" Văn Chầu - Tân Dân Thư Quán full prc pdf epub azw3 [Thơ Ca] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Chầu - Tân Dân Thư Quán full prc pdf epub azw3 [Thơ Ca] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : VĂN CHẦU CÁC BÀI VĂN CHẦU ĐỦ CÁC VỊ Nhà xuất bản : TÂN-DÂN THƯ-QUÁN Năm xuất bản : 1929 ------------------------ Nguồn sách : Thư viện quốc gia Việt nam Đánh máy : vqsvietnam Kiểm tra chính tả : Thư Võ Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 04/12/2018 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn TÂN-DÂN THƯ-QUÁN đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. Ghi chú : Nhằm lưu lại vết tích xưa của Tiếng Việt, nhóm làm ebook này đã sao y bản chánh các phương ngữ của sách gốc do Tân-Dân Thư-quán in năm 1929. MỤC LỤC 1. ĐỨC THÁNH-MẪU VĂN 2. ĐỘNG ĐÌNH THÁNH THỦY VĂN 3. CỬU-TRÙNG CÔNG-CHÚA VĂN 4. THƯỢNG-NGÀN TIÊN-CHÚA VĂN (I) 5. THƯỢNG-NGÀN CÔNG-CHÚA VĂN (II) 6. THƯỢNG-NGÀN TIÊN-CHÚA VĂN 7. THÁI NINH PHỦ VĂN 8. ĐỆ-NGŨ LONG-VƯƠNG VĂN 9. KIM-ĐỒNG NGỌC-NỮ VĂN 10. CÔNG-ĐỒNG VĂN 11. CÔ-TỔ VĂN 12. CHƯ VỊ CÁC CÔ VĂN 13. HỘI ĐỒNG VĂN 14. THÁNH-MẪU CA-ĐÀN VĂN 15. ĐỆ-TAM ĐỨC THÁNH QUẾ VĂN 16. ĐỆ-TỨ KHÂM-SAI VĂN 17. ÔNG GIÁM-SÁT VĂN 18. NGŨ VỊ HOÀNG-TỬ VĂN 19. CÁC CÔ VĂN 20. CÔ THỦY VĂN 21. CÔ CHÍN VĂN 22. CẬU QUẬN VĂN BẢN PHỤ LỤC CÁC TUỔI ĐỘI BÁT NHANG KHẢO-CỔ SƯU-TẬP VĂN CHẦU CÁC BÀI VĂN CHẦU ĐỦ CÁC VỊ GIÁ BÁN 0$30 Tân-Dân Thư-Quán 93, Phố Hàng Bông HANOI 1929 HIỆU BÙI-QUANG-Ý Số 72, 74, Phố Hàng Bông HANOI (BẮC-KỲ) Chuyên-môn đóng giầy Tây, giầy Ta, cặp-sách, yên-ngựa, v.v… Làm mũ nút chai (liège), mũ bằng dút dại (sola). Đủ các thứ hàng tơ-lụa trong nước Nam. Các thứ đồ trang-sức bằng vàng, bạc có giấy cam đoan chắc chắn. Bán buôn và bán lẻ giá nhất định và hạ hơn các hiệu khác. Xin gửi thư về lấy cuốn mẫu hàng (Catalogue). Trinh-Thám Tiểu-Thuyết Của TÂN-DÂN THƯ-QUÁN Sách dầy từ 30 đến 50 trang, giá bán từ 0$10 đến 0$20. Cuốn nào truyện cũng ly-kỳ, văn-chương cũng chải-chuốt. Một cuốn trọn truyện : ĐẤM CHẾT TƯƠI ! 0$20 HẸN GIỜ CHẾT ! 0$12 AI GIẾT QUAN TÒA ? 0$12 BỨC THƯ CỦA AI ? 0$10 XÁC CHẾT CHẠY ĐI ĐÂU ? 0$10 NGƯỜI HAY MA ? 0$15 CON KHỈ GIẾT NGƯỜI 0$10 CƯỚP QUYỀN TẠO HÓA 0$08 ANH HÙNG TƯƠNG-NGỘ (MỚI XUẤT BẢN) 0$12 CÁC BẢN VĂN CHẦU Tặng các nhà nghiên-cứu quốc văn cùng các nhà khảo sát về Thần-quyền Nam-Việt. 1. ĐỨC THÁNH-MẪU VĂN Thần kim ngưỡng phải tấu chư Tôn, Tọa vị dương-dương nghiễm nhược tồn. Cung thỉnh pháp-âm phu huệ-lực, Tùy cơ phó cảm giám trần-ngôn. * Bóng trăng loan mẫu-đơn một đóa, Gió lay mành hương xạ thoảng đưa. Có Chầu Nguyệt-điện Tiên xưa, Lánh bên cõi tục xa đưa Nam-thành. Thác hóa sinh vào nhà Lê-thị, Cải họ Trần dấu khí thiên hương. Bẩm sinh vả có phi phương, Giá danh đòi một hoa thơm trên đời. Ngụ đôi quê Phủ-dày, Thiên-bản, Phủ Nghĩa-hưng là chốn Sơn-nam ; Trẻ thơ chưa biết Thánh phàm, Treo kinh còn vết để làm dấu thiêng. Tuổi thiếu-niên cài trâm giắt lược, Giá duyên lành khuê phước một nơi ; Gối chăn vừa được quen hơi, Ai ngờ dưới nguyệt rẽ đôi tơ hường. Đạo cương thường đương thương đương nhớ, Bỗng hoa-hài lại trở gót Tiên ; Giờ Dần mồng ba tháng Thìn, Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên trần-phàm. Ấy ai làm trêu thương gợi nhớ, Chẳng hay là giang-giở vì đâu ; Lương-quân ruột rối đòi nau, Mẹ cha nào biết thảm sầu mấy cơn. Rày Chầu đã cung Tiên đền quế, Biết đâu là trần-thế xót-xa ; Có phen Tiên cũng nhớ nhà, Có ngày tháng ngự đường xa hiện về. Thăm bản quê mẹ cha đất nước, Cửa nhà Chầu sau trước mọi nơi. Thăm rồi Chúa lại ra chơi, Cây cao bóng mát là nơi duyên lành. Ngụ tính tình tiếng tơ tiếng trúc, Thương những người bạc phúc dân ngây ; Cho nên Chầu mới thử tay, Biết đâu mà lánh khôn hay mà phòng. Sự mê mòng thực hư nhường dối, Lòng trần-gian mê muội biết đâu ; Tuy rằng hồn nhiệm phách mầu, Chẳng thiêng dấu để còn đâu đến rày. Cũng có ngày cưỡi mây nương gió, Vào Nghệ-an sẵn có nhân-duyên ; Nước non sao khéo tạm quyền, Chốn thanh cõi lịch kết duyên cũng vừa. Ấy kiếp xưa hay là nợ mới, Hội phi-thường Chầu lại sinh con, Tuổi vừa ba bốn chửa khôn, Dịp đâu Chúa lại để con cưỡi rồng. Chữ sắc không xem còn mới biết, Dẫu còn chi mà thiết nữa chăng ; Tính thiêng chẳng ngại gió trăng, Ai ngờ phút hợp phút chăng đoái-hoài. Song vật-nài làm chi cho khó, Những duyên lành sẵn có nhiều nơi ; Vậy nên Chầu mới ra chơi ; Đèo ngang, Phố cát là nơi giữa đường. Giếng Âm-dương xưa nay trong sạch, Để nước mưa trợ khách đường xa ; Đèo-ngang Phố-cát vào ra, Đôi nơi giáp cõi Thanh-hoa đất lành. Thấy cảnh thanh tiên thường ngự đấy, Khách vãng lai tự đấy khôn hay ; Cho nên Tiên mới thử tay, Một ngày khôn lạy, hai ngày khôn van. Khách mắc oan phải nhiều phi-mệnh, Bèn phải ra đội lệnh nhà Vương ; Ngự tình kíp giận chẳng lường, Sai binh mã tới Đèo-ngang tiễu trừ. Súng phát ra vang như sấm động, Dấu thiêng nào dám chống quốc-uy ; Vậy nên Chầu mới ra đi, Than rằng má phấn đâu bì trượng-phu. Nghĩ xét cho âm dương nhị khí, Lại ra điều lấy ý nạt nhau ; Lệnh trời ai dám chi đâu, Còn bây ở thế xem nhau sau này. Chốn Đồi-ngang từ ngày ách vận, Chẳng ai còn dâng tấu hoa hương ; Đền vàng lạnh lẽo tuyết sương, Đêm thâu nguyệt giãi hoa còn ánh quen. Các bạn Tiên về tâu Thượng-đế, Rằng : có Chầu Thánh-mẫu ra chơi ; Đồi-ngang Phố-cát nghỉ ngơi, Bụng hùm dạ thú ra loài bạo hung. Đã phá xong nơi ăn chốn ở, Lại phũ-phàng sỉ dữ nhuốc nha ; Ngọc-hoàng ngự chỉ phán ra, Truyền đòi Tiên-thị bách-hoa Tiên-nàng. Dưới Đồi-ngang ban lời ngự lệnh, Thăm chúa-tiên đức chính làm sao ; Phán rằng : có số Thiên-tào, Mà cho trần-thế hỗn hào xót thân. Trách thôn giận những người ở đấy, Sao con trời dám lấy làm khinh ; Bách Thần đòi lại cho rành, Làm uy cho chóng anh-linh không hèn. Chẳng khá trách dân đen cho quá, Trời là cha, thiên hạ là con ; Dầu ai cạy mạnh cạy khôn, Thời nhân gian đó ai còn dám sai. Ngọc-hoàng đã phán lời nhân thứ, Ban lệnh truyền phép cứ ra đi ; Đến nơi hỏa tốc tinh phi, Trước thì thăm Chúa, sau thì trách dân, Rãy yêu phần càng thêm yêu nghiệt, Để dân càng sợ khiếp hơn xưa ; Dân mong phải tấu một tờ, Truyền quan đội lệnh sau xưa được tường. Đền Đồi-ngang thờ Tiên mẫu-Thánh, Tự hương tàn khói lạnh đến nay ; Lấy làm khuất nước khôn hay, Uy linh nay lại nhiều người sợ kinh. Chẳng ai là chẳng giữ mình, Lòng tin một mực sao đành dám sai. Cũng có khi tốt tươi vui vẻ, Phấn điểm-trang nhiều vẻ thanh-tân ; Muôn năm ngưỡng vọng Thánh ân, Hộ cho tín chủ thiên xuân thọ tràng. 2. ĐỘNG ĐÌNH THÁNH THỦY VĂN Trịnh Nam-biên doành khuyên lai-láng, Nguyệt lầu-lầu sai rạng Nam-minh ; Vốn xưa Thủy-quốc Động-đình, Có Tiên Thánh-nữ giáng sinh đền Rồng. Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh, Nết nhu-mì vốn tính thiên-nhiên ; Dung-nhan khác giá Thần-Tiên, Đã đành lệ-thủy chơi miền non côn. Hằng chầu-chực kim-môn ngọc-điện, Duyên sắt cầm chưa định nơi nao ; Chúa từ thời tiết thanh tao, Gió Đằng-vương-các thư trao dưới màn. Dưới Thủy-quan có nhà lệnh tộc, Vốn con dòng danh-ốc Kinh-Xuyên ; Vốn xưa vây cánh nhà truyền, Thao-mai nàng ấy tạm quyền tiểu-tinh. Chí bình sinh phù đời giúp nước, Ơn Cửu-trùng phó thác bên giang ; Mảng danh Công-chúa phi-phương, May nhờ lá thắm kết vương tơ hồng. Trên Vương-phụ có lòng lân-mẫn, Cho đôi người duyên phận sánh nhau ; Chúa từ kết ngãi Trần Châu, Đã đành núi thẳm vực sâu khôn nài. Kết duyên hài trăm năm phối thất, Đạo cương thường nhiệm-nhặt tóc-tơ ; Cùng nhau chưa mấy nắng mưa, Bỗng đâu ra sự thiên cơ quải người. Trách Thao-Mai ra lòng giáo-giở, Giả đầu thư làm cớ gieo oan. Kinh-Xuyên chẳng xét ngay gian, Giá vàng nỡ để lầm than bao đành. Trên dương-thế một mình vò-võ, Sớm khuya cùng núi cỏ ngàn cây ; Đèn trăng chiếu đá màn mây, Dưỡng thân hoa cỏ, bạn bày trúc mai. Thường vãng lai thanh-sơn tú-thủy, Lốt đại-xà tượng thể ngư long ; Có khi biến tướng lạ-lùng, Mày ngài yểu-điệu má hồng phi-phương. Có phen nhớ gia-nương dòi-dọi, Mặt rầu-rầu dạ rối châu sa ; Có khi nương bóng hằng-nga, Tưởng bề phu phụ xót-xa muôn phần. Có phen trách lòng quân bội bạc, Nghe ai làm chếch-mác duyên ai ! Có phen liễu ủ đào phai, Phận đành nước chẩy hoa trôi lỡ-làng. Có phen tưởng giày sương giãi nguyệt, Bảo thân phàm mong quyết về không ; Có phen giãi nắng non sông, Tưởng về nhiều nỗi hình dong võ-vàng. Bốn bề những hổ lang ác-thú, Vật đều cùng mến Chúa hôm mai. Đua nhau trăm giống ngàn loài. Dâng hoa cúng quả chẳng nài công-phu. Vẹn mười thu giãi-giàu sương nắng. Tin cá chìm nhạn vắng khôn hay ; Tấc niềm nhiều nỗi riêng tây, Ai ngờ con Tạo vẫn xoay cớ trời. Trên dương-thế có người nho-sĩ, Văn tú-tài Liễu-Nghị là tên ; Trẻ thơ nhờ ấm xuân huyên, Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình. Thời gặp thuở Thần-kinh hội-thí, Dậm đường trường Liễu-nghị bước ra ; Vũ-môn mong nhảy đợt ba, Ai ngờ con Tạo xui ra quải người. Bây giờ đã tới nơi non quạnh, Ác ban tà sương lạnh trời hôm ; Bốn bề hoa cỏ xanh um, Trước ngàn liễu rủ, sau chòm đào phai. Lòng quân-tử đeo-đai cảnh-vật, Thấy Chúa ngồi tư-cách dung-nhan ; Má hồng châu lệ chứa chan, Nỉ-non hòa nói hòa than một mình. Chàng trông thấy tâm tình cảm cách, Chúa ngập-ngừng nhủ khách rằng cây : « Sơn lâm rừng vắng chốn này, « Cớ sao quân-tử tới đây lạc loài ? « Ngày hồ đã trăng soi cá lặn, « Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao ? » Thưa rằng : « Hàn-sĩ chí cao, « Mười năm đèn sách công lao chuyên cần ; « Hội khoa xuân hiềm chưa gặp-gỡ, « Tưởng duyên này cắc cớ vì đâu ; « Dám xin kết ngãi trần châu, « Kẻo lòng quân-tử gieo cầu dưới trăng ». Chúa nghe nói dùng-dằng khôn siết, Đoái nhủ chàng : « Cả quyết sao nên ? « Ta nay người dưới Thủy-tiên, « Nghiêm từ sớm định kết duyên dai-kỳ. « Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước, « Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây ; « Bỗng không bốc lửa bỏ tay, « Gieo oan một phút bắt đầy mười đông. « Cạy quân-tử tin thông họa nả, « Sự duyên này dám há đơn sai ». Chàng rằng : « Nguyện được như lời, « Đã đành bể rộng sông dài quản đâu ». Nhờ đèn nguyệt đêm thâu bóng thỏ, Giãi tấc lòng núi cỏ non xanh ; Hàn-lâm nghe mảng tiếng kềnh, Kim-ô bóng đã lộ hình ra đâu. Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức, Phó kim thoa một bức thư phong. VẬY CÓ THƯ RẰNG : Nữ-tiên thủ bút, con bái lạy vua quan : Thân nữ-nhi phận gái hồng-nhan ; đã sinh cửa quyền môn quý-tộc. Tam niên dưỡng dục ; phụ tử tình thâm. Khi cả khôn duyên bén sắt cầm ; khăng khăng giữ tòng phu cho phải đạo. Trách bà Nguyệt-lão ; khéo quải duyên ai ! Vì tiểu tinh tà cái Thao-Mai ; đầu thư giả làm ra oan trái. Trách chàng cả dạ ; nghe đứa tà gian. Bảo cho con nết ở đa đoan, đem đầy chốn rừng xanh núi cỏ. Một mình vò-võ ; nào có ai hay. Ngày gió đưa bạn với cỏ cây ; đêm trăng bạc biết cùng ai năn-nỉ. Bỗng đâu nho-sĩ ; bước đến thẩn thơ. Nguyệt tà-tà thẫn-thẫn thờ-thờ ; nghĩ nông nỗi dừng chân lỡ bước. Trước sau sau trước, mượn bút thay lời. Chiếc thoa tin với bức thư này ; dẫu nghìn dậm công lênh đừng có tiếc. Vu oan một tiếng ; vắng-vẻ mười đông. Sự xoay vần đã có Thiên-công ; thư một bức đôi vừng nhật nguyệt. Sự tình con xin kể thủy chung. Nhủ chàng ra mái bể Đông, Tới đâu là bóng ngô-đồng cây cao ; Lấy kim thoa gõ vào cây ấy, Dưới Thủy-tề nghe thấy chẳng lâu ; Phòng khi ứng hiện nhiệm mầu, Hẹn chàng thưa gửi gót đầu đinh-ninh. Chàng quân-tử tâm tình sau trước, Dạ ngùi ngùi chân bước đường thông ; Bể nào lai-láng xa trông, Nửa lo nỗi Chúa, nửa mòng sự duyên. Sông Vân-hán băng miền Thủy-phủ, Tới ngô-đồng tay gõ một thôi ; Tự nhiên nổi trận phong-lôi, Giữa giòng nước chảy có đôi bạch-xà. Chàng trông thấy sự đà ứng hiện, Mới hay lời Chúa phán phân minh ; Bạch-xà thoắt xuống Động-đình, Bách quan rẽ nước giàng xanh rước chàng. Rước chàng xuống đền vàng Thủy-phủ, Thấy triều thần văn võ đôi bên ; Tiêu thiều nhạc tấu dưới trên, Tả biên ngư mục, hữu biên bạch-xà. Kim-quy-sứ vào tòa ngọc-bệ, Mới phán đòi Liễu-Nghị vào trong ; Chàng bèn dâng bức thư phong, Phụ-vương trông thấy trong lòng quặn đau. Trách Kính-Xuyên cơ cầu độc dữ, Mới đòi chàng Hoàng-tử Xích-Lân ; Phán rằng : « Chúa phải gian-truân, « Con vua rước xuống Thủy-cung chớ chày ». Lời Vương-phụ phán ngay lập tức, Sai các quan hết sức thần-thông ; Chiêng kêu, cờ phất, trống rung, Khắp hòa thế-giới đều cùng mênh-mông, Bốn phương trời mưa rong chớp giật, Quỷ cùng tờ giéo-giắt mọi nơi ; Rước Chúa về tới long-ngai, Tội Kính-Xuyên với Thao-Mai luận đầy, Công cán này ai bằng Liễu-Nghị, Sắc phong làm Quốc-tế Thuy-quan ; Chàng từ bái lệnh Thiên-nhan, Duyên ưa phận đẹp sắc ban trọng quyền. Duyên thiên công bày yên thuở trước, Người phàm-trần lại được bén tiên ; Chàng từ kim cải kết duyên, Có cơ trí-tuệ, có quyền anh-linh. Dầu ai phải bệnh cùng khí huyết, Lập đàn lên chầu hát lại tha, Dầu ai dâng tiến hương hoa, Tiền tài lưu-loát, cửa nhà khang ninh. Dầu ai dốc lòng thành phụng bái, Phúc đến nhiều lộc lại đề-đa ; Toàn gia con cháu vinh-hoa, Mãn đường phú quý trẻ già bình an. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân ! Thần giáng lưu phúc, thiên xuân thọ trường ! 3. CỬU-TRÙNG CÔNG-CHÚA VĂN Giáng hạ trời Nam chúa Liễu cung, Vua ban sắc lệnh lại gia phong ; Nhất niệm kính thành cầu như ý, Bách phúc tương lai giáng điện trung. * Vận bốn mùa âm dương tuyết thảo, Lòng chí thành cầu đảo bình an ; Đăng trà quả thực dâng lên, Lòng tin thỉnh đức Chúa-tiên Cửu-trùng. Ngụ long-cung cửu-tiêu chính vị, Ở trên trời sửa trị bốn phương ; Lòng Chầu trong sạch như gương, Thần thông biến hóa sửa-sang cõi trời. Mặt hoa mày liễu tốt tươi, Hình-dung yểu-điệu, miệng cười nở hoa. Lưng ong tóc phượng già-già, Áo xông hương xạ hài hoa sẵn bày. Cửu-trùng ngự chín lần mây, Quản cai các bộ Tiên nay Thượng-đình. Có phen Chầu mặc áo xanh, Ra chơi Đông-điện đàn tranh quyển trầm. Dập-dìu hầu-hạ dư trăm, Kẻ nâng túi vóc, người cầm hương xông. Áo xanh thay đổi áo hồng, Cung Nam Thánh ngự xe rồng đỉnh-đang. Tay đeo trăm chuỗi hạt vàng, Miệng cười trăm sức vẻ vang thay là. Ngự thôi Chầu mới bước ra, Áo lượt quần là ngự chốn Tây-cung, Bầu trời cảnh phật đứng trông, Trường-sinh tiên-dược tiến trong đan-trì. Lại sai các bộ Tiên-phi, Cờ đào thẳng trỏ kéo đi dần-dần, Tiếng đồn cung Bắc thanh tân, Chén nước sái tĩnh tẩy trần như ly. Chầu lên ngự đó một khi, Màn che chướng phủ gối kề tay chân. Cô hầu sửa túi nâng khăn, Hương hoa phấn sáp đầy ngăn hộp dầu. Lược ngà Thánh lấy chải đầu, Áo vàng Thánh mặc gương tầu cầm tay. Cờ đào thẳng phất như bay, Xe loan liễn phụng ngự rày trong cung. Thấy người hạ-giới có lòng, Nén hương thấu đến Cửu-trùng Thiên-thai. Đằng vân giá võ một thôi, Thiên-đình phút đã xuống chơi dương-đình. Ba nghìn thế-giới cảnh thanh, Đâu đâu là chẳng chí thành lòng tin. Đệ tử lòng thực thảo-hiền, Lễ tuy bất túc kính thiềng hữu dư. Lạy Chầu, Chầu giáng phúc cho, Từ rầy đệ-tử gồm no cửu-trù. Tứ thời bát tiết vô ngu, Tai ương hạn ách tống ra bể ngoài. Chữ rằng : Thiện giả thiện lai, Đệ-tử cầu tài, tài đáo bản-gia. Thờ Phật thờ Thánh trên tòa. Thánh cho bốn chữ : « Vinh hoa thọ trường ». 