"
Ứng Xử Với Trung Quốc - Góc Nhìn Trong Cuộc Về Siêu Cường Kinh Tế Mới - Henry M. Paulson, Jr. full mobi pdf epub azw3 [Phân Tích]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ứng Xử Với Trung Quốc - Góc Nhìn Trong Cuộc Về Siêu Cường Kinh Tế Mới - Henry M. Paulson, Jr. full mobi pdf epub azw3 [Phân Tích]
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tác giả Henry M. Paulson, Jr. từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền Mỹ, thậm chí có thời gian hơn hai năm làm Bộ trưởng Tài chính Mỹ dưới thời Tổng thống Mỹ George W. Bush. Là một chính khách lớn, Henry M. Paulson, Jr. cũng là một doanh nhân tài chính có tầm cỡ trên thế giới, quá nửa cuộc đời ông (trên 32 năm) dành cho những hoạt động tiền tệ tại Goldman Sachs, một tập đoàn tài chính hàng đầu nước Mỹ và trên thế giới, với cương vị Giám đốc Điều hành và Chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Cuốn Ứng xử với Trung Quốc — Góc nhìn trong cuộc về siêu cường kinh tế mới chính là một cuốn hồi ký về những thành công của ông tại Trung Quốc, nơi ông đã tạo dựng được sự tin cậy đáng kể của nhiều lãnh đạo Đảng và Chính phủ Trung Quốc khi tư vấn cải tổ một số doanh nghiệp lớn của nhà nước và đưa các doanh nghiệp này lên sàn chứng khoán quốc tế. Ông đã thành công bởi những kinh nghiệm phong phú trong lĩnh vực tài chính của mình và những hiểu biết về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… của đất nước Trung Quốc rộng lớn.
Cuốn sách được viết ra theo cách nhìn hoàn toàn cá nhân tác giả, chắc chắn sẽ không giống như cách nhìn của nhiều người nói chung và người Mỹ nói riêng. Nhưng có thể cho rằng, đây là những bài học kinh nghiệm quý báu, để tham khảo, cho bất kỳ doanh nhân, doanh nghiệp ngoài Trung Quốc nào muốn thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng và đông dân nhất
thế giới này. Hy vọng qua cuốn sách này, nhiều doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam sẽ thu được ít nhiều bổ ích cho mình.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
LỜI NÓI ĐẦU
Sự trỗi dậy của Trung Quốc thành một siêu cường kinh tế chắc chắn được xếp vào một trong những câu chuyện phi thường nhất trong lịch sử. Chỉ trong gần ba thập kỷ, đất nước từng lạc hậu và cô lập này đã đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo, đồng thời chuyển mình thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tôi không bao giờ có thể nghĩ một quốc gia lại phát triển quá nhanh như vậy được. Sự nổi lên của Mỹ trở thành một siêu cường về công nghiệp đã manh nha sau cuộc Nội chiến, nhưng Trung Quốc đã vượt qua cuộc chạy đua vĩ đại của Mỹ và họ vẫn chưa dừng lại. Trong tương lai không xa, họ có thể sẽ vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, đánh bật vị trí số một mà nước Mỹ đã thống lĩnh trong gần 150 năm.
Tốc độ chuyển đổi của Trung Quốc vô cùng ngoạn mục. Những tòa nhà chọc trời mới mọc, những tuyến đường sắt cao tốc và các sân bay hiện đại tương phản mạnh mẽ với cơ sở hạ tầng ngày càng xuống cấp của nước Mỹ. Có lần tôi đọc về các kế hoạch lớn của một doanh nhân Trung Quốc nào đó dự định chi 50 tỉ đô-la để xây dựng một kênh đào xuyên qua Nicaragua với kích thước gấp đôi kênh đào Panama; điều tiếp theo mà chúng tôi được biết là một nhà phát triển Trung Quốc muốn mua một phần đất nước Iceland; rồi một tập đoàn dự định xây dựng tòa nhà cao nhất thế giới chỉ trong vòng sáu tháng.
Trung Quốc ngày nay là một mảnh đất của những cái nhất. Đó là nơi của những siêu máy tính nhanh nhất thế giới, nhà máy điện gió lớn nhất thế giới, cây cầu vượt biển dài nhất thế giới. Đất nước này sản xuất và sử dụng gần một nửa lượng than đá, xi măng, quặng sắt và thép của thế giới; họ cũng tiêu thụ tới 40% lượng đồng và nhôm của thế giới. Theo một ước tính, Trung Quốc sẽ sớm là chủ của gần một nửa số tòa nhà đang được xây dựng trên trái đất. 40 năm trước, hầu hết người Mỹ không tưởng tượng ra việc nợ Trung Quốc đến một xu. Giờ đây, Trung Quốc lại chính là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, chiếm gần 1.300 tỉ đô-la trong khoản nợ của chính phủ. Thế cũng đủ để khiến cho mọi thứ quay cuồng rồi và người Mỹ đang tự hỏi làm thế nào mà thế giới lại đảo lộn quá nhanh như vậy.
Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã trở thành mối quan tâm lớn cũng như một nỗi băn khoăn của thế giới. Nước Mỹ ngày càng có nhiều bất đồng với một Trung Quốc ngày càng cạnh tranh hơn khi họ tạo ra được những cơ hội mới để tham gia vào thị trường thế giới và trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ gay gắt với các nước láng giềng, khi họ đang thách thức trật tự do Mỹ lập ra ở châu Á, họ thách thức hệ thống thống trị toàn cầu chiếm ưu thế từ sau Thế chiến II. Chính phủ Trung Quốc dường như không muốn hoặc không thể ngăn chặn được nạn xâm phạm sở hữu trí tuệ từ các công ty của Mỹ, và họ cũng đang thắt chặt mối quan tâm đối với xã hội Trung Quốc thông qua hệ thống chính quyền mà người Mỹ không hiểu nổi cũng như không hề thích.
Nghi ngờ là một con đường hai chiều. Quan điểm ủng hộ các mối quan hệ tích cực với Mỹ ngày càng suy yếu và ngày càng nhiều người Trung Quốc tin rằng Mỹ và các nước khác muốn cản trở sự đi lên của đất nước họ.
Những diễn tiến này có nguy cơ gây suy yếu một mối quan hệ mà trong hơn bốn thập kỷ qua đã có những đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và sự thịnh vượng cho cả hai quốc gia, đồng thời tăng cường an ninh quốc tế, không chỉ bằng cách giúp tạo ra một kết thúc hòa bình sau thời kỳ chiến tranh Lạnh. Giờ đây, không ít người Mỹ tự hỏi: Người Trung Quốc thực sự muốn gì?
Tại sao họ lại chi tiêu quá nhiều tiền cho quân đội? Họ là bạn hay kẻ thù, là đối tác thương mại hay là đối thủ về kinh tế và địa chính trị? Nói tóm lại, chúng ta phải ứng xử với Trung Quốc như thế nào?
Cuốn sách này cố gắng giải quyết các câu hỏi đó thông qua những kinh nghiệm của cá nhân tôi khi làm việc với người Trung Quốc. Tôi không phải là một học giả hay một nhà lý thuyết. Tôi không đọc, viết hay nói được tiếng Trung. Tôi chỉ là một doanh nhân có kiến thức thực tế về Trung Quốc và các nhà lãnh đạo công ty cũng như chính trị Trung Quốc. Tôi đã lượm lặt được những kiến thức đó từ hơn 100 lần đến quốc gia này và trong gần 25 năm làm việc với các quan chức Trung Quốc về những vấn đề thương mại khi làm việc tại Goldman Sachs, về những vấn đề của nhà nước và chính sách kinh tế vĩ mô khi làm Bộ trưởng Tài chính Mỹ và giờ đây khi là người đứng đầu Viện Nghiên cứu Paulson, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và một môi trường trong sạch hơn thông qua mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong thời gian đó, tôi đã có cơ hội làm việc gần gũi với hầu hết các nhà lãnh đạo cấp cao của ba chính quyền gần đây nhất của Trung Quốc: Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ vào những năm 1990, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo vào những năm đầu của thế kỷ XXI, Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường hiện nay.
Tôi viết với tư cách là một người Mỹ quan tâm sâu sắc đến vị thế của đất nước mình trên thế giới, đến sức khỏe của nền kinh tế đất nước tôi, môi trường và triển vọng lâu dài cho công dân của chúng tôi. Tôi cho rằng tất cả những điều này sẽ được hưởng lợi từ mối quan hệ tích cực với Trung Quốc và rằng sự hợp tác có chọn lọc và mang tính xây dựng sẽ là cách tốt nhất để thúc đẩy lợi ích quốc gia của Mỹ. Người Trung Quốc là một đối thủ đáng gờm. Tuy nhiên người Mỹ không nên sợ cạnh tranh hoặc co lại vì điều đó.
Tôi đã duy trì lý lẽ thuyết phục này trong một thời gian dài. Vài tuần sau khi tuyên thệ với tư cách Bộ trưởng Tài chính, tôi đã đến Trung Quốc để đặt nền móng cho một cách tiếp cận mới với mối quan hệ song phương quan trọng nhất của nước Mỹ. Tăng trưởng và cải cách kinh tế là mối quan tâm nổi trội của Trung Quốc và tôi tin rằng có thể thúc đẩy cuộc Đối thoại Kinh tế Chiến lược mới được thai nghén của mình để quản lý hiệu quả rất nhiều các vấn đề cấp bách khác.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã tạo ra một quan điểm sai lầm ám ảnh cái cách mà một số người ở cả hai quốc gia nhìn nhận về mối quan hệ của hai nước: cụ thể là “Mô hình Trung Quốc” đại diện cho một mô hình tốt hơn và đang thắng thế khi Mỹ đang dần đi vào suy thoái. Trên thực tế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rất rõ về những lỗ hổng của đất nước họ. Các cuộc cải cách thị trường đầu tiên bắt đầu dưới thời Đặng Tiểu Bình vào năm 1978, nhưng việc mở rộng phạm vi và tác động của chúng lại quan trọng đối với hàng ngũ lãnh đạo hơn bao giờ hết. Đối với tất cả những thành công của mình, Trung Quốc còn có một chặng đường dài để đi. Hơn 100 triệu người dân của đất nước này vẫn sống trong cảnh đói nghèo. GDP bình quân đầu người của Trung Quốc xếp thứ 80 trên thế giới, chỉ đứng
trước Iraq một bậc và chỉ bằng một phần tám so với Mỹ. Tốc độ tăng trưởng phi thường của Trung Quốc đang chậm lại khiến cho các cuộc cải cách thị trường ngày càng cấp bách và khó để đạt được hơn. Năm 2014, lần đầu tiên trong 16 năm, tăng trưởng GDP 7,4% của Trung Quốc nằm dưới mức dự báo và nhiều chuyên gia cho rằng tốc độ tăng trưởng sẽ tiếp tục giảm.
Trung Quốc cần phải chuyển đổi nền kinh tế trị giá 10.000 tỉ đô-la này từ việc phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu và đầu tư không hiệu quả vào cơ sở hạ tầng, cộng thêm các khoản nợ xấu ngày càng tăng ở tất cả các cấp chính quyền địa phương sang việc tăng tiêu dùng trong nước và tập trung nhiều hơn vào các ngành dịch vụ và sản xuất cao cấp. Đó là một nhiệm vụ to lớn và phức tạp bởi thực tế là phần lớn nền kinh tế vẫn nằm dưới sự điều tiết của các nhà hoạch định tập trung, ngay cả sau nhiều năm cải cách. Các quyền lợi bị kìm hãm đang đòi hỏi thay đổi hơn nữa. Trong khi đó, nhiều năm bị bỏ mặc không được quan tâm khiến vấn đề biến đổi môi trường ở đất nước trở nên gần như một thảm họa và làm dấy lên sự băn khoăn ngày càng tăng của người dân Trung Quốc.
Và trong khi còn cần phải làm nhiều thứ để củng cố đất nước, Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất, tiên tiến nhất và năng động nhất trên thế giới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rằng để tiếp tục chuyển đổi nền kinh tế của mình, họ cần tiếp tục hợp tác một cách thiện chí với Mỹ và các nước khác để tiếp tục thống trị hệ thống kinh tế toàn cầu theo nhiều cách khác nhau. Họ muốn thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Mỹ, bí quyết cũng như các công nghệ tiên tiến nhất của Mỹ.
Mối quan hệ Mỹ-Trung sẽ cân bằng, an toàn và hiệu quả hơn cho cả hai bên nếu mỗi quốc gia thực hiện một vài điều chỉnh. Người Mỹ lo ngại về
những hoạt động quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc; trong khi đó Trung Quốc lại coi hành động “xoay trục hướng về châu Á” của Mỹ là một nỗ lực ngầm nhằm cản trở sự trỗi dậy của họ. Mỹ muốn Trung Quốc mở cửa thị trường cho các công ty của Mỹ đồng thời muốn họ tuân theo các quy tắc hiện tại khi hội nhập sâu hơn vào hệ thống quốc tế. Trong khi đó Trung Quốc lại thích sửa đổi các quy tắc này và muốn được tôn trọng hơn trên toàn cầu.
Một số người tin rằng đó là quy luật lịch sử và mâu thuẫn là điều không tránh khỏi khi một cường quốc mới bắt đầu nổi lên chống lại một cường quốc đã tồn tại. Nhưng không có quy luật nào không thể thay đổi được. Đó là vấn đề về sự lựa chọn. Các bài học có thể được rút ra. Và các chính khách có thể tạo ra sự khác biệt.
Tôi không tin rằng có bất cứ điều gì được gọi là “không tránh khỏi” trong mối quan hệ Mỹ-Trung, nhưng có một số nguy cơ thực sự có thể dẫn đến khả năng cạnh tranh ngày càng gay gắt hay thậm chí là xung đột. Chìa khóa để tránh mối quan hệ thù địch là đạt được những việc cụ thể mang lại lợi ích cho cả hai. Đối với tất cả những tiềm năng giữa hai quốc gia, Mỹ và Trung Quốc còn chia sẻ nhiều hơn cả lợi ích - thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu, chống biến đổi khí hậu, duy trì hòa bình và ổn định. Thực tế này vẫn chưa hề là vấn đề quan trọng trừ khi hai nước có khả năng biến mối quan tâm chung thành các chính sách và hành động bổ sung. Hai quốc gia cần phải mở rộng và thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ kinh tế. Và tôi hy vọng rằng Ứng xử với Trung Quốc sẽ làm sáng tỏ cách để thực hiện được điều đó.
Tôi sẽ không cố gắng dự đoán tương lai. Tuy nhiên, tôi sẽ không ngần ngại đưa ra những lời khuyên về một loạt các chủ đề bao gồm cải cách
kinh tế, thị trường tài chính, đô thị hóa, môi trường và cách tăng cường mối quan hệ Mỹ-Trung. Nói cho cùng, đưa ra giải pháp vẫn dễ dàng hơn là dự đoán. Các giải pháp của tôi bắt nguồn từ chính những kinh nghiệm cá nhân mà tôi sẽ chia sẻ trong những trang sách tiếp theo. Tôi hy vọng rằng, chúng sẽ giúp cho những người đang làm việc với Trung Quốc, cho dù trong lĩnh vực kinh doanh, quan hệ với chính phủ hay hoạt động từ thiện, chắc chắn đạt được kết quả tốt. Điều này sẽ chỉ có tác dụng đưa hai nước lại gần nhau hơn.
Chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức khó khăn trong thế giới ngày càng phức tạp và kết nối với nhau ngày nay. Hầu như tất cả, từ an ninh mạng đến việc mở cửa các thị trường lớn cho xuất khẩu của Mỹ sẽ dễ dàng được đáp ứng hơn nếu Mỹ và Trung Quốc có thể hợp tác với nhau theo cách nào đó. Sẽ khó khăn hơn rất nhiều để giải quyết các vấn đề, nếu không muốn nói là bất khả thi, nếu hai cường quốc kinh tế quan trọng nhất thế giới chống lại nhau.
PHẦN MỘT
DỰA VÀO CẢI CÁCH
1. Ở TỬ QUANG CÁC*
Đường phố yên tĩnh, Quảng trường Thiên An Môn rộng thênh thang hầu như vắng tanh khi chiếc xe của chúng tôi đi xuyên qua Bắc Kinh hướng về Trung Nam Hải, một khu phức hợp tách biệt của giới lãnh đạo Trung Quốc. Đó là ngày 25/2/1997, một ngày mùa đông rực rỡ, khi bầu trời ngả bóng hoàng hôn. Đèn trên quảng trường bắt đầu được bật sáng. Trong những chuyến đi thường xuyên của tôi đến Trung Quốc, tôi đã quen với những tiếng ồn ào nhức óc của những đám đông lớn ở khắp mọi nơi, nhất là trên đường với hàng hàng lớp lớp những xe con, xe tải và xe buýt đang ngày càng nhiều. Nhưng hôm nay là sự yên tĩnh kỳ lạ mà tôi chưa từng gặp. Đặng Tiểu Bình, nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, vừa qua đời tuần trước và đất nước vẫn đang trong thời gian tang lễ. Tôi đang trên đường, cùng các đồng nghiệp từ Goldman Sachs tới một buổi họp riêng với một trong những người được Đặng Tiểu Bình bảo trợ.
Đặng Tiểu Bình từng là kiến trúc sư trưởng cho những thay đổi phi thường trên khắp Trung Quốc. Với chủ nghĩa thực dụng khôn ngoan, ý chí và sự kiên trì, ông đã bắt tay vào việc tháo gỡ các xiềng xích tư tưởng để tạo ra mô hình “chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc” riêng biệt. Ông đưa ra nguyên tắc thị trường và khuyến khích các doanh nghiệp cá thể trong toàn bộ nền kinh tế, bắt đầu từ nông nghiệp và mở rộng sang công nghiệp và các khu vực tài chính. Bắt đầu từ năm 1978, công cuộc “cải cách và mở cửa” đã đem lại những kết quả hết sức ngoạn mục. Sau những biến động về chính trị và kinh tế trong những năm cuối cùng của thời Mao Trạch Đông, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc đã tăng vọt với tốc
độ gần hai chữ số trong gần hai thập kỷ qua, giúp cho hàng trăm triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói. Các thực phẩm từng khan hiếm giờ dồi dào. Những hàng hóa tiêu dùng không sẵn có hay quá đắt đỏ trước đây giờ có thể được mua tại các cửa hiệu bán lẻ đang xuất hiện ngày càng nhiều; và Trung Quốc nhanh chóng trở thành công xưởng sản xuất và xuất khẩu toàn cầu.
Tuy nhiên, cái chết của Đặng Tiểu Bình cũng đã đặt ra các câu hỏi về việc đất nước Trung Quốc sẽ theo đuổi tầm nhìn của ông bao xa và với tốc độ nào. Buổi sáng hôm đó, Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và là nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ, đã tìm cách trấn an cả nước và thế giới rằng ông sẽ tiếp tục tiến trình cải cách. Trong một bài điếu văn ứa lệ trước 10.000 cán bộ chủ chốt của Đảng và quân đội tại Đại lễ đường Nhân dân - và ước tính có khoảng 400 triệu người theo dõi trên truyền hình trực tiếp - Giang Trạch Dân lên án “sai lầm nghiêm trọng” của Cách mạng Văn hóa và hứa sẽ tiếp tục các chính sách của Đặng Tiểu Bình về cải cách kinh tế và cam kết quốc tế. Nhưng tôi biết có một số người theo đường lối cứng rắn trong Đảng Cộng sản Trung Quốc và bộ máy nhà nước đang tìm cách làm chậm lại hoặc thậm chí là ngừng cải cách. Họ lo ngại rằng Trung Quốc sẽ từ bỏ chủ nghĩa Marx hoặc rằng những biến động do các thay đổi tạo ra có thể gây bất ổn cho đất nước.
