiêu mộ được hưởng qui chế dễ dãi, chỉ bắt họ tập luyện quân sự khi nào họ đã tạo lập xong nhà cửa, được vững vàng về sinh kế. Nếu xảy ra nạn đào ngũ thì nên chờ, không nên bổ sung quá gấp. Nhiều dân đồn điền nơi nầy lại trốn qua đồn điền nơi kia vì nợ nần, vì muốn tìm đất tốt hơn hoặc vì bất mãn với người chỉ huy.
Kết quả là tướng Nguyễn Tri Phương thành lập được thêm hai cơ đồn điền, lấy tên là An Ninh và An Biển. Tổng số thôn ấp mới thành
lập phỏng chừng một trăm cơ sở mới, trong vòng hai năm (1853- 1854) qui tụ chừng 5.000 dân đinh.
Ở Miệt Vườn, tức là những tỉnh xưa sát bờ Tiền giang và Hậu giang (trừ miền biển Trà Vinh, Sóc Trăng) gần như tuyệt đối không có người Miên.
Người Miên thích cất nhà sàn, trên đất giồng, làm ruộng ở sát giồng.
Lần hồi, họ nhường phần đất cao ấy cho người Việt, vì lý do gì? Chúng tôi thử giải đáp như sau:
- Người Miền giữ thái độ trung lập trong cuộc chiến đấu giữa Gia Long và Tây Sơn. Nơi nào xảy ra giao tranh là họ tránh xa, trừ vài trường hợp đặc biệt - (như quan điều bát Tồn).
- Lúc người Pháp đánh chiếm, người Miên trốn xa những nơi hành quân của nghĩa quân hoặc của thực dân. Một số ít người Miên gia nhập vào hàng ngũ lính ma tà, (khi đánh chợ Sóc Trăng, người Pháp cho 40 lính ma tà Việt Nam, 10 lính mà tà Miên đi tiền phong, chập sau 40 lính Pháp mới tới), đó cũng lại trường hợp lẻ tẻ.
Người Miên tự ý đổi chỗ ở, khi người Việt đến lập nghiệp bên cạnh. Phong tục người Việt và người Miên khác nhau nên khó dung hòa từ việc quan hôn tang tế đến những ngày lễ lộc trong năm. Người Miên theo văn hóa Ấn Độ, Phật Giáo tiểu thừa với lễ đưa nước, rước nước. Họ không thích phá rừng và ghét những ai làm “động đất”.
Quyển “Gò Công cảnh cũ ngày xưa” do ông Việt Cúc biên soạn, (Tác giả xuất bản, 1969) nói về việc khai khẩn một giồng đất, giồng Nâu ở làng Tân Duân Đông, nay đổi là xã An Hòa:
“ - Theo lời một ông già thì ông cố của ông di cư vào đây, thuở ấy người Miên hiện còn ở đó làm ăn. Ông cố ở chung xóm với người Miên, vùng này người Miên khai phá được khoảng đất rộng để trồng trọt, dưới trũng sâu cũng có cấy lúa được một vài nơi. Rừng bụi hoang vu mênh mông, mạnh ai nấy lo khai phá, dọn trống được bao nhiêu thì trồng tỉa và cấy lúa bấy nhiêu. Người Việt sống chung chạ
làm ăn, không có ý gì chen lấn và tranh giành với họ, nhưng trong vài năm không hiểu người Miên họ nghĩ thế nào mà rủ ren với nhau rồi đồng hè vợ con bồng bế, dời đi nơi đâu không biết.”
Lý do phải chăng là khác nhau về phong tục tập quán?
- Người Miên thích ở trên giồng nhưng không phải giồng nào cũng có người Miên ở từ xưa. Dân số người Miên rất ít, nhiều con rạch, nhiều giồng mang tên Miên nhưng đó chỉ là nơi mà họ lui tới để bắt cá, xom rắn.
- Người Việt tạo lập thêm nhiều giống mới, phát triển những giống đã có sẵn. Nơi đất thấp gần ven sông, người Việt “đào mương liên tiếp”. Đây là kỹ thuật làm vườn khá tinh vi mà người Miên không biết, mà người miền Trung thiếu hoàn cảnh để áp dụng. Giữa hai mương là liếp đất cao, mương đào càng sâu, càng rộng thì đất quăng lên bồi liếp càng nhiều. Nước lớn chảy vào, mang phù sa theo. Phù sa lắng xuống, ở lại đáy mương. Khi nước ngoài sông đã ròng thì nước trong mương rút trở ra; chuyến vào là nước đục, chuyển ra là nước trong. Mớ phù sa dưới mương được quăng lên liếp để đắp gốc cây, người làm vườn không cần mua phân bón.
Thực dân Pháp đến.
Đồng bào ở các tỉnh miền Đông dời qua miền Tây để tránh sự hà hiếp của thực dân. Ông Phan Thanh Giản quá mềm yếu, nếu không là nhu nhược. Những ai chống đối chánh quyền Pháp đều bị ông bắt giam, vì chống đối tức là vi phạm hòa ước 1862, theo đó quân sĩ triều đình phải buông súng ở ba tỉnh miền Đông. Một số nho sĩ bị bọn tay sai thực dân bắt, hai tên tri huyện theo Tây là Nguyễn Tường Phong và Nguyễn Tường Vân ra sức phủ dụ đến “bốn năm ngày, các người ấy cũng chẳng khuất phục, lại còn chửi mắng om sòm, làm chúng tức giận, đem ra thắt cổ năm người” (Tờ bẩm của Phạm Tiến).
Giặc Pháp biết rõ từ lâu sự quan trọng về mặt chiến lược của sông Cửu Long mà trước kia chúng đã thử thám hiểm để tìm đường qua miền Nam Trung Hoa. Sông Cửu Long tuy có nhiều thác hiểm trở, nhưng con đường từ vàm biển đi ngang Mỹ Tho đến kinh đô Cao Miên khá thuận lợi cho tàu thủy, “Tỉnh thành (Mỹ Tho) thì có một tàu
chiến hạng lớn, một thuyền nhiều dây, bốn tàu nhỏ, một thuyền nhiều dây nhỏ, tổng đốc và các viên chức Tây đều đóng tại các nhà bên ngoài thành, trong thành tức là trại binh và kho tàng, hiện có hơn 300 lính Tây, 100 lính Ma ní, 200 ma tà và lính mộ, dãy phố bên hữu là nhà của dân thì nay người Tây, người Tàu, vân vân… thuê lại để trữ hàng hóa, chúng cho cử Tạo làm đốc học, nhưng chỉ mười đứa trẻ con tới học mà thôi, Văn Miếu vẫn còn nhưng cố đạo chiếm cứ làm nhà giảng đạo, ở phủ Kiến Tường cũng có một đồn nhỏ, quân Tây phỏng độ 100, ở bến Kê Bè (Cái Bè?) có một thuyền nhiều dây hạng lớn, nơi đối diện với phủ Kiến Tường là thôn Tân Tịch, thuộc phủ Tân Thành, ngôi đình thôn này cũng có độ 30 tên lính Tây đóng giữ một số bò và đá vôi, rượu thịt v.v… tàu binh Tây đi về Cao Man thường hay đỗ lại nơi đó, có khi đến hai ba chiếc…”
Tài liệu trên, do Trần Ngọc Thanh và nguyễn Đức Tánh ký, năm Tự Đức thứ 16, (1863) còn cho biết:
“Hiện nay các người cử nhân, tú tài, thân sĩ cùng các quản suất, nghĩa quân, hào mục trong các thôn xã bị Tây nã gắt gao nên phải bỏ hết sản nghiệp để cùng gia quyến chạy đến ba tỉnh Vĩnh Long, An Hà, Hà Tiên trú ngụ rất nhiều, còn như những người vì nghĩ phần mộ tổ tiên nên còn ở lại quê quán, hoặc vì nghèo đói không thể thiên cư thì mới ở lại cam chịu đời sống cơ cực trăm chiều, khiến cho làng mạc xơ xác, nhà cửa tiêu điều, ruộng đất bỏ hoang, tài lực khánh liệt. Nhưng dù đứng trong cảnh khổ, nhân tâm vẫn còn oán hận vô vùng”.
Mặc dầu quân Pháp mạnh hơn, dùng mọi áp lực nhưng “lòng dân vẫn còn nhớ cũ, phong tục vẫn chẳng đổi thay, lể nhạc y quan vẫn thế, thờ thần lễ Phật, tế tự xướng ca, khắp hạt vẫn theo tục cổ”. (Xem Tập san Sử Địa, số đặc khảo về Trương Công Định, số 3, 1966, từ trang 145).
Năm 1865, (sau khi ký hiệp ước 1862) chợ Mỹ Tho chỉ còn 8.000 dân đinh; trước kia có đến 18.000 dân đinh.
Năm 1894, bác sĩ Baurac nhận xét rằng dân số ở tỉnh Rạch Giá trước kia chỉ có 35.000 người, sau này tăng đến mức 90.000 người14.
Sự gia tăng này xảy ra trước khi người Pháp đào kinh xáng, tạo điều kiện cho việc khẩn hoang. Đúng là những người tìm đất dung thân, tránh tập nã vì lý do chánh trị.
Tinh thần chống Pháp còn được biểu lộ rõ rệt khi các môn đệ của ông Võ Trường Toản làm lễ dời mộ, từ làng Hòa Hưng, huyện Bình Dương (bấy giờ thuộc Pháp) về làng Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre) vào năm 1865, bấy giờ còn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Huế.
Quyền sở hữu về điền địa đã bị xáo trộn.
Sau khi chiếm thành Chí Hòa, từ năm 1861, nhà cầm quyền thực dân đã ký sắc lịnh giải tán các đồn điền vì đó là tổ chức có tính chất quân sự, ủng hộ triều đình Huế.
Mấy quyển địa bộ lập từ đời Tự Đức đã bị thất lạc, không còn có giá trị trên thực tế. Ngày 27-11-1885, các quan tham biện chủ tỉnh được lịnh lập lại địa bộ, “các hương chức làng xã cứ theo điều mình học biết, cũng là để mà chứng minh phải chỉ ra nguyên mỗi một miếng đất là của ai”.
Như vậy trên toàn cõi Nam kỳ Lục tỉnh, một địa bộ khác được thành lập, theo ý kiến của hương chức làng (những người mới bổ nhậm sau nầy, theo thực dân). Hương chức làng và một số cường hào tha hồ thao túng chiếm đoạt ruộng đất của những người đã chạy trốn, những người thất thế.
Dân chúng phản đối nhộn nháo. Một số người đủ can đảm đứng ra tranh chấp, đòi ruộng đất mà họ đã khai khẩn hoặc đã làm chủ, từ hồi cựu trào. Theo H.L Jammes, một người đã sống ở Nam phần khi người Pháp mới đến thì vào năm 1895, vấn đề tranh chấp điền địa thật là nan giải. Nhiều cuộc tranh tụng diễn ra, ở Vĩnh Long có 118 bản án không thi hành được, ở Long Xuyên có 148 bản án, ở Sóc Trăng 48 bản án. Riêng ở tỉnh Cần Thơ, 74 bản án, trong số này có 6 bản án nếu thi hành thì phải bố trí sẵn một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, để phòng dân chúng nổi loạn chống đối15.
Khi người Pháp đến xâm chiếm, khung cảnh xã hội có những điểm đáng chú ý như sau:
- Kẻ sĩ và một số nông dân bỏ quê quán, từ miền Đông qua miền Tây để thoát ách cai trị của thực dân. Tỉnh nào cũng dậy lên phong trào kháng Pháp, dân chúng còn hy vọng vào triều đình Huế, lúc bấy giờ chưa bị thực dân trực tiếp lấn hiếp. Dân chúng chạy giặc, nghĩa quân lánh nạn sợ bị trả thù sau khi phong trào tan rã đã thay đổi địa phương, thay đổi tên họ. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nay hãy còn tục lệ cúng “vật lề” (gọi trại là việc lề), nhờ đó mà những người khác quê quán, khác họ có thể nhận bà con với nhau (thí dụ như người trong gia đình khi tản lạc giao ước là đến ngày nào đó, hàng năm sẽ làm lễ cúng người trong dòng họ, với một món tiêu biểu thí dụ như cúng toàn là tôm, là rùa, cá sấu…). Một kiểu gia phả!
- Nhóm di thần “bài Mãn phục Minh” ở đồng bằng sông Cửu Long đã Việt Nam hóa. Người Trung Hoa khi ra hải ngoại ít khi đem theo đàn bà. Họ cưới gái Việt Nam. Người ở Nam phần có lẽ đa số là sự kết hợp giữa nông dân Việt Nam từ Trung phần với nông dân Trung Hoa, thuộc tỉnh Quảng Đông, hồi cuối thế kỷ 17. Ngoài ra, còn một số người Việt “thuần túy”, còn gọi là “dân hai huyện” ở vùng ông Chưởng (Long Xuyên).
Đời sống thường nhật thuở ấy chắc hơi giống những nét mà ông Việt Cúc mô tả lại, về miền quê vào khoảng 1900:
“Hàng ngày sáng ra lót lòng cơm với muối mè, hoặc cháo, trưa và chiều hai bữa đạm bạc cá mắm canh rau, quần bộ áo vải, no bụng ấm thân thì thôi. Người được mạnh khỏe, ít hay ốm đau. Xóm thưa, dân số ít, hai ba năm mới nghe cái đám ma. Thiên hạ đi xem đám ma đông như đi chợ và náo nhiệt như đám hát.
“Trẻ con 12 tuổi còn ăn chơi đùa giỡn, chưa làm việc gì, đầu cạo trọc từ thuở mới sanh, đến 15 tuổi mới để tóc ra dài mà bới. Con gái phân biệt là được chừa chỏm tóc giữa đỉnh đầu, tròn tròn bằng cái bánh bèo, gọi là “chừa bánh bèo”. Con nít bảy tám tuổi chỉ mặt một cái áo phủ đến trôn, chưa cho mặc quần, 9 tuổi mới mặc quần cụt (quần đùi), 10 tuổi đủ trí nhớ, con nhà giàu thì cho đến ở nhà thầy mà học tập, con nhà nghèo chịu dốt cho nên thuở xưa ít có người biết chữ.
“Trai 18 tuổi sắp lên tập cày ruộng, cấy giặt và gánh gồng, học những công ăn việc làm, đến 21 tuổi mới cưới vợ. Gái lớn lên từ 17 đến 20 gả lấy chồng.
“Khi có chồng có vợ, còn ăn ở chung nhà với cha mẹ, làm dâu làm con để cha mẹ dạy bảo ít năm. Khi có vài đứa con thì cha mẹ cho ra riêng gần bên cha mẹ. Cha mẹ lo đùm bọc cất nhà cho con, sắm đồ vật đủ thứ nào là lúa, tiền, giường ghế, nồi, ơ…”
Về nhà cửa, tài liệu trên cho biết:
“Nhà cửa phần nhiều là nhà nghèo, cất bằng cây đốn nơi rừng, lợp tranh lá. Thật là bực đại phú mới làm nhà bằng cây điều mộc, nền xây đá ong, vách ván, lợp ngói âm dương. Hai ba xóm mới thấy bóng một nhà ngói đỏ lói, thiên hạ ghé mắt trầm trồ khen.
