"
Vận Hành Toàn Cầu Hóa - Joseph Eugene Stiglitz full prc pdf epub azw3 [Kinh Tế]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vận Hành Toàn Cầu Hóa - Joseph Eugene Stiglitz full prc pdf epub azw3 [Kinh Tế]
Ebooks
Nhóm Zalo
Joseph E. Stiglitz
lê Nguyễn dịch
vận hành
Toàn cầu hóa nhà xuất bản trẻ
vận hành Toàn cầu hóa Tặng Anya, mãi mãi
6
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi viết quyển Toàn cầu hóa và những mặt trái ngay sau
khi rời khỏi Ngân hàng Thế giới, nơi tôi đã phục vụ với tư cách Phó Chủ tịch thứ nhất và là chuyên viên kinh tế cao cấp từ năm 1997 đến năm 2000. Tác phẩm này lần lượt ghi lại phần lớn những gì tôi đã chứng kiến trong khoảng thời gian tôi làm ở Ngân hàng Thế giới và Nhà Trắng, nơi tôi đã công tác từ năm 1993 đến năm 1997 trong cương vị thành viên, rồi sau đó là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế dưới thời Tổng thống William Jefferson Clinton. Đó là những năm đầy xáo trộn; cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á vào những năm 1997-1998 đã đẩy một số quốc gia đang phát triển từng gặt hái nhiều thành công vào tình trạng suy thoái và ngưng trệ chưa từng thấy. Tại Liên bang Xô viết cũ, giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường đã mang lại sự thịnh vượng mới, thay vì để cho lợi tức và mức sống tụt mất 70%. Trong những tình huống tốt đẹp nhất, thế giới với những dấu ấn của sự cạnh tranh gay gắt, sự bấp bênh và bất ổn, không phải là một nơi chốn dễ dàng gì, và các quốc gia đang phát triển không phải lúc nào cũng làm hết sức mình để nâng cao hạnh phúc của chính họ. Song tôi tin rằng những nước công nghiệp tiên tiến, thông qua các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), và Ngân hàng Thế giới (WB), không những không làm tất cả những gì có thể làm được để giúp các quốc gia đang phát triển, mà đôi khi họ còn làm cho đời sống của chính họ trở nên khó khăn
7
vận hành Toàn cầu hóa
hơn. Các chương trình của IMF rõ ràng là đã làm cho cuộc khủng hoảng ở Đông Á trở nên tồi tệ hơn và “liệu pháp sốc” mà họ đưa ra ở Liên Xô cũ và các nước trong liên bang đã giữ một vai trò quan trọng trong sự thất bại của thời kỳ quá độ.
Tôi đã đề cập đến nhiều chủ đề loại này trong tác phẩm Toàn cầu hóa và những mặt trái. Tôi cảm thấy là mình chỉ có một kỳ vọng duy nhất để mang đến cho cuộc tranh luận, sau khi đã chứng kiến những chính sách hình thành từ bên trong Nhà Trắng, từ Ngân hàng Thế giới, nơi tôi đã làm việc cùng với các nước đang phát triển, giúp họ khai triển các chiến lược nhằm gia tăng sự phát triển và giảm thiểu nghèo đói. Một điều cũng quan trọng không kém, là với tư cách một lý thuyết gia kinh tế, tôi đã dành gần 40 năm nghiên cứu để tìm hiểu thế mạnh và những hạn chế của nền kinh tế thị trường. Công cuộc nghiên cứu của tôi không những nói lên mối hoài nghi về giá trị của những lời tuyên bố chung chung về tính hữu hiệu của nền kinh tế thị trường, mà còn về một số niềm tin chủ yếu làm nền tảng cho toàn cầu hóa, chẳng hạn như ý niệm cho rằng mậu dịch tự do nhất thiết sẽ làm tăng tiến sự thịnh vượng.
Trong cuốn sách trước đây, tôi đã mô tả một số thất bại của hệ thống tài chính quốc tế cùng những định chế của nó và chỉ ra lý do tại sao toàn cầu hóa không mang lại lợi ích cho nhiều người như nó có thể làm được và phải làm cho được. Và tôi đã phác họa một số nhu cầu cần được thỏa mãn để toàn cầu hóa có thể vận hành, nhất là đối với các nước nghèo và các nước đang phát triển. Quyển sách bao gồm một số đề nghị nhằm cải tổ hệ thống tài chính thế giới và các định chế tài chính quốc tế đang chi phối hệ thống này, nhưng số trang sách có hạn không cho phép tôi đi sâu vào những đề xuất này.
8
LỜI NÓI ĐẦU
Ngay trong khoảng thời gian làm việc tại Nhà Trắng và Ngân hàng Thế giới, tôi chỉ giữ một cương vị duy nhất là tìm hiểu những vấn đề về toàn cầu hóa, nhờ đó tôi đã có những hiểu biết cơ bản về hệ quả này. Trong những năm ở Washington, tôi đã đi khắp thế giới, gặp nhiều nhà lãnh đạo và các viên chức chính phủ và điều nghiên những thành công cũng như thất bại của toàn cầu hóa. Sau khi rời Washington để trở về với môi trường học thuật, tôi vẫn tiếp tục tham gia các cuộc tranh luận về toàn cầu hóa. Năm 2001, tôi được trao tặng giải thưởng Nobel vì những công trình có tính lý thuyết trước đây về kinh tế học trong lĩnh vực thông tin. Từ đó, tôi đến thăm hàng chục quốc gia đang phát triển, tiếp tục bàn bạc với các học giả, các nhà doanh nghiệp, với các vị Thủ tướng, Tổng thống, các dân biểu, nghị sĩ khắp mọi châu lục, tham gia các diễn đàn tranh luận về sự phát triển và toàn cầu hóa có liên quan đến từng mảng của xã hội toàn cầu của chúng ta.
Khi tôi có ý định rời Nhà Trắng để đến làm việc tại Ngân hàng Thế giới, Tổng thống Clinton có yêu cầu tôi tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế và tư cách một thành viên trong nội các của ông. Tôi từ chối, vì nghĩ rằng việc vạch ra các đường lối và kế hoạch nhằm thực hiện một điều gì đó trước sự bần cùng đang hoành hành thế giới kém phát triển là một thách thức quan trọng. Thật hết sức bất công khi trong một thế giới của sự giàu có và sung túc lại có nhiều người phải sống trong sự bần cùng như thế. Vấn đề hiển nhiên là nan giải, song tôi tin rằng có thể làm được một điều gì đó. Tôi nhận lời mời của Ngân hàng Thế giới, không chỉ vì họ cho tôi cơ hội mới mẻ để nghiên cứu vấn đề, mà còn vì họ cung cấp cho tôi một diễn đàn để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia đang phát triển.
Trong những năm tháng làm việc ở Ngân hàng Thế giới, tôi đã hiểu ra tại sao có sự bất đồng như thế trong cách thức tiến
9
vận hành Toàn cầu hóa
hành toàn cầu hóa. Cho dù sự phát triển là điều khả dĩ, song rõ ràng là không thể tránh được sự bất đồng. Tôi từng chứng kiến những quốc gia mà sự bần cùng cứ gia tăng thay vì hạ giảm, và tôi nhận ra ý nghĩa của điều này – không phải qua những con số thống kê, mà trong chính cuộc sống của con người. Tất nhiên là không có những giải pháp thần kỳ. Nhưng có hàng loạt những đổi thay có thể thực hiện được – trong đường lối chính sách, trong các định chế kinh tế, trong luật chơi và trong cách suy nghĩ – hứa hẹn giúp cho toàn cầu hóa vận hành tốt hơn, đặc biệt là cho các nước đang phát triển. Một số đổi thay nhất định sẽ diễn ra – việc Trung Quốc gia nhập sân chơi toàn cầu với tư cách một nền kinh tế sản xuất nổi bật và sự thành công của Ấn Độ trong việc nhập hàng để giảm thiểu chi phí sản xuất chẳng hạn1, buộc phải có những thay đổi về chính sách và cách suy nghĩ. Sự bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu trong thập niên qua – tính từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 1997-1998 đến các cuộc khủng hoảng tại châu Mỹ Latin vào những năm đầu thế kỷ 21 và sự sụt giá của đồng đô-la Mỹ bắt đầu vào năm 2003 – buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về hệ thống tài chính toàn cầu. Sớm hay muộn gì thế giới cũng sẽ phải thực hiện một số thay đổi mà tôi sẽ đề xuất trong những chương kế tiếp; vấn đề là không phải những đổi thay nào sẽ diễn ra, mà là khi nào chúng diễn ra – và, quan trọng hơn nữa, là chúng sẽ diễn ra trước hay sau những tai họa mang tính toàn cầu. Những thay đổi bừa bộn được tiến hành cấp bách tiếp theo một cuộc khủng hoảng không phải là cách tốt nhất để cải tổ hệ thống kinh tế toàn cầu.
1 Nguyên văn: outsource, là hành vi tìm hàng hóa hoặc dịch vụ từ một nguồn cung cấp bên ngoài. “Nhiều công ty tìm hàng hóa hoặc dịch vụ từ một nguồn cung cấp bên ngoài và thuê các nhà tư vấn thay vì duy trì một lực lượng lao động linh hoạt”. (ND)
10
LỜI NÓI ĐẦU
Sự kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh đã mở ra những cơ hội mới và dỡ bỏ những giới hạn cũ kỹ. Ngày nay, tầm quan trọng của một nền kinh tế thị trường đã được nhìn nhận và các chính phủ cần quay lưng lại với các cuộc chiến ý thức hệ và hướng đến việc giải quyết những vấn đề của chủ nghĩa tư bản. Lẽ ra thế giới phải để cho nước Mỹ nắm lấy thời cơ để góp phần xây dựng một hệ thống kinh tế và chính trị quốc tế dựa trên các giá trị và nguyên tắc, chẳng hạn như việc thiết lập một thỏa ước thương mại nhằm nâng cao sự phát triển ở những quốc gia nghèo. Thay vào đó, do không bị kiềm chế bởi những cuộc cạnh tranh nhằm “chiếm lấy trái tim và khối óc” của những nước thuộc thế giới thứ ba, các nước công nghiệp tiên tiến đang thiết lập một chế độ mậu dịch toàn cầu nhắm vào những lợi ích tài chính tập thể của họ và làm thiệt hại những nước nghèo trên thế giới.
Phát triển là một vấn đề phức tạp. Thật vậy, một trong những chỉ trích chủ yếu nhắm vào IMF và các định chế kinh tế quốc tế khác là những giải pháp theo kiểu một-kích-cỡ mà vừa-vặn-với-mọi-người của họ đã không – và cũng không thể – khắc phục được những điều phức tạp đó. Tuy nhiên, trong vô số những câu chuyện kể về kinh tế toàn cầu, chúng ta rút ra được một vài nguyên tắc phổ quát. Nhiều nước đang phát triển thành công đã có một số đường lối chung, mỗi đường lối thích hợp với hoàn cảnh riêng rẽ của mỗi nước. Một trong những mục tiêu của quyển sách này nhằm giải thích các điểm tương đồng đó.
Tôi thấy cần phải nói đôi lời về mối quan hệ giữa công việc nghiên cứu trước đây của tôi, nhất là những việc làm đã góp phần mang đến cho tôi giải thưởng Nobel, với cương vị của tôi
11
vận hành Toàn cầu hóa
trong những năm làm việc ở Washington, và những tác phẩm tôi viết sau này, đặc biệt là các quyển Toàn cầu hóa và những mặt trái và Những năm 90 đầy biến động1.
Công việc nghiên cứu ban đầu của tôi về những hậu quả của tình trạng thông tin có giới hạn và cạnh tranh không hoàn hảo đã khiến tôi phải cảnh giác với những hạn chế của thị trường. Những năm sau, tôi và nhiều người khác đã mở rộng việc nghiên cứu sang lĩnh vực kinh tế vĩ mô. Công cuộc nghiên cứu của tôi về những vấn đề kinh tế thuộc khu vực công cho thấy rõ nhu cầu về sự cân bằng giữa chính quyền và thị trường – những quan điểm gần gũi với quan điểm của chính quyền Clinton mà tôi đã trình bày trong tập Báo cáo kinh tế của Tổng thống xuất bản hàng năm trong thời gian tôi làm việc tại Hội đồng cố vấn kinh tế. Khi đến với Ngân hàng Thế giới, tôi cảm thấy khó chịu trước những gì mình nhìn thấy: Ngân hàng – và kể cả IMF – đề ra những chính sách kinh tế mang tính bảo thủ (chẳng hạn việc tư nhân hóa chế độ an sinh xã hội) hoàn toàn trái với những gì mà tôi đã phấn đấu vất vả để đạt được trong thời gian còn làm việc ở Nhà Trắng. Tệ hơn nữa, họ đang sử dụng những mô thức mà tôi đã nỗ lực giũ bỏ. (Tất nhiên, tôi còn cảm thấy khó chịu hơn khi được
1 Điều đặc biệt quan trọng là nêu lên đây nỗ lực của Quỹ tiền tệ quốc tế nhằm làm mất uy tín của tôi hơn là tham gia vào một cuộc tranh luận mang tính trí tuệ, về cả thời gian tôi phục vụ với tư cách chuyên viên kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới và sau đó. IMF cố tạo ra ấn tượng là những điều tôi viết trong Toàn cầu hóa và những mặt trái là sự khởi đi từ những gì tôi đã tuyên bố trong những năm làm việc tại Ngân hàng. Không có gì đi xa sự thật hơn thế. (Tôi cần phải biết ơn IMF về phản ứng quyết liệt của họ đối với quyển sách của tôi, vì nhờ thế, sách của tôi bán chạy ở trên thế giới – thậm chí một nhà xuất bản trong nước còn đăng phần trích dẫn bài công kích của IMF trên bìa sách).
12
LỜI NÓI ĐẦU
biết rằng chính Bộ Ngân khố của ông Clinton cũng đang tiến hành những chính sách này).
Công cuộc nghiên cứu của tôi đã chỉ ra những nhược điểm cơ bản và sâu sắc trong các vấn đề kinh tế của IMF, trong “trào lưu chính thống thị trường”, khi tin rằng chính thị trường mang lại hiệu quả kinh tế. Sự nhất quán có tính trí tuệ – nhất quán với công trình học thuật ban đầu của tôi – buộc tôi nói lên nỗi băn khoăn là những chính sách mà họ đang phát động, như ở Đông Á chẳng hạn, chỉ có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Nếu tôi không làm đến nơi đến chốn thì điều đó có nghĩa là tôi đã xao lãng trách nhiệm của mình.
Những gì mà tôi đã phấn đấu thực hiện trong thời gian còn làm việc dưới chính quyền Clinton chẳng những có liên quan đến người Mỹ mà còn với cả phần còn lại của thế giới nữa. Khi chuyển từ Nhà Trắng đến làm việc tại Ngân hàng Thế giới, tôi tiếp tục cổ súy cho sự cân bằng đúng mực giữa các lĩnh vực tư và công, và đề ra những đường lối nhằm quảng bá cho sự bình đẳng và tình trạng việc làm đầy đủ. Những vấn đề mà tôi đã nêu lên trong thời gian làm việc tại Ngân hàng Thế giới – từng được nhiều nhà kinh tế tại đây đón nhận một cách nồng nhiệt – chính là những vấn đề tôi đã đề cập đến trong tác phẩm Toàn cầu hóa và những mặt trái.
Những cảm xúc mạnh mẽ phát xuất từ các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cùng thời kỳ quá độ đầy gian khó sang nền kinh tế thị trường ở một số nước nay cũng đã phai nhạt. Ngày nay, chúng ta có thể nhìn những sự kiện này một cách bình thản hơn, và như tôi đã trình bày ở chương 1, trong những vấn đề mấu chốt, nổi lên một sự đồng thuận phù hợp với những ý tưởng đã được nói đến trong tác phẩm Toàn cầu hóa và những mặt trái. Quyển sách đã giúp làm thay đổi cuộc tranh luận về việc nên định hình lại toàn cầu hóa như thế nào.
13
vận hành Toàn cầu hóa
Một số ý tưởng trong sách nay đã được chấp nhận rộng rãi, ngay cả khi IMF công kích quan điểm của tôi cho rằng việc tháo khoán các nguồn tư bản đầu cơ là một việc làm vô cùng liều lĩnh. Tất nhiên, khi những cuộc tranh cãi liên tục nổ ra giữa cánh Tả và cánh Hữu tại nước Mỹ hoặc một nơi nào đó lên tiếng nhắc nhở chúng ta, thì vẫn còn đó những bất đồng lớn lao về cả các vấn đề kinh tế lẫn các giá trị cơ bản. Thật vậy, một trong những chỉ trích quan trọng của tôi đối với các định chế kinh tế quốc tế là họ đã bất chấp hoàn cảnh và chỉ ủng hộ một quan điểm kinh tế đặc biệt – quan điểm mà theo tôi là đã sai lầm, theo nhiều cách khác nhau.
Quyển sách này phản ánh niềm tin của tôi vào các tiến trình dân chủ; tin rằng một tập thể công dân có hiểu biết có thể kìm chế sự lạm dụng những quyền lợi tài chính đặc biệt của doanh nghiệp đang khống chế tiến trình toàn cầu hóa; tin rằng những công dân bình thường ở các nước công nghiệp tiên tiến, cũng như ở thế giới đang phát triển, cùng chia sẻ với nhau mối quan tâm chung trong việc vận hành toàn cầu hóa. Tôi hy vọng quyển sách này cũng như quyển trước, sẽ giúp làm thay đổi những cuộc tranh luận về toàn cầu hóa – và sau đó, làm biến đổi những tiến trình chính trị sẽ định hình cho toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là lĩnh vực mà một số cuộc xung đột xã hội quan trọng đã nổ ra, trong đó có những xung đột về giá trị cơ bản. Trong số những xung đột quan trọng nhất, có xung đột về vai trò của chính phủ và thị trường.
Các nhà bảo thủ thường viện dẫn đến “bàn tay vô hình” của Adam Smith; một ý niệm cho rằng thị trường và sự theo đuổi quyền lợi riêng tư sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, như có sự dẫn đắt của một bàn tay vô hình. Thậm chí nếu họ thừa nhận là bản thân thị trường không mang lại một sự phân phối lợi tức có thể chấp nhận được về mặt xã hội, thì họ sẽ lập luận là cần
14
LỜI NÓI ĐẦU
phải tách biệt vấn đề hiệu quả kinh tế với sự công bằng. Trên quan điểm bảo thủ đó, kinh tế học chỉ nhắm vào hiệu quả, còn những vấn đề về tính công bằng (vốn cũng như sắc đẹp, thường tùy vào nhãn quan của người quan sát) thì xin hãy dành cho chính trị. Ngày nay, sự bảo vệ về mặt học thuật dành cho trào lưu chính thống thị trường đã không còn nữa1. Cuộc nghiên cứu của tôi về thông tin kinh tế cho thấy một khi mà thông tin không đạt đến mức hoàn hảo, đặc biệt khi xảy ra những bất đối xứng về mặt thông tin – trong đó một vài người hiểu hay biết được những vấn đề mà người khác không hiểu / không biết (nói cách khác là luôn luôn không hiểu) – thì lý lẽ cho rằng bàn tay vô hình có vẻ như vô hình là lý lẽ không còn tồn tại nữa2. Không có những quy định và sự can thiệp thích đáng của chính phủ, các thị trường không mang lại hiệu quả kinh tế được3.
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã nhìn thấy hình ảnh minh họa đầy ấn tượng về những nhận thức mang tính lý thuyết
1 Tôi cần phải nói rõ: trong lúc nền giáo dục cơ bản về mặt trí tuệ bị tách khỏi trào lưu chính thống thị trường, các nhà bình luận báo chí, các chuyên gia – và đôi khi, có cả một vài nhà kinh tế – vẫn còn nói đến “khoa học” kinh tế nhằm bảo vệ lập trường của họ.
2 Cuộc nghiên cứu này được nhắc đến khi tôi được tặng thưởng giải Nobel. 3 Xem bài Phí tổn hoặc lợi lộc dành cho thành phần thứ ba trong kinh tế với thông tin không hoàn hảo và các thị trường không hoàn chỉnh của Bruce Gre enwald và Joseph E. Stiglitz đăng trong Tập san hàng quý về các vấn đề kinh tế tập 101, số 2 (5.1986), trang 229-264 (*)
(*) Nguyên văn tựa bài Externalities in Economies with Imperfect Information and Incomplete Markets, trong đó, “Externalities” được định nghĩa là những phí tổn hay lợi lộc phát sinh từ một vụ giao dịch kinh tế mà các thành phần “bên ngoài” phải gánh chịu hay được hưởng. (In economics, an externality is a cost or benefit from an economic transaction that parties “external” to the transaction bear. Externalities can be either positive, when an external benefit is generated, or negative, when an external cost is imposed upon others) (ND)
15
vận hành Toàn cầu hóa
này. Như tôi đã miêu tả trong tác phẩm Những năm 90 đầy biến động1, việc theo đuổi quyền lợi cá nhân của các vị giám đốc điều hành, các viên chức kế toán, và các ngân hàng đầu tư không mang lại hiệu quả kinh tế, mà chỉ dẫn đến một chu kỳ kinh tế đi kèm bởi những công cuộc đầu tư ồ ạt không đúng chỗ. Một chu kỳ kinh tế, khi đã bị đổ vỡ, thì gần như lúc nào cũng dẫn đến sự suy thoái.
Nhìn chung, ngày nay, nếu các nhà chính trị không hiểu, thì ít nhất các nhà kinh tế cũng hiểu được những giới hạn của thị trường. Những xì-căng-đan xảy ra vào thập niên 90 tại châu Mỹ và những nơi khác đã xô ngã tượng đài “Nền tài chính và chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ” rơi khỏi bệ, nơi nó đã đứng vững trong một thời gian dài. Nói rộng ra, quan điểm của phố Wall thường được hiểu một cách thiển cận, nay được xác định là đã đi ngược lại với xu hướng phát triển vốn đòi hỏi những suy nghĩ và hoạch định dài hạn.