4. THƯỢNG-NGÀN TIÊN-CHÚA VĂN (I) Cảnh trên ngàn rừng xanh bát-ngát, Thấy bóng Bà tưởng Phật Quan-Âm ; Tay đàn miệng lại ca ngâm, Điểm-đa điểm-đát quyển trầm nhặt khoan. Vượn trên ngàn, ru con ái-ngại, Dưới suối vàng, chim lại véo-von, Vui về thú ở lâm san, Bà Mường bà Mán ca hoan dặt dìu. Hát tiêu thiều tiếng, kêu gia-giả, Thú hữu tình càng ở càng vui ; Ba gian nhà cỏ thảnh-thơi, Sớm ngơi chân núi, tối ngồi đầu non. Hát rằng : tang-tính-tình-tang, Ai ôi có biết Bà-Ngàn này chăng ! Tính tình chẳng chút gió trăng, Lòng ngay sáng rạng muôn đàng uy-linh. Đứng non xanh núi rừng kia nọ, Thú hữu tình càng tỏ càng xinh ; Bốn bề hiu-hắt vắng tanh, Măng tre măng nứa tốt xanh đầy ngàn. Đồng tôi tâu lạy Bà-Ngàn, Cùng các cô Mán giáng đàn khi nay. Dương-gian nhỡn nhục khôn hay, Xin Bà giáng hạ phủ này anh linh. Thỉnh mời Công-Chúa sơn tinh, Mặt tròn vành-vạnh má xinh phấn hồng. Hây hây da trắng nõn bông, Tóc già-già biếc lưng ong dịu dàng. Chân đi bước bước đưa hương, Bước nào là chẳng bằng nhường liên hoa. Trạnh niềm vàng đá người ta, Chau mày quân tử xót xa anh-hùng. Một phen là một não nùng, Gửi chim nhắn cá bạn cùng văn-nhân. Một ngày là một vẻ xuân. Phi-phương yểu-điệu thanh tân vẹn mười. Tốt tươi nụ nở hoa cười, Chiều thanh vẻ lịch đáng tài thuyền quyên. Nàng ân nàng ái là tên, Cô Lan cô Huệ Chúa-Tiên Thượng ngàn. Khi vui nước biếc suối vàng, Cơn buồn lại gảy khúc đàn năm cung, Cảnh thanh xuân lại thêm xuân. Phi-phương yểu-điệu thanh tân chơi bời. Khi Bà hiển hiện trêu người, Dạy chim uốn lưỡi, ghẹo người bán buôn. Khi Bà dậy vượn ru con, Dạy kêu trăm tiếng véo von nhiều bề. Chim bay trước mặt rù-vì, Xe chơi một lát lại về lưng lưng. Có khi bà dạy ma rừng, Nói ra trăm tiếng nhố nhăng ngôn từ. Thỉnh Bà Diệu-Tín thiền sư, Khi xưa ở đất Trang-Chu Chúa Mường. Lạng-sơn cảnh ấy phong-quang, Đồng-dăng non nước lại càng thêm cao. Năm Thân giáng khí anh hào, Đĩnh sinh Tiên-nữ khác nào chúa Tiên. Gặp người hình thể phương viên, Trâm-anh lệnh-tộc đã nên hiền hào. Cha là Chúa Mán Đạo cao, Thần thông linh nghiệm ai nào dám đương. Tổ-sư các phép sơn trang, Sinh được một nàng đắc đạo truyền cho. Di sơn đảo hải mọi đồ, Giáng môi giáng trượng thần phù anh linh. Thỉnh Bà-Diệu-Nghĩa tàng hình, Mời mười hai bộ chứng minh đàn này, Thần thông phép nghiệm thiêng thay. Giáng hạ phủ này, cho chóng chớ lâu. Nào là phép nhiệm cơ mầu. Niệm phù chuyển chú bấy lâu phép nhà. Bà-Mường Bà-Mán gần xa, Thần thông lục trí ai mà dám đương. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân, Chư Vị lưu phúc, thiên xuân thọ trường. 5. THƯỢNG-NGÀN CÔNG-CHÚA VĂN (II) Nén hương dâng làng tin bái thỉnh, Thượng Tiên-cung xuất đĩnh vạn bang ; Chầu Bà Quốc-Mẫu Thánh-Vương, Tây-Phi Công-Chúa khai trương thập tuần. Hiện uy thần hư không lục trí, Biến hóa hình nhất khí sơ khai ; Dần thời mồng ba tháng hai, Sinh ra Tiên-nữ hình hài phi-phương. Nhuận kỷ cương lòng thần tơ trúc, Tiết đông đào ngọc trúc hây-hây ; Hình dung nhan sắc tốt thay, Má tô điểm phấn, cổ rày ngấn ba. Cài trâm giắt lược giắt hoa, Mình mặc bộ áo hồng hà long ly. Đệ-tử vọng bái tâu quỳ, Nguyện xin Tiên-Chúa từ bi mở lòng. Ngự Long-cung mặt rồng lồ-lộ, Các bạn Tiên mừng rỡ đua chơi ; Dâng hoa cúng quả đòi nơi, Gió xuân hây-hẩy đua chơi đường hòe. Cảnh lưu-ly đền vàng bảo ngọc, Chốn lầu Tiên ca chúc quỳnh tương ; Có phen chầu vua Ngọc-Hoàng, Lệnh truyền phán bảo tỏ tường phân minh. Sắc Thiên-đình phong làm Đệ-nhất, Chúa kiêm toàn thập bát gia bang ; Tặng phong Lê-Mại Đại-Vương, Xét xoi trên dưới bốn phương hải thành. Ngự cung đình trông xem tinh tú, Đứng chầu hầu các bộ Tiên-phi ; Giá ngự đền ngọc lư-ly, Gió thông phảng-phất đượm kề mùi hương. Khắp bốn phương dâng hoa cúng quả, Dạo suối ngàn địa hạ tây-đông ; Thơ ngâm đàn sáo dinh cung, Chim kêu ánh-ỏi gà rừng nhặt khoan. Dưới suối vàng thính tha thính thót, Đượm cành mai chim hót thẩn thơ. Thú mầu mọi vẻ mọi ưa, Bồng-lai cảnh ấy sớm trưa rầu lòng. Đệ-nhất Thần-nữ Tiên-cung, Sửa sang tám cõi tứ xung xa gần, Trên sông Ngân rừng xanh nước biếc, Dưới suối vàng đá xếp tầng trên ; Khuyên mời các bộ Chúa-tiên, Tiêu-thiều lừng lẫy đôi bên đứng chầu. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân, Thần giáng lưu phúc, thiên xuân thọ trường. 6. THƯỢNG-NGÀN TIÊN-CHÚA VĂN Lòng thành kính dâng hương một nén, Khói ngạt-ngào thấu đến Cửu-thiên ; Vốn xưa Bà ngự cung tiên, Giáng sinh hạ-giới về miền non xanh. Trên Thượng-Ngàn bà cả anh linh, Ngôi cao Công-chúa quyền hành các núi non. Ra uy dậy khắp tiếng đồn, Sấm ran mặt bể, mưa tuôn đầu ghềnh. Da ngà mắt phượng lung lanh, Mặt hoa hơn hớn tóc xanh già-già. Phau-phau tuyết điểm mầu da, Cổ tay tựa ngà, đầu vấn tóc mai. Danh tiếng dậy khắp dưới trời, Dưới suối trên đồi, ai kẻ dám đương. Quyền cai các lũng các nương, Sơn lâm cầm thú hổ lang khấu đầu. Quyền cai tám cõi ngàn dâu, Chín từng đủng đỉnh một bầu tiêu-giao. Trên vườn quế dưới lại vườn đào, Khi ra thác cái, khi vào thác con. Chim kêu vượn hót véo von, Chớp rừng đòi đoạn, mưa nguồn từng phen. Khi nương gió lúc lại thác rèm, Khi bẻ tầu lá, khi chen cành hồng. Khi vui nước Nhược non Bồng, Phố Cát Đại-đồng, con sông Chảy sông Bờ sông Thoa, Gập ghềnh quán thấp lầu cao, Ngày mây thấp thoáng, đêm trăng sao lập lòe. Đầu đội nón chiêng, vai quẩy lẵng-la, Đồi kia lạch nọ vào ra chơi bời. Khi thanh vắng, lúc lại êm trời, Cành cao cao bổng ghẹo người Hằng-nga. Tính tang tình, miệng hát tay ca, Bẻ-bai giọng Mán, ê-a giọng mường. Tiếng Kinh tiếng Huế tỏ tường, Tiếng Châu tiếng Thổ dịu-dàng nhỏ to. Có phen dạo khắp Ngũ-hồ, Đua chèo bát-cái hồ tô lại về. Rừng lau rừng mái rừng mây, Rừng giang rừng trúc rừng tre rừng vầu. Năm ba thị-nữ theo hầu, Cô xe chỉ thắm, cô xâu hạt vàng. Mây là quán tuyết lại là làng, Thảnh thơi tuyệt đỉnh tuyết sương vui vầy. Trên làm gió dưới lại làm mây, Điếm thanh nghè vắng bóng cây nương hình. Ngón đàn Bà gảy tính-tình, Nỉ-non tiếng phú, tập tành câu thơ. Khi hẩu-tố, lúc suây-lò, Song vần Bà kéo sang hò xế-xư. Quần là áo lượt nhởn nhơ, Khi vào Ba-dội, khi ra Đường-trèo. Khi lặn suối lúc lại trèo đèo, Khi cười hớn hở mọi chiều mọi hay. Đèn trăng quạt gió màn mây, Núi thông che tán, bóng cây đôi tầng. Người đi suối, kẻ lại đi rừng, Ai ai là chẳng sợ chưng uy hùng. Ngự vui uống chén rượu nồng, Việc lành việc dữ phán cùng thế-gian. Yêu ai tài lộc Bà ban, Ghét ai, Bà quở khôn van được rày. Bây giờ tưởng vọng Bà thay, Có đêm ngồi khấn có ngày ngồi trông. Xin Bà phù hộ tiểu-đồng, Ban tài ban lộc ban công ban quyền. Nguyện xin Bà giáng điện tiền, Đệ-tử lòng thiền, dâng một nén nhang. Chẳng kêu kêu đến Bà thương, Xin Bà giáng hạ điện đường độ cho. Trên phù vững ngôi Đế-đô, Dưới phù trăm họ thiên thu thọ trường. 