“Trong nhà nơi căn giữa đặt giường thờ (cái chống cao hơn giường nằm) làm bằng cây hoặc tre, trên lót vạt tre, trải chiếu đệm. Đó là nơi để bày đồ vật như đèn nhang, nước và bánh, trái cây đơm quải cúng kiếng ông bà… Hai bên thì lót giường nằm và có kệ gác để vật dụng. Phía trong có buồng the kín đáo, để giường cho con gái đàn bà ở riêng.
“Ban đêm, vài ngọn đèn dầu phộng, mù-u hoặc dầu cá cháy leo lét trên cái thếp bằng sành, có cái tim cỏ bức”.
Vài người cho rằng áo bà ba đen tiêu biểu cho màu sắc miền Nam. Theo chúng tôi nghĩ thì áo bà ba đen được phổ biến hơi chậm trễ. Như đã nói, đó là kiểu áo của người Bà Ba; màu đen rất khó nhuộm với nguyên liệu địa phương, sau này áo bà ba đen được phổ biến nhờ vải đen nhập cảng (vải ú đen, vải xiêm láng).
Tài liệu trên cho biết thêm:
“Đàn ông mặc quần đùi áo cánh (quần dài đến đầu gối, áo ngang mổng trôn, may bằng vải ta, nhuộm bằng vỏ cây dà và vỏ cây cóc. Đàn bà thì mặc quần và áo dài hơn đàn ông.
“Đàn ông và đàn bà đều nhai trầu, nơi lưng đàn ông có mang một hổ phệ, làm bằng vải xếp nhiều lớp, có hai ngăn lớn… Trong hổ phệ,
để trầu cau và thuốc hút.16
“Hễ dân chúng thì đi chân, không đi giày dép, ít người biết chữ, trai tráng phần đông thích chuyện luyện côn quyền võ nghệ, dân chúng còn mê tín sợ quỷ thần… Ông già bà cả nói lại: Thuở xưa người trong tỉnh này (Gò Công) ít ai hay chữ. Vì trên ba mươi ấp chỉ có hai ông thầy mới lại mở trường chữ nho, mà trước đó đã có tám thầy phù thủy và sáu thầy dạy nghề võ”.
“Người có học, hiểu chữ nghĩa, sanh trong gia đình khá giả (dư ăn dư để) muốn lập công danh trong làng xã thì trước hết phải ra lãnh chức vụ từ bực trưởng lân (người lớn trong ấp) đến biện đình (biên đồ cúng tế trong đình), lần đến tri sự, tri văn, tri lễ hoặc lên chức hương văn, hương bộ.”.
Dân chúng sống ở đồng bằng sông Cửu Long hơn miền Bắc, miền Trung phần ở điểm không bao giờ gặp nạn đói kém (Đời Thiệu Trị vài khó khăn đã xảy ra, do vấn đề tiếp tế).
Năm 1841, người Miên nổi loạn ở Trà Vinh, mùa màng bị đốt phá, giặc Láng Cháy (vùng Thất Sơn) khiến cho việc chuyên chở trên kinh Vĩnh Tế bị gián đoạn, kinh này bị quân phiến loạn kiểm soát. Tại Hà Tiên, vào tháng chín năm ấy, giá mỗi vuông gạo (30 lít) là 5 quan thay vì giá trung bình là một quan một vuông.
Gạo miền Nam dư cung ứng cho nhu cầu địa phương dầu là những năm mất mùa. Gạo chở ra các tỉnh miền Nam Trung phần, giúp cho giá gạo trên thị trường hạ xuống (Nguyễn Thế Anh. Vấn đề lúa gạo ở Việt Nam trong tiền bán thế kỷ, Tập san Sử Địa số 6, 1967).
Chưa bao giờ xảy ra loạn lạc vì đói kém. Cuối đời Tự Đức, trong khi dân chúng ở Bắc phần bất mãn vì triều đình Huế bó tay trước nạn đói kém thì người Miền Nam giữ được thái độ lạc quan. Họ mang ơn “tấc đất ngọn rau” của chúa vì quả thật từ đời các chúa Nguyễn đến đời Tự Đức, họ sống cuộc đời ít lo âu lo hơn ở miền Trung. Họ kháng Pháp với tinh thần tích cực, việc lớn không thành vì trình độ tổ chức và kỹ thuật quá thấp kém, vì cơ cấu xã hội quá lỗi thời, mang tính chất phong kiến.
Về mặt văn chương, miền Nam không cống hiến được thành tích nào xuất sắc, ngoài trừ bổn tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, thơ Lục Vân Tiên. Theo giáo sư Thuần Phong thì hát bội miền Nam không dính dấp gì đến hát bội miền Trung, thuộc truyền thống của ông Đào Duy Từ.
Hát bội miền Nam bắt nguồn từ những tuồng Tàu, của nhóm di thần Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch du nhập qua.
Câu hát huê tình phát triển mạnh, dân chúng và nho sĩ sáng tạo thêm nhiều câu mới phỏng theo hơi hướm ca dao miền Trung.
Về nhạc điệu câu hát câu hò, có lẽ chúng ta tìm được sự liên hệ giữa điệu hát bài chòi và điệu nói thơ Vân Tiên; giữa điệu hò mái đẩy và các điệu hò cở Cái Bè, Cai Lậy.
Điểm son của miền Nam lúc bấy giờ là chứng minh sức sống của dân Việt ở nơi sình lầy, cải biến kỹ thuật cầy bừa. Làm ruộng ở miền sình lầy đòi hỏi một kỹ thuật khác hẳn, so với miền đất cao, bên dãy Trường Sơn.
Mãi đến đầu thế kỷ hai mươi này, người ở đồng bằng sông Cửu Long không được tiếp xúc với người Việt ở Bắc phần. Miền Nam thành hình vào lúc Trịnh - Nguyễn phân tranh, người lập nghiệp đầu tiên ở Nam phần là người từ Quảng Trị trở vào. Đến khi Gia Long lên ngôi, thống nhất Bắc Nam thì miền Nam được cai trị do những quan lại, tướng lãnh quê quán ở Thừa Thiên (Nguyễn Tri Phương) Quảng Nam (trường hợp Thoại ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại). Trường hợp người miền Bắc vào Nam thật hiếm hoi: Doãn Uẩn làm tuần phủ An Giang (năm 1843), Nguyễn Công Trứ đến An Giang. Vài người từ Thanh Hóa vào Nam, lúc bắt đầu khẩn hoang: Nguyễn Nghi có chân trong Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ, Tống Phước Cảnh (cai cơ ở Đông Khẩu đạo, Sa Đéc) đều là người ở Tống Sơn, quê hương của chúa Nguyễn Hoàng.
TÁNH CHẤT PHONG KIẾN
Vài nhà khảo cứu cho rằng ở Trung Hoa và ở nước ta không có chế độ phong kiến theo hình thức phong kiến cổ điển ở Tây Âu.
Điều ấy rất đúng.
Những so sánh chế độ phong kiến cổ điển Tây phương với chế độ vua quan Trung Hoa, Việt Nam, tìm những nét khác biệt để rồi kết luận rằng ở Trung Hoa và Việt Nam không có phong kiến, chỉ có “những biến tướng của thế lực phong kiến” thì hơi quá đáng - mặc dầu vua quan thời xưa đa số đều xuất thân ở lớp bình dân, làm vua nhờ biết xoay trở tình thể, làm quan nhờ siêng học rồi thi đậu cao, giàu nghèo đều đi thi được.
Thật ra, các nhà xã hội học, các sử gia Tây phương đã phân biệt những sắc thái, những dị biệt căn bản giữa xã hội tạm gọi là “vua chúa” ở Tây phương và ở Á Đông.
Bên Âu Châu, các vị lãnh chúa đóng vai trò ông vua nhỏ, nắm trọn quyền sát sanh trong phần đất mà họ hưởng cha truyền con nối. Đất đai này thuộc quyền tư hữu của họ. Dân trong vùng là nông nô phải làm mướn trọn đời, không được tự ý qua vùng khác để phục vụ lãnh chúa khác. Ở mỗi vùng, có luật lệ, chế độ thuế má riêng do lãnh chúa qui định.
Ở Trung Hoa, việc phong tước, kiến ấp chỉ thạnh hành vào đời nhà Châu. Đến đời nhà Hán, chế độ phong kiến suy đồi, một mặt thì họ hàng nhà vua được phong đất ruộng, một mặt thì nhà vua chia lãnh thổ ra quận huyện, bổ nhậm quan cai trị.
Đất ruộng là sở hữu của vua, thuế má đóng cho vua, quan lại đóng vai trò chủ điền. Đó là hình thức “quan liêu, phong kiến”, bọn quan lại làm trung gian, thay mặt cho vua để cai trị dân, với quyền hành rộng rãi, tha hồ tham nhũng, mặc dầu họ không có quyền đặt luật lệ riêng, chế độ thuế má riêng.
Ở nước ta, đời vua Tự Đức, đất ruộng quá hẹp nên chỉ có lộc điền và tự điền; năm 1876, vua Tự Đức định lệ như sau:
- Tước Công, hưởng 10 mẫu.
- Tước Hầu, hưởng 8 mẫu.
- Tước Bá, 6 mẫu.
- Tước Tử, 4 mẫu.
- Tước Nam, 2 mẫu.
Năm Tự Đức thứ 36 định rằng các lộc điền, tự điền trên đây đổi thành tiền, người thụ hưởng lãnh theo số tiền qui định là 40 quan mỗi mẫu. Ông Phan Khoang, qua bài khảo cứu “Xã hội Việt Nam trước đây có phải là phong kiến không?” (tập san Sử Địa, số 6, 1967) đi đến kết luận:
- Ruộng đất cấp cho các tước Công, Hầu… vẫn thuộc quyền của quốc gia, phải nộp thuế cho công quỹ.
- Trên vùng đất ấy, người thừa hưởng không lập bộ máy chánh quyền riêng, đất không được chia cho người khác, người ở trong điền phải tuân theo pháp luật chung.
- Ruộng đất cấp cho mỗi tước rất hẹp, từ mười mẫu trở xuống mà thôi.
Chúng ta không nên trách cứ những sử gia Tây phương, họ không bao giờ quá dốt nát đến mức cho rằng chế độ phong kiến ở Âu Châu giống chế độ phong kiến ở Trung Hoa, Ấn Độ hoặc Việt Nam.
Chúng ta theo chế độ điền địa khác với Âu Châu, thời vua chúa. Nhưng nói như thế không có nghĩa là ca ngợi tánh chất “văn trị”, “dân chủ” của thời vua chúa, nếu ta ngại dùng danh từ “phong kiến” hoặc “quan liêu, phong kiến”.
Học trò nghèo đi thi, làm quan to, trở thành cha mẹ dân, ăn hối lộ dễ dàng, dư điều kiện để làm chủ ruộng đất. Và người có điền sản
lớn, thời vua chúa, cứ xuất tiền ra mua chức tước (bá hộ, vạn hộ, thiên hộ, cửu phẩm…) để giữ uy thế, giữ tài sản.
Những tệ đoan của chế độ phong kiến dẫy đầy ở nước ta, phụ nữ bị khinh rẻ, chủ đất được quyền nêu ra giá biểu về địa tô và cho vay ăn lời tùy thích. Gặp năm nào mất mùa, người tá điền phải “bán vợ đợ con”, nợ nần chồng chất; chủ điền được quyền đuổi tá điền qua nơi khác.
Ở Bắc phần và Trung phần, vì hoàn cảnh ruộng ít dân đông nên quan lại và điền chủ chỉ làm chủ một số đất hẹp. Để sống cho ra vẻ “quân tử”, họ bóc lột tàn nhẫn, nghèo mà làm sang. Đó cũng là trường hợp của vua nhà Nguyễn, nhứt là vua Minh Mạng, làm vua một nước nhỏ, dân số ít mà ôm ấp một giấc mộng trở thành một hoàng đế theo kiểu Trung Hoa, với nghi lễ phức tạp.
Ở Nam phần, cụ thể là vùng đồng bằng sông Cửu Long, chúng ta thấy:
- Không có việc vua chúa phong đất đai cho công thần hoặc hoàng thân quốc thích. Có tự điền, tức là đất cấp cho con cháu của vị công thần nào đó khi mãn phần, để con cháu lấy huê lợi mà lo việc cúng tế hàng năm: trường hợp ruộng châu phê, cấp cho con cháu quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân, người dày công giúp vua Cao Miên đánh đuổi quân Xiêm vào năm 1705.
- Đa số dân chúng có đủ đất canh tác; đại điền chủ không quá dư giả để gom vốn nuôi đám tá điền đông đảo (như khi Pháp đến).
Chúng tôi xin mượn những con số do ông Việt Cúc nêu ra, vào giai đoạn trễ hơn, khi người Pháp mới đến. Vào đầu thế kỷ 20 chánh phủ thực dân cố ý dung dưỡng chế độ điền địa cũ với bao nhiêu tệ đoan:
1. Người làm chủ năm bảy mẫu ruộng thì mướn thêm một hai chục mẫu của đại điền chủ để canh tác. Người tiểu điền chủ này phải đem bằng khoán đất mà thế cho ông đại điền chủ, đề phòng trường hợp mùa màng thất bác, vay nợ mà trả không nổi thì ông đại điền chủ sẽ tịch thâu đất mà trừ nợ.
2. Người khá giả (có chút ít vườn tược, có bà con với vài người khá giả) chỉ mướn được năm bảy mẫu với điều kiện là tìm cho được hai người đứng ra bảo lãnh.
3. Đại điền chủ giao số đất ruộng cho một người có tài sản nào đó đứng ra bao tá, tức là bao thầu. Người bao tá mướn với giá rẻ để rồi cho tá điền mướn lại với giá cao hơn, họ sống bằng huê lợi trung gian ấy.
4. Người nghèo (không có đất, không có thế thần) chỉ còn một sanh kế duy nhất là đi làm mướn, cày mướn, gặt mướn.
5. Địa tô thời đàng cựu quá cao, tỷ lệ trung bình là 60 phần trăm số lợi tức. Ruộng thượng hạng sản xuất trung bình 100 giạ lúa mỗi mẫu thì phải nộp địa tô 60 giạ; ruộng hạng nhứt sản xuất 85 giạ thì cho mướn 50 giạ; ruộng hạng nhì sản xuất 75 giạ, cho mướn 45 giạ.
6. Người tá điền phải nộp công lễ và công nhựt cho điền chủ. Mỗi người mướn hai mẫu ruộng thì nộp khi gần Tết những lễ vật (công lễ):
- 1 thùng gạo trắng.
- 2 thùng gạo lứt.
- 1 nạng sáp (sáp ong để làm đèn sáp).
- 1 cặp vịt mạnh khỏe “con mắt nháy lẹ” khi quơ tay trước mặt thì vịt nháy mắt thật nhanh, chứng tỏ ra rằng nó đầy đủ sức khỏe, có thể sống tới ngày Tết.