Đó là một thời điểm bước ngoặt quan trọng đối với Trung Quốc. Vào tháng 7/1997, tức là còn chưa đầy bốn tháng nữa, Hồng Kông sẽ được trao trả lại cho Trung Quốc sau hơn 150 năm dưới chế độ cai trị của Anh. Từ thời điểm bây giờ nhìn lại thì dường như rất dễ dàng, nhất là với một người Mỹ, để quên đi rằng thời khắc đó quan trọng và căng thẳng như thế
nào với tất cả các bên liên quan. Đặng Tiểu Bình đã phác thảo công thức “một quốc gia, hai chế độ” nhằm đảm bảo rằng Hồng Kông có thể tiếp tục con đường tư bản của mình, với sự tự trị về chính trị, trong ít nhất là 50 năm sau khi trở lại với Trung Quốc. Nhưng nhiều người ở Hồng Kông vẫn tỏ ra nghi ngờ: có nhiều người trước kia đã rời khỏi Trung Quốc khi những người cộng sản lên nắm quyền và họ nhớ lại sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6/1989, tức là mới chỉ chưa đầy 10 năm trước. Có khoảng 700.000 công dân Hồng Kông, chiếm hơn một phần mười dần số, đã kiếm được hộ chiếu nước ngoài để phòng ngừa và nhiều công ty cũng chuyển đổi trụ sở chính của mình sang nước khác.
Tôi đã bay từ Hồng Kông tới Bắc Kinh sáng hôm đó trong tâm trạng háo hức và có đôi chút căng thẳng. Theo chương trình, tôi sẽ gặp Phó Thủ tướng Chu Dung Cơ, ông hoàng kinh tế của Trung Quốc. Tôi biết là tất cả mọi vấn đề liên quan tới cải cách hay tới Hồng Kông đều chiếm vị trí ưu tiên cao nhất đối với các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc và cần phải được xử lý cẩn thận. Không được phép có bất kỳ sai sót nào. Vào thời điểm đó, tôi đang là Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và tôi sẽ thảo luận với Chu Dung Cơ về một việc liên quan chặt chẽ tới cả hai vấn đề nêu trên: đó là tái cấu trúc hệ thống viễn thông của Trung Quốc thông qua chào bán cổ phiếu ở một công ty niêm yết trên thị trường Hồng Kông mới được thành lập. Như một phần trong tiến trình hiện đại hóa nhanh chóng, Trung Quốc đã đầu tư lớn vào lĩnh vực này, với nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hạ tầng viễn thông tiên tiến đối với một nền kinh tế hiện đại.
Các chủ ngân hàng phương Tây có vai trò như vị thần Promethe* trong tiến trình này: chúng tôi ghé qua và cạnh tranh với nhau trong việc chỉ cho
Trung Quốc cách thắp lửa trên các thị trường vốn. Goldman đã thảo luận các khía cạnh của việc niêm yết trong hàng tháng với đại diện của Tập đoàn Quỹ đầu tư quốc tế Trung Quốc (China International Capital Corporation hay CICC), đây là ngân hàng đầu tư liên doanh giữa một trong bốn ngân hàng thương mại lớn nhất của Trung Quốc với Morgan Stanley. Quả là một trong những điều kỳ quặc trong việc làm ăn ở Trung Quốc khi chúng tôi nhận ra mình đang làm việc chặt chẽ với quan chức ngân hàng cấp cao nhất của Trung Quốc, người đồng thời đang là đối tác của đối thủ cạnh tranh gay gắt nhất của chúng tôi ở Mỹ. Còn kỳ quặc hơn nữa là việc Morgan Stanley không hay biết chúng tôi đang làm gì - và chúng tôi không có ý định để họ biết được điều đó.
Nhóm của chúng tôi ngày hôm đó gồm có John Thornton, một nhà đàm phán siêu việt, người từng góp sức thiết lập mảng ngân hàng đầu tư của chúng tôi ở châu Âu và vừa mới được bổ nhiệm làm giám đốc khu vực châu Á; Mike Evans, trưởng bộ phận thị trường vốn cổ phần, người có kinh nghiệm trong việc chuyển đổi các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thành các công ty tư nhân ở châu Âu, Vương Học Minh, một nhân viên ngân hàng lão luyện của chi nhánh Hồng Kông; và Cherry Li, người Trung Quốc, là đại diện đầu tiên của Goldman Sachs ở Bắc Kinh từ năm 1994 khi chúng tôi mở văn phòng tại đây. John Thornton và Vương Học Minh đã làm việc cật lực nhiều tháng để xúc tiến quan hệ với các quan chức cấp cao của Trung Quốc ở CICC.
Chúng tôi đi trên hai chiếc xe vượt qua Tử Cấm Thành, cung điện mênh mông thuở trước, và xuyên qua Tân Hoa Môn, chiếc cổng bề thế được chạm trổ ở phía Nam của Trung Nam Hải. Sau đó chúng tôi rẽ theo hướng Bắc tới phố Phủ Hữu, con phố nép mình bên những bức tường đỏ,
phía trên được lát các viên ngói hình trụ theo kiểu truyền thống, trước khi được phép qua cổng tây bắc vào trong khuôn viên. Những người gác cổng đã được thông báo trước biển số xe của chúng tôi và sau thao tác đếm nhanh số người, họ ra hiệu cho chúng tôi vào trong rồi chào theo kiểu quân sự.
Dù là trung tâm quyền lực ở Trung Quốc, nơi các nhà lãnh đạo làm việc và một số người đã sống trong đó kể từ thời cách mạng, nhưng khu vực này lại không gây ấn tượng và khá khiêm tốn. Nó rất giống với khuôn viên một trường đại học nhỏ vào kỳ nghỉ đông, với những ngôi nhà mang kiến trúc truyền thống của Trung Quốc nằm rải rác giữa các tòa nhà mang sắc be và xám chỉ cao chừng ba hay bốn tầng, có vẻ ngoài buồn tẻ mà các nhà sử học kiến trúc có thể gọi là kiến trúc theo phong cách Xô Viết. Trung Nam Hải ban đầu là một hoa viên hoàng gia và bao gồm vài cung điện nằm bên cạnh các hồ nước. Sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, nơi đây được sử dụng làm trụ sở của chính phủ nước Trung Quốc Dân Quốc cho tới năm 1928, từ đó trở thành công viên công cộng đến khi những người Cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949.
Chu Dung Cơ chọn tiếp chúng tôi tại Tử Quang Các, nằm bên bờ hồ. Đó là một công trình kiến trúc mang phong cách chùa chiền rất cuốn hút với các bức tường sơn son và mái ngói phủ màu xanh. Tòa lầu này có lịch sử từ thời nhà Minh và vẫn được các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng để tiếp đón khách nước ngoài trong các cuộc gặp có tính riêng tư. Các trợ lý người Trung Quốc thông báo là Chu Dung Cơ vẫn chưa đến và chúng tôi phải chờ ít phút, vì vậy chúng tôi bước ra khỏi ô tô để đến với không khí cuối buổi chiều lộng gió.
Chúng tôi dạo bước qua một bãi cỏ với nhiều cây sung và cây lá kim, chủ yếu là thông và tuyết tùng. Tôi nghe thấy tiếng cạo vỏ cây của một chú chim ác là nhưng lại không thấy gì trên các nhành cây. Phía bên kia một cái hồ nhỏ, tôi có thể nhìn thấy những đường nét của đỉnh cung điện nằm phía sau bức tường bao la của Tử Cấm Thành, trông thật ma mị trong ánh sáng cuối ngày đang mờ dần. Một đơn vị lính gác quân đội nhanh chóng đi qua, họ vung tay theo kiểu cứng nhắc, khuỷu tay giữ nguyên của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Tôi kiểm tra lại lần cuối trong tâm trí những điểm mà tôi cần nêu ra. Để đạt hiệu quả, cách tiếp cận của tôi sẽ phải hơi lòng vòng. Tôi phải lưu ý không được tự cho rằng đã có được bất kỳ một thỏa thuận cụ thể nào, cũng không được kéo Chu Dung Cơ đi quá sâu vào chi tiết, hay tệ hơn là gây ấn tượng tôi đang đề nghị ông đưa ra quyết định có lợi cho chúng tôi. Nhưng tôi cũng muốn khẳng định rằng chúng tôi hiểu tầm quan trọng của việc chuyển đổi kinh tế chính là tương lai của Trung Quốc và tầm quan trọng của việc hiện đại hóa và tái cơ cấu toàn bộ đối với các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) như ngành viễn thông Trung Quốc trong tiến trình này. Và tôi cũng muốn nêu rõ với ông rằng Goldman Sachs là ngân hàng tốt nhất thế giới trong việc thực hiện những công việc mà chúng tôi sẽ không đề cập tới một cách chi tiết này.
Tôi hỏi Mike Evans xem liệu mình có bỏ sót điều gì không. “Anh sẵn sàng rồi,” ông ấy nói. “Chỉ cần nhớ là cải cách có tầm quan trọng như thế nào đối với Chu Dung Cơ.”
Tôi đã gặp Chu Dung Cơ vài năm trước đó, khi Trung Quốc dự kiến huy động vốn trên thị trường trái phiếu quốc tế và chúng tôi tư vấn cho họ về cách làm việc với các tổ chức tín dụng. Ông là một nhân vật đáng gờm
với thân hình cao lớn và dáng người thẳng tắp. Ông được Đặng Tiểu Bình chọn từ vị trí Thị trưởng Thượng Hải và đưa lên làm Phó Thủ tướng vào năm 1991. Mặc dù về mặt chính thức thì các hoạt động kinh tế của Trung Quốc nằm dưới quyền Thủ tướng Lý Bằng, nhưng Chu Dung Cơ là người điều hành hoạt động kinh tế thường ngày và được kỳ vọng sẽ tiếp quản vị trí của Lý Bằng khi các nhà lãnh đạo mới của Chính phủ Trung Quốc được chọn ra trong năm tới.
Chu Dung Cơ đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc. Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái quá nóng năm 1993, ông đã trực tiếp điều hành Ngân hàng Trung ương và đưa ra một loạt các biện pháp thắt lưng buộc bụng cứng rắn cùng các giải pháp hành chính thông minh, đấu tranh chống lạm phát khi mà tỉ lệ vọt lên tới hơn 20% trước khi ông thành công trong việc đưa Trung Quốc “tiếp đất nhẹ nhàng”. Các nỗ lực cổ phần hóa, mới chỉ bắt đầu một cách khiêm tốn vào năm 1992 và năm 1993, lúc đó bị tạm xếp lại, nhưng giờ đây khi nền kinh tế phục hồi, những công việc này lại lần nữa trở thành ưu tiên chính sách trong các thảo luận với các bộ chủ quản và với Quốc vụ viện - cơ quan chính trị Trung Quốc tương đương với Nội các ở Mỹ.
Việc bán cổ phiếu ngành viễn thông ra công chúng vừa có ý nghĩa như một buổi trình diễn lại vừa là bản lề cho giai đoạn cải cách đầy tham vọng tiếp theo - đó là tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ hiện đang thống trị đời sống thương mại Trung Quốc. Với dự kiến Trung Quốc sẽ trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Chu Dung Cơ đang có ý định cải tổ toàn diện những cỗ máy thua lỗ ì ạch này và khiến cho các doanh nghiệp Trung Quốc trở nên hiệu quả và có tính cạnh tranh hơn. Ông mong phần nào làm được điều này bằng cách mang về những
công nghệ và các nhà đầu tư nước ngoài, những người mà ông tin rằng sẽ thúc đẩy việc ứng dụng các tiêu chuẩn toàn cầu trong quản lý, kiểm soát, hoạt động và quản trị.
Nếu như Đặng Tiểu Bình là kiến trúc sư của cải cách và Giang Trạch Dân là nhà tổng công trình sư thực thi tầm nhìn của Đặng Tiểu Bình, thì Chu Dung Cơ - sử dụng một từ mà người khác thường dùng để mô tả chính tôi - chính là cây búa. Bản thân Chu Dung Cơ không thiếu những ý tưởng lớn, nhưng trên hết, ông là người hoàn thành công việc. Ông thẳng thắn, thực tế và không vòng vo. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ một giây về những gì ông muốn và những người dưới quyền ông cũng vậy. Được biết đến với biệt hiệu Ông Chủ, Chu Dung Cơ là người cứng rắn, hay đòi hỏi và thích đưa ra các kỳ hạn chặt chẽ tới phi thực tế: nói tóm lại, là một người thật hợp với tôi.
Để có một cuộc gặp ở Trung Quốc với một quan chức chính quyền cấp cao, bạn cần có người bảo trợ. Cuộc gặp của chúng tôi với Chu Dung Cơ được gợi ý và sắp xếp bởi Vương Kỳ Sơn, người lãnh đạo Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB), chính là ngân hàng đối tác với Morgan Stanley trong CICC. Vương Kỳ Sơn là một nhà lãnh đạo nồng ấm, năng động, một người đầy sức hút và ham học hỏi, đồng thời có khả năng vượt trội trong việc kết nối với mọi người, dù là người Hoa hay người phương Tây. Tôi có thể nhận thấy ông ấy rất tài năng và tháo vát. Hiện nay, sau vài năm giữ cương vị Phó Thủ tướng phụ trách Tài chính và Thương mại, Vương Kỳ Sơn đang là một trong bảy Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan có quyền lực nhất của Trung Quốc và là Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc với nhiệm vụ chống tham nhũng.
Mùa hè trước đó, Vương Kỳ Sơn dừng chân tại văn phòng của tôi ở Goldman Sachs New York để thăm dò liệu chúng tôi có quan tâm tới việc bán cổ phần của China Telecom ra đại chúng. CCB không hài lòng với Morgan Stanley và đang tìm kiếm phương án thay thế. Các đồng nghiệp và tôi đều rất hứng thú khi được thực hiện một giao dịch có tầm quan trọng to lớn đối với tương lai của Trung Quốc, nhưng chúng tôi cũng lo ngại. Để có thể bán China Telecom ra đại chúng cần thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, bởi vì, trước tiên là không tồn tại một công ty như vậy nếu hiểu theo nghĩa truyền thống. Có khách hàng, có điện thoại, có giao dịch, còn có cả mảng kinh doanh điện thoại di động tuy nhỏ nhưng đang phát triển nhanh, nhưng tất cả những thứ trên được phân bố rải khắp đất nước Trung Quốc tại các bưu điện ở các làng xã, thị trấn, quận huyện, tỉnh thành và ở trụ sở chính của Bộ Bưu chính Viễn thông (MPT).
Bộ Bưu chính Viễn thông là di sản quan liêu để lại từ thời Mao Trạch Đông với hơn một triệu nhân viên và hàng nghìn văn phòng địa phương dưới quyền. Bộ này hầu như không có các hệ thống quản lý hay kiểm soát hiện đại chứ chưa nói tới một cấu trúc tài chính vững chãi. Việc xây dựng và nâng cấp hạ tầng thông tin là điểm nhấn trong các kế hoạch năm năm nối tiếp nhau của quốc gia. Trung Quốc đã chi tiêu 35 tỉ đô-la kể từ năm 1992 và có thêm 16 triệu thuê bao điện thoại mỗi năm. Nhưng khả năng để người dân tiếp cận điện thoại vẫn hạn chế với diện bao phủ rải rác. Trong một đất nước có 1,2 tỉ dân mà vẫn chỉ có 55 triệu thuê bao cố định, tập trung ở các thành phố ven biển và các Đặc khu Kinh tế.
Một vài trợ lý Trung Quốc hộ tống chúng tôi đi vào trong tòa lầu, bước lên các bậc thang kế bên những bức tượng sư tử đá truyền thống, và vòng qua một cánh cửa bằng gỗ đồ sộ được chạm khắc tinh xảo. Chúng tôi bước
vào một căn phòng lát gỗ sáng sủa, rộng rãi với các bức tường cao có lẽ đến 6m, được sơn màu xanh lá cây, xanh dương, hồng nhạt và được điểm xuyết bằng vàng. Chu Dung Cơ chào đón chúng tôi nồng nhiệt, bắt tay rồi mời chúng tôi ngồi.
Tôi ngồi ở bên phải chu Dung Cơ. Cherry Li, có vai trò là phiên dịch viên của tôi, ngồi phía sau bên phải tôi còn phiên dịch viên của Chu Dung Cơ thì ngồi sau lưng ông. Vương Kỳ Sơn ngồi ở bên trái Chu Dung Cơ và tiếp đó là các quan chức khác của CCB. Các cuộc gặp ở Trung Quốc có những chương trình và nghi thức riêng của nó và trong bối cảnh này, bạn phải chú ý tới những tín hiệu nào được gửi và những thông điệp nào được đưa ra. Nhìn chung, tất cả mọi người sẽ ngồi trên ghế được xếp theo hình móng ngựa hay hình chữ U, trong đó quan chức Trung Quốc cấp cao nhất ngồi ở góc cuối chữ U và vị khách quan trọng nhất sẽ ngồi ngay cạnh phía bên phải, các quan chức Trung Quốc khác và các thành viên khác trong đoàn khách sẽ được sắp xếp theo thứ bậc ở hai vành của hình móng ngựa và đối mặt nhau. Trước đây, phần lưng của những chiếc ghế này được bọc một cách khéo léo bởi một lớp bọc ghế cổ điển và đẹp đẽ nhưng ngày nay các di vật từ thời Victoria này vô cùng hiếm gặp.
Các cuộc họp hoàn toàn không theo hình thức tự do. Chủ nhà và khách sẽ thay phiên nhau nói, tiếp theo là thông dịch viên của họ. Những người tham dự còn lại sẽ không nói gì trừ khi họ được yêu cầu phát biểu và thường thì điều này có nghĩa là họ sẽ không có cơ hội nói gì cả. Không có trao đổi hoặc đối thoại hiểu theo nghĩa thông thường. Người tham dự sẽ dễ có ấn tượng về tính kịch và diễn biến theo kịch bản có sẵn. Bên phía Trung Quốc, một đội ngũ các quan chức và trợ lý, cả trẻ lẫn già, cấp dưới và cấp cao, sẽ ghi chép cẩn thận. Ghi chép là thủ tục cứng nhắc, một phần luôn tồn
tại trong đời sống quan chức Trung Quốc - ngay cả trong thời hiện đại khi đã có sẵn những phương pháp ghi âm tiện lợi hơn nhiều. Thực sự là trong lần tôi gặp Bạc Hy Lai, vị Bí thư Trùng Khánh nay đã thất sủng, tại Trùng Khánh vào tháng 10/2011, tôi cảm thấy thú vị khi chứng kiến cả loạt người chăm chú ghi lại tất cả những gì chúng tôi nói, cho dù tôi thấy ánh sáng nhấp nháy từ các thiết bị ghi âm đặt bên dưới các bảng tên của chúng tôi trên chiếc bàn hội nghị rộng rãi.
Việc ghi chép cho phép các quan chức Đảng và Chính phủ Trung Quốc nhanh chóng thu nhận được những gì diễn ra tại các cuộc họp mà họ không tham dự. Các quan chức cấp cao có thể phổ biến các thông tin trong nội bộ cũng như theo dõi sát sao phát biểu của những người cùng hệ thống nhằm đảm bảo là các thông điệp được đưa ra không bị sai lệch so với trông đợi. Tôi chỉ có thể nhớ được rất ít cuộc gặp tôi từng tham dự ở Trung Quốc mà tại đó tôi không được nhắc nhở, bằng cách này hay cách khác, bởi một quan chức cấp cao về một điều gì đó đã xảy ra trong cuộc họp trước đó giữa tôi với một trong số các đồng nghiệp của ông. Điều này sẽ luôn khiến bạn phải cẩn trọng. Các cuộc gặp riêng tư với các quan chức cấp cao của chính phủ Trung Quốc mà không có thiết bị ghi âm hay người ghi chép là rất hiếm và đáng khao khát.
Chu Dung Cơ xin lỗi vì đến muộn: ông vừa kết thúc một cuộc họp khác. Sau đó ông mời tôi phát biểu trước, tôi bày tỏ lời chia buồn của mình và đồng nghiệp ở Goldman Sachs trước sự ra đi của Đặng Tiểu Bình. Trong khi ca ngợi thành công của Chu Dung Cơ trong việc làm giảm lạm phát và dẫn dắt nền kinh tế “tiếp đất nhẹ nhàng”, tôi bày tỏ lòng tin tưởng là dưới sự lãnh đạo của ông “các bước đi của cải cách sẽ được đẩy lên cao độ”.
