"Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật - Lisa See full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật - Lisa See full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Giới Thiệu Chương 1: Ngồi Yên Lặng Chương 2: Tuổi Thơ Chương 3: Bó Chân Chương 4: Chiếc Quạt Chương 5: Tuyết Hoa Chương 6: Tình Yêu Chương 7: Học Tập Chương 8: Hội Nghênh Phong Chương 9: Mỹ Nguyệt Chương 10: Kiệu Hoa Chương 11: Sự Thật Chương 12: Miếu Cô Bà Chương 13: Con Trai Chương 14: Niềm Vui Và Nỗi Buồn Chương 15: Trong Núi Chương 16: Mùa Đông Chương 17: Lá Thư Lăng Mạ Chương 18: Bay Vào Những Đám Mây Chương 19: Ân Hận TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Vào thế kỷ XIX ở Trung Quốc, tại tỉnh Hồ Nam xa xôi, có một cô gái tên Bách Hệu, ở cái tuổi non nớt ngây thơ lên bảy, được kết lão đồng - mối tình thâm giao giữa hai người phụ nữ tồn tại cho đến hết cuộc đời. Lão đồng của cô, Tuyết Hoa, tự giới thiệu mình bằng cách gửi cho Bách Hệu một chiếc quạt lụa, trong đó cô viết một bài thơ bằng nữ thư, thứ ngôn ngữ độc nhất vô nhị mà phụ nữ Trung Quốc đã sáng tạo ra để có thể bí mật liên lạc với nhau, thoát khỏi sự kiềm toả của nam giới. Năm tháng qua đi, Bách Huệ và Tuyết Hoa đã trao gửi bao lời nhắn nhủ viết trên chiếc quạt và kể cho nhau bao câu chuyện thêu trên khăn tay, vượt thoát khỏi sự cách ly để chia sẻ với nhau những hy vọng, những ước mơ, và những thành quả của cuộc đời mình. Họ đều phải chịu đựng nỗi đau đớn khủng khiếp khi bó chân, cùng nhau suy ngẫm về những cuộc hôn nhân được sắp đặt, chia sẻ với nhau nỗi cô đơn, những niềm vui cùng bi kịch của cuộc đời làm vợ, làm mẹ. Cả hai đều đi tìm sẽ khuây khoả, cùng tạo dựng một thoả ước để giữ cho linh hồn của họ sống sót. Nhưng rồi khi, một hiểu lầm đột ngột xảy đến, tình bạn keo sơn của họ bỗng ở trên bờ vực tan vỡ đau thương… TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 1: Ngồi Yên Lặng Tôi là người mà dân trong thôn gọi là "kẻ lọt sổ tử thần" - một bà góa tám mươi. Sống thiếu chồng, ngày đối với tôi thật dài. Tôi chẳng buồn để ý đến những món ăn đặc biệt mà Mẫu Đơn và người khác dọn cho nữa. Tôi cũng không còn mong chờ những sự kiện vui vẻ đã thành lệ của gia đình. Giờ đây, tôi chỉ đăm đăm hướng về quá khứ. Sau ngần ấy thời gian, cuối cùng tôi cũng đã có thể nói ra những điều mà trước đây, khi còn chịu ơn sinh dưỡng của cha mẹ cũng như ơn nuôi nấng của nhà chồng, tôi không thể. Tôi có cả một cuộc đời để kể lại; tôi chẳng còn gì để mất và cũng chẳng có mấy thứ phải kiêng kỵ. Tôi đã sống đủ lâu để hiểu thấu những cái hay cái dở của bản thân, mà cái hay cái dở đó xét cho cùng cũng chỉ là một. Suốt cả cuộc đời tôi luôn khao khát tình yêu. Tôi biết khát khao và mong đợi điều đó thì thực không phải đạo chút nào, cả khi còn con gái lẫn khi đã trở thành đàn bà, nhưng tôi vẫn khao khát, và chính cái khát vọng không chính đáng này là gốc rễ của mọi muộn phiền trong cuộc đời tôi sau này. Tôi từng ước mơ rằng mẹ sẽ chú ý đến tôi, rằng bà và mọi người trong gia đình sẽ dần yêu thương tôi. Để giành được tình cảm của họ, tôi đã tỏ ra biết vâng lời - một phẩm chất lý tưởng cho những người thuộc giới nữ như tôi - nhưng tôi lại quá sẵn sàng làm bất kỳ điều gì họ bảo. Hy vọng họ sẽ tỏ ra ân cần với tôi dù chỉ là chút ân cần nhỏ bé nhất, nên tôi đã cố gắng đáp ứng mong mỏi của họ - phải có được một đôi chân bó vào loại nhỏ nhất vùng - vì thế tôi chấp nhận để cho người ta bóp vỡ xương ra rồi khuôn lại thành một hình dạng đẹp hơn. Khi nhận ra mình không thể chịu đựng thêm một phút đau đớn nào nữa, nước mắt tôi rơi xuống đôi chân bị bó nhuộm máu, mẹ thì thầm vào tai động viên tôi cố vượt qua thêm một giờ, một ngày, rồi một tuần nữa, nhắc tôi nghĩ đến những phần thưởng tôi sẽ được hưởng nếu cố thêm chút nữa. Cứ như thế, mẹ dạy tôi cách chịu đựng - không chỉ những đau đớn về thể xác như việc bó chân hay sinh nở, mà còn là những nỗi đau day dứt hơn trong tâm, trong trí và trong hồn. Mẹ cũng chỉ ra những nhược điểm của tôi và hướng dẫn tôi làm thế nào để biến chúng thành lợi thế. Ở đất nước tôi, người ta bảo những người như mẹ là thống ái. Con trai tôi bảo rằng về chữ viết thì từ thống ái gồm hai chữ, thống nghĩa là nỗi đau, ái nghĩa là yêu. Đó là tình yêu của người mẹ. Việc bó chân không chỉ làm biến đổi đôi chân tôi mà còn biến đổi toàn bộ cá tính của tôi, và theo một cách kỳ lạ nào đó, tôi cảm thấy dường như quá trình đó vẫn tiếp diễn suốt cả đời mình, biến tôi từ một con bé yếu đuối thành một cô gái cả quyết, rồi từ một người phụ nữ trẻ tuyệt đối phục tùng nhà chồng trở thành người đàn bà có địa vị thuộc hàng cao nhất trong huyện, thi hành những luật lệ và tập tục thôn xã hà khắc. Cho đến năm bốn mươi tuổi, sự cứng rắn khi bó chân từ đôi gót sen ba tấc đã ăn sâu vào trái tim tôi, vốn vẫn khư khư giữ lấy những ký ức về sự bất công và lòng oán hận dai dẳng đến độ tôi không bao giờ có thể tha thứ cho những người tôi yêu và cho những người yêu tôi. Sự nổi loạn duy nhất của tôi bộc lộ ở nữ thư, thứ chữ viết bí mật của nữ giới chúng tôi. Vụ vượt rào đầu tiên của tôi là vào lúc Tuyết Hoa - lão đồng của tôi, người bạn viết thư bí mật của tôi - gửi cho tôi một chiếc quạt đang nằm trên bàn của tôi đây, và rồi tiếp tục viết thư cho tôi trên chiếc quạt sau khi chúng tôi gặp nhau. Tuy vậy, ngoài lúc ở bên Tuyết Hoa ra, tôi quyết tâm trở thành người vợ đảm, nàng dâu thảo, và người mẹ hiền. Vào những thời kỳ khó khăn, trái tim tôi trở nên rắn như đá vững như đồng. Tôi có một sức mạnh tiềm tàng để chống chọi với đau khổ và bi kịch. Nhưng giờ tôi lại đang ở đây, là một quả phụ, ngồi im lặng theo truyền thống, và tôi hiểu rằng mình đã mù quáng suốt bao năm ròng. Ngoại trừ ba tháng khủng khiếp vào năm thứ năm thời vua Hàm Phong, tôi sống trong căn buồng phụ nữ ở trên gác. Vâng, tôi đã đi đến Miếu Cô Bà, quay trở lại nơi chôn nhau cắt rốn, thậm chí đến thăm Tuyết Hoa, nhưng tôi chẳng biết gì ngoài địa hạt của mình. Tôi nghe đàn ông bàn luận về thuế má, về hạn hán, về những cuộc nổi dậy; nhưng những chủ đề ấy quá xa vời với cuộc sống của tôi. Những gì tôi có thể làm là thêu thùa, may vá, nấu nướng, chăm lo cho gia đình chồng, con cái, cháu chắt tôi, và viết nữ thư. Cuộc đời tôi là một cuộc đời diễn tiến tuần tự bình lặng - thời ấu thơ, tuổi vấn tóc cài trâm, những tháng ngày gạo muối, và giờ đây là chuỗi ngày ngồi im lặng. Vậy nên, giờ tôi ngồi đây một mình với những ý nghĩ và chiếc quạt trước mặt. Khi tôi nhấc nó lên, thật kỳ lạ, tôi thấy nó nhẹ bẫng trên tay tôi, bởi nó đã ghi dấu biết bao sướng vui, biết bao đau buồn. Tôi xòe nó ra, và mỗi thanh âm mà các nếp gấp tạo ra lại gợi tôi nhớ về những rung động của trái tim. Những ký ức vụt qua trước mắt tôi. Bốn mươi năm nay, tôi đã đọc đi đọc lại biết bao lần đến mức thuộc lòng như những bài hát của tuổi thơ. Tôi còn nhớ cái ngày bà mối đưa nó cho tôi. Những ngón tay tôi run run khi mở các nếp gấp. Rồi tôi thấy một vòng lá giản dị được trang trí ở mép quạt và một dòng thư từ từ lộ ra sau nếp gấp đầu tiên. Lúc đó, tôi không biết nhiều chữ trong nữ thư cho lắm, nên thím tôi đã đọc cho tôi nghe. "Mình được biết trong nhà bạn có một cô bé tính tình thùy mị nết na, hiểu đạo công dung ngôn hạnh. Bạn và mình sinh cùng ngày, cùng năm. Sao chúng ta không trở thành đôi bạn tương giao của nhau nhỉ?" Bây giờ tôi nhìn vào cái nhúm lông mềm mại đã viết nên những dòng chữ này và không chỉ thấy lại Tuyết Hoa thời con gái mà còn nhìn thấy Tuyết Hoa khi đã trở thành một người đàn bà - người đàn bà bền bỉ, thẳng thắn và vị tha. Tôi đưa mắt nhìn theo những nếp gấp và thấy lại sự lạc quan phơi phới và niềm vui của chúng tôi, sự ngưỡng mộ lẫn nhau và những điều chúng tôi đã hứa với nhau. Tôi thấy chiếc vòng đơn giản này đã trở thành một kết cấu tinh xảo bằng những bông tuyết xen kẽ với bông huệ để tượng trưng cho cuộc đời của chúng tôi song hành bên nhau như một cặp lão đồng ra sao. Tôi thấy vầng trăng chênh chếch về bên phải trên bầu trời đang rọi xuống chúng tôi. Chúng tôi tựa như đôi cây dây leo rễ quấn vào nhau, như đôi cây cổ thụ đã đứng đó hàng nghìn năm, như đôi uyên ương làm bạn với nhau suốt cuộc đời. Trong một nếp gấp, Tuyết Hoa viết, chúng ta yêu thương nhau thắm thiết và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa xa. Nhưng trong một nếp gấp khác, tôi thấy những hiểu lầm, niềm tin đổ vỡ, và cuối cùng cánh cửa khép lại. Với tôi, tình yêu là thứ tài sản quý báu mà tôi sẽ không thể chia sẻ cho bất kỳ ai, và rốt cuộc chính điều đó đã khiến tôi với người bạn giống tôi ấy chia lìa nhau. Tôi vẫn đang tiếp tục học về tình yêu. Tôi nghĩ là tôi hiểu được nó - không chỉ tình mẫu tử, mà còn là tình yêu với song thân, tình phu phụ và cả tình cảm với lão đồng nữa. Tôi đã trải nghiệm nhiều kiểu tình cảm khác nhau - nỗi trắc ẩn, sự kính trọng, lòng biết ơn. Nhưng nhìn vào những bức thư mà tôi và Tuyết Hoa đã viết cho nhau trên chiếc quạt bí mật trong nhiều năm, tôi nhận ra rằng mình đã không biết quý trọng thứ tình yêu quan trọng nhất - tình yêu từ sâu thẳm con tim. Trong những năm cuối đời này, tôi ghi lại tiểu sử hộ nhiều người phụ nữ khác chưa từng học nữ thư. Tôi lắng nghe mọi nỗi buồn và lời than vãn, mọi bất công và bi kịch. Tôi đã chép lại cuộc đời bất hạnh của những con người khốn khổ theo niên đại. Tôi lắng nghe tất cả và ghi lại tất cả. Nhưng nếu như tôi biết nhiều về chuyện của đàn bà, thì tôi lại hầu như chẳng biết chút nào về chuyện của đàn ông, trừ chuyện họ không phải là anh nông dân chống chọi với thiên nhiên thì là người lính trên chiến trường, hoặc một người cô độc đang tự vấn chính mình... Nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy và con người mà tôi cần phải trở thành. Tôi viết những trang này cho những người đang an nghỉ dưới suối vàng. Mẫu Đơn, cháu dâu tôi, hứa chắc chắn sẽ đốt hết tất cả ngay khi tôi nhắm mắt xuôi tay, vì thế câu chuyện của tôi sẽ đến với họ trước cả linh hồn tôi. Hãy để những lời này giải thích cho hành động của tôi với ông bà tổ tiên tôi, với chồng tôi, nhưng trên hết là với Tuyết Hoa, trước khi tôi gặp lại họ. điều đó được rút ra từ chính những câu chuyện về đàn ông và đàn bà. Tôi chỉ là một người đàn bà hèn mọn với những ta thán đời thường, nhưng trong thâm tâm tôi cũng diễn ra một cuộc vật lộn như cuộc vật lộn của đàn ông, giữa bản chất đích thực của tôi. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 2: Tuổi Thơ Tôi tên là Bách Huệ. Tôi chào đời ngày mùng năm tháng Sáu năm Đạo Quang thứ ba. Thôn tôi, Phủ Vĩ, thuộc huyện Vĩnh Minh - cái tên có ý nghĩa là sự Sáng ngời Vĩnh cửu. Hầu hết mọi người ở đây đều thuộc tộc người Dao. Hồi còn bé, tôi thường được nghe những người kể chuyện rong ngang qua Vĩnh Minh kể rằng người Dao đặt chân đến vùng này lần đầu tiên cách đây khoảng một ngàn hai trăm năm vào thời kỳ nhà Đường, nhưng phải một thế kỷ sau thì hầu hết các dòng họ mới đến đây định cư, khi họ chạy trốn quân xâm lược Mông Cổ từ phương Bắc tràn sang. Mặc dù, người trong vùng này chưa có ai là cự phú nhưng hiếm khi chúng tôi túng thiếu đến độ buộc phụ nữ phải làm việc đồng áng. Gia đình tôi là con cháu họ Di, một trong những thị tộc người Dao đầu tiên và đông đảo nhất xứ này. Cha và chú tôi thuê bảy mẫu đất từ một địa chủ giàu có sống ở phía Tây của huyện. Họ trồng nhiều loại cây như lúa, bông, khoai môn, rau củ. Ngôi nhà của gia đình tôi nổi bật vì có hai nhà kho quay về hướngNam. Có một căn buồng trên gác là nơi sinh hoạt của đám đàn bà con gái trong nhà và cũng là phòng ngủ cho các cô con gái chưa chồng. Các phòng dành cho từng gia đình riêng và một cái chuồng đặc biệt nhốt gia súc nằm bên hông căn phòng chính nơi để những rổ trứng, rổ cam và những xâu ớt khô treo trên thanh rầm chính để tránh chuột, gà, hay một chú lợn chạy rông nào đó. Có một cái bàn và mấy cái ghế đẩu kê sát vách tường. Bếp lò dùng cho việc nấu nướng của thím và mẹ được sắp xếp ở một góc chỗ bức tường đối diện. Căn phòng chính của nhà tôi không có cửa sổ, vì thế, cửa chính luôn được mở ra để đón ánh sáng và khí trời vào những tháng ấm áp. Các căn phòng còn lại thì rất nhỏ, sàn nhà bằng đất nện, và, như tôi đã nói ở trên, lũ gia súc sống cùng với chúng tôi. Tôi không bao nghĩ ngợi xem liệu mình có hạnh phúc không, hoặc liệu mình có được những thú vui của một đứa trẻ hay không. Tôi chỉ là một cô gái bình thường, sống trong một gia đình bình thường, ở một thôn cũng bình thường nốt. Tôi không biết tới cách sống nào khác, mà tôi cũng chẳng bận tâm về điều đó. Thế nhưng, tôi vẫn nhớ cái ngày tôi bắt đầu để ý và suy nghĩ về mọi thứ xung quanh. Tôi vừa lên năm và cảm thấy cứ như thể mình vừa bước qua một cái ngưỡng lớn. Tôi tỉnh giấc trước rạng đông với ý nghĩ nào đó cứ nhồn nhộn trong đầu. Chút kích thích ấy khiến tôi chú ý đến mọi thứ tôi nhìn thấy hay nghe thấy suốt ngày hôm đó. Tôi nằm giữa chị cả và em ba. Tôi liếc sang giường ngủ của đứa em con chú. Mỹ Nguyệt, cùng tuổi với tôi, nó vẫn chưa thức, vì vậy tôi tiếp tục nằm im, chờ các chị em khua dậy. Tôi quay sang đối diện chị tôi, lớn hơn tôi bốn tuổi. Mặc dù ngủ chung với nhau nhưng tôi không hiểu chị lắm, cho tới khi tôi bị bó chân và được bước vào buồng dành cho đàn bà con gái. Tôi mừng vì không quay sang phía em ba. Tôi luôn tự nhủ rằng, nó ít hơn mình một tuổi nên không cần phải bận tâm về nó. Tôi không nghĩ rằng em ba ngưỡng mộ tôi, nhưng chúng tôi tỏ ra thờ ơ với nhau là để nhằm che đậy những khát khao thực sự. Chúng tôi đều mong được mẹ quan tâm. Chúng tôi đều ganh đua để được bố chú ý. Chúng tôi còn ao ước ngày nào cũng có thời gian để được ở bên anh trai mình, vì anh là con trai cả nên được yêu quý nhất nhà. Tôi không hề có cảm giác ghen tỵ kiểu như vậy với Mỹ Nguyệt. Chúng tôi là chị em tốt của nhau, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc vì được sống chung trong một mái nhà cho đến khi đi lấy chồng. Anh em chúng tôi trông rất giống nhau. Mái tóc đen cắt ngắn, thân hình gầy