Công nhựt là những ngày làm xâu, làm thí công cho điền chủ. Hễ mướn hai mẫu đất, người tá điền phải làm thí công 10 ngày, lúc tháng giêng tháng hai, tá điền đến nhà chủ điền để móc mương, lấp vườn, đốn củi, sửa sang hàng rào…
Công lễ và công nhựt là sự áp bức phong kiến, ông điền chủ tự xưng là vua; tá điền là chư hầu, phải “triều cống”.
Mức sống của tá điền quá kém, năm nào được mùa thì đủ ăn qua năm tới; năm thất mùa thì đóng hết lúa, rồi vay nợ nặng lời. Mất mùa một năm, làm ba năm không trả nổi.
Sau đây là một thí dụ do ông Việt Cúc nêu ra:
Anh tá điền làm ba mẫu ruộng thượng hạng (đất tốt nhất), năm thuận mùa được 300 giạ, đóng địa tô 180 giạ, còn lại 120 giạ để ăn xài trong năm tới (tiền thuốc men khi đau ốm, tiền quần áo đều do 120 giạ này bán ra mà mua sắm). Ngoài ra, trong số 120 giạ này, anh tá điền phải tính luôn phần tiền mướn cày, cấy, gặt.
Năm thuận mùa, người tá điền sống tạm qua ngày, với điều kiện là vợ con không đau ốm và nhất là không say mê cờ bạc.
Gặp năm thất mùa, năng xuất còn phân nửa, chỉ thâu hoạch 150 giạ thay vì 300 giạ thì chuyện gì xảy đến?
Chủ điền vì lòng nhân đạo, giảm địa tổ xuống 20 phần trăm.
Số thâu hoạch 150 giạ nọ chỉ đủ cho chủ điển hưởng, người tá điền không còn một hột lúa trong tay.
Muốn sống trong năm tới, anh ta chỉ còn nẻo thoát duy nhứt là vay nợ, vay 200 đồng, vay ít thì không đủ sống, vay nhiều thì không ai cho.
Tiền vay chịu ít nhất là 40 phần trăm lời, vốn và lời cộng lại nhằm 280 đồng.
Năm sau nếu thuận mùa, dư được 120 giạ, đem bán với giá 8 cắc một giạ thì chỉ có 96 đồng, làm sao trả nổi 280 vừa lời lẫn vốn!
Trả không nổi, anh tá điền xin hẹn năm sau: 280 đồng nợ ấy phải chịu thêm 40 phần trăm lời nữa, tức là 112 đồng, cộng với vốn ra 392 đồng. Thế là anh phải bán tất cả nhà cửa, trốn qua xứ khác!
Một năm mất mùa, hai ba năm sau không trả nổi. Tuy không có chế độ nông nô như ở Âu Châu, người bạn làm công cho chủ ruộng vẫn sống cơ cực và bị bóc lột thái quá.
Thuở xưa, làm ruộng mỗi năm một mùa, cực nhọc nhất là từ khi trời sa mưa cho đến tháng bảy, chủ điền mướn bạn trong ba tháng: trọn tháng 5, tháng 6 và tháng 7, người bạn phải phát cỏ, cày cấy. Ba tháng ấy, người bạn lãnh chừng 25 đồng bạc tức mỗi tháng hơn 8 đồng, mỗi tháng làm công trị giá là mười giạ lúa.
Bốn giờ sáng, người bạn thức dậy, cho trâu bò ăn cỏ, rồi thì người bạn ăn cơm, cỡ 5 giờ rưỡi sáng là vác cày ra ruộng, 12 giờ trưa về nhà, nghỉ lưng được một giờ, sau khi ăn cơm người bạn lại ra ruộng gánh mạ, chiều trở về nhà, ăn cơm chiều xong, người bạn lại giã gạo, mỗi đêm hai cối.
Người bạn làm không hở tay, từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối.
Mướn ruộng mà canh tác thì dễ đổ nợ, khi mất mùa; làm công thì quá cực khổ. Đất đai miền Nam còn nhiều nơi rộng rãi, người làm ruộng bèn tìm đất dung thân ở những tỉnh xa xôi, ra đi vì trốn nợ.
CƠN CHUYỂN MÌNH TRƯỚC VÀ SAU ÂU CHÂU ĐẠI CHIẾN
Thực dân Pháp xem Nam Kỳ là thuộc địa. Lúc ban đầu thì họ nghiên cứu các sản phẩm địa phương, ngoài lúa gạo để xuất cảng, họ lại nghĩ đến việc di dân từ bên Pháp qua nhưng họ thất vọng vì khí hậu Nam Kỳ khác hẳn khí hậu ôn hòa miền Bắc Phi Châu.
Nơi cơ quan hành chánh làm việc gọi là Tòa Bố, nơi tòa xử kiện là Tòa Án. Bố tức là Bố Chánh, Án là án Sát. Quan bố chánh và quan án sát đều là người Pháp!
Người Pháp nghĩ đến việc lập đường xe lửa nối liền Sài Gòn-Mỹ Tho, qua Cần Thơ rồi đổ lên Nam Vang (Cao Miên). Họ xúc tiến việc đào kinh, đắp đường nhắm vào mục đích quân sự và thương mãi. Ở miền Nam còn đất hoang, mức sản xuất lúa gạo có thể gia tăng. Nước Tàu to lớn đang thiếu gạo, ngoài ra còn những thuộc địa Pháp ở Phi Châu cũng ăn gạo.
Mức sản xuất lúa gạo gia tăng mạnh mẽ, từ khi người Pháp hoàn thành việc đào kinh rạch ở bên kia Hậu Giang.
Con đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho thiết lập khá sớm (1883). Trước đó, nhà cầm quyền Pháp huy động một số dân công khá to đào kinh Chợ Gạo, bốn chục ngàn người thay phiên đào trong hai tháng, tính nhằm 676.000 ngày công.
Bác sĩ Baurac viếng vài tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, ghi lại vài tài liệu. Sách in vào năm 1894 cho biết rằng nguồn lợi lớn nhất của tỉnh Bến Tre là dừa, tơ lụa, trầu cau. Trước khi người Pháp đến có nhiều lò ép dầu dừa nhưng sau nầy, vì dân chúng thích dùng dầu lửa nên chỉ còn ba lò hoạt động.
Tại Ba Tri, có dệt tơ lụa, chợ Ba Tri khá đông, gồm 800 dân đinh.
Cái Mơn, quê hương của ông Trương Vĩnh Ký - nhau rún của Miệt Vườn - gồm 7.000 dân đinh, nơi đây trồng dừa, măng cụt, cây ca cao, cà phê.
Nguồn lợi chánh của vùng Cái Mơn là nghề rang trầu. Trầu rang ở Cái Mơn bán qua Trà Vinh, Sóc Trăng (người Miên thích ăn trầu rang). Lại còn cau tầm vung (cau để chính khô trên cây, không xắt ra).
Theo địa phương chí Bến Tre, in năm 1903 thì trong tổng số diện tích 154.606 mẫu tây, có 16.500 mẫu vườn tược (trên một phần mười), so với 86.000 mẫu đất làm ruộng.
Vườn tược tại Bến Tre chia ra như sau:
Dừa 6.115 mẫu
Cau 5.015 mẫu
Trầu 1.535 mẫu
Tre 300 mẫu
Dâu tằm ăn 395 mẫu
Cam 250 mẫu
Măng cụt 50 mẫu
Cà phê 6 mẫu
Sau vườn dừa, rõ ràng là cau và trầu chiếm diện tích quan trọng nhứt. Ở tỉnh Sa Đéc, Cần Thơ, Mỹ Tho, cau và trầu vẫn đứng đầu:
- Sa Đéc
Cau 2.847 mẫu
Trầu 530 mẫu
Xoài 240 mẫu
Chuối 333 mẫu
Cam quít 53 mẫu
- Cần Thơ:
Cau 1.600 mẫu
Trầu 150 mẫu
Cam quít 70 mẫu
Chuối 200 mẫu
Măng cụt 15 mẫu
- Mỹ Tho:
Cau 6.836 mẫu
Dừa 4.305 mẫu
Cây ăn trái 2.000 mẫu
Trầu 1.268 mẫu
Chuối 3.300 mẫu17
Tài liệu trên đây chứng minh rằng ngoài cơm cá, dân Việt Nam tiêu thụ một số trầu cau quan rọng. Cau trầu thuở ấy là cần thiết, miếng trầu là đầu câu chuyện, lúc buồn bực thì “cơm ăn chẳng được, ăn trầu giải khuây”. Nhiều người ăn trầu liên miên “miếng kia hạ rộng, miếng nọ động quan”, trầu cau là nhu cầu của trai gái, già trẻ, giàu nghèo. Người Việt và Miên gặp nhau ở điểm ăn trầu. Trầu và cau đòi hỏi công phu săn sóc, tưới nước, đất phải khá cao để tránh ngập lụt. Đây là nguồn lợi lớn nhứt của Miệt Vườn. Người ta có thể không ăn cam, ăn quít nhưng nhứt định là phải ăn trầu. Nhu cầu về trầu mỗi lúc một tăng vì dân số thêm đông.
Những tỉnh mới thành lập bên kia sông Hậu, sau khi thực dân Pháp chiếm cứ mới thật sự là vựa lúa phì nhiêu.
Theo bảng thống kê đáng tin cậy thì vào khoảng năm 1933, những tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng. Bạc Liêu và Trà Vinh (trường hợp đặc biệt đối với Trà Vinh) có diện tích canh tác là 966.000 mẫu tây, nhờ vậy mà số lúa thặng dư xuất cảng là 986.000 tấn, tức là hơn phân nửa tổng số lúa xuất cảng của toàn cỏi Đông Pháp.
Các tỉnh trên gồm 1.130.000 dân, mật độ trung bình là 1,15 người trên mỗi mẫu tây, mỗi mẫu tây có thể dư một tấn lúa để xuất cảng.18
Miền nước mặn đồng chua ở hữu ngạn Hậu giang được hưởng thuận lợi của công trình đào kinh xáng. Nhờ xáng múc mà nước ngọt từ Hậu giang tưới qua vùng đồng chua giữa Hậu giang và vịnh Xiêm La, đồng thời mấy con kinh đào ấy giúp cho việc vận tải lúa gạo thêm dễ dàng, từ mũi Cà Mau đến Sài Gòn - Chợ Lớn.
Nhà nước Pháp mở trường học, nhằm vào mục đích đào tạo một số nhơn viên, công chức để giúp việc cai trị, từ quan phủ quan huyện cho đến ông hương chức hội tế ở làng.
Theo niên giám năm 1989, chúng ta gặp những con số sau đây:19
- Tỉnh Mỹ Tho, 219.443 dân đinh, với một trường trung học, một trường tỉnh, 4 trường tổng. Tỉnh chia ra 15 tổng, 202 làng.
- Tỉnh Sa Đéc, một trường tỉnh, 3 trường tổng gồm 80 làng; toàn tỉnh 136.312 dân định.
Hai tỉnh trên tiêu biểu cho Miệt Vườn.
Trong khi đó, Rạch Giá là tỉnh mới thành lập, có 10 trường tổng, toàn tỉnh 69 làng.
Những con số trên đây làm lạc hướng nếu chúng ta không đối chiếu vào thực tế:
- Diện tích tỉnh Sa Đéc thuở ấy là 131.200 mẫu.
- Diện tích tỉnh Rạch Giá thuở ấy là 800.000 mẫu, nghĩa là rộng hơn gấp 6 lần mà đơn vị hành chánh là làng lại ít hơn ở Sa Đéc.
Ở Rạch Giá, mãi đến trước 1945, còn nhiều làng dài hơn 15 cây số ngàn trong khi ở nhiều tỉnh dân đông, ở Miệt Vườn thì mỗi làng chỉ dài ba bốn cây số, tính trung bình.
Một trường học ở Miệt Vườn (Sa Đéc) giúp cho học sinh toàn làng học hành trong hoàn cảnh dễ dàng hơn là một trường học ở vùng đất mới khai khẩn (Rạch Giá). Học sinh mỗi ngày học hai buổi, trưa về ăn cơm, xế thì trở lại học buổi chiều. Học sinh khó đi học ở những trường làng cách xa nhà đôi ba cây số vì phương tiện xê dịch của trẻ em vẫn là đi bộ. Ngoài ra, còn một yếu tố tâm lý khác, vô cùng quan
trọng; cha mẹ khá giả, con cái được khuyến khích trong việc học hành; cha mẹ quá nghèo túng, trẻ con phải đi chăn trâu trừ nợ cho cha mẹ.
Miệt Vườn tuy không là vựa lúa lớn nhưng dân chúng dễ học hành hơn ở miệt Rạch Giá, Cà Mau, nơi sản xuất lúa gạo nhiều hơn nhưng lúa gạo nằm trong tay đại điền chủ bổn xứ hay người Pháp. Đã là đại diễn chủ, người ta thích cho con cái học ở Sài Gòn rồi qua Pháp, không cần học ở trường tổng.
Người Pháp thắng thế, về mặt kinh tế. Họ đào kinh, cho đắp đường xe, lập chợ phố. Vì sinh kế, dân chúng phải đi chợ, mua bán, di chuyển. Nhưng trường học không được hoan nghinh cho lắm. Lý do chánh là dân Việt đã quen với chữ Nho, họ ghét thực dân Pháp nên ghét luôn chữ quốc ngữ với mẫu tự a, b, c. Đi học trường Tây là chối bỏ luân lý cổ truyền. Trường học mở ra ít oi, số người học cũng không đông đảo. Học chữ quốc ngữ có nghĩa là đầu hàng người ngoại quốc, học để thi đậu, làm tôi tớ cho họ. (Đến năm 1910, hãy còn nhiều giấy tờ vay lúa, vay bạc viết bằng chữ nho, chữ nôm).
Bởi vậy, thực dân Pháp vừa khuyến khích vừa cưỡng bách mấy ông đồ nho phải học chữ quốc ngữ và chút ít chữ Pháp; sau đó mấy ông đồ nầy được dạy hai thứ chữ: chữ nho và chữ quốc ngữ.
Vào khoảng năm 1870, đa số dân chúng trốn lánh việc học. Họ sợ người Pháp dạy tiếng Pháp rồi đưa lũ học trò thông minh nầy về luôn bên Pháp để làm tay sai, cha mẹ và con cái phải cách biệt. Nhà cầm quyền ra lịnh kê khai những đứa bé đến tuổi học hành ở những gia đình khá giả, bắt trẻ em đi học, theo kiểu bắt lính. Nhiều gia đình tìm cách tròng tréo khai sanh, cho con của tá điền hoặc đứa tớ chăn trâu đi học thay thế cho con mình. Và nhiều cậu con nhà nghèo này đã thành tài, trở thành thơ ký, đốc phủ hoặc giáo sư.
Chương trình giáo khoa chưa được thống nhứt từ Nam tới Bắc. Thầy giáo dạy theo bài vở do cấp trên gởi xuống.
Phương pháp dạy nhằm vào việc bắt ép học sanh học thuộc lòng như ở nhà trường thuở xưa.
Sau đây là vài bài học thuộc lòng, hồi trước năm 1900, dùng chữ quốc ngữ để nhắc nhở đạo Nho:
Dọn bài, giải sách chỉ lần cho,
Rõ nghĩa cang thường, rõ đạo Nho.