7. THÁI NINH PHỦ VĂN Đệ-tử tôi vọng bái khấu đầu, Tôi tiến văn chầu cửa phủ Thái-Ninh. Phủ Thái-Ninh trong miền Phụ-giực, Danh tiếng đồn náo nức gần xa ; Động-đình sông vẳng ngả ba, Tối linh Thượng-đẳng trên tòa uy nghi. Đôi bên ngựa đứng voi quỳ, Phượng thì đua múa hạc thì chầu lên. Trước án tiền nức mùi hương xạ, Trên đèn hương khói tỏa vân lung ; Chữ rằng : vạn tuế Thánh-cung, Quy-mô lồ-lộ cửa rồng nguy-nga. Dưới sông lác-đác chèo qua, Buồm giương thuận gió ắt là Tiêu-tương. Cảnh lại nhường cây chầu uốn-éo, Lá dầm khe yểu-điệu mầu xanh ; Bốn bề sơn thủy vần-quanh, Gần xa đều đến phục tình làm tôi. Địa linh chiếm lấy một ngôi, Thiên-hạ tái hồi về phục Đại-Vương. Minh-đường sông cái đại-giang, Đôi bên Huyền-vũ cảnh càng thêm cao. Kẻ anh-hào gần xa đều đến, Cầu việc gì ứng hiện linh thông ; Có khi hóa võ hành phong, Phép thiêng rẽ nước giao long đi về. Dưới Thủy-tề công đồng nghị luận, Trên Thượng-thiên mở trận mưa mây ; Trần-gian ai dễ biết thay, Độ cốt độ thầy, lại được ăn công. Thánh độ cho khắp thanh-đồng, Có lòng thờ Thánh ban công lộc nhiều. Bách quan văn vũ thần liêu, Khâm sai về tới dập-dìu đai cân. Đứng chật sân, y quan lễ nhạc, Tửu tam tuần tiến tước thung dung. Tuần sơ, tuần á, tuần chung, Ngoại thông nội dẫn, đôi giòng khoan-thai. Lễ thường tiến cúng đồ tươi, Sắc phong Thượng-đẳng muôn đời truyền lai. Hạ-tuần tháng tám đôi hai, Trải qua xem cứ ra chơi mái chèo. Mở hò-reo dưới sông lừng-lẫy, Trên xướng ca đàn gẩy sinh rong ; Bốn mùa xuân hạ thu đông, Thảnh-thơi Thánh-vực ruổi rong Thiên đàng. Trống vang-vang chiêng vàng điểm-đốt, Giọt đồng-hồ thánh-thót thánh-tha ; Dưới sông lừng-lẫy kèn loa, Thượng từ đò Tị, hạ là bến Bông. Đôi bên sông đỏ đào sặc-sỡ, Nhác trông lên đã ngỡ động Tiên ; Cõi trần dễ mấy đâu hơn, Thơm danh nức tiếng phủ miền Thái-Ninh. Trên Đế-đình, khâm thừa mệnh lệnh, Dưới An-nam quốc chính hộ dân ; Thần thông biến hóa muôn phần, Bùa thiêng phép diệu xa gần sợ uy. Mán huyền vi thiên trường địa cửu, Phù hộ cho hòa hảo bách niên ; Sinh ra con phượng cháu tiên, Lưu ân giáng phúc thiên niên thọ trường. 8. ĐỆ-NGŨ LONG-VƯƠNG VĂN Đệ-tử tôi vọng bái khấu đầu, Tôi tiến văn chầu Đệ-Ngũ Long-Vương. Đức Ông chính thực phi thường, Thần thông lục trí ai đương anh tài. Cảnh Thiên-thai ông hằng chầu chực, Các Tiên-nàng vũ giực dâng huê. Ngự thời ông giở ra về, Thuyền quân dâng nước Thủy-tề đầy vơi. Bốn phương trời đâu đâu lừng lẫy, Khắp mọi nơi đã dậy thần cơ ; Cửa sông đâu đấy cũng thờ, Đức ông lại nổi đền thờ Tuần-Tranh. Cảnh am thanh nhiều bề lịch-sự. Vẫn phụng thờ tự cổ dĩ lai ; Khi vui bạn với trúc mai, Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca. Trên bảo tòa long chầu phượng vũ, Dưới tam đầu phủ thủ chầu lên ; Lân quỳ hổ phục đôi bên, Đức ông Đệ-Ngũ ngự trên công-đồng. Sắc vua phong kiêm tri tam giới, Hay trừ tà sát khỏi yêu tinh ; Đức ông vạn phép vạn linh, Quyền ông cai quản âm binh nhà trời. Ngự-đồng ai mình giàu bụng quý, Nương uy trời thụy khí đoan trang ; Đức ông hiển hách uy quang, Ra tay cứu trợ nhân gian được nhờ, Dạo thẩn-thơ ra uy hùng hổ, Nương uy trời cứu trợ sinh nhân ; Thường thường nổi trận phong vân, Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà. Khắp gần xa, bách quan đều phục, Ai có lòng giáng phúc hà-sa ; Dù ai bệnh nạn khôn qua, Kêu ông Đệ-Ngũ bệnh hòa tan không. Giốc một lòng làm tôi ông vạn bội, Hoặc trần gian biết hối truyền thơ ; Dù ai cách trở giang hà, Ngọn cờ chỉ núi núi đà tan không. Cung thành ông những sông cùng suối, Đứa gian tà lánh lối xa khơi ; Đức ông dạo khắp mọi nơi, Khi sang Bắc-quốc khi chơi Xiêm-thành. Nức danh tiếng tung hoành dũng dược, Trải non Bồng nước Nhược Thiên-thai ; Khi chơi bạn với trúc mai, Đào lan quế huệ tốt tươi xum vầy. Các bộ nàng ra tay chèo phắt, Ông dạo về cảnh Phật động Tiên. Ba nghìn thế giới như thiên, Đức ông Đệ-Ngũ dạo miền đông tây. Ra uy thổi gió thét mây, Phép ông ứng hiện đổ cây giốc nhà. Kiêm tri tam giới ba tòa, Thỉnh ông giá ngự xướng ca điện tiền. Ông hay độ kẻ hữu duyên, Đức ông khác đạo thần Tiên nhiều bề. Điện tiền lục cúng hương huê, Thỉnh ông giá ngự chớ hề trì-diên. Chữ thập phút làm chữ thiên, Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường. 9. KIM-ĐỒNG NGỌC-NỮ VĂN Kim-đồng Ngọc-nữ bản viên, Ruổi lên cho đến Thượng-Thiên cung đường. Vào chầu trước mặt Quân-Vương, Khắp mười hai bộ Tiên-nương công-đồng. Đôi hàng Ngọc-nữ chầu trong, Lưu-ly bảo ngọc sân rồng hành loan. Thung dung lễ nhạc đôi hàng, Có cầu thủy-xạ bắc sang Chính-hồ. Ấy là đất ngọc Tiên đô, Là nơi Thủy-giới Tây-cù thanh tân. Trăm hoa đua nở mùa xuân, Ấy là đất ngọc Tiên-nhân đi về. Hiệu là cẩm-điệu cao-nghè, Vũ môn là cửa lưu-ly quảng-hàn. Tốt tươi khải lộc tòa vàng, Thực là cung cấm muôn vàn thần-thông. Lòng tin tâu đức Cửu-trùng, Kim-đồng Ngọc-nữ công-đồng uy nghi. Ba mươi sáu bộ Tiên-phi, Chư-Vị hội họp đan-trì thênh thênh. Nam-tào Bắc-đẩu anh linh, Chú sinh chú lộc chứng minh đàn tiền. Tôi tâu Chúa cửu-trùng thiên, Ở trên thượng-giới cầm quyền Tiên-đô. Rày tôi vọng bái chầu Vua, Độ cho tín chủ thiên thu thọ trường. 10. CÔNG-ĐỒNG VĂN Lòng tin tâu dụng Phật-Trời, Mười phương chư Phật độ tôi nhưng là. Na-mô đức Phật Thích-Ca, Cùng đức Thánh-Mẫu Phật-Bà Quan-Âm. Tiếng đồn náo nức xa gần, Ai ai cũng đến ân cần xin con. Cầu Bà, Bà cho có con, Có nam có nữ vuông tròn nhiều thay, Đức Phật hóa phép bàn tay, Vẽ mặt vẽ mày hình thể tốt tươi. Thỉnh đức Thượng-Thiên trên trời, Giáng xuống hạ-giới cứu người trần-gian. Nhà giầu cho đến nhà quan, Ai ai cũng đến kêu van cửa Bà. Phép thiêng giúp nước phù nhà, Bốn phương dân lạc thịnh hòa an vui. Trống tôi đã dung ba hồi, Đầu tôi đội trời miệng niệm Như-Lai. Đức Phật tôi đã thỉnh lai, Mười quan Tam-phủ giáng nơi đền rồng. Đức-Phật hóa phép thần-thông, Uy linh cảm ứng đẹp lòng thế-gian. Chiêu tài chiêu lộc muôn vàn, Ngự đồng cứu trợ thế-gian lạ nhường. Đồng tôi tâu dụng Ngọc-Hoàng, Giá ngự ngai vàng, lồ-lộ càn-cung. Thượng-Thanh giá ngự phương Đông, Thái-Thanh đã ngự đền rồng thiêng thay. Ngọc-thanh giá ngự phương Tây, Tản Viên Thánh Cả ngự rày bàn loan. Triều-thần văn võ bách quan, Ai ai là chẳng tâu lên Thiên-đình. Nam-Tào cầm sổ chú sinh, Bắc-Đẩu chú lộc phân minh thay là. Bao nhiêu hạ-giới người ta, Nam nữ trẻ già, số đã chép ghi. Chữ rằng : Thiên võng nan tri, Đạo trời lồng-lộng phép thì thiêng thay. Phúc lành đưa đến chưng đây, Đệ-tử tôi rày có số Thiên công. Sắc vàng choi chói Vua phong, Dâng trước ngai rồng cầm bút tay phê. Lại tâu bản thổ Thần-Kỳ, Sai quan Hà-Bá tức thì đệ lên. Lại tâu Tam Vị Tản-Viên, Huyền-Đàn đốc-tướng tâu lên tức thì. Lại tâu Quốc-Mẫu đan-trì, Ban bổng lộc về, cho đệ-tử nay. Lộc này lộc Thánh tốt thay, Ai khéo hầu-hạ ban ngay lộc nhiều. Thiên-Trù tống thực vua yêu, Niên nguyệt dập-dìu tiền của chẳng vơi. Giầu sang số hệ bởi trời, Cầu được mạnh-khỏe yên vui trong nhà. Điều lành tôi dám tâu qua, Thế-gian ai biết trẻ già ai hay. Kẻ gian ai biết sự này, Đồng tôi tâu rày Tam-Phủ ba Vua. Kim niên Ngọc-Hoàng Đế-đô, Thiên, Địa, Thủy, phủ ba vua mọi tòa. Động-đình thủy-tộc hải-hà, Trên trời sấm động mưa xa vội vàng. Gió đưa mây phủ sáng quang, Tối tăm trời đất bên giang bao giờ. Sân rồng nổi đôi lá cờ, Tự nhiên phẳng-lặng như tờ bốn phương. Tứ bề vằng-vặc phong gương, Mãng vàng hốt bạc bước sang ngự lầu. Vua ngự phụng các long-lân, Chư Tiên Công-chúa đứng chầu Thánh-vương. Trên thời bổng lộc tòa vàng, Đức Vua ngự trước tám ông Hoàng ngự sau. Đông-bố đái cước vào chầu, Đôi mươi bẩy hộ đứng hầu hai bên. Đức vua sinh ra đức Thủy-Tiên, Con vua cầm quyền Hoàng cả Xích-Long. Phân minh nghị-luận công đồng, Các quan văn võ đều cùng quỳ tâu. Lòng thành khẩn nguyện sở cầu, Chúng tôi cầu nguyện dâng tâu Thiên-đình. Mười phương chư Phật chứng minh, Cứu dân độ thế nhân sinh xa gần. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân, Chư vị lưu phúc, thiên xuân thọ trường. 11. CÔ-TỔ VĂN Nén hương-diên lòng thành bái thỉnh, Nguyện xin Cô văn thính lai lâm ; Linh thời sở nguyện tòng tâm, Cầu chi như ý chẳng lầm một khi. Đội ơn Tổ-đức xưa kia, Sinh cô Lan Huệ tôn chi dõi truyền. Trước Tổ-tiên sinh cô yểu-điệu, Tựa tiên dung tuyệt diệu vô song. Tóc dài da trắng lưng ong, Sinh ra hiển ứng lạ lùng anh linh. Tìm vào những chốn sơn tình, Để mà hóa phép uy hành bốn phương. Trải đường trường Đồi-ngang Phố-Cát, Cung cảnh vui bát ngát lạ thay ; Cô lên chốn ấy dạo chơi, Thanh nhàn nhất nhật muôn đời thần tiên. Dưới dương-đình đâu hơn bát cảnh, Học được thầy đạo thánh thung dung ; Nhàn du vui thú xích tòng, Cô lên chốn ấy càng trông rất mầu. Kìa sông Châu thực là chốn lạ, Có kênh mèo hang đá rất vui. Cô qua chốn ấy dạo chơi. Chầu đức Chúa-Cả là nơi cõi nhàn. Kẻ trần-gian ai là chẳng mộ, Lòng khẩn cầu lại hộ phù cho. Bốn mùa dạo cảnh ngao du, Động-đào từng trải bể hồ từng quen. Có khi chầu Chúa-Thượng-Thiên, Cưỡi mây nương gió tới miền linh tiêu. Thuở ban chiều dạo chơi võng thắm, Chốn Thiên-thai thăm thẳm hôm mai ; Tiêu thiều thổi sáo dịp đôi, Quyển trầm đàn gẩy ghẹo người tình nhân. Kìa sông Ngân cầu Ô lỡ bước, Khách Hồ-đông đợi ước Hà-tây ; Có khi hóa phép lạ thay, Chầu Bà Chúa-Thủy thuở ngày Long-cung. Ngự thuyền rồng dạo chơi-thủy đạo, Đua tiếng đàn tiếng sáo tiếng sênh ; Dập dìu tang tính tang tình, Hàng mai điểm tuyết độ sinh em tuyền. Thuở lâm tuyền thanh-sơn tuyệt đỉnh, Cô lên chơi đủng-đỉnh hảnh thơi ; Thiên hương quốc sắc gồm hai, Vang lừng nam bắc trừ tai vô vàn. Lưu ân giáng phúc muôn vàn, Phù hộ con cháu bình an gia đình. Ra uy sát quỷ trừ tinh, Cô lên tâu dụng Đế-đình sắc ban ; Tâu rồi giở lại Trường-an, Phù-hộ trong họ thọ tràng thiên xuân. 12. CHƯ VỊ CÁC CÔ VĂN Trên tòa vàng trông ơn Thánh-mẫu, Dưới điện tiền phụng sự các Tiên-cô. Tối linh, thiên hạ được nhờ, Sớm khuya chầu-chực phụng thờ trên ban. Phép Cô hiển ứng ai muôn vàn, Phép Cô cứu bệnh nhân-gian khỏi nàn. Đâu đâu quyết chí sẵn sàng, Xe loan giá ngự điện đường thanh tân. Bóng thanh xuân mưa tuôn cõi bắc, Cô cầm cờ vàng phất khắp năm phương. Linh-từ miếu mạo tỏ tường, Lại trừ tật bệnh quái nhường tà ma. Đăng trà quả thực hương hoa, Tam chầu tứ giới tâu qua Thánh tiền. Thông minh chính trực hiển nhiên, Tâm thành vọng bái dám phiền các quan. Hoa quỳ, hoa quế, hoa lan, Hương hoa lục cúng nhân gian tiến vào. Thần thông tam giới lục thao, Tâm thành tưởng vọng khát khao lạ thường. Vốn quê phủ Nghĩa hưng trường, Ngự đền Vân-cát bảng vàng tối linh. Khi lên chầu chực Thiên-đình, Khi về ngự điện thái bình âu ca. Tầu bè khí giới can qua, Tả văn hữu võ đều là quỳ tâu. Tam sơn tứ hải khấu đầu, Từ bi quảng đại sở cầu tất thông. Đệ niên đến lễ phủ rồng, Gần xa náo nức cùng lòng kính tôn. Ban phủ ban phép cho con, Tàn hương nước thải ấn son trừ tà. Tự tư hướng hậu an hòa, Bảo an đệ-tử cửa nhà hưng long. Thánh-Mẫu ban tặng sắc phong, Các Cô chầu chực đền rồng uy linh. Đức Vua nghị luận phân minh, Cây hòe cây quế cây quỳnh cây lan, Bắc đông dậy tiếng đã vang, Vạn dân xích-tử Cô ban linh phù. Dù ai lĩnh kiếm lĩnh cờ, Bốn phương thiên-hạ nương nhờ thần thông. Dập-dìu tựa chốn Thiên-cung, Ngũ Hổ thần-tướng năm ông uy cường, Hóa mưa hóa gió ai đương, Làm sấm làm chớp lạ nhường ai hay. Hóa ra trăm phép ngày rày, Giáng hạ điện này tróc quỷ cứu nhân. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân, Các Cô giáng phúc thiên xuân thọ trường. 13. HỘI ĐỒNG VĂN Việt-nam thuở trước an-vương thất, Chuyển pháp luân phật nhật tăng huy ; Kim niên kim nhật kim nguyệt kim thì, Đệ tử tôn quý chư Phật mười phương. Nức hương thơm chên đàn giải thoát, Thoảng mùi hoa bát ngát thơm bay ; Nam-mô Phật ngự phương Tây, Sen vàng lồ-lộ hiện nay Di-Đà. Đứng trước tòa lưu ly bảo-điện, Đức Thích-Ca ứng hiện tự nhiên. Tiêu-thiều nhã nhạc dưới trên, Cửu long phun thủy, quần tiên ca đàn. Đức Di-Lặc ngai vàng rờ rỡ, Phóng hào quang sặc-sỡ vân yên ; Quan-Âm phật ngự án tiền, Tả hữu Bồ-Tát tăng thuyền đà-la. Đức Hộ-Pháp vi-đà thiên-tướng, Vận thần thông vô lượng vô biên ; Tận hư-không giới Thánh hiền, Dục-giới sắc-giới chư Thiên đều mời. Đức Đế-Thích quản cai Thiên-Chúa, Vua Ngọc-Hoàng thiên-phủ chí tôn ; Nhạc-phủ Ngũ-nhạc Thần-vương, Địa phủ Thập-điện Minh-vương các tòa. Khắp Thủy-phủ, giang hà hoài hải, Trấn Động-đình bát Đại-Long-Vương ; Tam Nguyên, tam Phẩm, tam Quan, Quản trì tội phúc nhân-gian cầm quyền. Ngôi Bắc-cực Trung-thiên Tinh-Chúa, Tả quan Nam-Tào chú sổ tràng-sinh ; Hữu quan Bắc-Đẩu thiên linh, Nhị thập bát Tú cửu Tinh huy-hoàng. Khắp trên dưới bách Quan văn vũ, Hội Công-đồng tứ Phủ vạn linh ; Cửu-trùng Thánh-Mẫu Thiên-đình, Cửu-Thiên Công-chúa Quế Quỳnh đôi bên. Hội Bán-thiên, khăn hồng áo thắm, Chốn Quảng-hàn cung cấm vào ra ; Đại-Càn Tứ vị Chầu-Bà, Công-đồng Thánh Mẫu tam tòa đức Chúa-Tiên. Đền Sồng-sơn Địa-Tiên Thánh-Mẫu, Trong Phủ-Dày là dấu tiền-hương ; Thỉnh mời bát bộ Kim-Cương, Thập bát La-Hán giáng đàn ngày nay. Lại thỉnh rày chư linh Tiên Thánh, Hội công-đồng chứng chính đàn diên ; Thỉnh mời đức Đệ-tam Chúa-Tiên, Long-tinh Thần-nữ ngự đền Thủy-cung. Lại thỉnh mời năm ông Hoàng-Thái-Tử, Tiếng anh linh trấn ở ngũ phương ; Quản cai sơn thủy đại giang, Đông-quan Tuần-quán đức Thượng-Ngàn anh linh. Khắp Tam-giới Động-đình Tứ-phủ, Hội công-đồng văn vũ bách quan ; Tả thời Thập-nhị Niên-Vương, Hữu thời dương-cảnh Thành-Hoàng quản cai. Lại thỉnh mời Trưng-Vương Thánh-Tổ, Thị tùy tòng lục bộ hôm mai ; Lại thỉnh mời Tứ-vị Khâm-Sai, Anh linh hiển ứng đáng tài thần thông. Thỉnh Tam thập lục cung Tiên-nữ, Quản chư Tào, thừa sự hôm mai. Pháp-Văn, Pháp-Vũ uy nghi, Pháp-Lôi Pháp-Điện hôn trì phi phong. Tướng Thiên-cung mũ đồng áo sắt, Lốt thủy-đình ngũ sắc phi-phương ; Tả thời Bát bộ Sơn-trang, Hữu thời Thập-nhị Tiên-nàng chầu bên. Các bách quan cơ nào đội ấy, Giáng điện tiền lừng lẫy uy nghi ; Thổ-Công, Thổ-Địa, Thổ-Kỳ, Ngoại giang Hà-Bá, sơn kỳ anh linh. Thỉnh Sơn-Tinh thiên binh lực sĩ, Ngũ Hổ-Thần vạn kỵ hùng binh ; Thỉnh mời Thủy-bộ chư dinh, Binh tùy binh độ cùng binh bản đền. Phép tự nhiên Thiên trù tống thực, Thập bách-thiên vạn ức hà-sa ; Na-mô Tát-phạ-đát-tha, Phạ-rô-chỉ-đế bạt-đa-la-hồng. Úm thung-thung thủy luân nhũ hải, Biến trần-trần sái-sái dai sung ; Nhất nghi lục cúng niên thông, Ân-cần phổ cúng hội-đồng Như-Lai. Tập vân lai nguyện an bảo tọa, Đại từ-bi hỉ-xả chi-tâm. Cứ tuần mồng một ngày rằm. Dâng hoa cúng quả sống trăm tuổi già. Khánh tam đa trình tường ngũ phúc, Họ đồng nhân hưởng lộc thọ xuân ; Thơ rằng : Thánh giáng lưu ân, Chư Vị giáng phúc thiên xuân thọ trường. 