guộc, và đều dong dỏng cao. Tuy nhiên, chúng tôi lại chẳng có mấy nét để phân biệt với nhau. Chị tôi có nốt ruồi trên môi. Em ba thì luôn búi tóc thành một búi nhỏ, vì nó không thích mẹ chải tóc của nó. Mỹ Nguyệt có khuôn mặt tròn trịa xinh xắn, còn tôi sở hữu đôi chân chắc nịch do chạy nhảy và đôi tay khỏe nhờ bế em trai. "Mấy đứa con gái đâu," mẹ gọi với lên gác. Thế cũng đủ đánh thức mấy chị em dậy và lôi cả bọn tôi ra khỏi giường. Chị tôi nhanh chóng mặc quần áo và chạy ngay xuống nhà. Tôi và Mỹ Nguyệt chậm chân hơn vì chúng tôi không chỉ phải mặc quần áo cho chính mình mà còn phải lo mặc quần áo giúp em ba. Sau đó, chúng tôi mới cùng nhau xuống dưới nhà. Thím tôi đang quét dọn nhà cửa, chú tôi đang hát bài buổi sáng quen thuộc. Mẹ, địu em trai trên lưng, đang rót nước cuối vào ấm trà để làm nóng trà, và chị tôi đang thái hành tươi cho vào món cháo đặc, mà chúng tôi gọi là xí phạn. Chị tôi bình thản nhìn tôi, khiến tôi hiểu rằng chị muốn nói là chị đã làm hài lòng mọi người trong gia đình vào buổi sáng nay rồi và chị sẽ hoàn toàn an tâm suốt cả ngày. "Mỹ Nguyệt, Bách Huệ, lại đây nào!" Sáng nào, thím cũng chào chúng tôi như thế. Chúng tôi chạy đến chỗ thím. Thím hôn Mỹ Nguyệt và âu yếm vỗ vào mông tôi. Chú tôi cúi xuống bế Mỹ Nguyệt lên rồi hôn nó. Sau khi đặt nó xuống, ông nháy mắt với tôi và bẹo má tôi một cái. Bạn có biết câu tục ngữ nồi nào úp vung nấy không? Sáng hôm ấy, tôi kết luận rằng chú thím tôi là một cặp xấu như nhau và họ quả là xứng đôi. Chú tôi chân vòng kiềng, đầu hói, còn mặt thì tròn phính bóng loáng. Thím cũng phúng phính, cộng thêm hàm răng như những rìa đá lởm chởm chỉa ra từ cái hang đá. Đôi chân bó của thím chẳng nhỏ tẹo nào, nó dài chừng mười bốn phân, gấp đôi bàn chân bó hoàn chỉnh của tôi sau này. Tôi nghe mấy người độc mồm độc miệng trong thôn nói đó là lý do khiến một người khỏe mạnh hông nở như thím vẫn không đẻ được con trai. Tôi chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ lời chỉ trích nào như thế trong nhà, đặc biệt là từ chú tôi. Với tôi, họ có một cuộc hôn nhân hoàn hảo: chú tôi là người chồng tuổi chuột dạt dào tình yêu thương còn thím tôi là người vợ tuổi trâu biết làm tròn bổn phận. Ngày ngày họ đem đến niềm hạnh phúc cho cả gia đình. Mẹ không nhận thấy có tôi ở trong phòng. Mọi việc diễn ra như vậy trong chừng mực mà tôi còn nhớ được, nhưng chính vào ngày hôm ấy tôi đã nhận ra và cảm thấy rằng mẹ không đếm xỉa gì tới mình. Một nỗi buồn ăn sâu vào tim tôi, làm tan biến đi niềm vui mà tôi vừa có được từ chú thím, điều đó khiến tôi choáng váng. Nhưng cảm giác ấy cũng tan đi rất mau khi anh trai tôi, hơn tôi sáu tuổi, nhờ tôi giúp anh ấy làm công việc nhà buổi sáng. Cầm tinh con ngựa, từ trong bản tính tôi vốn rất thích những hoạt động ngoài trời, nhưng quan trọng hơn là, tôi muốn anh trai hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi biết mình may mắn và các chị em tôi sẽ chống lại tôi. Nhưng tôi mặc kệ. Khi anh ấy trò chuyện hay mỉm cười với tôi, tôi lại cảm thấy mình được hiện diện. Chúng tôi chạy ra ngoài. Anh tôi kéo nước dưới giếng đổ đầy mấy cái xô và chúng tôi xách đi. Chúng tôi xách nước về nhà, rồi lại chạy ra ngoài nhặt củi. Chúng tôi chất củi thành một đống, và anh trai đặt vào tay tôi một ôm củi toàn những cành nhỏ hơn. Anh xốc đống củi to kia lên, rồi chúng tôi cùng đi về nhà. Về đến nhà, tôi đưa ôm củi nhỏ cho mẹ, chờ một lời khen. Xét cho cùng thì với một đứa bé gái, để xách được một xô nước hay đi nhặt củi thực chẳng dễ chút nào. Nhưng, mẹ chẳng hề nói gì. Ngay cả bây giờ, sau ngần ấy năm trôi qua, tôi vẫn thấy khó hiểu về mẹ, về cái điều tôi đã nhận ra vào ngày hôm đó. Rõ ràng đối với mẹ, tôi chẳng quan trọng chút nào. Tôi là đứa con thứ ba, và là đứa con gái vô giá trị thứ hai, quá nhỏ bé không đáng để mẹ phải phí thời giờ và cho tới khi có vẻ như tôi đã sống sót qua những tháng năm thơ sữa. Mẹ nhìn tôi như cách những bà mẹ khác nhìn con gái mình - như là khách qua đường phải hao cơm tốn vải nuôi không cho đến lúc về nhà chồng. Tôi đã lên năm, đủ lớn để biết rằng mình không đáng được mẹ quan tâm, nhưng đột nhiên tôi lại thấy thèm khát điều đó. Tôi tha thiết mong mẹ nhìn tới và trò chuyện với mình như mẹ vẫn làm với anh trai. Nhưng ngay cả trong khoảnh khắc của nỗi khát khao đầu đời thực sự tha thiết ấy, tôi vẫn đủ khôn ngoan để nhận ra rằng mẹ không hề muốn tôi làm phiền bà trong cái lúc bận bịu này - đây là thời điểm bà rất hay quát mắng tôi vì tôi nói ầm ĩ hoặc phẩy phẩy mạnh tay quanh chỗ tôi chơi vì tôi làm vướng víu bà. Còn tôi thì nguyện sẽ giống như chị gái, giúp đỡ mẹ một cách chu đáo và lặng lẽ. Bà nội tôi loạng choạng đi vào phòng. Mặt bà trông như trái mận khô, lưng bà khòng xuống đến độ mặt tôi và mặt bà ngang tầm nhau. "Giúp bà đi," mẹ tôi ra lệnh "xem bà cần gì." Mặc dù đã tự hứa với chính mình, nhưng tôi vẫn e ngại. Sáng ra, lợi của bà nội tôi nhớp nháp và chua lòm, nên không ai muốn đến gần bà. Tôi rón rén đến bên bà và nín thở, nhưng bà xua tay lia lịa. Tôi đi nhanh đến độ tông cái rầm vào bố tôi - thành viên thứ mười một và là người quan trọng nhất trong gia đình tôi. Bố không hề quở trách tôi, và cũng không nói gì với ai cả. Theo tôi biết, bố sẽ không nói gì cho đến khi ngày qua đi. Ông ngồi xuống và chờ được phục vụ. Tôi chăm chú nhìn mẹ khi bà lẳng lặng rót trà cho bố. Có thể tôi sợ bà sẽ lại để ý đến tôi như lệ thường vào mỗi buổi sáng, nhưng bà mải chú tâm vào chuyện xử sự với bố hơn. Bố rất hiếm khi đánh mẹ, ông cũng không bao giờ lấy thêm vợ bé, nhưng sự cẩn trọng của bà khiến bọn tôi để ý. Thím tôi sắp bát lên bàn và dùng muỗng múc cháo ra, còn mẹ tôi thì cho em bú. Sau khi cả nhà ăn uống xong, bố và chú ra đồng, còn mẹ, thím, bà nội và chị gái tôi thì lên cái buồng dành riêng cho phụ nữ ở trên gác. Tôi muốn được đi theo mẹ và mọi người nhưng chưa đến tuổi. Tệ hơn là giờ đây tôi còn phải cùng anh trai trông em trai út và em ba khi chúng tôi ra ngoài. Tôi cõng em trai trên lưng khi chúng tôi đi cắt cỏ và đào rễ cây cho lợn. Em ba cố bám theo chúng tôi. Nó là đứa bé xấu tính và buồn cười. Nó đụng đâu hỏng đấy, trong khi những người duy nhất có thể làm thế là anh trai và em trai. Nó nghĩ nó là đứa được cưng nhất nhà, mặc dù không có gì cho thấy điều đó là đúng cả. Khi đã làm xong việc nhà, bốn đứa nhỏ tụi tôi đi lòng vòng trong thôn, đi ra đi vào mấy con ngõ giữa những ngôi nhà trong xóm cho đến khi thấy một đám con gái đang chơi nhảy dây. Anh trai tôi dừng lại, bế em cho tôi, và bảo tôi hãy vào nhảy dây cùng bọn chúng. Sau đó, chúng tôi về ăn cơm trưa - vẫn những món đơn sơ, chỉ cơm và rau. Sau đó, anh trai tôi ở lại với bố và chú tôi, còn chúng tôi kéo hết lên gác. Mẹ lại cho em bé bú, rồi nó và em ba nằm ngủ trưa. Dù mới ngần ấy tuổi, tôi vẫn thích được ở trong căn buồng dành cho đàn bà con gái với bà nội, thím, chị gái, cô em họ và đặc biệt là mẹ tôi. Mẹ và bà nội dệt vải, còn tôi và Mỹ Nguyệt quấn chỉ, thím tôi, bút lông và mực trong tay, đang ngồi nắn nót viết những nét chữ bí mật, chị gái tôi đang đợi bốn người chị em kết nghĩa đến thăm vào buổi chiều. Chẳng mấy chốc bọn tôi đã nghe thấy tiếng bốn đôi chân bó nhẹ nhàng bước lên gác. Chị tôi ôm thắm thiết từng cô bạn, sau đó năm người bọn họ kéo nhau vào một góc. Họ không muốn tôi hóng hớt, nhưng tôi vẫn tìm hiểu họ vì tôi biết rằng hai năm nữa mình cũng sẽ được là thành viên trong một nhóm chị em kết nghĩa kiểu này. Mấy cô bạn của chị tôi đều ở Phủ Vĩ cả, thế tức là bọn họ có thể gặp gỡ thường xuyên, chứ không chỉ là vào những ngày hội đặc biệt như hội Nghênh Phong hay hội Đuổi Chim. Hội chị em kết nghĩa được lập ra khi bọn con gái lên bảy. Để thắt chặt thêm mối quan hệ này, bố của mỗi đứa trong nhóm sẽ đóng góp hai mươi lăm cân thóc, số thóc đó được để ở nhà tôi. Sau đó, khi mỗi đứa đi lấy chồng phần lúa đã đóng góp sẽ được bán ra để các chị em kết nghĩa mua quà cho cô ta. Phần lúa cuối cùng còn lại sẽ được bán đi vào dịp cô gái cuối cùng trong nhóm lấy chồng. Điều này đánh dấu việc tan rã của hội chị em kết nghĩa vì các cô gái đều đi lấy chồng ở những thôn xa, ở đó họ sẽ quá bận bịu với con cái và phải tuân theo sự sai bảo của mẹ chồng nên chẳng còn thời gian dành cho bạn bè xưa cũ. Ngay cả với những người bạn của mình, chị tôi cũng không gắng thu hút chú ý. Chị điềm tĩnh ngồi bên những cô gái khác khi họ thêu thùa và kể những câu chuyện khôi hài. Khi họ chuyện gẫu và rúc rích hơi to lên là mẹ tôi liền nghiêm nghị ra hiệu cho họ im lặng, một ý nghĩ mới mẻ chợt xuất hiện trong đầu tôi: mẹ tôi chưa bao giờ làm như vậy khi những chị em kết nghĩa tuổi xế bóng của bà nội đến chơi. Khi con cái đã lớn khôn, bà nội tôi được mời vào một nhóm chị em kết nghĩa ở Phủ Vĩ. Chỉ hai người trong số họ cùng với bà nội tôi, cả ba đều góa chồng, là vẫn còn sống cho đến lúc đó. Họ đến chơi nhà tôi mỗi tuần một lần. Họ cười đùa và kể cho nhau nghe những câu chuyện tục tĩu mà bọn con gái chúng tôi không tài nào hiểu được. Trong những lần như vậy, mẹ sợ bà nội đến độ không dám yêu cầu họ dừng lại. Hay cũng có thể vì mẹ quá bận… Mẹ tôi đã dùng hết chỉ và đứng lên đi lấy thêm. Trong một khắc, bà đứng im như tượng và nhìn đăm chiêu. Trong lòng tôi bỗng trỗi dậy một nỗi khát khao suýt chút nữa thì không kiềm chế nổi là muốn sà vào lòng mẹ và kêu toáng lên: Nhìn con đây, nhìn con đây, nhìn con đây này mẹ! Nhưng tôi không làm thế. Bà ngoại bó chân cho mẹ quá tệ. Thay vì là đôi "gót sen ba tấc" bàn chân mẹ trông như một gốc cây nham nhở xấu xí. Thay vì bước đi uyển chuyển thì để giữ thăng bằng mẹ phải chống gậy. Nếu bỏ gậy đi, tay chân mẹ phải khuỳnh cả ra để giữ thăng bằng. Mẹ đứng loạng choạng đến mức khó ai có thể ôm hôn bà được. "Giờ không phải là lúc để Mỹ Nguyệt và Bách Huệ ra ngoài sao chị?" thím tôi hỏi, cắt ngang cơn mơ màng của mẹ, "Hai đứa nó có thể giúp đỡ anh trai làm việc nhà." "Thằng anh nó chẳng cần mấy đứa giúp đâu." "Em biết," thím thừa nhận, "nhưng hôm nay đẹp trời…" "Không," mẹ tôi nghiêm nghị, "tôi không muốn mấy đứa nhỏ lang thang ngoài thôn trong khi chúng nên ở nhà học làm việc nhà." Nhưng thím tôi vẫn kiên trì trong chuyện này. Bà muốn chúng tôi biết rõ các ngõ ngách trong thôn mình, nhìn thấy những gì nằm trên đó, đi ra rìa thôn mà nhìn ngắm, sớm biết rằng tất cả những gì chúng tôi sẽ thấy cũng là những thứ có thể thấy thấp thoáng từ chiếc cửa sổ mắt cáo trong buồng phụ nữ. "Chúng chỉ còn vài tháng này thôi," thím tôi cãi. Thím bỏ đi mà không nói thêm rằng chẳng mấy chốc nữa chân chúng tôi sẽ bị bó, xương sẽ vỡ ra, da thịt bị rữa đi. "Hãy để chúng chạy nhảy khi còn có thể." Mẹ tôi gần như kiệt sức. Bà có năm đứa con, có đứa mới lên năm và hai đứa nữa nhỏ hơn. Bà phải gánh vác toàn bộ việc nhà - giặt giũ, lau chùi, sửa sang nhà cửa, nấu nướng, thậm chí gắng sức lo nốt những khoản nợ của gia đình. Bà có vị thế cao hơn thím, nhưng bà không thể ngày nào cũng tranh cãi về những gì bà cho là cách cư xử đúng đắn. "Thôi được rồi," mẹ thở dài nhẫn nhịn, "thì cho chúng đi." Tôi nắm tay Mỹ Nguyệt và chúng tôi nhảy cẫng lên mừng rỡ. Thím nhanh tay xua bọn tôi ra cửa trước khi mẹ tôi kịp đổi ý, trong khi chị tôi và mấy chị em kết nghĩa của chị ấy nhìn theo mà thèm. Tôi và cô em họ chạy xuống cầu thang và ra ngoài. Chiều muộn là khoảng thời gian tôi thích nhất trong ngày, khi ấy không khí bắt đầu ấm áp và thơm phức, rồi thì những chú ve sầu lại ngân lên điệp khúc quen thuộc của mình. Bọn tôi hối hả chạy ra ngõ, đến khi gặp anh trai tôi đang đưa con trâu của nhà xuống sông. Anh tôi cưỡi lên đôi vai rộng của con trâu, một chân để dưới bụng, chân kia thúc vào sườn. Tôi và Mỹ Nguyệt bước thành hàng một đi sau anh và con trâu qua cái mê cung ngóc ngách trong thôn, cái mê lộ rối rắm sẽ bảo vệ chúng tôi khỏi tà ma và trộm cướp. Bọn tôi không thấy bóng dáng một người lớn nào cả - đàn ông đang đi làm đồng, còn đàn bà thì ngồi sau những ô cửa mắt cáo trong các căn buồng trên gác - nhưng ngõ ngách lại đầy bọn trẻ con và gia súc, gia cầm - gà, vịt, lũ lợn nái núng nính cùng đàn lợn con kêu eng éc bên chân. Chúng tôi rời khỏi thôn và rong chơi trên những con đường nhỏ đắp đất rải đá răm. Con đường chỉ vừa đủ rộng cho người ta đi bộ hay khiêng kiệu, song quá nhỏ để xe bò, hay xe ngựa nhỏ đi qua. Chúng tôi men theo con đường dẫn đến bờ sông Tiêu và dừng lại trước cây cầu đu đưa, vắt ngang qua sông. Bên kia cây cầu, thế giới mở ra trước mắt chúng tôi với vùng đất trồng trọt bao la bát ngát. Trên cao, bầu trời trải ra một màu xanh biếc như lông chim bói cá. Chúng tôi trông thấy những thôn khác thấp thoáng đằng xa - những nơi mà tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ tới trong đời. Rồi chúng tôi đi xuống bờ sông, nơi ngọn gió thổi qua khiến đám sậy xào xạc. Tôi ngồi trên một tảng đá, cởi giày ra, sau đó lội xuống vũng nước nông. Bảy mươi lăm năm đã trôi qua mà tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác bùn len vào giữa những ngón chân tôi, dòng nước trôi qua bàn chân, và cái lạnh thấm qua da. Mỹ Nguyệt và tôi tận hưởng sự tự do thoải mái mà sau này sẽ không bao giờ chúng tôi còn được hưởng nữa. Nhưng tôi nhớ một điều gì đã trở nên rất rõ ràng kể từ ngày hôm đó. Sáng hôm ấy, khi tôi thức dậy lần thứ hai, tôi đã nhìn gia đình mình theo một cách khác hẳn, và họ khơi dậy trong tôi những tình cảm kỳ lạ - u uất, buồn bã, ghen tỵ, và ý thức về sự bất công trong nhiều việc chợt trở nên có vẻ bất công. Tôi để cho dòng nước gột sạch tất cả. Đêm đó, sau bữa tối, chúng tôi ngồi ngoài trời, tận hưởng bầu không khí mát mẻ của buổi đêm, ngắm nhìn bố và chú hút tẩu. Mọi người đều thấm mệt. Mẹ cho em bé bú lần cuối, cố ru nó ngủ. Trông mẹ bơ phờ sau một ngày nội trợ, vậy mà công việc vẫn chưa xong. Tôi vòng tay choàng qua vai mẹ để làm mẹ thấy dễ chịu. "Nóng quá," mẹ nói, rồi nhẹ nhàng đẩy tôi ra. Ắt hẳn bố đã nhận thấy sự thất vọng của tôi, vì vậy ông nhấc tôi vào lòng. Trong màn đêm tĩnh lặng, tôi được bố yêu quý nâng niu. Trong khoảnh khắc đó, tôi như viên ngọc trong tay ông. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 3: Bó Chân Giai đoạn chuẩn bị cho việc bó chân của tôi tốn nhiều thời gian hơn so với dự tính của mọi người. Ở phố thị, những cô gái xuất thân từ tầng lớp trung lưu được bó chân từ lúc lên ba. Ở những nơi cách xa huyện, thỉnh thoảng mới có một số cô gái bó chân để trông quyến rũ hơn đối với người chồng tương lai. Những cô đó phải từ mười ba. Xương chân của họ không bị gãy, đôi chân được bó lỏng, và đến khi lấy chồng, đôi chân họ lại được thả tự do để có thể làm việc đồng áng cùng chồng. Những cô gái nghèo nhất thì hoàn toàn không được bó chân. Chúng ta đều biết cuộc đời họ sẽ ra sao. Họ sẽ được bán làm a hoàn hay "đồng dưỡng tức"_(1) - những cô gái có bàn chân quá khổ xuất thân từ các gia đình bất hạnh được đem bán cho nhà khác để họ nuôi tới khi đủ tuổi sinh con. Nhưng ở cái vùng quê bình thường này, lũ con gái xuất thân từ những gia đình như gia đình tôi bắt đầu được bó chân từ khi lên sáu và kết thúc việc này hai năm sau đó. Ngay từ hồi tôi còn được chạy nhảy vui chơi cùng anh trai, mẹ tôi đã bắt đầu chuẩn bị những mảnh vải dài màu xanh dành để bó chân cho tôi. Tự tay mẹ khâu cho tôi đôi giày đầu tiên, nhưng mẹ còn cẩn thận hơn khi khâu một đôi giày nhỏ xíu để đặt lên bàn thờ Quán Âm - vị Phật Bà lắng nghe mọi đau khổ của phụ nữ. Đôi giày thêu đó chỉ dài ba phân rưỡi làm từ những mảnh lụa đỏ đặc biệt mà mẹ để dành từ đống của hồi môn của mình. Đó là những hành động đầu tiên lờ mờ cho thấy hình như mẹ cũng quan tâm đến tôi. Khi tôi và Mỹ Nguyệt lên sáu, mẹ và thím mời ông thầy đến xem ngày lành tháng tốt để bắt đầu bó chân cho bọn tôi. Họ bảo mùa thu là mùa tốt nhất để bó chân, nhưng thực ra chủ yếu là vì mùa đông sắp đến và trời lạnh sẽ làm chân tê cứng. Tôi có hồ hởi không? Không, tôi sợ. Tôi không nhớ được những ngày đầu khi chị tôi bị bó chân vì lúc đó tôi còn quá nhỏ, nhưng có ai trong thôn này mà không nghe thấy những tiếng hét của con bé nhà họ Ngô trước đây? Mẹ tôi tiếp đón thầy Hồ ở dưới nhà, rót trà, mời ông ta ăn hạt dưa. Mẹ tôi cư xử lịch sự như vậy là để ông thầy phán những điều tốt lành. Ông ta bắt đầu với tôi trước. Ông ta xem ngày sinh của tôi. Qua đó ông ta xem xét những triển vọng. Rồi, ông ta đề nghị, "Tôi cần được tận mắt nhìn thấy tiểu nữ." Đây không phải là trường hợp bình thường, khi mẹ đi tìm tôi, khuôn mặt bà hằn lên nỗi lo lắng. Mẹ dẫn tôi đến chỗ ông thầy. Mẹ giữ tôi đứng trước mặt ông ta.Taymẹ giữ chặt vai tôi, bắt tôi ngồi yên khiến tôi thấy sợ, trong khi đó ông thầy tiến hành xem xét. "Mắt, ổn. Tai, ổn. Cái miệng này..." Ông ta ngước lên nhìn mẹ tôi. "Đây không phải là đứa trẻ bình thường." Mẹ tôi hít vào qua kẽ răng. Đây là thông báo tệ nhất mà một ông thầy có thể thốt ra. "Cần hỏi thêm nhiều ý kiến nữa," ông thầy nói, "Tôi nghĩ chúng ta nên bàn bạc thêm với bà mối, bà thấy sao?" Một số người hẳn đã ngờ rằng ông thầy đang cố moi thêm tiền và có quan hệ làm ăn với bà mối trong vùng, nhưng mẹ tôi thì không hề lưỡng lự chút nào. Mẹ tôi lo sợ - hay bị thuyết phục - đến mức thậm chí không cần hỏi ý kiến bố về việc chi tiền. "Dạ, xin thầy sớm ghé lại," mẹ tôi đáp, "chúng tôi sẽ đợi thầy." Ông thầy ra về, bỏ lại chúng tôi đầy lo lắng. Đêm đó, mẹ tôi hầu như không nói gì. Thật ra, mẹ không nhìn đến tôi. Thím cũng không kể chuyện hài nữa. Bà nội thì đi nghỉ sớm, nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng bà lầm rầm cầu khấn. Bố và chú đi dạo. Bầu không khí căng thẳng bao trùm lên cả nhà, thậm chí anh trai tôi cũng bị ảnh hưởng. Ngày hôm sau, đám đàn bà con gái dậy thật sớm. Lần này, có cả bánh ngọt, trà cúc pha sẵn, và những món ăn đặc biệt được mang ra khỏi tủ. Bố tôi không ra đồng làm mà ở nhà để tiếp khách. Việc phung phí như vậy cho thấy mức độ nghiêm trọng của chuyện này. Tiếp đến, ông thầy không những đưa bà Cao, bà mối của thôn đến mà còn dẫn theo cả bà Vương, bà mối của thôn Thông Khẩu, thôn lớn nhất trong huyện, khiến tình hình càng thêm nghiêm trọng. Chuyện là thế này: ngay cả bà mối của thôn cũng chưa từng đến nhà tôi. Lẽ ra phải tới một, hai năm nữa người ta mới định mời bà ta đến để làm người trung gian cho anh trai tôi khi anh ấy đi hỏi vợ, và cho chị gái tôi khi các nhà khác đi hỏi vợ cho con trai họ. Vì thế, khi kiệu của bà Vương dừng lại trước cửa nhà tôi, không hề có sự vui mừng nào hết. Từ căn buồng phụ nữ, tôi nhìn xuống, thấy hàng xóm kéo ra há hốc miệng nhìn. Bố tôi quỳ lạy, ông dập đầu chạm đất liên tục. Tôi cảm thấy thương ông. Bố là người hay lo - đặc tính của những người tuổi thỏ. Ông lo lắng cho mọi người trong nhà, nhưng điều này vượt quá kinh nghiệm của bố. Chú tôi đổi chân liên hồi, còn thím tôi, thường ngày vẫn nồng nhiệt và vui vẻ là thế, thì đứng im như pho tượng bên cạnh chú. Từ vị trí thuận lợi trên gác, tôi thấy rõ mọi biểu hiện trên khuôn mặt mọi người ở dưới nhà: có điều gì trục trặc ghê gớm. Khi họ đi vào, tôi rón rén đi ra đầu cầu thang để có thể nghe lén xem họ nói gì. Bà Vương tự tìm chỗ cho mình. Trà, bánh và hoa quả bưng ra. Chẳng nghe rõ bố tôi nói gì khi ông thực hiện các nghi lễ trang trọng. Nhưng bà Vương không đến để nói chuyện tầm phào với cái gia đình bé mọn này. Bà ấy muốn gặp tôi. Như hôm qua, tôi được gọi vào phòng. Tôi xuống nhà và vào phòng chính với vẻ duyên dáng của một cô bé lên sáu có đôi bàn chân vẫn còn to và vụng về. Tôi liếc nhìn người lớn trong nhà. Dù có những khoảnh khắc đặc biệt mà khoảng cách thời gian sẽ để những ký ức nằm lại trong bóng tối, nhưng hình ảnh gương mặt mọi người vào cái ngày ấy vẫn rõ mồn một trong tâm trí tôi. Bà nội tôi ngồi nhìn chằm chằm vào đôi tay khoanh lại. Da của bà mỏng đến độ tôi có thể nhìn thấy những đường gân xanh ở thái dương bà. Bố tôi ngồi im lặng, lo phát sốt, không nói câu gì. Chú thím tôi cùng đứng ở ngưỡng cửa, vừa lo sợ sẽ trở thành một phần của những chuyện sắp xảy ra lại vừa sợ để lỡ dịp. Nhưng cái tôi nhớ nhất là khuôn mặt của mẹ tôi. Tất nhiên, với cái nhìn của đứa con gái, tôi tin rằng mẹ tôi đẹp, nhưng hôm ấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy con người thật của mẹ. Tôi biết mẹ cầm tinh con khỉ, nhưng tôi không hề nghĩ rằng những tính cách đặc trưng giả dối và xảo quyệt của nó lại ăn sâu vào bà đến thế. Có điều gì đó bất chính ẩn giấu đằng sau đôi gò má cao vống của bà. Có điều gì đó thâm hiểm được che đậy đằng sau ánh mắt đen tối của bà. Có điều gì đó… tôi vẫn không biết diễn tả thế nào. Tôi muốn nói tới điều gì đó giống như tham vọng của đàn ông toát ra từ con người bằng xương bằng thịt của bà. Mọi nguời bảo tôi đến đứng trước bà Vương. Tôi nghĩ chiếc áo khoác bằng lụa dệt của bà ta rất đẹp, nhưng một đứa trẻ thì không hề có khiếu thẩm mỹ, không biết thẩm định. Bây giờ, tôi sẽ cho thế là lòe loẹt và không phù hợp với một bà góa, nhưng bà mối thì không giống như những người phụ nữ bình thường. Bà ta làm việc với đàn ông, định giá cho cô dâu, mặc cả về của hồi môn, và đảm nhận vai trò người trung gian. Bà ta cười oang oang và ăn nói cứ trơn tuồn tuột. Bà ta bảo tôi đến gần, kẹp chặt tôi giữa hai đầu gối, và nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Trong giây phút đó, từ chỗ chẳng được ai biết đến tôi trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Bà Vương còn tỉ mỉ hơn cả ông thầy. Bà ta véo dái tai tôi, đặt ngón trỏ vào mí mắt dưới và kéo xuống rồi bảo tôi liếc trái, liếc phải, liếc trên, liếc dưới. Bà ta ấp hai má tôi trong tay, xoay mặt tôi ra trước, ra sau. Bà ta nắn bóp tay tôi rất mạnh từ bả vai đến cổ tay. Sau đó, bà ấy đặt tay ngay hông tôi. Tôi mới chỉ là đứa trẻ lên sáu! Người ta chưa thể nói bất kỳ điều gì về khả năng sinh sản hết! Nhưng bà ta vẫn làm như vậy, và không ai nói lời nào để ngăn bà ta lại. Sau đó, bà ta làm cái việc đáng ngạc nhiên nhất. Bà ta rời khỏi ghế và bảo tôi đến ngồi vào đó. Ở địa vị tôi mà làm thế thì thật hỗn hào quá lắm. Tôi hết nhìn mẹ lại nhìn bố để chờ chỉ dẫn, nhưng họ câm lặng như gia súc trong chuồng. Mặt bố tôi tái như chàm đổ. Tôi gần như nghe được suy nghĩ của ông. Tại sao mình không ném quách nó xuống sông từ khi nó mới đẻ cơ chứ? Bà Vương đã không trở thành bà mối hạng nhất của thôn nếu cứ ngồi mà đợi những con cừu đưa ra quyết định. Bà ta nhẹ nhàng bế tôi đặt lên ghế. Sau đó bà ta quỳ xuống trước mặt tôi rồi cởi giày và tất của tôi ra. Lại im phăng phắc. Như đã làm với khuôn mặt tôi, bà ta xoay xoay lật lật chân tôi, rồi bà đưa móng ngón tay cái lướt nhẹ lên xuống dọc theo má chân tôi. Bà Vương nhìn sang ông thầy và gật đầu. Bà ta đứng dậy và đột ngột chỉ tay ý bảo tôi rời khỏi ghế của bà. Sau khi lấy lại chỗ ngồi của mình, ông thầy hắng giọng: "Tiểu nữ của ông bà là trường hợp đặc biệt," ông ta nói. "Hôm qua, tôi đã nhận thấy có điều gì đó ở cô bé, và người có nhận xét tinh tường như bà Vương đây cũng nhận thấy vậy. Khuôn mặt của tiểu nữ thon thả như trái xoan. Dái tai đầy đặn cho thấy tiểu nữ là người hào phóng rộng lượng. Song, quan trọng nhất là đôi bàn chân. Xương má chân rất cao nhưng chưa phát triển đầy đủ. Thế tức là bà nên đợi thêm một năm nữa hãy bó chân cho tiểu nữ." Ông ta giơ tay ra để chặn ai đó có thể ngắt lời. "Bảy tuổi không phải là lệ của thôn này, tôi biết, nhưng tôi nghĩ nếu bà nhìn kỹ tiểu nữ bà sẽ nhận ra rằng…" Ông Hồ ngập ngừng. Bà nội đẩy đĩa quýt về phía ông ta để ông ta có thể tiếp tục suy nghĩ. Ông ta lấy một quả, bóc ra, rồi ném vỏ xuống sàn. Để múi quýt lơ lửng trước miệng, ông ta nói tiếp. "Khi lên sáu, xương chủ yếu vẫn là nước nên dễ uốn. Nhưng tiểu nữ nhà ta hơi chậm phát triển so với độ tuổi của mình, ngay cả so với người thôn này, vốn đã phải trải qua nhiều năm khó khăn. Có lẽ các chị em khác của tiểu nữ cũng vậy. Bà không nên lấy làm hổ thẹn." Mãi đến tận lúc đó, tôi không hề nghĩ rằng gia đình tôi có bất kỳ sự khác biệt nào, và tôi cũng không nhận thấy ở tôi có bất kỳ sự dị thường nào. Ông ta bỏ tọt múi quýt vào mồm, trầm ngâm nhai rồi tiếp tục. "Nhưng ở tiểu nữ nhà ta có điều gì đó ngoài lý do thiếu thốn vì đói kém. Xương má chân tiểu nữ đặc biệt cao, điều đó có nghĩa là nếu được chú ý đúng cách ngay từ bây giờ, tiểu nữ sẽ có được đôi bàn chân hoàn hảo nhất huyện này." Vài người không tin vào mấy ông thầy. Một số thì cho rằng mấy ông thầy chỉ biết nói chung chung kiểu như mùa thu là thời gian thích hợp nhất cho việc bó chân, mùa xuân thích hợp nhất cho việc sinh nở, và quả đồi xinh đẹp với những cơn gió hiu hiu sẽ là chốn phong thủy tuyệt vời nhất để chôn cất người chết. Thế nhưng ông thầy này lại thấy được ở tôi điều gì đó khác thường, và nó sẽ thay đổi đường đời của tôi. Tuy vậy, lúc đó không ai nói lời chúc mừng nào cả. Căn phòng lặng phắc một cách kỳ lạ. Vẫn còn điều gì đó không ổn. Bà Vương lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng, "tiểu nữ quả là xinh xắn dễ thương, nhưng mặt hoa da phấn sao bì nổi đôi chân ngà ngọc. Khuôn mặt xinh đẹp là Trời phú, nhưng đôi gót sen mới giúp tiểu nữ cải thiện được địa vị xã hội của mình. Tất cả chúng ta đều có thể đồng ý với nhau về điều này. Điều gì vượt quá chuyện này thì sẽ do ông, bố cô bé, quyết định." Bà ta nhìn thẳng vào mặt bố tôi, nhưng những lời nói rơi vào khoảng không lặng phắc đó lại có ý nghĩa với mẹ tôi hơn cả. "Không phải là tệ nếu tìm được mối thông gia tốt cho tiểu nữ. Một gia đình quyền quý sẽ đem đến cho nhà ta mối kết giao tốt đẹp hơn, giá thách cưới sẽ cao hơn, cùng sự bảo đảm về kinh tế và địa vị lâu dài. Tuy nhiên, tôi đánh giá cao lòng hiếu khách và sự hào phóng của ông bà hôm nay," bà ta nói, nhấn mạnh vào sự nghèo nàn của gia đình tôi bằng cách uể oải cử động bàn tay, "số mệnh - trong trường hợp của con gái ông bà - đã mang đến cho ông bà một cơ hội. Nếu người mẹ khéo léo, cô bé tầm thường này sẽ có cơ hội về làm dâu một gia đình ở Thông Khẩu." Thông Khẩu! "Bà nói vậy nghe thật tuyệt," bố tôi thận trọng bày tỏ ý kiến. "Nhưng nhà tôi thuộc tầng lớp bình dân. Chúng tôi không đủ sức trả thù lao cho bà." "Thưa ông," bà Vương đáp lại ngọt xớt, "nếu chân của tiểu nữ khi lớn lên đúng như tôi hình dung trước, có thể tôi sẽ nhận được khoản thù lao hào phóng từ phía nhà chồng của tiểu nữ. Còn ông cũng sẽ nhận được nhiều đồ sính lễ từ nhà họ. Như ông thấy đấy, hai chúng ta đều có lợi từ thỏa thuận này." Bố tôi không nói gì. Ông không bao giờ bàn tới những gì xảy ra trên mảnh đất hoặc cho chúng tôi biết cảm xúc của ông, nhưng tôi nhớ một mùa đông nọ, sau đợt hạn hán, khi gia đình không còn nhiều lương thực dự trữ, bố tôi lên núi đi săn, nhưng thậm chí mấy con thú cũng đã chết đói hết cả. Bố tôi không mang được gì về ngoài một ít rễ đắng, đưa cho mẹ và bà nội nấu canh. Có lẽ lúc này ông đang nhớ lại nỗi hổ thẹn hồi đó và tính toán xem sính lễ của tôi áng chừng được là bao nhiêu và nó sẽ đem lại lợi ích gì cho gia đình tôi. "Ngoài những điều đó ra," bà mối tiếp tục, "tôi tin rằng tiểu nữ nhà ta có thể đã đủ tư cách để có một mối quan hệ lão đồng." Tôi biết từ này và hiểu được ý nghĩa của nó. Lão đồng là một mối quan hệ hoàn toàn khác với kiểu chị em kết nghĩa. Nó là mối quan hệ giữa hai cô gái ở hai thôn khác nhau và kéo dài suốt cuộc đời họ, trong khi nhóm chị em kết nghĩa thì có tới vài cô gái và sẽ giải tán khi họ đi lấy chồng. Chưa bao giờ, trong quãng đời ngắn ngủi mấy năm trước đó, tôi được gặp một lão đồng hay cho rằng mình cũng có thể có một lão đồng như vậy. Là con gái, mẹ và thím tôi cũng có hội chị em kết nghĩa trong thôn. Chị tôi hiện giờ cũng có hội chị em kết nghĩa, và bà nội tôi có hội chị em kết nghĩa là những người bạn cùng cảnh góa chồng trong thôn Phủ Vĩ - hội chị em kết nghĩa lúc xế chiều. Tôi đã nghĩ trong cuộc đời bình thường tôi cũng sẽ có bạn như họ. Còn có lão đồng là một chuyện hết sức đặc biệt. Lẽ ra tôi phải vui mừng mới đúng, nhưng giống như các chị em khác ở trong phòng, tôi cảm thấy kinh hãi. Đây không phải là chủ đề nên trao đổi trước mặt đàn ông. Tình huống này