Nấu sử xôi kinh đều đặng chín
Cũng vì siêng sẵn, cả thầy trò.
(Trương Minh Ký)
Bài khác phỏng theo thơ ngụ ngôn Pháp, hoặc do nhơn viên trong ban biên soạn:
Đây là bài “Gà lôi mang lốt con công”:
Gà lôi mang lốt con công,
Ỷ mình là lạ; mang đi dông dài.
Gặp công, áp lại nhập bầy,
Công đá xể mặt, trầy mày đuổi đi.
Trở về đồng loại hiệp ty,
Bạn cũ thấy lạ sanh nghi không nhìn.
Luân lý Khổng Mạnh vẫn được đề cao, như thời đàng cựu, qua bài luận về Tam Cang “hai vâng nhựt nguyệt, một túi càn khôn”:
Xem Nội Tắc lễ nghi,
Thì biết Tam Cung là đạo trọng
Làm cha mẹ cho lành cho thẳng,
Phận làm con phải hiểu phải cung,
Đạo vua tôi, trên chúa minh quân,
Dưới thần tử, tận trung tận tiết.
Nghĩa chồng vợ lấy ân tình hiệp,
Cảnh gia hòa phu xướng phụ tùy.
Ở xứ Nam kỳ thuộc địa, người dân Việt học đạo vua tôi, mặc dù lúc ấy phong trào Cần Vương chống Pháp vẫn còn mạnh ở miền Trung, miền Bắc. Những bài học thuộc lòng của nhà trường như ngô nghê, nếu chúng ta căn cứ vào phương pháp giáo khoa đời nay. Nhiều danh từ tuy là cao, khó hiểu nhưng học sinh vẫn hiểu được, nhờ cha mẹ, những bậc trưởng thượng giải thích dùm.
Khi người Pháp mới qua, số sĩ phu hợp tác với tân trào để lo việc giáo huấn gồm đa số người tốt, đáng cho đời sau nhắc nhở. Họ không dám khoe khoang rằng yêu nước nhưng họ làm công trình xây dựng, phổ biến chữ quốc ngữ, bảo trì những điều hay của luân lý cổ truyền, giới thiệu những gương đạo đức của Tây phương. Ông Trương Vĩnh Ký đã từng làm thông ngôn cho Pháp, theo Công giáo nhưng con người, lời văn, cách ăn mặc phảng phất phong độ nhà hiền triết Việt Nam, một nhà Nho, đứng ngoài những thành kiến, kỳ thị vụn vặt.
Công trình của ông Trương Minh Ký tuy khiêm tốn hơn nhưng là những viên đá tốt lót đường cho thế hệ sau. Xin trích dẫn sau đây nhan đề vài tác phẩm do ông biên soạn để thấy rõ những món ăn tinh thần lúc bấy giờ (khoảng năm 1898):
- Thơ ngụ ngôn La Fontaine
- Truyện Télémaque du ký.
- Như Tây nhựt trình (ghi chép chuyến du hành từ Sài Gòn qua Ba Lê)
- Chi quốc thoại hội, có hình (nói về cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê) - Phú Bần truyện
- Tây dạy học tiếng An Nam
- Pháp học tân lương (dạy chữ Pháp)
- Ấu học khải mông (dạy chữ Nho)
- Hiếu kinh diễn nghĩa (ba thứ chữ: Nho, Pháp và Quốc ngữ). - Tiểu học gia ngôn (trích dịch cách ngôn)
- Cổ văn chơn bửu (trích cổ văn Trung Hoa)
- Khuyến hiếu ca
- Ca từ diễn nghĩa (trích thi ca Trung Hoa)
- Tuồng Joseph
- Tuồng Phong Thần Bá Ấp Khảo
- Tuồng Kim Vân Kiều, ba thứ.
- Vần quốc ngữ.
- Quốc ngữ sơ giai, có hình (sách tập đọc)
- Nhị thập tứ hiếu diễn ca
- Thi pháp nhập môn (dạy niêm luật thơ ca).
Đúng là phối hợp Tây, Tàu, Việt; một sự phối hợp mà sau này chúng ta noi theo với tài liệu phong phú hơn, với sự nỗ lực to lớn hơn. Mấy quyển sách ấy nhằm vào học trò và những người lớn tuổi, nhiều người biết chữ Nho rồi nhưng vẫn muốn học thêm chữ Quốc ngữ; người biết Quốc ngữ muốn học thêm chữ Nho, chữ Pháp.
Sách của ông Trương Minh Ký in rất ít, phương tiện phát hành rất khó khăn, phổ biến trong hàng công chức, giáo viên, ít về số lượng nhưng tạo được uy tín. Ở các tỉnh muốn mua sách thì gởi thơ đến nhà của tác giả hoặc nhà sách ở Sài Gòn. “Các thứ sách kể trên nầy để bán tại nhà Trương Thế Tải ở Sài Gòn. Ai muốn mua thì gởi bạc đến đó, và để tên họ cùng chỗ mình ở cho rõ, thì có người gửi sách lại cho chẳng sai”.
Chúng tôi không được rõ Gia Định Báo in mỗi lần bao nhiêu số, phát hành như thế nào. Có thể phỏng đoán không sai lầm cho lắm là độc giả rất ít, gồm một số công chức ở tỉnh lỵ.
Nói như vậy để đi đến kết luận:
Mấy tỉnh cũ ở Miệt Vườn như Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long có hoàn cảnh thâu nhận sách báo hơn là mấy tỉnh mới lập về sau này (Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu…) hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi.
Sách in ở Sài Gòn vào cuối thế kỷ thứ 19 qua đầu thế kỷ 20 chắc là chỉ phổ biến rất hạn chế ở Huế, Hà Nội vì đường giao thông chưa thuận lợi.
Sĩ phu Việt Nam muốn dùng chữ Quốc ngữ như một phương tiện giúp đồng bào mở mang kiến thức nhưng trên căn bản là duy trì đạo Nho.20
- Khoảng năm 1875-1880, dân số ở Nam Kỳ là 1.620.000 người, diện tích trồng tỉa là 520.000 mẫu tính đổ đồng mỗi người sản xuất được 518 kí lô lúa.
- Khoảng 1881-1885 có 1.730.000 dân, 670.000 mẫu mỗi người 604 kí lô lúa.
- Khoảng 1886 - 1890 có 1870.000 dân, mỗi người sản xuất 604 kí lô lúa.
- Khoảng 1891-1895, có 2.200.000 dân, mỗi người sản xuất 664 kí lô lúa.
Đại khái, vào đầu thế kỷ 20 nầy, toàn Nam Kỳ Lục Tỉnh, kể luôn Sài Gòn, dân số chỉ bằng địa phương Sài Gòn năm 1968 mà thôi.
- Khoảng 1901-1905, có 2.950.000 dân, diện tích 1.290.000 mẫu, mỗi người là 637 kí lô lúa.
- Khoảng 1911-1915, có 3.220.000 dân, diện tích 1.650.000 mẫu, mỗi người 882 kí lô.
- Khoảng 1916-1920, có 3.600.000 dân, diện tích 1.850.000 mẫu, mỗi người 788 kí lô.
Dân số cứ tăng dần, đến năm 1932, ở Nam phần có 4.300.000 dân, diện tích canh tác là 1.850.000 mẫu, mỗi người là 688 kí lô lúa.
Năm 1932, diện tích canh tác quá thấp vì ảnh hưởng của kinh tế khủng hoảng, giá lúa sụt quá mức.
Những con số trên đây giúp chúng ta đi đến nhận định sau đây (mặc dầu chỉ là con số tương đối, không đúng sự thật cho lắm):
1) Trong vòng 36 năm, từ năm 1875 đến năm 1911, dân số ở Nam phần tăng gấp đôi, từ một triệu sáu lên đến ba triệu hai.
2) Từ năm 1875 đến khoảng năm 1926-1930, mức sản xuất lúa gạo tăng 400 phần trăm, từ 840.000 tấn lúa lên đến 3.360.000 tấn lúa.
Mức sản xuất, tính đổ đồng mỗi đầu người, đạt mức cao nhứt vào khoảng 1911-1915 (Xem P. Bernard, sách đã dẫn).
Giai đoạn 1.900 đến 1910 nói chung là giai đoạn ổn định ở miền Nam. Những cuộc khởi loạn võ trang đều bị dập tắt.
Thực dân Pháp biểu dương sức mạnh của kỹ thuật qua công trình đào kinh rạch, lập chợ phố, dùng tàu, xe lửa vào việc giao thông vận tải. Lúa gạo từ Cà Mau chở đến Chợ Lớn dễ dàng nhờ kinh đào Xà No, kinh Quản Lộ. Hệ thống kinh đào như mạng nhện đã thành hình, tạo ra hai trung tâm kinh tế mới tức là vùng Ngả Năm, Ngả Bảy thuộc tỉnh Cần Thơ và Rạch Giá. Trước khi người Pháp đến, vùng này còn hoang vu, nhà cửa thưa thớt. Chợ Cần Thơ nay được xem là thủ đô Hậu Giang chỉ là chợ nhỏ bé, không đáng kể hồi đời vua Tự Đức. Có thể nói Cần Thơ là chợ thành hình với sự khai thác của thực dân Pháp. Chợ Cái Răng (cách Cần Thơ năm cây số) trở thành một chành lúa vĩ đại, chỉ thua Chợ Lớn mà thôi. Thuở ấy, chợ Cái Răng đón nhận lúa của mấy tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu để xay ra gạo chở về Chợ Lớn xuất cảng (sau này, vì mỗi tỉnh đều có nhà máy xay lúa nên vai trò chợ Cái Răng không còn nữa, như trường hợp nhà máy và chành lúa ở Bình Đông, Bình Tây, ven Chợ Lớn).
Tiêu biểu cho “Miệt Vườn” của tỉnh Cần Thơ là Làng Long Tuyền ở rạch Bình Thủy gồm 11.939 dân, làng Nhơn Ái (Phong Điền) với 10.464 dân. Mỗi làng của Miệt Vườn nói trên đông đảo bằng dân số tỉnh lỵ Cần Thơ: 10.000 người.21
Để so sánh giai đoạn ấy, chúng ta tạm có những con số sau đây: - Mỹ Thọ: 20.000 người (tại tỉnh lỵ)
- Địa phương Sài Gòn: 33.608 người22
- Địa phương Chợ Lớn: 120.000 người23
Mỹ Tho là tỉnh lỵ xưa, đông đảo, đóng vai trò thủ đô thứ nhì của Nam phần, nhờ con đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, nhờ đường thủy phát triển, đi Nam Vang, đi các tỉnh Hậu Giang.
KHI MIỆT VƯỜN TRỔI DẬY
Với diện tích nhỏ, người Miệt Vườn nếu khai thác đúng mức thì đủ ăn, đủ mặc.
Để so sánh huê lợi vườn tược với huê lợi ruộng lúa, chúng ta tạm theo tỷ lệ sau đây, tuy là quá khái quát:
- Một mẫu vườn dừa đem huê lợi bằng năm mẫu ruộng. - Một mẫu vườn cam, quít đem huê lợi bằng 10 mẫu vườn dừa.
Như vậy, một mẫu vườn cam, quít nếu săn sóc kỹ lưỡng thì đem lợi tức trị giá bằng 50 mẫu ruộng.
Với một mẫu vườn, người chủ nhà đủ sống thảnh thời. Trong năm, chủ nhà phải xuất ra tiền mướn nhân công làm cỏ, móc mương nhưng thâu huê lợi nhiều đợt, hết mùa cam quít đến xoài, chuối, không như người nông phu mỗi năm gặt lúa có một lần.
Người chủ vườn ít khi túng bấn đến mức vay nợ nặng lời.
Một ưu thế khác, đáng chú ý. Hễ làm ruộng, gặp khi mùa màng bị thiệt hại đến mức 70 phần trăm hoặc hơn nữa thì người tá điền không còn dư một hột lúa, sau khi đóng địa tô hoặc sau khi trả tiền công gặt, công cấy.
Vườn tược đem huê lợi ổn định hơn. Gặp khi thời tiết thay đổi thì huê lợi bị thiệt thòi ít, phỏng định trung bình là 30 phần trăm thất thâu.
Dẫu sao đi nữa, người chủ vườn vẫn còn chút ít huê lợi.
Người chủ vườn tậu thêm vài mẫu ruộng thì quả là ông tiên nho nhỏ. Trong nhà, đủ lúa gạo; lá dừa bẹ dừa dùng làm củi, dưới sông dư cá tôm. Sống bằng nghề vườn ít dầm mưa dãi nắng như nghề ruộng. Gặp mưa to nắng cháy thì cứ vô nhà mà nghỉ. Lá dừa che phủ, sân mát rượi, bầu không khí chung quanh nhà được điều hòa. Buổi trưa nắng gắt, còn gì sung sướng cho bằng giăng võng mà nằm bên gốc mận, gốc ổi.
Mương vườn chảy ra sông Cái, theo nhịp nước lớn nước ròng, muỗi mòng không phát triển được như trường hợp nước ao tù. Rác rến trôi đi. Nơi sông sâu nước chảy, người ta dùng sông rạch làm nơi tắm rửa, phóng uế… Nếu là nơi sông rộng, nhiều cá tôm thì không mất vệ sinh cho lắm. Dưới bến, sau mương vườn có đủ thứ cầu: cầu tiêu, cầu tắm. Mương vườn ăn ra sống là hệ thống cống rãnh khá tốt.
Miệt Vườn là nơi mà đất vườn được phân chia từng khoảnh nhỏ, theo chế độ tiểu điền chủ. Đất khai thác từ lâu, dân chúng sống tập trung, ai cũng cố gắng tìm một khoảnh đất mà sống. Ai chen lấn không được thì đã ly hương, đến vùng Rạch Giá, Cà Mau mà tìm đất mới. Ở Miệt Vườn, còn lại những người đủ ăn, đủ mặc không giàu quá mức như điền chủ Bạc Liêu, cũng như không nghèo đến đỗi không một mái nhà, con cái trần truồng như ở vùng Bạc Liêu.
Vài con số sau đây do giáo sư P. Gourou nếu lên giúp chúng ta hiểu về hình thức phân chia điền địa ở Miệt Vườn:
- Diện tích trung bình một khoảnh ruộng ở Bắc phần là 20 ares.
- Ở Nam phần, nơi đất bị phân chia manh mún nhất là vùng Thủ Dầu Một: mỗi khoảnh ruộng là một mẫu tây, tức là 5 lần lớn hơn một khoảnh ruộng ở Bắc phần.
- Xuống phía Tây Nam, diện tích từng khoảnh càng thêm to. Tây Ninh, 1 mẫu 2; Chợ Lớn, 1 mẫu 6; Mỹ Tho, 2 mẫu 4; Long Xuyên, 6 mẫu 1; Bạc Liêu, 9 mẫu 2.
Ở tổng Thuận Trị, tỉnh Mỹ Tho, tiểu điền chủ chiếm đến 73,2 phần trăm tổng số ruộng; ở tổng Long Thủy, tỉnh Bạc Liêu, tiểu điền chủ chỉ chiếm 0,42 phần trăm số ruộng trong tổng, nghĩa là không được một nửa phần trăm.