Cũng có một nhận thức đang ngày càng phổ biến cho rằng không chỉ có một hình thức tư bản chủ nghĩa, không chỉ có một đường lối “đúng đắn” trong việc vận hành nền kinh tế. Chẳng hạn có những dạng kinh tế thị trường – như nền kinh tế của Thụy Điển vẫn duy trì sự phát triển bền vững – hướng đến những xã hội hoàn toàn khác biệt nổi bật với sự chăm sóc sức khỏe và giáo dục tốt hơn và ít bất công hơn. Trong lúc mô hình của Thụy Điển không thể vận hành tốt ở những nơi khác, hoặc có thể không phù hợp với một quốc gia đang phát triển riêng rẽ nào đó, thì sự thành công của nó chứng tỏ rằng những hình thức kinh tế thị trường khác cũng có hiệu quả. Và khi có những biện pháp thay thế và lựa chọn, nên đặt tiến trình chính trị dân
1 Joseph E. Stiglitz, Những năm 90 đầy biến động (New York: W.W. Norton, 2003)
16
LỜI NÓI ĐẦU
chủ – thay vì các chuyên gia kỹ thuật – vào vị trí trung tâm của mọi quyết định. Một trong những chỉ trích của tôi đối với các định chế kinh tế quốc tế là họ cố cho rằng không có sự thỏa hiệp – một loạt chính sách riêng rẽ đủ làm cho mọi người sống khá hơn – trong khi bản chất của kinh tế là sự chọn lọc; là có những biện pháp thay thế, có biện pháp làm lợi cho một số nhóm nào đó (như các nhà tư bản ngoại quốc chẳng hạn) nhờ sự chi tiêu của người khác, có biện pháp tạo ra nguy cơ cho một số nhóm (như giới công nhân) trước lợi thế của kẻ khác.
Trong số những chọn lựa chủ yếu ở mọi xã hội, có vai trò của chính phủ. Sự thành công về mặt kinh tế đòi hỏi phải tạo nên lực cân bằng giữa chính phủ và thị trường. Vậy thì chính phủ nên cung ứng những dịch vụ nào? Liệu có những chương trình trợ cấp công cộng nào không? Chính phủ có nên khuyến khích các khu vực đặc biệt bằng sự khích lệ không? Họ cần chấp nhận những quy định nào để bảo vệ công nhân, người tiêu dùng, và môi trường sống? Hẳn nhiên là sự cân bằng này biến đổi theo thời gian, và khác biệt nhau từ nước này sang nước khác. Nhưng tôi sẽ biện giải rằng toàn cầu hóa, khi được thúc đẩy, thường khiến cho chúng ta gặp nhiều khó khăn hơn khi cần đạt đến sự cân bằng cần thiết.
Trong lúc những người phê bình toàn cầu hóa đã tỏ ra đúng đắn khi cho rằng nó đã được sử dụng để đề ra một loạt những giá trị đặc biệt, tôi hy vọng có thể chứng minh rằng không cần thiết phải như thế. Toàn cầu hóa không nhất thiết có hại cho môi trường, làm gia tăng sự bất bình đẳng, làm suy yếu tính đa dạng văn hóa và nâng cao quyền lợi của các doanh nghiệp qua việc mưu cầu hạnh phúc cho những công dân bình thường. Trong Vận hành toàn cầu hóa, tôi sẽ chứng minh làm thế nào toàn cầu hóa khi được vận dụng một cách phù hợp, như đã từng được vận dụng trong sự phát triển thành công ở nhiều nước
17
vận hành Toàn cầu hóa
Đông Á, có thể làm được nhiều điều để mang lợi ích lại cho cả những nước đang phát triển và đã phát triển trên thế giới. Thái độ đối với toàn cầu hóa, cùng những thất bại và bất công có liên quan đến cung cách vận hành toàn cầu hóa, đã tạo ra một cuộc trắc nghiệm tâm lý cho cả đất nước lẫn dân tộc sống trên đó, biểu lộ những niềm tin và thái độ chủ yếu của họ, quan điểm của họ về vai trò của chính phủ và thị trường, tầm quan trọng mà họ gán cho công bằng xã hội, và sự quan tâm đặc biệt của họ đến những giá trị phi kinh tế.
Các nhà kinh tế không coi trọng việc giảm thiểu những bất công về lợi tức thường có khuynh hướng cho rằng những hành động mà chính phủ chọn lựa nhằm làm giảm thiểu bất công quá tốn kém, thậm chí có thể phản tác dụng. Những nhà kinh tế “thị trường tự do” này cũng có khuynh hướng tin rằng những thị trường đó đạt được hiệu quả mà không cần có sự can thiệp của chính phủ, và cách tốt nhất có thể giúp đỡ người nghèo đơn thuần chỉ là cứ để cho nền kinh tế phát triển – bằng cách này hay cách khác, phúc lợi sẽ được rót xuống cho người nghèo. (Thật thú vị khi những niềm tin như thế vẫn tồn tại, ngay cả khi các công trình nghiên cứu kinh tế đã làm lung lay nền tảng tinh thần của chúng).
Mặt khác, những ai, cũng như tôi, cho rằng thị trường thường không tạo ra được những kết quả hữu hiệu (gây ra quá nhiều ô nhiễm và có quá ít công trình nghiên cứu cơ bản chẳng hạn), những ai cảm thấy lo lắng bởi những bất công về lợi tức và sự tăng cao của đói nghèo, cũng sẽ tin rằng làm giảm thiểu sự bất công ít tốn kém hơn so với dự đoán của các nhà kinh tế bảo thủ. Những ai lo ngại về bất công và nghèo đói cũng sẽ nhìn thấy cái giá lớn lao phải trả khi không giải quyết vấn đề liên quan đến các hậu quả xã hội, trong đó có sự thờ ơ, bạo lực và những xung đột xã hội. Họ cũng lạc quan nhiều hơn về khả năng có sự can
18
LỜI NÓI ĐẦU
thiệp của chính phủ; trong khi đôi lúc, hoặc thậm chí thường xuyên, chính phủ tỏ ra không hữu hiệu như người ta mong đợi thì cũng có những trường hợp thành công đáng kể, phần nhiều sẽ được tôi bàn bạc ở những trang tiếp sau. Mọi định chế của con người đều không hoàn hảo, và thử thách của mỗi chúng ta là làm sao rút tỉa bài học từ những thành công và thất bại đó.
Quan điểm về tầm quan trọng của việc đối phó với bất công và nghèo đói phản ánh trong những cái nhìn khác nhau về nguồn gốc của chúng. Nói chung, những ai quan tâm đến sự bất công sẽ thấy phần nhiều là do không gặp vận may – cái vận may được sinh ra với những gien tốt hoặc cha mẹ giàu có (gọi là “xổ số tinh trùng”: “sperm lottery”)1, hoặc vận may mua được một mảng bất động sản đúng vị trí và đúng thời điểm (ngay trước lúc giá dầu tăng cao hay trước lúc bùng nổ giá bất động sản chẳng hạn)2. Những người ít ưu tư hơn thì cho rằng sự giàu có là phần thưởng của sự làm việc cật lực. Theo cách nhìn này, sự tái phân phối lợi tức chẳng những không khích lệ sự lao động và tiết kiệm mà còn gần như phi đạo lý, bởi vì như thế là đã tước bỏ những phần thưởng chính đáng của con người.
Song song với những lập trường này là quan điểm về vô số những vấn đề khác. Những ai quan tâm đến hiệu quả kinh tế nhiều hơn là sự bất công thường có khuynh hướng ít chú trọng đến những giá trị phi kinh tế như công bằng xã hội, môi trường,
1 Một cách diễn đạt của nhà từ thiện George Soros.
2 Matthew Miller, Hai phần trăm giải pháp: xác định những vấn đề của nước Mỹ theo cách mà các nhà Tự do và Bảo thủ có thể yêu chuộng (New York: PublicAffairs, 2003). Đấy là cách Miller đề cập đến vấn đề trong phần mở đầu quyển sách của ông: “Trước hết, chúng ta dừng lại và đặt để một sự chuẩn bị nho nhỏ về mặt triết lý bằng cách khảo sát vai trò rộng lớn của sự may mắn trong đời sống, và làm thế nào mà sự hiểu biết một cách nghiêm túc điều may rủi trước khi sinh ra đời có thể mang lại sự đồng thuận mà chúng ta cần có để tiến bộ”.
19
vận hành Toàn cầu hóa
tính đa dạng văn hóa, sự chăm sóc sức khỏe phổ quát, và sự bảo vệ người tiêu dùng. (Tất nhiên là có nhiều ngoại lệ – chẳng hạn như những người bảo thủ thường lo sợ cho môi trường).
Tôi nhấn mạnh những mối liên hệ giữa các quan điểm kinh tế và văn hóa để lưu ý là chúng quan trọng như thế nào đối với những người được chúng ta giao cho vai trò chủ chốt trong việc đưa ra những quyết định về kinh tế. Nếu chúng ta ủy thác quyền quyết định cho “các nhà bảo thủ”, điều gần như không thể tránh khỏi là họ sẽ đưa ra những chính sách kinh tế và quyết định phản ánh quyền lợi chính trị và các giá trị văn hóa của họ1. Hiển nhiên là quyển sách này phản ánh những phán đoán và đánh giá của chính tôi; ít nhất tôi cũng hy vọng là chúng trong sáng và trình bày được cả hai phía trong cuộc tranh luận về kinh tế đang tiếp diễn.
Cứu vãn toàn cầu hóa
từ những người ủng hộ nó
Khoảng 70 năm về trước, trong cuộc Đại Suy Thoái, nhà kinh tế học người Anh là John Maynard Keynes đề ra lý thuyết về nạn thất nghiệp nhằm làm rõ việc chính phủ đã hành động như thế nào để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ và phát triển cho nền kinh tế. Ông đã bị các nhà bảo thủ lăng mạ vì họ coi đề xuất của ông là cách làm gia tăng vai trò của chính phủ. Họ coi những khiếm hụt ngân sách chắc chắn sẽ đi kèm với một cuộc suy thoái như một cơ hội để cắt giảm các chương trình
1 Cũng vì lẽ ấy, người ta không thể ủy thác những quyết định cơ bản mang tính xã hội đó cho các nhà kỹ trị. Một lời chỉ trích quan trọng về toàn cầu hóa được đưa ra thảo luận trong quyển sách này, đó là nó [toàn cầu hóa] được dùng để “phi chính trị hóa” những quyết định hoàn toàn có tính cách chính trị.
20
LỜI NÓI ĐẦU
hoạt động của chính phủ. Nhưng lúc đó, để cứu vãn hệ thống tư bản, Keynes đã làm nhiều việc hơn tất cả các nhà tài phiệt theo chủ trương duy thị trường nhập lại. Tiếp theo khuyến cáo của các nhà bảo thủ, cuộc Đại Suy Thoái sẽ còn tồi tệ hơn; nó sẽ kéo dài hơn, nặng nề hơn, và sẽ đòi hỏi sự thay thế chủ nghĩa tư bản. Vì những lẽ đó, tôi tin rằng nếu chúng ta không công nhận và giải quyết những vấn đề của toàn cầu hóa, sẽ khó mà duy trì đà phát triển như hiện nay.
Toàn cầu hóa cũng như phát triển, là điều không thể tránh được – ngay cho dù đằng sau nó tiềm tàng những thế lực chính trị và kinh tế mạnh mẽ. Giữa hai cuộc Đại chiến thứ nhất và thứ hai, với phần lớn những biện pháp đã đưa ra, cả bước đi lẫn sự mở rộng toàn cầu hóa đã bị chậm lại, và thậm chí bị đảo ngược. Chẳng hạn các số liệu về mậu dịch, như tỉ lệ tăng trưởng GDP, hiện đang sút giảm1. Nếu toàn cầu hóa dẫn đến sự hạ thấp mức sống của số đông hay phần lớn công dân của một nước, và nếu nó làm tổn hại những giá trị văn hóa cơ bản, thì khi đó sẽ có những yêu cầu về mặt chính trị nhằm làm chậm lại hoặc chấm dứt toàn cầu hóa.
Tất nhiên con đường toàn cầu hóa sẽ được thay đổi, không những do sức mạnh của ý tưởng và kinh nghiệm (chẳng hạn ý tưởng về việc liệu sự tự do hóa thương mại và thị trường tư bản có làm gia tăng sự phát triển hay không, và kinh nghiệm về những cải cách hiện nay như thế nào) mà còn do những biến động toàn cầu nữa. Trong những năm vừa qua, thảm họa ngày 11.9 và cuộc chiến chống khủng bố, cuộc chiến tại Iraq, sự phát triển của hai nền kinh tế Trung Quốc và ấn Độ, tất cả đã làm thay đổi ý nghĩa các cuộc tranh luận về toàn cầu hóa theo những chiều hướng mà tôi sẽ thảo luận dưới đây.
1 Như chúng tôi sẽ giải thích ở chương 3, những thế lực kinh tế tiềm ẩn của toàn cầu hóa cũng có thể thay đổi theo thời gian, khi thành phần cấu thành sản xuất và thương mại thay đổi.
21
vận hành Toàn cầu hóa
Quyển sách này sẽ đề cập đến sự kiện những yếu tố chính trị và kinh tế đã được sử dụng như thế nào để định hướng cho hệ thống kinh tế. Các nhà kinh tế tin vào những vấn đề đáng khích lệ đó. Có những thời cơ rất đáng khích lệ – và lớn lao nữa – có thể giúp định hình các tiến trình chính trị và hệ thống kinh tế theo chiều hướng có lợi cho một số người nhờ vào sự chi tiêu của nhiều người.
Nói rộng ra, tiến trình dân chủ có thể giới hạn quyền lực của những nhóm quyền lợi đặc biệt. Chúng ta có thể trả lại giá trị đạo đức cho kinh doanh. Việc quản lý doanh nghiệp cần công nhận quyền lợi không những của cổ đông mà còn của những ai khác cũng bị ảnh hưởng bởi những hoạt động của doanh nghiệp nữa1. Một tập thể công dân dấn thân và được giáo dục tốt có thể biết cách vận hành toàn cầu hóa, hoặc ít nhất cũng hành động tốt hơn, và có thể đòi hỏi các nhà lãnh đạo chính trị của họ điều chỉnh toàn cầu hóa một cách phù hợp nhất. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ biến ước vọng đó thành hiện thực.
1 Đó là những quan điểm đã được áp dụng cho việc quản lý doanh nghiệp tại nhiều nước châu Âu. Như tôi sẽ lưu ý, những quan điểm được diễn đạt ở đây cũng hợp lý như chúng có thể dùng diễn đạt với những người không có khả năng chuyên môn, những quan điểm có tính tranh luận cao – đặc biệt trong giới học thuật Mỹ. Có một số điều kiện cực đoan, từ đó, người ta có thể nhìn thấy hành vi tận dụng tối đa các giá trị (hay lợi nhuận) của các doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả kinh tế, và chính những kiểu mẫu cực đoan này đã được nhiều tác phẩm kinh tế học tập trung đề cập đến. Nhưng nếu thông tin không hoàn hảo hoặc một bộ phận thị trường không hoàn chỉnh, sự tận dụng tối đa phúc lợi của cổ đông không dẫn đến cả hiệu quả kinh tế lẫn phúc lợi nói chung. Chẳng hạn như hãy xem Sanford J. Grossman và Joseph E. Sti glitz, trong “Về sự tận dụng tối đa giá trị và các mục tiêu thay thế của doanh nghiệp” trong Tập san Tài chính, tập 32, số 2 (5.1977), trang 389-402.
22
LỜI CẢM TẠ
LỜI CẢM TẠ
Suốt bốn năm qua kể từ ngày tôi viết tác phẩm Toàn cầu
hóa và những mặt trái, danh sách những người mà tôi chịu ơn vì những hiểu biết về toàn cầu hóa ngày một dài thêm lên. Ngoài những vị ở các định chế kinh tế quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới, mà tôi đã có ghi trong quyển sách này, tôi thấy cần phải thêm tên của các ông Nick Stern và Francois Bourguignon, những người đã tiếp nối tôi trong cương vị chuyên viên kinh tế cao cấp ở Ngân hàng Thế giới, và đã cùng tôi tiếp tục tham gia các cuộc thảo luận về tiến trình phát triển. Tôi cũng xin cảm ơn ông Supachai Panitchpakdi, nguyên Chủ tịch Tổ chức Thương mại thế giới, người đã cùng tôi thảo luận rất nhiều về hướng đi của các vòng đàm phán phát triển; cảm ơn Ngài Leif Pagrotsky, Bộ trưởng Giáo dục Thụy Điển, khi còn làm Bộ trưởng Thương mại, đã ở tuyến đầu của công cuộc bảo vệ một chế độ mậu dịch công bằng hơn; cảm ơn ông Pascal Lamy, nguyên Cao ủy Liên minh châu Âu (EU) phụ trách thương mại (nay là lãnh đạo của WTO), đặc biệt trong các cuộc thảo luận về sáng kiến “Tất cả mọi thứ trừ vũ khí”; cảm ơn ông Kemal Dervis, người mà tôi đã sát cánh tại Ngân hàng Thế giới, nay đã trở thành người lãnh đạo của Chương trình Phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP); và cảm ơn ông Juan Somavia, lãnh đạo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), người đã triệu tập Ủy ban thế giới về tầm mức xã hội của Toàn cầu hóa,
23
vận hành Toàn cầu hóa
và đã công bố báo cáo thể hiện một cột mốc quan trọng trong sự thay đổi quan điểm về toàn cầu hóa.
Khi chuẩn bị biên soạn quyển sách này, tôi đã đi thăm lại nhiều nước đã từng đến thăm, từng nghiên cứu và viết về chúng trước đây – trong đó có Argentina, Ethiopia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Colombia, Philippines, Indonesia, Mexico, Việt Nam, Ecuador, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Brazil – để nhìn xem mọi sự đã thay đổi như thế nào. Tôi cũng đã quay trở lại một vài nước mà tôi chỉ mới vừa thăm trước đó không lâu, như Bangladesh và Nigeria, cũng như vài nước trước đó tôi chưa có cơ hội đến thăm như Bolivia, Madagascar, Venezuela, và Azerbaijan. Tôi mắc nợ với nhiều viên chức chính phủ (từ Thủ tướng hay Tổng thống đến các Bộ trưởng Tài chính và các cố vấn kinh tế của họ), với các học giả và các nhà doanh nghiệp, và với những ai hoạt động trong cộng đồng những nhà từ thiện, trong hội đoàn dân sự (phi chính phủ) đã cống hiến một cách thật hào phóng thời giờ quí báu của họ. Nhiều vị sẽ thấy ý tưởng của mình được phản ánh trong các cuộc thảo luận ở đây.
Trong những ý tưởng khác nhau được trình bày ở đây, nhiều ý tưởng đã được thảo luận và trình bày tại các cuộc hội thảo khắp thế giới. Tôi đặc biệt mong được cảm ơn ông George Papandreou, nguyên Ngoại trưởng Hy Lạp, người đã triệu tập một cuộc hội thảo thường niên dành cho các học giả và lãnh tụ chính trị (Symi Symposium), trong đó các vấn đề về toàn cầu hóa thường được đưa lên hàng đầu; cảm ơn Viện hàn lâm khoa học xã hội Tòa thánh Vatican, nơi đã từng thảo luận một số ý tưởng về công nợ; cảm ơn khối Thịnh vượng chung, nơi đã yêu cầu tôi cùng với ông Andrew Charlton thuộc Trường kinh tế học London thực hiện cuộc nghiên cứu xem nên tiến hành một vòng đàm phán phát triển thương mại thực sự như
24
LỜI CẢM TẠ
thế nào. Khối Thịnh vượng chung cũng là nơi tài trợ cho cuộc nghiên cứu này. Tôi mong được cảm ơn ông Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc, các vị Bộ trưởng Tài chính thuộc khối Thịnh vượng chung, Tổ chức thương mại thế giới, Trung tâm phát triển toàn cầu, và Ngân hàng Thế giới, đã mời tôi trình bày những phát hiện trong cuộc nghiên cứu này. Tôi cũng được biết rõ là những ý tưởng trong mỗi chương sách đã được chấp nhận rộng rãi trong các buổi hội thảo và các hội nghị quốc tế diễn ra khắp thế giới. Các ý tưởng về sự cải tổ hệ thống tài chính toàn cầu được trình bày tại các hội nghị của Ủy ban Kinh tế Xã hội LHQ, Hiệp hội kinh tế Hoa Kỳ, tổ chức tại Boston vào tháng 1 năm 2006, tại một cuộc hội thảo diễn ra ở Thụy Điển (với George Soros) vào tháng 12.2001, và tại cuộc hội nghị thường niên của Hiệp hội các nhà kinh tế Tây Ban Nha ở La Coruna tháng 9.2005. Các vấn đề thuộc về chế độ sở hữu trí tuệ và các đề xuất cải cách đã được thảo luận tại một hội nghị cấp Bộ trưởng các quốc gia kém phát triển nhất do Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới tổ chức tại Seoul vào tháng 10.2004 và trong một hội nghị quốc tế tại trường Đại học Columbia vào tháng 6.2005 do tổ chức Sáng kiến đối thoại về chính sách (IDP) bảo trợ. Một số ý tưởng trong chương 1 được trình bày và thảo luận trong những bài giảng của Tanner (Tanner Lectures) trình bày tại trường Đại học Oxford vào mùa Xuân năm 2004. Tôi muốn cảm ơn Tổ chức CIDOB ở Barcelona, vào mùa Thu năm 2004 đã đồng bảo trợ một hội nghị về “sự đồng thuận hậu Đồng thuận Washington”, tại đây nhiều ý tưởng trên đã được triển khai xa hơn.