Tình trạng cạnh tranh để làm việc với chính phủ Trung Quốc rất gay gắt, vì vậy tôi điểm lại kinh nghiệm sâu rộng của Goldman Sachs trong việc tư vấn cho các chính phủ. Và tôi nhắc Chu Dung Cơ về các CEO cấp cao của chúng tôi mà ông có quen biết: những người như Brian Griffiths - Nam tước nhà Griffiths ở Fforestfach, người đã điều hành các nỗ lực cổ phần hóa của Thatcher; và Peter Sutherland - cựu lãnh đạo của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và sau đó là Tổng giám đốc đầu tiên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chu Dung Cơ đang dẫn dắt nỗ lực gia nhập WTO của Trung Quốc, một việc không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn tạo áp lực từ bên ngoài giúp thúc đẩy chương trình cải cách trong nước của ông.
Tôi nói vài phút, dừng lại sau mỗi câu để phiên dịch viên của Chu Dung Cơ nắm được mạch văn và lặp lại bằng tiếng Trung. Tôi quan sát ông gật đầu hai lần cả khi tôi nói và khi nghe dịch. Chu Dung Cơ nói tiếng Anh khá tốt và hiểu còn tốt hơn, sau này, khi tôi đã quen với ông hơn, ông thường chen vào một hay hai câu tiếng Anh khi nói chuyện.
Theo đề xuất của Vương Kỳ Sơn, tôi tập trung đề cập tới công việc chúng tôi làm với Deutsche Telekom. Tôi giải thích cách thức Goldman Sachs đã dẫn dắt công ty của Đức trong đợt chào bán cổ phiếu lần đầu cho công chúng (IPO) thành công vào tháng Mười một năm ngoái. Việc này xảy ra sau gần tám năm tư vấn cho người Đức về cách làm mới lại một cơ quan chính phủ cồng kềnh, tương tự như Bộ Bưu chính Viễn thông của Trung Quốc, cũng gồm các cơ sở bưu điện và doanh nghiệp viễn thông pha trộn với nhau, bị cản trở bởi dịch vụ chất lượng thấp, hiệu quả công việc thấp và tình hình tài chính yếu kém. Đợt IPO này đã huy động được 13 tỉ đô-la và đã giúp hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp viễn
thông, nhất là ở Đông Đức cũ. Hợp đồng này giúp củng cố vị thế của Deutsche Telekom trong nước và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế rộng lớn, đồng thời giúp đảm bảo các khoản chi phí bảo hiểm y tế và hưu trí cho những người lao động nghỉ hưu và lao động dôi dư.
Điểm cuối cùng là mối lo ngại lớn của Chu Dung Cơ: cải cách các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc có nghĩa là phá vỡ bao cấp toàn bộ (“bát gạo sắt”), sự quan tâm và hỗ trợ được chính phủ bảo đảm từ khi một người sinh ra cho tới khi qua đời thông qua các công ty lớn mà người đó làm việc. Điều rủi ro là các thay đổi này có thể sẽ gây ra lạm phát tăng vọt và điều này có thể dẫn đến bất ổn xã hội, và các nhà lãnh đạo Trung Quốc sợ bất ổn hơn bất kỳ điều gì khác. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có một thoả ước đơn giản với dân chúng: tăng trưởng kinh tế để đổi lại sự ổn định chính trị. Ổn định chính trị tới lượt nó có nghĩa là quyền kiểm soát của Đảng. Sự thịnh vượng chính là nguồn gốc cho tính chính danh của Đảng.
Niềm tự hào quốc gia cũng được đưa lên bàn cân. “Đó không chỉ là niêm yết Deutsche Telekom, mà còn như cả nước Đức cũng được niêm yết và hình ảnh của Đức cũng được cải thiện,” tôi nói. “Năm 1997 là một năm rất quan trọng và phù hợp với việc chuyển giao, cải cách viễn thông nên bắt đầu ở Hồng Kông và trở thành chất xúc tác để thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành viễn thông Trung Quốc.”
Tôi chắc chắn rằng những điều tôi nói không làm cho Chu Dung Cơ ngạc nhiên. Hẳn là Vương Kỳ Sơn đã tóm lược các ý chính cho ông, mà trước đó tôi đã thảo luận rất chi tiết với Vương Kỳ Sơn về các vấn đề này. Vì thế, tôi chủ yếu là nhấn mạnh vào các điểm mà Vương Kỳ Sơn khuyên tôi nên nêu ra. Nhưng quan trọng hơn, đó là việc tôi đã nêu ra luận cứ vững
chắc trực tiếp với Chu Dung Cơ để chứng tỏ sự thành thật của Goldman cũng như cam kết cá nhân của tôi đối với thành công của Trung Quốc. Hơn nữa, Vương Kỳ Sơn muốn làm việc cùng với Goldman và tôi cần phát biểu thay cho cả ông, cũng như cho Goldman.
Khi tôi kết thúc, Chu Dung Cơ gật đầu và bắt đầu nói, đề cập tới hai điểm chính mà tập thể lãnh đạo Trung Quốc đang quan tâm: tầm quan trọng của cải cách và Hồng Kông. Trước tiên, ông nói đầy xúc cảm về sự ra đi của người thầy của ông, ông tuyên bố “nhân dân Trung Quốc sẽ nguyện vững bước tiếp tục chương trình cải cách và mở cửa. Nhân dân sẽ biến đau thương thành sức mạnh và hoàn thành ước nguyện của đồng chí Đặng Tiểu Bình.”
Tôi mừng vì ông đề cập đến Đặng Tiểu Bình vì tôi đã không nghe theo lời khuyên của các cố vấn khi đề cập đến chủ đề ấy (họ tin rằng việc người nước ngoài nói về cái chết của của nhà lãnh đạo vĩ đại là không phù hợp). Nhưng tôi chỉ đơn giản là không thể tưởng tượng được việc gặp Chu Dung Cơ mà không chia buồn trong hoàn cảnh này. Mặc dù tôi luôn luôn lắng nghe kỹ lưỡng nhóm cố vấn Trung Quốc của chúng tôi và thường làm theo lời khuyên của họ, cũng có những lúc tôi chọn cách làm phù hợp với bản năng của mình như thế này. Tôi hiểu rằng người Trung Quốc coi trọng lòng thành thực và họ trông đợi tôi sẽ nói lên những gì mình nghĩ.
“Tình hình kinh tế thuận lợi của Trung Quốc,” Chu Dung Cơ nói, đảm bảo rằng “sẽ không có bất kỳ vấn đề gì với sự trở lại của Hồng Kông. Tôi cho rằng hầu hết người dân đều tin tưởng vào sự thịnh vượng của Hồng Kông.” Ông nhắc lại rằng sau khi bàn giao, Hồng Kông sẽ được quản lý theo mô hình “một quốc gia, hai hệ thống” và “chính quyền trung ương Trung Quốc sẽ không can thiệp vào các vấn đề kinh tế hoặc chính trị của
Đặc khu Hành chính Hồng Kông.” Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn nhấn mạnh điểm này bất cứ khi nào có thể. Họ muốn trấn an người dân Hồng Kông, Ma Cao và quan trọng không kém là Đài Loan, nơi họ cũng muốn áp dụng mô hình này.
Trong khi Chu Dung Cơ nói bằng tiếng Trung, ông chủ yếu nhìn về phía tôi và chỉ thỉnh thoảng mới nhìn về phía các đồng nghiệp của tôi. Không có ai khác bên phía Trung Quốc phát biểu cả. Tôi tình cờ nhìn xuống phía đôi giày đen của Chu Dung Cơ đặt trên tấm thảm dày và nhận thấy mép chiếc quần dài mặc bên trong của ông nhô ra ở dưới ống quần âu. Như tôi nói, ông là một người rất thực tế, những ngày này các văn phòng cũ kỹ ở Bắc Kinh hết sức lạnh và nhiều gió lùa.
Và rồi ông bắt đầu nhắc tới những từ đầu tiên mà chúng tôi muốn nghe: “Tất nhiên, chúng tôi sẽ xem xét quan điểm của các ông và chúng tôi hy vọng sẽ hợp tác với các ông. Nếu các ông quan tâm tới việc hợp tác cùng Chính phủ Trung Quốc trong lĩnh vực viễn thông, tôi nghĩ các ông có thể trao đổi thêm với Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông.”
Chỉ có như thế, nhưng đó là tất cả. Cuộc gặp này được lên lịch mà không có đại diện nào từ Bộ Bưu chính Viễn thông. Chúng tôi sẽ có lịch gặp vào ngày hôm sau với Bộ trưởng Ngô Cơ Truyền, một quan chức ngành viễn thông lâu năm và quyền lực. Chúng tôi từng cùng làm việc một thời gian với đại diện của CICC, ngân hàng đầu tư, và với bộ này, nhưng chúng tôi lo ngại (và tôi nghĩ là CICC cũng cảm thấy như vậy) rằng Bộ Bưu chính Viễn thông có thể có những ý kiến khác về việc sẽ tiến hành thương vụ này với ai. Những lời của Chu Dung Cơ, tất nhiên sẽ được chuyển đến Bộ Bưu chính Viễn thông và Bộ trưởng Ngô Cơ Truyền sau đó.
Khi Chu Dung Cơ kết thúc phát biểu, tôi lên tiếng. Biết rõ rằng mức độ cạnh tranh cho thương vụ này là rất gay gắt, tôi đưa ra những dẫn chứng về năng lực của Goldman trong việc thực hiện các thương vụ tương tự trên thế giới và lưu ý là chúng tôi thực hiện nhiều vụ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hơn cả ba ngân hàng đầu tư xếp sau chúng tôi cộng lại. “Đây sẽ là một chương trình phức tạp,” tôi nói. “Nhưng chúng tôi sẽ không ngừng nỗ lực cung cấp các kỹ năng và hiểu biết chuyên môn của mình.”
Chu Dung Cơ gật đầu và tóm tắt buổi gặp, ông nói: “Tôi hoan nghênh các ông tiếp tục hợp tác với CCB. Với việc hợp tác cùng hãng các ông, CCB sẽ hưởng lợi từ quá trình thương mại hóa và có thể đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa của mình.”
Bằng những lời đó, ông cảm ơn chúng tôi và sau vài câu xã giao khi từ biệt, cuộc gặp kết thúc.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc là những chủ nhà và những người đối thoại duyên dáng. Họ có kỹ năng trong việc khiến bạn cảm thấy mọi thứ tốt đẹp, khiến bạn nghĩ là bạn vừa nghe thấy điều mà bạn muốn nghe. Việc này dễ khiến bạn bị say nắng và trở nên lạc quan thái quá. Tôi lắng nghe cẩn thận những gì Chu Dung Cơ nói và cảm thấy buổi gặp thật tuyệt. Nhưng khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi quay về phía các đồng nghiệp để kiểm tra nhanh thực tế.
“Như thế nào?” Tôi hỏi nhóm của mình.
“Tôi không thể hình dung một cuộc gặp tốt hơn được,” John trả lời. Mike và Học Minh cũng đồng ý.
Như vậy, nói tóm lại, chúng tôi đã hoàn thành cuộc gặp về việc chào bán cổ phiếu lần đầu cho công chúng trong đó chúng tôi không hề nhắc
một từ tới thương vụ cụ thể, càng không nhắc tới thời điểm, quy mô hay giá cả; vị quan chức cấp cao nhiều quyền lực của lĩnh vực mà chúng tôi muốn tham gia không có mặt tại đó; thậm chí bản thân công ty được chào bán cũng không thực sự tồn tại và chúng tôi sẽ phải tạo ra nó. Đó không phải là loại thương vụ mà chúng tôi có thể làm, hay nghĩ tới việc làm nó, ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Nhưng đây là Trung Quốc năm 1997 và chúng tôi có cảm nhận khá tốt về nơi này.
Các thông điệp ở Trung Quốc thường được gửi đi theo những cách không trực tiếp: bạn phải đọc các dấu hiệu. Có lẽ điều quan trọng nhất trong cuộc gặp này không phải ở những gì mà Chu Dung Cơ đã nói. Đó là ở việc chúng tôi đã có một cuộc trao đổi trực tiếp. Có vô số cách khác mà ông có thể sử dụng để trao đổi với chúng tôi. Vào một ngày khi hầu hết các hoạt động của chính phủ bị ngừng lại, ông chọn gặp chúng tôi để trao đổi về một thương vụ gây tranh cãi và sẽ là bản lề và hình mẫu cho chương trình cải cách của ông trong tương lai. Người đàn ông đang vận hành nền kinh tế Trung Quốc này, con người đóng vai trò thiết yếu trong tất cả các quyết định tương lai, đã đích thân gặp để đánh giá chúng tôi và có vẻ như chúng tôi đã vượt qua thử thách của ông.
Ông đã khuyến khích chúng tôi làm việc với CCB và với bộ giám sát hoạt động viễn thông, ông cũng đã cho chúng tôi mượn, một cách công khai, sức nặng và uy tín của ông. Đó là một tín hiệu mạnh mẽ đưa ra cho chúng tôi và gửi đến các cơ quan Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Cuộc gặp này không chốt lại vụ làm ăn cho chúng tôi. Tôi biết điều đó. Lời chúc phúc của Chu Dung Cơ là niềm khích lệ chứ không phải là sự bảo đảm. Chúng tôi sẽ còn phải tiếp tục cạnh tranh, phải đi qua các thủ tục và dò
đường qua các tầng cấp ra quyết định ở phía dưới Chu Dung Cơ. Chúng tôi đã đặt một chân vào, nhưng chúng tôi cũng sẽ dễ dàng mất ưu thế nếu chúng tôi không cương quyết. Tôi đã trải qua chuyện đó nhiều lần. Đó là bản chất của việc làm ăn với Trung Quốc: không có thứ gì được coi là hoàn thành cho tới khi nó thật sự hoàn thành. Chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều thương vụ tưởng như chắc ăn cuối cùng lại không thành hiện thực. Nhưng thương vụ này dường như chắc chắn phải được thực hiện và tất cả các ngân hàng đều đang tranh nhau để chiếm lấy nó, sử dụng những sợi dây điều khiển, tìm cách vận động hệ thống. Sẽ còn phải mất hàng tháng làm việc vất vả và thao tác kỹ lưỡng trước khi chúng tôi có thể được chính thức trao cho vụ IPO chắc chắn là lớn nhất của các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc từ trước tới giờ.
Chúng tôi lái xe xuyên qua Quảng trường Thiên An Môn trên đường về khách sạn. Tôi chợt thấy bức chân dung Mao Trạch Đông khổng lồ cao bằng tòa nhà hai tầng trên bức tường ở Tử Cấm Thành và trong một khoảnh khắc tự hỏi, liệu ông sẽ nghĩ gì về việc các nhà tư sản tài chính bán cổ phiếu của một trong các công ty nhà nước của Trung Quốc cho người nước ngoài. Phía trước Bảo tàng quốc gia Trung Quốc, ở đối diện Đại lễ đường Nhân dân phía bên kia Quảng trường Thiên An Môn, tôi thấy một chiếc đồng hồ điện tử khổng lồ đang đếm ngược số ngày cho tới khi Hồng Kông được trả lại cho Trung Quốc: 124 ngày.
Cảnh tượng này khiến tôi bắt đầu suy nghĩ. Chúng tôi không ở trong cùng thời gian biểu như việc chuyển giao Hồng Kông, nhưng tôi không khỏi nghĩ tới việc chúng tôi chỉ còn có vài tháng để hoàn tất một thương vụ mà tại một nền kinh tế phương Tây giàu có cũng phải mất ít nhất là một năm.
Tôi quay sang Mike Evans đang ngồi cạnh tôi ở ghế sau xe ô tô: “Chúng ta sẽ phải thực hiện việc này chính xác là như thế nào đây?”
2. THÂN THỂ TRUNG QUỐC, CÔNG NGHỆ NGOẠI QUỐC
Chìa khóa trong việc xâm nhập thị trường mới là tạo ra thương hiệu cho mình bằng cách xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các khách hàng quan trọng nhất. Con đường đầu tiên của Goldman Sachs vào Trung Quốc là thông qua Hồng Kông và một trong các nhà kinh doanh quan trọng đầu tiên mà tôi gặp ngay từ đầu là Đổng Kiến Hoa, ông sau này là người đầu tiên giữ chức vụ Trưởng Đặc khu Hành chính Hồng Kông, cơ quan kế nhiệm chính quyền thuộc địa Anh Quốc. Ông sẽ giữ chức vụ này từ thời điểm chuyển giao năm 1997 cho tới năm 2005.
Đổng Kiến Hoa là chủ hãng vận tải Orient Overseas Container Line, được thành lập bởi cha ông, Đổng Triệu Vinh, một ông trùm vận tải có tầm nhìn xa trông rộng và cũng chính là người đã lập nên một trong những đội tàu biển lớn nhất thế giới và nổi tiếng nhờ việc mua chiếc tàu biển RMS Queen Elizabeth và biến nó thành một trường đại học nổi (con tàu này đã bị cháy trong khi đang tu sửa và chìm ở ngoài cảng Hồng Kông). Orient Overseas gặp phải khó khăn vào giữa thập niên 1980 khi xảy ra suy thoái trong ngành vận tải toàn cầu và khi đó, họ đã nhận được sự giúp đỡ phần nào từ các đối tác ở Trung Quốc đại lục.
Orient Overseas không mang lại nhiều công việc cho chúng tôi, nhưng Đổng Kiến Hoa là một con người thông thái, đồng thời ông là người có sự quan sát sắc sảo về Trung Quốc và cũng rất hâm mộ nước Mỹ. Sự gần gũi của Đổng Kiến Hoa với các nhà lãnh đạo Trung Quốc không chỉ khiến ông tin vào tính nghiêm túc trong tầm nhìn dài hạn của họ mà còn về khả năng
thành công của quốc gia này. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ đối với các chính sách kinh tế của Đặng Tiểu Bình và cũng chính ông đã khuyên tôi rằng Goldman Sachs nên tập trung vào Trung Quốc nếu chúng tôi thực sự muốn trở thành một thế lực lớn trong khu vực này.
Trong một trong các chuyến đi đầu tiên của tôi tới Hồng Kông, Henry Cornell - một chủ ngân hàng bất động sản và là người sau này sẽ điều hành hoạt động cổ phần tư nhân của chúng tôi ở đây — mô tả cho tôi về một khu vực bất động sản thượng hạng mà Đổng Kiến Hoa đang muốn xây dựng ở Bắc Kinh. Các kế hoạch để phát triển trung tâm thương mại Oriental Plaza thành một trung tâm thương mại đa mục tiêu và lớn nhất ở châu Á, gồm các văn phòng, căn hộ, trung tâm mua sắm, khách sạn và nhà hàng. Vị trí của nó không thể nào tốt hơn được: nằm ở góc giữa đại lộ Tràng An và đường Vương Phủ Tỉnh, chỉ cách Quảng trường Thiên An Môn một đoạn ngắn và có lẽ là khu bất động sản tốt nhất ở Trung Quốc. Như là để hiểu hơn về thị trường, tôi hỏi Đổng Kiến Hoa xem liệu Goldman có thể tham gia đầu tư không và ông đồng ý.