khác thường đến nỗi bố tôi không kiềm chế được bản thân và ông buột miệng: "Chưa một người phụ nữ nào trong gia đình này từng có một lão đồng." "Gia đình ông đã không có nhiều thứ - cho đến giờ," bà Vương cất giọng khi vừa đứng lên khỏi ghế. "Cứ bàn bạc về việc này trong nhà với nhau, nhưng xin nhớ giùm, cơ hội chẳng phải lúc nào cũng đến gõ cửa nhà ông đâu. Tôi sẽ còn quay lại." Bà mối và ông thầy đi khỏi, cả hai đều hứa sẽ quay lại để xem sự tiến triển của tôi. Mẹ và tôi đi lên gác. Ngay khi vừa bước vào buồng phụ nữ, bà quay lại nhìn tôi với một vẻ mặt giống như tôi đã thấy lúc ở căn phòng chính. Rồi, tôi chưa biết nói gì thì bà lấy hết sức giáng cho tôi một cái tát. "Mày có biết điều này sẽ gây ra bao nhiêu phiền phức cho bố mày không?" bà đay nghiến. Những lời cay nghiệt, nhưng tôi biết cái tát đó là để xua đuổi tà ma và cầu mong điều may mắn. Song rốt cuộc, chẳng có gì đảm bảo rằng đôi bàn chân tôi sẽ trở thành đôi "gót sen ba tấc" cả. Rất có thể mẹ sẽ phạm phải sai lầm với tôi như bà ngoại đã làm với mẹ. Mẹ đã bó đôi chân của chị tôi rất tốt, nhưng ai chẳng nói trước được điều gì. Thay vì trở thành một cô gái có giá, biết đâu tôi lại cũng lảo đảo trên cái gốc cây xù xì, tay luôn phải dang ra để giữ thăng bằng giống như mẹ tôi thì sao. Mặc dù mặt đau rát, nhưng trong thâm tâm tôi thấy sung sướng. Cái tát đó là hành động đầu tiên thể hiện tình mẫu tử của mẹ, và tôi phải cắn chặt môi để khỏi nhoẻn cười. Cả ngày hôm đó mẹ không nói một lời nào với tôi. Thay vì thế, bà đi xuống nhà nói chuyện với chú thím, bố và bà nội. Chú tôi là người nhân hậu, nhưng vì là con trai thứ hai nên ông chẳng có mấy chút uy quyền nào trong gia đình. Thím tôi biết những ích lợi có thể mang lại từ vị thế này, nhưng vì lấy con trai thứ, mà lại không sinh được con trai, nên địa vị của thím trong nhà tụt xuống hàng thấp nhất. Mẹ tôi cũng không có địa vị gì nhưng nhìn vào vẻ mặt của mẹ khi bà mối nói chuyện, tôi biết mẹ sẽ nghĩ gì. Bố và bà nội quyết định mọi việc trong nhà, dù cho cả hai đều dễ bị tác động. Những lời của bà mối, tuy báo hiệu điềm lành cho tôi, song nó cũng có nghĩa bố tôi sẽ phải làm việc cật lực để tích lũy của hồi môn xứng đáng cho một cuộc hôn nhân cao giá hơn. Nếu bố không làm theo quyết định của bà mối, ông không chỉ mất thể diện trong thôn mà còn trong cả huyện. Tôi không biết liệu họ đã thỏa thuận được về số phận của tôi vào ngày hôm đó hay chưa, nhưng trong tâm trí tôi, mọi thứ đều không còn như cũ. Tương lai của Mỹ Nguyệt cũng thay đổi cùng với tương lai của tôi. Tôi lớn hơn Mỹ Nguyệt vài tháng tuổi, nhưng cả nhà quyết định hai đứa tôi sẽ được bó chân cùng lúc với em ba. Mặc dù hàng ngày tôi vẫn làm việc nhà, nhưng tôi không bao giờ còn được đi ra bờ sông cùng anh trai. Tôi cũng không bao giờ còn được cảm thấy dòng nước mát mẻ chạm vào da thịt nữa. Mãi cho đến ngày hôm đó, mẹ chưa bao giờ đánh tôi, nhưng hóa ra đó chỉ là dấu hiệu đầu tiên của nhiều trận đòn nữa trong những năm về sau. Tệ nhất là bố không còn nhìn tôi như ngày nào. Tôi không còn được ngồi trong lòng bố khi ông đang hút tẩu vào buổi tối nữa. Trong phút chốc, từ một con bé vô giá trị tôi đã trở thành một người có thể có ích cho cả nhà. Những vật dụng để bó chân và đôi giày đặc biệt mẹ thêu để đặt trên bàn thờ Quán Âm đã được cất đi, cả của Mỹ Nguyệt và em ba cũng vậy. Bà Vương bắt đầu định kỳ ghé thăm nhà tôi. Bà ta đến trong kiệu riêng. Bà ta luôn luôn kiểm tra tôi từ đầu tới chân, luôn hỏi tôi về việc nội trợ. Song tôi cũng không thể bảo rằng bà ta tử tế với tôi. Tôi chỉ là một công cụ có lợi cho bà ta mà thôi. SUỐT MỘT NĂM SAU, việc dạy dỗ tôi bắt đầu được thực hiện nghiêm chỉnh ở buồng phụ nữ, nhưng tôi đã biết trước nhiều thứ. Tôi biết rằng đàn ông hiếm khi vào buồng phụ nữ, nó chỉ dành cho đám đàn bà con gái chúng tôi, là nơi chúng tôi có thể làm việc của mình, và chia sẻ tâm sự. Tôi biết rằng cả cuộc đời mình sẽ trôi qua trong một căn phòng như thế. Tôi cũng đã biết rằng sự phân biệt giữa nội - bên trong ngôi nhà, và ngoại - khu vực bên ngoài ngôi nhà thuộc về người đàn ông, là vấn đề cốt yếu của xã hội Khổng Giáo. Dù cho bạn giàu hay nghèo, là hoàng đế hay tôi đòi, thì trong nhà phải là nơi dành cho phụ nữ và bên ngoài là dành cho đàn ông. Phụ nữ không nên vượt quá phạm vi nhà cửa, cả trong suy nghĩ lẫn hành động. Tôi cũng hiểu được hai nguyên tắc Khổng Giáo chi phối cuộc sống của giới đàn bà chúng tôi. Nguyên tắc đầu tiên là Tam Tòng: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Nguyên tắc thứ hai là Tứ Đức, nêu ra nguyên tắc ứng xử, ăn nói, đi đứng và làm việc của người đàn bà: "Giữ tiết hạnh và đạo khoan hòa; luôn có thái độ điềm tĩnh và chính trực; ăn nói phải dịu dàng và vừa lòng người khác; cử chỉ phải thận trọng và khéo léo; thành thục nội trợ và khâu vá." Nếu một người con gái không đi trệch khỏi những nguyên tắc như vậy, họ sẽ trở thành người đàn bà đức hạnh. Việc học tập của tôi giờ đây còn mở rộng sang cả các kỹ năng thực hành. Tôi học cách xâu kim, lựa màu chỉ, khâu những mũi nhỏ và đều nhau. Điều này rất quan trọng, khi Mỹ Nguyệt, em ba và tôi bắt đầu khâu những đôi giày cho chính mình trong suốt hai năm bó chân. Chúng tôi cần những đôi giày đi ban ngày, những đôi dép đặc biệt xỏ khi ngủ, và vài đôi tất chặt. Chúng tôi khâu tuần tự, bắt đầu với những thứ vừa vặn bàn chân mình hiện giờ trước, sau đó tới những thứ nhỏ dần, nhỏ dần. Quan trọng nhất, thím bắt đầu dạy tôi nữ thư. Vào lúc đó, tôi không hiểu hết lý do vì sao thím lại quan tâm đặc biệt đến tôi. Tôi ngây thơ tin rằng nếu tôi chăm chỉ, tôi sẽ khiến Mỹ Nguyệt chăm chỉ theo. Và nếu chăm chỉ, có lẽ nó sẽ có một cuộc hôn nhân tốt hơn mẹ mình. Nhưng thím tôi thực sự hy vọng đưa kiểu chữ bí mật vào cuộc sống của chúng tôi để Mỹ Nguyệt và tôi có thể biết dùng nó mãi mãi. Tôi không biết điều này gây nên xung đột giữa thím với mẹ và bà nội, hai người đều mù tịt nữ thư, cũng như bố và chú tôi hoàn toàn mù tịt về chữ nghĩa dành cho đàn ông. Mà tôi cũng chưa nhìn thấy chữ viết dành cho đàn ông nên tôi không thể so sánh được. Nhưng bây giờ tôi có thể nói rằng kiểu chữ của đàn ông là đậm, mỗi ký tự nằm trong một khối vuông, trong khi nữ thư trông giống như chân muỗi, hay chân chim trên cát vậy. Không giống như chữ viết của đàn ông, mỗi ký tự của nữ thư không biểu hiện một từ cụ thể. Những ký tự của nữ thư về bản chất là để biểu thị phát âm. Do đó mỗi ký tự biểu hiện một âm tiết. Vì thế mỗi ký tự có thể tạo ra vỏ âm thanh cho mỗi từ như "tỉa", "ghép" hay "quả lê", ngữ cảnh thường là để làm rõ nghĩa. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải rất cẩn thận để đảm bảo rằng không hiểu sai nghĩa. Nhiều người - như mẹ và bà nội tôi - chưa bao giờ học loại chữ đó, nhưng họ vẫn biết vài bài hát và vài câu chuyện, nhiều bài có nhịp điệu ta dum, ta dum, ta dum. Thím chỉ cho tôi những nguyên tắc đặc biệt để sử dụng nữ thư. Nữ thư dùng để viết thư, viết bài hát, viết tiểu sử, viết bài học về bổn phận của người phụ nữ, viết lời khấn Phật Bà, và đương nhiên là cả những chuyện thông thường nữa. Nữ thư có thể được viết bằng bút lông và mực trên giấy hay trên quạt, nó cũng có thể được thêu trên khăn tay hay dệt lên vải. Người ta có thể hát lên trước khán giả là các bà các cô, nhưng cũng có thể chỉ đọc và lưu giữ nó cho riêng mình. Hai nguyên tắc quan trọng nhất đó là: không bao giờ được để cho đàn ông biết nó tồn tại, và không được để họ động chạm vào nó dưới bất kỳ dạng nào. MỌI CHUYỆN CỨ THẾ DIỄN RA, mỗi ngày, tôi và Mỹ Nguyệt lại được học những kỹ năng mới - cho đến sinh nhật lần thứ bảy của tôi, khi ông thầy quay trở lại. Lần này, ông ta phải lựa một ngày cho cả ba chúng tôi - Mỹ Nguyệt, tôi và em ba, người duy nhất đúng tuổi trong cả ba đứa - để bắt đầu bó chân. Ông hết hèm rồi lại hừm. Ông hỏi chúng tôi tám chữ. Nhưng khi tất cả chúng tôi đều đã nói và làm xong, ông ta bèn định một ngày điển hình của các cô gái trong huyện - ngày hai mươi bốn tháng Tám âm lịch - khi những người sắp bó chân có thể cầu khấn và làm lễ cúng bái lần cuối lên Bà Chúa Chân Nhỏ, nữ thần coi sóc việc bó chân. Mẹ và thím lại tiếp tục chuẩn bị cho việc bó chân, làm thêm nhiều băng quấn hơn. Họ cho chúng tôi ăn bánh bao nhân đậu đỏ để giúp xương dẻo dai như bánh bao và giúp chúng tôi đạt được cỡ chân không lớn hơn một chiếc bánh bao. Gần ngày bó chân, phụ nữ trong thôn đến thăm chúng tôi trên căn buồng phụ nữ. Các chị em kết nghĩa của chị tôi chúng tôi may mắn, mang tới nhiều kẹo và chúc mừng chúng tôi sắp chính thức bước vào thế giới phụ nữ. Những lời chúc tụng rôm rả khắp căn buồng. Mọi người đều vui vẻ, hát hò, cười đùa, trò chuyện. Bấy giờ tôi mới biết có nhiều thứ mà người ta không được nói. (Không ai được nói rằng tôi sẽ chết. Mãi đến khi tôi về nhà chồng, mẹ chồng tôi bảo tôi rằng, cứ mười đứa con gái bó chân thì chỉ một đứa sống sót, không chỉ riêng ở huyện tôi mà trên cả đất nước Trung Hoa). Tất cả những gì tôi được biết là việc bó chân sẽ khiến tôi có nhiều khả năng lấy chồng hơn và đưa tôi đến gần hơn với một tình yêu tuyệt vời nhất, một niềm hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời người đàn bà - con trai. Theo hướng đó, mục tiêu của tôi là phải có được một đôi chân bó hoàn hảo với bảy đặc điểm rõ rệt: chúng sẽ phải nhỏ, hẹp, thẳng, nhọn và cong, song cũng phải thơm tho và mềm mại trong lớp vải bó. Trong số những yêu cầu này, độ dài là quan trọng nhất. Bảy phân - tính từ gót chân đến đầu ngón cái - là lý tưởng. Tiếp đến là hình dáng. Một đôi chân hoàn hảo phải có dáng như búp sen. Nó phải đầy đặn và tròn trịa ở gót, thuôn thành mũi nhọn về phía trước, toàn bộ sức nặng dồn cả vào ngón cái. Thế tức là các ngón chân khác và xương má chân phải bị đập vỡ ra và bẻ cong xuống dưới gan bàn chân cho tiếp giáp với gót chân. Cuối cùng, kẽ chân, được tạo ra bởi phần chân trước và gót chân, phải đủ sâu để che khuất một phần thịt lớn vuông góc trong những nếp gấp. Nếu tôi có thể đạt được tất cả những điều đó thì hạnh phúc sẽ đến với tôi. Vào buổi sáng ngày hai mươi bốn tháng Tám âm, chúng tôi cúng Bà Chúa Chân Nhỏ món bánh thang viên, còn hai bà mẹ thì đặt những đôi hài bé xíu trước tượng Quán Âm Bồ Tát. Tiếp đến, mẹ và thím đem tất cả phèn, chất làm se, kéo, kéo cắt móng đặc biệt, kim và chỉ ra. Họ kéo những dải băng dài họ tự tay làm ra, rộng chừng năm phân, dài ba phân và hồ bột nhẹ. Sau đó, tất cả phụ nữ trong gia đình tôi đi lên gác. Chị tôi lên sau cùng, với xô nước sôi nấu bằng rễ cây dâu, thân quả hạnh nhân, nước tiểu, thảo dược và những loại rễ cây đặc biệt khác. Vì là đứa lớn nhất, tôi bắt đầu trước tiên, và tôi quyết tâm thể hiện sự can đảm của mình. Mẹ tôi rửa chân cho tôi và đắp phèn vào để làm cơ co lại, ngăn bớt máu và mủ tiết ra. Mẹ cắt móng chân tôi thật ngắn. Suốt thời gian đó, vải bó chân được ngâm ướt, để khi khô đi trên da tôi, nó càng siết chặt hơn. Tiếp đó, mẹ cầm đầu tấm băng, đặt lên mu bàn chân tôi, sau đó kéo nó trùm vào bốn ngón chân nhỏ để bắt đầu quá trình cuộn chúng xuống dưới bàn chân. Từ chỗ đó, mẹ quấn ngược mảnh vải ra sau gót chân tôi. Một vòng khác quấn quanh mắt cá chân giúp bảo vệ và giữ ổn định cho hai vòng trước. Mục đích là để gập các ngón chân cho chạm đến gót, tạo ra cái kẽ, nhưng vẫn để lại ngón cái để cho tôi có thể đi lại được. Mẹ lặp đi lặp lại các bước này cho đến khi hết vải; thím và bà nội tôi chăm chú nhìn qua vai mẹ trong suốt khoảng thời gian đó, nghĩ chắc là không cần chỉ bảo điều gì nữa. Cuối cùng, mẹ tôi khâu chặt đoạn cuối lại để các băng vải không bị tuột ra, hoặc tôi sẽ không thể tháo ra được. Mẹ lại tiếp tục làm như vậy với bàn chân còn lại của tôi; sau đó, thím tôi bó chân cho Mỹ Nguyệt. Trong lúc chúng tôi bị bó chân, em ba nói nó khát nước và đi xuống dưới nhà. Khi chân của Mỹ Nguyệt đã được bó xong, mẹ tôi gọi em ba, nhưng không thấy nó trả lời. Một giờ trước đó, hẳn mẹ sẽ bảo tôi đi tìm nó, nhưng trong hai năm tiếp theo tôi không được phép xuống dưới nhà. Mẹ và thím đi tìm khắp nhà rồi chạy ra ngoài tìm. Tôi muốn chạy đến gần cái cửa sổ mắt cáo để nhìn ra ngoài, nhưng chân tôi đã bắt đầu đau buốt vì áp lực đè lên xương và của chỗ bó chặt cứng khiến máu không thể lưu thông được. Tôi nhìn sang Mỹ Nguyệt, mặt cô nàng lúc ấy trắng bệch như tên gọi của nó. Hai hàng nước mắt lăn dài trên má. Từ bên ngoài, giọng của mẹ và thím vọng đến chỗ tôi khi họ gọi, "em ba, em ba!" Chị và bà nội tôi chạy đến gần song cửa và nhìn ra ngoài. "Ây dà," bà nội tôi lẩm bẩm. Chị tôi liếc nhìn chúng tôi. "Mẹ và thím đang ở bên nhà hàng xóm. Em có nghe tiếng thét của em ba không?" Mỹ Nguyệt và tôi lắc đầu. "Mẹ đang lôi em ba ra đường," chị tôi tường thuật. Giờ thì chúng tôi đã nghe thấy giọng của em ba, "Không, con không đi, con không muốn bó chân!" Mẹ tôi quát lên, "Đồ vô dụng. Mày là nỗi hổ thẹn đối với tổ tiên nhà này." Đó là những lời chửi mắng thậm tệ song không hề lạ tai; ngày nào bọn tôi chả nghe trong thôn này. Em ba bị đẩy vào buồng, nhưng vừa ngã ra sàn, nó lập tức chồm dậy, chạy vào góc nhà, và co rúm lại trong đó. "Mày phải bó chân. Không còn cách nào khác đâu," mẹ tôi tuyên bố, mắt em ba đảo lia lịa khắp buồng để tìm một nơi ẩn nấp. Nó bị kẹp chặt và không gì ngăn lại được cái việc sắp phải xảy ra. Mẹ và thím xông vào nó. Nó cố gắng lần cuối cùng để toài ra khỏi vòng tay của mẹ và thím, nhưng chị tôi đã chộp lấy nó. Em ba mới chỉ sáu tuổi, nhưng nó cố hết sức quẫy đạp. Chị tôi, thím và bà nội đè nó xuống sàn, trong khi mẹ tôi vội vã quấn cuộn vải bó chân vào. Suốt lúc bó chân, em ba gào thét. Thỉnh thoảng, hai tay nó vùng được ra, nhưng lại bị tóm lấy ngay. Mẹ nới lỏng đôi chút với bàn chân của nó trong một giây, nhoằng cái cả cái chân đó đã vùng ra quẫy đạp liên hồi, dải vải bó dài bay tung lên xoắn lượn như dải lụa của người nhào lộn. Mỹ Nguyệt và tôi kinh hãi. Đây không phải là cách cư xử của mọi người trong nhà này. Nhưng tất cả chúng tôi chỉ có thể giương mắt ngồi nhìn, vì