Quyển sách này bao hàm một loạt các ý tưởng. Nhiều chủ đề là những lĩnh vực mà tôi đã tham gia nghiên cứu trong hơn ba thập kỷ và trong khoảng thời gian đó, tôi đã tích lũy một khối lượng khổng lồ những món nợ tinh thần. Các cuộc thảo luận
25
vận hành Toàn cầu hóa
về chính sách thương mại trong chương 3 có công rất nhiều của ông Peter Orszag, người mà tôi đã cùng kề vai sát cánh nghiên cứu về các vấn đề bán phá giá trong thời gian tôi còn làm ở Hội đồng cố vấn kinh tế tại Nhà Trắng; và của các ông Alan Winters, Michael Finger, Bernard Hoeckman ở Ngân hàng Thế giới. Với những cuộc thảo luận về quyền sở hữu trí tuệ ở chương 4, tôi đặc biệt chịu ơn Jamie Love, Michael Cragg, Paul David, Giovanni Dosi, Mario Cimoli, Richard Nelson, Ha Joon Chang và tất cả những người tham gia vào các cuộc họp của lực lượng đặc nhiệm về quyền sở hữu trí tuệ của IDP, cũng như nhiều đồng tác giả với tôi trong lý thuyết tổng quát về sự đổi mới như Richard Glbert, Carl Shapiro, David Newbery và Partha Dasgupta. Nhiều người trong số họ cũng cùng nghiên cứu với tôi về những vấn đề tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Các ông Kevin Conrad và Geoff Heal ở Columbia và Thủ tướng Somares của đất nước Papau Tân Guinea cùng ông Bộ trưởng môi trường Rodriguez là những nhân vật trung tâm của Liên minh Rừng nhiệt đới được miêu tả ở chương 6. Các ông Michael Toman, Alan Krupnick và Ray Squitieri làm việc sát cánh với tôi tại Hội đồng cố vấn kinh tế về vấn đề nóng lên của Trái đất; ông Ruth Bell đủ nhiệt tình để đọc bản dịch đầu tiên của chương 6. Về chuyện chịu ơn, các vị David Hale, Barry Herman, Kunibert Raffer, Michael Dooley, Roberto Frenkel, Jurgen Kaiser và Susan George cùng tất cả những người tham gia vào các cuộc họp của bộ phận đặc nhiệm về công nợ của IDP đều xứng đáng với những lời tri ân của tôi. Đề xuất về quỹ dự trữ toàn cầu, Sáng kiến Chiang Mai, cùng toan tính bất thành trong việc thành lập Quỹ tiền tệ châu Á đã được thảo luận tại các cuộc hội nghị, hội thảo, các buổi nói chuyện tại Stockholm, Washington, và nhiều nơi khác, và tôi mong mỏi được cảm ơn những người tham gia các
26
LỜI CẢM TẠ
buổi hội thảo này, đặc biệt là George Soros, người đã xướng xuất một đề nghị tương tự của chính tôi. Tôi cũng đã học hỏi được nhiều điều từ những cuộc thảo luận với Andrew Sheng và Eusake Sakikabara về những chủ đề này.
Tôi biết được một cách trực tiếp những vấn đề liên quan đến thực tiễn ở các công ty dầu hỏa qua cuộc nghiên cứu đã thực hiện cho các bang Alaska, Texas, Louisiana và California và tôi rất biết ơn người cộng tác với tôi trong công trình này là ông Jeff Leitzinger. Thách thức trong việc duy trì tình trạng cạnh tranh thị trường là mối quan tâm lâu dài của tôi, trong nghiên cứu cả về mặt lý thuyết lẫn chính sách; Steven Salop, Jason Furman, Barry Nalebuff, và Jon Orszag thuộc trong số những người cộng sự đã có ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi.
Có một loại ơn nghĩa đặc biệt khác hơn nữa mà tôi muốn được nói lời cảm tạ. Cuộc tranh luận về toàn cầu hóa và vấn đề giới hạn của nền kinh tế thị trường, trong đó cuộc tranh luận về toàn cầu hóa trở thành phần cốt lõi, đã diễn tiến trong một thời gian dài. Có vài người (liệu tôi có thể nói là nhiều người không?) không đồng tình với những quan điểm được trình bày ở đây; tôi đã cố lắng nghe một cách cẩn trọng các lập luận của họ, đánh giá các chứng cứ, tìm hiểu các biểu mẫu, xác minh nguyên nhân dẫn đến sự bất đồng. Tôi đã trải qua nhiều năm ở Viện Hoover, một trong những nơi còn có những suy nghĩ mang tính bảo thủ trên thế giới, với những nhân vật sáng giá như các nhà khoa học từng đoạt giải Nobel Milton Friedman, George Stigler và Gary Becker. Tôi mong muốn được bày tỏ sự biết ơn tất cả những vị đó vì lòng kiên trì và sự khoan nhượng của họ. Tôi sợ rằng đôi lúc họ cảm thấy căng thẳng khi có ai hỏi họ về những gì được họ xem là hiển nhiên hoặc đã được chứng minh một cách chắc chắn. Tôi thường lo sợ là những
27
vận hành Toàn cầu hóa
người tham gia vào các cuộc tranh luận không quan tâm đến nhau, mỗi người cứ khư khư bảo vệ lập trường của mình. Họ chú tâm đến việc tập hợp lực lượng lại nhiều hơn là nhằm chiến thắng những người thay đổi lập trường. Tôi ngờ rằng tôi không thể chiến thắng nhiều người thay đổi lập trường, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã từng nỗ lực giải quyết vấn đề, tìm ra những khác biệt trong các giả định và nguyên lý tiềm ẩn.
Cuộc tranh cãi công khai về toàn cầu hóa diễn ra đặc biệt sinh động trong vòng nửa thập niên vừa qua với sự đóng góp quan trọng của Martin Wolf (Tại sao Toàn cầu hóa vận hành), Jagdish Bhagwati (Bảo vệ Toàn cầu hóa), Bill Easterly (Cuộc tìm kiếm sự phát triển đầy khó khăn), Jeff Sachs (Chấm dứt nghèo đói), và Thomas Friedman (Thế giới phẳng). Dù trong cuộc hay ngoài cuộc, chúng tôi cũng tiếp tục những cuộc tranh luận với nhau, tôi tin rằng tất cả chúng tôi đều có lợi – ngay cả khi chúng tôi không thể thuyết phục nhau về sự thích đáng của lập trường do mình đưa ra. Xã hội dân chủ tạo cho chúng tôi cơ hội – tôi muốn nói đến trách nhiệm – tham gia vào những cuộc tranh luận này, hy vọng chúng sẽ giữ một vai trò nào đó trong việc định hình chính sách công trong lĩnh vực quan trọng này.
Có bốn món nợ đặc biệt mà tôi muốn làm rõ. Thứ nhất là nợ với các đồng nghiệp của tôi trong tổ chức Sáng kiến đối thoại về chính sách, một mạng lưới các nhà kinh tế học đến từ thế giới phát triển và đang phát triển chuyên khảo sát những phương cách tiếp cận khác đối với sự phát triển và toàn cầu hóa, làm việc để tin chắc rằng những phương cách đó được lắng nghe tại các cuộc tranh luận công khai. Giữa lúc chần chừ trong việc chọn người, tôi sẽ trở nên tắc trách nếu không nhắc đến José Antonio Ocampo, nguyên lãnh đạo tổ chức CEPAL (Ủy ban về châu Mỹ Latin của LHQ), nay là Phó Tổng thư ký LHQ đặc trách kinh tế; K.S. Jomo, đương kim Phụ tá Tổng Thư ký
28
LỜI CẢM TẠ
LHQ về kinh tế; Deepak Nayyar, giáo sư kinh tế học tại trường Đại học Jawaharlal Nehru; Dani Rodrik, thuộc trường Đại học Harvard; Eric Berglof, nhà kinh tế hàng đầu thuộc Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD); Patrick Bolton, giáo sư về thương mại và kinh tế trường Đại học Columbia; Ha-Joon Chang thuộc trường Đại học Cambridge; Ricardo Ffrench-Davis, cũng thuộc CEPAL; Akbar Noman, người mà tôi đã cùng sát cánh nghiên cứu các vấn đề của châu Phi; và đặc biệt Shari Spiegel, giám đốc IPD. IPD đã nhận được sự hỗ trợ tài chính của công ty Ford, Charles Stewart Mott, John D. và Catherine T. MacArthur, và quỹ Rockefeller; Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA); văn phòng Tổng thư ký khối Thịnh vượng chung; Viện nghiên cứu xã hội mở; Quỹ anh em nhà Rockefeller; Cơ quan phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA); và Chương trình phát triển LHQ. Với tất cả những người, những tổ chức trên, tôi biết ơn sâu xa.
Món nợ thứ hai là với Bruce Greenwald, người đồng nghiệp của tôi tại Đại học Columbia, đã cùng tôi tiến hành những nghiên cứu tiên phong về kinh tế học truyền thông, và trong suốt bốn năm qua tôi đã cùng ông dạy môn Toàn cầu hóa và Thị trường. Bao giờ cũng vậy, Bruce thách thức các ý tưởng của tôi, làm giàu cách suy nghĩ của tôi, và đưa những quan điểm đặc sắc nhất vào từng khía cạnh của toàn cầu hóa. Ảnh hưởng của ông rõ ràng là có tính xuyên suốt, nhưng đặc biệt là ở chương 9.
Món nợ thứ ba là với Andrew Charlton, đồng tác giả bản báo cáo của chúng tôi tại khối Thịnh vượng chung, người mà tôi đã cùng làm việc gần gũi, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại.
Món nợ thứ tư là với trường Đại học Columbia và ông hiệu trưởng Lee Bollinger, người đã giúp cho trường tập trung sự chú ý vào những vấn đề của toàn cầu hóa, giúp cho trường
29
vận hành Toàn cầu hóa
trở thành một trung tâm toàn cầu về kiến thức và học tập, thành lập Ủy ban về tư tưởng toàn cầu hoạt động trong phạm vi trường Đại học và do tôi làm chủ tịch. Một số đồng nghiệp như Jeff Sachs và Merit Janow (hiện phục vụ trong ban kháng án của WTO) đã cùng nhau đưa ra lời cam kết cùng với giới học thuật trong một mối quan hệ sâu xa với thế giới chung quanh. Tính đa dạng của các sinh viên và giảng viên tại Đại học Columbia là một thế giới thu nhỏ của cả thế giới. Giống như bất cứ một trung tâm giáo dục nào, nó tạo ra một môi trường nhằm khuyến khích các cuộc tranh luận rộng rãi giữa những ý tưởng ganh đua với nhau. Tôi và quyển sách này được thừa hưởng nhiều lợi ích to lớn phát xuất từ những thách thức đối với ý tưởng của tôi.
Tôi mang ơn các vị phụ tá của tôi tại Đại học Columbia, trong đó có Jill Blacksford – và đặc biệt với Maria Papadakis vì đã có nhiều dịp thể hiện lòng tận tụy vượt ra ngoài mọi sự mong đợi. Tôi muốn cảm ơn các phụ tá nghiên cứu của tôi vì công việc vất vả của họ với quyển sách, trong đó có Hamid Rashid, Anton Korinek, Dan Choate, Josh Goodman, Megan Torfau, Jayant Ray, và Stephan Litschig. Sharon Cleary giúp việc nghiên cứu và biên tập và đảm trách công việc lớn lao là sắp xếp mọi việc ổn thỏa cho đến khi kết thúc. Alan Brown, Sheridan Prasso, và Gen Watanbe đã giúp biên tập bản thảo cuối cùng của quyển sách.
Ở Norton, nhà biên tập lâu năm của tôi là Drake McFeely đã hiểu rõ tầm quan trọng của quyển sách này ngay từ lúc khởi đầu và đã làm việc không mệt mỏi với hai bản thảo đầu tiên của tập bản thảo. Nhóm hỗ trợ – được dẫn dắt một cách thành thạo bởi Nancy Palmquist và Amanda Morrison, kể cả Allegra Huston, Brendan Curry, và Don Rifkin – đã thực hiện những điều kỳ diệu trong điều kiện một thời hạn chót ngặt
30
LỜI CẢM TẠ
nghèo. Và tôi đặc biệt cảm ơn Stuart Proffitt ở Penguin, nhờ có ông, ý tưởng về quyển sách này đã hình thành trong bữa ăn trưa và những lời phê bình chặt chẽ của ông về tập bản thảo thật vô giá.
Vợ tôi, cô Anya Stiglitz, đã tham gia từ buổi ban đầu. Cô vốn là một phóng viên đã trải qua nhiều năm trong thế giới đang phát triển, con mắt lão luyện của cô giúp tôi nhìn thấy rõ ràng hơn những gì đang diễn ra ở các nước này, và khi cùng đi du lịch với nhau nhiều tháng liền, tôi được nhìn thấy toàn cầu hóa đã tác động mỗi ngày đến đời sống của con người như thế nào – nhìn thấy bên ngoài những biên giới chật hẹp mà các môn học có tính lý thuyết đã vẽ ra. Sự thắc mắc của cô ấy về diễn biến của sự việc đã khiến tôi phải nỗ lực hơn để giải thích những ý nghĩa tiềm ẩn của vấn đề. Vả lại, cô ấy thậm chí còn khăng khăng với ý tưởng cho rằng có một thế giới khác, một thế giới trong đó toàn cầu hóa có thể gần đạt đến khả năng làm gia tăng phúc lợi của người nghèo – cô ấy muốn tôi vượt ra ngoài giới hạn của sự chẩn định các vấn đề nan giải để chỉ rõ cái thế giới đó đã hình thành như thế nào. Trong lúc đọc qua từng bản thảo và kiên trì biên tập nhiều lần, cô ấy muốn từ bỏ những ước muốn cao xa để đến với một công việc tầm thường, vất vả và thường tẻ nhạt là gọt dũa cho tập bản thảo này
31
Vận hành Toàn cầu hóa
vận hành Toàn cầu hóa
Chương 1
Có thể có một thế giới khác
Trên một khu vực rộng lớn ở ngoại ô Mumbai, các nhà hoạt
động từ khắp thế giới tụ hội về để tham dự Diễn đàn Xã hội Thế giới tổ chức vào tháng 1.2004. Lần đầu tiên diễn ra ở châu Á, diễn đàn tạo một cảm giác rất khác lạ so với lần tổ chức ở Porto Alegre, Brazil, trước đó bốn năm. Trên 100.000 người đã tham dự sự kiện kéo dài hàng tuần này, và cũng như chính đất nước Ấn Độ, cảnh tượng là một khối người đông đúc nhiều màu sắc đang chen vai thích cánh với nhau. Các tổ chức kinh doanh trong hội chợ sắp xếp nhân sự tại các quầy hàng bán đồ trang sức làm thủ công, các loại vải vóc nhiều màu sắc và đồ gia dụng. Những tấm biểu ngữ treo dọc theo các con đường mang dòng chữ “HANDLOOM LÀ NGUỒN CUNG CẤP NHÂN LỰC LỚN NHẤT Ở ẤN ĐỘ”. Những người diễu hành xếp theo đội hình, đi lẫn vào đám đông, tay đánh trống, miệng hô vang các khẩu hiệu. Các nhóm hoạt động người dalit (thành viên thuộc những đẳng cấp thường được coi là tiện dân trong xã hội Ấn Độ) mình đóng khố, đại biểu các tổ chức quyền công nhân và các hội đoàn phụ nữ, các tổ chức thuộc Liên Hiệp quốc và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) cùng tiếp xúc, gặp gỡ nhau. Hàng ngàn người tập trung trong các phòng họp dựng tạm to cỡ các nhà để máy bay để nghe loan
34
Có thể có một thế giới khác
báo chương trình nói chuyện của các diễn giả trong đó có cựu Tổng thống Ireland Mary Robinson (nguyên Cao ủy LHQ về quyền con người những năm 1997-2002) và ông Shirin Ebadi, người từng đoạt giải Nobel hòa bình. Trời nóng và ẩm, đám đông tản ra khắp nơi.
Nhiều cuộc trò chuyện đã diễn ra ở Diễn đàn Xã hội Thế giới. Có cuộc tranh luận về việc làm thế nào tổ chức lại các định chế đang hoạt động trên thế giới và kiềm chế bớt quyền lực của nước Mỹ. Tuy nhiên, có một mối quan tâm nổi bật hơn hết, đó là toàn cầu hóa. Người ta đồng tình với nhau là cần thiết phải thay đổi, điều này được tóm tắt trong khẩu hiệu của hội nghị: “Có thể có một thế giới khác”. Các nhà hoạt động tại hội nghị từng nghe những lời hứa hẹn về toàn cầu hóa – sẽ làm cho mọi người sống khá hơn; nhưng họ cũng đã nhìn thấy sự thật: trong lúc một số người sống khá hơn thật, thì những người khác trở nên nghèo khổ hơn trước. Trong con mắt của họ, toàn cầu hóa chiếm phần lớn của vấn đề hôm nay.
Toàn cầu hóa chứa đựng nhiều điều như: các luồng tư tưởng và tri thức quốc tế, việc chia sẻ các nền văn hóa, xã hội dân sự toàn cầu, và sự vận động môi sinh toàn cầu. Tuy nhiên, quyển sách này chỉ đề cập phần lớn đến toàn cầu hóa kinh tế, một lĩnh vực đòi hỏi sự hòa nhập kinh tế chặt chẽ hơn nữa giữa các quốc gia trên thế giới thông qua sự gia tăng các nguồn cung cấp hàng hóa và dịch vụ, vốn và cả lao động nữa. Người ta kỳ vọng nhiều vào toàn cầu hóa ở chỗ nó sẽ nâng cao mức sống trên thế giới; tạo điều kiện cho các nước nghèo tiếp cận với các thị trường bên ngoài để có thể bán hàng hóa, cho phép đầu tư nước ngoài du nhập để làm ra sản phẩm mới bán với giá rẻ, mở rộng biên giới để mọi người có thể đi ra nước ngoài học tập, lao động và gửi về nhà những khoản dành dụm để giúp gia đình và tài trợ những hoạt động kinh doanh mới.
35
vận hành Toàn cầu hóa
Tôi tin rằng toàn cầu hóa có khả năng mang lại phúc lợi to lớn cho cả thế giới đang phát triển và đã phát triển. Nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy nó đã không thể đạt đến khả năng này. Quyển sách này sẽ cho thấy vấn đề không chỉ với toàn cầu hóa không thôi mà còn về cách thức vận hành toàn cầu hóa nữa. Các nhà kinh tế đã lèo lái toàn cầu hóa, đặc biệt thông qua sự hạ giảm các chi phí liên lạc và vận chuyển. Nhưng các nhà chính trị đã định hướng nó. Luật chơi đã được thiết lập rộng rãi bởi các nước công nghiệp tiên tiến – và nhất là bởi những đặc lợi trong nội bộ những nước này – và không có gì đáng ngạc nhiên khi họ đã định hình toàn cầu hóa phù hợp với những lợi ich riêng tư của họ. Họ không tìm cách đặt ra những luật lệ công bằng, phớt lờ những luật lệ có thể nâng cao phúc lợi của những người đang sống trong những quốc gia nghèo khổ nhất trên thế giới.
Sau khi phát biểu tại Diễn đàn Xã hội Thế giới, ông Mary Robinson, ông Deepak Nayaar, Hiệu trưởng trường Đại học Delhi, ông Juan Somavia, chủ tịch Tổ chức Lao động Quốc tế, và tôi, thuộc số ít người từng tham gia Diễn đàn Kinh tế Thế giới tổ chức ở Davos, một khu nghỉ dưỡng có trượt tuyết của Thụy Sĩ, nơi những nhân vật ưu tú của thế giới tụ hội về để bàn định về tình hình thế giới. Ở thị trấn miền núi đầy tuyết phủ đó, những nhà lãnh đạo công nghiệp và tài chính trên thế giới đã có những quan điểm rất khác về toàn cầu cầu hóa so với những quan điểm mà chúng tôi nghe trình bày tại Mumbai.
Diễn đàn Xã hội Thế giới là một hội nghị mở rộng, nơi tụ hội nhiều người đến từ khắp nơi trên thế giới với mong muốn bàn bạc việc chuyển đổi xã hội và làm thế nào để biến phương châm “Có thể tồn tại một thế giới khác” thành hiện thực. Diễn đàn không có tổ chức nhất định, không tập trung, và sôi nổi
36
Có thể có một thế giới khác
một cách kỳ lạ – đấy là một cơ hội cho mọi người gặp nhau, nói lên tiếng nói của mình và liên lạc với những nhà hoạt động cùng chí hướng. Thông tin liên lạc cũng là một trong những lý do chính khiến những nhà hoạt động có uy thế trên khắp thế giới về tham dự một sự kiện chỉ dành cho những người được mời ở Davos. Các hội nghị ở Davos luôn là nơi thuận lợi để thăm dò các nhà lãnh đạo kinh tế trên thế giới. Mặc dù đây là dịp tụ hội chủ yếu của các nhà doanh nghiệp da trắng được bổ sung bởi các viên chức chính phủ và các nhà báo hàng đầu, trong những năm qua, danh sách số người được mời đã được mở rộng, bao gồm cả một số nghệ sĩ, nhà trí thức, và đại biểu các tổ chức phi chính phủ.