Năm 1992, tôi gia nhập cùng Đổng Kiến Hoa và một số nhà đầu tư khác khi họ bay đến Bắc Kinh để gặp nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân trao đổi về dự án này. Tôi đã từng làm việc ở Nhà Trắng trong những năm 20 tuổi và đã được gặp Tổng thống Nixon trong nhiều dịp, nhưng tôi vẫn cảm thấy hồi hộp với việc gặp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc. Giang Trạch Dân có cá tính mạnh mẽ và cởi mở. Nhờ cách xử lý khéo léo các cuộc biểu tình của sinh viên khi ông là Bí thư thành ủy Thượng Hải, Giang Trạch Dân được Đặng Tiểu Bình chọn để điều hành đất nước vào năm 1989 sau sự kiện Thiên An Môn. Giang Trạch Dân dễ
khiến người nước ngoài đánh giá ông thấp hơn thực tế vì ông có phong thái dễ chịu, với cặp kính viền đen dày cộp và vẻ ngoài giản dị. Chúng tôi gặp Giang Trạch Dân tại Đại lễ đường Nhân dân - tòa nhà theo phong cách Xô Viết có cấu trúc giống một cái hang trải dài hơn 300m dọc theo góc Tây của Quảng trường Thiên An Môn ở giữa lòng Bắc Kinh. Có lẽ vì tôi là người phương Tây duy nhất trong nhóm khoảng chục người nên tôi đóng một vai trò lớn trong cuộc thảo luận. Giang Trạch Dân bắt đầu nói bằng tiếng Anh với tôi, nhắc tới những cái tên của các công ty Mỹ như General Electric, Boeing và IBM, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Trung Quốc cần áp dụng các phương pháp kế toán Mỹ. Tất nhiên là ông ấy đúng: sổ sách của các công ty Trung Quốc nói chung là một mớ bòng bong, nếu đất nước này không áp dụng tính minh bạch và các phương pháp kế toán chặt chẽ hơn thì sẽ khó có thể bán cổ phiếu các công ty lớn của Trung Quốc ở nước ngoài. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi khi nói “Tài sản bằng nợ cộng vốn cổ phần” và tôi phá lên cười. Như tôi vẫn thường nói sau này, tôi không chắc là các nhà lãnh đạo Mỹ có thể tóm tắt bảng cân đối một cách ngắn gọn như Giang Trạch Dân.
Chuyến đi này diễn ra ngay sau Thế vận hội năm 1992 ở Barcelona khi Michael Jordan và đội bóng rổ nam “Dream Team” của Mỹ vừa thể hiện màn trình diễn tuyệt vời. Thế giới cũng vừa được chứng kiến cảnh tượng các nữ vận động viên bơi lội Trung Quốc bất giờ giành được bốn huy chương vàng. Giang Trạch Dân hỏi tôi có theo dõi Thế vận hội không.
“Có, tất nhiên.” Tôi nói.
“Ông nghĩ gì về các vận động viên bơi lội của chúng tôi?”, ông hỏi tiếp và quan sát tôi rất kỹ lưỡng. Đội tuyển Trung Quốc bất ngờ xuất hiện và
giành chiến thắng bằng tốc độ kỷ lục, bởi vậy đã xuất hiện những lời đồn đại về việc họ sử dụng doping bất hợp pháp.
“Rất thú vị,” tôi trả lời với giọng điệu trung dung. Giang Trạch Dân gật đầu rồi mỉm cười nói tiếp, “Thân thể Trung Quốc, công nghệ ngoại quốc.” Tôi vẫn thường nghĩ tới cụm từ: Thân thể Trung Quốc, công nghệ ngoại quốc kể từ hôm đó. Sau này, tôi được biết cụm từ đó lặp theo lời của Trương Chi Động, một quan chức nhà Thanh thế kỷ XIX, người chủ trương mở cửa Trung Quốc với thế giới và ủng hộ “Trung học vi thể, Tây học vi dụng” tức là “tinh thần Trung Quốc, kỹ thuật phương Tây”. Cách tiếp cận này giải thích phần lớn cho sự vươn lên của Trung Quốc trong vài thập kỷ qua và nó chính là cốt lõi của chương trình cải cách và mở cửa. Người Trung Quốc mang kho tàng nhân lực khổng lồ cùng sức mạnh và trí tuệ của mình kết hợp với tri thức, sáng kiến và kinh nghiệm tốt nhất mà họ cầu xin, vay mượn, mua lại hay nói thẳng ra là gồm cả ăn cắp từ phương Tây. Sự kết hợp này cho phép Trung Quốc biến mình thành một quốc gia phi thường sở hữu lực lượng quân sự phát triển nhanh nhất trong các siêu cường quốc và có GDP tăng trưởng với tốc độ chóng mặt được dự kiến sẽ vượt qua Mỹ trong tương lai không xa.
Ý tưởng Trung Quốc sẽ sớm thách thức Mỹ về ưu thế kinh tế là điều không thể tưởng tượng được vào thời điểm tôi gặp Giang Trạch Dân. Lúc đó, Trung Quốc mới chỉ vừa thức dậy từ những cơn ác mộng về chính trị và kinh tế trong quá khứ.
Khi Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc tại Quảng trường Thiên An Môn tháng 10/1949, ông đã vạch
ra đường lối mới cho đất nước đang khập khiễng bước đi sau hơn một thế kỷ chịu ách áp bức thực dân và các cuộc nổi dậy trong nước. Đỉnh điểm là hai thập kỷ xung đột liên tục trên diện rộng bao gồm cuộc xung đột giữa các lãnh chúa, sau đó là chiến tranh chống lại Nhật Bản và cuộc nội chiến kéo dài giữa lực lượng Cộng sản của Mao Trạch Đông và Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Trong một thời gian ngắn, Mao Trạch Đông đã đưa ra các mệnh lệnh theo kiểu Xô Viết và kiểm soát quy hoạch kinh tế trên cả nước, tập thể hóa nông nghiệp, sau đó chuyển giao nguồn lực sang một chương trình công nghiệp hóa lớn tập trung chủ yếu vào sản xuất máy móc hạng nặng, nhưng không mấy quan tâm tới hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Nền kinh tế ban đầu tăng trưởng tốt sau khi được hồi phục khỏi các đổ vỡ thời chiến tranh và Trung Quốc đã có những bước tiến trong việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân. Nhưng việc áp đặt các chính sách sai lầm và việc lập kế hoạch tồi tệ trong bối cảnh khủng bố chính trị đã gây ra những hậu quả khủng khiếp. Nỗ lực của Mao Trạch Đông trong việc đẩy nhanh công nghiệp hóa bằng cách huy động dân thường tham gia Đại nhảy vọt (1958-1961) dẫn đến nạn đói được cho là đã gây ra cái chết của 30 triệu người.
Mao Trạch Đông sau đó đã phát động Cách mạng Văn hóa, cùng với đó là hoạt động của lực lượng Hồng vệ binh trên khắp cả nước. Các trường đại học tạm thời đóng cửa và sinh viên được cử đi lao động vùng nông thôn. Nhiều người trong thế hệ lãnh đạo đang lên ngày nay đã trải qua nhiều năm làm việc ở nông thôn trước khi mọi việc kết thúc khi Mao Trạch Đông qua đời vào năm 1976.
Tới thời điểm đó thì đất nước Trung Quốc đang trong tình trạng bị cô lập quốc tế và mất phương hướng về kinh tế. Chính sách bình quân hóa
cực đoan của Mao Trạch Đông đã thành công theo một cách thức kỳ lạ: tất cả quần chúng nhân dân - bao gồm nông dân và công nhân - đều nghèo. Hơn một nửa trong số gần một tỉ người Trung Quốc sống trong cảnh nghèo cùng cực, với thu nhập ít hơn 1 đô-la một ngày và quốc gia này luôn trong tình trạng thiếu thốn. Các nhu yếu phẩm như ngũ cốc và quần áo vẫn được phân chia theo khẩu phần trong những năm 1980 và suốt một thời gian sau đó. Để so sánh, cùng trong thời kỳ Mao Trạch Đông tại vị, nước Mỹ có sự tăng vọt về mức độ thịnh vượng sau chiến tranh: trong giai đoạn từ 1949 tới 1976, GDP tăng gần bảy lần đạt 1.800 tỉ đô-la, còn thu nhập bình quân đầu người tăng gần năm lần.
Năm 1978, Đặng Tiểu Bình, người đã sống sót qua nhiều đợt đàn áp chính trị, xuất hiện với vai trò lãnh đạo tối cao và đưa đất nước Trung Quốc vào con đường thay đổi sâu sắc. Ông bắt đầu bằng việc thoát khỏi đường lối chính trị của Mao Trạch Đông và tập trung hoạt động của Đảng vào phát triển kinh tế, khuyến khích áp dụng các nguyên tắc thị trường để xây dựng “chủ nghĩa xã hội bản sắc Trung Quốc.” Là một người thực tế, ông có câu nói nổi tiếng “mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột.”
Các cải cách quan trọng đầu tiên xảy ra trong ngành nông nghiệp. Nông dân, những người bị cưỡng bức phải vào tập thể, đã được yêu cầu tập trung sản xuất ngũ cốc để đáp ứng các mục tiêu không ngừng gia tăng và phải bán sản phẩm với giá thấp để trợ giá cho ngành công nghiệp đô thị. Năng suất suy giảm và Trung Quốc thường xuyên phải nhập khẩu lương thực. Giờ đây, dưới sự thúc đẩy của Đặng Tiểu Bình, các nhà lãnh đạo quyết định cho nông dân thêm quyền tự chủ. Nhiều thử nghiệm đã diễn ra ở các tỉnh như An Huy và Tứ Xuyên cho phép nông dân nuôi trồng những mảnh
ruộng nhỏ của riêng họ. Không lâu sau đó, các công xã nhân dân trên toàn Quốc đã áp dụng hệ thống khoán trách nhiệm theo hộ gia đình, theo đó đất đai nông nghiệp được chia thành các mảnh ruộng do hộ gia đình quản lý. Các hộ gia đình được giao khoán theo chỉ tiêu cụ thể và được phép bán phần dư trên thị trường tự do. Với những biện pháp khuyến khích mới này, năng suất tăng vọt. Sản lượng ngũ cốc tăng 34% trong giai đoạn từ năm 1978 tới năm 1984. Tới thời điểm đó thì các công xã tập thể đã hầu như biến mất. Nông dân mở rộng hoạt động sang các cây công nghiệp và chăn nuôi có giá trị kinh tế cao hơn, giúp cho người Trung Quốc giàu có hơn, có chế độ ăn đa dạng hơn và giúp cho các nông dân Trung Quốc có thêm tiền bạc dư dả để chi tiêu.
Tăng năng suất có nghĩa là sẽ cần ít lao động ở khu vực nông thôn hơn trước. Những lao động dôi dư này được thu nhận tại các xí nghiệp hương trấn ở nông thôn mới được thành lập hay chấn hưng, các doanh nghiệp làng xã này thường do chính quyền địa phương làm chủ nhưng không được đưa vào trong kế hoạch kinh tế chung của toàn quốc. Họ được tự do hoạt động giống như các công ty tư nhân, cung cấp hàng hóa đang có nhu cầu cao trên thị trường hay cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ trực thuộc trung ương. Người nông dân Trung Quốc bắt đầu nhìn xa hơn để tìm kiếm việc làm. Hàng triệu người đổ về các thành phố ven biển bởi sức hấp dẫn của các nhà máy đang mọc lên như nấm tại đây và bắt đầu làn sóng đô thị hóa chưa từng chứng kiến trong lịch sử nhân loại: trong vòng ba thập kỷ, có khoảng 300 triệu người từ nông thôn ra thành phố, khiến cho năng suất toàn Trung Quốc tăng vọt nhưng cũng góp phần dẫn đến tình trạng bất ổn và ô nhiễm môi trường ngày càng tồi tệ.
Cải cách cũng diễn ra trong cả khu vực công nghiệp đô thị. Bắc Kinh tiến hành các nỗ lực tái cơ cấu toàn ngành, lập ra các công ty mới từ các bộ chủ quản lớn. Chính quyền Trung Quốc cũng bắt đầu chuyển trọng tâm từ ngành công nghiệp nặng sang hàng tiêu dùng và tiến hành các bước đi nằm tạo thêm quyền tự chủ rộng rãi hơn cho doanh nghiệp nhà nước, phi tập trung hóa tiến trình ra quyết định và đưa ra hệ thống giá kép. Các nhà quản lý doanh nghiệp được yêu cầu phải đáp ứng các hạn ngạch theo kế hoạch, nhưng ngoài việc đó thì họ được phép sản xuất và bán sản phẩm trên thị trường tự do với mức giá linh hoạt. Thị trường xám hấp dẫn này sẽ tạo động lực để các doanh nghiệp nhà nước tập trung hơn vào lợi nhuận thay vì chỉ hoàn thành hạn mức theo kế hoạch và các nhà quản lý cũng có được nhiều không gian hơn trong hoạt động và thử nghiệm với các phương thức khuyến khích lợi ích.
Giữ cam kết tái hòa nhập với nền kinh tế thế giới, Đặng Tiểu Bình bật đèn xanh cho các chính trị gia ở Phúc Kiến và Quảng Đông ở Đông Nam Trung Quốc thành lập các Đặc khu Kinh tế (SEZ) nhằm tận dụng mối liên hệ với các cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài. Thẩm Quyến nằm ngay cạnh Hồng Kông, Chu Hải giáp ranh với Ma Cao khi đó còn là thuộc địa của Bồ Đào Nha, còn Hạ Môn và Sán Đầu nằm ở bên kia eo biển đối diện với Đài Loan. Các công ty Trung Quốc và nước ngoài hoạt động ở Đặc khu Kinh tế được hưởng thuế suất thấp, ít chịu các hạn chế về xuất nhập khẩu và có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn tới vốn đầu tư từ nước ngoài. Là những biểu tượng quyền lực trong cam kết cải cách và mở cửa của Trung Quốc, các SEZ đóng vai trò như những thử nghiệm gồm cả việc trả tiền lương thích đáng cho công nhân và đấu thầu cạnh tranh các hợp đồng xây lắp. Năm 1984, Đặng Tiểu Bình đến thăm Thẩm Quyến, đánh dấu việc ra đời
của một loạt các cải cách mới trong đó chấp nhận điều không thể tránh khỏi là một số người sẽ trở nên giàu có hơn những người khác. “Giàu có không phải là tội lỗi”, Đặng Tiểu Bình giải thích cho Mike Wallace trong chương trình truyền hình 60 phút vào năm 1986. “Chúng tôi cho phép một số người và một số vùng được giàu có trước vì mục tiêu đạt tới sự thịnh vượng chung nhanh chóng hơn.”
Thông điệp này được gửi tới tất cả mọi người, làm giải phóng những năng lượng dồn nén và khả năng khéo léo của người dân Trung Quốc, những người khao khát cải thiện cuộc sống của họ sau nhiều năm sống cùng cực. Nền kinh tế bùng nổ. GDP tăng trưởng bình quân hằng năm 10% vào đầu thập kỷ 1980 và thu nhập bùng nổ ở khu vực đô thị (tăng 60%) và nông thôn (tăng 150%). Máy giặt, TV màu và xe máy thay thế cho xe đạp, đồng hồ và máy khâu, những thứ đã từng là biểu tượng cho địa vị dưới thời Mao Trạch Đông. Hàng triệu mặt hàng “phải có” này được tiêu thụ.
Các doanh nhân bắt đầu thể hiện sự hiện diện của mình. Nóng lòng sử dụng tài năng bị kìm nén đã lâu, một số người nhảy từ các công việc ổn định trong chính quyền, doanh nghiệp nhà nước hay giới học thuật sang kinh doanh. Một số nông dân can đảm thì tìm cách tự buôn bán: bán rong trên hè phố, mở các quầy thức ăn ngoài đường, sửa xe đạp, sản xuất quy mô nhỏ, bán bảo hiểm… Trong quá trình đó, họ tạo ra những câu chuyện thành công có thể so sánh với những huyền thoại Thời Hoàng kim ở Mỹ*. Mặc dù các công ty nhà nước tiếp tục được hưởng những lợi thế to lớn do Chính phủ tạo ra, những người tiên phong này sẽ trở thành đầu tàu của Trung Quốc trong việc tạo ra việc làm và sáng tạo, họ sẽ là nền tảng cho nhiều công ty lớn nhất và những gia sản giàu nhất ở đất nước này.
“Người Mỹ không thể hiểu được là trước thời kỳ cải cách và mở cửa, kể cả nếu ông có năng lực, ông cũng chẳng thể làm được điều gì,” bạn tôi Liễu Truyền Chí là người tiên phong trong ngành công nghệ máy tính có lần nói với tôi. “Nhưng cải cách đã cho người dân sự lựa chọn.”
Liễu Truyền Chí rõ ràng đã tận dụng được sự lựa chọn này. Năm 1984, ở tuổi 40, ông cùng một số đồng nghiệp quyết định rời khỏi Viện nghiên cứu Máy tính thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc đầy uy tín cùng với số tiền chưa đến 80.000 đô-la được hỗ trợ từ Viện và một chiếc xe đạp cũ. Các nhà khởi nghiệp này tìm cách bán TV và đồng hồ điện tử trước khi trúng mánh với việc tạo ra một thẻ vi mạch cho phép máy tính cá nhân xử lý các ký tự tiếng Trung. Không lâu sau, công ty này đã bắt đầu sản xuất và bán máy tính của họ bên cạnh việc phân phối các thương hiệu ngoại quốc. Sau khi nhanh chóng thống trị thị trường máy tính trong nước và trở thành công ty khổng lồ Lenovo ngày nay, đồng thời biến Chủ tịch Liễu Truyền Chí trở thành một biểu tượng của Trung Quốc.
Có nhiều câu chuyện tương tự như chuyện của Liễu Truyền Chí trong những năm 1980. Tào Đức Vượng sinh năm 1946 ở Phúc Kiến, tỉnh nằm phía Bắc của Quảng Đông trên bờ biển phía đông nam Trung Quốc, đối diện với Đài Loan. Ông từng bán thuốc lá dạo rồi bán hoa quả và làm đầu bếp sau một thời gian sống ở nông thôn trong Cách mạng Văn hóa. Năm 1983, ông điều hành một nhà máy sản xuất kính trong thành phố. Bốn năm sau, ông tự khởi nghiệp và thành lập Công ty Kính Phúc Diệu (Fuyao Glass). Khởi đầu thì ông làm các tấm kính cho đồng hồ đo nước, về sau ông tập trung sản xuất kính an toàn. Ông lập nên công ty toàn cầu lớn thứ hai thế giới và có lợi nhuận cao nhất trong việc cung cấp cửa kính cho các công ty ô tô như General Motors, Volkswagen và Toyota Motor.
Cũng có thể nhắc đến Tông Khánh Hậu: sau một thập kỷ làm việc trong nông trang công xã thời Cách mạng Văn hóa, ông bán rong những thứ như thạch thực phẩm, nước soda và tập vở trên xe ba bánh ở Hàng Châu quê ông. Năm 1987, cùng với hai thầy giáo về hưu, Tông Khánh Hậu, người chưa học tới bậc trung học, vay được một khoản 22.000 đô-la và bắt đầu bán nước ngọt cho trẻ em và sau đó là cho người lớn. Thứ nước uống này nhanh chóng được thị trường tiếp nhận và biến công ty của ông, Tập đoàn Wahaha Hàng Châu (wahaha trong tiếng Trung phổ thông là “trẻ em cười”) trở thành công ty nước giải khát thống trị ở Trung Quốc, Tông Khánh Hậu trở thành người giàu nhất Trung Quốc năm 2013.
Dù vậy, con đường cải cách không hề bằng phẳng: những bước tiến vào chủ nghĩa tư bản này của Trung Quốc không phải luôn bằng phẳng hay không có tổn thất. Các thay đổi chính trị đi chậm hơn các thay đổi trong kinh tế, nhiều nguồn lực bị lãng phí, ô nhiễm ngày càng trầm trọng và sự phân phối không công bằng của cải mới tạo ra làm gia tăng những than phiền về sự lạm quyền và tham nhũng. Các nhà cải cách phải thỏa hiệp hơn với những Đảng viên bảo thủ đang muốn tiến trình và mức độ thay đổi chậm lại thậm chí là ngừng hẳn. Cuối cùng đã dẫn đến sự xuất hiện của những hậu quả không dự kiến. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từng có lúc muốn cấm việc quay trở lại sản xuất nông nghiệp theo hộ gia đình cho dù chính quyền thả lỏng hoạt động của các hợp tác xã. Thế nhưng khi được giải phóng rồi thì không có gì có thể giữ các nông dân ở lại với hợp tác xã. Sáu năm sau đó, các hợp tác xã biến mất và sản xuất nông nghiệp theo hộ gia đình trở thành mô hình áp đảo.