14. THÁNH-MẪU CA-ĐÀN VĂN Thánh-Chúa an bàn, Đệ-tử tôi đàn, phụng sự Thần Tiên-nữ ; Tiền duyên sinh ở, Thượng-giới Tiêu-cung : Vua Ngọc-Hoàng lồ-lộ ngai rồng, Quản Tam-giới linh tiêu chính-ngự ; Bát muôn Tiên-nữ, Lá ngọc cành vàng ; Quyền tám thu thế-giới vạn bang, Vận thần lực linh thông biến hóa ; Nhân ngày khánh hạ, Mở yến trường sinh ; Bài ban ban khắp hết Thiên-đình, Sân đan-quế tiêu thiều nhạc vũ. Văn-thần vũ-sĩ, Ngọc-nữ tiên-phi, Cửa kỳ-lân phượng múa nghê quỳ, Trên bảo tọa Thiên-nhan chỉ xích. Nguy nguy hách-hách, Đãng-đãng dương dương ; Thoang-thoảng đưa lan xạ thiên-hương, Hây-hây nức yên chi-tô hợp, Nhặt khoan thính-thót, Tơ trúc đôi tuần ; Đàn Ngũ-âm gẩy khúc Nam-huân, Đỉnh đang điểm cung ba dịp bảy. Tiêu thiều lừng lẫy, Lễ nhạc thung-dung ; Tiệc lưu-ly bảo ngọc lạ lùng, Chén hổ phách quỳnh tương thứ tự. Có bà Thánh-Nữ, Cách điệu dịu-dàng ; Nhan-nhản dâng chén ngọc mạ vàng ; Rót rượu lỡ sẩy tay vô ý. Vua cha Thành-Đế Thiên nhãn phi giao ; Động uy nghi Thiên-tử long bào, Lôi-đình nổi bất phân thời khắc. Lệnh truyền hỏa tốc, Hạ bút phân minh ; Cải Thiên-đình đầy xuống dương-đình, No ngày lại lên chầu Thượng-Đế. An-Nam tú-khí, Thiên-bản địa linh, Giữa Huyện Thiên An-thái xã danh, Thôn Vân-Cát trâm-anh lệnh-tộc. Điềm trời giáng phúc, Bãi cát được vàng ; Mãn nguyệt liền hoa nở phi phương, Đội ơn đức thụ thai Thánh-Mẫu. Tốt nên dung-nữ, Vóc ngọc da ngà ; Phỉ ơn công cha mẹ sinh ra, Nâng niu thoắt một ngày một khác. Tóc mây hương thoảng, Da trắng lạ lùng ; Điểm yên tri má đỏ hồng hồng, Con mắt phượng lóng-la lóng-lánh. Tay đeo vành cánh, Chân bước hài hoa ; Điệu lưng ong tám bức quần là, Hây mặt ngọc miệng cười hoa nở. Đêm ngày dưỡng dụ, Màn vóc chăn rồng ; Tựa lan can thác bức bình phong. Lược ngà chải gương loan điểm đót, Khăn hồng lau chuốt, Phấn ngọc điểm trang, Gẩy đàn cầm tang-tính tình-tang, Ca những khúc hảo-cầu quân-tử. Nhân-duyên đôi chữ, Đã có thiên duyên ; Giòng ngự-câu lá thắm đưa tin, Cánh phụng đã chắp cao bay bổng. Tin xuân vừa đến, Hỉ báo nhện sa, Bỗng xui nên Hồ Việt nhất gia, Xích-thằng đã xe dây tơ trước. Duyên ưa cá nước, Phận gái cưỡi rồng ; Họp nhà hương mở hội thung dung, Đào thi vịnh nghi gia nghi thất. Khúc hòa cầm sắt, Hội hợp tân-nương ; Chăn cù dầu đượm nức mùi hương, Tinh thần ngọc động phòng hoa chúc. Nghìn vàng một khắc, Bể ái nguồn ân ; Ngẫm duyên nay đã thắm mười phần, Trời già mặc chưa già duyên nhỉ ? Tao khang chi nghĩa, Non bạc sông vàng ; Sẵn sẵn điềm giáng phúc trình tường, Nhà vàng nối cành vàng lá ngọc. Phòng loan xạ nức, Cửa tú hương xông ; Trứng rồng nay lại nở con rồng, Người quân-tử theo dòng quân-tử. Xum vầy một cửa, Hòe quế rườm-rà ; Còn mảng vui yến phượng oanh ca, Hiệu-Thiên đã ngự tra nhớ đến. Lệnh truyền chỉ khiến, Phản giá hoàn cung, Các bạn Tiên rong ruổi xe rồng, Đưa Chúa đến Linh-tiên quán nguyệt. Lại thêm cách biệt, Đôi ngả đôi nơi. Trách trăng già sao khéo quải duyên ai, Duyên kim cải sui nên biến cải. Nguyệt thu kia hỡi, Đang vành-vạnh tròn, Bỗng cớ sao bể cạn non mòn, Cho trăng khuyết bạc tình trăng nhỉ, Bao nhiêu sự thế, Ngảnh đã làm thinh. Tuy rằng về chầu chực Thiên-đình, Lòng còn nhớ chốn quê Vân-cát. Ruột loan vấn-vít, Tơ trúc bồi-hồi, Ở một nơi lại nhớ một nơi, Xem chẳng khác Ngưu-Lang Chức-Nữ. Thiên Tào cách trở, Yến bắc nhạn nam, Chẳng nhớ thời biến chút cho cam, Nghĩ khôn cấm lòng tây cho được. Bèn vào tâu trước, Thượng-Đế thiên-nhan, Rằng : Duyên con còn nợ dương-gian, Cho mãn nguyện ba sinh sẽ hóa. Ngự tình đại xá, Thánh đức hiếu sinh, Bèn trở ra bái tạ Thiên-đình, Giáng sinh xuống huyện Thiên một khắc. Gió đưa hương nức, Chim nhạn đưa tin, Qua mấy nơi cảnh vật lạ nhìn, Kìa mai liễu hoa cười hớn-hở. Nhện sa trước cửa, Hòe rãy bên hiên ; Thác trấn-song con tiện bỏ then, Tay mở bức bình-phong ren rén. Chúa vừa bước đến, Chốn cũ sảnh-đường, Ẵm con-thơ nước mắt hai hàng, Thấy cảnh cũ lòng càng cám thống. Trạnh lòng dễ động, Than thở tiêu hao, Đương khi Chúa giọt lệ tuôn rào, Trông ra thấy lang quân vừa đến, Lòng mừng dễ khiến, Nào nỗi ái ân ; Nhất thời vãn hựu nhất thời tân, Duyên này đã thắm duyên hơn trước. Phỉ lòng cá nước, Toại chí rồng mây ; Dầu xe nên nghĩa ấy duyên này, Trăng đã khuyết lại tròn vành-vạnh. Tiếng cơn say tỉnh, Ấp ngọc tựa vàng, Người phi thường đâu có phi thường, Chúa Tiên mới kể khoan sau trước. Kìa non nọ nước, Nông nỗi xa gần ; Xin thưa rằng hễ ở có nhân, Trời chẳng phụ nhân duyên đôi chữ. Dù nên hương lửa, Nghĩa ấy phi thường ; Cầm như ai chưa được tỏ tường, Cho nên khiến lòng vàng đeo thảm. Mẹ cha thương cảm, Chúa lại thẩn thơ ; Chịu nguồn cơn mưa gió vẩn-vơ, Đoạn thôi lại xa xa đôi ngả. Thần thông biến hóa, Nương gió cưỡi mây, Dạo bốn phương nam bắc đông tây ; Tìm những chốn non xanh nước biếc. Kìa non nọ nước, Sơn thủy hữu tình ; Cảnh thành-đô đâu chẳng xinh xinh, Nguồn cơn hội phỉ lòng trăng gió. Đài kia các nọ, Quán Sở lầu Tần ; Cảnh thành đô đâu chẳng thanh tân, Từng dạo khắp trời Nam phố Cát. Thanh-hoa tiếp giáp, Long-mạch dõi truyền ; Cõi Đồi-ngang đất tốt tự nhiên, Cảnh thiên tạo thực miền long-huyệt. Địa linh nhân kiệt, Thiên lý lai long ; Giếng âm-dương leo-lẻo nước trong, Thường bóng mát trăng trong phơi phới. Bốn mùa hằng lại, Tám bức bình phong ; Thấy người thanh Tiên-Chúa vừa lòng, Hiện chân tính duyên ưa tình nặng. Áo xanh quần trắng, Tóc phượng lưng ong ; Chễnh-chện thay nhan sắc não-nùng, Hợp Tiên-nữ năm ba tác bạn. Phấn dồi má bạc, Yếm thắm mày ngài ; Áo mớ ba phơn-phớt lòng trai, Mùi thơm nức hương đưa trầm xạ, Truyền chim nhắn cá, Trăm sự đinh ninh ; Gẩy đàn ca tang-tính tang-tình, Tiếng thánh-thót giọng loan to nhỏ, Giữa đường chính xứ, Quý-khách vãng lai. Quán âm-dương dọn bán hàng chơi, Chốn thanh lịch cùng người thanh quý. Sơn-hào hải-vị, Nem-phụng trả-lân ; Người thanh-tân cảnh lại thanh-tân, Bày chễnh-chện giường ngà chiếu ngọc. Màn sa cửa trúc, Con tiện đôi bên, Dù là gan vàng đá tự nhiên, Qua đấy cũng vui miền lạ thú. Thần kinh vương-phủ, Quán Sở lầu Tần, Xem những người tài-tử văn-nhân, Ai lịch-sự Chúa càng lịch-sự. Vả sinh Thánh-tử, Rộng xá trần ai, Tiếc những người phận bạc duyên ôi, Lầm phải Chúa thấy đời từ đấy. Ai hòa vừa ý, Tốt phúc mới duyên, Trời ban cho bổng lộc Chúa-Tiên, Càng thêm được vinh hoa phú quý. Thôi cơn hùng-vĩ, Nghĩ lại từ bi, Rồi điểm trang chễnh chện dung nghi, Mùi gấm vóc xạ đưa hương nức. Lôi đình bộc bạch, Vơ vẩn dịu dàng, Nào những lời khắc Tần-vương, Sông Ngân-hán sẵn cầu Ô có dịp. Kẻ Hồ người Việt, Hương lửa phải duyên, Đấng anh-hùng sánh với thuyền-quyên, Mở một cửa mai thanh trúc quý. Bao nhiêu tri-kỷ, Bể ái nguồn ân, Khen trăng già sao khéo rất liêu nhân, Tiên thượng-giới bạn cùng hạ-giới. Kết giao là ngãi, Hương lửa não nùng, Ân ái kia nào đã phỉ lòng, Riêng chi để lòng người thêm bối rối. Gió trăng đã trải, Quý tộc thiết tha, Bỗng hay đâu non nước la-đà, Cánh chim nhạn đã cao xa bay bổng. 15. ĐỆ-TAM ĐỨC THÁNH QUẾ VĂN Cung Quảng-hàn phất phơ bóng thỏ, Dưới trần gian ai tỏ sự tiên. Vốn xưa ấu khí hiện nhiên, Khi chơi Nguyệt-điện, khi lên Thiên-đài. Vâng lệnh sai giáng sinh dương thế, Điềm hùng bi ai dễ biết hay. Họ Trần Thiên-bản Phủ-dày, Đức công dưỡng dục đêm ngày nâng niu. Giá chắt chiu lau vàng chuốt ngọc, Đích nên tài quốc sắc thiên hương. Mày ngài mặt ngọc phi phương, Ví so Tống-tử Tề-gương khôn bì. Tuổi gia-quan còn bề thương xót, Bỗng hoa hài giở gót lên tiên. Kìa ai nguyền chửa bằng nguyền, Cõi xuân lọm khọm cõi huyên già-già. Chốn hồng-la từ lay kim-xuyến, Cửa trang đài để nhện thung dung. Trời xanh mấy thức mây hồng, Nỉ-non ca dế, não nùng đàn quyên. Dưới cửu tuyền mênh mang những nước, Chẳng ai ngờ Chầu bước Tiên-cung ; Sớm khuya chầu chực đền rồng, Ơn trên dự được tặng phong sắc