Người Miệt Vườn gồm khá nhiều tiểu điền chủ, tiểu nông.
Nhưng số người còn lại ở Miệt Vườn, làm sao có đất để làm chủ? Miệt Vườn vẫn có nhiều ông đại điền chủ. Ngoài ra, còn một số tá điền sống nghèo nàn!
Người không đất có thể mướn đất của điền chủ để lập vườn, hoặc là mướn đất công điền. Mãn thời hạn là năm hoặc mười năm, người
mướn xin ký giao kèo mới để triển hạn, hoặc mua đứt, nếu là đất đai của điền chủ.
Nếu đệ tam nhân nào muốn mướn tranh giành thì khó đưa ra một giá cao hơn giá của người mướn trước đó.
Tiền bạc dư giả chút ít, nhà cửa mát mẻ, công việc hàng ngày không nhọc nhằn là đặc điểm của sanh hoạt Miệt Vườn. Thêm vào đó, còn một yếu tố quan trọng khác. Đó là việc giao thông dễ dàng từ xóm nầy qua xóm kia, ra tỉnh lỵ, lên Sài Gòn.
Ông Học Lạc làm thơ ca ngợi sự phồn thịnh của chợ Mỹ Tho, vào khoảng trước năm 1919:
Trên Sài Gòn, dưới Mỹ Tho,
Đâu đâu phong cảnh cũng nhường cho,
Lớn ròng chung rạch, chia đôi ngã,
Cũ mới phân nhau cũng một đò.
Phố cất vẽ vời xanh tợ lục,
Buồm dong lên xuống, trắng như cò.
Đắc tình trạo tử quên mưa năng,
Dắng dỏi đua nhau tiếng hát hò.
Chúng ta không quên câu hát đưa em nói đến sự quan trọng của tỉnh lỵ Mỹ Tho, chỉ thua Sài Gòn mà thôi.
- Cúc mọc dưới sông kêu là cúc thủy hoặc là “Cách một khúc sông kêu bằng cách thủy” (!)
Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa,
Gởi thơ thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em”.
Cậu hát huê tình của bạn ghe thương hồ nhắc đến vài thành phố của Miệt Vườn:
Cần Thơ là cảnh,
Cao Lãnh là quê.
Anh đi khỏi xứ tào kê,
Thoát vòng lao lý, đâu dè gặp em!
Hoặc là:
Đời phải đời thạnh trị,
Cuộc phải cuộc văn minh
Kìa là gió mát trăng thinh,
Biết đâu nhơn đạo, bày tình cho vui?
- Gió mát trăng thanh,
Người bạn lành khó kiếm,
Tôi đây dạo chơi cũng hiếm
Chưa biết chọn người nào,
Mảng lo mua bán ra vào Cần Thơ…
Dân Miệt Vườn phản ứng như thế nào, khi đón nhận luồng văn minh kỹ thuật của Tây phương. Những hình thức văn nghệ cổ truyền đã biến đổi ra sao?
a) Một số nho sĩ dịch truyện Tàu ra quốc ngữ, truyện Tàu in ở Sài Gòn phổ biến mạnh ở Miệt Vườn vì nơi đây nhiều người biết chữ quốc ngữ, dân chúng đủ ăn đủ mặc, nhàn rỗi hơn ở những tỉnh mới, ngoài Miệt Vườn như Rạch Giá, Bạc Liêu. Phong trào nói truyện giúp cho những người dốt nghe được truyện Tàu, nhờ chữ quốc ngữ, một người đọc, năm bảy người nghe.
Nho sĩ trở thành ký giả, lên Sài Gòn làm báo.
b) Về thi phú, đa số thi sĩ khoảng đầu thế kỷ thứ hai mươi đều thuộc lứa già, làm thơ để thù tạc xướng họa. Điều đáng chú ý là những bài còn lưu truyền đề là bát cú (thơ Học Lạc, Nhiêu Tâm, bà Sương Nguyệt Anh, ông phủ Đước, bà Trần Ngọc Lầu, ông Cai tổng Lê Quang Chiểu); dường như hình thức lục bát mà ông Đồ Chiểu xử
dụng rất thành công ít được nho sĩ Miền Nam ưa thích (ngoại trừ trường hợp những loại thơ bình dân Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Sáu Trọng, Cậu Hai Miêng).
c) Hình thức hát bội được phổ biến, đứng về mặt sáng tác thì không tạo bổn tuồng nào mới, đáng lưu ý.
d) Ca nhạc là bộ môn phát triển mạnh và được người Miền Nam hâm mộ nhất.
Đờn đi đôi với thi phú (Cầm, Thi).
Nhờ phương tiện chữ quốc ngữ, nhiều tập bài ca tài tử được ấn hành, từ năm 1909 đến 1915, tại Sài Gòn.
Nhan đề một tập sách nhạc ấy như sau:
“Bản đờn tranh và bài ca
Chủ bút: Phụng Hoàng Sang
Edité par Đinh Thái Sơn dit Phát Toán”
Một ông chủ tiệm bán và sửa xe đạp đứng ra in tập bài ca. Thuở ấy, bán và sửa xe đạp là ngành kinh doanh quan trọng, ông chủ tiệm này khai thác luôn một nhà in, chiếm hai căn phố mặt tiền đường d’Ormay (nay là Nguyễn Văn Thinh).
Nhà xuất bản nầy có vẻ quê mùa với lối xưng danh như một tiệm tạp hóa, dưới mắt của chúng ta ngày nay. Nhưng xét kỹ lại, chúng ta thấy nhà xuất bản biết bắt mạch nhu cầu dân chúng lúc bấy giờ, khi chữ quốc ngữ bắt đầu phổ biến rộng, khi dân chúng ở Lục Tỉnh đòi hỏi món ăn tinh thần. Sách in đến lần thứ tư, vào năm 1910, chứng tỏ rằng sách bán chạy từ trước. Trong tập sách mỏng vừa nói trên có những bản đờn và bài ca chắc là lúc bấy giờ được ưa thích: Lưu Thủy trường, Phú Lục, Nam Xuân, Nam Ai, nhứt là bản Tứ Đại. Bài ca nhằm vào đề tài Chiêu Quân Cống Hồ, Tô Huệ chức cẩm hồi văn, mối tình Kim Trọng - Thúy Kiều, chống tứ đổ tường, nhớ tình nhân… Lời văn rất sáo, dùng nhiều chữ Nho, phảng phất lối văn biền ngẫu, những câu nói lối của tuồng hát bội.
Theo ông Vương Hồng Sển (Hồi ký 50 năm mê hát, cơ sở Phạm Quang Khai, 1969, Sài Gòn) thì vào khoảng năm 1915, phong trào ca nhạc phát triển mạnh với những tập bài ca: Lục Tài Tử, Thập Tài Tử, Tứ Tài Tử, Bát Tài Tử.
Lúc bấy giờ không dùng danh từ cổ nhạc hoặc nhạc cổ điển. Người chơi nhạc mặc nhiên là “tài tử” theo nghĩa rộng. Tài tử là người phong lưu, không đặt vấn đề danh lợi trong lúc làm văn nghệ. Đờn ca là để “di dưỡng tính tình”, giao cảm với bạn tri âm. Tuyệt nhiên không dùng nghệ thuật để khai thác thương mãi.
Xin trích lại một đoạn trong “Hồi ký 50 năm mê hát”, ghi rõ ngày xuất bản, hình bìa và phớt qua nội dung mấy tập “tài tử” nói trên.
“- 12 Juin 1915 - “Lục Tài Tử” gồm 19 bài ca, ngoài bìa vẽ một độc huyền, một kép ôm cây kìm, một kép đờn cây cò và ba cô ca.
- 15 Juin 1915 - “Thập Tài Tử” gồm 19 bài ca, bìa vẽ một thổi tiêu, một cò, một gõ sanh, một gáo, một cô đơn tranh, một cô kìm, một cô đờn tỳ bà, một cô đờn độc huyền, hai cô ca.
- 16 Juin 1916 - “Tứ Tài Tử” với 21 bài ca, ngoài bìa vẽ hai cô ca và đờn tranh, hai đàn ông đờn kìm và cò. Hai mươi mốt bài gồm Trương Phi thủ Cổ thành, tích Thoại Khanh Châu Tuấn, Tô Huệ chức cẩm hồi văn, Bá Nha Tử Kỳ, Đào viên kết nghĩa, chuyện Thúy Kiều…
- 29 Aout 1915 - “Bát Tài Tử” gồm 19 bài ca, bìa vẽ một kép đờn cò, một kép đờn gáo, một cô đờn kìm, một cô đờn tranh, một cô tỳ bà, một cô độc huyền và hai cô ca. Tập này ghi rõ người soạn là nhạc sĩ Nguyễn Tùng Bá.
Trong Bát Tài Tử nầy có những đề tài: tích Phi Long trả thù chồng, chuyện vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Ngưu Cao tảo mộ khóc Cao Lũng, lại có đề tài dính dáng với xã hội đương thời: coi lễ Chánh chung gặp tình nhân, đàn bà ghen.
Đờn ca tài tử là bộ môn văn nghệ thịnh hành. Nếu chúng tôi không lầm thì trước kia đờn ca tài tử chỉ phổ biến hẹp hòi, trong giới quan lại, phú hào từ Huế đô. Với hoàn cảnh mới, đờn ca tài tử được người dân thuộc thành phần trung lưu đón nhận, nhờ phương tiện chữ
quốc ngữ (sách in bài ca), nhờ mức sống dư giả ở Miệt Vườn. Trong hoàn cảnh ngoại bang đô hộ, các chức vụ quan trọng về chánh quyền đều do người Pháp nắm giữ, việc kinh doanh, thương mãi nằm trong tay người Hoa Kiều hoặc Ấn Độ thì kẻ sĩ, các ông điền chủ bổn xứ dù muốn hay không cũng phải bám vào giới trung lưu và giới bình dân mà nương tựa.
Đờn ca tài tử là dịp bạn bè gặp nhau, tiếng đờn và lời ca thay cho lời tâm sự. Tụ họp lại để đờn ca là sinh hoạt thường lệ, không cần xin phép, khỏi bị nhà cầm quyền thực dân lưu ý - người đờn ca, người chủ nhà thường là thân hào, nhân sĩ hoặc hương chức hội tề. Bài ca dùng những lời trừu tượng, kích thích lòng yêu nước qua điển tích xưa. Phải chăng “đờn ca tài tử” có vai trò hơi giống với việc hát cô đầu ở Bắc phần? Sau buổi đờn ca, thường tổ chức ăn uống, và nào ai ngăn cấm việc yêu đương lãng mạn giữa người tài tử? Chủ nhà lắm khi không biết đờn ca nhưng được xem là tài tử vì ông ta dám xuất tiền ra xài vô điều kiện để tìm những phút thoải mái cho tâm hồn!
Đờn ca tài tử liên quan đến việc thành hình ngành cải lương mà Miệt Vườn là lò đào tạo. Đây không phải là thiên vị về tình cảm địa phương nhưng là sự khảo sát thực tế. Các tỉnh miền Đông Nam phần nói chung đều nghèo nàn về tiền bạc lúa gạo tuy giàu sĩ khí. Các tỉnh mới thành lập ở miền Tây thì còn quá mới, dân chúng sống chưa ổn định, tiền bạc dư, lúa gạo thừa thãi nhưng thiếu một số tri thức, danh sĩ hướng dẫn thành thử ra tiền bạc chỉ đổ dồn vào sòng cờ bạc.
Nghiên cứu về xã hội, về văn hóa đòi hỏi một tinh thần rộng rãi, khách quan, gạt ra ngoài những thành kiến chánh trị vụn vặt.
Người đi khẩn hoang có thể là kẻ trốn xâu lậu thuế, nhưng việc làm của họ có tính cách xây dựng, không thể phủ nhận được. Nhờ họ mà biên giới của tổ quốc chúng ta mở rộng. Người đến cất chòi ở vàm rạch hoang vu lần đầu tiên có thể bị thúc đẩy vì động cơ ích kỷ, muốn trở thành đại điền chủ. Người tổ chức đờn ca tài tử có thể là háo danh, háo sắc nhưng việc làm ấy nhứt định là bảo vệ nghệ thuật, nếu không là phát huy. Ngoài ra, thưởng thức văn nghệ là vấn đề tế
nhị, phức tạp. Nhiều người rất cách mạng, chống thực dân nhưng lại ghét hội họa, thi phú. Có người lạc hậu nhưng thích những quyển sách, những bài ca tiến bộ. Ngược lại, nhiều người hô hào làm chuyện “quốc sự” nhưng chỉ thích những văn nghệ phẩm trụy lạc…
Trong buổi đầu tiên từ đờn ca tài tử, ca ra bộ, đến việc tổ chức bạn hát cải lương, việc soạn tuồng tích, việc đào tạo đào kép… đều khởi nguồn từ Miệt Vườn.
Xin kể sau đây vài nhân vật, theo sách đã dẫn:
- Ông Tống Hữu Định, một người vừa giàu vừa sang ở Vĩnh Long, tục danh là thầy phó Mười Hai (phó tổng, thứ Mười Hai trong gia đình). Tại nhà ông lần đầu tiên tổ chức đờn ca tài tử ra bộ, sau này gọi là ca ra bộ, người ca đứng trên bộ ván.
- Ông kinh lịch Hườn hay Quờn, kinh lịch là chức vụ xưa, ông Hườn làm ở tòa án Vĩnh Long, thường đặt bài ca, có sáng kiến cải cách nhạc cụ.
- Ông Phạm Đăng Đàng cũng ở Vĩnh Long là thầy đờn kỳ cựu, sở trường là sử dụng cây đòn độc huyền.
Ông Mạnh Tự Trương Duy Toản một soạn giả tiền phong về tuồng cải lương, giúp đắc lực cho bạn hát của thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Ông Mạnh Tự quê ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) đã từng viết và làm chủ bút tờ báo Trung Lập. Là một nho sĩ phóng khoáng, để cao nhân vật Từ Hải của truyện Kiều từ hồi năm 1918-1922, bộc lộ được bao nhiêu căm hờn và khát vọng của người dân mất nước. Đây là một đoạn, điệu Hành Vân:
Mật yên hùng, mật yên hùng
Giống Triệu Thường Sơn.
Đường cung kiếm, cái chí nam nhi
Núi sông là phận.
Từ đây quyết vẫy vùng cho sóng dậy trần ai
Rền một trời, đùng đùng xao động,
Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng
Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc.
Giữa trời đây sợ ai?
Công hầu vương bá
Thả giữa giang hồ, cây núi tưng bừng,
Mặc sức tung hoành, chơi hoành chơi.
Ngang triều đình, đứng riêng một nơi
Công hầu khanh tướng, làm chi cho nhọc tấm thân.