Đặng Tiểu Bình hiểu rằng sự thay đổi là không thể dự đoán và luôn hàm chứa nguy cơ. Ông nói đất nước Trung Quốc sẽ phải tiếp cận đổi mới như vượt qua một con suối bằng cách dò dẫm từng hòn đá một. Trong hầu hết thập kỷ 1980 thì cứ tiến lên phía trước hai hòn đá thi lại lùi về sau một hòn đá.
Sự tăng trưởng đạt tốc độ cao nhưng rồi đột ngột dừng lại khi Đặng Tiểu Bình và những vị nguyên lão trong Đảng Cộng sản Trung Quốc như Trần Vân, người từng ủng hộ phục hồi vị trí của Đặng Tiểu Bình trong thập kỷ 1970, vật lộn với việc phải đi tiếp với tốc độ như thế nào và ở mức độ nào. Các sáng kiến ban đầu dẫn tới sự phát triển quá nóng và bị chính Trần Vân kìm lại, ông là một nhà bảo thủ ủng hộ việc lập kế hoạch kinh tế cẩn trọng và mức tăng trưởng chậm lại. Là ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị trong cơ quan quyền lực nhất Trung Quốc, Trần Vân còn được biết đến với thuyết “lồng chim”, theo đó thị trường tự do ở Trung Quốc nên có đủ tự do để bay như một con chim trong phạm vi những chiếc nan lồng của nền kinh tế kế hoạch hóa.
Thời điểm đặc biệt khó khăn xảy ra vào năm 1988, khi nền kinh tế của đất nước đi xuống sau những cố gắng thất bại nhằm nâng cao kiểm soát giá cả. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Triệu Tử Dương, một người cam kết với cải cách, đã tác động tới các nhà lãnh đạo khác đòi hỏi phải áp dụng nguyên tắc thị trường với tất cả hàng hóa, ngoại trừ một số ít mặt hàng thiết yếu nhằm tránh khỏi sự rối rắm và khả năng tham nhũng tiềm tàng trong hệ thống giá kép, theo đó hàng hóa sẽ được nhà nước mua theo các kênh chính thức và được bán trên thị trường tự do. Đặng Tiểu Bình cho phép bãi bỏ kiểm soát trên ngày càng nhiều loại hàng hóa và giá cả bắt đầu gia tăng. Việc mở rộng tín dụng nhanh chóng kích thích tăng
trưởng kinh tế, nhưng cũng dẫn đến lạm phát tăng vọt, làm kinh hãi những người dân vốn quen với việc giá cả cố định và tình trạng thiếu hụt thường xuyên hàng tiêu dùng trong thời kế hoạch hóa tập trung. Khi Triệu Tử Dương thông báo rằng chính quyền đã quyết định tự do hóa hoàn toàn giá cả, người dân hoảng sợ. Họ tích trữ thực phẩm, rút các khoản tiền gửi ở ngân hàng và biểu tình phản đối ngoài đường phố, khiến cho Quốc vụ viện Trung Quốc phải đảo ngược tiến trình và tái thiết lập một số hình thức kiểm soát giá cả.
Những nhà bảo thủ lấy lại quyền kiểm soát chính sách kinh tế từ Triệu Tử Dương và Trung Quốc hạ cánh khẩn cấp. Đầu tư giảm sút, không còn việc tăng lương, các khoản vay ngân hàng bị dừng lại, các dự án đầu tư bị hủy bỏ. Tăng trưởng kinh tế giảm mạnh trong năm 1989, mặc dù lạm phát vẫn rất cao. Tình trạng tụt dốc này, cùng với nỗi giận dữ kéo dài đối với tham nhũng đã tạo ra bối cảnh cho các cuộc biểu tình của sinh viên năm 1989 nổ ra sau khi Hồ Diệu Bang qua đời vào tháng 4, ông là vị Tổng Bí thư theo xu hướng cải cách bị cách chức từ năm 1987. Sự kiện Quảng trường Thiên An Môn khiến cho những cải cách tiếp theo về thị trường và tự do hóa giá cả bị dừng lại. Các chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài cắt giảm hoạt động thương mại và đầu tư sau sự kiện này.
Vào năm 1991, khi tôi thực hiện chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên thì cũng là lúc cỗ máy hùng mạnh của người dân đất nước này chuẩn bị được tái khởi động. Vào tháng 1/1992, Đặng Tiểu Bình, mặc dù về nguyên tắc là đang nghỉ hưu, đi tuần du phương Nam và kêu gọi đẩy nhanh tốc độ cải cách. Tại Thâm Quyến, ông phát biểu rằng thử nghiệm Đặc khu Kinh tế đã thành công hơn cả mong đợi và ông khẳng định một lần nữa sự tin tưởng của mình. Ông quở trách những người theo đường lối cứng nhắc khi họ lo
sợ rằng những thay đổi này có thể đưa đến chủ nghĩa tư bản. Ông nói Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải e sợ đường lối cực tả hơn là e sợ những người tự do hóa thiên hữu. Do bản chất của tình hình chính trị thời đó, phải mất nhiều tuần kể từ chuyến Nam du của Đặng Tiểu Bình - đã được các báo ở Hồng Kông và Quảng Đông đưa tin - trở thành tin tức trên toàn quốc. Đến lúc này thì Đặng Tiểu Bình đã vượt qua được những kẻ cứng nhắc và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân, người vào thời điểm này đang vất vả với những người bảo thủ ở Bắc Kinh, bèn nhanh chóng nắm chặt lá cờ của Đặng Tiểu Bình. Mùa thu năm đó, những nhà cải cách như Phó Thủ tướng Chu Dung Cơ và Bí thư Khu tự trị Tây Tạng Hồ Cẩm Đào trở thành ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị. GDP tăng tới hơn 14% khi tín dụng được mở nút và các tỉnh thi nhau đẩy nhanh tăng trưởng. Năm 1993, Bộ Chính trị tán thành “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.”
Trong hai phần ba cuộc đời tôi, Trung Quốc cũng xa cách với ý nghĩ của tôi như khoảng cách từ đó đến thị trấn quê tôi ở Barrington, Illinois (dân số 5.012 người). Những hiểu biết của tôi về đất nước này đều nông cạn và không chính xác. Tôi lớn lên giống như hầu hết những người Mỹ cùng thế hệ dưới bóng của cuộc Chiến tranh Lạnh, thuở nhỏ tôi cũng từng tập chui xuống bàn cùng các bạn học để tránh cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên. Cha tôi thậm chí còn xây một cái hầm tránh bom bằng bê tông ở tầng hầm và chất chứa các đồ hộp thức ăn ở trong đó (giờ đây mẹ tôi vẫn dùng nó để chứa các đồ trang trí Noel cũng như những thứ đồ lặt vặt khác). Chúng tôi lo sợ là người Nga sẽ ném bom chúng tôi mà nếu không phải họ thì người Trung Quốc cũng sẽ làm điều đó. Và không như giữa người Mỹ
với người Nga, người Mỹ thực sự đã chiến đấu với người Trung Quốc. Những mẩu chuyện về việc người Trung Quốc tràn qua sông Áp Lục hay tẩy não những lính Mỹ bị bắt mà tôi nghe được khi còn nhỏ khiến tôi rất lưu tâm và hết sức bực bội. Những ấn tượng tương tự như vậy hẳn vẫn còn tồn tại với nhiều người.
Tôi cũng kinh ngạc như nhiều người khác khi biết tin Tổng thống Nixon đến thăm Trung Quốc vào tháng 2/1972. Lúc đó tôi đang làm việc tại Lầu Năm Góc và sau đó hai tháng, sẽ chuyển sang làm nhân viên chính sách nội địa tại Nhà Trắng, vào đúng thời điểm trước chuyến đi của Nixon tới Moscow. Tôi hiểu được sự thông minh của nước đi đó, việc tạo thế tam giác trong lợi ích chiến lược của Mỹ và khiến cho Liên Xô bị mất cân bằng trong khi nước Mỹ chuẩn bị kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng lúc đó, tôi chỉ tập trung vào công việc của mình, như định hình ra các ý tưởng để cải cách thuế - ví dụ như dùng thuế giá trị gia tăng để tài trợ cho giáo dục - những điều chẳng hề có khả năng sẽ được Quốc hội thông qua. Khi ấy tôi không thể đoán trước được rằng chuyến đi của Nixon sẽ tạo ra cơ sở cho mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc trong 40 năm kế tiếp hay chuyến đi đó rồi sẽ tạo ra một ảnh hưởng sâu sắc và phong phú tới cuộc đời của chính tôi.
Chuyến đi đầu tiên của tôi tới Hồng Kông diễn ra ngay sau khi tôi được đề bạt là một trong ba lãnh đạo mảng ngân hàng đầu tư của Goldman vào cuối năm 1990. Tôi được đề nghị phụ trách khu vực châu Á do từng sống ở Chicago nên tôi được coi là “gần gũi” với châu Á hơn là các đồng nghiệp sống tại New York. Lý do này có thể khiến bạn hiểu tầm quan trọng của châu Á ít ỏi như thế nào đối với các kế hoạch của hãng Goldman lúc đó. Trên thực tế, cho tới tận cuối những năm 1980, ngân hàng của chúng
tôi không có bất kỳ hoạt động nào ở Trung Quốc và cũng chỉ có một vài hoạt động ở Hồng Kông. Sau đó, hãng thuyên chuyển Moses Tsang, một chuyên gia bán trái phiếu xuất sắc trở về quê nhà ở Hồng Kông. Moses tốt nghiệp Đại học Bemidji State ở Minnesota và nhận bằng Thạc sĩ Công tác xã hội ở Đại học Iowa, sau đó ông gia nhập Goldman và bán trái phiếu ở New York, Tokyo và London. Tại Hồng Kông, Moses nhanh chóng phát triển công việc kinh doanh trái phiếu Mỹ cho các công ty tại đây và những cá nhân giàu có. Tới đầu thập kỷ 1990, Goldman đã có khoảng 100 người làm việc ở Hồng Kông và gần như toàn bộ là trong mảng bán trái phiếu hay buôn bán cổ phiếu. Mảng ngân hàng chỉ có rất ít người và hầu như không có hoạt động nào.
Khi tôi đến Hồng Kông, tôi nhanh chóng bị vẻ đẹp ở đây hút hồn, nét hiện đại óng ả và năng lượng rộn ràng của nó cũng như phong cách thẳng thắn của các nhà kinh doanh xứ này. Không lâu sau đó, tôi bay tới Bắc Kinh lần đầu tiên cùng với Henry James, một đối tác giám sát thị trường châu Á có văn phòng chính ở Tokyo. Thật là một sự tương phản với Hồng Kông tinh tế! Những người dân lục địa, nhiều người vẫn còn mặc áo jacket kiểu Mao Trạch Đông bấm khuy tới sát cổ, trông như những anh chàng nhà quê so với những cư dân đô thị ở Hồng Kông, những người diện áo complet kiểu Âu được may đo bởi các thợ may nổi tiếng. Các đường phố ở Bắc Kinh đầy xe đạp và hết sức khó khăn khi phải di chuyển giữa số lượng ô tô đang gia tăng nhanh chóng. Tôi nhớ lúc hạ cánh ở sân bay cũ và đi ô tô tới khách sạn trên con đường chỉ có một làn đầy ngựa và xe bò, xe đạp thi lạng lách còn ô tô thi phóng nhanh. Chiếc xe lao đi hung hăng, vượt qua xe khác bừa bãi và bấm còi ầm ĩ. Tôi thực sự thở phào khi đến nơi mà không bị xe khác cán hoặc là cán phải người khác.
Thời đó, đứng ở góc giữa Đại lộ Trường An và Đường Vành đai Hai, con đường bao quanh trung tâm Bắc Kinh chỉ cách Quảng trường Thiên An Môn 5 km, bạn có thể thấy những chiếc xe la kéo chở trên đó là rau cải bắp mùa đông. Nếu nhìn về hướng Đường Vành đai Ba, đang được xây dựng cách đó khoảng 2,5 km, thì bạn còn thấy những dấu vết của các hutongs, những dãy nhà kiểu truyền thống ở Bắc Kinh nằm trên những con phố nhỏ và các khu dân cư được xây xung quanh một khoảng sân chung có tuổi đời hàng trăm năm.
Tất cả những thứ đó đang nhanh chóng biến mất. Trong những chuyến thăm sau này, tôi chứng kiến những khu dân cư cũ bị xóa sổ trong chớp mắt, thay vào đó là các tòa nhà khổng lồ nơi đặt trụ sở các ban bộ chính phủ cùng các khu tổ hợp văn phòng, nhà ở và khách sạn. Tốc độ thay đổi thật chóng mặt. Các địa điểm nổi tiếng nhanh chóng biến mất sau mỗi chuyến đi của tôi tới đây. Nếu một du khách như tôi còn cảm thấy ngỡ ngàng thì sự thay đổi đó hẳn là làm cho người Trung Quốc cảm thấy rất bối rối.
Thế nhưng nguồn năng lượng, đạo đức công việc - và cả khát vọng - mà sự thay đổi này phản ánh có tính lây lan. Những tiềm năng của Trung Quốc khiến tôi kinh ngạc khi tôi đến thăm Đặc khu Kinh tế Thâm Quyến, ở phía đông nam tỉnh Quảng Đông, tại đây tôi chứng kiến cuộc trình diễn ngoạn mục của tinh thần doanh nhân tại các nhà máy và các tòa nhà đang được xây dựng. Chắn ngang bầu trời là cả một rừng các cần cẩu, trên mặt đất là hàng đoàn xe ủi đang chuẩn bị san nền để dựng lên những tòa nhà mới.
Thâm Quyến là mỏ vàng cho các doanh nhân Hồng Kông, những người đổ tiền vào khởi nghiệp với mức chi phí vận hành gần như bằng không.
Chính phủ Trung Quốc chịu trách nhiệm các khoản phúc lợi và chăm sóc y tế ít ỏi cho công nhân, những người phải làm việc ngày đêm. Các nhà sản xuất Hồng Kông chỉ phải trả mức tiền lương tối thiểu. Họ chuyển sản phẩm tới với mức giá thành bằng mức chi phí này vào Hồng Kông, tại nơi này họ không phải trả thuế công ty. Tiếp đó, họ đặt ra giá bán rồi đưa hàng tới người tiêu dùng trên toàn thế giới. Liệu bạn có thể kiếm lời được tốt hơn như thế không?
Điều này cũng tốt cho cả người Trung Quốc. Tôi sẽ không tìm cách nói giảm đi điều kiện làm việc tồi tệ ở nhiều nhà máy: làm việc nhiều giờ liên tục, có rất ít thậm chí là không có giờ nghỉ đi vệ sinh, nhà máy lưu thông không khí rất kém. Thế nhưng đã có hàng triệu việc làm mới được tạo ra và nền kinh tế bùng nổ. Lần đầu tiên, người dân có tiền dư để tiêu xài với nhiều thứ hàng hóa hấp dẫn và đáng mong muốn để mua sắm. Người dân từ khắp các nơi trên đất Quảng Đông đổ xô vào làm việc trong các Đặc khu Kinh tế, người dân ở khắp cả nước đổ xô về Quảng Đông và các tỉnh ven biển khác, nơi thử nghiệm này diễn ra ở mức độ cao nhất.
Tất nhiên là tôi cũng cảm thấy bất an sau sự kiện Thiên An Môn và tôi hết sức phiền lòng với việc áp dụng thiết quân luật. Những người biểu tình đòi hỏi có nhiều quyền tự do hơn để rồi bị chính quyền từ chối phũ phàng. Nhưng lúc đó tôi tin rằng, tới giờ tôi vẫn tin vào điều này, đó là sự tham dự của nước Mỹ với Trung Quốc là điều có ý nghĩa và thực sự cần có sự tham dự nhiều hơn chứ không phải ít hơn về cả chính trị và kinh tế. Tôi cũng tin tưởng rằng Trung Quốc đang đưa ra những lựa chọn khó khăn theo hướng thị trường nhằm cải thiện đời sống của người dân và việc gia tăng mức sống sẽ đưa họ tới gần hơn với cộng đồng thế giới và tới việc đạt được tự do như chúng tôi có được ở Mỹ. Những lý tưởng và quyền lợi này có thể
đến hay không đến, nhưng sẽ dễ có được chúng khi bạn giàu hơn là khi bạn nghèo cùng cực.
Tôi là một kẻ đam mê hành động mà người Trung Quốc thì lại hết sức năng động. Và nói thật, tôi phải công nhận điều này quả là sự tương phản đầy thú vị so với không khí u ám mà chúng tôi đang có ở Mỹ. Nước Mỹ lúc này đang ở dưới đáy của chu kỳ suy thoái sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng các quỹ tiết kiệm và cho vay. Có thể là do tôi ngây thơ và thiếu tinh tế nhưng tôi thấy không có lý do gì mà người Trung Quốc đại lục lại không thể mong đạt được sự thành công tương tự những người anh em của họ ở Hồng Kông và Đài Loan. Họ sẽ phải tạo ra những thay đổi lớn, nhưng rõ ràng là họ đang làm điều đó. Tôi cảm thấy chúng tôi có thể giúp đỡ họ và cũng là giúp chính bản thân mình trong quá trình đó.
Nhưng không phải là tôi không có sự nghi ngờ của mình. Tôi nhớ tới một chuyến đi thăm Thượng Hải, khi đó tôi có một buổi chiều Chủ nhật rảnh rỗi nên quyết định đi dạo dọc theo con đường ven sông. Nơi này như thể một di tích còn nguyên từ thời tiền cách mạng, cùng với bến cảng nổi tiếng có thể sánh với Phố Wall ở Mỹ hay London của Anh quốc thời xa xưa bởi những tòa nhà lịch sử dọc theo bờ tây sông Hoàng Phố. Những tòa nhà này trước kia từng là trụ sở của các ngân hàng phương Tây và Trung Quốc, các trung tâm giao dịch và thị trường chứng khoán nhưng tất cả những cơ sở này hầu như đã biến mất chỉ trong một khoảnh khắc sau cách mạng. Ý nghĩ này làm tôi chùng lại. Nhiều người ở Goldman, kể cả những nhà quản lý sáng suốt như vị đồng Chủ tịch Bob Rubin, đã đặt ra những câu hỏi cứng rắn và có tính điều tra về tương lai của Trung Quốc, trong đó có phần không nhỏ là vì chúng tôi không thể chắc chắn rằng liệu cải cách có tính lâu dài hay không. Tôi đã phải tự hỏi: Liệu những chuyện như thế
này sẽ không xảy ra lần nữa? Liệu Goldman Sachs sẽ không mất sạch nếu đầu tư vào nơi này không?
3. KINH DOANH VỚI ĐẶC TÍNH TRUNG QUỐC
Những ngờ vực về Trung Quốc trong nội bộ Goldman Sachs phản ánh cuộc tranh luận mạnh mẽ vào giữa thập niên 1990 về tương lai lâu dài của châu Á. Một số người trong hãng tin rằng chúng tôi nên tập trung vào các nền kinh tế đang phát triển khác trong khu vực, những con rồng châu Á như Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan (chưa kể các nền kinh tế đang nổi khác như Thái Lan, Indonesia và Malaysia). Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có những câu chuyện tăng trưởng cũng ngoạn mục không kém Trung Quốc nhưng bền vững hơn và có nhiều cơ hội kinh doanh có thể đem lại kết quả ngay lập tức trong một số trường hợp. Mang ấn tượng sâu sắc về sự năng động, lòng nhiệt huyết và quyết tâm của người dân Trung Quốc, tôi là người ủng hộ nhiệt thành về tiềm năng của Trung Quốc. Tôi chỉ đơn giản làm một phép tính ở trong đầu là mặc dù tất cả các nước kia đều rất thành công, nhưng cộng hết cả lại cũng chỉ bằng một phần ba dân số Trung Quốc.