Ở Davos có sự thoải mái và một chút tự mãn. Nền kinh tế toàn cầu đã suy yếu từ khi có sự bùng nổ của làn sóng dot-com ở châu Mỹ, cuối cùng cũng hồi phục, và “cuộc chiến chống khủng bố” dường như bị kiềm chế. Cuộc hội tụ năm 2003 được đánh dấu bởi sự căng thẳng tột độ giữa nước Mỹ và phần còn lại của thế giới về cuộc chiến Iraq, và những hội nghị trước đó vẫn còn có những bất đồng về hướng điều hành toàn cầu hóa. Ở hội nghị năm 2004, mọi người cảm thấy khuây khỏa khi những căng thẳng đó ít nhất cũng đã được tiết chế. Hiện nay vẫn còn nỗi lo lắng về chủ nghĩa đơn phương của nước Mỹ, về sự kiện xứ sở hùng mạnh nhất thế giới áp đặt ý chí của họ lên các nước khác trong lúc vẫn rao giảng về dân chủ, về quyền tự quyết và về nhân quyền. Nhân dân ở các nước đang phát triển từ lâu nay vẫn lo ngại về việc các quyết định mang tính toàn cầu – những quyết định về kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến cuộc sống của họ – đã được hình thành như thế nào. Ngày nay, hình như cả phần còn lại của thế giới cũng lo lắng như vậy.
37
vận hành Toàn cầu hóa
Tôi đã đến tham dự các hội nghị thường niên ở Davos trong nhiều năm và luôn được nghe mọi người nói đến toàn cầu hóa với niềm phấn khởi to lớn. Điều tạo nên sức hấp dẫn ở hội nghị năm 2004 là sự chuyển biến nhanh chóng của các quan điểm. Nhiều người tham dự tự hỏi toàn cầu hóa có thực sự mang lại phúc lợi đầy hứa hẹn – ít nhất cho nhiều nước nghèo, hay không. Họ đã bị khuất phục bởi tình trạng bất ổn kinh tế đánh dấu sự kết thúc của thế kỷ 20, và họ lo sợ rằng liệu các nước đang phát triển có đương đầu nổi với những hậu quả của tình trạng này hay không. Sự biến đổi này là biểu tượng của những đổi thay lớn lao trong suy nghĩ về toàn cầu hóa đã diễn ra trong năm năm qua trên khắp thế giới. Vào thập niên 1990, cuộc thảo luận tại Davos nhắm vào những lợi ích của việc mở cửa thị trường quốc tế. Trong những năm đầu của thiên niên kỷ, người ta tập trung vào việc giảm thiểu sự nghèo khổ, nhân quyền và nhu cầu sắp xếp một nền thương mại công bằng hơn.
Tại một tiểu ban phụ trách thương mại ở Davos, sự bất đồng quan điểm giữa các nước phát triển và đang phát triển được đặc biệt ghi nhận. Một cựu viên chức ở Tổ chức Thương mại Thế giới cho rằng nếu sự tự do hóa thương mại – thể hiện bằng sự hạ giảm thuế biểu và các hàng rào mậu dịch khác – không làm tròn lời hứa gia tăng sự phát triển và giảm thiểu nghèo đói, đó là lỗi của các nước đang phát triển khi họ cần mở rộng thị trường hơn nữa cho mậu dịch tự do và đẩy mạnh toàn cầu hóa nhanh hơn. Nhưng một người Ấn Độ điều hành một ngân hàng tín dụng nhỏ đã nêu bật mặt trái của mậu dịch tự do tại Ấn Độ. Ông nói về những nông dân trồng đậu phộng không thể cạnh tranh nổi với các nhà nhập khẩu dầu cọ từ Malaysia. Ông cho biết những khó khăn chồng chất của các nhà doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đi vay tiền từ các ngân hàng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Trên khắp thế giới, các nước mở rộng
38
Có thể có một thế giới khác
khu vực ngân hàng cho các ngân hàng quốc tế lớn đã nhận ra rằng những tổ chức này thích giao dịch với các công ty đa quốc gia khác như Coca-Cola, IBM và Microsoft hơn. Trong sự cạnh tranh giữa các ngân hàng quốc tế lớn và hệ thống ngân hàng địa phương, tưởng như ngân hàng địa phương là những kẻ thua thiệt, thật ra những kẻ thua thiệt chính là những doanh nghiệp nhỏ tại địa phương lệ thuộc vào họ. Nỗi hoang mang của một số thính giả từng tin rằng sự hiện diện của các ngân hàng quốc tế rõ ràng sẽ tốt hơn cho mọi người cho thấy là những doanh nhân này rất ít chú tâm tới những lời than phiền tương tự xuất phát từ Argentina và Mexico, những nước mà tiền dành cho các công ty địa phương vay đã khô kiệt sau khi các ngân hàng của họ đã bị các ngân hàng nước ngoài lấn lướt vào thập niên 1990.
Ở cả Mumbai và Davos, người ta đã bàn bạc nhiều về sự cải cách. Tại Mumbai, cộng đồng quốc tế được yêu cầu thiết lập một hình thức toàn cầu hóa công bằng hơn. Còn ở Davos, các nước đang phát triển bị buộc phải giải quyết nạn tham nhũng, thực hiện tự do hóa thị trường và mở cửa cho các doanh nghiệp đa quốc gia có đại biểu tại hội nghị. Nhưng ở cả hai sự kiện trên, mọi người hiểu rằng cần phải làm một cái gì đó. Ở Davos, trách nhiệm được đặt ra cho các nước đang phát triển; còn ở Mumbai, trách nhiệm thuộc về toàn thể cộng đồng thế giới.
HAI BỘ MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA
Vào đầu những năm 1990, toàn cầu hóa được đón nhận với tất cả sự phấn khởi. Nguồn vốn chảy vào các nước đang phát triển tăng gấp 6 lần trong vòng 6 năm, từ năm 1990 đến năm 1996. Sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 1995
39
vận hành Toàn cầu hóa
– một mục tiêu đã được nhắm đến suốt nửa thế kỷ – mang lại dáng vẻ quyền lực của luật pháp trong thương mại quốc tế. Mọi người ở cả thế giới đã phát triển và đang phát triển đều tưởng mình là kẻ chiến thắng. Toàn cầu hóa là mang lại sự thịnh vượng chưa từng thấy cho mọi người.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi sự phản kháng mạnh mẽ đầu tiên đối với toàn cầu hóa – diễn ra tại Seattle vào tháng 12.1999, được xem là khởi đầu của một vòng đàm phán thương mại mới nhằm dẫn đến sự tự do hóa hơn nữa – đã khiến những người ủng hộ các thị trường mở khá bất ngờ. Toàn cầu hóa đã thành công trong việc hợp nhất con người trên khắp thế giới... để chống lại chính toàn cầu hóa. Công nhân xưởng máy ở Mỹ nhìn thấy công ăn việc làm của họ bị đe dọa bởi sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Nông dân ở các nước đang phát triển nhìn thấy công việc của họ bị đe dọa bởi ngô và những sản phẩm nông nghiệp được trợ cấp mạnh mẽ đến từ nước Mỹ. Công nhân ở châu Âu nhận thấy sự bảo vệ những công việc vốn khó tìm được đang bị vùi dập nhân danh toàn cầu hóa. Các nhà hoạt động chống bệnh AIDS nhìn thấy các thỏa hiệp thương mại mới làm tăng giá thuốc đến mức trở nên quá đắt đỏ đối với phần lớn thế giới. Các nhà môi sinh học cảm thấy toàn cầu hóa làm suy yếu những cuộc đấu tranh kéo dài hàng thập kỷ của họ nhằm thiết lập những quy tắc bảo tồn di sản tự nhiên của chúng ta. Những nước muốn bảo vệ và phát triển di sản văn hóa của chính họ nhìn thấy sự xâm phạm quá đáng của toàn cầu hóa. Những kẻ phản kháng này không chấp nhận, ít nhất về mặt kinh tế, lý luận cho rằng toàn cầu hóa cuối cùng sẽ làm cho mọi người được khá hơn.
Đã có nhiều báo cáo và tài liệu dành cho chủ đề toàn cầu hóa. Tôi cũng tham gia vào Ủy ban thế giới về những Khía cạnh Xã hội của Toàn cầu hóa được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
40
Có thể có một thế giới khác
thành lập năm 2001 (ILO ra đời năm 1919 tại Geneva nhằm kết hợp chính phủ, doanh nghiệp và giới lao động lại với nhau). Với sự đồng chủ tọa của Tổng thống Tanzania, Benjamin W. Mkapa và Tổng thống Phần Lan, Tarja Kaarina Halonen, ủy ban của chúng tôi phổ biến một bản báo cáo mang đậm tính hoài nghi vào năm 2004. Xin có mấy dòng góp phần tìm hiểu thế giới đã nghĩ như thế nào về toàn cầu hóa:
Tiến trình toàn cầu hóa hiện nay đang tạo ra những hệ quả không cân xứng giữa các quốc gia và trong phạm vi mỗi quốc gia. Sự thịnh vượng có đó, nhưng rất nhiều quốc gia và dân tộc đã không chia sẻ được những lợi ích của nó. Họ cũng có rất ít hoặc không có tiếng nói trong việc định hướng tiến trình này. Trong con mắt của phần đông phụ nữ và nam giới, toàn cầu hóa đã không thỏa mãn khát vọng đơn sơ và chính đáng nhằm có được công ăn việc làm tử tế và một tương lai khá hơn cho con cái họ. Nhiều người trong số họ phải sống trong tình trạng lơ lửng của một nền kinh tế tùy tiện không có được những quyền lợi hợp thức, và ở phần lớn những nước nghèo đang tồn tại một cách bất định bên lề của nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả trong những quốc gia thành công về mặt kinh tế, một số người lao động và cộng đồng cũng phải gánh chịu ảnh hưởng bất lợi của toàn cầu hóa. Trong lúc đó, cuộc cách mạng về thông tin trên thế giới đã nâng cao nhận thức về những dị biệt này... những bất cân xứng mang tính toàn cầu không thể chấp nhận được về mặt đạo đức và không thể duy trì về mặt chính trị1.
1 Ủy ban Thế giới về Tầm mức Xã hội của Toàn cầu hóa, Một Toàn cầu hóa công bằng: Tạo ra Cơ hội cho Mọi người (Geneva; Tổ chức Lao động Quốc tế.2004) trang x; có thể xem tại www.ilo.org/public/english/fairglobalization/ report/index.htm
41
vận hành Toàn cầu hóa
Ủy ban đã khảo sát 73 nước trên khắp thế giới. Và kết luận của họ rất đáng giật mình. Ở mọi miền trên thế giới ngoại trừ Nam Á, Hoa Kỳ, và Liên minh châu Âu (EU), tỉ lệ thất nghiệp đã gia tăng trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2002. Vào thời điểm báo cáo được công bố, số người thất nghiệp trên khắp thế giới đã lên đến con số 185,9 triệu người. Ủy ban cũng phát hiện 59% dân số thế giới sống trong những nước mà sự bất bình đẳng đang tăng cao1. Ngay cả ở phần lớn những nước phát triển, người giàu càng giàu hơn, trong lúc kẻ nghèo vẫn thường dậm chân tại chỗ trong cảnh nghèo của họ.
Nói tóm lại, toàn cầu hóa có thể giúp ích cho một số nước – GDP của họ, tức tổng lượng hàng hóa, dịch vụ tạo ra có thể tăng – nhưng nó đã không giúp ích cho phần lớn mọi người, kể cả trong những quốc gia kể trên. Điều đáng lo ở chỗ toàn cầu hóa có thể tạo nên những đất nước giàu có với những con người nghèo khổ sống trong đó.
Tất nhiên, những ai không hài lòng với toàn cầu hóa về mặt kinh tế thường không chống lại sự tiếp cận nhiều hơn với thị trường toàn cầu hoặc với sự mở rộng tri thức toàn cầu, những cái đó cho phép các nước đang phát triển tận dụng lợi thế của những khám phá và cách tân do các nước phát triển tạo ra. Ngược lại, chúng tạo ra năm mối lo:
⬥ Các luật chơi chi phối sự toàn cầu hóa không công bằng, đặc biệt nhắm vào lợi ích của những nước công nghiệp tiên tiến.
1 Ủy ban Thế giới về Tầm mức Xã hội của Toàn cầu hóa, Một Toàn cầu hóa công bằng: Tạo ra Cơ hội cho Mọi Người, dẫn trên, trang 44; và Giovanni Andrea Cornia và Tony Addison cùng Sampsa Kiiski, “Những thay đổi trong việc phân phối lợi tức và tác động của chúng trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai”, tài liệu thảo luận số 2003/28, tháng 3.2003 của Viện nghiên cứu kinh tế phát triển thế giới. Tình trạng bất công được đo lường bằng hệ số Gini, một trong những biện pháp đo lường chuẩn mực.
42
Có thể có một thế giới khác
Thật ra, một số thay đổi gần đây bất công đến nỗi chúng làm cho một vài nước nghèo nhất càng trở nên tồi tệ hơn. ⬥ Toàn cầu hóa nâng các giá trị vật chất lên trên các giá trị khác, chẳng hạn như mối quan tâm về môi trường hay về chính đời sống.
⬥ Cách vận hành toàn cầu hóa đã tước mất sự tự chủ của nhiều quốc gia đang phát triển, tước mất khả năng tự quyết định của họ trong những lĩnh vực then chốt có ảnh hưởng đến hạnh phúc của công dân xứ họ. Trong ý nghĩa này, nó đã làm suy yếu nền dân chủ.
⬥ Trong lúc những người ủng hộ toàn cầu hóa cho rằng mọi người sẽ được hưởng lợi về mặt kinh tế, có nhiều bằng chứng từ những quốc gia đã và đang phát triển cho thấy có nhiều người bị thua thiệt ở cả hai nơi.
⬥ Có lẽ điều quan trọng nhất là hệ thống kinh tế đang tạo sức ép lên các nước đang phát triển – trong một số trường hợp đã cưỡng bách họ – đã tỏ ra không phù hợp và thường gây ra những hậu quả cực kỳ tệ hại. Toàn cầu hóa không thể đồng nghĩa với Mỹ hóa đường lối kinh tế hoặc văn hóa như nó vẫn thường xảy ra – và chính điều đó đã gây ra sự phẫn nộ.
Mối quan tâm cuối cùng là vấn đề đụng chạm đến cả các nước đã phát triển và đang phát triển. Một nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức khác nhau – kinh tế thị trường kiểu Mỹ khác với những nước Bắc Âu, khác với kiểu mẫu Nhật Bản, và với kiểu mẫu xã hội châu Âu. Ngay cả những người sống tại các nước phát triển cũng lo sợ rằng toàn cầu hóa sẽ được sử dụng để đặt “kiểu mẫu tự do Anh-Mỹ” lên trên những kiểu mẫu khác – và ngay cả trong trường hợp kiểu mẫu Mỹ được thực thi tốt đẹp khi tính trên số liệu GDP, nó cũng không tốt đẹp ở nhiều khia cạnh khác, chẳng hạn như sự lâu bền (và
43
vận hành Toàn cầu hóa
theo lý luận của một số người, là chất lượng) của đời sống, sự triệt tiêu cảnh nghèo đói, hoặc thậm chí sự duy trì phúc lợi của những người thuộc giới trung lưu. Tiền lương thực sự ở Mỹ, nhất là của những người có mức lương thấp nhất, đã bị đình đốn từ hơn một phần tư thế kỷ nay, và thu nhập cao như hiện nay một phần do người Mỹ làm nhiều giờ hơn người châu Âu. Nếu toàn cầu hóa được sử dụng để lăng-xê một nền kinh tế thị trường theo kiểu Mỹ, thì nhiều nơi khác không chắc đã thích nó. Những nước thuộc thế giới đang phát triển đã từng lớn tiếng kêu ca – rằng toàn cầu hóa đã được sử dụng để lăng-xê một hình thức kinh tế thị trường cực đoan, và phản ánh một cách rõ nét những quyền lợi của doanh nghiệp nhiều hơn cả khi nó diễn ra trên đất Mỹ.
Toàn cầu hóa và sự nghèo đói
Những người chỉ trích toàn cầu hóa nhắm vào sự gia tăng số người sống trong sự nghèo đói. Thế giới đang trong cuộc chạy đua giữa sự phát triển kinh tế và sự gia tăng dân số và cho đến thời điểm này, sự gia tăng dân số đang thắng thế. Cho dù tỉ lệ người sống trong sự nghèo đói có giảm xuống, con số tuyệt đối cũng đang tăng lên1. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, nghèo đói là tình trạng khi mức sống dưới 2 USD mỗi ngày, tuyệt đối nghèo, hoặc nghèo đói cùng cực khi mức sống xuống dưới 1 USD mỗi ngày.
Chúng ta hãy dành một phút để suy nghĩ xem sống với một hay hai USD mỗi ngày có ý nghĩa như thế nào2. Cuộc sống đối
1 Ý tác giả muốn nói dù tỉ lệ người nghèo đóiso với tổng dân số có giảm, nhưng do dân số tăng nhanh hơn nên số người nghèo đói vẫn nhiều hơn so với trước. (ND) 2 Ngay cả mức sống 2 USD mỗi ngày cũng không bằng một phần năm mức nghèo đói được áp dụng ở Mỹ và Tây Âu.
44
Có thể có một thế giới khác
với những người nghèo như thế thật tàn nhẫn. Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em lan tràn, tuổi thọ thường ở dưới mức 50 và chăm sóc y tế thì thiếu thốn. Thì giờ mỗi ngày được dành để đi tìm chất đốt và nước sạch, vất vả mưu sinh, trồng cây bông vải trên một mảnh đất nửa khô cằn và hy vọng năm nay mưa sẽ không thiếu, hoặc trồng lúa cực nhọc trên nửa mẫu ruộng tồi tàn, biết rằng dù một người có làm lụng cực nhọc đến đâu chăng nữa thì cũng không đủ nuôi sống gia đình của họ.
Toàn cầu hóa đã giữ một vai trò nhất định trong cả những thành công to lớn – lẫn một số thất bại. Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, vốn dựa trên xuất khẩu, đã đưa hàng trăm triệu người ra khỏi cảnh nghèo đói. Nhưng Trung Quốc đã điều hành toàn cầu hóa một cách thận trọng: họ chậm mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu, và thậm chí đến bây giờ vẫn chưa cho du nhập những đồng tiền có tính chất đầu cơ cao – những đồng tiền mang lại lãi suất cao trong đoản kỳ và đổ vào trong nước ào ào khi tình hình lạc quan để rồi rút chạy khi có những dấu hiệu đầu tiên của sự khủng hoảng. Chính phủ Trung Quốc nhận thấy rằng trong lúc tiền đổ vào có thể tạo ra một sự bùng nổ ngắn ngủi, thì sự thoái trào và suy sụp có thể xảy ra tiếp theo sẽ mang đến những thiệt hại lâu dài, nhiều hơn so với những lợi lộc kiếm được trong đoản kỳ. Trung Quốc tránh tình trạng bùng nổ-và-vỡ tan đã ghi dấu ấn lên những quốc gia khác ở Đông Á và châu Mỹ Latin (như chúng ta sẽ thấy ở chương 2), duy trì mức tăng trưởng vượt quá 7% mỗi năm.
Tuy nhiên thực tế đáng buồn ở bên ngoài Trung Quốc, sự nghèo đói trong thế giới đang phát triển đã gia tăng trong hai thập kỷ qua. Khoảng 40% trong tổng số 6,5 tỉ người trên thế giới sống trong sự nghèo đói (tăng 36% kể từ năm 1981), một phần sáu – 877 triệu người – sống trong nghèo đói cùng cực (tăng thêm 3% so với năm 1981). Thất bại thảm hại nhất là
45
vận hành Toàn cầu hóa
châu Phi, nơi tỉ lệ người dân sống trong nghèo đói cùng cực đã tăng từ 41,6% vào năm 1981 lên 46,9% vào năm 2001. Nếu chỉ tính đến dân số gia tăng thì điều đó có nghĩa là số người sống trong tình trạng nghèo đói cùng cực đã tăng gần gấp hai lần, từ 164 triệu lên 316 triệu người1.
Xét về mặt lịch sử, châu Phi là vùng đất bị khai thác bởi toàn cầu hóa nhiều nhất: trong những năm tồn tại của chủ nghĩa thực dân, thế giới đã thâu tóm tài nguyên của châu lục này và trả lại cho nó quá ít. Những năm gần đây, châu Mỹ Latin và Nga cũng bị thất vọng vì toàn cầu hóa. Họ mở cửa thị trường, nhưng toàn cầu hóa đã không mang lại những điều đã hứa hẹn, nhất là cho những người nghèo.
Thu nhập và mức sống cao hơn là điều quan trọng, nhưng thoát khỏi cảnh nghèo khó thì không thể không có tiền. Khi tôi còn là chuyên gia kinh tế chính của Ngân hàng Thế giới, chúng tôi có phát hành một tập nghiên cứu nhan đề Tiếng nói của người nghèo (Voices of the Poor). Một nhóm nhà kinh tế và nhà nghiên cứu đã phỏng vấn khoảng 600.000 người nghèo, cả nam lẫn nữ, tại 60 quốc gia khác nhau để tìm hiểu xem họ cảm nghĩ như thế nào về hoàn cảnh của họ2. Kết quả không
1 Shaohua Chen và Martin Ravallion, Những nước nghèo nhất thế giới sống như thế nào kể từ đầu thập niên 1980?, Nhóm nghiên cứu phát triển Ngân hàng Thế giới, Tham luận về nghiên cứu chính sách số 3341 của Ngân hàng Thế giới, tháng 6.2004. Mức 1USD/ngày hiện nay được xác định bằng 1,08 USD “thực tế” (hoặc tỉ giá xét theo mãi lực) năm 1993; như vậy mức 2USD/ ngày được xác định bằng 2,15 USD. Sự giảm nghèo ở Trung Quốc thật đáng chú ý. Ở mức 1USD/ngày, số người nghèo giảm từ 634 triệu người xuống còn 212 triệu người – số người thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực còn lớn hơn tổng số cư dân sống ở châu Âu hay Mỹ.
2 Dự án Tiếng nói của người nghèo được tiến hành khi tôi còn là chuyên gia kinh tế cao cấp ở Ngân hàng Thế giới, như một sự chuẩn bị cho báo cáo 10 năm về tình trạng nghèo đói (Báo cáo phát triển thế giới 2000-2001: Tấn công
46
Có thể có một thế giới khác
có gì đáng ngạc nhiên, họ không nhấn mạnh đến khoản thu nhập không thỏa đáng mà nhấn mạnh vào những cảm giác không an toàn và bất lực của họ. Đặc biệt những người không có việc làm cảm thấy bị loại trừ, bị chính xã hội của mình vứt bỏ ra ngoài lề.