Theo ông Trần Văn Khải (Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, bản Roméo) thì ở Cái Thia (Cái Bè - Mỹ Tho) từ năm 1910 đã có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều tục danh Tư Triều. Ban nầy gồm Chín Quán (độc huyền), Mười Lý (tiêu), Bảy Vô (đờn cò), Hai Nhiễu (tranh), cô Ba Đắc ca, Tư Triều thủ cây đờn kìm. “Phần nhiều tài tử này được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp. Khi về, họ cho biết rằng Ban tổ chức có cho họ đờn ca trên sân khấu được công chúng đến nghe đông đảo.
“Cái ý kiến đờn ca trên sân khấu đã phát sinh từ đó”.
Một vùng đất khác làm rạng danh cho Miệt Vườn là vùng Vĩnh Kim Đông (chợ Giữa) thuộc tỉnh Mỹ Tho. Vĩnh Kim Đông là nơi chôn nhau cắt rún của ông Phan Hiển Đạo, đậu tấn sĩ hồi cựu trào, vùng Vĩnh Kim là đất xưa, quan chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh năm 1.700 đã đình binh và mất tại đây. Theo ông Nguyễn Liên Phong (Điếu cổ hạ kim thi tập, xuất bản tại Sài Gòn năm 1915) thì Phan Hiển Đạo ra học ở Huế, ngoài việc học kinh sách thánh hiền, còn học nhiều điệu đờn Huế.
Vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim Đông) còn một lò tài tử đáng kể nhứt là ông Bảy Triều, bà Trần Ngọc Viện, ông Nguyễn Tri Khương.
Miệt Vườn trải qua một thời kỳ sôi nổi với nhạc tài tử, ca ra bộ, gây tiếng vang đến Sài Gòn, trong khi ở vùng Hậu giang ông Hai Khị (người Minh Hương) nổi danh là bực kỳ tài về âm nhạc, một mình
biểu diễn một lượt ba bốn nhạc khí (ở Bạc Liêu). Sáng chế ra điệu Dạ Cổ Hoài Lang (vọng cổ) là ông Sáu Lầu. Ông Hai Khị thuộc môn phái nhạc Triều Châu.
Năm 1917 đánh dấu một sự chuyển mình quan trọng của ca nhạc. Ông André Thận ở Sa Đéc lập gánh hát xiệc, thêm ít màn ca ra bộ để thu hút khán giả.
Việc xây dựng ngành sân khấu cải lương là do nhiều người, nhiều yếu tố, nhiều địa phương nhưng gốc cội đầu tiên vẫn là Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc; Đây là việc làm mang tính chất sáng tạo, phát huy văn hóa truyền thống trong hoàn cảnh mới, đón nhận cái hay, cái đẹp của văn hóa nước ngoài, không bài ngoại, không thủ cựu, biết thâu nhận cách sắp xếp của sân khấu Tây phương (tranh cảnh, sơn thủy thay đổi; màn, cảnh mạch lạc), phối hợp với nét đẹp cũ (tuồng phải có hậu, dùng lời ca, nói lối), đón nhận những bài bản Quảng Đông, thiên về quảng đại dân chúng, gần với thực tế.
***
Lúa gạo bán có giá, cây trái được mùa, một tiểu điền chủ nếu khéo léo dành dụm tiền bạc có thể cho con du học bên Pháp để khi trở về trở thành ông bác vật, trạng sư, y sĩ hoặc là không đỗ đạt gì hết, cứ ăn chơi lêu lổng trở thành công tử.
Đường giao thông thủy bộ phát triển, người bực trung ở Miệt Vườn dư hoàn cảnh để đi chợ tỉnh hoặc đi Sài Gòn, Chợ Lớn một năm đôi ba lần, mua sắm những món cần thiết, luôn cả những xa xỉ phẩm; tiết kiệm năm bảy tháng, ăn xài đôi ngày cho thỏa thích.
Trong một tạp chí cũ, ấn hành vào năm 1925, thấy đăng tải lời quảng cáo của công ty chuyên chở đường sông, gọi nôm na là “tàu Nam Vang, tàu Mỹ Tho”. Lộ trình nầy nối liền những vùng dọc sông Tiền, dọc sông Hậu.
Đây là lộ trình “Miệt Vườn” qua tất cả vị trí quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long.
1) Đường Sài Gòn lên Nam Vang: (chuyến đi và chuyến về giống nhau): Sài Gòn, Mỹ Lợi, Mỹ tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Đất Sét, Cái
Tàu, Cao Lãnh, Cù Lao Tây, Hồng Ngự, Tân Châu, Ba Nam, Nam Vang.
Câu ca dao gợi hứng, nhờ những chuyến tàu này:
Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát,
Xuồng câu tôm bơi sát mé nga.
Thấy em cha yếu, mẹ già,
Muốn vô hoạn dưỡng, biết là được không?
2) Đường thủy từ Sài Gòn tới Đại Ngãi (bờ Hậu giang thuộc tỉnh Sóc Trăng) qua Châu Đốc:
- Sài Gòn, Mỹ Tho, Cái Bè, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cao Lãnh, Châu Đốc, Long Xuyên, Bò Hút, Lai Vung, Ô Môn, Cần Thơ, Trà Ôn, Cầu Kè, Đại Ngãi.
Điền chủ Miệt Vườn đi Sài Gòn dễ dàng, họ ăn cao lầu, xem sở thú, mua máy hát, đèn măn sông, đèn tọa đăng, ly chén, rượu “cỏ nhác”, tủ sắt.
Người đi tỉnh lỵ, đi Sài Gòn về nhà thuật lại điều tai nghe mắt thấy cho bà con chòm xóm nghe, người chòm xóm cũng rán dành dụm tiền bạc để mua sắm, cho kịp thời.
Lần hồi, người dân làm quen với chiếc xe máy, với cái máy hát, Họ được chụp hình, thấy chiếc xe hơi. Người Miệt Vườn tuy thua người Sài Gòn những không hẳn là “quê rít quê rang” như dân ở vùng xa xuôi Cà Mau, Đồng Tháp Mười, hoặc Thất Sơn. Họ đủ tiền để mua sắm. Có lẽ về điểm nầy Miệt Vườn vượt hẳn những vùng đồng bằng ở miền Trung và miền Bắc.
Lẽ dĩ nhiên, vài chuyện khôi hài xảy ra, khi người nông dân mới bắt đầu làm quen với máy móc Tây phương.
Xin trích dẫn chi tiết do ông Việt Cúc biên soạn (Gò Công cảnh cũ người xưa) về cuộc đua xe máy ở Gò Công vào năm 1917:
“Cách đây lối 50 năm (1917) chánh quyền Pháp đem về Gò Công 10 chiếc xe đạp, giao cho sở Bưu Chánh 6 chiếc, để phân phối cho 6
trạm, mỗi trạm có một người đi lấy công văn và thư tín, chạy việc hằng ngày, người ta gọi ấy là tuần giả.
“Sáu anh tuần giả lãnh mỗi người một chiếc, ông xếp bảo đem về nhà, ngày mai dẫn đến sân vận động sẽ có chuyên viên đến tập cho các anh, trong một tuần lễ thì cỡi được”.
“Đến sân vận động, có hai chuyên viên ở Sài Gòn xuống tập cho mấy anh tuần giả…
“Thuở ấy có bài thi khen tặng rằng:
Lên yên chân đạp phải tay ghì,
Hai bánh tròn xoay chạy tít đi.
Thiên lý ruổi dung, tày vó ký
Khá khen ngựa sắt với gan lì”.
Tết năm ấy (1917), ban tổ chức bày thêm cuộc đua xe máy, tám người dự cuộc, toàn là nhơn viên Bưu Chánh tham dự.
Ngoài ra chưa có ai biết đạp và săm xe này.
Máy bay từ Sài Gòn bay xuống Gò Công năm 1913, đó là loại máy bay xưa với hai khuông cánh vuông dài, chằng chịt nhiều thanh sắt nhỏ. “Người lạc quan thì luận rằng: Người ta sau nầy tự do thong thả, đi mây về gió, muốn đi đâu khắp thế giới, năm châu bốn biển, khỏi sợ non cao bể cả cách ngăn nữa, thật là có ích lắm”. “Phái bi quan luận rằng: Hành thuyền, kỵ mã tam phân mạng, thuở đến giờ, cỡi ngựa đi thuyền có bị tai nạn rủi ro xảy ra. Huống chi cái máy nầy bay trên trời xanh, làm sao tránh khỏi lúc hư hỏng máy móc, nó sa xuống đất, mới lấy gì mà đỡ nổi!”.
Cái máy hát còn gọi là giàn hát máy, kiểu xưa với ống loa một bên, quả thật là một thứ kỳ quan đối với nông dân vào khoảng trước 1930. Thoạt tiên, mấy ông điền chủ đi Sài Gòn mua về, dân lối xóm tới xem. “Mỗi khi có tiệc tùng như tân hôn, tân gia, hoặc kỵ cơm ông bà, người ta đến thỉnh ông điền chủ và rước cái máy hát ấy về nhà để giúp vui, trả tiền cho ông rất hậu.
“Nơi nào có thỉnh máy hát thì thiên hạ đến xem và nghe hát quá đông, chật ních cả trong ngoài rồi bàn tán xôn xao.
“Người thì nói: Nó tom tiếng của người ta vào cái ống loa ấy, rồi cho máy chạy, đưa hơi ra nên mới hát được…
“Kẻ thì nói: Họ dùng cách mỹ thuật để trong cái thùng kín nầy, làm lòa mắt mình, như tụi Sơn Đông hái thuật đó chứ gì! Lại có người mê tín cho là bắt hồn người ta để vào trong ấy, do bọn phù thủy cao tay ấn bày ra.
“Thuở ấy, có nhà Nho luận máy hát như vậy:
Văn thinh bất đắc kiến kỳ hình
Sất sá, hô ca, tiếu khả kinh.
Huyễn hoặc thế gian, kỳ diệu thuật,
Nhược phi thần xuất, diệc tà tinh.
Dịch nghĩa:
Chỉ nghe hơi tiếng, thấy đâu hình,
Phẫn nộ, hô ca, cười, đáng kinh.
Mỹ thuật trên đời nhiều phép lạ,
Không là thần dị, cũng là tinh”.
Cái mái chụp hình (nhiếp ảnh) đã một lần khiến cho nông dân lo sợ.
Cũng theo ông Việt Cúc, năm 1916 ở Gò Công có lễ Khai Thị (khánh thành chợ mới), quan to ở Sài Gòn xuống tham dự, quan địa phương cùng lính ma tà đón hầu. Nhiếp ảnh viên đi theo phái đoàn, chụp hình làm kỷ niệm. Dân chúng lo ngại: “Thật là quan Tây họ khôn khéo trật đời, họ đem máy ấy để chụp hình hết quan viên, hương chức tỉnh nầy. Rồi họ thâu hình, thâu vía vào đó, khiến các người ấy sẽ mất hồn vía hết, đặng cho họ dễ sai khiến, rồi quan chức ta sẽ bệnh, xui xẻo cho mà coi”.
Sẵn đây, xin trích dẫn vài đoạn trong Về Khai Thị Gò Công để chúng ta hình dung lại những trò chơi thuở ấy (1917). Thuở ấy, phương tiện thông tin, thinh thị còn chậm chạp nên giới bình dân còn hăng say sáng tác thi ca bình dân, gọi là để tường thuật, truyền khẩu:
Tháng giêng năm Ty
Khai thị Gò Công.
Thiên hạ rất đông,
Các làng đều đủ
Có mời huyện phủ,
Lại với tổng làng.
Dự tiệc khách quan,
Có mời Chánh soái,
Chín giờ xe lại,
Nhằm bữa mười hai,
Các quan đội cai
Đi ra lần đón…
Những cái cộ thấp,
Sắp trước cộ cao,
Cộ tốt hẳn hòi,
Có rồng lân múa.
Có cộ bằng lúa,
Nó khéo rõ ràng
Trên cộ có tàn
Treo cờ gắn chữ.
Chữ Tây, quốc ngữ,
Bằng gạo trắng không,
Có kẻ kết bông,
Người thì kết phụng…
Dùng gạo trắng để kết chữ kết hình, hoặc dùng bông tươi. Đó là nghệ thuật trang trí, khánh tiết khá độc đáo. Ngoài ra còn dùng lá đủng đỉnh, lá dừa để kết cửa vòng nguyệt. Hoặc dùng bông cau, mo nang, bẹ dừa mà cắt ra, bố trí như tranh sơn thủy.
Những kiểu cộ hoa, cộ đèn gợi hình ảnh ngày Nguyên Tiêu của Trung Hoa. Trong dịp đám cưới, thăng quan dân chúng tha hồ biểu diễn nghề kết bông kết tụi, “bong rạp”.
***
Về phong thủy, người Miệt Vườn chọn nơi “sông sâu nước chảy” để cất nhà. Sông sâu nước chảy nghĩa là không bùn lầy nước đọng. Sông sâu nước chảy là nơi dễ liên lạc với xóm riềng, với mấy làng phụ cận. Nước chảy là điều kiện tối cần thiết để giữ vệ sinh, gọi nôm na là “lấy nước làm sạch”.
Chúng tôi thử phát họa một ngôi nhà ở Miệt Vườn, chủ nhân là điền chủ bực trung. Nhiều ngôi nhà cất sau này dùng hàng rào sắt, có xây hồ nước lộ thiên, có lầu. Theo ý chúng tôi thì những ngôi nhà tân thời ấy, không tiêu biểu cho lắm, tốt hơn là nên chọn lựa một kiểu nhà hơi xưa, cất vào khoảng năm 1905-1910, lần hồi gia chủ mua sắm thêm bàn ghế bên trong, tu bổ lại.
Địa điểm chọn lựa là vùng Cái Bè, ở bờ sông Tiền, nơi nổi tiếng nhờ vườn cam và cũng là vùng đất xưa. Hy vọng rằng kiểu nhà sau đây - nhà của điền chủ - nói lên được phần nào cách ăn ở của người Miệt Vườn hồi đầu thế kỷ, với nhiều tiểu dị nhưng cũng có nhiều nét đại đồng24. Những người phú nông, trung nông cất nhà theo quan niệm ăn ở và thẩm mỹ ấy, nhiều chi tiết được thay đổi tùy theo túi tiền của gia chủ.
Mỗi nhà là một cung điện bình dân, với nhà thủy tọa, với sân rộng, hòn non bộ, cây kiểng. Sau nhà là vườn tược, trước sân và bên hông thì trồng cây để lấy bóng mát. Nhà không quá kín đối với người ngoài.
Nhà mát cất ở mé sông, kiểu nhà thủy tọa, có “băn” bằng cây đóng chung quanh. Đây là nơi lý tưởng để ngăm cảnh khi trăng lên, khi nước lớn. Bên cầu mát là trại lá nhỏ để ghe xuồng đậu, từ chiếc ghe hầu, mui ghe chạm trổ phết vàng sơn son, đến chiếc ghe lường, xuồng be, xuồng vỏ gòn.
Rời nhà mát, gặp con đường cái, chạy dài theo mé rạch. Qua lộ, đến cổng vào nhà. Cổng ít khi đóng lại, nhiều khi không có cửa. Cổng bằng cây, bằng gạch. Nếu túng thiếu hoặc yêu mến thiên niên, cứ trồng cây, uốn cho nhánh giao lại theo hình vòng nguyệt, hai bên là hàng rào bằng cây khô hoặc cây tươi như dâm bụt, cây trà kiểng, cây kim quít.