Thế nhưng ban đầu, Trung Quốc chỉ là màn diễn phụ. Chúng tôi tập trung vào việc xây dựng các mối quan hệ ở Hồng Kông. Chúng tôi có một số lợi ích khi làm như vậy. Trung Quốc lúc này vẫn đang tìm hiểu những nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở thuộc địa này trước thời điểm chuyển giao. Những ông trùm kinh doanh lúc này hẳn đã có thể đọc được tín hiệu và đang gây dựng được những mối liên hệ với đại lục Trung Quốc cũng như đang đầu tư vào đủ loại hình dự án. Họ có những doanh nghiệp đang khởi sắc mà chúng tôi có thể cùng kết hợp làm việc, thậm chí là sử dụng họ để tiến vào Trung Quốc.
Nhà kinh doanh quan trọng nhất ở Hồng Kông là Lý Gia Thành. Gia Thành, như bạn bè ông vẫn thường gọi, từ đại lục tị nạn đến Hồng Kông khi còn là một chàng trai ngoài 20 tuổi và thành lập một doanh nghiệp có tên là Trường Giang đặt theo một con sông cùng tên. Ban đầu, ông làm và bán lược nhựa và xà phòng bánh, rồi sau đó tiến tới sản xuất đồ chơi và hoa lụa. Với những thành công ban đầu, ông nhanh chóng đầu tư vào bất động sản và trở thành nhà đầu tư bất động sản lớn nhất ở Hồng Kông. Năm 1979, ông mua lại tập đoàn nổi tiếng Hutchison Whampoa, với các hoạt động đầu tư vào cảng biển, bán lẻ và tài sản, rồi nhanh chóng mở rộng sang những lĩnh vực mới như viễn thông đồng thời với việc đầu tư vào Trung Quốc. Tới năm 1990, ông đã trở thành tỉ phú đô-la và là người giàu nhất Hồng Kông.
Một ngày vào năm 1991, tôi đi cùng Moses Tsang đến gặp Lý Gia Thành lần đầu tiên. Chúng tôi được đưa vào một thang máy riêng dẫn tới văn phòng của ông ở quận Trung tâm, nằm tít trên cao nhìn xuống thành phố. Lý Gia Thành đón tiếp chúng tôi nhiệt tình và chúng tôi trò chuyện vui vẻ ở khu vực sảnh có đặt nhiều sofa và ghế tựa trước khi chuyển tới ăn trưa quanh một chiếc bàn lớn với các tờ thực đơn được in cầu kỳ.
Lý Gia Thành có hai con trai là Victor và Richard. Victor làm việc tại Cheung Kong còn Richard, cậu con út lúc đó mới chỉ ngoài 20 tuổi, đang chuẩn bị thành lập kênh Star TV, kênh truyền hình vệ tinh tiên phong tập trung vào Trung Quốc và các nước châu Á khác. Tôi không thể nhớ được lúc đó có cậu con nào của Lý Gia Thành tham dự không nhưng có mặt trợ lý chính của ông là Canning Fok, người từng học chung trường trung học với Moses và là người tổ chức buổi gặp này. Trước khi chúng tôi đi vào
trong nhà, Moses đã nhắc tôi là Lý Gia Thành đang tìm kiếm nguồn vốn cho công ty truyền hình của Richard.
Tôi rất có ấn tượng với phong cách thẳng thắn và sự sắc sảo của Lý Gia Thành khi chúng tôi trao đổi về nhiều vấn đề liên quan tới thị trường cũng như điều kiện kinh tế ở Hồng Kông, Trung Quốc và Mỹ. Ông là một người khôn ngoan, tinh tế và có tầm nhìn toàn cầu. Ông là người chống Cộng sản kiên định nhưng cũng là người thực tế và hết sức thực dụng. Như tôi được biết sau này, ông cũng là một nhà kinh doanh khôn ngoan, người đánh giá cao giá trị của một bảng cân đối an toàn với lượng tiền mặt và tính thanh khoản trong một thế giới mà ông hiểu rằng, từ kinh nghiệm cá nhân của chính ông, hàm chứa nhiều bất trắc và dễ thay đổi.
Và tất nhiên, chủ đề về Star TV, lúc đó đang được phát triển từ Hutchison Whampoa, cũng được đề cập tới. Lý Gia Thành hỏi thẳng luôn là Goldman Sachs có thể chi 2 triệu đô-la mua quảng cáo trên kênh này không. Ông rõ ràng không cần tiền và số tiền này cũng quá nhỏ với ông. Tôi nhận thấy việc này chủ yếu chỉ mang tính biểu tượng, nhưng lại là việc có ý nghĩa quan trọng đối với ông, bởi lẽ ông muốn cơ sở kinh doanh đầu tiên của con trai mình phải thành công.
Tôi cũng là một người có tính cách khá thẳng thắn, nhưng lần này thì tôi cẩn trọng và nói rằng tôi sẽ trả lời sau. Sở dĩ như vậy là vì có lý do: lúc đó tôi không có thẩm quyền để đại diện cho hãng đưa ra một cam kết như vậy. Hãng chúng tôi là một hợp danh có tính bảo thủ và tôi biết việc cam kết như thế sẽ kéo theo các cuộc thảo luận khó khăn với hội đồng quản trị công ty mà tôi chỉ là một thành viên. Nhưng tôi cũng không muốn làm phật lòng nhà kinh doanh có thế lực nhất ở Hồng Kông.
Sau bữa trưa, Lý Gia Thành tiễn tôi ra thang máy và đi cùng tôi xuống dưới sảnh, một cử chỉ lịch sự và thân mật mà sau này tôi cũng áp dụng với những khách châu Á đến thăm văn phòng của tôi ở Mỹ. Tôi cảm ơn ông về bữa trưa và nói rằng tôi rất biết ơn trước cơ hội này và sẽ cân nhắc nó.
“Xin cảm ơn ông Paulson,” tôi nhớ lại lời Lý Gia Thành nói trước khi tôi bước vào xe. “Tôi rất vui mừng trước việc Goldman Sachs chấp nhận hợp đồng quảng cáo với Star TV.”
Trở về Mỹ, các đồng nghiệp ngay lập tức bảo rằng Lý Gia Thành đã lấn lướt tôi. Nhưng chúng tôi đến Hồng Kông muộn và tôi đưa ra kết luận rằng để có thể bắt kịp và đạt được mong muốn thì chúng tôi cần phải có cam kết của mình. Tôi dự kiến là việc này sẽ mở ra các cơ hội đầu tư vào những thương vụ tương lai cùng với Lý Gia Thành và gia đình ông, điều đó sẽ cho chúng tôi thêm sức cạnh tranh trên thị trường ngân hàng đầu tư. Ở Mỹ, một số khách hàng thường tỏ ra căng thẳng nếu bạn muốn tham gia đầu tư cùng họ. Ở Hồng Kông thì ngược lại. Việc bạn bỏ tiền vào cùng với khách hàng khiến họ tin tưởng bạn và chấp nhận bạn tham gia cùng. Tôi coi việc này là bước đi đầu tiên theo hướng mà tôi đã cố gắng giải thích với Hội đồng Quản trị Goldman. Đó không phải là việc dễ dàng. Là một hãng tập trung hoạt động vào khách hàng là các tổ chức và công ty, chúng tôi không quan tâm tới việc quảng cáo rộng rãi ra công chúng. Thế nhưng cuối cùng kế hoạch đó cũng được thông qua và chúng tôi tặng chương trình quảng cáo trên Star TV cho Quỹ Trẻ em Ung thư ở Hồng Kông.
Không lâu sau đó, một trong những thương vụ quan trọng đầu tiên của chúng tôi ở Hồng Kông đã đến khi chúng tôi giúp Richard Li bán Star TV cho Rupert Murdoch. Việc này xảy ra sau cuộc gặp gỡ tình cờ giữa John Thornton, lúc đó đang là lãnh đạo mảng ngân hàng châu Âu ở London, đi
cùng với Richard Li tại một sự kiện của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos năm 1992. Sau đó ít lâu, Star TV bắt đầu đề cập với chúng tôi về việc huy động vốn thông qua bán trực tiếp cho tư nhân (private placement)*, một cơ hội mà hẳn sẽ không bao giờ xuất hiện nếu lúc trước chúng tôi không quyết định mua quảng cáo. Tận dụng cơ hội này, John bay đến Hồng Kông để thuyết phục Richard là ông sẽ có lợi hơn nếu tìm được một nhà đầu tư chiến lược. John nghĩ đến Rupert Murdoch, người mà Richard và Lý Gia Thành ít nhất đã có hai lần thất bại trong việc thương thảo trước đó. John đề nghị sự giúp đỡ từ Brian Griffiths, lúc này là Phó Chủ tịch của Goldman Sachs International. Nam tước Griffiths có vị trí trong Hội đồng Quản trị của Tập đoàn Báo chí Times, công ty mẹ của tờ Times của Murdoch ở London. Ba người dùng bữa tối với nhau và John thành công trong vài tuần sau đó khi mang lại thỏa thuận giữa Richard và Rupert, đồng thời để Pearson PLC, công ty truyền thông đối thủ ở Anh của Murdoch, đóng vai trò là người mua cạnh tranh. Thỏa thuận này, được công bố vào tháng 7/1993, giúp Murdoch mua 63,6% của HutchVision Limited, công ty mẹ của Star TV, với giá 525 triệu đô-la. (Ông sẽ mua nốt phần còn lại vào hai năm sau đấy.)
Thỏa thuận này thực sự là đòn sốc. Nó giúp đưa Murdoch tiến vào thị trường châu Á và ngay lập tức nâng hình ảnh của Richard Li trong mắt công chúng, xác nhận những tố chất của một nhà kinh doanh khôn ngoan. Richard đã kiếm được gấp vài lần số tiền đầu tư ban đầu và lúc này đang trong giai đoạn cất cánh sự nghiệp.
Sau đó, chúng tôi còn làm nhiều việc khác cho Lý Gia Thành và các công ty của ông, giúp ông trong việc tìm nguồn tài chính, mua và bán một số doanh nghiệp. Mức cam kết hai triệu đô ít ỏi không có nghĩa là chúng tôi
sẽ có được các vụ làm ăn khác. Lý Gia Thành là nhà kinh doanh quá khôn ngoan và chúng tôi phải nỗ lực trong tất cả những việc chúng tôi làm cho ông ấy. Nhưng sự khởi đầu đó đã cho chúng tôi có một chỗ tại bàn của ông, mà nhờ đó chúng tôi có thể cạnh tranh để có được các vụ làm ăn và nó cũng giúp cho tên tuổi chúng tôi xuất hiện ở Hồng Kông, sau này là ở Trung Quốc.
Nói vậy không có nghĩa là chúng tôi luôn thành công trong việc có được những thương vụ mà chúng tôi muốn có hay tất cả mọi thương vụ đều diễn ra thuận lợi. Dự án Oriental Plaza, tổ hợp khổng lồ ở khu bất động sản hàng đầu sát cạnh Quảng trường Thiên An Môn sẽ phải đi qua vô số những lần điều chỉnh trong lúc các công việc ngày càng trở nên phức tạp và gây tranh cãi. Dự án có giá trị hơn 1 tỉ đô-la này bắt đầu được khởi công từ tháng 9/1993 nhưng bị đình lại chỉ một năm sau đó do gặp phải sự phản đối từ những nhà bảo tồn và từ McDonald’s - công ty trước đó đã ký hợp đồng thuê đất 20 năm và mở cơ sở kinh doanh đầu tiên của họ ở Bắc Kinh trên chính mảnh đất này. Cuối cùng, mọi sự cũng được giải quyết. McDonald’s đồng ý di chuyển. Lý Gia Thành là người thay thế cho Đổng Kiến Hoa trong vai trò nhà đầu tư chính, tiếp tục thúc đẩy công việc và tổ hợp bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 2000. Trong suốt quá trình đó, phần vốn góp 20% của chúng tôi coi như bị ghim lại và chúng tôi hầu như không kiếm được đồng nào.
Con đường vòng vèo của Oriental Plaza không phải không tiêu biểu cho những thỏa thuận mà chúng tôi gặp phải khi bắt đầu công việc. Chúng tôi nhanh chóng nhận thấy cần phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn những thương vụ nào nên theo đuổi và không bao giờ coi mọi thứ là nghiễm nhiên có được. Đây là cách tiếp cận khôn ngoan trên toàn thế giới,
nhưng không ở đâu có thể đúng đắn như ở Trung Quốc trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế đang thay đổi nhanh chóng. Khi đất nước mở cửa với các nhà đầu tư nước ngoài thì hầu như bất kỳ giao dịch nào cũng được tranh luận ở cấp cao nhất trong chính phủ: quá trình ra quyết định phức tạp, rườm rà, liên quan tới sự chấp thuận của nhiều quan chức và gần như mờ mịt với người ngoài như chúng tôi. Nhiều thỏa thuận ghi nhớ được ký kết mà không đi tới đâu, cũng như có nhiều cuộc đàm phán phi chính thức đã diễn ra với các quan chức không có đủ thẩm quyền hay không thể “bán lại” dự án cho cấp trên của họ. Trên hết, Trung Quốc thiếu vắng sự chấp hành mạnh mẽ đối với pháp quyền. Thay vào đó, yếu tố con người mới là thông lệ và điều này có nghĩa là việc xây dựng mối quan hệ cá nhân mạnh mẽ là thiết yếu trong làm ăn. Vì lý do này, tôi thường xuyên bay đến Trung Quốc, nhất là trong những năm đầu. Dần dần, chúng tôi cũng học được cách nhận biết những thương vụ khả thi nhất, tiếp cận đúng khách hàng và vận động đúng những người Trung Quốc có liên quan. Nhưng trong nhiều trường hợp khi chúng tôi còn đang trong những ngày đầu học hỏi ở Trung Quốc, chúng tôi dễ bị thất vọng trước những thay đổi đột ngột và khó hiểu. Tấm thảm dưới chân bạn có thể bị kéo đi bất cứ lúc nào.
Chúng tôi học được bài học này ngay trong nỗ lực nhằm giúp đỡ ngành năng lượng Trung Quốc của chúng tôi. Từ ban đầu, cơ hội này tưởng như hiển nhiên. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh tạo ra nhu cầu năng lượng tăng nhanh mà Trung Quốc đang cố gắng để đáp ứng, đặc biệt tại những khu vực như Sơn Đông và Quảng Đông, hai tỉnh ven biển có mật độ dân số cao, đang trong quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng và tương đối mở cửa với đầu tư nước ngoài. Quảng Đông, nằm ngay sát biên giới với Hồng Kông, thường xuyên bị mất điện và việc này tạo ra những tình huống khó
khăn cho các nhà máy đang làm việc suốt ngày đêm để sản xuất ra hàng hóa phục vụ cho cả thế giới.
Chúng tôi đưa ra một giải pháp dựa theo kinh nghiệm ở Mỹ. Nói đơn giản, ý tưởng là bán cổ phần một nhà máy điện cho một nhóm các nhà đầu tư nước ngoài, những người này sẽ trở thành chủ của nhà máy cùng với chính phủ. Nhóm chủ sở hữu mới này sẽ sử dụng số tiền thu được để đầu tư xây dựng thêm các nhà máy điện mới. Quy trình thu hút vốn là rõ ràng nhưng chúng tôi cũng biết rằng để chốt thương vụ là việc khó khăn. Các chính quyền cấp tỉnh thường sẵn lòng với những thử nghiệm mới hơn các cơ quan chính quyền trung ương, nhưng kể cả như thế vẫn cần tới quyết tâm chính trị và sự khôn khéo trong điều hành để có thể thành công. Bởi lẽ trước đây, Trung Quốc chưa từng bán một phần nhà máy điện Quốc doanh nào cho người nước ngoài.
Tom Gibian, chuyên gia tài chính dự án của Goldman Sachs, lên danh sách các nhà máy điện phù hợp vào đầu năm 1994, chúng tôi đạt được thỏa thuận với một quỹ đầu tư nhà nước có quan hệ tốt với chính quyền là China Venturetech Investment Corporation (CVIC) trong việc đầu tư vào các dự án điện. Các kế hoạch của chúng tôi ở Sơn Đông diễn ra rất nhanh chóng. Trong tháng 11, sau khi được sự đồng ý của ủy ban Điều hành Chứng khoán Trung Quốc (CSRC), cơ quan có thẩm quyền tương tự như ủy ban chứng khoán và Giao dịch ở Mỹ, chúng tôi và CVIC tuyên bố rằng, cùng với các nhà đầu tư khác, bao gồm cả Lý Gia Thành và công ty xây dựng Mỹ Bechtel, chúng tôi sẽ trả 180 triệu đô-la để mua 30% cổ phần nhà máy điện lớn nhất ở Sơn Đông có công suất 1,2 triệu kW. Nhà máy này sẽ được vận hành bởi một công ty mới thành lập do các chủ đầu tư đồng sở
hữu bao gồm Nhà máy điện Sơn Đông và Công ty Tín dụng và Đầu tư Quốc tế Sơn Đông.
Và rồi tia sáng của thương vụ này tắt ngấm. Tại một hội thảo ở Bắc Kinh, Gibian trình bày chi tiết về câu trúc thương vụ, bao gồm cả lợi nhuận dự kiến cho các nhà đầu tư - ở mức 14% hàng năm trong vòng 12 năm đầu tiên - với mục đích chốt thương vụ.
Trong số những người nghe có một phụ nữ tên là Lý Tiểu Lâm, một quan chức trẻ trong ngành điện và là con gái của Lý Bằng, Thủ tướng Trung Quốc đồng thời là nhà bảo thủ hàng đầu chống lại việc cải cách nhanh chóng nền kinh tế. Ngay sau đấy, chúng tôi được yêu cầu rút ra khỏi thương vụ. Như chúng tôi được biết sau này, Lý Bằng không hài lòng với tỉ lệ lợi nhuận cao dành cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thỏa thuận Nhà máy điện Sơn Đông bị hủy bỏ vào tháng 12/1993.
Chúng tôi ra đi với một bài học quan trọng: nhiều quan chức có thể chấp thuận thương vụ, nhưng chỉ cần một quan chức cấp cao trong hệ thống điều hành vốn dựa trên sự nhất trí này phản đối là có thể khiến thương vụ chết yểu. Chúng tôi sau đó học được cách tiếp xúc nhiều hơn tới tất cả những cá nhân hay tổ chức có thể có quyền lợi liên quan tới những gì chúng tôi quan tâm và làm việc không mệt mỏi để đưa họ về phía mình. Với một thương vụ phức tạp và mới mẻ như Sơn Đông, trong một môi trường chính trị nhạy cảm mà đích thân Thủ tướng để tâm tới, lẽ ra chúng tôi phải tìm kiếm sự đồng ý từ Quốc vụ viện - cơ quan nội các bao gồm các vị Bộ trưởng quan trọng nhất của Trung Quốc. Ngay cả hiện tại, người Trung Quốc không phải là luôn phối hợp tốt với nhau, nhất là trong khoảng thời gian đầu những năm 1990, khi quy trình chấp thuận của chính
phủ với các chính sách mới vẫn đang trong giai đoạn bắt đầu thì lại càng khó khăn.
Sự can thiệp của Lý Bằng cũng là lời nhắc nhở cụ thể cho chúng tôi về mối tương quan giữa quyền lực và quan hệ gia đình ở Trung Quốc khi nền kinh tế thị trường đang được khởi lập. Không chỉ là Thủ tướng, Lý Bằng còn có mối liên hệ lâu dài với ngành công nghiệp điện và con gái cũng như một trong các con trai của ông sẽ trở thành những nhân vật cộm cán của ngành này. Đây là lần đầu tiên tôi nhận thấy ảnh hưởng gia tăng từ con cái của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tận dụng lợi thế có được từ quan hệ gia đình là hiện trạng phổ biến. Nhiều người trong số họ, những người được gọi là các “hoàng tử” là người thông minh, có năng lực và có những việc làm hiệu quả và phù hợp. Nhưng nhiều người khác thì không được như vậy và chủ nghĩa thân hữu rộng khắp đã trở thành một vết thương mở, gây ra sự phẫn nộ trong công chúng Trung Quốc. Sự bất công của nó tương phản rõ rệt với truyền thống coi trọng nhân tài của Trung Quốc, trong đó cho phép các công dân bình thường có được tương lai tốt hơn nhờ vào kết quả đạt được trong hệ thống thi cử có tính cạnh tranh cực kỳ khốc liệt.