Đối với những người có công ăn việc làm, phần lớn sự bất an của họ xuất phát từ nguy cơ bị sa thải hoặc tiền lương sụt giảm nhanh chóng như đã từng xảy ra một cách đột ngột trong những cuộc khủng hoảng ở châu Mỹ Latin, Nga và Đông Á vào cuối những năm 1990. Toàn cầu hóa còn đặt các nước đang phát triển trước nhiều nguy cơ hơn nữa, nhưng những thị trường có thể giúp đối phó với những nguy cơ này lại vắng bóng. Ở những quốc gia tiến bộ hơn, chính phủ lấp đầy khoảng trống bằng cách trợ cấp cho những công dân cao tuổi, trả tiền thương tật, bảo hiểm sức khỏe, phúc lợi và bảo trợ thất nghiệp. Nhưng ở những nước đang phát triển, chính phủ quá nghèo nên không thể thực hiện được những chương trình an sinh xã hội. Những đồng tiền nhỏ nhoi họ có được hầu như chỉ dùng để chi cho giáo dục cơ bản, y tế và xây dựng hạ tầng cơ sở. Người nghèo phải tự nuôi mình và dễ bị tổn thương khi nền kinh tế đi xuống hoặc không còn công ăn việc làm do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Sự giàu có cần đến những khoản tiền tiết kiệm để làm vật đệm bảo vệ thì người nghèo lại không có.
Sự thiếu an toàn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của người nghèo; ngoài ra còn có một mối quan tâm khác nữa, đó là cảm giác bất lực. Người nghèo ít có cơ hội nói thẳng những điều muốn nói. Khi họ nói, không ai lắng nghe; khi có
sự nghèo đói). Báo cáo này tiếp theo một nỗ lực chưa từng thấy nhằm tìm hiểu sự nghèo đói từ cái nhìn của chính những người nghèo. Kết quả được xuất bản thành ba tập: Có ai nghe chúng tôi không? (tập 1), Kêu gào sự thay đổi (tập 2) và Từ nhiều miền đất (tập 3) (Washington D.C.; Ngân hàng Thế giới, 2002)
47
vận hành Toàn cầu hóa
ai đó chịu lắng nghe thì câu trả lời là không thể làm gì được; khi họ được thông báo về việc có thể làm một điều gì đó thì chẳng có điều gì được làm. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới có nêu nhận xét của một phụ nữ trẻ ở Jamaica nói lên cảm giác bất lực của người nghèo: “Nghèo cũng giống như sống trong ngục tù, sống trong cảnh giam cầm, chờ ngày được trả tự do”.
Những gì đúng ở những người nghèo thì thường cũng đúng đối với các nước nghèo. Trong lúc ý tưởng dân chủ được phổ biến rộng rãi và có nhiều quốc gia tổ chức bầu cử tự do hơn ba mươi năm về trước1 thì các nước đang phát triển nhận thấy khả năng hoạt động của họ bị xói mòn vừa bởi sự áp chế mới của các thế lực bên ngoài, vừa bởi sự yếu kém của những định chế đang tồn tại của chính họ và những sắp đặt có sự góp phần của toàn cầu hóa. Ví dụ như ta hãy xem những yêu cầu đặt ra cho các nước đang phát triển như một điều kiện của sự hỗ trợ. Một số nước tỏ ra hiểu được điều này (cho dù không phải tất cả, như chúng ta sẽ thấy trong chương 2). Nhưng đó không phải là điều đáng nói. Việc đặt điều kiện thường làm suy yếu các định chế chính trị trong nước. Các cử tri nhìn thấy chính phủ của họ cúi mình trước ngoại bang và nhượng bộ trước các định chế quốc tế mà họ tin là do Mỹ điều hành. Nền dân chủ bị suy yếu, còn các cử tri thì cảm thấy bị phản bội. Do vậy, cho dù toàn cầu hóa giúp phổ biến ý tưởng dân chủ, một điều nghịch lý là nó đã được vận hành theo cách làm xói mòn tiến trình dân chủ tại các nước.
1 Từ năm 1985 đến năm 2000, phần dân số thế giới sống trong các nước dân chủ tăng từ 38% lên 57%, trong khi phần sống dưới các chế độ độc tài giảm từ 45% còn 30%. Xin xem hình 1.1 sách của Chương Trình Phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP), Báo cáo Phát triển Con người 2002: Bàn sâu về nền Dân
chủ trong một thế giới phân rã (New York: nhà XB Oxford University Press, 2002), p.29; có thể xem tại http://hdr.undp.org/reports/global/2002/en/
48
Có thể có một thế giới khác
Hơn nữa, tôi nhận thấy rằng – tôi nghĩ điều này hoàn toàn đúng – phương cách vận hành toàn cầu hóa hiện nay không phù hợp với các nguyên tắc dân chủ. Chẳng hạn như người ta đã xem nhẹ tiếng nói và những mối quan tâm của các nước đang phát triển. Tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, một định chế quốc tế có trách nhiệm chăm nom hệ thống tài chính toàn cầu, chỉ một quốc gia duy nhất là nước Mỹ có quyền phủ quyết (veto). Không còn là vấn đề mỗi người một phiếu hay mỗi nước một phiếu, mà là đồng đô-la bỏ phiếu. Những quốc gia có nền kinh tế lớn nhất có nhiều phiếu nhất – và ngày nay thậm chí đồng đô-la cũng không có giá trị. Các lá phiếu được quyết định phần lớn trên cơ sở của quyền lực kinh tế vào thời điểm thành lập IMF cách nay 60 năm (với một vài sửa đổi). Với một nền kinh tế đang phát triển nhanh, Trung Quốc cũng không được đánh giá đúng. Một ví dụ khác, người đứng đầu Ngân hàng Thế giới, tổ chức quốc tế có nhiệm vụ đẩy mạnh sự phát triển, luôn luôn được Tổng thống Mỹ chỉ định (thậm chí ông này cũng không tham khảo Quốc hội của chính nước Mỹ nữa). Các nhà chính trị Mỹ không có khả năng chuyên môn, đó mới là vấn đề: họ không bị đòi hỏi phải có kinh nghiệm về phát triển hoặc thậm chí kinh nghiệm trong ngành ngân hàng cũng không. Trong hai trường hợp bổ nhiệm các ông Paul Wolfowitz và Robert MacNamara, kiến thức cơ bản của họ là quốc phòng và cả hai vị cựu Bộ trưởng Quốc phòng này đều dính dáng đến hai cuộc chiến đầy tai tiếng tại Iraq và Việt Nam.
CẢI CÁCH TOÀN CẦU HÓA
Cuộc tranh luận về toàn cầu hóa xuất phát từ nhận thức chung là mọi chuyện đã không diễn ra tốt đẹp với toàn cầu hóa
49
vận hành Toàn cầu hóa
và có một cơ sở thực tế giúp cho ít nhất một vài người không đồng tình với toàn cầu hóa tiến hành cuộc phân tích sâu hơn nhằm liên kết các chính sách đặc trưng với những thất bại rõ ràng. Các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách đã đồng ý về những lĩnh vực cần thay đổi. Quyển sách này quan tâm đến vấn đề gai góc nhất của mọi vấn đề, đó là thay đổi những gì, lớn hay nhỏ, liệu toàn cầu hóa có thể thực hiện những gì đã hứa không, hoặc ít nhất cũng sắp làm như thế? Chúng ta vận hành toàn cầu hóa như thế nào?
Vận hành toàn cầu hóa không phải là chuyện dễ. Những người hưởng lợi từ hệ thống hiện nay sẽ chống lại mọi đổi thay và họ lại là những người rất có thế lực. Nhưng những lực lượng có trách nhiệm thực hiện sự đổi thay đã sẵn sàng khởi động. Sẽ có những cải cách, cho dù chỉ diễn ra từng phần. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ giúp đưa đến những cải cách dựa trên một cái nhìn rộng rãi hơn về những sai lầm đang diễn ra. Nó cũng đề ra một số gợi ý cụ thể về việc làm thế nào để toàn cầu hóa vận hành tốt hơn. Một số gợi ý không có gì lớn lao và có thể gặp những chống đối nho nhỏ; có những gợi ý lớn lao hơn và có thể sẽ không được thực hiện trong nhiều năm.
Có nhiều việc cần phải làm. Dưới đây là sáu lĩnh vực mà cộng đồng quốc tế đều công nhận là đã không được làm sáng tỏ cả về những tiến bộ đã đạt được và mục tiêu chưa đạt được.
Sự lan tỏa của cái nghèo
Cuối cùng thì sự nghèo đói cũng trở thành mối quan tâm của toàn thế giới. Liên Hiệp quốc và các định chế đa quốc gia như Ngân hàng Thế giới đã bắt đầu tập trung hơn vào việc giảm nghèo. Tháng 9 năm 2000, khoảng 150 nguyên thủ quốc gia hoặc lãnh đạo chính phủ đã tham dự Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra tại trụ sở Liên Hiệp quốc ở New York
50
Có thể có một thế giới khác
và ký tên vào văn kiện Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ cam kết giảm nghèo còn 50% vào năm 20151. Họ nhìn nhận có nhiều mức độ nghèo khổ – không chỉ là thu nhập không thỏa đáng, mà còn không được chăm sóc sức khỏe đầy đủ và không tiếp cận được với nguồn nước sạch.
Mãi cho đến gần đây, các quan điểm của IMF có tính cách quan trọng trong các cuộc thảo luận về đường lối kinh tế, và theo truyền thống, tổ chức này đã tập trung sự chú ý vào tình trạng lạm phát hơn là tiền lương, vào nạn thất nghiệp hay sự nghèo đói. Họ quan niệm rằng làm giảm sự nghèo đói là nhiệm vụ của Ngân hàng Thế giới, còn nhiệm vụ của họ là tạo sự ổn định cho nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên việc chỉ tập trung vào lạm phát mà không lý gì đến thất nghiệp đã dẫn đến một hậu quả hiển nhiên là thất nghiệp tăng lên và nghèo khổ nhiều hơn. Ngày nay, chúng ta nhận được một tin tốt lành là ít nhất về mặt chính thức, IMF đã đặt ưu tiên cho việc giảm nghèo.
Hiện giờ, rõ ràng là việc mở cửa thị trường không thôi (dỡ bỏ hàng rào mậu dịch, mở cửa cho tư bản tràn vào) sẽ không “giải quyết” được vấn đề nghèo đói; thậm chí lại còn làm cho cái nghèo trở nên tồi tệ hơn. Điều cần thiết là gia tăng sự hỗ trợ và một chế độ mậu dịch công bằng hơn.
Sự cần thiết của hỗ trợ từ bên ngoài và giảm nợ
Ở Monterrey, Mexico, tại Hội nghị Quốc tế về Tài trợ cho Phát triển diễn ra vào tháng 3 năm 2002, với sự tham dự của
1 Có tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ nổi bật: tận diệt nạn nghèo đói cùng cực; hoàn thành giáo dục tiểu học phổ thông; vận động sự bình đẳng giới tính và trao cho giới nữ các quyền hạn hợp pháp; giảm thiểu mức tử vong của trẻ sơ sinh; tăng cường sức khỏe các bà mẹ; phòng chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét, và các bệnh khác; đảm bảo tính bền vững của môi trường; phát triển sự hợp tác toàn cầu vì sự phát triển.
51
vận hành Toàn cầu hóa
50 lãnh đạo quốc gia hay người đứng đầu chính phủ và 200 Bộ trưởng, các nước công nghiệp tiên tiến cam kết gia tăng sự hỗ trợ cần thiết – đến 0,7% GDP của họ (cho dù về sau chỉ có một số ít nước thực hiện những cam kết này, và có một vài nước – nhất là nước Mỹ – đã không giữ lời hứa1. Tiếp theo việc xác nhận gia tăng viện trợ là thỏa thuận rộng rãi sẽ có nhiều sự hỗ trợ thể hiện dưới hình thức tài trợ hoặc cho vay với lãi suất thấp – không kể đến vấn đề trả nợ.
Tuy nhiên điều đáng nói hơn cả là cách đặt điều kiện. Các nước tìm kiếm ngoại viện bị đòi hỏi phải thỏa mãn nhiều điều kiện; chẳng hạn như một quốc gia nếu muốn nhận viện trợ, có thể được yêu cầu phải nhanh chóng thông qua một đạo luật hoặc cải cách an sinh xã hội, tình trạng phá sản hay các hệ thống tài chính khác. Khối lượng khổng lồ những điều kiện đặt ra đã khiến các chính phủ xao lãng những công tác quan trọng hơn. Tình trạng đặt điều kiện một cách quá đáng là một trong những điều phán nàn lớn nhất đối với IMF và Ngân hàng Thế giới. Ngày nay, cả hai định chế này nhìn nhận họ đã đi quá mức, và trong 5 năm vừa qua, họ đã giảm bớt việc đặt điều kiện rất nhiều.
Nhiều nước đang phát triển phải đương đầu với một gánh nặng nợ nần khổng lồ. Ở một số nước, phân nửa hay hơn phân nửa chi tiêu của chính phủ hoặc ngoại tệ có được từ xuất khẩu được sử dụng để trả lãi những món nợ này – lấy đi những
1 Năm 2004, các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) chỉ đóng góp có 0,25% GDP cho sự hỗ trợ phát triển, trong đó, Nhật Bản, Mỹ và Ý đóng góp dưới 0,2% (0,7% là tỉ lệ dưới mức chi phí mà nước Mỹ đã bỏ ra cho cuộc chiến Iraq). Chỉ có Na Uy, Luxembourg, Đan Mạch, Thụy Điển, và Hà Lan là giữ đúng cam kết đóng góp 0,7%. Xem tài liệu của OECD “Viện trợ phát triển chính thức sơ bộ (ODA) trong năm 2004 bởi những nước viện trợ, như đã được công bố vào ngày 11.4.2005” tại trang web www.oecd.org/ document/7/0,2340,en_2649_34485_35397703_1_1_1_1,00.html.
52
Có thể có một thế giới khác
khoản tiền có thể sử dụng cho trường học, đường sá hay bệnh viện. Phát triển đã khó khăn như thế, với gánh nặng nợ nần, nó càng trở nên không thể đạt được.
Mỗi năm một lần, lãnh đạo các nước công nghiệp hàng đầu (gọi là G-8) gặp nhau để bàn về những vấn đề quan trọng mang tính toàn cầu. Tại hội nghị thượng đỉnh Globalization-8 năm 2005 diễn ra tại Gleneagles, Scotland, lãnh đạo các nước công nghiệp tiên tiến đã thỏa thuận xóa hoàn toàn khoản nợ đối với IMF và Ngân hàng Thế giới của 18 nước nghèo nhất thế giới, trong đó 14 nước nằm ở châu Phi1. Thậm chí sau hai lần cố gắng giảm nợ trước đây, nhiều nước đang phát triển vẫn còn một khoản nợ khổng lồ treo lơ lửng. Khi tôi viết điều này, các nước đang phát triển trên thế giới đã nợ xấp xỉ 1.500 tỉ USD của các chủ nợ gồm các ngân hàng quốc tế, IMF và Ngân hàng Thế giới. Gần một phần ba số nợ này là của các nước có thu nhập thấp2. Cho dù có sự xóa nợ, mức độ nợ nần của những nước có thu nhập thấp vẫn tiếp tục gia tăng.
Điều đáng tiếc là nợ nần và cách mà thế giới cư xử đối với những nước không thể hoàn tất việc trả nợ không phải là một vấn đề của những nước có thu nhập thấp. Ít nhất một lần, tình trạng vỡ nợ ở Nga đã đe dọa làm phát sinh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự vỡ nợ ở Argentina vào cuối năm 2001 – cuộc vỡ nợ lớn nhất trong lịch sử – đã buộc IMF phải cân nhắc lại ưu thế của một vài cơ cấu được tổ chức lại, tương
1 Xem tài liệu của bộ Ngân khố Anh Các kết luận của Bộ trưởng Tài chính G-8 về vấn đề Phát triển, London 10-11.6.2005 ở trang web www.hm-treasury. gov.uk/otherhmtsites/g7/news/conclusions_on_ development_110605.cfm
2 Xem bảng A.24 tài liệu của Ngân hàng Thế giới, Tài chính phát triển toàn cầu: Khả năng phát triển của các dòng tư bản đang gia tăng (Washington D.C.: Ngân hàng Thế giới, 2006); có thể tham khảo ở trang weg: http://sitere sources.worldbank.org/INTGDF2006/Resources/GDF06_complete.pdf.
53
vận hành Toàn cầu hóa
tự thủ tục tuyên bố phá sản đối với nợ nần của tư nhân. Đó là một bước tiến quan trọng.
Khát vọng tạo nên một nền mậu dịch công bằng
Tự do hóa thương mại – bằng mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ tự do tràn vào – được tin là sẽ dẫn đến sự phát triển. Bằng chứng về điều này không đồng nhất với nhau1. Một phần nguyên nhân khiến cho các thỏa hiệp mậu dịch quốc tế không thành công trong việc đẩy mạnh sự phát triển ở những nước nghèo là do chúng không có tính cân xứng: các nước công nghiệp tiên tiến được phép đánh thuế lên hàng hóa của các nước đang phát triển trung bình với mức độ cao gấp bốn lần những hàng hóa do các nước công nghiệp tiên tiến khác làm ra2. Trong lúc các nước đang phát triển bị buộc phải từ bỏ những khoản trợ cấp nhằm hỗ trợ các ngành công nghiệp còn non trẻ của họ thì các nước công nghiệp tiên tiến lại được phép tiếp tục các khoản trợ cấp nông nghiệp khổng lồ, làm hạ giảm giá sản phẩm nông nghiệp và làm tổn hại đến mức sống ở những quốc gia đang phát triển.
Tiếp sau những cuộc bạo loạn ở Seattle, khi các thỏa hiệp mậu dịch trong quá khứ được xem xét một cách kỹ lưỡng hơn, rõ ràng là ít nhất có một vài bất đồng đã được chứng minh là đúng. Các nước nghèo nhất càng lâm vào tình trạng tồi tệ hơn với thỏa hiệp mậu dịch cuối cùng. Và thế giới đã đáp ứng: tháng 11 năm 2001, tại Doha, người ta thỏa thuận là vòng đàm phán thương mại kế tiếp sẽ tập trung vào những yêu cầu của
1 Xem tài liệu của UNDP, Thương mại toàn cầu hoạt động vì con người (Lon don and Sterling, VA: nhà xuất bản Earthscan, 2003)
2 Xem tài liệu của Oxfam Xây trên cát: Tại sao sự thất bại của những cuộc bàn bạc về thương mại ở Cancun lại đe dọa những người nghèo khổ nhât thế giới - Tài liệu thuyết trình số 53 của Oxfam, tháng 9.2003.
54
Có thể có một thế giới khác
các nước đang phát triển. (Đáng tiếc là, như chúng ta sẽ thấy ở chương 3, trong những năm tiếp theo, cả châu Âu và Mỹ đã hoàn toàn không giữ lời hứa ở Doha.)
Những giới hạn của sự tự do hóa
Vào thập niên 1990, khi các chính sách tự do hóa không mang lại những kết quả đã hứa hẹn, vấn đề đặt ra là các nước đang phát triển đã không thực hiện được những điều gì. Nếu tự do hóa thương mại không đem lại sự phát triển thì đó là do các nước chưa được tự do hóa một cách đầy đủ, hoặc là do tình trạng tham nhũng đã tạo ra một bầu không khí bất lợi cho kinh doanh. Ngày nay, ngay trong số nhiều người thuộc thành phần ủng hộ toàn cầu hóa, đã có nhận thức rõ rệt hơn về một trách nhiệm cùng chia sẻ.
Chính sách bị phản đối mạnh mẽ nhất được ban hành vào thập niên 1990 là việc tự do hóa thị trường tư bản, mở cửa thị trường cho các nguồn tiền ngắn hạn, nóng và có tính đầu cơ rót vào. Thậm chí IMF đã cố gắng thay đổi bản hiến chương tại cuộc họp thường niên diễn ra ở Hongkong vào năm 1997 nhằm thúc đẩy các nước tiến hành tự do hóa. Năm 2003, ngay cả IMF cũng thừa nhận rằng, ít nhất đối với nhiều nước đang phát triển, việc tự do hóa thị trường tư bản đã không đưa đến sự gia tăng phát triển mà lại tạo thêm sự bất ổn1.
Tự do hóa thương mại và thị trường tư bản là hai thành phần nòng cốt của một khung chính sách rộng lớn hơn, được biết
1 Eswar Prasad, Kenneth Rogoff, Shang-Jin Wei, và M. Ayhan Kose, Tác động của toàn cầu hóa tài chính lên các nước đang phát triển: vài chứng cứ thực nghiệm, báo cáo không thường xuyên số 220 của IMF, tháng 3.2003. Ngay cả tờ Economist, từ lâu vốn ủng hộ các thị trường thả nổi nói chung, và sự tự do hóa thị trường tư bản nói riêng, cũng đã thừa nhận vấn đề trong bài báo rất hay “Một cuộc trao đổi công bằng”, phát hành ngày 30.9.2004.