lúc đó những cơn đau buốt nhói đang lan từ bàn chân lên cẳng chân. Cuối cùng, mẹ tôi cũng làm xong việc. Mẹ ném phịch cái bàn chân vừa bó xong của em ba xuống nền nhà, đứng dậy, nhìn xuống đứa con gái út của mình với vẻ căm ghét, rồi rủa: "Đồ vô dụng!" Bây giờ tôi sẽ viết về những giờ phút, rồi những tuần sau đó, khoảng thời gian mà lẽ ra trong cuộc đời dằng dặc như cuộc đời tôi nó sẽ chẳng là gì cả, nhưng thực ra, với tôi, nó là vĩnh viễn. Mẹ nhìn tôi đầu tiên, vì tôi là đứa lớn nhất. "Đứng lên." Ý tưởng này vượt quá tầm hiểu biết của tôi. Đôi chân tôi đau nhói. Chỉ trước đó vài phút, tôi còn tin chắc về lòng can đảm của mình. Giờ đây tôi phải nghiến răng để không khóc nhưng không được. Thím tôi vỗ nhẹ vai Mỹ Nguyệt. "Đứng dậy đi nào con." Em ba vẫn còn rên rỉ trên sàn nhà. Mẹ kéo phăng tôi ra khỏi ghế. Từ đau đớn không thể diễn tả nổi cảm giác này. Các ngón chân bị bó chặt cho quặp hẳn xuống dưới bàn chân nên toàn bộ sức nặng của cơ thể tôi dồn cả xuống phần phụ của bàn chân. Tôi cố gắng giữ thăng bằng bằng cách ngả người về phía sau và dồn lực lên gót chân. Khi mẹ tôi trông thấy thế, bà đánh tôi. "Bước đi!" Tôi cố gắng hết sức. Khi tôi lê bước về phía cửa sổ, mẹ tôi cúi xuống và lôi em ba đến chỗ chân bà, kéo nó đến gần chị gái tôi, nói: "Dẫn nó đi lại trong buồng mười lần." Nghe thấy thế, tôi biết điều gì sắp xảy đến với tôi, và điều đó gần như không thể hiểu được. Chứng kiến những điều đang diễn ra, nhưng là người có địa vị thấp nhất trong nhà, thím tôi nắm tay con gái lôi ra khỏi ghế. Nước mắt tuôn lã chã trên mặt tôi khi mẹ dắt tôi đi lại trong buồng. Tôi nghe thấy tiếng nức nở của chính mình. Em ba vẫn la hét và cố vùng vẫy để thoát khỏi tay chị tôi. Bà nội, người đàn bà có uy nhất trong nhà, chỉ quan sát mọi việc và giữ cánh tay còn lại của em ba. Bị hai người khỏe hơn mình nhiều kẹp hai bên, thân thể em ba phải khuất phục, nhưng thế không có nghĩa là cái miệng nó ngớt kêu la oán thán. Chỉ có mỗi Mỹ Nguyệt là nén chặt được những cảm xúc của mình, điều đó cho thấy nó là một đứa con gái ngoan, mặc dù nó là đứa thấp kém trong gia đình tôi. Sau khi chúng tôi đi đủ mười vòng, mẹ, thím và bà nội mới để chúng tôi yên. Bọn tôi, ba đứa bé gái bị liệt dở bởi sự hành hạ thể xác ấy, nhưng thử thách mới chỉ bắt đầu. Chúng tôi không ăn nổi. Thậm chí với cái bụng rỗng không, chúng tôi vẫn ói mửa vật vã bởi nỗi đau đớn tột độ. Cuối cùng, mọi người trong nhà cũng đi ngủ cả. Đặt lưng xuống thật chẳng khác nào được ân xá. Thậm chí đặt hai bàn chân nằm thẳng trên cùng một mặt phẳng với thân người cũng đỡ đau đi bao nhiêu. Nhưng giờ khắc trôi qua, một cơn đau khác lại đến. Chân của chúng tôi bỏng rát như thể bị đặt trong lò than. Những tiếng thút thít lạ lùng cứ bật ra từ miệng chúng tôi. Tội nghiệp chị gái khi phải ở cùng buồng với chúng tôi. Chị cố xoa dịu chúng tôi bằng những câu chuyện cổ tích và nhẹ nhàng nhắc chúng tôi nhớ rằng mọi cô gái ở mọi tầng lớp trên đất nước Trung Hoa rộng lớn này đều phải trải qua cái việc mà chúng tôi đang phải chịu đựng để trở thành những người đàn bà, người vợ và người mẹ xứng đáng. Không ai trong chúng tôi ngủ được đêm ấy, nhưng tới ngày thứ hai mọi cơn đau chúng tôi cảm thấy trong ngày đầu tiên còn tăng lên gấp đôi. Cả ba chúng tôi đều cố gắng nới lỏng vải bó, nhưng chỉ có em ba là vùng hẳn được một bàn chân ra. Mẹ đánh vào tay chân nó, bó lại chân cho nó, và phạt nó phải đi thêm mười vòng quanh buồng nữa. Mẹ lại còn liên tục lắc nó một cách thô bạo và móc máy nó, "mày có muốn bị bán làm đồng dưỡng tức cho nhà người ta không hả? Giờ chưa quá muộn đâu. Tương lai đó có thể là của mày đấy." Suốt đời bọn tôi thường phải nghe lời đe dọa đó, nhưng chưa từng nhìn thấy một đồng dưỡng tức nào cả. Phủ Vĩ này quá nghèo nên không ai lại đi rước thêm một cô vợ chân to, bướng bỉnh và chẳng ai cần đến cả, nhưng chúng tôi cũng chưa từng thấy hồ ly tinh, ấy vậy mà chúng tôi vẫn tuyệt đối tin là có những thứ đó. Vì thế, khi mẹ tôi dọa vậy thì em ba tạm thời đầu hàng. Vào ngày thứ tư, chúng tôi nhúng đôi chân bị bó vào xô nước nóng. Rồi lớp vải bó được tháo ra, mẹ và thím kiểm tra móng chân của chúng tôi, cạo những cục chai, rửa sạch những lớp da chết, chấm nhẹ phèn và nước thơm để khỏa lấp bớt mùi hôi thối từ chỗ thịt bị rữa nát, rồi bó chân bằng một lớp vải mới sạch sẽ, lần này còn chặt hơn lần trước. Ngày nào cũng tập đi. Cứ bốn ngày lại thay băng một lần. Cứ hai tuần lại thay một đôi giày mới, càng ngày càng nhỏ hơn. Các bà các cô mấy nhà hàng xóm ghé thăm, mang cho chúng tôi bánh bao nhân đậu đỏ, hy vọng xương chân của chúng tôi sẽ mau mềm hơn, hoặc ớt khô, và mong rằng chân chúng tôi sẽ mảnh mai và nhọn như thế. Các chị em kết nghĩa của chị tôi cũng tới thăm với những món quà nhỏ từng động viên họ trong lúc bó chân. "Cắn vào đuôi bút lông của chị đây này. Đầu nó mỏng và thanh tú. Nó sẽ giúp chân em trở nên mỏng và thanh tú như vậy." Hay "ăn mấy củ năng này đi. Chúng sẽ bảo thịt da em teo lại." Căn buồng phụ nữ trở thành nơi rèn luyện. Thay vì phải làm việc nhà như lệ thường, chúng tôi phải đi đi lại lại trong buồng. Mỗi ngày mẹ và thím lại bắt chúng tôi đi nhiều hơn. Mỗi ngày bà nội tôi đều tham gia giúp đỡ họ. Khi mệt, bà nằm nghỉ ở một chiếc giường nào đó và chỉ đạo các hoạt động của chúng tôi. Khi trời lạnh hơn, bà nội kéo thêm tấm chăn đắp lên người. Khi ngày càng trở nên ngắn hơn và đêm xuống nhanh hơn, lời nói của bà cũng trở nên ngắn ngủi và khó hiểu hơn, cho đến khi bà hầu như chẳng nói năng gì mà chỉ nhìn vào em ba, mong muốn đôi mắt và cơ thể nó theo kịp những bước đi. Với chúng tôi, sự đau đớn không hề thuyên giảm chút nào. Sao có thể thuyên giảm được chứ? Nhưng chúng tôi học được bài học quan trọng nhất cho mọi người phụ nữ: muốn tốt thì phải tuân phục. Ngay những tuần đầu tiên này, một bức tranh về những người đàn bà là chúng tôi sau này đã bắt đầu hình thành. Mỹ Nguyệt sẽ là người giỏi chịu đựng và xinh đẹp trong mọi hoàn cảnh. Em ba sẽ là người vợ hay phàn nàn, chua chát về số phận của mình, khiếm nhã trước quà tặng. Còn tôi - trường hợp được gọi là đặc biệt - thì chấp nhận số phận của mình mà không hé một lời. Một hôm, khi tôi đang đi quanh buồng, tôi nghe thấy rắc một cái. Một ngón chân tôi bị gãy. Tôi nghĩ đó chỉ là tiếng kêu bên trong người mình, nhưng nó rõ đến mức mọi người trong buồng đều nghe thấy. Mẹ tôi nhìn tôi chăm chú. "Đi tiếp đi! Cuối cùng thì cũng có tiến triển rồi!" Khi bước đi, cả người tôi run rẩy. Đến sẩm tối, tám ngón chân cần gãy đã gãy, nhưng tôi vẫn bị bắt phải đi tiếp. Tôi cảm thấy được tám ngón chân gãy dưới sức nặng của mỗi bước đi, vì chúng như long ra trong đôi giày của tôi. Khoảng trống mới hình thành ở chỗ trước đó là những khớp nối giờ đây là vết thương dính nhớp đau buốt óc. Tiết trời băng giá không làm tê dại nổi cái cảm giác đau đớn đang hành hạ khắp người tôi. Ấy thế mà, mẹ vẫn chưa hài lòng với sự phục tùng của tôi. Tối hôm ấy, bà bảo anh trai tôi mang về một cây sậy cắt ở bờ sông. Rồi bà buộc nó ở sau cẳng chân tôi để tôi tiếp tục phải bước đi như thế suốt hai ngày tiếp theo. Đến ngày thay băng, tôi ngâm chân như thường lệ, nhưng lần này việc xoa bóp tạo dáng cho xương tiến xa hơn những gì tôi từng biết. Mẹ dùng tay để kéo những chiếc xương gãy ra khỏi lòng bàn chân tôi. Chưa khi nào tôi thấy tình yêu của mẹ biểu lộ rõ ràng đến thế. "Một bậc phu nhân đích thực không bao giờ để cái gì xấu xí lọt vào cuộc sống của mình," mẹ lặp đi lặp lại, để nhồi nhét câu nói đó vào đầu tôi. "Chỉ qua đau đớn con mới trở nên xinh đẹp. Chỉ qua khốn khổ con mới tìm thấy bình yên. Ta quấn, ta bó, nhưng con mới là người được nhận phần thưởng." Các ngón chân của Mỹ Nguyệt gãy vài ngày sau đó, nhưng xương chân của em ba thì không. Mẹ sai anh trai ra ngoài làm vài việc vặt. Anh ấy phải đi tìm những viên đá nhỏ để bó lên chân em ba, tạo sức ép mạnh hơn vào các ngón chân. Tôi đã kể rằng nó luôn kháng cự, nhưng giờ thì nó còn khóc to hơn, nếu có thể làm vậy. Mỹ Nguyệt và tôi đều nghĩ nó phản ứng lại như vậy vì muốn được chăm sóc nhiều hơn. Rốt cuộc, mẹ lại dồn hầu hết toàn bộ nỗ lực của mình vào tôi. Nhưng vào những ngày thay băng, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt giữa đôi chân của chúng tôi với đôi chân của em ba. Đúng thế, máu và mủ thấm qua lớp vải bó chân của chúng tôi như thường lệ, nhưng với em ba, chất lỏng đó rỉ ra từ người nó có một mùi mới, khác lạ. Và trong khi da chân của tôi và Mỹ Nguyệt khô lại xanh xao để chết đi, thì da của em ba cứ hồng như đóa hoa. Bà Vương lại đến thăm. Bà ta kiểm tra công việc của mẹ tôi và giới thiệu một vài loại thuốc lá sắc lên uống giúp giảm đau. Tôi không phải nếm cái thứ thuốc đắng ngắt đó cho đến tận khi tuyết rơi và xương ngón chân giữa gãy đôi. Đầu óc tôi lơ mơ cả do đau đớn lẫn do uống thuốc, đúng lúc ấy thì tình trạng của em ba bất ngờ thay đổi. Da chân nó nóng rực. Đôi mắt nó lấp lánh bởi nước và cơn sốt mê man, còn khuôn mặt vốn tròn trịa trở nên hốc hác. Khi mẹ và thím xuống nhà để chuẩn bị bữa trưa, chị tôi biểu lộ lòng xót thương với đứa em ruột thảm hại của mình bằng cách đặt nó nằm duỗi thẳng chân tay trên giường. Mỹ Nguyệt và tôi dừng lại nghỉ một chút. Sợ bị mẹ bắt gặp đang ngồi, chúng tôi đứng cạnh em ba. Chị tôi xoa chân cho nó, cố gắng làm nó cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Nhưng đây là thời điểm khắc nghiệt nhất của mùa đông, và tất cả chúng tôi đều mặc áo bông to sụ. Với sự hỗ trợ của hai đứa tôi, chị tôi kéo quần của em ba lên tận đầu gối để trực tiếp xoa bóp bắp chân nó. Đó là lúc chúng tôi thấy những vệt đỏ sậm rỉ ra từ chỗ bó chân của em ba, chảy ngược lên phía trên và biến mất dưới ống quần. Chúng tôi nhìn nhau trong chốc lát rồi mau chóng kiểm tra chân còn lại. Cũng có những vệt đỏ như vậy xuất hiện ở đó. Chị tôi đi xuống nhà. Khi nói ra những gì bọn tôi nhìn thấy, cũng tức là chị ấy phải thừa nhận chị đã không làm tròn bổn phận. Chúng tôi chờ nghe thấy mẹ tát chị. Nhưng không, mẹ và thím vội vã chạy lên gác. Họ đứng ở đầu cầu thang và nhìn vào căn buồng: em ba nhìn chằm chằm lên trần nhà, đôi chân nhỏ dang ra, hai đứa con gái còn lại ngoan ngoãn chờ bị trừng phạt, còn bà nội thì đang ngủ say dưới mấy lớp chăn. Thím liếc nhìn rồi đi đun nước. Mẹ tôi bước đến bên giường. Bà không mang theo gậy, bà dang tay ra chấp chới đi vào buồng như con chim gãy cánh, và nếu là người bình thường thì bà cũng chẳng thể giúp gì hơn cho con gái mình. Ngay khi thím tôi quay lại, mẹ tôi bắt đầu mở đôi chân bó ra. Một mùi kinh tởm lan tỏa khắp căn buồng. Thím tôi lập tức bịt mũi. Mặc dù trời đang có tuyết, chị tôi vẫn xé toạc tấm giấy thông thảo bịt kín cửa sổ để mùi hôi thối thoát ra ngoài. Cuối cùng, lớp vải bó chân của em ba cũng được lột hết. Mủ có màu xanh thẫm và máu đóng cục lại màu nâu thẫm, như bùn thối. Em ba được đặt ngồi và đôi chân tháo băng được nhúng vào chậu nước nóng. Đầu óc nó đang phiêu du nơi đâu rồi nên nó không khóc thét lên. Tiếng la hét của em ba mấy tuần trước hóa ra mang một ý nghĩa khác. Có phải từ cái ngày đầu tiên ấy nó đã biết điều gì đó tồi tệ sẽ xảy ra không? Có phải đó chính là lý do vì sao nó kháng cự không? Có phải mẹ tôi đã mắc sai lầm khủng khiếp trong khi quá vội vàng không? Hay loại máu nhiễm độc của em ba đã bị bởi những nếp nhăn của mớ vải bó? Có phải nó yếu đi là do chế độ dinh dưỡng tồi như bà Vương từng nói về tôi không? Kiếp trước nó đã làm gì mà phải gánh chịu sự trừng phạt như thế ở kiếp này? Mẹ tôi cọ rửa chân nó, cố gột sạch chỗ nhiễm trùng. Em ba lả đi. Nước trong thùng đục ngầu máu mủ từ chân nó. "Mẹ," mẹ tôi gọi bà nội, "mẹ có kinh nghiệm hơn con. Mẹ giúp con với." Nhưng bà nội không hề nhúc nhích dưới tấm chăn. Mẹ và thím tôi không đồng ý với nhau về những gì phải làm tiếp theo. "Chúng ta nên để chân nó phơi ra ngoài," mẹ tôi đề nghị. "Chị biết đó là việc tệ hại nhất," thím tôi cãi lại. "Nhiều xương chân của nó đã gãy. Nếu chị không bó lại, chân nó sẽ không bao giờ lành đúng cách. Nó sẽ bị què. Ai còn dám lấy nữa." "Tôi muốn nó sống, kể cả phải ở vậy, còn hơn là mất nó vĩnh viễn." "Thế thì đời nó sẽ không có mục đích và giá trị gì cả," thím tôi lập luận. "Tình mẫu tử của chị bảo chị rằng thế tức là không có tương lai." Trong khi họ tranh cãi, em ba không động đậy. Phèn bọc quanh da và đôi chân của nó được bó lại. Hôm sau, tuyết vẫn rơi và tình trạng của em ba ngày càng tệ hơn. Dù nhà tôi không khá giả gì, bố tôi vẫn ra ngoài dưới trời bão tuyết để mời thầy thuốc trong thôn tới. Ông ta nhìn em ba rồi lắc đầu. Đó là lần đầu tiên tôi thấy cử chỉ ấy, thế có nghĩa là chúng tôi không thể ngăn cản một linh hồn thân yêu về với thế giới bên kia. Bạn có thể kháng cự lại, nhưng một khi cái chết đã tóm được bạn thì chỉ còn nước nhắm mắt xuôi tay. Chúng ta trở nên ngoan ngoãn khi thế giới bên kia vẫy gọi. Thầy thuốc khuyên nên làm thuốc đắp và bốc thuốc để sắc lên cho em ba uống, nhưng ông là người tốt bụng và trung thực. Ông hiểu hoàn cảnh của chúng tôi. "Tôi có thể làm vậy cho tiểu nữ nhà ta," ông ấy nói với bố tôi, "nhưng cũng chỉ là mất tiền vô ích." Tuy thế, tin xấu của ngày hôm đó vẫn chưa hết. Trong khi chúng tôi khúm núm quỳ lạy ông thầy thuốc, ông ta nhìn quanh khắp phòng và thấy bà nội tôi dưới tấm chăn. Ông ta đến chỗ bà, sờ vào trán, bắt mạch. Ông nhìn vào bố tôi. "Người mẹ đáng kính của ông đang ốm nặng. Sao ông không bảo tôi về việc này?" Bố tôi biết trả lời thế nào để giữ thể diện đây? Ông là một người con hiếu thảo, nhưng ông cũng là một con người, và việc này diễn ra bên trong thâm tâm. Tuy vậy, việc phụng dưỡng bà nội vẫn là bổn phận quan trọng nhất của người làm con như bố tôi. Trong khi bố ở dưới nhà ngồi hút tẩu với chú, chờ mùa đông đi qua, thì trên gác hai người đã bị ma quỷ nguyền rủa. Một lần nữa, cả nhà tôi bắt đầu tranh cãi. Liệu có phải là mọi người đã quá tốn thời gian cho mấy đứa con gái vô dụng đến nỗi bỏ mặc người bà cao quý và đáng kính đang ốm đau thế