Dù có kết quả rất đáng bực bội vào lúc đó, nhưng thất bại trong thương vụ Nhà máy điện Sơn Đông cho chúng tôi thấy một khía cạnh đáng mừng khi làm ăn ở Trung Quốc: đó là người Trung Quốc rất trọng danh dự và có chữ tín rất cao một khi đã có thỏa thuận. Một vị CEO có toàn quyền để chấm dứt một vụ làm ăn mà theo ông là không có lợi nhất cho công ty. Tương tự, một vị nguyên thủ có thể rút lui khỏi một thương vụ mà ông không thấy tốt cho đất nước. Khi điều này xảy ra, ở các nước khác, thường thì người ta không làm gì nhiều hơn một lời xin lỗi nhanh chóng
nếu như có. Nhưng Trung Quốc thì khác. Trong khi Lý Bằng làm chúng tôi sửng sốt với việc hủy bỏ thỏa thuận thì những quan chức khác đã trấn an chúng tôi rằng chúng tôi sẽ có được những thương vụ sau này ở Sơn Đông vào thời điểm thích hợp. Lưu Hồng Như, một nhà cải cách đầy quyết tâm và có tầm nhìn xa, lãnh đạo của CSRC và là người chịu trách nhiệm chào bán các công ty quốc doanh của Trung Quốc ra công chúng, hứa hẹn với chúng tôi rằng tới khi nào công ty điện này được IPO thì thương vụ sẽ thuộc về chúng tôi. Và trên thực tế, chúng tôi quả thực có được thương vụ này vào năm 1994, cho dù nó cũng không phải việc dễ dàng gì. Công ty Phát triển Điện Quốc tế Sơn Đông cuối cùng đã được niêm yết tại Hồng Kông vào tháng 6/1990 sau một lộ trình rất dài và khó khăn trong đó có không ít hơn ba lần trình diễn lưu động (roadshow)* thất bại, khi các chủ ngân hàng và nhà quản trị công ty phải đi đến những thành phố xa xôi nhằm giới thiệu về thương vụ cho các nhà đầu tư quan tâm.
Sự tham dự của Lý Bằng vào thương vụ Sơn Đông đã cho tôi và các đồng nghiệp hiểu rằng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tham dự rất mật thiết vào những hoạt động trong nền kinh tế và cả trong những thay đổi mà chương trình cải cách tạo ra. Đây là hậu quả không tránh được của nền kinh tế chỉ huy khi những nhà lãnh đạo cấp cao cần tham dự và qua đó thể hiện tầm quan trọng của các quyết định mở ra hướng đi mới cho đất nước.
Nhờ vậy, vào những năm 1990, các nhà kinh doanh nước ngoài có thể dễ dàng gặp các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc và xây dựng mối quan hệ với họ. Chuyện này về sau sẽ không còn dễ dàng như vậy. Lấy ví dụ, hầu như không có cơ hội để một doanh nhân gặp Hồ Cẩm Đào sau khi ông trở thành Tổng Bí thư vào năm 2002. Việc gặp Thủ tướng Ôn Gia Bảo sẽ
dễ hơn đôi chút nhưng tôi không tin là ông sẽ thảo luận về các thương vụ cụ thể. Sự thay đổi này không chỉ phản ánh phong cách cá nhân mà còn là kết quả của những thay đổi trên quy mô lớn hơn: khi nền kinh tế bùng nổ thì các nhà lãnh đạo quốc gia sẽ không còn cần phải dụ dỗ các CEO nước ngoài nữa trong khi những người này sẽ phải đi gõ từng cánh cửa để có thể hoạt động ở Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo cấp cao cũng nhận được những hỗ trợ tốt hơn. Chính quyền ngày càng được chuyên môn hóa cao hơn khi có thêm nhiều quan chức có năng lực và kinh nghiệm tại các bộ và các cấp của nhà nước Trung Quốc.
Một trong những nhà lãnh đạo cấp cao mà tôi thường gặp trong thập kỷ 1990 là Chu Dung Cơ, lúc đó là Phó Thủ tướng phụ trách điều hành kinh tế. Các cuộc gặp của chúng tôi thường liên quan tới các vấn đề về tài chính và chính sách kinh tế. Ông là người thông minh, có đủ thông tin về vấn đề và có thiên hướng tìm ra giải pháp.
Chu Dung Cơ rất khó khăn mới có được vị trí của mình. Ông có một tuổi thơ khó nhọc ở tỉnh Hồ Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa nổi tiếng với tấm bằng kỹ sư vào năm 1951 và bắt đầu làm việc tại một cơ quan lập kế hoạch của chính quyền trung ương. Là người thẳng thắn, ông từng bị xử lý hai lần trong thời kỳ xáo trộn chính trị dưới thời Mao Trạch Đông. Nhưng ông là một người ngoan cường và kiên trì. Sau Cách mạng Văn hóa, Chu Dung Cơ trở lại Bắc Kinh và làm việc trong ủy ban Cải cách Kinh tế trước khi trở thành thị trưởng Thượng Hải vào năm 1987. Tại đây, ông thành lập sở giao dịch chứng khoán chính thức đầu tiên của Trung Quốc kể từ sau ngày những người Cộng sản lên nắm quyền. Ông cũng là người dẫn đầu trong việc biến Phố Đông, từ một khu đầm lầy và đất ruộng có diện tích tương đương Singapore ở phía đông Thượng Hải, trở thành
trung tâm tài chính mới phát triển của Trung Quốc với những tòa nhà chọc trời cao nhất nước.
Chu Dung Cơ là người ngay thẳng và không hời hợt, và ít nhất với tôi, ông còn là người biết lắng nghe những lời khuyên thẳng thắn chừng nào ông nghĩ là chúng tốt cho Trung Quốc. Vào năm 1993, Goldman đang tư vấn cho Trung Quốc về xếp hạng tín dụng quốc gia và tôi tham dự cuộc họp cùng ông với tổ chức xếp hạng tín dụng Mỹ Standard & Poor’s. Tôi cảm thấy là Chu Dung Cơ chưa trả lời một trong những lo ngại của tổ chức này về Trung Quốc một cách thẳng thắn như ông vẫn thường làm. Tôi nói trực tiếp điều này với ông sau cuộc họp dưới tinh thần tôn trọng trong sự lo lắng của các đồng nghiệp. Chu Dung Cơ không nói gì hết và đồng nghiệp của tôi nghĩ rằng đây là tín hiệu không tốt. Nhưng ông là một người hết sức thực dụng và trong cuộc gặp sau đó với Tổ chức Tín dụng Moody’s, ông đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi tương tự một cách vừa dứt khoát vừa khéo léo.
Chu Dung Cơ và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác rất muốn niêm yết các công ty Quốc doanh trên thị trường chứng khoán thế giới. Cổ phần hóa lúc đó còn là khái niệm tương đối mới, nhưng người Trung Quốc nhanh chóng nhận ra tiềm năng của nó trong việc huy động vốn và tái cấu trúc các ngành công nghiệp. Trước đó, Chu Dung Cơ đã gặp Brian Griffiths của hãng chúng tôi, người từng lãnh đạo công cuộc cổ phần hóa và xóa bỏ kiểm soát nhà nước dưới chính quyền Margaret Thatcher từ năm 1985 tới năm 1990 và ông cũng từng gặp gỡ nhiều lãnh đạo khác của Goldman. Trong buổi gặp đầu tiên của tôi với Chu Dung Cơ, ông đề nghị tôi tiến hành nghiên cứu khả thi xem những ngành nào là phù hợp nhất cho việc này.
Ông cũng hỏi tôi xem mất bao lâu để có thể niêm yết một công ty trên thị trường chứng khoán New York.
“Khoảng từ sáu tháng tới hai năm,” tôi trả lời.
Nhưng việc chuẩn bị cho các công ty Trung Quốc tham gia niêm yết là một công việc nặng nề và khó khăn hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Các công ty Quốc doanh Trung Quốc mọc ra từ các bộ dưới quyền cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, sở hữu tất cả đất đai và tài sản của đất nước và giám sát tất cả các hoạt động thương mại, từ thăm dò và khai thác dầu khí cho tới nông nghiệp, chế biến và khai mỏ. Nhà nước sẽ quyết định doanh nghiệp nào sẽ tham gia vào lĩnh vực gì và đưa ra các chỉ tiêu sản xuất. Các yếu tố như chất lượng sản phẩm, công cụ kiểm soát quản trị và hạch toán kế toán đều bị phớt lờ.
Khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, các doanh nghiệp nhà nước cũng bùng nổ. Nhưng chúng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền và bị bó buộc bởi các gánh nặng của nhà nước, bao gồm chế độ chăm sóc cả đời đắt đỏ dành cho người lao động và người nhà họ. Các công ty vẫn duy trì bệnh viện, trường học, căng tin, cửa hàng và thậm chí trong một số trường hợp là cả nghĩa địa cho nhân viên và tự hào về các dịch vụ này. Tôi nhớ có lần Brian Griffiths nhận xét sau chuyến đi thăm một công ty như vậy và nhận thấy nó giống như một ngôi làng thời Trung Cổ. Ông nói, “Anh không thể đưa một thứ như thế lên thị trường chứng khoán New York được.”
Tới thập kỷ 1990, trong khi khu vực tư nhân yếu ớt của nền kinh tế - bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty chuyên về xuất khẩu trong các Đặc khu Kinh tế và các xí nghiệp hương trần - đang làm ăn phát đạt thì hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều bị gồng cứng
và kém hiệu quả, mắc nợ nhiều và thua lỗ. Các doanh nghiệp này hầu như không có kiến thức gì về các hình thức kinh doanh hiện đại và giấu kỹ thông tin tới mức gần như không thể đo lường được mức độ thua lỗ của họ. Các nhà quản trị nhận được nhiều trách nhiệm hơn trong việc đưa ra quyết định kinh doanh, nhưng họ vừa ít được đào tạo vừa có cá tính không phù hợp cho công việc này. Các công ty thiếu sự tập trung và lãng phí nguồn lực. Trong làn sóng tự do đầu tiên, các nhà quản lý thường xuyên đưa ra các quyết định sai sót hay tham nhũng, tạo ra các tập đoàn lộn xộn và hỗn loạn, đầu cơ vào bất động sản và đóng vai trò gần như các ngân hàng trong việc cung cấp tín dụng một cách dại dột cho các công ty khác.
Tệ hơn nữa, các ngân hàng nhà nước đóng vai trò cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh này trên thực tế gần như là đã chết. Các ngân hàng này hầu hết không biết gì về các phương thức cho vay, đầu tư hay quản lý rủi ro hiện đại, không nắm được quy mô các khoản nợ xấu của mình, làm thế nào để định giá tài sản hay đo lường rủi ro. Hơn nữa, các ngân hàng này được điều hành ở cấp địa phương bởi chính các quan chức ra lệnh cho họ cho các doanh nghiệp nhà nước vay tiền. Bạn có thể đoán kết quả sẽ ra sao khi các quan chức tỉnh giữ vai trò giám sát ngân hàng và kiểm tra đủ vốn, trong khi cũng chính những quan chức này lại đi tìm kiếm các khoản vay cho các dự án con cưng của họ.
Chu Dung Cơ muốn thay đổi toàn diện cách thức điều hành các doanh nghiệp nhà nước, loại bỏ các ưu đãi và trợ cấp đặc biệt cho họ, khuyến khích hình thành các nhà quản lý có chuyên môn nhằm vực dậy khu vực nhà nước. Ông nhận thấy rằng việc bán cổ phiếu cho công chúng và cho các nhà đầu tư “chiến lược” là các công ty quốc tế hàng đầu không những làm tăng vốn mà còn buộc các doanh nghiệp nhà nước phải áp dụng các
tiêu chuẩn kế toán toàn cầu, như vậy thì các công ty này sẽ được vận hành tốt hơn. Ông cũng nhận thấy để cải cách doanh nghiệp nhà nước, ông sẽ phải cải cách hệ thống ngân hàng. Thực tế là chính hệ thống ngân hàng đã cung cấp cho các công ty này một phiên bản khác của “bát gạo sắt” - bao cấp toàn bộ: đó là tín dụng không ngừng và miễn nợ tuyệt đối.
Vào thời gian đó, các chính phủ trên thế giới đang thực hiện tư nhân hóa vì hàng loạt các lý do: từ tái cơ cấu tài sản để khiến cho các ngành công nghiệp trong nước có tính cạnh tranh cao hơn tới huy động tiền, trả nợ hay mở rộng quyền sở hữu. Chẳng hạn, nước Đức đang sốt sắng trong việc tạo ra văn hóa sở hữu cổ phần. Một số chính phủ có quan điểm là các công ty sẽ hoạt động tốt hơn nhờ có kỷ luật thị trường thay vì nằm dưới sự sở hữu và kiểm soát của nhà nước.
Trung Quốc áp dụng một mô hình do họ tự thiết kế. Trước tiên, họ không thoải mái với thuật ngữ “cổ phần hóa”, thứ không hoàn toàn tương hợp với “chủ nghĩa xã hội bản sắc Trung Quốc.” Họ ưa sử dụng các thuật ngữ như “công ty hóa” và “tái cơ cấu vốn”. Các nhà lãnh đạo chính phủ Trung Quốc chọn duy trì kiểm soát các công ty họ bán cổ phần ra trong một loạt các ngành công nghiệp, giữ chúng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Đảng sẽ chọn người lãnh đạo công ty. Tôi không biết đây là kế hoạch tạm thời hay lâu dài. Nhưng dần dần, việc họ ngần ngại nhường quyền kiểm soát của nhà nước ngày càng trở nên rõ ràng và ham muốn này có nguồn gốc vững chắc do chính trị và hệ tư tưởng để lại hậu quả tiêu cực cho tới ngày nay. Nhiều doanh nghiệp lớn nhất Trung Quốc, là con đẻ của các bộ ban ngành khổng lồ, cứ lừng lững tồn tại, gây ra khó khăn cho chính quyền trong nỗ lực tạo ra các công ty toàn cầu xuất sắc hơn và trong việc chuyển dịch nền kinh tế sang một mô hình không phụ thuộc vào đầu tư công hay
xuất khẩu. Những công ty này không hoạt động như trong kế hoạch của Chu Dung Cơ nhằm biến chúng thành các công ty hiện đại, hiệu quả, theo định hướng thị trường và chấp nhận cạnh tranh thực sự.
Mối quan tâm của Trung Quốc với cổ phần hóa nhận được sự quan tâm của các ngân hàng đầu tư trên toàn thế giới. Trong một thời gian khá dài, Goldman phải đóng vai trò người đi sau. Các ngân hàng đầu tư của Anh như Jardine Fleming, Schroders và Barings, với lịch sử thuộc địa ở Hồng Kông, ban đầu ở cửa trên, cùng với Wardley, nhánh ngân hàng thương mại (merchant bank) của HSBC và Peregrine Investments, một công ty mới thành lập của Trung Quốc có quan hệ tốt với chính quyền. Nhưng chúng tôi nhận thấy các hãng lâu đời này dễ bị tổn thương. Các hãng này đã đi vào thoái trào từ trước thời điểm chuyển giao và khi việc chuyển giao xảy ra thì lợi thế lịch sử của chúng cũng sẽ chấm dứt. Trong số các đối thủ cạnh tranh từ Mỹ của chúng tôi thì Merrill Lynch và Morgan Stanley đều đã thiết lập vị trí của họ trên thị trường sớm hơn chúng tôi.
Hầu hết những gì chúng tôi làm ở Trung Quốc trong những ngày đầu chỉ mang tính giáo dục. Chúng tôi lẽ ra đã có thể điều hành một trường học - và thực tế là có những lúc những gì chúng tôi làm rất giống như một trường học. Trong khi các chuyên gia ngân hàng của chúng tôi xây dựng quan hệ và đánh hơi các cơ hội kinh doanh thì họ cũng tổ chức các hội thảo và nghiên cứu chuyên đề, giảng dạy về lợi ích của cổ phần hóa, phân tích các ngành công nghiệp Trung Quốc, giải thích các chi tiết kỹ thuật trong quá trình IPO như thẩm định chi tiết (due diligence)*, dựng sổ (book building) và quản lý trình diễn lưu động (roadshow).
Tất cả những việc này đều hết sức quan trọng. Mặc dù đều thông minh và có năng lực như những người Trung Quốc khác, nhưng rất ít quan chức
ở cấp bộ, hay nói thẳng ra là trong toàn bộ hệ thống tài chính còn non trẻ của Trung Quốc, được đào tạo cơ bản về kinh tế học cổ điển chứ chưa nói tới việc có kinh nghiệm thực tế về ngân hàng hay thị trường vốn hiện đại. Nhưng họ thực sự là những người ham học hỏi, ghi chép kỹ lưỡng, tiếp nhận thông tin, thường xuyên đòi hỏi bổ sung chi tiết và phân tích.
Chúng tôi nhanh chóng mở rộng văn phòng Hồng Kông nhằm đóng vai trò là trung tâm cho các hoạt động ở châu Á bên ngoài Nhật Bản. Khu vực này đang bùng nổ và tới năm 1994, chúng tôi đã có khoảng vài trăm chuyên gia ngân hàng và nhân viên hỗ trợ quản lý các hoạt động ở khắp Đông Nam Á. Chúng tôi đã bắt đầu xây dựng đội hình Trung Quốc của mình. Cũng như ở các nơi khác, chúng tôi tìm kiếm những tài năng trẻ để đào tạo họ thành các chuyên gia ngân hàng đầu tư nổi bật.
Một số đối thủ cạnh tranh tuyển dụng nhân sự vì kỹ năng ngôn ngữ của họ hơn là vì năng lực ngân hàng, tuyển những người Đài Loan hay Hồng Kông bản xứ bởi vì họ là “người Hoa”. Chúng tôi thì nhắm vào những người có thể thành công trong nền văn hóa Goldman đầy tính cạnh tranh nhưng cũng mang tinh thần tương hỗ.
Chúng tôi tìm kiếm những tài năng ở Trung Quốc đại lục như Lưu Nhị Phi, tốt nghiệp Đại học Brandeis và Trường Kinh doanh Harvard và là một trong những sinh viên Trung Quốc đầu tiên đi du học. Lưu Nhị Phi là người đầu tiên trong số các nhân viên ngân hàng Trung Quốc được chúng tôi tuyển dụng nghiêm túc và đã rất hữu ích trong việc xây dựng các mối quan hệ ban đầu của chúng tôi ở đại lục. Khi ông rời hãng năm 1993, chúng tôi tuyển Cherry Li, từng dạy tiếng Anh ở Học viện Ngoại ngữ Bắc Kinh và là cô giáo cũ của Lưu Nhị Phi trước khi cô chuyển sang ngành kinh tế học. Là người thông minh và tận tâm, cô từng làm việc tại ủy ban
Cải cách Kinh tế của Chính phủ Trung Quốc dưới quyền Thủ tướng cải cách Triệu Tử Dương và là một trong những nhân sự đầu tiên của CSRC. Sau một thời gian ngắn tập sự tại trụ sở chính ở New York để hiểu hơn về văn hóa và công việc kinh doanh của hãng, cô trở thành người đại diện cho văn phòng đầu tiên của chúng tôi ở Bắc Kinh vào tháng 2/1994. Chúng tôi bổ sung thêm văn phòng Thượng Hải vào tháng 11, mặc dù vậy hầu hết công việc của chúng tôi ở Trung Quốc vẫn được thực hiện và chỉ đạo từ Hồng Kông.