55
vận hành Toàn cầu hóa
đến dưới cái tên Đồng thuận Washington – một thỏa thuận hình thành giữa IMF (nằm trên đường số 19), Ngân hàng Thế giới (nằm trên đường số 18) và Bộ Ngân khố Mỹ (nằm trên đường số 15) – những nơi đã hình thành các chính sách có thể đẩy mạnh sự phát triển một cách tốt nhất1. Thỏa thuận nhấn mạnh đến sự tinh giản của chính phủ, việc bãi bỏ các quy định, sự tự do hóa và tư nhân hóa một cách nhanh chóng. Vào những năm đầu tiên của thiên niên kỷ, sự tin tưởng vào Đồng thuận Washington lu mờ dần và một thỏa thuận hậu Đồng-thuận-Washington dần hình thành. Chẳng hạn như Đồng thuận Washington ít chú ý các vấn đề liên quan đến sự công bằng, nhân dụng, và cạnh tranh, đến việc thực hiện từng bước và xâu chuỗi những cải cách hoặc việc tư nhân hóa đã diễn ra như thế nào. Hiện nay, cũng có một sự đồng tình trong việc tập trung quá nhiều vào sự gia tăng GDP, không tính đến những sự kiện khác có ảnh hưởng đến mức sống, và tập trung quá ít vào tính bền vững – nhằm định xem sự phát triển có bền vững về các mặt kinh tế, xã hội, chính trị hay môi trường không. Sự kiện những quốc gia như Argentina – được IMF xếp hạng A+ theo hướng dẫn của Đồng thuận Washington – chỉ làm tốt được trong mấy năm ngắn ngủi và về sau phải đối mặt với tai ương, đã giúp chúng ta củng cố thêm lập trường mới mẻ về tính bền vững.
1 Từ “Đồng thuận Washington” được đặt ra lần đầu tiên bởi nhà kinh tế học nổi tiếng John Williamson nhằm mô tả những cải cách về mặt chính sách ở châu Mỹ Latin. Danh sách của ông dài hơn (gồm 10 điểm) và giàu sắc thái hơn. Xem tác phẩm của John Williamson, “Washington có ý gì qua cải tổ chính sách”, chương 2 trong Sự điều chỉnh chính sách ở châu Mỹ Latin:
Bao nhiêu chuyện đã xảy ra? John Williamson (Washington D.C.: Viện kinh tế học quốc tế, 1990); và Joseph E. Stiglitz, Thỏa thuận hậu - Đồng thuận Washington, tham luận, Đại học Columbia, 2004, giới thiệu ở “Từ Đồng thuận Washington đến một diễn đàn quản lý toàn cầu mới”, Barcelona, 24- 25.9.2004.
56
Có thể có một thế giới khác
Bảo vệ môi trường
Sự thất bại trong việc ổn định môi trường rút cục sẽ đặt thế giới trước một nguy cơ lớn hơn. Một thập kỷ trước, mối quan tâm về môi trường và toàn cầu hóa chỉ giới hạn phần lớn trong các nhóm bảo vệ môi trường và các chuyên gia. Ngày nay, hầu như vấn đề này đã trở nên phổ biến. Nếu chúng ta không làm giảm nhẹ những thiệt hại về môi trường, không thận trọng trong sử dụng năng lượng và các tài nguyên thiên nhiên khác và không nỗ lực làm chậm lại sự nóng lên của trái đất thì hiểm họa đã cận kề trước mắt. Sự nóng lên của trái đất đã thực sự trở thành một thách thức cho toàn cầu hóa. Sự phát triển thành công, đặc biệt ở Ấn Độ và Trung Quốc, đã mang lại cho những quốc gia này sự đầy đủ về mặt kinh tế để có thể gia tăng việc sử dụng năng lượng, nhưng môi trường thế giới không thể chịu đựng trước một chuyển biến mạnh mẽ như thế. Sẽ còn có những vấn đề nghiêm trọng trước mắt nếu mọi người thải ra khí nhà kính với mức độ như người Mỹ đang làm bây giờ. Ngày nay, có một tin tốt lành là điều này đã được hầu hết thế giới công nhận, ngoại trừ một vài khu phố trong thủ đô Washington; song việc điều chỉnh lại cách sống không dễ một chút nào.
Một hệ thống quản trị toàn cầu đầy sai sót
Hiện nay cũng có một sự nhất trí, ít nhất ở bên ngoài nước Mỹ, là có một cái gì đó sai lạc trong cách thức đưa ra những quyết định có tầm mức thế giới; đặc biệt có một sự đồng tình về những hiểm họa của chủ nghĩa đơn phương và “sự thiếu dân chủ” trong các định chế kinh tế quốc tế. Do cả cơ chế lẫn cách tiến hành, không có những tiếng nói được mọi người lắng nghe. Chủ nghĩa thực dân đã cáo chung, các nước đang phát triển không có sự đại diện mà lẽ ra họ nên có.
57
vận hành Toàn cầu hóa
Thế chiến thứ nhất đã làm sáng tỏ tính liên thuộc toàn cầu và khi chiến tranh kết thúc, nhiều định chế quốc tế được thành lập. Tổ chức quan trọng nhất là Hội Quốc Liên1 đã không thực hiện được sứ mạng gìn giữ hòa bình. Khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đã có một giải pháp hành động tốt hơn. Liên Hiệp quốc ra đời để ngăn ngừa chiến tranh đã trở thành một tai họa trong nửa đầu thế kỷ 20. Với những ký ức vẫn còn tươi mới về cuộc Đại Suy Thoái vào những năm 1930, hai định chế kinh tế mới được thành lập là Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Vào thời đó, phần lớn các nước phát triển vẫn còn chủ nghĩa thực dân; các định chế vừa kể là câu lạc bộ của những nước giàu có và cách quản lý của họ đã phản ánh điều này. Họ nhanh chóng thiết lập quy chế “lão làng” (tạm dịch từ “old boy” – ND) để tăng cường sự kiểm soát: nước Mỹ đồng ý để châu Âu chỉ định người lãnh đạo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, với một người Mỹ ngồi vào vị trí số hai; còn châu Âu thì chịu để cho Tổng thống Mỹ chỉ định người đứng đầu Ngân hàng Thế giới. Nếu những định chế này thành công hơn trong việc cải thiện các vấn đề đặt ra cho họ – chẳng hạn như nếu IMF thành công trong việc đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế thế giới – thì sự lỗi thời trong quản lý còn có thể tha thứ được. Nhưng IMF đã thất bại trong sứ mạng chính là đảm bảo sự ổn định tài chính toàn cầu – như đã được minh chứng một cách rõ ràng trong cuộc khủng hoảng toàn cầu vào cuối những năm 1990, điều này ảnh hưởng đến từng nền kinh tế thị trường đang lên đã nghe theo khuyến cáo của IMF.
Khi IMF vạch ra chính sách để đối phó lại cuộc khủng hoảng, họ thường chú tâm nhiều đến việc bảo vệ các chủ nợ
1 Tên do các phương tiện truyền thông Việt Nam đặt cho League of Nations, tổ chức quốc tế ra đời sau Thế chiến thứ nhất (1914-1918), tiền thân của Liên Hiệp quốc (United Nations), ra đời sau Thế chiến thứ hai (1939-1945). (nd)
58
Có thể có một thế giới khác
ở phương Tây hơn là giúp đỡ các quốc gia bị khủng hoảng và công dân của họ. Tiền dành để cứu các ngân hàng phương Tây thoát khỏi khó khăn, nhưng lại không dành được những khoản trợ cấp thực phẩm tối thiểu cho những người đang đứng bên bờ vực của sự chết đói. Những nước nghe theo sự hướng dẫn của IMF không duy trì được sự phát triển, trong khi những nước như Trung Quốc đi theo con đường riêng của họ thì lại đạt được những thành công to lớn. Những cuộc phân tích sâu hơn cho thấy những chính sách đặc biệt của IMF như sự tự do hóa thị trường tư bản, giữ một vai trò nhất định trong sự thất bại. Trong lúc IMF phàn nàn về các vấn đề quản lý và sự thiếu minh bạch ở các nước đang phát triển thì có vẻ như chính họ cũng đang gặp phiền toái bởi những vấn đề như vậy. Họ thiếu một số quy định cơ bản về các định chế dân chủ: cụ thể là sự minh bạch, để cho người dân biết những vấn đề gì đang nằm trên bàn họ và có thời gian để phản ứng, và cũng để họ biết các viên chức đã được bầu ra như thế nào để dễ bề quy trách nhiệm. Thêm vào đó, cũng cần có những quy định nhằm hạn chế việc các quan chức vừa từ bỏ công vụ tại IMF đã nhanh chóng chuyển đến làm việc ở các hãng tư nhân; những hạn chế như vậy là các chuẩn mực trong các chế độ dân chủ hiện đại, nhằm hạ giảm vẻ bề ngoài – hoặc thực chất – của những xung đột quyền lợi, là sự khích lệ các công bộc trở thành các nhân viên có tiềm năng trong tương lai thông qua các khoản cung cấp hay quy định thuận lợi.
Có một sự đồng tình ngày càng tăng cao, khi cho rằng có vấn đề trong công tác quản lý ở các định chế công quyền quốc tế như IMF là nơi đã định hình toàn cầu hóa, và chính những vấn đề này đã góp phần vào sự thất bại của họ. Tình trạng thiếu dân chủ trong quản lý chí ít cũng góp phần vào tình trạng
59
vận hành Toàn cầu hóa
thiếu tính pháp lý, và điều này sẽ làm suy yếu hiệu năng của họ – nhất là khi họ đề cập đến vấn đề quản lý dân chủ.
Quốc gia-Nhà nước và Toàn cầu hóa
Cách đây khoảng 150 năm, việc hạ thấp chi phí thông tin và vận chuyển đã làm nổi lên điều được xem là điềm báo trước của toàn cầu hóa. Cho đến lúc đó, phần lớn hoạt động thương mại mang tính địa phương; chính những biến đổi của thế kỷ mười chín đã dẫn đến sự hình thành các nền kinh tế quốc gia và góp phần tăng cường vị thế của quốc gia-nhà nước. Nhiều đòi hỏi mới mẻ được đặt ra cho chính quyền: thị trường có thể tạo ra tăng trưởng, song đi kèm với thị trường là những vấn đề xã hội mới, thậm chí trong một số trường hợp, kèm theo cả những vấn đề kinh tế nữa. Các chính phủ nắm giữ vai trò mới trong việc ngăn ngừa tình trạng độc quyền, đặt nền móng cho những hệ thống an sinh xã hội hiện đại và chỉnh đốn hoạt động của các ngân hàng và định chế tài chính khác. Có một sự củng cố hỗ tương: thành công trong những nỗ lực này giúp định hướng và tăng cường tiến trình xây dựng quốc gia, và năng lực được củng cố của Quốc gia-Nhà nước dẫn đến những thắng lợi lớn lao hơn trong việc tăng cường sức mạnh nền kinh tế và nâng cao hạnh phúc cá nhân.
Sự suy xét thông thường cho rằng sự phát triển của nước Mỹ là thành quả của chế độ tư bản không bị ràng buộc là điều sai lầm. Chẳng hạn như ngay cả ngày nay, chính phủ Mỹ vẫn giữ một vai trò trung tâm về tài chính. Họ cung ứng hoặc đảm bảo cung ứng một phần đáng kể các khoản tín dụng, bằng các chương trình cho vay có thế chấp, tín dụng sinh viên, xuất khẩu và nhập khẩu, hợp tác xã và các doanh nghiệp nhỏ. Chính phủ
60
Có thể có một thế giới khác
chẳng những đề ra những quy định cho ngành ngân hàng và đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền mà còn gắng đảm bảo cho vốn tín dụng không chỉ đến các trung tâm tiền tệ lớn mà còn chảy vào các thành phần không được phục vụ tốt, và ít nhất cho đến gần đây, đến tất cả mọi vùng trong nước.
Xét về mặt lịch sử, chính phủ Mỹ còn giữ một vai trò lớn lao hơn trong nền kinh tế qua việc thúc đẩy sự phát triển, bao gồm phát triển về công nghệ và hạ tầng cơ sở. Vào thế kỷ 19, khi nông nghiệp giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế, chính phủ thiết lập toàn bộ hệ thống các trường Đại học nông nghiệp và các dịch vụ “mở rộng”. Những vụ cấp đất lớn lao thúc đẩy sự phát triển ngành đường sắt miền Tây. Thế kỷ 19, chính phủ Mỹ tài trợ việc xây dựng đường dây điện báo đầu tiên; sang thế kỷ 20, họ tài trợ cuộc nghiên cứu đưa đến sự ra đời của Internet.
Nước Mỹ thành công một phần do vai trò của chính phủ trong sự thúc đẩy phát triển, trong việc sắp xếp thị trường và cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản. Vấn đề mà các nước đang phát triển phải đương đầu hiện nay là liệu chính phủ có giữ được một vai trò như thế hay không? Trong lúc tiến trình toàn cầu hóa đặt ra cho các quốc gia-nhà nước những yêu cầu mới mẻ nhằm xử trí trước tình trạng bất công và bất an ninh đang ngày càng gia tăng do chính nó gây ra, và đương đầu với những thách thức về cạnh tranh mà nó đã tạo nên, toàn cầu hóa, bằng nhiều cách khác nhau, đã hạn chế khả năng đáp ứng của họ. Chẳng hạn như toàn cầu hóa đã giải phóng những sức mạnh của thị trường, mạnh đến nỗi các chính phủ, đặc biệt chính phủ các nước đang phát triển, thường không kiểm soát nổi chúng. Những chính phủ nỗ lực kiểm soát các nguồn tư bản thường tự cảm thấy bất lực trong việc làm này, trong khi các cá nhân lại biết cách né tránh các quy định (do nhà nước đặt ra). Một nước có thể muốn nâng tiền lương tối thiểu lên song lại
61
vận hành Toàn cầu hóa
nhận ra là mình không làm nổi, bởi vì các công ty nước ngoài hoạt động ở đó sẽ quyết định chuyển đến một nước khác có lương bổng thấp hơn.
Sự bất lực của chính phủ trong việc kiểm soát hoạt động của các cá nhân hoặc công ty cũng ngày càng bị giới hạn bởi các thỏa thuận quốc tế ảnh hưởng tới quyền lợi của những nhà nước có chủ quyền trong việc ban hành các quyết định. Một chính phủ muốn đảm bảo rằng các ngân hàng chỉ cho vay một phần nhất định trong vốn đầu tư cho những khu vực ít được chăm sóc, hoặc muốn đảm bảo là hệ thống kế toán phản ánh một cách chính xác thực trạng của một công ty, chính phủ đó có thể cảm thấy bất lực trong việc thông qua các luật lệ phù hợp. Việc ký kết một thỏa hiệp mậu dịch quốc tế có thể tránh cho các chính phủ khỏi phải điều chỉnh dòng chảy vào ra của những đồng tiền nóng, mang tính đầu cơ, cho dù sự tự do hóa thị trường tư bản có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Quốc gia-nhà nước là trung tâm quyền lực chính trị và (ở một phạm vi rộng lớn) kinh tế trong một thế kỷ rưỡi đã qua, nay đang bị đè nén – một mặt bởi những thế lực kinh tế toàn cầu, và mặt khác, bởi những yêu cầu chính trị phải chuyển giao quyền lực. Toàn cầu hóa – là sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa các nước trên thế giới – đã dẫn đến nhu cầu gia tăng các hoạt động tập thể, giúp nhân dân và các quốc gia cùng nhau giải quyết những vấn đề khó khăn chung. Có quá nhiều vấn đề – thương mại, vốn, môi trường – chỉ có thể giải quyết ở tầm mức toàn cầu. Nhưng một khi quốc gia-nhà nước bị suy yếu, lúc này lại xuất hiện ở tầm mức toàn cầu những loại định chế dân chủ toàn cầu có thể giải quyết một cách hữu hiệu những vấn đề do toàn cầu hóa đặt ra.
Trên thực tế, toàn cầu hóa kinh tế đã vượt qua toàn cầu hóa về chính trị. Chúng ta có một hệ thống quản lý toàn cầu vô tổ
62
Có thể có một thế giới khác
chức và thiếu phối hợp mà không có một chính phủ toàn cầu, một tập hợp các định chế và thỏa thuận nào có thể đối phó với một loạt các vấn đề, từ sự nóng lên của trái đất đến mậu dịch quốc tế và các dòng chảy tư bản. Khi thảo luận những vấn đề tài chính toàn cầu tại IMF, các bộ trưởng tài chính ít lưu ý đến việc những quyết định của họ tác động như thế nào đến môi trường hay sức khỏe toàn cầu. Các bộ trưởng môi trường có thể kêu gọi mọi người làm một điều gì đó trước sự nóng lên toàn cầu, nhưng họ thiếu nguồn tài nguyên để hậu thuẫn cho những lời kêu gọi đó.
Rõ ràng là chúng ta cần có các định chế quốc tế đủ mạnh để đương đầu với những thách thức do toàn cầu hóa kinh tế đặt ra; nhưng ngày nay, niềm tin đối với những định chế đang tồn tại đã trở nên yếu ớt. Như chúng ta đã biết, điều mà các định chế có quyền ra quyết định đang phải chịu đựng do sự thiếu dân chủ rõ ràng là một vấn đề nan giải. Nó đưa đến những quyết định thường là không nhắm vào quyền lợi của những người thuộc thế giới đang phát triển. Làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn là điều khiến cho các nhà lãnh đạo ở các nước công nghiệp tiên tiến, những nước mà chính phủ đang định hướng công cuộc toàn cầu hóa kinh tế, chưa nhận được những thiện cảm cần thiết để thực hiện công cuộc chung của cộng đồng thế giới. Tất nhiên, khi chúng ta nhìn thấy động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ hay một trận đói ở Ethiopia, một trận sóng thần ở Indonesia – những hình ảnh mà toàn cầu hóa có thể giúp cho chúng ta kể cho nhau nghe ở phòng khách của mỗi người – chúng ta vô cùng thương cảm các nạn nhân, và chúng ta ồ ạt giúp đỡ họ. Nhưng còn cần phải làm nhiều điều hơn thế nữa.
Khi quốc gia-nhà nước phát triển, cá nhân cảm thấy có sự liên kết với những người khác trong cùng một quốc gia – không chỉ gắn bó với những người trong cùng cộng đồng địa phương
63
vận hành Toàn cầu hóa
với họ, mà còn gắn bó hơn với những người ở bên ngoài biên giới quốc gia-nhà nước nữa. Vấn đề là khi toàn cầu hóa điễn ra, lòng trung thành (với quốc gia) chẳng mấy thay đổi. Chiến tranh cho thấy những dị biệt về thái độ ứng xử càng trở nên đáng sợ: người Mỹ nắm con số chính xác những lính Mỹ mất tích, nhưng khi con số ước tính người Iraq tử vong được công bố với mức cao gấp 50 lần hơn, điều này cũng khó gây ra một sự xúc động. Tra tấn người Mỹ có thể làm phát sinh sự phẫn nộ; còn sự tra tấn do người Mỹ gây ra có vẻ như chỉ những ai tham gia phong trào phản chiến mới quan tâm; thậm chí nó còn được nhiều người biện minh là cần thiết để bảo vệ nước Mỹ. Trong lĩnh vực kinh tế cũng có những nghịch lý tương tự. Người Mỹ thường kêu ca về tình trạng mất công ăn việc làm trong nước họ và không hề ca ngợi những người nghèo khổ hơn ở nước ngoài đã tìm được việc làm một cách thoải mái.
Phần lớn chúng ta sẽ luôn sống ở địa phương – trong cộng đồng, tiểu bang, đất nước của chính chúng ta. Nhưng toàn cầu hóa có nghĩa là đồng thời chúng ta cũng là thành viên của cộng đồng xã hội toàn cầu. Người châu Âu đôi khi cảm thấy khó khăn khi học cách làm thế nào để suy nghĩ về mình vừa như người Đức, vừa như người Ý, hay người Anh lại vừa như người châu Âu nữa. Sự kết hợp chặt chẽ hơn nữa về mặt kinh tế sẽ giúp cho điều đó. Ở tầm mức toàn cầu cũng thế: chúng ta có thể sống ở địa phương, nhưng càng lúc chúng ta càng phải có những suy nghĩ mang tính toàn cầu; suy nghĩ về chúng ta như những thành viên của cộng đồng xã hội toàn cầu. Điều đó đòi hỏi chúng ta không chỉ cư xử với người khác bằng tinh thần tôn trọng, mà còn phải suy nghĩ thế nào là công bằng: chẳng hạn như một chế độ mậu dịch tự do sẽ như thế nào? Nó đòi hỏi chúng ta phải đặt mình vào vị trí người khác: điều gì khiến chúng ta cảm thấy công bằng hay đúng đắn nếu chúng
64
Có thể có một thế giới khác
ta ở vào cương vị của họ1? Và nó còn đòi hỏi chúng ta suy xét một cách cẩn trọng đến khi nào thì cần áp đặt luật lệ và các quy định để làm cho hệ thống toàn cầu vận hành, và khi nào chúng ta cần tôn trọng quyền tự chủ quốc gia, để cho mỗi nước tự đề ra những quyết định phù hợp với riêng họ.
Sự thay đổi cách suy nghĩ sẽ rất cần thiết nếu chúng ta thay đổi cách vận hành toàn cầu hóa. Một sự thay đổi như thế đang diễn ra. Chương này sẽ làm nổi bật vô số những thay đổi trong thái độ ứng xử đối với toàn cầu hóa đã diễn ra chỉ trong thập kỷ vừa qua. Trong một phạm vi rộng lớn, cuộc tranh luận không còn nhắm vào “chống” hay “ủng hộ” toàn cầu hóa. Chúng ta đã nhận thức được khả năng tích cực của toàn cầu hóa: gần phân nửa nhân loại – châu Á, trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ – đang hợp nhất thành nền kinh tế toàn cầu; 2,4 tỉ người từng sống trên những đất nước phải trải qua chế độ thuộc địa và bóc lột, chiến tranh và những xáo trộn nội bộ, đã đạt được những tỉ lệ tăng trưởng chưa từng thấy trong vòng một phần tư thế kỷ hay hơn nữa. Đó là một sự kiện có tầm cỡ lịch sử, và cũng đáng được lồng trong bối cảnh lịch sử. Ngay cả những năm thành công nhất của phương Tây, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp hay trong thời kỳ tăng vọt tiếp sau Thế chiến thứ hai, tỉ lệ tăng trưởng cũng ít khi vượt quá 3%. Trong khi đó, mức tăng trưởng bình quân của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua đã lên gấp ba lần như thế. Những thành công này phần nào nhờ ở toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy mặt
1 Những ý tưởng của nhà triết học vĩ đại quá cố của Đại học Harvard là John Rawls có tính thuyết phục. Ông thúc giục mọi người nghĩ đến sự công bằng xã hội “đằng sau bức màn ngu dốt”, trước khi chúng ta biết mình đã được sinh ra ở vị trí nào. Xem John Rawls Một lý thuyết về sự công bằng (Cambridge, MA: nhà xuất bản Đại học Harvard, 1971); và Patrick Hayden, John Rawls: Hướng về một trật tự thế giới chính đáng (Cardiff, Anh: nhà xuất bản Đại học Wales, 2002).