Từ cổng vào nhà là con đường lót gạch tàu, bên đường viền cỏ dền tây, bông nở ngày, bông vạn thọ hoặc cây đinh lăng.
Bàn thờ ông thiên dựng giữa sân, gần đường cái. Nhiều khi gia chủ bố trí thêm một cây trụ, trên chót là cái lồng cửa kiếng, ban đêm tháp ngọn đèn dầu lửa cho vui.
Hai bên đường, lắm khi xây bồn tròn, trồng một hai cây tùng hoặc cây trắc bá diệp, cây thiên tuế.
Đến gần hàng ba là gặp đôi ba cặp kiểng, một cái hòn non bộ. Kiểng ở Miệt Vườn là sự sáng tạo đáng lưu ý, nuôi và uốn với đường nét, quan niệm thẩm mỹ khá độc đáo, khác lối uốn kiểng của người Trung Hoa, của miền Trung hoặc Bắc phần; nào là kiểng uốn theo kiểu xuy phong, mẫu tử, với những tàn tiêu biểu cho tam tùng, tứ đức hoặc tam cang ngũ thường, trên chót là ba nhánh nhỏ, tiêu biểu cho nhựt, nguyệt, tinh. Nhánh kiểng phải “hô, ứng” nhánh nầy nghinh thiên, nhánh kia yểm địa.
Chúng ta đến trước hàng ba, nhà ba căn với một hoặc hai chái. Từ trước đến sau, có ba phần rõ rệt:
1) Phần thứ nhứt là hàng ba và phòng khách. Hàng ba lót gạch tàu. Phòng khách thì ít khi lót gạch, nếu có thì chỉ là một phần ở phía trước mà thôi.
Theo quan niệm cổ truyền, ông già bà cả thích nền đất hơn nền lót gạch. Đi chân trên đất là hợp theo sự hòa hợp âm dương. Nhà có ba căn. Căn giữa dành để tiếp khách quí, thường là bộ trường kỷ, hai chiếc ghế dài để hai bên một cái bàn dài. Ghế bằng cây danh mộc, chạm trỗ tùng lộc, mai điểu, mặt và đai ghế lót đá cẩm thạch Vân Nam, những gân đá gợi bóng dáng mây núi, mặt trời, mặt trăng.
Hai căn bên dành cho hai bộ ván gõ. Bộ ván bên trái (từ bên ngoài nhìn vào) dành cho các bà, có ống nhổ, một cái bàn nhỏ ở đầu bộ ván, trên bàn là khay trầu, bình vôi, ô trầu, tô lớn để súc miệng trước khi ăn trầu.
Mỗi gốc cột đều treo liễn thếp vàng, cẩn xa cừ, hoặc liễn kè (bằng cây kè).
Bộ ván bên tay phải (từ bên ngoài nhìn vào) dành cho khách nằm nghỉ trưa, hoặc để dọn cơm đãi khách.
Trên bộ ván, thường trải chiếu bóng, hai ba cái gối vuông. Mùa nóng nực, khách đến nhà là cứ nằm cho khỏe, không bắt buộc phải ngồi thông chân để ra vẻ trang nghiêm.
Đối với bạn thân, chủ nhà mời bạn nằm nghỉ giây lát, đưa quạt cho bạn phe phẩy. Sau đó, bạn mới ngồi dậy để uống trà hoặc uống nước dừa tươi. Nói chung thì thời xưa, đàn ông quen và thích ngồi xếp bằng. Ngồi ghế trường kỷ mà rút chân lên theo kiểu xếp bằng thì không có gì là vô phép cả.
Nhiều khi chủ nhà giăng sẵn một hai cái võng để nằm lúc mỏi lưng, khi trời nực.
Sau bộ ghế trường kỷ là cái bàn nhỏ tròn hoặc vuông để một mớ đèn tọa đăng, đèn chong hoặc đèn măn sông. Mỗi buổi chiều, con cái trong nhà lo dầu đèn, châm dầu cho đầy bình, chùi ống khói, rất tốn kém thì giờ.
Sau cái bàn ấy còn một bộ ván khác.
Bên tay mặt, sau cái bộ ván dành cho khách nằm nghỉ trưa, là cái tủ kiếng khá to đựng năm ba cái gối thêu ở ngăn dưới, ngăn trên để rượu thuốc, rượu tây (thông dụng nhứt là rượu ắp-xanh, cỏ nhác, dùng để đãi khách một ly nhỏ, rượu mạnh cũng là thuốc trị đau bụng, thiên thời).
Ở phòng khách, nói đúng hơn là phần dành để tiếp rước bạn bè, chúng ta thấy ba bốn bộ ván dành khi đám giỗ, khi con cháu về thăm ông bà. Tại đây, không có vách ngăn, bên nầy ăn thẳng qua bên kia, khoảng khoát.
2) Hết phần trước, đến phần giữa ngôi nhà.
Đây là khu vực dành riêng cho gia chủ, dùng làm nơi thờ phượng ông bà. Trên là tấm biển, nêu rõ “Hồ phủ” hoặc “Trần phủ đường”, sát hai bên cột có khung chạm lọng thếp vàng, nào là tùng lộc, bát tiên gắn vào (khung nầy dường như có tên là “bao lam”).
Bước vào khu vực nầy, ngay ở căn giữa, chúng ta gặp một bộ ván. Căn bên phải, từ ngoài nhìn vào là cái giường ngủ, dành cho người lớn tuổi nhứt trong gia đình (ông, bà). Căn bên trái là chỗ dành cho cái rương to, rương xe.
Bàn thờ ông bà gồm ba bàn, một ở giữa, hai ở hai bên.
Ngay trên bàn thờ giữa, hơi thụt về phía sau và ở trên cao thường có cái khám để thờ ông Quan Công.
3) Sau bàn thờ là phần thứ ba của ngôi nhà, với hai khung treo màn. Bên trái (từ ngoài nhìn vào) là phòng the, dành cho đàn bà, con gái. Bên mặt là khu vực để lu gạo và sóng chén; hàng năm bảy chục cái chén, tô, dành khi ngày giỗ thì đem ra.
Đến đây là dứt ngôi nhà trên. Thuở xưa, ít có nhà cầu, nối nhà trên xuống nhà dưới.
Trong nhà dưới là bộ ván, giàn bếp, bộ vạc dành cho bạn bè (tôi tớ). Một bên dành cho cái xe gió (để giê lúa, sau khi xay), cối xay lúa, cối giã gạo, cối quết chuỗi heo ăn.
Phía sau nhà dưới còn vài cái trại nhỏ, nơi vựa củi, lại còn chuồng heo, chuồng gà, giáp ranh với khu vườn là mương nhỏ, ăn thông ra sông rạch trước nhà.
Chái bên hông nhà trên là nơi dự trữ nước mưa, gồm một hàng năm bảy cái lu to, kiểu lu mái đầm bốn vú.
Nhìn chung, chúng ta thấy quá nhiều bộ ván, bốn năm bộ. (Nhiều khi mấy bộ ván nầy để dành đóng quan tài, khi trong nhà có người qua đời).
Nhà thấp không cửa sổ nên tối om om. Công việc nặng nhọc nhất trong nhà vẫn là quét dọn, lau chùi bàn ghế và mấy bộ ván.
Bộ ván phải lau chùi thường xuyên cho sạch bụi, chủ nhà đốc thúc con cháu đánh bóng cho ván “lên nước”, dùng trái dừa khô đẹt, cắt làm hai mà chùi, mà dồi.
Kiểu nhà trên đây lần hồi được cải cách, thay vì vách ván thì đổi ra vách tường. Nền nhà xây thật cao, cao ngang ngực. Và nguyên lý “âm dương” lần hồi không còn được tôn trọng nữa. Cứ dùng gạch tàu hoặc gạch bông mà lót suốt từ trước tới sau.
Phía trước nhà, người ta xây hai phía thang gạch, từ bên trái hoặc từ bên mặt, khách vào nhà đi ngang, từ góc nhà vào căn giữa. Trên bực lan can, nhiều chậu kiểng sắp hàng, tăng thêm phần mát mẻ, vui tươi.
Nhiều nhà bố trí hai chái hai bên, nhờ vậy ngôi nhà được cân đối.
Bên vách, đôi ba cửa sổ lá sách đem ánh nắng vào trong. (Trước kia ít ai tra cửa sổ, e rằng quân gian dễ dòm ngó, cưa cạy).
Trong nhà, mấy bộ trường kỷ, bộ ván, bàn thờ, buồng ngủ vẫn bố trí theo tứ tự cổ điển, từ trước đến sau:
1.- Nơi tiếp khách
2.- Nơi thờ phượng ông bà
3.- Buồng che kín, dành cho vợ chồng hoặc con cái.
Nhà bếp cất rời, nếu dư nhiều lúa thì bồ lúa để riêng ở nhà lẫm.
Những gia đình nghèo túng thường chỉ có bộ vạc để ngồi tiếp khách, một cái buồng.
Về cầu thang dưới bến, tùy theo nước lớn nước ròng mà người ngồi trên bục thang cao hay thấp rửa chén, làm cá, giặt quần áo, tắm rửa. Cầu vệ sinh cũng cất gần đó, vật ô uế trôi theo giòng nước.
Nhiều gia đình theo “tân thời” thích bày biện những món hàng nhập cảng: ghế mây “tô-nê”, bàn mặt cẩm thạch Ý Đại Lợi, tủ sắt, trên vách treo đồng hồ “con ngựa”, những bức tranh Thụy Sĩ với hồ xanh, núi tuyết. Hoặc những tỉnh vật “quả tử” với cá thu, tôm hùm hoặc trái nho, trái lê. Ngoài ra còn tranh in nhiều màu, mua từ Sài Gòn, vẽ cảnh săn sấu lửa ở Phi Châu, săn cá nước, cá ông ở miền Bắc Cực.
Nhiều gia chủ thích liễn cẩn, biển thếp vàng hoặc thích những kiểu đèn treo có chụp bằng sành, bằng pha lê. Muốn hạ cây đèn hoặc rút lên thì cứ nắm sợi dây xích mà kéo.
Nhà thuộc từng lớp nghèo hoặc tiểu chủ thì xài đồ nội hóa: bàn ghế, tranh thờ theo kiểu sản xuất hàng loạt từ Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Tranh thờ tiêu biểu nhứt là “sơn thủy” với con sông, trên bờ là nhà ngói, sông chảy ra biển, ngoài khơi lại ba hòn đảo với vài cảnh chim bay liễn đối ghi là: Sơn thủy hữu tình thiên lý ngoại…
Mấy bộ ván, bộ cột nhà ở Miệt Vườn thường là mua từ trên Lèo, trên Cao Miên, cây thả bè đem về, gọi là cây ở Sông Lớn (Cửu Long).
Nhà có rào, sân, vườn tược, ao. Đó là quan niệm về cư trú không riêng gì của người Miệt Vườn. Nhưng chúng ta thấy cái ao mất hẳn, trước nhà có sông, sau nhà đã có mương vườn rồi. Nói chung thì rào trước nhà hơi thấp, trống trải, chủ nhà không cố ý che giấu, không xem nhà là một cõi riêng quá bưng bít, kín cổng cao tường.
Với tình hình kinh tế khả quan, nhứt là sau trận Âu Châu đại chiến 1914 - 1918, Miệt Vườn trải qua thời kỳ phồn thịnh. Những tỷ dụ về chiếc xe máy, về cái máy chụp hình nêu ra ở phần trên chỉ đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp ngắn ngủi vì đa số dân Miệt Vườn đón
nhận kỹ thuật Tây phương với tinh thần cởi mở. Tiểu điền chủ sắm máy hát, mấy thầy giáo ở chợ làng, chợ quận dành dụm tiền bạc để mua xe máy; hàng ngày họ sung sướng làm công việc lau chùi, bơm bánh xe.
Việc hớt tóc ngắn không gặp trở ngại nào đáng kể và không cần cổ động “phen nầy cắt tóc đi tu, tụng kinh độc lập, ở chùa Duy Tân”. Con cháu trong gia đình lo chụp hình khi cha mẹ già yếu để sau nầy thờ phượng. Thờ hình người là bước tiến quan trọng. Nhiều bức hình tiêu biểu cho cách ăn mặc, cách phối trí lúc bấy giờ.
Ông lão đội khăn đóng, mặc áo dài đen, quần trắng, mang dép da, ngồi trên cái ghế có đai. Tay ông lão cầm quạt, hoặc buông xuôi để trên cái bàn vuông hoặc tròn, trải tấm “náp” thêu ren, trên bàn là bình chưng bông, nhứt là phải có một cái đồng hồ reo. Ông lão (hoặc bà lão) ngồi ngay ngăn, nhìn thẳng, (đáng chú ý nhứt là mấy ngón tay, xòe ra đủ năm ngón) để phô bày đủ hai mặt, hai tay… vì mất hoặc bị che khuất là xui xẻo (sau nầy gặp tai nạn thì thây thi không toàn vẹn). Trên mặt, ánh sáng đều đặn, không có bóng đen, đen là màu xui xẻo, mặt mày bị nám. Thuở ấy, kỹ thuật nhiếp ảnh, rọi hình không được tinh vi cho lắm. Mỗi lần chụp hình là nhiếp ảnh viên điều chỉnh máy móc suốt mười lăm, hai chục phút. Vì thiếu ánh sáng nên nóc tiệm lót kiếng, cho ánh sáng rọi xuống. Ảnh chụp ra, rửa theo khổ nhỏ. Muốn có kiểu lớn thì phải nhờ thợ họa hình, căn cứ theo ảnh nhỏ ấy mà vẽ ra lớn.
Mỗi nhà khá giả đều chưng hình ông bà, thân nhân trên vách.
Ông Hồ Biểu Chánh hiểu rành nếp sống ở nông thôn, nhứt là nếp sống của Miệt Vườn. Nếu chú ý, chúng ta gặp nhiều đoạn tả cảnh khá tỉ mỉ. Tất cả tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là bức tranh xã hội khá linh động.
Xem trích lục sau vài đoạn, bắt gặp tình cờ trong quyển “Kẻ Làm Người Chịu”, khi hai nhân vật là Chánh Tâm với Cẩm Vân về Láng Thé (Trà Vinh).
“Chánh Tâm đứa biểu nhỏ vác hoa ly, rồi vợ chồng dắt nhau về nhà”.
“Cẩm Vân sanh đẻ tại Chợ Lớn… Hôm nay nàng đi với chồng và lại đi xa quá, thấy tứ bề cảnh vật đều lạ mắt hết thảy, bởi vậy nàng khấp khởi trong lòng, lúc bước xuống xe, nàng đến nắm tay chồng mà đi, làm cho Chánh Tâm hớn hở vô cùng, mà cũng làm cho người trong xóm ai thấy cũng ngó.