Môi trường kinh doanh ở Trung Quốc hết sức khó chịu. Chúng tôi đã có hợp đồng bảo lãnh trái phiếu cho nhiều đợt phát hành trái phiếu của chính phủ và chúng tôi cũng có một số công việc tư vấn, nhưng mảng chào bán cổ phần thì chậm. Vào tháng 1/1994, CSRC công bố đợt chào bán thứ hai gồm có 22 ứng cử viên cho niêm yết ở nước ngoài trong đó có một vài công ty năng lượng. Nhưng vào thời điểm công ty cuối cùng của đợt một được niêm yết tại Hồng Kông hồi tháng 6/1994 thì việc IPO các công ty Trung Quốc đang gặp rất nhiều khó khăn trong thu hút nhà đầu tư. Một trong các lý do là chất lượng tài sản kém của một số công ty được chào bán.
Lý do khác dẫn tới sự khó chịu của chúng tôi là sự thất thường của kinh tế Trung Quốc, vốn đã bắt đầu quá nóng từ sau chuyến Nam du của Đặng Tiểu Bình. Sau khi các biện pháp kiểm soát tín dụng được nới lỏng, các khoản cho vay ngân hàng để đầu tư tăng vọt 50% vào năm 1992 và lạm phát lên tới 15% vào năm sau đó. Các dự án bất động sản nặng tính đầu cơ nở rộ ở Quảng Đông và Hải Nam - đảo nằm phía nam Quảng Đông và là tỉnh cực Nam của Trung Quốc. Chu Dung Cơ, người trở thành Phó Thủ tướng Trung Quốc năm 1991, nắm giữ nhiều quyền kiểm soát kinh tế hơn
sau khi Lý Bằng bị đau tim vào tháng 4/1993. Thách thức đối với Chu Dung Cơ là tìm ra biện pháp nhằm bình ổn nền kinh tế trong khi không làm mất đi động lực cải cách. Cách ông sử dụng là đối mặt đồng thời cả với cuộc khủng hoảng trước mắt và với những vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế.
Chu Dung Cơ trực tiếp nắm quyền điều hành Ngân hàng Trung ương và đưa ra kế hoạch thắt chặt 16 điểm nhằm kìm hãm các khoản vay ngân hàng và hạn chế gia tăng giá cả. Ông thúc đẩy việc thông qua giai đoạn thứ nhất trong kế hoạch cải cách toàn diện hệ thống tài chính bằng việc thiết lập ba ngân hàng chính sách mới và thúc đẩy các ngân hàng khác hoạt động mang tính thương mại hơn và ít theo định hướng chính sách trong việc cho vay. Ông cải cách toàn bộ hệ thống thuế và thu chi ngân sách cùng lúc với cải cách giao dịch ngoại tệ. Chu Dung Cơ là người cứng rắn. Người ta đồn là ông dọa xử lý nghiêm khắc bất cứ quan chức ngân hàng nào không tuân thủ các quy định mới của Bắc Kinh. Chu Dung Cơ và các đồng nghiệp cải cách của ông đang phải đối mặt với một trận chiến cam go. Việc mở rộng quá mức nguồn cung tiền và bong bóng tín dụng đã đẩy lạm phát cao hơn 24% vào năm 1994 trước khi các biện pháp siết chặt của ông có hiệu quả và đưa nền kinh tế hạ cánh mềm, mức lạm phát giảm xuống còn 8,3% vào năm 1996 và 2,8% vào năm 1997.
Trong khi đó, Goldman Sachs đang rơi vào tận cùng của khó khăn trong năm 1994, nhưng lỗi không phải do Trung Quốc. Thị trường trái phiếu toàn cầu suy thoái do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng nhanh lãi suất vào tháng Hai năm 1994 đã khiến cho cơ sở được điều hành kém cỏi của chúng tôi ở London chết đứng. Chúng tôi bị thua lỗ 100 triệu đô-la mỗi tháng. Cuộc khủng hoảng tài chính trong toàn Goldman Sachs càng trở nên trầm trọng
hơn bởi cấu trúc liên danh của hãng, trong đó cho phép những người đồng sở hữu (partner) về hưu được mang theo một nửa số vốn của họ. Có nhiều người đã làm như thế và chúng tôi rơi vào bờ vực của phá sản.
Và rồi, vào tháng Chín, ở giữa cuộc khủng hoảng này, Jon Corzine và tôi được bổ nhiệm lần lượt trong vai trò là Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Jon và tôi bất đồng với nhau về nhiều vấn đề nhưng việc quyết định hành động nhanh không nằm trong số đó. Chúng tôi phải đưa ra các quyết định cứng rắn và cắt giảm 13% nhân sự toàn cầu. Tôi cố gắng bảo vệ hoạt động ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, nhưng chúng tôi phải cắt giảm mạnh để có thể tồn tại và cuối cùng tôi cũng không chắc lắm là việc cắt giảm này có hại hay không, bởi lẽ chúng tôi đã phát triển quá nhanh trên khắp thế giới và đã tuyển dụng khá nhiều người không phù hợp.
4. VÀNG THẬT, BẠC THẬT
Đại hội Đại biểu Toàn Quốc lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức vào tháng 9/1997 đã hoàn toàn định hình con đường cải cách kinh tế ở Trung Quốc. Để đáp lại sự bất an trong một số giới về vai trò đang tăng lên nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân, nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân khẳng định là Đảng Cộng sản Trung Quốc không nhất thiết phải kiểm soát tất cả các mặt của nền kinh tế trong khi vẫn trung thành với bản chất của mình.
“Ngay cả khi khu vực nhà nước chỉ chiếm một phần nhỏ trong nền kinh tế,” ông tuyên bố, “thì điều này cũng không ảnh hưởng tới bản chất xã hội chủ nghĩa của đất nước.” Luận điểm của Giang Trạch Dân là khuyến khích khu vực tư nhân phát triển, trong khi tạo ra nền tảng cho giai đoạn quan trọng tiếp theo trong cải cách kinh tế - đó là tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh, thua lỗ hiện đang thuê mướn 110 triệu lao động và chiếm gần 30% GDP công nghiệp. Trong bài phát biểu có một phần mang tên “Giương cao ngọn cờ học thuyết Đặng Tiểu Bình”, Giang Trạch Dân hứa sẽ giảm bớt số lượng những con khủng long nặng nề này và tái cấu trúc chúng thông qua sáp nhập, thải hồi, nâng cấp công nghệ và bán cổ phiếu.
Vào lúc này, mọi con mắt đều đang hướng về một doanh nghiệp nhà nước: China Telecom (Công ty Viễn thông Trung Quốc), được dự kiến sẽ bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng tại Hồng Kông và New York chỉ trong vài tuần tới - một sự kiện chưa từng có ở Trung Quốc. Thỏa thuận trị giá 4,22 tỉ đô-la này ban đầu được thiết kế xung quanh tài sản viễn thông di
động của hai tỉnh duyên hải thịnh vượng của Trung Quốc, nhưng do tính phức tạp và phân mảnh của hệ thống viễn thông của đất nước này mà sau đó phải lập ra một công ty mới tinh để có thể giao dịch.
Thỏa thuận IPO cho thấy quyết định vững chắc của Chu Dung Cơ, người mong muốn China Telecom trở thành hình mẫu nhằm tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước khác. Vị Phó Thủ tướng dày dạn kinh nghiệm này hiểu rằng những vấn đề của cải cách nằm ở các chi tiết cụ thể. Ông cũng nhận thức được IPO có thể tạo ra áp lực ở các công ty mà nếu không có quá trình này thì các nhà quản lý sẽ không sẵn sàng thay đổi, đồng thời hỗ trợ cho việc tái cấu trúc toàn bộ các ngành công nghiệp và các cơ quan điều phối. Làm vậy cũng phần nào loại bỏ những vật cản trên con đường gia nhập WTO đã bị trì hoãn suốt thời gian qua của Trung Quốc và giúp đất nước này sẵn sàng trước việc cạnh tranh với nước ngoài sẽ đến sau đấy.
Nhưng Trung Quốc không phải hoàn toàn đoàn kết đằng sau các cố gắng của Chu Dung Cơ. Ông gặp phải sự chống đối bởi lợi ích nhóm và vấn đề ý thức hệ cùng với sức ì tư tưởng. Nếu IPO của China Telecom thất bại, việc này có thể làm què quặt nỗ lực của đất nước Trung Quốc đang hướng tới một hệ thống mở cửa và mang tính thị trường hơn. Thật không may khi thị trường lại phản ứng tiêu cực và China Telecom được dự định chào bán cho công chúng trong khi một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong cả một thế hệ đang ập vào châu Á. Goldman Sachs là hãng đứng đầu trong việc chào bán này và như vậy là đã ở thế cưỡi hổ.
Các cửa đặt cược đã ở mức cao nhất. Tương lai cải cách ở Trung Quốc và danh tiếng của chúng tôi đều được đặt lên bàn cân.
Điều mỉa mai là Goldman Sachs giành được công việc kinh doanh với China Telecom một phần do việc từ chối một thỏa thuận khác. Vào đầu thập niên 1990, Goldman được Trung Quốc đề nghị giúp tạo ra một ngân hàng đầu tư bằng cách tham gia liên doanh với một ngân hàng thương mại lớn của Trung Quốc. Chúng tôi thực sự rất muốn tham gia thị trường và hoạt động với một phạm vi rộng rãi hơn là công việc cố vấn hay nhà đầu tư nhưng đề xuất này gặp phải một vấn đề: Goldman chỉ được cho phép sở hữu khoảng một phần ba của liên doanh. Một số đồng nghiệp của tôi thích ý tưởng đó. Họ xem việc chúng tôi được người Trung Quốc chào đón như là một cuộc cách mạng lớn từ đó sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn trong tương lai. Tôi thì chống đối kịch liệt đề xuất này. Tôi không muốn tham gia một doanh nghiệp mà chúng tôi không thể kiểm soát được.
Tôi không rõ làm thế nào chúng tôi có thể thành công khi vừa phải bảo đảm chất lượng và cách thực thi của Goldman Sachs, vừa phải giữ vững sự liêm chính và tuân thủ luật pháp ở một nước như Trung Quốc trong khi chỉ ở vị thế thiểu số. Vận hành một doanh nghiệp - bao gồm các công việc tuyển dụng, đào tạo, đưa ra hệ thống đánh giá kết quả, trả lương nhằm củng cố văn hóa làm việc nhóm, phục vụ khách hàng và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức - là những việc đã rất khó khi ở chung một trụ sở tại New York. Nhưng cách xa nửa vòng Trái đất và khi các nhân viên của chúng tôi phải báo cáo với các nhà quản lý không phải nhân sự của Goldman ư? Không đời nào.
Và thế là chúng tôi từ chối lời đề nghị này.
Morgan Stanley thay thế chúng tôi để hợp tác cùng CCB và thành lập ra Công ty Vốn Quốc tế Trung Quốc trong sự tán thưởng ồn ào vào năm 1995. Và rồi rất nhanh chóng, đối thủ lớn của chúng tôi rơi ngay vào cái
bẫy mà tôi đã thấy từ trước. Tôi có thể hình dung được mức độ nghiêm trọng của các vấn đề này khi Vương Kỳ Sơn, lúc này là lãnh đạo CCB, đến gặp tôi tại trụ sở của Goldman ở New York vào tháng 9/1996.
Tôi đã gặp Vương Kỳ Sơn một số lần trước đó và đã có một buổi ăn tối đáng nhớ với ông. Là một người cải cách thực thụ, Vương Kỳ Sơn cũng là một nhân vật đang lên, một người khôn ngoan với các mối quan hệ hoàn hảo. Wendy, vợ tôi cũng đi cùng tôi trong chuyến đi và cùng với một đồng nghiệp ở Goldman, chúng tôi gặp Vương Kỳ Sơn tại một quán ăn ở Bắc Kinh. Mặc dù nói chuyện qua phiên dịch, nhưng cả Wendy và Vương Kỳ Sơn đều rất hứng khởi. Vương Kỳ Sơn là người quảng bác hiếm thấy: ông có thể trao đổi với Wendy về các lý thuyết giáo dục và mổ xẻ về lịch sử và văn hóa của Trung Quốc, châu Âu và Mỹ trong khi các video nhạc pop Trung Quốc chạy liên tục trên màn hình TV ở góc phòng. Sau cùng, ông nói với Wendy: “Xin lỗi bà Paulson. Tôi có thể mượn chồng bà một lát được không?” và chúng tôi chuyển chủ đề thảo luận sang tình trạng kinh tế và triển vọng cải cách ở Trung Quốc. Do mối quan hệ của ngân hàng của ông với Morgan Stanley, tôi đã coi ông như một đối thủ cạnh tranh, mặc dù là đối thủ duyên dáng hiếm thấy.
Thế cho nên tôi không chuẩn bị cho điều sẽ xảy ra khi Vương Kỳ Sơn bước vào văn phòng của tôi ở New York vài năm sau đó. Trước tiên, ông vạch ra kế hoạch của Trung Quốc trong việc cải cách khu vực viễn thông và bán cổ phiếu thông qua IPO, xác nhận các báo cáo chúng tôi được biết vào mùa hè trước đó là chính phủ Trung Quốc đang trông đợi việc cổ phần hóa sẽ sớm xảy ra - có thể vào khoảng ngày 1/7/1997, khi Hồng Kông được chuyển giao cho Trung Quốc.
Đó là một vụ làm ăn mà bất cứ ngân hàng đầu tư nào cũng muốn có. Việc chào bán China Telecom hứa hẹn sẽ là một sự kiện có tính bước ngoặt. Không chỉ huy động vốn, vụ làm ăn này sẽ “tạo thương hiệu” cho Trung Quốc trên thị trường toàn cầu và mở ra lối đi cho việc chào bán cổ phiếu tại các doanh nghiệp nhà nước khác. Nó cũng sẽ đánh dấu sự mở đầu trong chương trình tái cơ cấu rộng hơn cấu trúc hạ tầng viễn thông của Trung Quốc. Có thể nhìn trước một cách dễ dàng những hoạt động bổ sung sau đấy như huy động vốn cổ phần và nợ, sáp nhập công ty - khi mà thị trường viễn thông Trung Quốc phát triển và có được hình thức hiện đại hơn.
Vương Kỳ Sơn chỉ rõ rằng ngân hàng đầu tư hàng đầu của Trung Quốc, CICC, chắc chắn sẽ đóng vai trò lớn trong vụ làm ăn này. Sau đó ông thả trái bom tấn lên tôi.
“Chúng tôi cần có một ngân hàng toàn cầu hàng đầu thế giới tham gia vụ này.” Ông nói, “và tôi muốn đó là Goldman Sachs.”
“Chúng tôi không muốn gì hơn là làm việc với các ông,” tôi nhanh chóng đáp lời. Nhưng tôi cũng không tránh được việc nói thêm, “nhưng tôi không rõ ông có thể làm việc với chúng tôi như thế nào khi Morgan Stanley hiện đang là đối tác của các ông.”
“Tôi hiểu ý của ông,” ông trả lời đơn giản. “Nhưng tôi đã quyết định sẽ làm việc với Goldman Sachs.”
Tuyên bố của Vương Kỳ Sơn làm tôi ngạc nhiên. Cho dù người Trung Quốc đang gặp phải vấn đề gì với Morgan Stanley đi nữa - và chúng tôi cũng nghe phong thanh những tin đồn về mâu thuẫn nội bộ tại CICC - thì họ hiện vẫn là đối tác của nhau và tôi đã cho rằng Morgan Stanley có được lợi thế tay trong cho vụ làm ăn này.
Vương Kỳ Sơn là lãnh đạo Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, chứ không phải lãnh đạo Bộ Bưu chính Viễn thông, khách hàng thực sự mà chúng tôi phải làm việc cùng. Nhưng như một đồng nghiệp ở Goldman của tôi sau này nói về Vương Kỳ Sơn, “ông ấy chưa bao giờ là một chủ ngân hàng thuần túy.” Trong thương vụ China Telecom, điều quan trọng không phải chuyện ông là lãnh đạo của CCB. Điều quan trọng là ông nhận nhiệm vụ bán China Telecom từ Phó Thủ tướng Chu Dung Cơ, người mong rằng thỏa thuận này sẽ mở đường cho công cuộc cải cách và tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ của Trung Quốc. Vương Kỳ Sơn làm việc cho Chu Dung Cơ và cho Trung Quốc, ông cũng đưa ra các quyết định của mình từ đó. Chu Dung Cơ dựa vào một mạng lưới các đồng minh và người ủng hộ, những người cam kết thực hiện cải cách, có động lực và khả năng hành động vượt qua sức ì quan liêu và sự chống đối chính trị để thúc đẩy thay đổi khi mà thời gian và động lực đang còn thuộc về họ. Và Vương Kỳ Sơn nổi lên như một trong các trợ thủ đắc lực của Chu Dung Cơ.
Tại sao người Trung Quốc lại không hài lòng với Morgan Stanley? Theo cảm giác của tôi thì đó là do văn hóa và vấn đề truyền thông: hai bên tiếp cận sự hợp tác liên doanh mang theo các kỳ vọng khác nhau và không bên nào là hoàn toàn hiểu phía bên kia muốn gì. Có thể Morgan Stanley muốn điều hành một doanh nghiệp địa phương thành công, theo đuổi các hoạt động kinh doanh nội địa Trung Quốc mà các ngân hàng thuần túy nước ngoài không được phép hoạt động. Đó là lợi thế mà liên doanh tạo ra cho họ. Vương Kỳ Sơn lại có một mục tiêu lớn hơn: ông muốn hiện đại hóa đất nước. Như một trong những nhà đàm phán chủ chốt của Trung Quốc sau này giải thích cho tôi, Vương Kỳ Sơn lúc đầu còn không quan
tâm tới việc CICC có tạo ra lợi nhuận hay không. Thành công sẽ được đo lường ở mức độ mà CICC giúp cho quá trình cải cách ở Trung Quốc. Trong khi Morgan Stanley xem CICC như một công ty hoạt động nội bộ ở Trung Quốc thì người Trung Quốc lại trông vào nó như một ngân hàng chuyên doanh toàn cầu hàng đầu của họ. Vương Kỳ Sơn trăn trở với việc làm thế nào để một tổ chức tài chính Trung Quốc có thể phát triển ở phạm vi toàn cầu và trở thành ngang hàng với các ngân hàng đầu tư phương Tây. Khi Vương Kỳ Sơn và Phương Phong Lôi, Phó Tổng giám đốc của CICC, tiếp cận Morgan Stanley trong vụ China Telecom, họ nhận được câu trả lời rằng ngân hàng có trụ sở chính ở New York này đã có sẵn các kênh riêng của mình ở Trung Quốc và không cần tới việc đối tác của họ tham gia thương vụ niêm yết quốc tế. Các chuyên gia ngân hàng của Morgan Stanley không tin tưởng vào khả năng IPO với China Telecom có thể xảy ra và cả trong trường hợp nó có xảy ra thì họ cũng dự kiến là tầm cỡ của thương vụ nhỏ. Đó lại không phải là điều người Trung Quốc nghĩ đến. Bài học mà tôi rút ra là bạn cần phải lắng nghe thật kỹ những gì mà đối tác của bạn thực sự nói về điều họ muốn và - trừ khi yêu cầu này không hợp lý hay phi đạo đức - cố gắng hết sức để đáp ứng các mục tiêu của họ hay thuyết phục họ là những mục tiêu đó bất khả thi. Điều này đúng ở khắp mọi nơi, nhưng đặc biệt là ở Trung Quốc, nơi rất dễ để sử dụng cùng những từ và những câu nói như nhau nhưng lại có các ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bạn có thể nghĩ là bạn có cùng mục tiêu với đối tác trong liên doanh nhưng hóa ra là đối tác của bạn lại đang quan tâm tới một thứ gì hoàn toàn khác.
Thậm chí ngay cả từ đối tác cũng là nguồn gốc có thể gây ra hiểu lầm. Người Trung Quốc, như sau này tôi biết, xem việc tham gia liên doanh như
"""