65
vận hành Toàn cầu hóa
tối của toàn cầu hóa: những suy thoái và sa sút mà sự bất ổn toàn cầu đã gây ra; sự xuống cấp của môi trường khi tăng trưởng toàn cầu diễn ra mà không có luật lệ toàn cầu. Một đại lục là châu Phi đã trút bỏ hết của cải, tài nguyên thiên nhiên và chuốc lấy một gánh nợ nần vượt quá khả năng thanh toán. Ngay cả những nước công nghiệp tiên tiến cũng bắt đầu đặt câu hỏi về toàn cầu hóa, khi tiến trình này mang theo sự bất an và bất bình đẳng về kinh tế; khi chủ nghĩa duy vật kinh tế lấn lướt các giá trị khác; khi các nước nhận thức được rằng hạnh phúc của họ, thậm chí sự sống còn của họ, tùy thuộc vào những người mà họ không thể tin cậy, chẳng hạn như các tổ chức dầu hỏa ở Trung Đông và nhiều nơi khác. Có thể có tăng trưởng, nhưng phần đông có thể phải sống tồi tệ hơn. Lý thuyết kinh tế chủ trương cắt giảm thuế ở những người có lợi tức cao và các hoạt động kinh doanh từng cho rằng bao lâu nền kinh tế nói chung còn tăng trưởng thì mọi người còn được hưởng lợi, đã tỏ ra sai lầm liên tục.
Một số người cho rằng toàn cầu hóa là điều không thể tránh, người ta phải hoàn toàn chấp nhận nó cùng với những nhược điểm của nó. Nhưng khi phần lớn thế giới sống trong các chế độ dân chủ, nếu toàn cầu hóa không có lợi cho phần đông mọi người thì họ sẽ phản ứng lại. Có thể họ thiếu hiểu biết trong một thời gian – trong một lúc nào đó, họ có thể tin vào câu chuyện “ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng” – nhưng sau một phần tư thế kỷ hay hơn lâu hơn, những câu chuyện như thế chẳng còn ai tin nữa. Trước đây đã có sự đảo lộn trong toàn cầu hóa – mức độ hội nhập kinh tế toàn cầu do nhiều biện pháp khác nhau, đã tụt xuống sau Thế chiến thứ nhất1 và
1 Một vài sự thay đổi phải được thực hiện bằng cách thay đổi kiểu mẫu sản xuất, và điều này có thể tái diễn, khi các nền kinh tế trên thế giới dựa vào dịch vụ nhiều hơn.
66
Có thể có một thế giới khác
tình trạng này có thể tái diễn. Thế giới đã chứng kiến sự khởi đầu của những phản ứng dữ dội chống lại toàn cầu hóa, thậm chí ở những quốc gia có nhiều người hưởng lợi nhất, khi toan tính của các hãng Ấn Độ, Trung Quốc và Dubai muốn mua lại các công ty trong thế giới phát triển đã gặp phải sự chống đối.
Chúng ta không thể tránh được một số vấn đề về toàn cầu hóa và chúng ta phải học cách đương đầu với chúng: các lý thuyết kinh tế có giá trị lâu dài, sẽ được giải thích ở những chương sau, lập luận rằng toàn cầu hóa sẽ dẫn đến sự gia tăng bất công tại các quốc gia công nghiệp tiên tiến, khi đồng lương, nhất là lương của những công nhân không có kỹ năng, bị giảm sút. Áp lực đè nặng xuống tiền lương có thể đối phó được, nhưng đến lúc đó, nạn thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngay cả những nhà chính trị có thế lực nhất, dù nỗ lực hết mình cũng không thể hủy bỏ những quy luật kinh tế này. Tuy nhiên, họ có thể giúp các doanh nghiệp của chúng ta điều chỉnh theo sự chuyển đổi lớn lao của xã hội toàn cầu, cũng như quốc gia-nhà nước đã góp phần vào sự chuyển tiếp sang công nghiệp hóa từ hơn một thế kỷ trước1.
Ngày nay, chúng ta biết rằng nhiều vấn đề liên quan đến toàn cầu hóa là sản phẩm của chính chúng ta – là hậu quả của cách thức vận hành toàn cầu hóa. Tôi phấn khởi nhìn thấy những phong trào quần chúng, đặc biệt ở châu Âu, kêu gọi xóa nợ, và khi tôi nhìn thấy lãnh đạo của phần lớn các nước công nghiệp tiên tiến kêu gọi một chế độ thương mại công bằng hơn, thực hiện một việc gì đó trước sự nóng lên của trái đất, và tự cam kết sẽ cắt giảm sự nghèo đói còn phân nửa vào
1 Xem Karl Polyani, Sự chuyển đổi lớn lao: Nguồn gốc chính trị và kinh tế của thời đại của chúng ta (Boston: nhà xuất bản Beacon Press, 2001). Trong phần mở đầu lần tái bản năm 2001 của tác phẩm cổ điển phát hành năm 1944 này, tôi đã miêu tả tính tương đồng giữa hai sự đổi thay mang tính lịch sử trên.
67
vận hành Toàn cầu hóa
năm 2015. Nhưng có một khoảng cách giữa lời nói hoa mỹ và thực tế việc làm – nhiều vị lãnh đạo trong số này dẫn đầu công chúng trong các chế độ dân chủ của họ, họ có thể toàn tâm toàn ý cam kết thực hiện những mục tiêu cao cả đó, song chỉ trong những điều kiện là việc thực hiện này không làm hao tốn của họ một chút gì.
Tôi hy vọng là quyển sách này sẽ giúp làm thay đổi cách suy nghĩ – khi những người sống trong thế giới đang phát triển nhìn thấy một cách rõ ràng hơn hậu quả của một số chính sách mà các chính phủ của họ đã thực hiện. Tôi hy vọng cuốn sách sẽ thuyết phục được nhiều người, ở mọi quốc gia, rằng “có thể có một thế giới khác”. Thậm chí còn hơn thế nữa: rằng “một thế giới khác là điều cần thiết và chắc chắn sẽ phải như thế”. Chúng ta không thể tiếp tục theo đuổi tiến trình đã vạch ra. Các lực lượng dân chủ rất mạnh: cử tri sẽ không cho phép tiếp tục cách vận hành toàn cầu hóa như hiện nay. Chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy những biểu hiện về toàn cầu hóa trong các cuộc bầu cử ở châu Mỹ Latin và nhiều nơi khác. Thông tin đáng phấn khởi là các nền kinh tế không phải là những con số không. Chúng ta có thể cơ cấu lại toàn cầu hóa để cho những người ở cả thế giới phát triển và đang phát triển, cho thế hệ hiện nay và thế hệ mai sau, đều có thể hưởng lợi – cho dù sẽ có một số người có liên quan bị thua thiệt và họ sẽ chống lại những đổi thay này. Chúng ta có thể có những nền kinh tế và xã hội mạnh mẽ hơn, tác động nhiều hơn lên các giá trị, như văn hóa, môi trường và bản thân cuộc sống.
68
Những lời hứa hẹn phát triển
Chương 2
Những lời
hứa hẹn phát triển
Những con đường nhỏ ở Karnataka thuộc miền nam Ấn
Độ đầy ổ gà, và ngay cả những đoạn đường ngắn cũng phải ngồi ô tô hàng giờ liền. Các lao động nữ ngồi trên đường đập đá bằng tay. Cảnh quan được điểm xuyết bằng hình ảnh những người đàn ông đơn độc đang dùng bò cày xới những mảnh ruộng đầy bụi bặm. Ở những quầy hàng ven đường, người bán hàng bán bánh bích quy và trà. Đó là một khung cảnh tiêu biểu ở Ấn Độ, nơi phần lớn dân số còn mù
chữ và thu nhập trung bình 2,70 USD mỗi ngày. Cách đó chỉ vài dặm, tại thành phố Bangalore, một cuộc cách mạng đang diễn ra. Các bản doanh nức tiếng toàn cầu của hãng công nghệ cao và tư vấn khổng lồ Infosys Technologies của Ấn Độ đã trở thành biểu tượng của phong trào chuyển giao một phần hoạt động của doanh nghiệp cho nước ngoài1 đang gây tranh cãi, trong đó các công ty Mỹ thuê nhân công
1 Outsourcing: thuật ngữ kinh doanh xuất hiện từ thập niên 1980 để chỉ cách sắp xếp tổ chức sản xuất và lao động thuộc các doanh nghiệp, theo đó, các nhà sản xuất giao phó một phần hoạt động không quan trọng bên trong xí nghiệp của mình cho các công ty nước ngoài chuyên quản lý các loại hoạt động này. Mục đích của lựa chọn trên nhằm hạ giảm các chi phí của doanh nghiệp, tiết kiệm năng lượng để dành cho một hoạt động đặc biệt nào đó, hoặc để sử dụng lao động, vốn, công nghệ và tài nguyên một cách hữu hiệu hơn. (ND)
69
vận hành Toàn cầu hóa
Ấn Độ để làm những công việc trước đây được thực hiện tại Mỹ hay châu Âu. Mặc dù các công ty đã chuyển việc sản xuất sang những nước có tiền lương thấp từ nhiều thập kỷ qua, sự thành công của Ấn Độ trong việc thu hút việc làm có kỹ năng cao như lập trình máy tính và dịch vụ khách hàng đã làm phát sinh nhiều lo ngại ở Mỹ.
Hãng Infosys thu được khoảng 1,5 tỉ USD lợi nhuận mỗi năm và đã trở thành mối lợi của nền kinh tế trong nước. Công nhân của họ dùng tiền tậu ô tô, mua nhà, sắm quần áo và đến với các nhà hàng, quán bar mới mọc lên tại Bangalore. Ai đến thăm Bangalore cũng cảm thấy được sự thịnh vượng đang lên ở đây. Nhưng sự phấn khởi dành cho thế giới mới này đã không được chia sẻ một cách rộng rãi. Trong cuộc bầu cử cả nước vào năm 2004, đảng cầm quyền Bharatiya Janata (BJP) xoay quanh cương lĩnh “Ấn Độ tươi sáng” – và với đời sống của khoảng 250 triệu người, đất nước Ấn Độ sáng tươi thật, khi mà mức sống của họ đã tăng hết sức nhanh chóng trong hai thập niên vừa qua. Nhưng chỉ ở bên ngoài Bangalore 10 dặm, và thậm chí ở vài nơi trong thành phố, cái nghèo xuất hiện cùng khắp; đối với 800 triệu dân Ấn Độ còn lại, nền kinh tế chẳng sáng sủa một chút nào.
Khoảng 80% dân số thế giới sống trong những nước đang phát triển, nổi bật với thu nhập thấp kém, còn cái nghèo thì cao vòi vọi, thất nghiệp tăng cao và giáo dục đi xuống. Đối với những nước này, toàn cầu hóa vừa mang lại những nguy cơ lớn lao, vừa tạo ra những cơ hội tốt. Vận hành toàn cầu hóa theo cách làm giàu cho cả thế giới đòi hỏi phải nhắm vào người dân ở những nước đó.
Trong chương này, chúng ta sẽ thấy là không có những giải pháp thần kỳ hoặc những phương sách đơn giản. Lịch sử các nền kinh tế phát triển được đánh dấu bằng hành động viển
70
Những lời hứa hẹn phát triển
vông đi tìm “đáp án”, sự chán nản trước thất bại của một chiến lược dẫn đến niềm hy vọng là cái sau sẽ chạy tốt hơn1. Chẳng hạn như giáo dục là quan trọng – nhưng nếu không có công ăn việc làm cho những người đã được giáo dục thì sẽ không có sự phát triển. Điều quan trọng đối với các nước phát triển là mở cửa thị trường cho những nước nghèo hơn – nhưng nếu các nước đang phát triển không có đường sá hay cửa khẩu để đưa hàng hóa ra thị trường thì họ sẽ làm gì với những hàng hóa đó? Nếu năng suất trong nông nghiệp thấp đến mức người nông dân không có đủ để bán, cửa khẩu và đường sá sẽ ít có ảnh hưởng. Phát triển là một tiến trình có liên quan đến mọi khía cạnh của xã hội, thu hút nỗ lực của mọi người: thị trường, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, hợp tác xã, các định chế phi lợi nhuận.
Một đất nước đang phát triển chỉ đơn thuần mở rộng cửa cho thế giới bên ngoài không nhất thiết gặt hái được thành quả của toàn cầu hóa. Thậm chí nếu GDP của họ tăng thì sự phát triển của họ cũng có thể bền vững hoặc không bền vững. Và ngay cả khi phát triển bền vững thì phần lớn dân của họ vẫn cảm thấy cuộc sống tồi tệ hơn.
Cuộc tranh luận về toàn cầu hóa kinh tế được đan xen với những cuộc tranh cãi về lý thuyết kinh tế và các giá trị. Cách nay một phần tư thế kỷ, ba trường phái tư tưởng kinh tế đua tranh với nhau, đó là trường phái thị trường tự do theo hướng tư bản chủ nghĩa, trường phái cộng sản và trường phái kinh tế thị trường có quản lý. Tuy nhiên, từ năm 1989, ba trường phái trên rút lại còn hai, và sự tranh luận hiện nay chủ yếu diễn ra giữa những người quảng bá ý thức hệ về thị trường tự do và
1 Xem William Easterly, Hành trình khó khăn tới tăng trưởng: Những cuộc mạo hiểm và vận rủi của các nhà kinh tế ở vùng nhiệt đới (Cambridge, MA:MIT Press, 2001)
71
vận hành Toàn cầu hóa
những người nhận thức vai trò quan trọng của cả chính phủ lẫn khu vực tư nhân. Tất nhiên, những ý kiến và quan điểm này cũng chồng chéo lên nhau. Ngay cả những người ủng hộ thị trường tự do cũng nhìn nhận rằng một trong những vấn đề nan giải ở châu Phi là sự yếu kém của chính quyền. Và ngay cả những người chỉ trích chủ nghĩa tư bản tự do cũng nhìn nhận tầm quan trọng của thị trường.
Mặc dù vậy, cũng còn có một khoảng cách lớn lao giữa những quan điểm khác biệt nhau, và chúng ta cũng đừng ngốc nghếch khi nghĩ rằng không có sự khác biệt nào cả. Ở chương cuối, chúng tôi sẽ mô tả chiến lược của Đồng thuận Washingon về phát triển. Những chính sách này nhằm vào việc giảm thiểu vai trò của chính phủ, nhấn mạnh sự tư nhân hóa (bán các xí nghiệp quốc doanh cho khu vực tư nhân), tự do hóa thị trường thương mại và tư bản (triệt bỏ các hàng rào mậu dịch và các chướng ngại đối với các dòng tư bản tự do), và bãi bỏ các quy định (loại bỏ những quy định về chỉ đạo kinh doanh). Chính phủ có vai trò duy trì sự ổn định có tính vĩ mô nhưng tập trung chú ý vào ổn định giá cả hơn là sự ổn định của sản lượng, nhân dụng hay phát triển. Có rất nhiều việc để làm và không nên làm: chính phủ không nên dính vào việc xúc tiến các ngành công nghiệp đặc biệt; nên củng cố các quyền về tài sản; dừng tham nhũng. Giảm thiểu vai trò của chính phủ có nghĩa là giảm thuế – song phải giữ cho ngân sách được cân đối.
Trên thực tế, Đồng thuận Washington ít chú trọng đến sự công bằng. Một số người ủng hộ nó tin vào các học thuyết kinh tế nhắm đến lợi ích của những người có thu nhập trung bình và thấp, và cho rằng dù gì thì mọi người cũng được hưởng lợi – cho dù không có mấy bằng chứng ủng hộ cho một kết luận như vậy. Những người khác thì tin rằng sự công bằng là lĩnh vực của các nhà chính trị, không phải của các nhà kinh tế: các
72
Những lời hứa hẹn phát triển
nhà kinh tế nên tập trung vào tính hiệu quả, và theo họ nghĩ, các chính sách của Đồng thuận Washington nên hướng vào đó. Quan điểm trung dung, mà tôi đang giữ, cho là chính phủ có một vai trò tích cực hơn, cả trong việc vận động phát triển lẫn bảo vệ người nghèo1. Lý thuyết kinh tế và kinh nghiệm lịch sử chỉ dẫn cho chính phủ những việc cần làm. Trong lúc thị trường giữ vai trò trung tâm của bất cứ một nền kinh tế thành công nào, chính phủ cần tạo nên một bầu không khí cho phép doanh nghiệp làm ăn phát đạt và tạo ra công ăn việc làm.. Chính phủ cũng cần xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất và thể chế – chẳng hạn như luật lệ đảm bảo cho một hệ thống ngân hàng lành mạnh và các thị trường an toàn, trong đó nhà đầu tư tin tưởng rằng họ không bị lừa gạt. Các thị trường phát triển một cách nghèo nàn tiêu biểu bởi nạn độc quyền và tình trạng thao túng giá cả của một số nhỏ người bán; giá cả cao trong một lĩnh vực quan trọng như vô tuyến viễn thông cản trở sự phát triển, do đó chính phủ phải có các chính sách cạnh tranh mạnh mẽ. Có nhiều lĩnh vực khác, trong đó bản thân thị trường cũng không vận hành tốt. Có những cái thật quá nhiều như tình trạng ô nhiễm và sự xuống cấp của môi trường, lại có những cái quá ít, như sự nghiên cứu chẳng hạn. Điều ngăn cách giữa các nước phát triển và những nước kém phát triển không phải là khoảng cách về tài nguyên mà là khoảng cách về tri thức, nó giải thích vì sao sự đầu tư trong giáo dục và công nghệ – chủ yếu do chính phủ – lại quan trọng như vậy.
1 Quan điểm được chọn lựa này có phần nào giống với “Đường lối thứ ba” thường được liên kết với Thủ tướng Anh Tony Blair, Tổng thống Mỹ Bill Clinton, và Thủ tướng Đức Gerhard Schroeder. Bản Báo cáo kinh tế hàng năm của Tổng thống vào những năm đầu trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông Clinton đã nêu rõ những quan điểm này, liên quan đến việc chính phủ nên làm gì trước những hạn chế của thị trường.
73
vận hành Toàn cầu hóa
Trên thực tế, những người ủng hộ quan điểm trung dung này cũng nhấn mạnh đến nhân dụng, công bằng xã hội, và những giá trị phi vật thể như sự bảo vệ môi sinh nhiều hơn so với những người ủng hộ quan điểm về một chính phủ có vai trò tối thiểu. Tình trạng thất nghiệp chẳng hạn, không chỉ là sự lãng phí tài nguyên; nó còn làm băng hoại nhận thức của mỗi cá nhân về giá trị của bản thân họ, đồng thời tạo ra vô số những hậu quả xã hội đáng lo ngại – trong đó có cả bạo động. Những người đề xướng quan điểm này thường biện luận cho sự cải cách chính trị, tạo cho người công dân có thêm tiếng nói trong việc đề ra quyết định; họ lưu ý rằng việc ra điều kiện và các định chế kinh tế như các ngân hàng trung ương hoạt động độc lập không chịu trách nhiệm về mặt chính trị đã làm suy yếu nền dân chủ. Ngược lại, những người ủng hộ Đồng thuận Washington tỏ ra thiếu tin tưởng vào các tiến trình dân chủ, chẳng hạn như họ lập luận rằng sự độc lập của các ngân hàng trung ương là hết sức cần thiết cho việc đảm bảo một chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Người ta có thể đặt câu hỏi là làm thế nào mà các nhà kinh tế – vốn được đào luyện nhiều năm ở nhà trường, đạt đến trình độ cao – lại không thể đồng ý với nhau về điều gì sẽ dẫn đến sự phát triển? Thủ tướng chính phủ một nước phải làm gì khi một cố vấn của IMF đến thăm ông và đề nghị ông làm theo các phương sách của IMF, rồi sau đó, ông tiếp một cố vấn là học giả và người này khuyên ông làm ngược lại? Cả hai bắt đầu bằng việc kêu gọi ông đi theo một lý thuyết kinh tế, các quy luật phổ quát của kinh tế học, các quy luật cung cầu. Nhưng lý thuyết kinh tế thường không vững chắc. Phương sách của Đồng thuận Washington dựa vào một lý thuyết về kinh tế thị trường giả định về những thông tin hoàn hảo, cạnh tranh hoàn hảo, và những thị trường nhiều rủi ro – một sự lý tưởng hóa
74
Những lời hứa hẹn phát triển
thực tế không mấy thích hợp với các nước đang phát triển nói riêng. Kết quả của một lý thuyết tùy thuộc vào những giả định của nó – và nếu những giả định đi quá xa thực tế, các chính sách dựa trên mô thức đó cũng sẽ đi đến thất bại.