“Bước vô cửa rồi, nàng hỏi chồng rằng: “Nhà mình đây hay sao?”. Chánh Tâm gặc đầu và ngó vợ mà cười. Cẩm Vân thấy một cái nhà ngói lớn cất ba căn hai chái, cửa ván, vách tường mà nhà đóng cửa bịt bùng. Trước cửa có một cái sân nhỏ, cỏ mọc tàm lam. Dựa bên thềm, có mấy bụi nở ngày trỗ bông, bụi thì trắng, bụi thì tím. Bên tay mặt có cái chuồng trâu, thấy trong chuồng trâu có một bầy, lại có một đứa nhỏ ở truồng ở trần, vác một bó rơm chạy lăng xăng. Bên ở tay trái có một miếng đất ruộng lớn mà trống lỗng, ấy là sân đập lúa vì chưa tới kỳ nên chưa dọn dẹp, bởi vậy heo ủi có lỗ có hang”. (Quyển Kẻ Làm Người Chịu, viết xong tại An Trường, 1928).
Say đây là nếp sống sang trọng của cậu Bác Ái, một chàng trai theo Tây học, đã học ở Sài Gòn, nay về nhà ở Long Kiến (cù lao Ông Chưởng, Long Xuyên), cha của Bác Ái là ông Hội đồng Thời, mỗi năm lúa ruộng góp được bốn năm chục ngàn thùng. Bác Ái muốn đi Tây để tiếp tục học vấn nhưng cha mẹ ngăn cản. “Anh ta bèn nhứt định ở nhà làm ruộng… Anh ta thường xin tiền mẹ rồi gởi lên Sài Gòn mua bốn năm nhụt báo mà xem, và gởi qua Tây mua sách, nhứt là mấy bộ tiểu thuyết hay để dành mà đọc. Anh ta lại xin phép cha rồi dọn trọn một cái chái nhà phía trên để làm thơ phòng”.
Cái thơ phòng ấy được mô tả tỉ mỉ, trong tiểu thuyết “Một Chữ Tình” cũng của Hồ Biểu Chánh, nên chú ý là tiểu thuyết nầy viết xong hồi tháng 10, năm 1923.
Bên trong chái ấy là phòng ngủ “thì để một cái giường sắt, mùng nệm gối mền đều tinh khiết. Trên cái đầu giường, có một cái tủ cẩm lai, đựng quần áo đầy dẫy: nào là đồ mát may bằng lụa trắng để bận trong, nào là đồ tây cổ bẻ bằng nỉ trắng hoặc nỉ màu để mặc đi chợ hoặc thăm bà con. Dựa chưn giường thì để giày đủ thứ: đi trong nhà thì giày cườm, giày da láng, dép Nhựt bổn, dép Bắc Kỳ, đi ra ngoài
thì giày thứ trắng để đi nắng, thứ vàng để đi chơi, thứ đen để đi ruộng.
“Dựa cửa phòng thì móc nón cũng nhiều thứ: thứ nón nỉ đội ban đêm, thứ trắng đội che nắng. Trong phòng lại có để một cái bàn gõ mặt cẩm thạch để rửa mặt gội đầu và cũng có để một cái bàn nhỏ với một cái ghế ngồi, để khi nửa đêm thức dậy chong đèn đọc sách…
“Dựa bên cái ghế dài ấy có sẵn một cái cửa sổ, hễ mở thì ngó ra vườn thấy hàng sa bô chê trồng theo mấy hàng cau, trái đơm đầy nhánh, là là gần sát đất, dường nhem thèm trẻ nhỏ đặng cho nó rờ rẫm tối ngày chơi, ngó xa xa lại có hai cây sứ trắng, bỗng trỗ giáp mấy đầu cành mà không có một u”.
Và đây là một nhà nghèo của tá điền, trích trong “Kẻ Làm Người Chịu”.
“Cẩm Vân đứng lại ngó vô nhà, thì thấy trong nhà có một cái bàn thờ mà trên bàn trống trơn, không có chơn đèn, lục bình chi hết, chính giữa có lót một bộ ván dầu, bên tay mặt có để một cái chõng, còn bên tay trái thì có giăng một cái võng, gần đó là có chất cày bừa lộn xộn”.
Từ dưới sông nhìn lên bờ Tiền Giang, ông Phạm Quỳnh ghi lại (Đi tàu thủy tự Mỹ Tho lên Long Xuyên: “Thường trông bên bờ, có những nhà ngói nền cao, cửa kính cửa chớp, hàng rào sắt chạy dài, thềm xây ngay trên mặt nước, ngoài đặt cái cầu nhỏ dựng nhà thủy tọa con, lại thấy vài ba cái “thuyền máy” (canots automobiles) để chung quanh, hỏi ra thời là nhà thầy cai tổng, cụ điền chủ hay ông hội đồng nào toàn là những mặt phú hào trong một xứ. Coi những cơ ngơi đó thì đã biết các bậc chủ nhân ông giàu có là dường nào. Có nơi xây trên bờ sông dài đến mấy trăm thước trông những nhà những vườn, những lầu những gác, nhấp nhô như mặt cái thành nhỏ, tàu chạy một thôi thời hết, mà toàn là dinh cơ của một người…”
Món ăn và bánh khéo là ngành nữ công khá độc đáo ở Miệt Vườn. Văn hóa muốn phát triển mạnh cần vài điều kiện cần thiết là tình hình chính trị kinh tế tạm ổn định, dư tiền và thời giờ rảnh rang.
Mấy bà mấy cô ở Sa Đéc, Long Xuyên, Vĩnh Long và luôn cả Rạch Giá đã thi tài về bánh khéo, và nấu thức ăn: bánh bò trong, bánh bột lọc, bánh ích trần, bánh men, bánh thuẫn, bánh ướt, bánh xếp, bánh bò ngang, mứt ổi, mứt chuối, mứt chanh, mứt me… Lại còn món bánh hỏi thịt quay, bò gác trèo, vịt tiềm hon, dưa đầu heo, mắm tôm, mắm lòng.
Người đầu tiên chế biến những thức ăn, bánh khéo chưa hẳn là người Miệt Vườn nhưng Miệt Vườn là nơi để thí nghiệm vì các bà các cô dư tiền mua bột mua đường, dư cá tôm để nấu nướng. Phải nhìn nhận rằng ở Huế, nhiều người sáng chế ra nhiều loại bánh khá độc đáo, tinh vi, thí dụ như “bánh sen làm bằng bột hột sen rồi nướng như bánh kẹp; như bánh măng, mụt măng tre nạo ra bột, rồi làm như bánh in”25. Miệt Vườn là nơi bánh khéo phát triển mạnh, có thầy dạy, gần như trở thành phong trào.
Dịp đám cưới, đám giỗ, cúng đình, đón rước quan trên, hội chợ phiên… là các bà các cô thi tài, con gái nhà đàng hoàng phải biết vài thứ bánh, vài món ăn để thi thố khi về nhà chồng, khi giao thiệp với chị em bạn. Gẫm lại thì bánh khéo quả là công trình đáng khen ngợi, quanh đi quẩn lại chỉ có vài nguyên liệu như bột tàn, bột bắc, bột mì, phèn the phi, thuốc tiêu mặn mà sáng chế ra hàng mấy chục thứ bánh, hương vị khác nhau. Ngoài bí quyết riêng, không dạy bằng giấy trắng mực đen được, người làm bánh phải có kinh nghiệm, có “hoa tay”.
Về thức ăn, xin nói sơ qua món “Giang Nam Dã Hạc” nghĩa là con hạc đất Giang Nam, “dã” là đồng ruộng, Giang Nam là tỉnh phía Nam sông Dương Tử bên Tàu, đồng thời cũng ám chỉ là vùng ấm áp ở bờ sông Cửu Long.26
Nguyên liệu gồm gà mái tơ, óc heo, ruột gan heo, tôm càng, cua biển, chim se sẻ hay chim giòng giọc và gừng, chanh, rượu trắng, đậu phộng, mè, tương tàu, nước cốt dừa, mỡ chài, mỡ, bột mì, củ hành, củ năng, lạp xưởng, thịt khô, tiêu, đường, nấm thông, măng tre tươi.
Món ăn chưng bày trên bàn, thực khách gồm chừng năm người. Trên bàn, một bó bông giấy chụp xuống che phủ cái đĩa.
Chủ nhân mời khách và bắt đầu dở bó bông giấy để một bên. Cái đĩa lớn hiện ra, chất vun đồ ăn, phía trên chót cao là con gà quay vàng lườm, gà nằm xoè cánh ra, theo dáng điệu gà ấp trứng. Chủ nhơn đem con gà xuống. Gà đã cắt sẵn ra làm bốn làm năm, mỗi người lãnh một miếng.
Kế đó là một lớp trứng gà, gọi là trứng khẻ mỏ, mỗi người lãnh một trứng. Thật ra, đó là con chim con (se sẻ hay giòng giọc) lú đầu ra khỏi vỏ, vỏ là ruột heo cột túm lại, (nhái theo hình dáng con gà con vừa khẻ mỏ). Thực khách ăn cái trứng này với một mớ măng tre luộc, sắp bên dưới trứng.
Măng trẻ sắp xếp khéo léo, theo kiểu rơm rạ mà gà dùng lót ổ để đẻ và ấp.
Ăn hết mớ trứng khẻ mỏ và lớp măng lót ổ thứ nhứt, thực khách bắt đầu qua lớp trứng thứ nhì, gọi là trứng gà ung!
Đây là món khá ngon, màu sắc giống như trứng gà ung, cái tên xấu xí này ngụ ý khôi hài vì ai dám đem những món hôi hám, phế thải ra đãi khách. Trứng gà ung làm bằng gan heo (để lấy màu đen) ướp đậu, mè, tương, nước cốt dừa, lá chanh, thêm óc heo rồi quấn mỡ chài, sau rốt gói tròn trong miếng ruột heo, hấp chín rồi chiên lại. Thực khách lãnh phần mỗi người một trứng ung trên đây, ăn với rơm rạ lót ổ, tức là măng tre luộc, chần cho mềm rồi đem riêm nước dừa xiêm, lót ở dưới.
Kế đó là món trứng gà già, làm bằng tôm, bột mì, củ năng. Mỗi người ăn một trứng với măng tre, sắp bên dưới.
Rồi đến món trứng non làm bằng thịt khô, lạp xưởng, thịa cua rỉa ra, củ hành, nấm, tất cả gói tròn trong miếng ruột heo, luộc chín rồi đem chiên, cũng ăn kèm với măng luộc. Sau khi thưởng thức loại trứng khẻ mỏ, trứng ung, trứng già, trứng non, mỗi người ăn thêm chút ít cơm rang, để dưới đáy dĩa.
Giang Nam Dã Hạc là món quá bổ, mất tiền, trình bày khá mỹ thuật và duyên dáng. Con gà rô ti ấp bốn loại trứng, giữa mấy lớp trứng là măng tre, dưới chót là cơm. Đây là mô phỏng theo thực đơn ở hiệu cao lâu Tàu, không đặc sắc bằng món ăn địa phương.
Bọn đàn ông thích nhậu rượu bày ra vài loại rượu, như rượu đậu nành, rượu chuối, rượu mít, rượu dừa, cứ bỏ chút ít men dưới gốc để rồi nước dừa trong trái dừa dậy lên, thành rượu; hái quày dừa xuống, vạt vỏ ra mà uống loại rượu dừa ấy (?).
Ngoài ra, còn vài kiểu ăn uống như bò gác tréo: thực khách đi vòng quanh con bò tơ gác tréo trên đống than hồng, chung quanh là nhiều bàn để rau, bánh tráng, nước thấm, người ăn dùng dao nhọn mà chích vào da bò, thịt tươi lòi ra, vừa ngọt vừa bổ, rồi đi qua cầu, nhảy mương cho thêm đói, ăn nhiều. Tiệc bày ở ngoài sân, ngoài vườn.
Cá lóc nướng ốp bẹ chuối, vịt nướng sau khi bó đất sét, tôm nhúng nước dừa xiêm là những món hơi cầu kỳ nhưng quyến rủ một số người khó tánh. Thịt cầy (thịt chó) là món bất thường, ăn vì tò mò, vì muốn “xé rào, gạt bỏ sự cấm kỵ qua một bên (chó là gia súc tiêu biểu cho đức trung tín). Ăn thịt chó là dịp để tụ họp bạn bè, hò hét cho vui. Thịt chó dùng thay cho thịt rừng, bởi vậy được xào nấu theo kiểu thịt chồn, thịt rắn với nhiều gia vị, nào là xào lăn, bầm nhỏ xúc bánh tráng. Hoặc thịt chó gói lá cách, lá lốt, làm xiếu mại, theo kiểu thịt bò bảy món…
Nhưng thành công nhứt và phổ biến nhứt là món ăn bình dân, tập trung bao nhiêu tinh túy của sản phẩm địa phương. Thí dụ như cá rô kho tộ; cá rô mập béo (cá rô mề là cá ngon nhứt ở đồng) kho với nước mắm biển, để thêm tiêu cà ra nhỏ và tiêu nguyên hột, cái tô ấy đặt thẳng trên than hồng. Thí dụ như canh chua cá lóc, canh chua cá tra, cá vồ, cá bông lau. Hoặc cá trê vàng, nướng dầm nước mắm gừng. Hoặc mắm lòng, mắm thái ăn với thịt luộc, rau sống.
Đêm trăng thanh gió mát, nhiều người thích văn nghệ tổ chức thả thuyền trên sông Tiền hay sông Hậu, ngỡ mình là ông Tô Đông Pha và các bạn dạo chơi trên sông Xích Bích, trong phút giây hóa ra tiên,
chấp cánh bay cao. Cuộc du thuyền lấy đờn ca, ngâm thơ xướng họa và ăn uống làm điều quan trọng: đờn tranh, ăn tôm tươi nướng trên than hồng, ngâm thơ bát cú, nói chuyện tiếu lâm mãi đến lúc trăng tà. Thú vui này được gọi là “thả cầm thi”.
***
Miệt Vườn cung cấp nhiều giáo viên cho miền Tây (Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu).
Sau đây là con số thống kê, đáng tin cậy của vài tỉnh vào năm 1927, để so sánh27.
- Biên Hòa, 33 trường học với 2.772 học sinh.
- Bến Tre, 8.136 học sinh, trong tổng số dân cư là 291.393 người. - Gò Công, 3.412 học sinh.
- Mỹ Tho, 8.357 học sinh trường công và 1.217 học sinh trường tu, tất cả 105 trường.
- Sa Đéc, 6.689 học sinh.
- Trà Vinh, 3666 học sinh
- Vĩnh Long, 5.039 học sinh trường công và 974 học sinh trường tư.
- Cần Thơ, 5.539 học sinh.
Về phía Hậu Giang:
- Long Xuyên, 4162 học sinh.
- Rạch Giá, 2.943 học sinh.
- Sóc Trăng, 3.528 học sinh.
Tóm lại thì Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre đứng đầu.28
Nếu so sánh với 27 năm về trước, tức là năm 1899, chúng ta thấy trường học đã gia tăng, mặc dầu còn xa lắm mới đáp ứng nhu cầu. Tỉnh Mỹ Tho, năm 1899, chỉ có một trường tỉnh, bốn trường tổng. Năm 1926, tỉnh nầy được 105 trường, vừa trường tỉnh, trường làng.
"""