không? Có phải việc dắt em ba đi đi lại lại trong buồng đã lấy bớt những bước đi của bà không? Hay là - do quá mệt mỏi vì phải nghe tiếng la hét của em ba - bà đã tắt khí đi để ngăn những tiếng ồn ào khó chịu? Hay phải chăng ma quỷ đến để bắt em ba đi đã bị thu hút bởi một nạn nhân tiềm năng khác? Sau bao ồn ào huyên náo, và sau khi mọi người đã chú ý quá nhiều đến em ba trong mấy tuần nay, giờ đây mọi người lại đổ dồn về phía bà nội. Bố và chú tôi rời khỏi chỗ bà chỉ để hút tẩu, ăn uống, hay làm mình dễ chịu hơn. Thím tôi lo tất cả việc trong nhà, chuẩn bị bữa ăn cho mọi người, giặt giũ và chăm sóc tất cả chúng tôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mẹ ngủ. Là con dâu cả trong nhà, đời mẹ chỉ có hai mục đích lớn nhất: sinh con trai để quản lý gia đình và chăm sóc mẹ chồng. Lẽ ra mẹ phải chăm sóc sức khỏe của bà nội chu đáo hơn. Thay vì vậy, mẹ lại để tham vọng của đàn ông ám ảnh đầu óc mình khi chuyển sự quan tâm sang tôi và tương lai xán lạn của tôi. Giờ đây, với sự cả quyết sắt đá do thiếu tình thương từ khi còn nhỏ, bà làm tất cả các nghi lễ bắt buộc, chuẩn bị đồ cúng đặc biệt dâng các thần linh và tổ tiên, cầu khấn và tụng kinh, thậm chí lấy máu mình nấu canh để giúp mẹ chồng hồi phục. Do mọi người đều bận bịu quanh bà nội, Mỹ Nguyệt và tôi được giao trông chừng em ba. Chúng tôi mới lên bảy nên không biết cách nói hay làm thế nào để giúp nó cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Nỗi đau đớn của em ba quá lớn, nhưng chưa phải là cơn đau khủng khiếp nhất mà tôi sẽ phải chứng kiến trong đời mình. Nó mất bốn ngày sau đó, chịu đựng đau đớn quá sức, không công bằng với quãng đời ngắn ngủi của nó. Một ngày sau thì bà nội tôi mất. Không ai thấy nỗi đau đớn của bà. Bà chỉ thu mình lại, ngày càng nhỏ dần nhỏ dần như con sâu bướm dưới tấm chăn bằng lá mùa thu. ĐấT MAI TÁNG quá cứng. Hai người chị em kết nghĩa còn lại của bà nội cũng có mặt, hát bài hát đưa tang, quấn thân thể của bà nội trong tấm vải muxơlin, và mặc quần áo cho bà ở kiếp sau. Bà nội tôi đã già, sống đã lâu, vì thế quần áo khi về nơi vĩnh hằng của bà gồm nhiều lớp. Em ba chỉ mới sáu tuổi. Nó sống ngắn ngủi, không có quần áo cả đời để giữ ấm hay nhiều bạn bè để hội ngộ trong thế giới bên kia. Nó chỉ có độc một bộ quần áo dành cho mùa hè và một bộ quần áo cho mùa đông, và thậm chí hai bộ này chị cả và tôi đã mặc trước rồi. Bà nội và em ba trải qua mùa đông dưới lớp tuyết dày. Tôi muốn nói rằng từ lúc bà nội và em ba nhắm mắt cho đến khi chôn cất nhiều thứ đã thay đổi ở buồng phụ nữ. Ôi chao! Chúng tôi vẫn phải đi lại quanh buồng. Chúng tôi vẫn phải ngâm chân bốn ngày một lần và thay những đôi giày ngày càng bé đi hai tuần một lần. Nhưng giờ mẹ và thím trông chừng chúng tôi hết sức thận trọng. Và chúng tôi cũng chú ý hơn, không bao giờ kháng cự hay phàn nàn. Mỗi khi rửa chân, chúng tôi, cũng như mẹ và thím, nhìn chăm chăm vào mủ và máu. Mỗi đêm, khi cuối cùng mẹ và thím cũng đi, để bọn con gái chúng tôi ở lại trong buồng, và mỗi sáng trước khi công việc hàng ngày của bọn tôi bắt đầu, chị tôi lại kiểm tra chân của bọn tôi để chắc rằng chúng tôi không bị nhiễm trùng nặng. Tôi thường nhớ lại những tháng đầu tiên bị bó chân đó. Tôi nhớ lại cách mà mẹ, thím, bà nội và chị gái tôi nhắc đi nhắc lại những câu nhất định để động viên chúng tôi can đảm lên. Một trong số đó là câu "lấy chim non thì phải ở với chim non; lấy gà trống thì phải ở với gà trống." Lúc đó, tôi nghe câu này nhưng không hiểu nghĩa, cũng như với nhiều câu khác. Lấy được chồng thế nào tùy thuộc vào cỡ chân của tôi. Đôi bàn chân nhỏ bé sẽ chứng tỏ tính kỷ luật của tôi trước nhà chồng tương lai, và khả năng chịu đựng đau đớn khi sinh con, cũng như bất kỳ bất hạnh nào có thể giáng xuống. Đôi bàn chân nhỏ bé của tôi sẽ cho mọi người thấy tôi đã ngoan ngoãn phục tùng gia đình ruột thịt của mình, đặc biệt là mẹ tôi, ra sao, điều này cũng sẽ gây ấn tượng tốt với mẹ chồng tương lai của tôi. Đôi giày mà tôi thêu sẽ cho chồng tương lai của tôi biết khả năng thêu thùa và nội trợ của tôi. Và, tuy vào lúc đó tôi chưa biết gì về điều này, nhưng chân của tôi sẽ là một thứ luôn quyến rũ chồng tôi trong suốt những khoảnh khắc riêng tư và gần gũi nhất giữa người đàn ông và người đàn bà. Nỗi thèm muốn được nhìn thấy và ấp bàn chân tôi trong tay sẽ không bao giờ biến mất trong suốt quãng đời chúng tôi bên nhau, thậm chí sau khi tôi đã có năm đứa con và thân thể tôi không còn hấp dẫn chồng tôi nữa. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 4: Chiếc Quạt Đã sáu tháng trôi qua từ ngày tôi bị bó chân, hai tháng kể từ khi bà nội và em ba mất. Tuyết đã tan, đất đã mềm đi, bà nội và em ba được sửa soạn chôn cất. Có ba chuyện trong cuộc sống của người Dao - không, của tất cả người dân trên đất nước Trung Hoa này - mà hầu hết tiền bạc đều dồn cả vào đó, là: sinh nở, hôn nhân và tang lễ. Tất cả chúng tôi đều mong ước được sinh ra một cách suôn sẻ và có một cuộc hôn nhân tốt đẹp; tất cả chúng tôi đều mong được chết nhẹ nhàng và chôn cất chu đáo. Nhưng số mệnh và hoàn cảnh thực tế mới là cái chi phối khiến ba việc ấy ở mỗi người mỗi khác. Bà nội là người đứng đầu gia đình tôi và đã sống một cuộc sống mẫu mực; em ba thì chưa đạt được điều gì. Bố và chú tôi gom góp tiền trả cho ông thợ đóng quan tài ở Thượng Giang Hư để mua một cỗ áo quan tốt cho bà nội. Bố và chú tự làm lấy cái hộp nhỏ cho em ba. Những chị em kết nghĩa của bà nội tôi đến viếng lần nữa, và sau cùng chúng tôi cũng tổ chức lễ mai táng. Một lần nữa, tôi lại thấy nhà mình nghèo đến mức nào. Nếu chúng tôi có nhiều tiền hơn, có lẽ bố tôi sẽ dựng bia tưởng niệm quả phụ cho bà nội. Có lẽ bố tôi sẽ đi mời ông thầy về để tìm nơi an táng thích hợp, có phong thủy tốt nhất để chôn cất bà hoặc thuê kiệu để đưa con gái và cháu gái mình, vẫn chưa thể đi bộ quá xa, đến nơi chôn cất. Tất cả những việc ấy đều không thể làm được. Mẹ cõng tôi trên lưng, còn thím cõng Mỹ Nguyệt. Đám tang đơn sơ của chúng tôi đi ra huyệt mộ cách nhà không xa lắm, vẫn nằm trong vùng đất mà bố tôi thuê. Bố và chú tôi quỳ, lạy dập đầu ba lần liên tục. Mẹ tôi ngồi bên nấm mộ mới đắp và xin được tha thứ. Chúng tôi đốt tiền giấy, nhưng không có thứ quà cáp nào khác tặng cho những người đến tham dự ngoài kẹo. Mặc dù bà nội không thể đọc được nữ thư, bà vẫn còn quyển sổ về ngày thứ ba sau lễ cưới mà bà được tặng nhân ngày cưới từ bao năm trước đây. Những thứ này, cùng mấy món đồ quý giá khác, được hai người chị em kết nghĩa cuối đời của bà nội thu gom lại để đem đốt tại phần mộ, những dòng chữ ấy sẽ theo bà sang thế giới bên kia. Họ cùng khấn bà tôi. "Mong rằng bà sẽ được gặp lại mấy chị em kết nghĩa khác của chúng ta. Ba người sẽ hạnh phúc bên nhau. Đừng quên chúng tôi. Những sợi dây liên kết giữa chúng ta vẫn bền chặt cả khi chốn cực lạc có bị cắt lìa khỏi dương gian. Đó chính là sức mạnh và sự vững bền của tình bạn chúng ta." Không ai nói gì với em ba. Thậm chí cả anh trai tôi cũng không hề nhắn nhủ bất cứ điều gì. Vì em ba chưa biết viết nên mẹ, thím và chị gái tôi viết một số thông điệp bằng nữ thư để giới thiệu nó với tổ tiên chúng tôi, rồi chúng tôi đốt những thứ đó đi sau khi đám đàn ông đi khỏi. Mặc dù chúng tôi mới bắt đầu thời kỳ ba năm chịu tang bà nội, nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn theo nếp cũ. Giai đoạn đau đớn nhất của việc bó chân đã qua. Mẹ tôi không còn đánh tôi nhiều như trước nữa, và nỗi đau đớn của việc bó chân cũng giảm bớt đi. Điều tốt nhất đối với tôi và Mỹ Nguyệt bây giờ là ngồi xuống và để đôi chân uốn theo hình dáng mới. Vào buổi sáng sớm, hai đứa tôi - dưới sự giám sát của chị gái - tập làm những mũi thêu mới. Xế trưa, mẹ dạy cho tôi xe sợi bông; đầu buổi chiều, chúng tôi bắt đầu dệt vải. Mỹ Nguyệt và mẹ của nó cũng học những bài tương tự, chỉ có điều theo trình tự ngược lại. Cuối buổi chiều, chúng tôi dốc sức cho việc học nữ thư, thím dạy bọn tôi những từ đơn giản với sự kiên nhẫn và khiếu hài hước tuyệt vời. Do không phải giám sát việc bó chân của em ba, chị gái tôi, lúc bấy giờ đã mười một tuổi, trở lại với việc học nữ công. Bà Cao, một bà mối trong làng, thường ghé qua để thảo luận về việc Nhận Thân, giai đoạn đầu tiên trong năm giai đoạn xe duyên cho anh trai và chị gái tôi. Bà Cao đã tìm được một cô con gái của một gia đình rất tương xứng với gia đình tôi tại thôn Cao Gia, bên nhà mẹ đẻ của bà Cao, cho anh trai tôi. Quả là một chuyện tốt khi kén được cô con dâu tương lai như vậy, bởi bà Cao đã mai mối nhiều đám giữa hai thôn với nhau đến mức những bức thư viết bằng nữ thư được trao đi gửi lại như thoi đưa. Ngoài ra, thím tôi vốn là người bên Cao Gia. Giờ thì thím lại có thể liên lạc với gia đình mình dễ dàng. Thím hớn hở đến mức suốt mấy ngày liền mọi người thấy thím cười suốt, ngoác cái miệng như vòm hang vĩ đại với hàm răng chỉa ra lởm chởm. Chị gái tôi, mà ai gặp cũng phải công nhận là dịu dàng và xinh đẹp, sẽ đi làm dâu trong một gia đình khá giả hơn gia đình tôi ở tận thôn Cát Đàm xa xôi. Chúng tôi buồn vì sau này sẽ không còn được gặp chị thường xuyên nữa, nhưng chúng tôi vẫn được sống cùng chị sáu năm nữa trước khi đám cưới được tổ chức, rồi hai hoặc ba năm tiếp theo trước khi chị mãi mãi rời xa chúng tôi. Ở xứ tôi, như người ta vẫn biết, mọi người đều tuân theo tập tục bất lạc phu gia, tức là nàng dâu sẽ chưa về ở hẳn trong nhà chồng cho đến khi có mang. Bà Cao chẳng giống bà Vương chút nào. Cách ăn mặc của bà ấy phải nói là thô lược. Trong khi bà Vương mặc quần áo bằng lụa thì bà Cao chỉ mặc bộ quần áo vải bông thô kệch. Trong khi bà Vương ăn nói nghe trơn tru như bôi mỡ vào miệng, thì bà Cao cứ oang oang như lệnh vỡ. Bà ta thường bước lên căn buồng phụ nữ, ngồi ghé lên chiếc ghế đẩu, và bảo cho bà ta xem bàn chân của cả mấy cô con gái nhà họ Di chúng tôi. Đương nhiên, chị tôi và Mỹ Nguyệt ngoan ngoãn vâng lời. Còn tôi, dù số phận đã nằm trong sắp đặt của bà Vương, nhưng mẹ vẫn bảo tới đưa chân cho bà ta xem. Bà Cao nhận định: "Khe nứt là phải sâu như những nếp gấp dưới chân của cô bé này này. Nó sẽ khiến chồng con bé cảm thấy sung sướng," hay "cái gót chân cong xuống thế kia của con bé tựa như cái bao cùng với ngón chân cái thuôn nhọn về phía trước như thế kia sẽ làm chồng nó luôn nhớ tới ‘anh bạn nhỏ’ của mình. Suốt ngày anh chồng may mắn sẽ chỉ nghĩ tới chuyện chăn gối thôi." Lúc ấy tôi không hiểu bà ta nói như vậy là nghĩa làm sao. Tới khi hiểu được, tôi ngượng chín cả người mỗi khi nghe mẹ và thím nói về chuyện đó. Nhưng họ với bà mối thì lại cười vang. Ba đứa chúng tôi cũng cười góp, nhưng như tôi đã nói, những lời ấy nằm ngoài vốn kinh nghiệm hay sự hiểu biết non nớt của chúng tôi. Năm đó, vào ngày mùng tám tháng Tư âm lịch, hội chị em kết nghĩa của chị tôi tụ họp ở nhà tôi nhân hội Chọi Trâu. Năm cô gái đều chứng tỏ mình đã chuẩn bị để mai này quán xuyến công việc nhà cửa tốt đến mức nào bằng cách cho thuê số lúa mà nhà mình đã cho để thành lập hội chị em kết nghĩa và dùng số tiền kiếm được để chuẩn bị bữa tiệc mừng. Mỗi cô mang một món ăn từ nhà mình tới: món mì, cải xanh với trứng muối, giò heo rưới tương ớt, đậu đũa muối, bánh nếp ngọt. Mọi người còn cùng nhau nấu nhiều món khác nữa, tất cả bọn con gái tập trung lại nặn bánh bao để hấp rồi khi ăn chấm với tương ớt vắt chanh. Họ ăn, cười khúc khích, và trích dẫn những câu chuyện viết bằng nữ thư như "Truyện Tam Cô", kể về con gái của một nhà giàu có trải qua bao thăng trầm vẫn chung thủy với người chồng nghèo khó, cuối cùng sự chung thủy của họ đã được đền đáp và người chồng được phong quan; hoặc truyện "Nàng tiên cá chép", kể về một con cá hóa thành một cô gái trẻ xinh tươi, sau đó yêu một chàng học trò thông minh sáng láng, điều đó đã khiến nàng phải hiện hình. Nhưng truyện họ thích nhất là "Truyện cô gái có ba người anh trai". Họ không biết tường tận câu chuyện này và họ không nhờ mẹ hát câu xướng và lời đáp, dù mẹ nhớ được khá nhiều từ trong đó. Thay vào đó, các chị em kết nghĩa của chị tôi lại nhờ thím tôi dẫn dắt cả câu chuyện. Mỹ Nguyệt và tôi cũng hùa vào, vì câu chuyện tình yêu đẹp đẽ và có thực này - vừa bi vừa hài - là một cách hay để chúng tôi có thể hát lên những ước nguyện của mình, được biểu lộ thông qua thứ chữ đặc biệt của phụ nữ chúng tôi. Một người chị em kết nghĩa của thím đã thêu câu chuyện đó lên chiếc khăn tay của bà. Thím tôi lôi mảnh khăn ra rồi cẩn thận mở. Mỹ Nguyệt và tôi xích lại gần, ngồi bên cạnh thím để có thể đọc được những chữ thêu này khi thím hát. "Ngày xưa, có một cô gái có ba anh trai," thím bắt đầu hát. "Cả ba đều đã có vợ, nhưng cô gái vẫn chưa lấy chồng. Dù nàng là người đức hạnh và đảm đang, song những người anh không chịu cho nàng của hồi môn. Nàng thật bất hạnh làm sao! Nàng có thể làm gì được đây?" Giọng mẹ tôi đáp lại. "Nàng quá đau khổ, bèn chạy ra vườn và treo cổ." Mỹ Nguyệt, chị tôi, những người bạn của chị, và tôi cùng hát đoạn đồng ca "Người anh cả của nàng bước ra vườn và vờ như không nhìn thấy nàng. Người anh thứ hai bước ra vườn và cũng vờ như không nhìn thấy nàng chết. Người anh thứ ba nhìn thấy, òa khóc, và bồng xác nàng vào nhà." Mẹ liếc sang và bắt gặp ánh mắt tôi đang chăm chú nhìn mẹ. Mẹ mỉm cười, hài lòng, có lẽ vì thấy tôi không bỏ sót một từ nào. Thím bắt đầu lại câu chuyện. "Ngày xưa, có một cô gái có ba anh trai. Khi nàng mất, không ai buồn để ý đến thi thể của nàng. Dù nàng là một cô gái đức hạnh và đảm đang, các anh trai cũng không chịu khâm liệm nàng. Điều này quả thật tàn nhẫn! Điều gì sẽ xảy ra?" "Khi chết nàng cũng bị lãng quên như lúc sống, cho đến khi thi thể nàng bốc mùi." Giọng mẹ tôi ngân lên. Lần nữa bọn tôi lại đồng thanh hát đoạn điệp khúc nổi tiếng. "Người anh cả cho một mảnh vải để bọc thi thể nàng. Người anh hai cho hai mảnh vải để bọc thi thể nàng. Người anh ba mặc cho nàng rất nhiều quần áo để nàng được ấm áp khi sang thế giới bên kia." "Ngày xưa có một cô gái có ba người anh" thím tôi tiếp