Những tiến bộ của lý thuyết kinh tế vào các thập niên 1970 và 1980 đã làm sáng tỏ các mặt hạn chế của thị trường; chúng cho thấy rằng những thị trường không bị ràng buộc sẽ không dẫn đến hiệu quả kinh tế một khi thông tin không hoàn chỉnh hoặc thị trường bị bỏ lỡ (chẳng hạn như thị trường bảo hiểm hàng hóa bảo hiểm những rủi ro lớn xảy đến cho các cá nhân). Và thông tin luôn không hoàn chỉnh, còn thị trường thì luôn không đầy đủ1. Bản thân thị trường không nhất thiết đưa đến hiệu quả kinh tế khi mà nhiệm vụ của một quốc gia là thu hút công nghệ mới, lấp dầy “lỗ hổng tri thức”: một đặc điểm chính
1 Cuộc truy tìm để hiểu được những tình huống theo đó ý tưởng của Adam Smith cho rằng thị trường, như “bởi một bàn tay vô hình”, có thể mang đến hay không mang đến hiệu quả kinh tế, (ý tưởng ấy) đã trở thành trung tâm của các cuộc nghiên cứu kinh tế từ hai thế kỷ nay. Kenneth J.Arrow và Gerard Debreu đã đoạt giải Nobel nhờ những phân tích chặt chẽ về mặt toán học. Họ giải thích rõ những điều kiện lý tưởng theo đó Smith đúng, nhưng cũng xác định nhiều trường hợp thất bại của thị trường, ở đó Smith sai – chẳng hạn có những chi phí phát sinh(*) (như sự ô nhiễm) khi hoạt động của một cá nhân ảnh hưởng đến những người khác mà họ không được đền bù. Cuộc nghiên cứu của riêng tôi thêm vào danh sách các tình huống trong đó những thất bại của thị trường dẫn đến tình trạng thiếu hiệu năng - nơi mà thông tin không hoàn hảo và/hoặc bất cân xứng (có nghĩa là ở nơi một vài người biết được điều gì đó mà người khác không biết). Sự phân tích của Arrow và Debreu cũng giả định rằng công nghệ không thay đổi, hoặc ít nhất không bị ảnh hưởng bởi hoạt động của những người tham gia thị trường; lúc này những thay đổi về công nghệ đã ở vào trung tâm của sự phát triển.
(*) nguyên văn externalities: Trong kinh tế học, từ này có nghĩa là chi phí hay lợi lộc từ một vụ giao dịch kinh tế mà những thành phần ở bên ngoài phải gánh chịu hay được hưởng. (In economics, an externality is a cost or benefit from an economic transaction that parties external to the transaction bear). (ND)
75
vận hành Toàn cầu hóa
của phát triển. Ngày nay, hầu hết các học giả kinh tế đều nhất trí rằng bản thân thị trường không mang lại hiệu quả; câu hỏi đặt ra là chính phủ có cải thiện được vấn đề hay không.
Trong lúc các nhà kinh tế khó mà tiến hành những thử nghiệm nhằm kiểm tra các lý thuyết của họ như các nhà hóa học hay vật lý thường làm, thế giới cung cấp một loạt những thử nghiệm tự nhiên khi hàng chục quốc gia áp dụng thử các chiến lược khác nhau. Điều đáng tiếc là do mỗi quốc gia có lịch sử và hoàn cảnh khác nhau và ở vô số tình tiết trong chính sách của họ – và những tình tiết làm nên chuyện – thường khó mà có được một sự giải thích rõ ràng. Tuy nhiên, điều rõ ràng là có những khác biệt đầy ấn tượng trong cách thực hiện, những quốc gia thành công nhất là những nước ở châu Á, và ở hầu hết những nước này, chính phủ đóng một vai trò rất tích cực. Khi chúng ta xem xét cẩn thận hiệu quả của các chính sách đặc biệt, những kết luận này được củng cố thêm: có một sự phù hợp đáng chú ý giữa điều mà lý thuyết kinh tế khuyên chính phủ nên làm và điều mà các chính phủ ở Đông Á đang làm. Cũng vì lẽ đó, các lý thuyết kinh tế dựa trên thông tin không hoàn chỉnh và các thị trường không hoàn thiện đầy những rủi ro đã dự báo rằng những dòng vốn ngắn hạn lưu thông tự do – một đặc điểm chủ yếu của chính sách cơ bản về thị trường – sẽ không tạo nên sự tăng trưởng nào, mà sự bất ổn cũng lại phát sinh.
Hai mươi lăm năm về trước, sẽ thật không thể hiểu được nếu có một cuộc tranh luận về trào lưu chính thống thị trường và các chính sách của Đồng thuận Washington. Trên thực tế, chúng đã không được thử nghiệm. (Tất nhiên, những trở ngại về mặt lý thuyết và những trải nghiệm lịch sử buộc chúng ta phải thận trọng). Ngày nay, khi chúng ta chứng kiến thành công hay thất bại, khó mà hiểu được cuộc tranh luận đó sẽ tiếp
76
Những lời hứa hẹn phát triển
tục như thế nào – không kể đến vai trò của ý thức hệ và những quyền lợi do các chính sách của Đồng thuận Washington mang lại. (Thậm chí khi nền kinh tế không phát triển, cũng có một vài lĩnh vực có thể vận hành tốt nhờ vào các chính sách này).
Nhiệm vụ của các nước kém phát triển hiện nay ở một mức độ nào đó dễ dàng hơn nhiệm vụ mà châu Âu và nước Mỹ phải đối mặt khi họ thực hiện công nghiệp hóa vào thế kỷ 19: họ (tức những nước kém phát triển – ND) chỉ cần đuổi kịp thay vì phải tiến vào một lãnh địa còn xa lạ. Ấy thế mà nhiệm vụ đó tỏ ra bất khả thi đối với phần lớn các quốc gia nằm bên ngoài châu Á – đang là một thí dụ thành công nhất về phát triển kinh tế mà thế giới chưa từng chứng kiến. Thành công của họ lớn lao – và họ còn thành công về lâu về dài – đến nỗi người ta dễ dàng cho đó là điều hiển nhiên. Nhưng sự phát triển của châu Á còn làm ngạc nhiên nhiều chuyên gia vào những thập niên 1950-1960, như nhà kinh tế Gunnar Myrdal từng đoạt giải Nobel, người đã đánh giá viễn cảnh của châu Á là ảm đạm thật sự1. Theo sự hiểu biết thông thường, những quốc gia như Hàn Quốc sẽ bám lấy những gì họ có thế mạnh, đó là trồng lúa. Điều kỳ diệu ở Đông Á cho thấy sự phát triển nhanh chóng – và phát triển trong công bằng, trong đó, cả người nghèo và người giàu cùng được hưởng – là điều khả dĩ, cho dù không có một điều kiện tiên quyết và đặc biệt nào được đặt ra. Sự thất bại ở nhiều nơi khác cũng cho thấy phát triển không phải là chuyện đương nhiên.
Sự khác biệt về thành tích đạt được giữa các vùng là điều rất đáng kinh ngạc. Trong lúc hơn 30 năm qua, tỉ lệ tăng trưởng bình quân của vùng Đông Á là 5,9% (6,5% trong 15 năm vừa qua) thì châu Mỹ Latin và châu Phi tham gia cuộc chạy đua để
1 Gunnar Myrdal, Bi kịch châu Á: Một cuộc điều tra về cái nghèo của các nước (New York; Pantheon, 1968)
77
vận hành Toàn cầu hóa
cuối cùng đạt được tỉ lệ tăng trưởng thấp nhất, với thu nhập tính trên đầu người của vùng châu Phi hạ Sahara xuống đến mức bình quân 0,2% mỗi năm trong suốt 30 năm qua1. Nhưng cả hai nơi đó đã bị nước Nga bỏ xa. Từ lúc bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, thu nhập của Nga bị sụt giảm 15%; thu nhập trên đầu người giảm đến 40% trong thập kỷ đầu tiên, nhưng nền kinh tế Nga rốt cục đã bắt đầu tăng trưởng trở lại trong vòng 5 năm qua.
Đông Á
Toàn cầu hóa – dưới hình thức tăng trưởng do xuất khẩu – giúp đưa các nước Đông Á ra khỏi cảnh nghèo khó. Toàn cầu hóa khiến cho điều này có thể xảy ra, tạo cơ hội tham gia thị trường quốc tế cũng như tiếp cận một nền công nghệ có thể giúp nâng cao năng suất. Nhưng những nước này đã vận dụng toàn cầu hóa: đó là năng lực của họ trong việc tận dụng toàn cầu hóa, mà không bị toàn cầu hóa lợi dụng, điều đó góp phần lớn vào thành công của họ.
Những nước này cũng đồng thời đạt được tăng trưởng và ổn định. Sau một quãng thời gian gần một phần tư thế kỷ, một vài nước chưa trải qua một năm nào không tăng trưởng, những nước khác chỉ có một năm tăng trưởng kém; ở khía cạnh đó, thành tích của họ tốt hơn thành tích của bất cứ một quốc gia công nghiệp tiên tiến nào. Thậm chí trong những năm suy thoái 1997-1998, Trung Quốc và Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng. Trung Quốc theo đuổi chính sách vĩ mô mở rộng (không phải là chính sách do IMF khuyến cáo cho các nước Đông Á) và nhận thấy mức tăng trưởng của họ giảm dần xuống đến mức đáng kể là 7% trước khi tiếp tục lên đến mức
1 Thành tích của họ trong 15 năm qua có khá hơn chút ít – một sự gia tăng lợi tức tính trên đầu người hàng năm rất ít, chỉ có 0,2%
78
Những lời hứa hẹn phát triển
cao hơn là 8% và 9%. (Một số người nghĩ rằng những con số đó còn dưới mức tăng trưởng thực sự). Nếu các tỉnh của Trung Quốc được xem là những quốc gia riêng biệt – và với dân số đôi khi vượt quá 50 triệu người, chúng còn rộng lớn hơn đa số các nước trên thế giới – thì phần lớn những nước phát triển nhanh nhất trên thế giới sẽ nằm ở Trung Quốc1.
Điều quan trọng là những chính phủ này đảm bảo rằng lợi tức có được do sự tăng trưởng không đến với một số ít người mà được chia sẻ rộng rãi2. Họ chẳng những tập trung vào sự ổn định giá cả, mà còn vào sự ổn định thật sự, đảm bảo tạo công ăn việc làm mới đồng thời với việc đưa những người mới vào nghề tham gia vào lực lượng lao động. Sự nghèo khó hạ giảm một cách ấn tượng – ở Indonesia chẳng hạn, số người nghèo khổ (thu nhập 1USD mỗi ngày) giảm từ 28% xuống còn 8%
1 Xem tài liệu của Ngân hàng Thế giới: Trung Quốc năm 2020: Những thách thức về mặt phát triển trong Thế kỷ mới (Washington D.C.: World Bank, 1997), trang 3, có thể xem tại http://www-wds.wordbank.org/servlet/WDS/ IB/1997/09/01/000009265_3980625172933/Rendered/PDF/multi0page.pdf.
2 Từ năm 1970 (đến nay), mức gia tăng lợi tức tính trên đầu người là: Trung Quốc 923% (bình quân 6,8% mỗi năm); Indonesia 286% (bq 4% năm); Hàn Quốc 566% (bq 5,6% năm); Malaysia 283% (bq 3,9% năm); Thái Lan 347% (bq 4,4% năm). Cho dù dữ liệu về sự nghèo đói trên một quãng thời gian dài không chắc chắn và không nhất quán, có vẻ như trong không đầy hai thập kỷ, với tiêu chuẩn nghèo là mức thu nhập 2USD/ngày, tỉ lệ nghèo đói ở Trung Quốc giảm từ 67% xuống còn 47% trong thời gian từ năm 1987 đến năm 2001; ở Indonesia giảm từ 76% xuống còn 52% (1987-2002); ở Malaysia giảm từ 15% xuống còn 9% (1987-1997); và ở Thái Lan giảm từ 37% xuống còn 32% (1992-2000). Ở mức thu nhập 1USD/ngày, sự tiêu diệt cái nghèo còn ấn tượng hơn. Xem tài liệu của Ngân hàng Thế giới, các Chỉ số Phát triển Thế giới, GDP tính trên đầu người (mức ổn định 2.000 USD) và Tỉ lệ nghèo đói tính trên đầu người ở mức 2USD/ngày (PPP) (Percentage of Population: Tỉ lệ Dân số). Ngân hàng Thế giới; Các dữ liệu và con số thống kê về phát triển; có thể đăng ký xem ở www.worldbank.org/data/onlinedatabases/on linedatabases.html.
79
vận hành Toàn cầu hóa
trong khoảng thời gian giữa những năm 1987 và 20021 – trong lúc sức khỏe và tuổi thọ gia tăng và sự biết chữ trở nên gần gũi với mọi người. Năm 1960, thu nhập bình quân đầu người ở Malaysia là 784 USD/năm (trên cơ sở mệnh giá đồng USD năm 2000), hơi thấp hơn so với Haiiti vào cùng thời điểm trên. Ngày nay, con số đó là trên 4.000 USD. Mức độ giáo dục trung bình ở Hàn Quốc vào năm 1960 ở dưới mức bốn năm; ngày nay Hàn Quốc dẫn đầu về những ngành công nghiệp công nghệ cao như sản xuất chip điện tử và thu nhập của họ đã tăng 16 lần trong vòng 40 năm qua2. Trung Quốc bắt đầu cuộc hành trình muộn hơn, nhưng những thành tựu của họ, ở một mức độ nào đó còn đáng chú ý hơn. Thu nhập tăng gấp hơn 8 lần kể từ năm 1978; sự nghèo khổ ở mức 1 USD một ngày giảm đến ba phần tư3.
Nhưng trong lúc những nước có nền kinh tế “thị trường” này tham gia sâu vào toàn cầu hóa, thị trường của chính họ vẫn chưa hết ràng buộc. Toàn cầu hóa được cân đong đo đếm, chính phủ can thiệp vào nền kinh tế một cách thận trọng nhưng rộng khắp. Tất nhiên, họ làm tất cả những việc thông thường dành cho chính phủ. Họ mở rộng đồng thời giáo dục tiểu học và giáo dục cao đẳng, công nhận sự thành công đó đòi hỏi cả việc học chữ phổ thông lẫn một lực lượng gồm những người có kỹ năng cao có thể hấp thu công nghệ tiên tiến. Họ đầu tư quy mô lớn cho hạ tầng cơ sở như bến cảng, đường sá, và cầu, tất cả những phương tiện này tạo điều kiện dễ dàng
1 Sử dụng phương thức 1 USD/ngày. Xem Ngân hàng Thế giới, Các chỉ số phát triển thế giới. Ngân hàng Thế giới, Các dữ liệu và con số thống kê về phát triển, có thể đăng ký xem tại www.worldbank.org/data/ onlinedatabases/ onlinedatabases.html.
2 Nguồn tư liệu: Dữ liệu IFS, 1963-2003; có thể đăng ký xem tại http://ifs.apdi.net. 3 Từ 64% năm 1981 còn 16% năm 2001. Xem Chen và Ravallion, Những người nghèo nhất thế giới sống như thế nào từ đầu thập niên 1980? sđd.
80
Những lời hứa hẹn phát triển
hơn cho việc vận chuyển hàng hóa và hạ giảm chi phí thực hiện việc mua bán và chuyên chở hàng hóa ra khỏi nước. Họ cũng đi xa hơn danh mục thông thường những gì mà một chính phủ tiêu biểu cần làm. Các chính phủ ở Đông Á giữ vai trò rộng lớn trong việc hoạch định và cải tiến công nghệ, chọn lựa những lĩnh vực nào đất nước họ có thể phát triển thay vì để cho một mình thị trường quyết định. Từ thập niên 1960 trở về sau, những nước này nỗ lực rất nhiều trong việc phát triển các ngành công nghiệp nội địa. Việc đầu tư vào khu vực công nghệ cao giúp Đài Loan, Hàn Quốc, và Malaysia trở thành những nhà sản xuất hàng đầu về hàng điện tử, máy tính, và chip máy tính. Thêm vào đó, họ được liệt vào số những nhà sản xuất có năng lực nhất thế giới về các sản phẩm truyền thống như sắt thép và hàng nhựa.
Mục đích của chính phủ là không tỏ ra “khôn” hơn thị trường, hay chọn lựa ra kẻ thắng cuộc tốt hơn thị trường đã và sẽ làm. Nhưng họ nhận thức rằng thường có những hệ quả to lớn: những tiến bộ của công nghệ ở khu vực này có thể kích thích tăng trưởng ở khu vực khác. Họ nhận thấy rằng thị trường thường không phối hợp tốt các hoạt động mới mẻ: các hãng sản xuất sử dụng nhựa dẻo sẽ không phát triển được nếu không có nhà cung cấp nhựa dẻo ở địa phương, ngược lại sẽ rất rủi ro cho một xí nghiệp khi sản xuất nhựa dẻo mà không có một nhu cầu (đơn hàng) chắc chắn nào đặt ra cho sản phẩm của họ. Họ cũng nhận thức rằng việc cho các ngành công nghiệp mới vay tiền không được các ngân hàng quan tâm bằng việc cung ứng tài chính cho nhà đầu cơ bất động sản hoặc (như trường hợp thường xảy ra ở các nước đang phát triển) cho chính phủ vay.
Các nhà kinh tế đã bàn bạc rất nhiều về tầm quan trọng của tiết kiệm và đầu tư cho phát triển, nhưng trước khi Đông
81
vận hành Toàn cầu hóa
Á đảm nhận công việc này, các nhà soạn thảo chính sách cứ bỏ mặc nó cho thị trường. Các nhà kinh tế có thể than thở về mức tiết kiệm thấp, nhưng họ lại nghĩ chính phủ cũng không làm được gì hơn. Các chính phủ ở Đông Á chứng tỏ điều này không đúng. Đồng tiền họ sử dụng cho đầu tư xuất phát từ chính người dân của họ, khi họ khuyến khích tiết kiệm; và như vậy, những nước này không lệ thuộc vào dòng vốn trôi nổi từ nước ngoài. Gần như tất cả những quốc gia trong vùng tiết kiệm được 25% GDP hay hơn nữa; ngày nay, Trung Quốc có tỉ lệ tiết kiệm quốc gia vượt quá 40% GDP, trái với tỉ lệ 14% ở Mỹ. Tại Singapore, 42% thu nhập từ đồng lương bị cưỡng bách bỏ vào “quỹ tiết kiệm”. Ở những quốc gia khác, như Nhật Bản chẳng hạn, các định chế tiết kiệm do chính phủ lập ra luồn sâu vào tận những khu vực nông thôn, mang lại cho người dân một cách thức tiết kiệm an toàn và thuận lợi.
Tất cả những quốc gia này tin vào tầm quan trọng của thị trường, nhưng họ nhận thức rằng thị trường phải được thiết lập và quản lý, và đôi khi các hãng tư cũng không thể làm những gì cần làm. Nếu các ngân hàng tư không thiết lập chi nhánh ở các vùng nông thôn để thu hút tiết kiệm, chính phủ phải nhảy vào. Nếu ngân hàng tư không cung cấp tín dụng dài hạn, chính phủ phải nhảy vào. Nếu ngân hàng tư không cung cấp những phương tiện cơ bản cho sản xuất – như thép và nhựa – chính phủ cần nhảy vào nếu có thể làm một cách hữu hiệu. Hàn Quốc và Đài Loan đã chứng tỏ rằng họ có thể làm như thế; chính phủ Hàn Quốc tiến hành thận trọng, song sau khi xác định là có thể đâu tư một cách có lợi, họ tiến xa về phía trước, và đến năm 1968, thành lập một trong những công ty thép hoạt động có hiệu quả nhất trên thế giới. Trước đó, năm 1954, chính quyền Đài Loan giúp thành lập Tập đoàn nhựa Formosa hoạt động hết sức thành công.
82
Những lời hứa hẹn phát triển
Trong lúc phần lớn các nước trong vùng đã thực hiện tự do hóa – mở cửa thị trường và giảm bớt những quy định của chính phủ – Đài Loan hành động chậm rãi, với một tốc độ phù hợp với khả năng ứng phó của nền kinh tế. Trong lúc các chính phủ châu Á khác nhắm vào sự tăng trưởng qua xuất khẩu, đặc biệt vào những ngày đầu tiên của quá trình phát triển, họ hạn chế hàng hóa nhập khẩu vốn có thể làm tổn hại hoạt động của ngành sản xuất trong nước và nông nghiệp.
Một vài quốc gia như Trung Quốc, Malaysia, và Singapore, gọi mời đầu tư nước ngoài; những nước khác, cụ thể là Hàn Quốc và Nhật Bản, cảm thấy thoải mái khi không có đầu tư nước ngoài và cũng tăng trưởng. Ngay cả những nước đã mời gọi nhà đầu tư nước ngoài cũng phải chắc ý là các hãng sản xuất của họ sẽ chuyển giao công nghệ và huấn luyện công nhân trong nước để họ có thể đóng góp vào các nỗ lực phát triển của xứ sở. Malaysia không giao dầu hỏa của họ cho các công ty dầu hỏa nước ngoài, nhưng nhờ họ giúp khai thác nguồn tài nguyên, đồng thời học hỏi các thứ; ngày nay công ty dầu hỏa do chính phủ sở hữu là Petronas đang cung cấp dầu cho các nước phát triển khác. Bằng cách tự quản lý công ty dầu hỏa của mình, họ có thể chắc chắn rằng giá trị nguồn tài nguyên của họ ở lại Malaysia thay vì được chuyển ra nước ngoài như lợi nhuận.
Cuộc tranh luận về tự do hóa thị trường tư bản có tính chất thiên vị hơn. Ngay cả khi mở cửa thị trường cho đầu tư dài hạn, hai người khổng lồ của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc đã hạn chế các dòng tư bản ngắn hạn. Họ thừa nhận rằng bạn không thể xây dựng nhà máy và tạo công ăn việc làm bằng đồng tiền nhập vào hay xuất ra nhanh chóng. Họ đã nhìn thấy những bất ổn kèm theo các dòng vốn đó, những rủi ro xảy ra mà không hề có một sự đền bù rõ ràng nào.
83
"""