vàng. Quế-Hoa-nương chính ngôi Công-Chúa, Vâng lệnh ra bái tạ trước sân. Khi thì giá võ đằng vân, Khi chơi quán Sở lầu Tần ngao du. Công khuông phù ban cho duệ-hiệu, Về thuộc tùy Hòa Diệu Đại-Vương. Có khi chơi cảnh Đồi-Ngang, Say sưa nước trí, mơ màng non nhân. Khi dạo chân vườn đào ngõ hạnh, Các bạn tiên đủng-đỉnh xướng ca. Có khi vui thú yên-hà, Bẻ-bai bẻ-bót cầm ca chơi bời. Thoắt Thiên-thai, thoắt về Kinh-quốc, Hứng thanh tân bóng ngọc vẻ thanh. Có khi nương gió thác mành, Trách trong thân thuộc càng sinh nồng nàn. Chầu rày đã thiên nhan rộng mở, Nhủ tấm lòng hỉ-xả từ-bi, Ủy cho muôn việc tiện nghi, Trên thì bảo quốc, dưới thì hộ dân. Chớ có để sinh-dân cho hại, Thiên sinh nhân, nhân lại thành thiên. Tai nghe tiếng ngọc còn in, Tơ hào đâu dám lộng quyền chút vay. Danh thơm bay khắp hòa thiên-hạ, Đã nên tài đáng giá nữ-trung. Ơn trên Thượng-Đế sắc phong, Lại theo Đức-Mẫu nối dòng Đại-Vương. Nay đèn hương đệ-tử tôi phụng sự, Giốc một lòng gìn-giữ dám sai ; Ơn trên ban lộc ban tài, Trẻ già lừng lẫy, gái trai tưng-bừng. Phong lưu mừng thóc Chu tiền Hán, Phúc gồm no hạc-toán quy-linh ; Lại thêm đôi chữ khang ninh, Ải Nam tám cõi, bể kềnh thiên thu. Trên cung chúc Hoàng-đồ củng cố, Ức vạn niên quốc tộ hà xương ; Triều-đình những sức đống hương, Võ ưu thảo-lược, văn tường kinh-luân. Dưới vạn dân, chúc cho khang thái. Phúc nhật lai, tai hại băng tiêu ; Hây-hây tháng Thuấn ngày Nghiêu, Đều lên Thọ-vực, được vào đài Xuân. Nhật trùng quang, nguyệt lại trùng luân, Bát thiên thu hưởng bát thiên xuân thọ trường. 16. ĐỆ-TỨ KHÂM-SAI VĂN Trấn Nam-thiên nữ-trung Nghiêu Thuấn, Đất Sơn-nam có đấng trâm-anh ; Quý hương An-thái xã danh, Tam tòa Tiên Thánh giáng sinh dõi truyền. Điều thời thụ sắc Hoàng-thiên, Ứng đồng ảnh bóng các miền gần xa. Ra tay sát quỷ trừ tà, Ban tài ban lộc đề đa cho đồng. Khâm-Sai Đệ-Tứ tùy tòng, Thiên-Dung Công-Chúa ứng đồng cứu dân. Đã nghĩa thân lại trong nghĩa dưỡng, Thấy uy Bà độ lượng bao dong ; Mặt hoa mây liễu má hồng, Gồm no tứ đức tam tòng vẻ vang. Tóc mây mườn mượt vấn ngang, Hình dung yểu điệu, má hường tốt tươi. Mỉm miệng cười trăm hoa đua nở. Thật rằng tài Tiên-nữ Bồng-lai ; Vào tâu ra dụng khoan thai, Đã trong thân-thuộc lại ngoài uy-linh. Chốn Thiên-đình Bà hằng chầu chực, Các bộ Tiên náo nức dâng huê ; Tiên-hương khuya sớm đi về, Khi chơi Nguyệt-điện khi về Đồi-Ngang. Miếu giữa đường là nơi cây thị, Lập một đền thanh quý nghiêm trang. Lân vờn phượng múa đền vàng, Thị tùng thể nữ bạn nường đôi bên. Trên thượng-thiện cơ mưu kỳ kế, Dưới thủy-cung lục trí thần thông. Kiêm tri tam phủ Công-đồng, Mẫu cho coi sóc đền rồng gần xa. Sổ chương-tòa biên ghi sau trước, Lại ban cho gương lược giầu cau ; Hôm mai khuya sớm gần chầu, Quyền Bà ra dụng vào tâu tung hoành. Chốn Thiên-đình tiện nghi hành sự, Chưởng uy quyền Tiên-nữ linh thông. Lai lâm giáng hạ điện trung, Hoặc Bà chơi nam bắc tây đông tỉnh nào. Hoặc Thiên-tào còn đương tra sổ, Hay Bà còn đổi số cho ai. Hay Bà chơi cảnh Bồng-lai, Hay Bà về Yên-thái là nơi quê nhà. Hay Bà ra kinh đô thành-thị, Hay Bà về phủ tía kim-lâu. Hay chơi năm cửa nhà lầu, Hay chơi hàng phố cầu Dâu cầu Rền. Hay Bà lên cầu Đông cầu Giáp, Hay Bà về chùa Tháp đình ngang ; Hương-tích Bà đã từng sang, Cai các bộ nàng chầu Phật dâng hoa. Ngự thôi Bà trở về tòa, Ngự trong phủ điện gần xa độ cùng. Có khi Bà vào đường Trong, Chơi khắp phủ tía lầu hồng đế-đô. Trống dập-dình sơn chu chốn ấy, Trên thông reo suối chảy xôn xao. Tỉnh Nghệ-An Bà đã thánh vào, Bà chơi những chốn Ai-lao Xiêm-thành. Có khi Bà tới cảnh thanh, Sồng-sơn chốn ấy dập-dình vui chơi. Khách vãng lai bán hàng chào hỏi, Phải duyên ai bối rối nào hay. Mặc ai bùa thuốc tìm thầy, Đồng tôi yên phận xưa nay nhờ Chầu. Phép nhiệm mầu tàn hương thanh thủy, Ban cho đồng lục trí thần thông. Thỉnh mời Chư-vị hội-đồng, Hương loan cảm ứng linh thông thay là. Lại thỉnh Bà Chiêu-Dung Công-Chúa, Chức Khâm-Sai tối tú tối linh. Đều thời giáng hạ chứng minh, Hộ cho đệ-tử khang ninh thọ trường. 17. ÔNG GIÁM-SÁT VĂN Thông minh chính trực, giúp nước phù đời ; Quyền Ông cai khắp hết mọi nơi, Vâng ngọc chỉ xuống chơi Nam-Việt. Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân, Sắc gia ban Thượng-đẳng Tôn-thần. Quyền giám-sát kiêm tri phủ điện, Nghe văn thỉnh luyện, giá ngự điện trung ; Chữ sở cầu hữu cảm tất thông, Hộ đệ-tử đồng-gia phú quý. Nén hương dâng : Đức vua Cha chánh ngự ngai vàng, Thỉnh mời quan Giám-sát các quan Thủy-Tề. Thượng-ngàn tám cõi đồng quy, Bao nhiêu cửa điện cũng về tay Ông. Sồng-sơn cho chí phủ trung, Phủ-Dày Vân-cát quyền Ông tiện hành. Khi chơi tỉnh Nghệ tỉnh Thanh, Nam-định, Ninh-bình, Hà-nội, Bắc-ninh. Tuyên, Cao, Thái, Lạng các thành, Cao-bằng, Bảo-lạc cảnh thanh chơi bời. Tống, Tề, Lương, Việt mọi nơi, Trải mười tám nước Ông chơi Nam-thành. Quảng-bình, Quảng-trị các dinh, Thừa-thiên nội phủ chơi thành Quảng-nam. Biên-hòa, Bình-thuận dạo ngang, Khánh-yên, Quảng-ngãi Ông sang chơi bời. Gia-định, Bình-định, thảnh thơi, Thủy-xá, Hỏa-xá là nơi Xiêm-thành. Khắp mười ba tỉnh nức danh, Quyền cai khắp hết Sơn-tinh Thủy-tề, Sơn-lâm cầm thú hồi qui, Bây giờ Ông xuống giang khê chơi bời, Thủy-binh Ông chọn lấy năm mươi, Thuyền rồng năm chiếc ra chơi Bắc-Hà. Hải-môn mấy cửa quốc-gia, Khi vào Quảng-trị, khi ra vụng Trò. Trên thời đá mọc lô-xô, Dưới thì kình ngạc nhấp-nhô chầu vào. Truyền cho đội giáo đội đao, Đội khiên đội mộc binh đao sẵn-sàng. Đức-Ông chính ngự ngai vàng, Kiêm tri tam giới Ngọc-hoàng sắc phong. Lịnh truyền giở mũi thuyền rồng, Chở ra Hà-Tĩnh các sông thay là. Đền Cờn thờ đức Chầu-Bà, Truyền quân đóng lại xướng ca ba ngày. Quyền cai khắp hết đông tây, Hồi sinh cải tử ai rày dám đương. Ngự thôi Ông xuống hạ-sơn, Đền thờ Tứ-phủ các quan hội-đồng. Ngoài thì sư-tử ngư-ông, Tam-đầu cửu vĩ dưới sông khấu đầu. Truyền cho thủy-bộ đâu đâu, Đều cùng giở mũi cho tầu Ông ra. Thuồng-luồng cho đến ba-ba, Thủy-tề các xứ rước ra chơi bời. Hàn-môn trạch-khẩu thảnh-thơi, Truyền quân bắt đủ năm mươi thanh-đồng. Vào chầu Tam vị Thánh-cung, Truyền sai các bộ bắt đồng cho mau. Ngự rồi Ông giở mũi tầu, Dưới sông trên chợ đâu đâu vui mừng. Thuận buồm giở mũi thung-thang, Cờ bay phấp-phới súng bằng pháo rang. Có khi Ông chơi chốn dương-gian, Ra đền Quốc-tế bốn phương khẩn cầu. Cửa Sung cửa Bích đâu đâu, Phủ Đào cảnh cũ về chầu Chúa-Tiên. Khắp hòa non nước dạo miền, Phủ-Dày Thiên-bản Ông lên vụng điền. Qua chơi ra tỉnh Hưng-Yên, Qua sông Tô-Lịch Ông lên sông Trừng, Ba nghìn thế-giới lưng-lưng, Kiêm tri khắp hết trên rừng dưới sông. Sắc phong Giám-Sát Quận-Công, Lịch triều năm đạo sắc rồng gia ban. Có khi Ông chơi Hương-san, Vân-Nam Bắc-quốc biết sang đường nào. Chơi rồi Ông lại trở vào, Sồng-sơn Ba-rội Mẫu trao quyền-hành. Thượng-ngàn đứng ở rừng xanh, Các cô thể-nữ nức danh vui chào. Có khi Ông chơi bên Lào, Lại xuống dưới chợ đường nào cho thông. Bây giờ Ông ra ngự đồng, Dương-gian nhỡn nhục ai không biết gì. Bịnh thì khi tỉnh khi mê, Cơm ăn chẳng được nước thì cầm hơi. Thuốc thời chẳng được uống thôi, Phép Ông uy trời khôn đổi được đâu. Bây giờ Ông lại về chầu, Sắc ban Giám-Sát đứng đầu bách quan. Khắp hòa tứ Phủ vạn bang, Phép Ông hùng-cường vạn mã thiên binh. Truyền cho các đội các dinh, Vào tâu ra dụng triều-đình ai dương, Khi lên chầu vua Ngọc-hoàng, Nam-Tào Bắc-Đẩu