tục. "Giờ đến việc mặc tấm áo vĩnh cửu cho nàng khi nàng đã trở thành hồn ma, các anh nàng không bỏ một xu nào để mua quan tài. Dù nàng là một cô gái đức hạnh và đảm đang, các anh nàng lại là những kẻ keo kiệt. Thật là bất công làm sao! Liệu nàng có thể được yên nghỉ dưới suối vàng?" "Đơn độc, đơn độc," mẹ tôi hát, "nàng sẽ sống những tháng ngày ám ảnh." Thím tôi dùng ngón tay để chỉ cho chúng tôi từ chữ này đến chữ khác và chúng tôi cố gắng nhìn theo mặc dù chúng tôi chưa đủ nhuần nhuyễn để biết hết các chữ đó. "Người anh cả nói, chúng ta không cần phải chôn nó trong một cái hộp. Nó chết thế nào thì để như thế ấy!" Người anh thứ hai đề nghị, "chúng ta sẽ dùng chiếc hộp cũ trong kho." Người anh thứ ba nói, "đây là tất cả số tiền mà em có, em sẽ đi mua một cỗ quan tài." Khi chúng tôi đến gần đoạn kết, nhịp điệu của câu chuyện trở nên gấp gáp. Thím tôi hát, "ngày xưa có một cô gái có ba anh trai. Họ đã đi xa, nhưng điều gì sẽ xảy ra với cô em gái đây? Người anh cả - tính tình bần tiện; người anh hai - tâm hồn lạnh lùng; chỉ riêng anh ba là có tấm lòng nhân ái." Mấy chị em kết nghĩa để tôi và Mỹ Nguyệt kết thúc câu chuyện. "Người anh cả nói, ‘hãy chôn nó ở đây bên đường trâu đi’ " (có nghĩa là nàng sẽ mãi mãi bị chà đạp). "Người anh thứ hai thì bảo, ‘Hãy chôn nó dưới chân cầu’ " (có nghĩa là nàng sẽ bị cuốn đi). "Nhưng người anh thứ ba - với trái tim nhân hậu, hiếu nghĩa đủ đường - thì nói, ‘chúng ta sẽ mai táng em gái sau nhà mình để mọi người đều tưởng nhớ đến em,’ thế là cô gái kia, khi sống chẳng được hạnh phúc, cuối cùng cũng tìm được niềm vui ở chốn cực lạc." Tôi thích câu chuyện này. Được hát cùng mẹ và những người khác thật là thích, nhưng sau cái chết của bà nội và em ba, tôi đã hiểu rõ hơn về những lời nhắn nhủ của câu chuyện. Câu chuyện cho tôi thấy giá trị của một cô gái - hay một người phụ nữ - có thể rất khác nhau theo quan điểm của mỗi người. Nó cũng chỉ dẫn cách khâm liệm một người thân sau khi chết - mộc, liệm như thế nào, mặc những lớp quần áo vĩnh cửu đúng cách như thế nào, nên chôn cất người chết ở đâu. Gia đình tôi đã cố gắng tuân theo những tập tục đó và tôi cũng sẽ vậy khi trở thành vợ, thành mẹ. SAU HÔM hội Chọi Trâu, bà Vương quay lại. Càng ngày tôi càng ghét những chuyến ghé thăm của bà ta, vì mỗi lần như vậy là cả nhà lại lo lắng. Tất nhiên, mọi người đều vui vì chị gái tôi có triển vọng sẽ có một cuộc hôn nhân tốt. Và tất nhiên, mọi người cũng vui vì anh trai tôi sắp lấy vợ và nhà tôi sẽ có nàng dâu cả. Nhưng chúng tôi vừa phải chịu hai cái tang. Nếu gạt bỏ tình cảm sang một bên, thì những điều này có nghĩa là nhà tôi phải chi phí tốn kém cho cả hai đám tang vừa qua và hai đám cưới sắp tới. Cái áp lực đè nặng lên tôi là làm sao để có được một cuộc hôn nhân tốt lại mang thêm một ý nghĩa đặc biệt. Đó là sự sống còn của gia đình tôi. Bà Vương đi lên gác để đến buồng phụ nữ, lịch sự kiểm tra việc thêu thùa của chị gái tôi và ngợi khen những mẫu thêu rất tốt đó. Sau đó, bà ấy ngồi xuống chiếc ghế đẩu, lưng quay về phía khung cửa sổ mắt cáo. Bà ta không nhìn thẳng vào tôi. Mẹ - giờ đã bắt đầu hiểu mình là người đàn bà có địa vị cao nhất trong nhà - vẫy tay bảo thím tôi mang trà ra. Bà Vương nói về chuyện thời tiết, về những kế hoạch cho mấy ngày đi lễ sắp tới, về việc vận chuyển hàng hóa đến đây bằng đường sông từ Quế Lâm. Khi trà được rót, bà Vương mới bàn đến công việc. "Thưa bà," bà ta bắt đầu "trước đây chúng ta đã từng bàn luận về những cơ hội mở ra cho con gái bà. Mối thông gia với một gia đình ở Thông Khẩu có vẻ như đã cầm chắc." Bà ta ngả người ra trước và kể. "Tôi cũng nhận được chút lợi ích ở đó. Trong vòng vài năm tới đây, tôi sẽ tới gặp bà và chồng bà về việc Nhận Thân." Bà ta ngồi thẳng thớm trở lại và hắng giọng: "Nhưng hôm nay tôi đến đây để bàn về một mối kết giao theo kiểu khác. Chắc bà vẫn nhớ ngay từ ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau, tôi đã nhận thấy rằng Bách Huệ có cơ hội trở thành một lão đồng." Bà Vương đợi cho mọi người kịp nhập tâm điều này trước khi tiếp tục. "Thôn Thông Khẩu cách đây chừng bốn mươi lăm phút đi bộ. Hầu hết những gia đình ở đó đều là tông tộc nhà họ Lữ. Có thể tìm được cho Bách Huệ một lão đồng ở đó. Con bé ấy tên là Tuyết Hoa." Câu hỏi đầu tiên của mẹ khiến tôi và tất cả những người khác trong buồng nhận thấy rằng bà chẳng những không quên điều bà Vương đã đề cập trong cái lần gặp gỡ đầu tiên mà còn mưu tính và suy nghĩ về khả năng này từ lúc ấy. "Tám đặc điểm đó là gì?" mẹ tôi hỏi, giọng nói ngọt ngào che đậy phần nào sự cả quyết của bà. "Tôi thấy không có lý do nào để có một cuộc kết giao như vậy trừ phi chỉ ra đầy đủ cả tám đặc điểm ấy." "Thưa bà, lẽ nào hôm nay tôi dám tới mà chưa định rõ cả tám điểm ấy," bà Vương đáp lại chẳng chịu kém phân. Bách Huệ và Tuyết Hoa cùng tuổi ngựa, sinh cùng tháng, và nếu như cả bà và mẹ nó đều nói thật, thì hai đứa còn cùng ngày sinh và giờ sinh. Bách Huệ và Tuyết Hoa có cùng số anh chị em, và chúng đều là con thứ ba trong gia đình…" "Nhưng…" Bà Vương đưa tay ra hiệu cho mẹ tôi ngừng lại. "Tôi sẽ trả lời câu hỏi của bà trước khi bà hỏi đây: Đúng, đứa con gái thứ ba trong nhà họ Lữ đã về với tổ tiên. Sự cố đau đớn này không hề liên quan, vì không ai muốn nghĩ đến việc mất đi đứa con, dẫu là con gái." Bà ta nhìn mẹ tôi chòng chọc, gần như thách mẹ dám mở miệng. Khi mẹ tôi nhìn đi chỗ khác, bà Vương lại tiếp tục "Bách Huệ và Tuyết Hoa cao ngang nhau, xinh đẹp như nhau, và quan trọng nhất, chúng được bó chân cùng một ngày. Cụ nội của Tuyết Hoa là tiến sĩ, có một địa vị xã hội và kinh tế ít ai bì kịp." Bà Vương không cần phải giải thích rằng nếu gia đình này, so với tổ tiên họ, đã đạt tới danh vị cao nhất trong hệ thống khoa cử của triều đình như vậy, thì nhà họ chắc chắn là giàu có phong lưu và có quan hệ với toàn những bậc thế gia vọng trọng. "Mẹ của Tuyết Hoa có vẻ không bận tâm đến sự khác biệt giữa hai nhà vì hai đứa có rất nhiều điểm tương đồng." Mẹ tôi điềm tĩnh gật đầu, con khỉ trong bà đang mải mê âm thầm với tất cả chuyện này, nhưng tôi thì chỉ muốn nhảy ra khỏi ghế, chạy như bay đến bờ sông và thét lên thích thú. Tôi liếc nhìn thím. Tôi chờ nhìn thấy nụ cười rộng ngoác như mái hang trên miệng thím, nhưng thay vì vậy thím mím chặt miệng, cố gắng giấu đi sự vui sướng của mình. Cả cơ thể của bà hiện thân cho sự điềm tĩnh và nền nã chừng mực, ngoại trừ những ngón tay của bà, cứ ngó ngoáy một cách căng thẳng như một đám lươn con… Bà hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ này hơn bọn tôi. Không lộ liễu, tôi lén nhìn Mỹ Nguyệt và chị gái. Đôi mắt họ lấp lánh vì mừng cho tôi. Ôi, những chuyện bọn tôi sẽ tâm sự với nhau đêm nay sau khi cả nhà đi ngủ! "Mặc dù tôi luôn tiến hành những cuộc tiếp xúc kiểu này vào dịp Trung Thu khi các cô gái được tám hay chín tuổi," bà Vương lưu ý, "nhưng tôi cảm thấy trong trường hợp này tiến hành kết giao ngay bây giờ sẽ có lợi cho con gái của bà. Con bé khá lý tưởng về nhiều mặt, nhưng việc nữ công có thể phải học nhiều hơn nữa, và nó cần phải trau rèn nhiều lắm đấy để có thể xứng với một gia đình cao sang hơn." "Con gái tôi sẽ không phải là một đứa như bà nói tới," mẹ nói với thái độ dửng dưng. "Nó cứng đầu và khó bảo. Tôi không chắc đây là một ý kiến hay. Thà trở thành một trái nho không hoàn hảo giữa đám chị em kết nghĩa còn hơn làm một tiểu thư cao sang phải thất vọng." Niềm sung sướng mới cách đây mấy phút của tôi rơi tọt xuống vực thẳm. Dù tôi khá hiểu mẹ, nhưng tôi chưa đủ lớn để hiểu rằng những lời chua ngoa bà nói về tôi là một phần trong cuộc thương lượng này, cũng giống như những ẩn ý mà bố tôi và bà mối sẽ ngồi lại trao đổi với nhau về cuộc hôn nhân của tôi. Nói về tôi như thể không có giá trị gì sẽ giúp bố mẹ tôi tránh được những lời phàn nàn từ phía người chồng hay từ phía gia đình người lão đồng tương lai của tôi. Nó cũng sẽ giúp giảm được bất kỳ khoản tốn phí tiềm ẩn nào mà bố mẹ tôi phải trả cho bà mối và giảm bớt những gì họ phải đưa vào của hồi môn của tôi. Bà mối vẫn điềm nhiên. "Bà thấy vậy cũng là lẽ thường. Có quá nhiều người quan tâm đến chuyện này. Nhưng hôm nay nói thế là đủ." Bà ta ngừng lại trong giây lát như thể đang cân nhắc, mặc dù tất cả chúng tôi đều thấy rõ rằng từng lời nói từng hành động của bà ta đều đã được xếp đặt từ trước và diễn đi diễn lại nhiều lần rồi. Bà ta thò vào ống tay áo, lôi ra một chiếc quạt, và gọi tôi lại. Khi trao nó cho tôi, bà Vương nói với qua tôi. "Bà cần có thời gian để suy nghĩ về số phận của con gái mình." Tôi mở chiếc quạt và đọc những dòng chữ chạy dọc trên một nếp gấp và vòng lá tô điểm ở mép ngoài chiếc quạt. Mẹ tôi lạnh lùng nói với bà mối, "Bà đưa nó cho con gái tôi dù tôi và bà chưa thỏa thuận về khoản thù lao của bà sao?" Bà Vương xua xua tay trước câu nói của mẹ như thể nó có mùi khó ngửi. "Cũng giống như cuộc hôn nhân của con bé. Nhà họ Di không phải trả thù lao. Gia đình của cô bé kia sẽ trả cho tôi. Và nếu giờ tôi giúp giá trị của con gái bà được nâng lên khi trở thành một lão đồng, thì khoản thù lao tôi được nhận từ gia đình nhà trai sẽ còn tăng thêm nhiều hơn nữa kìa. Tôi hài lòng với sự dàn xếp này." Bà ta đứng dậy và bước vài bước tới chỗ cầu thang. Rồi bà ta quay lại, đặt tay lên vai thím tôi và nói với cả phòng: "Một điều nữa mà tất cả các vị nên xem xét. Người phụ nữ này đã làm rất tốt cho con gái của mình; và tôi có thể thấy rằng Mỹ Nguyệt và Bách Huệ cũng gần ngang ngửa nhau. Nếu chúng ta thỏa thuận được về việc tạo dựng mối quan hệ lão đồng cho Bách Huệ, một điều sẽ củng cố vững chắc cơ hội lấy chồng ở Thông Khẩu của con bé, thì tôi nghĩ rằng việc xem xét để tìm một mối cho Mỹ Nguyệt ở đó cũng sẽ thuận lợi." Khả năng này khiến cả nhà kinh ngạc. Tôi quên mất phải cư xử đúng mực và quay lại nhìn Mỹ Nguyệt, lúc này cũng đang phấn chấn y như tôi. Bà Vương đưa cánh tay lên và khum bàn tay lại thành hình trăng khuyết. "Tất nhiên, có thể là bà đã thỏa thuận với bà Cao. Tôi không muốn vào địa phận của bà ta chút nào," - nói vậy nghĩa là bà ta có ý chê bôi - "dù sao cũng là công việc." Nếu không có ý gì khác, thì điều này chứng tỏ mẹ tôi còn non tay lắm so với thủ thuật mặc cả lão luyện của bà Vương, mà giờ đang nói chuyện thẳng với mẹ tôi. "Tôi cho rằng việc này là do người đàn bà quyết, một trong vài điều ít ỏi bà có thể làm cho con gái mình, và cũng có thể là cho cả cháu gái bà nữa. Tuy nhiên, cũng phải có sự đồng ý của bố con bé nữa, thì chúng ta mới có thể tiến xa hơn. Thưa bà, tôi sẽ rời khỏi đây với lời khuyên nhỏ cuối cùng thế này: chờ đến giờ đi ngủ hãy thuyết phục cho trường hợp này." Trong khi mẹ và thím tiễn bà mối lên kiệu, chị tôi, Mỹ Nguyệt và tôi cùng đứng lại trong căn phòng, ôm ghì lấy nhau và trò chuyện rôm rả. Có thể nào tất cả những điều tuyệt vời này lại đang xảy đến với tôi? Mỹ Nguyệt rồi cũng sẽ lấy chồng ở Thông Khẩu? Chúng tôi sẽ thực sự được ở bên nhau suốt quãng đời còn lại? Chị tôi, hẳn cũng cảm thấy hơi chua chát cho số phận của mình, song vẫn nhiệt tình cầu mong những điều tốt đẹp mà bà mối hứa hẹn sẽ thành hiện thực, vì chị hiểu rằng như vậy sẽ có lợi cho cả nhà. Chúng tôi còn trẻ con và đang rất phấn khích, nhưng chúng tôi vẫn biết cách cư xử như thế nào cho phải phép. Mỹ Nguyệt và tôi ngồi xuống để đôi chân chúng tôi được nghỉ ngơi. Chị gái tôi khẽ chạm đầu vào chiếc quạt tôi đang cầm, "Nó nói gì vậy?" "Em không thể đọc được hết. Giúp em với." Tôi mở chiếc quạt ra. Chị tôi và Mỹ Nguyệt nhìn chăm chú qua vai tôi. Cả ba chúng tôi cùng tỉ mỉ xem các con chữ, và tìm những từ mà chúng tôi đọc được: cô gái, tốt, phụ nữ, nhà, bạn, mình. Thím tôi biết rằng chỉ mình thím mới có thể giúp tôi, nên thím trở lên gác sớm nhất. Thím dùng ngón tay chỉ cho tôi từng con chữ. Tôi nhớ được ngay: "Mình được biết bạn là cô gái tính tình thùy mị nết na và hiểu đạo công dung ngôn hạnh trong nhà. Bạn và mình sinh cùng ngày cùng năm. Sao chúng ta không trở thành bạn tương giao của nhau nhỉ?" Trước khi tôi có thể trả lời thư cô gái mang tên Tuyết Hoa đó, gia đình tôi phải xem xét và cân nhắc nhiều điều. Mặc dù, chị tôi, Mỹ Nguyệt và tôi không hề nói bất cứ một lời nào về những chuyện sắp xảy ra, chúng tôi ngồi hàng giờ ở căn buồng trên gác lắng nghe mẹ và thím bàn bạc về những hệ quả của mối kết giao lão đồng. Mẹ tôi là một người khôn ngoan sắc sảo, nhưng thím tôi xuất thân từ gia đình khá giả hơn nhà tôi và suy nghĩ sâu sắc hơn. Thế nhưng, vì là người đàn bà có địa vị thấp nhất trong nhà nên thím luôn cẩn trọng khi nói ra bất cứ điều gì, đặc biệt là lúc này, khi mẹ tôi có toàn quyền quản lý gia đình. "Một cuộc kết giao lão đồng cũng quan trọng không kém gì một cuộc hôn nhân tốt," thím mào đầu. Thím sẽ lặp lại nhiều điều bà mối đã nói, nhưng thím luôn quay lại một yếu tố mà thím xem là quan trọng nhất. "Mối quan hệ lão đồng được lựa chọn là để có được quan hệ bạn bè tình cảm và trung thành mãi mãi. Hôn nhân thì không được lựa chọn và chỉ có mục đích duy nhất - sinh con trai." Nghe nhắc đến con trai, mẹ tôi cố an ủi cô em dâu. "Thím có được Mỹ Nguyệt đấy thôi. Nó là đứa con gái ngoan và sẽ khiến mọi người hạnh phúc…" "Và nó sẽ rời xa em mãi mãi khi nó đi lấy chồng. Chị có hai đứa con trai, chúng sẽ sống bên chị đến hết đời." Ngày nào hai người cũng nói đến chuyện buồn này, và ngày nào mẹ tôi cũng cố lái sang những vấn đề thực tế hơn. "Nếu Bách Huệ trở thành lão đồng, con bé sẽ không thể có những người chị em kết nghĩa. Mà đàn bà con gái trong gia đình ta…" … đều có, mẹ định nói nốt vậy, nhưng thím lại ngắt lời, kết câu theo kiểu khác - "đều có thể làm như những chị em kết nghĩa trong những dịp cần đến họ. Nếu chị cảm thấy cần có thêm nhiều cô gái trong thời gian tới cho lễ Ngồi và Hát trước đám cưới của Bách Huệ, chị có thể nhờ cả những cô chưa chồng ở hàng xóm sang để có mặt bên con bé." "Mấy con bé đó không biết nhiều về nó," mẹ tôi lên tiếng. "Nhưng lão đồng có thể. Đến khi hai đứa đều đã lấy chồng, chúng