các quan cũng nhường. Chầu thôi Ông lại xuống Diêm-vương, Hội-đồng thập Điện rõ-ràng phân minh. Con vua Thượng-đế Thiên-đình, Cầm cờ sinh tử quyền hành một tay. Có khi cầm sổ cao dày, Quyền Ông giám-sát sai nay giữ mình. Có phen hội nghị triều-đình, Kiêm-tri khắp hết Thủy-tinh Thượng-ngàn. Về đền chức chưởng Thành-hoàng, Kiêm tri các bộ tiên nàng dưới trên. Phép ông lục trí thần tiên, Xuất thần nhập thánh khắp miền trần-gian. Tà ma thấy bỗng chạy tan, Khu trừ Càn Sát, Phạm-Nhan đẳng tà. Mười ba cửa bể gần xa. Ngàn xanh tám cõi vào ra một mình. Có phen lên thác xuống ghềnh, Tám muôn công-tử một mình tay Ông. Vốn xưa ở nước Việt-đông, Nam-thành đã trải Bắc-cung đã tường. Giáng sinh vào cửa Đại-vương, Thiên-văn địa-lý đã nhường ngôi cao. Võ Ông tam lược lục thao, Tùy tòng chế thắng ai nào dám đang. Võ Ông ví với Đức Quan, Văn ông so với Mạnh Nhan thay là. Giáng sinh mồng một tháng ba, Trung thiên chính Ngọ được giờ xuất thân. Xuân huyên chắc mừng rỡ muôn phần, Sinh ra là đấng trung-thần trượng-phu. Giáng sinh vào cửa họ Chu, Tinh trung bất nhị cơ đồ nên trai. Sắc phong Thượng-đẳng anh-tài, Sang chơi Nam-Việt quản cai bách Thần. Xin Ông mở rộng lòng nhân, Phù hộ đệ-tử thiên xuân thọ trường. 18. NGŨ VỊ HOÀNG-TỬ VĂN Bóng kim-ô ánh vàng choi chói, Cõi trăng già vòi-vọi ngôi-cao ; Trời xanh vằng-vặc ngôi sao, Mây tuôn trời đất đỏ đào bốn phương. Phóng hào quang khắp hòa thiên-hạ, Vừng nguyệt soi chiếu cả trần trung. Bốn mùa xuân hạ thu đông, Muôn dân mới biết linh thông phép trời. Vua Ngọc-hoàng ngự chốn Thiên-thai, Đền rồng cao ngất cửa đài trang nghiêm. Thánh ứng đền rồng bay phượng múa, Bốn lân quỳ bẩy bộ sao sa ; Tám nghìn tiên-nữ thải hoa, Sớm khuya chầu chực Vua-Cha Ngọc-Hoàng. Trong đền vàng mùi hương mùi xạ, Ngoài thành mây khói tỏa hơi nghê ; Mây rồng năm sắc phủ che, Thánh-Hoàng Thái-Hậu tức thì thụ thai. Mười rằm tháng tám giờ Mùi, Thái-Hậu sinh được năm tài Đức-Ông. Bách quan vọng bái Cửu-trùng, Thượng-Đế giáng phúc sắc phong Thái-Hoàng. Chuyện mười phương đông tây nam bắc, Tam Phủ đều hỏa tốc đến ngay ; Ba tòa Thánh-Mẫu ngự mây, Bách quan ngự gió, các Tiên nay ngự rồng. Sấm đùng đùng phá non rẽ nước, Ngự điện tiền sau trước mừng vui. Nhất bào sinh được năm trai, Những Ông trạng mạo đáng tài thần thông. Uy linh dũng mãnh vô cùng, Thượng-thiên dám địch, Thủy-cung dám bì. Ông Hoàng-Cả thiên ti tài thánh, Biến lạ nhường vẻ lịch cảnh thanh. Ra uy khắp hết Thiên-đình, Làm mưa làm gió phá thành tát sông. Ông Hoàng-Hai lục trí thần thông, Đắp núi xây bể ngăn sông hải hà. Chuyển trời đất sấm lòe chớp giật, Nổi cơn mưa động đất đổ xô. Tiếng thét to Ông sai lôi giáng, Vạn quỷ tà khiếp đảm tan bay. Ông Hoàng-Ba vạn phép ai tầy, Sông Ngân Ông bước bể rày nhảy qua. Gỗ trò-hoa trên rừng Ông lấy, Các cửa ngàn đâu đấy đều kinh. Chúa Mường chúa Mán thần linh, Trên ngàn các chúa phục tình làm tôi. Khi dạo chơi Bồng-lai tiên-cảnh, Thoáng lại về cảnh lịch Thiên-thai. Có khi Ông ngự thủy chơi, Mười hai cửa bể ai ai đến chầu. Chiếc long chu lệnh Ông ra ngự, Mái chèo lan Tiên-nữ chèo đua. Quân Ông lưỡng giực lên bờ, Dưới sông Ông ngự thực là nghiêm trang. Bổng quan lớn muôn vàn đâu đấy, Đến bây giờ mới thấy rất vui. Khắp mười tám nước ai ai, Bây giờ mới biết trên trời Ông Hoàng-Ba. Tiệc xướng ca thỉnh Ông Đệ-Tứ, Con Vua, Cha ngự ở Thiên-cung. Sắc vàng Thượng-đế vinh phong, Quyền cai Tiết-chế uy hùng dậy vang. Khắp mười phương trên trời dưới đất, Quản kiêm tri đạo Phật thiền-gia. Cầu ô Ông bắc Ngân-hà, Liệt hàng tinh-tú đặt ra đầy trời. Ông dạo chơi sao sa lác-đác, Cửu-điện cùng đến các Đế-tinh. Tam quang thất đẩu ngũ hành, Nhị thập bát tú Thiên-đình hà-sa. Ông hỏi tra Nam-Tào Bắc-Đẩu, Số âm dương lão ấu chép biên. Người nào hiếu thuận thảo hiền, Tu nhân tích đức chép biên thọ trường. Người độc dữ ra phường bạo ngược, Chỉ hại người chẳng trước thì sau ; Phép Ông hiển hách nhiệm mầu, Ra uy sát quỷ đâu đâu kinh hoàng. Nức hơi xuân vui mừng khánh hạ, Thỉnh Ông Hoàng xa giá phủ trên ; Thứ-năm Ông Hoàng Thượng-thiên, Hình dung nhan sắc thần tiên khôn bì. Tướng uy nghi da ngà mắt phượng, Vẻ râu rồng khí tượng ung-dung ; Trong tay vạn phép thần thông, Tự nhiên sấm thét đùng đùng mưa bay. Phất cờ đào tuôn mây cưỡi gió, Suất chín lần Tam-Phủ thông-tri ; Khi Ông ngự dưới đan-trì, Voi vàng ngựa bạc tứ bề quan quân. Lại dạo chơi non nhân nước trí, Khắp bầu trời sơn thủy cảnh thanh. Khi Ông hóa phép hiện hình. Hóa long hóa hổ thần linh rụng rời. Khắp gái trai muôn dân thiên-hạ, Kẻ phàm trần thấy Ông phép lạ khôn hay. Bao nhiêu tà quỷ đông tây, Ông cho phù phép thổi bay tan tành. Chúng yêu-tinh Phạm-Nhan tiền kiếp, Càn-Sát làm ác nghiệt phụ-nhân. Tà-thần ám ảnh cõi trần, Đêm ngày quyến luyến tinh thần mông cung. Tật bệnh mong Ông ban linh dược, Kẻ phàm trần khuất nước khôn hay ; Lại hơn thày phù thủy nay, Mây tan phách quỉ gió bay hồn tà. Khắp bói khoa theo Ông cửa điện, Đệ tử tôi khấn nguyện năm Ông ; Tín chủ nay cũng có lòng, Năm Ông giáng hạ hội-đồng cứu cho. Một cánh bùa Ông cho về khảo, Hoặc gian tà bệnh não tan không ; Phép làm lở núi cạn sông, Phép làm đá cát bay tung nửa trời. Lại thử chơi sấm ran chớp giật, Quỷ cùng tà chục hết còn đâu ; Lúc nhàn ngự Thủy-cung lâu, Mở lòng nhân đức bắc cầu kỳ an. Dù ai lập lư hương đội lệnh, Dốc một lòng thành kính thờ Ông ; Độ cho phúc giáng trùng trùng, Độ các thanh-đồng tài lộc đề-đa. Hạn ách qua tai ương Ông tống, Sổ Thiên-Tào cho sống trăm năm ; Dù ai mộ đạo nhất tâm, Đèn hương khấn nguyện lâm dâm cho tường. Muốn quan sang hay là giầu có, Muốn thơm tho vận đỏ làm nên, Phải cầu năm vị Ông trên, Thời Ông giáng phúc vững bền thiên niên. Cốt lòng thiền ông nay giám thính, Một nén hương mà kính là hơn. Đức Ông năm vị giáng ban, Độ cho phú quý bình an cửa nhà. Người vinh hoa thăng quan tiến chức, Lại sống lâu giằng-giặc cháu con. Chữ rằng : Thánh giáng lưu ân, Ngũ vị giáng phúc thiên xuân thọ trường. 19. CÁC CÔ VĂN Trước điện tiền dâng nhang một nén, Lòng chí thành thấu đến Cửu-Thiên. Gió bay ngào-ngạt hoa diên, Lòng tin xin tấu một thiên văn chầu. Trước tôi cầu Lục-cung Tiên-nữ, Sau tôi mời các bộ Thải-hoa, Nàng Cả, nàng Hai, nàng Ba, Nàng Đào, nàng Hạnh, cùng là nàng Mai. Khắp mười hai Chúa-Tiên Thần nữ, Vốn các nàng chầu ở Thiên-cung ; Năm thường vâng lệnh Cửu-Trùng, Giải hoa hạ-giới nhi-đồng các nơi. Dù lành dữ nhờ tay cô thải, Biết mà kêu chẳng phải lo-âu ; Chẳng nề nhà khó nhà giầu, Hễ ai thành kính là cầu tất linh. Tử hoàn sinh cơ đồng Tạo-hóa, Trọng biến khinh phép lạ thần-thông ; Thấy ai lân ấp tây đông, Các cô đi thải hoa bông độ rày. Tín chủ nay lòng thành sợ hãi, Lập đàn lên kêu với Tiên-nương ; Lễ-nghi sắm sửa vội-vàng, Lòng tin bát nước nén hương khấn nguyền. Nguyện Tiên-nương đàn-duyên giáng phó, Giốc một lòng cứu hộ nhân-gian ; Nay tôi thiết lễ kỳ-an, Hương hoa trái quả trên đàn kính dâng. Xin Cô lai hưởng lai lâm, Chứng minh tín chủ thành tâm lễ cầu. Khi đã thải thì mau bốc hót, Chưa giải thì xin một đôi hoa ; Phù-hộ tín-chủ một nhà, Con con cháu cháu cùng là tốt tươi. Thuận thiên-thời đã thưa hoa quả, Y nhật tuần chẳng sợ thuốc-thang ; Lại cho ẩm thực như thường, Lại cho thân-thể ôn lương điều-hòa. Thanh khoản rồi trong nhà vui vẻ, Phù hộ cho già trẻ bình-an ; Muôn đời ơn đức Chúa-Tiên, Hộ cho tín-chủ thiên niên thọ tràng. """