sẽ hiểu nhau hơn chị hoặc em hiểu chồng mình." Thím ngừng lại như mỗi khi nhắc tới chuyện này. "Bách Huệ có cơ hội để đi theo một con đường khác với con đường mà chị và em đã đi để rồi kết thúc ở đây," thím tiếp tục, sau giây lát. "Chính mối quan hệ lão đồng sẽ làm tăng giá trị cho con bé và khiến mọi người ở Thông Khẩu biết rằng nó xứng đáng với cuộc hôn nhân tốt đẹp ở đó. Và vì mối quan hệ giữa hai lão đồng là vĩnh viễn, không thay đổi khi chúng đi lấy chồng, nên sợi dây ràng buộc với mọi người ở Thông Khẩu sẽ được thắt chặt hơn và bác trai - và cả chúng ta nữa - sẽ được sự che chở lâu dài. Tất cả những điều đó sẽ giúp bảo vệ địa vị của Bách Huệ trong những chỗ dành cho phụ nữ ở nhà chồng tương lai của nó. Nó sẽ không phải là một người đàn bà què cụt với khuôn mặt xấu xí hay đôi chân dị hợm. Nó sẽ trở thành người đàn bà với đôi chân bó hoàn hảo, đã chứng tỏ được sự chung thủy, chân thành, và khả năng viết được thứ chữ viết bí mật của chúng ta khá thành thạo đủ để trở thành lão đồng của một cô gái từ thôn của họ." Những buổi nói chuyện kiểu này là vô tận, và ngày nào tôi cũng lắng nghe họ nói. Cái mà tôi không nghe được là những câu chuyện đó được truyền đạt lại cho bố tôi thế nào khi bố mẹ đi ngủ. Bố tôi sẽ phải tốn kém khá nhiều cho cuộc kết giao này - những món quà tặng thường xuyên giữa lão đồng và hai nhà, sự khoản đãi đồ ăn và thức uống khi Tuyết Hoa đến thăm gia đình chúng tôi, và những chi phí cho tôi đến Thông Khẩu - tất cả những thứ đó bố đều không có. Nhưng như bà Vương nói, tùy thuộc ở mẹ xem có thuyết phục được bố rằng đó là một ý hay. Thím cũng giúp đỡ bằng cách thì thầm với chú vì tương lai của Mỹ Nguyệt tùy thuộc vào tương lai của tôi. Ai bảo rằng phụ nữ không có ảnh hưởng tới những quyết định của đàn ông thì thật ngớ ngẩn và nhầm to. Cuối cùng, gia đình tôi đã chọn đúng như ước nguyện của tôi. Vấn đề đặt ra tiếp theo là tôi sẽ phải hồi âm cho Tuyết Hoa thế nào. Mẹ giúp tôi thêu thêm vài họa tiết vào đôi giày mà tôi đang tự tay làm để gửi đi, coi như món quà đầu tiên, thế nhưng bà lại không thể khuyên tôi phải viết thư hồi âm thế nào. Thông thường, thư hồi âm được gửi trên một chiếc quạt mới, nó sẽ trở thành một phần của cái được xem là quà trao đổi cho "lễ cưới". Tôi có những ý nghĩ khác, những điều cắt đứt hoàn toàn với truyền thống. Khi tôi nhìn thấy vòng cỏ tết trên mép chiếc quạt của Tuyết Hoa, tôi nghĩ tới một câu châm ngôn "Cây đậu móng chim và cây đu đủ, dây leo dài, rễ ăn sâu. Cây cọ bên trong tường vườn, rễ ăn sâu, trụ vững nghìn năm." Với tôi, câu nói này đã tổng kết hết thảy những gì tôi muốn mối quan hệ này có được: sâu sắc, không rời xa, mãi mãi bền lâu. Tôi muốn chiếc quạt này trở thành biểu tượng của quan hệ giữa chúng tôi. Tôi mới bảy tuổi rưỡi, nhưng tôi đã hình dung được chiếc quạt với những thông điệp bí mật của nó sẽ có ý nghĩa thế nào. Khi mọi người bảo tôi nên trả lời Tuyết Hoa trên chính chiếc quạt đó, tôi nhờ thím giúp viết thư hồi đáp theo đúng tiêu chuẩn nữ thư. Chúng tôi bàn bạc với nhau nhiều ngày về những khả năng có thể xảy ra. Nếu tôi phải thật độc đáo với món quà đáp lễ, thì tôi nên tuân theo thông lệ càng sít sao càng tốt khi viết lá thư bí mật. Thím viết ra những từ mà chúng tôi đã nhất trí với nhau, và tôi tập viết theo cho đến lúc nét chữ của tôi cũng tạm chấp nhận được. Khi đã hài lòng, tôi mài mực trên nghiên, hòa với nước cho đến khi mực có màu đen thẫm. Tôi cầm chiếc bút lông trong tay, cố giữ thẳng, giữa ngón cái và ngón trỏ và ngón giữa, sau đó tôi chấm mực. Tôi bắt đầu vẽ một bông hoa tuyết bé xíu giữa vòng lá trên mép quạt. Tôi chọn nếp gấp kế bên dòng chữ đẹp đẽ của Tuyết Hoa để viết. Tôi mở đầu theo cách quen thuộc và tiếp tục bằng những đoạn đã được thông qua cho sự kiện này: Mình viết thư cho bạn. Hãy lắng nghe những tâm tình của mình. Dù mình nghèo và không thích hợp với bạn, dù mình không xứng bước qua cánh cổng cao sang nhà bạn, thì hôm nay mình vẫn viết thư cho bạn để nói rằng chính ông trời đã sắp đặt để chúng ta được kết giao với nhau. Những lời nói của bạn đã chiếm trọn tim mình. Đôi ta như uyên phải có ương. Đôi ta như sông phải có cầu. Người người khắp nơi sẽ phải thầm ghen với mối duyên đẹp của chúng ta. Đúng vậy đấy, trái tim mình thật sự hòa cùng nhịp đập với trái tim bạn. Cố nhiên là tôi không có tất cả những tình cảm đó. Làm sao mà chúng tôi có thể nghĩ ra nổi nào là tình yêu, tình bạn, lời cam kết mãi mãi, sâu sắc đến như thế trong khi chúng tôi mới chỉ bảy tuổi? Chúng tôi chưa hề gặp nhau, và thậm chí nếu có gặp thì chúng tôi cũng chẳng hiểu chút nào những tình cảm như vậy. Đó chỉ là tất cả những từ ngữ tôi viết ra, hy vọng một ngày nào đó những điều này sẽ trở thành sự thật. Tôi đặt chiếc quạt và đôi giày dùng cho chân bó lên một mảnh vải. Khi đôi tay không bận bịu gì thì tâm trí tôi lại lo lắng về nhiều chuyện. Liệu tôi có quá thấp kém so với gia đình Tuyết Hoa không? Liệu họ có trông vào những nét chữ của tôi và nhận ra sự kém cỏi của tôi không? Họ có nghĩ rằng việc làm trái với truyền thống của tôi chứng tỏ cách cư xử của tôi thật tệ? Liệu họ có cắt đứt mối kết giao này? Những ý nghĩ lo lắng bứt rứt đó - hồ ly tinh, mẹ tôi bảo thế - cứ bám riết lấy tôi, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm là chờ đợi, tiếp tục những công việc ở buồng phụ nữ, và để đôi chân nghỉ ngơi cho xương lành lại đúng cách. Thoạt nhìn những gì tôi viết trên chiếc quạt, bà Vương bĩu môi tỏ ý không tán thành. Một lúc lâu sau thì bà ấy gật gù, rõ là cố ý tỏ ra thế. "Đây quả thật là một cuộc kết giao hoàn hảo. Tuy hai cô bé không trùng khớp với nhau ở tám điểm kia, nhưng chúng giống hệt nhau về tính cách của người tuổi ngựa. Việc này sẽ hay đây…" Bà ta nói từ cuối cùng cao vống lên như câu hỏi, điều đó lại làm tôi băn khoăn về Tuyết Hoa. "Bước tiếp theo là hoàn tất những thỏa ước chính thức. Tôi sẽ hộ tống hai cô bé này đến Miếu Cô Bà ở Xá Hạ để chúng viết thỏa ước. Thưa bà, tôi sẽ lo chu đáo việc đi lại cho cả hai cô bé. Tôi sẽ chú ý để hai đứa đi bộ ít thôi." Dứt lời, bà Vương cầm bốn đầu mảnh vải, buộc lên trên đôi giày và chiếc quạt, rồi mang nó theo đến gia đình lão đồng tương lai của tôi. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 5: Tuyết Hoa Những ngày tiếp theo tôi khó mà ngồi yên một chỗ để cho đôi chân liền lại như mọi người căn dặn, bởi tôi chỉ nghĩ tới việc sẽ sớm được gặp Tuyết Hoa. Ngay cả mẹ và thím cũng bị bắt quả tang đang háo hức, gợi ý về những điều tôi và Tuyết Hoa nên viết trong bản thỏa ước mặc dù cả mẹ và thím đều chưa từng nhìn thấy một bản thỏa ước như vậy bao giờ. Khi kiệu của bà Vương đến ngưỡng cửa nhà chúng tôi, tôi đã sạch sẽ tinh tươm trong bộ quần áo nông dân giản dị. Mẹ đưa tôi xuống nhà, rồi ra ngoài. Mười năm sau, khi tôi lấy chồng, tôi sẽ có một chuyến đi bằng kiệu tương tự như vậy. Vào dịp đó, tôi sẽ chỉ thấy sợ hãi về cuộc sống mới phía trước và buồn bã vì phải để lại sau lưng tất cả những gì từng quen thuộc đối với tôi, nhưng trong buổi gặp gỡ này, tôi cảm thấy choáng váng bởi cảm giác kích thích đến căng thẳng. Không biết Tuyết Hoa có giống tôi không nhỉ? Bà Vương mở cửa chiếc kiệu, mẹ đặt tôi ngồi xuống, và tôi bước vào một không gian nhỏ. Tuyết Hoa xinh hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Đôi mắt cô như đôi trái hạnh đào hoàn hảo. Da cô trắng xanh, điều đó cho thấy cô không có nhiều thời gian chạy nhảy ngoài trời như tôi trong suốt tuổi thơ sữa. Tấm rèm đỏ buông xuống gần cô, và ánh sáng màu hồng lấp lánh trên mái tóc đen óng của cô. Cô mặc áo ngoài bằng lụa xanh, thêu hình một đám mây. Bên dưới ống quần của cô ló ra đôi giày tôi đã khâu tặng. Tuyết Hoa im lặng. Có lẽ cô cũng căng thẳng như tôi. Cô mỉm cười với tôi và tôi cũng cười đáp lễ. Chiếc kiệu chỉ có một chỗ ngồi, nên cả ba người chúng tôi phải ngồi sát vào nhau. Để giữ cho chiếc kiệu được cân bằng, bà Vương ngồi ở giữa. Những người phu kiệu nâng chúng tôi lên, và chẳng mấy chốc họ đã đi qua cây cầu dẫn ra khỏi Phủ Vĩ. Trước nay tôi chưa từng ngồi kiệu. Chúng tôi có bốn người khiêng kiệu, họ cố gắng chạy đúng cách để kiệu lắc lư ít nhất, nhưng tấm rèm rủ xuống, hơi nóng của ban ngày, sự lo lắng của tôi, sự di chuyển nhịp nhàng lạ lùng khiến bụng tôi khó chịu. Tôi cũng chưa bao giờ đi xa nhà, nên kể cả nếu lúc đó tôi có thể nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ thì tôi cũng không biết rằng tôi đang ở đâu, và còn bao xa nữa mới tới. Tôi đã từng nghe nói về ngôi miếu ở hội chợ Cô Bà. Mà có ai lại chưa từng cơ chứ? Đàn bà con gái hàng năm vẫn tới viếng nơi này vào mùng mười tháng Năm để cầu xin con trai. Nghe nói, có hàng ngàn người đã tới hội này. Chuyện này nằm ngoài khả năng hiểu biết của tôi. Khi tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng ồn ào vọng tới qua bức rèm của chiếc kiệu - tiếng lục lạc phát ra từ những chiếc xe ngựa, tiếng những người khiêng kiệu quát người đi đường, "Tránh ra," và tiếng rao của những người bán hàng rong trên đường phố đang vẫy tay mời khách mua hương, nến và những lễ vật khác, để mang đến ngôi miếu - thì tôi biết chúng tôi đã tới nơi. Chiếc kiệu dừng lại và những người khiêng kiệu đặt chúng tôi xuống khá mạnh. Bà Vương ngả sang phía tôi, đẩy cánh cửa, nói chúng tôi ngồi yên đấy, và bước ra ngoài. Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy dễ chịu vì không phải đi nữa và chú tâm vào việc xoa dịu cái bụng, chợt một giọng cất lên nói đúng những suy nghĩ của tôi: "Thật thích khi được ngồi yên không phải đi đâu nữa. Mình phát ốm lên rồi. Trông mình thế nào?" Tôi mở mắt nhìn Tuyết Hoa. Làn da trắng xanh của cô trở nên xanh mét y như tôi hình dung ra khuôn mặt của mình lúc đó vậy. Nhưng đôi mắt cô thì thực sự tĩnh tại. Cô so vai lên gần tai đầy bí ẩn, cười theo cái kiểu mà tôi sớm nhận ra thế nghĩa là bất kể những gì nảy ra trong đầu cô đều sẽ khiến chúng tôi gặp rắc rối rồi vỗ nhẹ tấm nệm bên cạnh cô và nói, "Nhìn xem có gì ngoài kia nào." Điểm cốt lõi để liên kết tám điểm chung của chúng tôi lại với nhau là chúng tôi cùng sinh vào năm con ngựa. Điều này có nghĩa là chúng tôi đều thích phiêu lưu. Cô lại nhìn tôi, thăm dò độ can đảm của tôi, tôi phải thừa nhận là phẩm chất đó ở tôi rất ít. Tôi hít một hơi sâu và ghé sang chỗ cô trong chiếc kiệu, cô kéo tấm màn lên. Bây giờ, tôi mới có thể đối diện với những giọng nói tôi nghe thấy ban nãy, nhưng ngoài ra, trước mắt tôi còn bao hình ảnh thật đáng kinh ngạc. Những người thuộc bộ tộc Dao dựng lên những gian hàng vải được trang hoàng với những tấm vải bay phấp phới, sặc sỡ hơn bất cứ tấm vải nào mà mẹ và thím từng dệt. Một ban hát với trang phục sặc sỡ đi ngang qua, họ đang trên đường tới một buổi biểu diễn Kinh kịch. Một người đàn ông dắt con lợn đi qua. Tôi chưa từng nghĩ có ai đó lại mang lợn ra chợ để bán cả. Cứ vài phút lại thấy một chiếc kiệu khác đổi hướng đi qua kiệu bọn tôi. Bọn tôi đoán rằng trong mỗi chiếc kiệu lại có một người phụ nữ tới Miếu Cô Bà dâng lễ. Nhiều người phụ nữ khác thì đi bộ trên đường - những chị em kết nghĩa đã lấy chồng ở thôn khác và quay lại gặp mặt trong ngày đặc biệt này. Họ mặc chiếc váy đẹp nhất và đội những chiếc khăn trùm đầu được thêu tinh xảo nhất. Họ cùng nhau bước đi uyển chuyển trên những đôi chân bó dọc theo con phố. Ở đây có quá nhiều cảnh đẹp cuốn hút chúng tôi, cộng thêm mùi thơm ngọt ngào không tưởng tượng được thoảng đến chỗ chiếc kiệu của chúng tôi hấp dẫn cái mũi tôi và khiến bụng tôi trở nên dễ chịu. "Bạn đến đây bao giờ chưa?" Tuyết Hoa hỏi tôi. Khi tôi lắc đầu, cô tiếp tục. "Mình đến đây với mẹ mấy lần rồi. Mẹ con mình luôn cảm thấy vui vẻ. Mẹ con mình đến viếng ngôi miếu. Bạn có nghĩ là hôm nay chúng ta sẽ đi tham quan ngôi miếu không? Chắc là không. Vì như thế sẽ phải đi bộ quá nhiều, nhưng mình hy vọng chúng ta sẽ được đến quầy bán khoai. Mẹ thường dẫn mình đến đó. Bạn có ngửi thấy mùi đó không? Ông Chu - chủ quầy đó - có món khoai môn rán ngon nức tiếng huyện ta đấy." Cô đã đến đây nhiều lần? "Ông ấy làm thế này này: ông ấy chiên mấy miếng cho đến khi ruột mềm đi nhưng vỏ ngoài thì cứng lại và giòn tan. Sau đó ông ấy nấu đường trong một cái chảo lớn và để lửa to. Bạn ăn đường chưa Bách Huệ? Đó quả là thứ ngon nhất trên đời này đấy. Ông ấy đun nó cho đến lúc chuyển sang màu nâu, và ông ấy cho khoai chiên vào chảo đường và ông ấy trộn chúng với nhau, đến khi nào những miếng khoai đều được bọc đường. Ông ấy cho chúng vào đĩa và mang đến bàn của bạn, cùng với một bát nước lạnh. Bạn không thể tin được là khoai nóng đến mức nào với lớp đường nấu chảy đó đâu. Nó sẽ làm bạn phỏng cả miệng nếu bạn cứ cố ăn lấy ăn để, thế nên bạn phải dùng đôi đũa gắp từng miếng khoai nhúng vào nước. Rắc! Rắc! Rắc! Đó là âm thanh khi lớp đường bọc cứng lại. Khi bạn cắn miếng khoai, bạn nhai lớp đường trước, rồi tới lớp vỏ khoai chiên giòn rồi mới tới cái lõi mềm trong cùng. Dì sẽ dẫn chúng mình đi, đồng ý không?" "Dì nào?" "Bạn nói rồi kìa! Mình cứ nghĩ tất cả những gì bạn có thể làm là viết những từ ngữ tuyệt vời thôi cơ." "Có lẽ mình không nói nhiều bằng bạn," tôi nhẹ nhàng đáp lại, cảm thấy bị tổn thương. Cô là chắt gái của một tiến sĩ và hiểu biết gấp nhiều lần một con bé con nhà nông dân như tôi. Cô cầm lấy tay tôi. Bàn tay cô thật khô và nóng hổi, khí trong người cô đang bừng bừng. "Đừng lo. Mình cũng không để ý đâu nếu bạn vẫn im lặng. Cái tật nói nhiều của mình chỉ tổ luôn gây rắc rối cho mình thôi vì mình thường không suy nghĩ kỹ trước khi nói, còn bạn sẽ là một người vợ lý tưởng, luôn luôn nghĩ kỹ rồi mới nói." Thấy chưa? Ngay ngày đầu tiên chúng tôi đã hiểu nhau rồi, nhưng liệu điều này có ngăn chúng tôi về sau không mắc phải sai lầm không? Bà Vương mở cửa kiệu. "Xuống đây, các cô gái. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ mười bước thôi là chúng ta sẽ đến nơi hẹn. Chậc, ta đành phải vi phạm lời hứa với mẹ của các cô thôi." Chúng tôi đứng cách hàng giấy được trang trí những băng giấy màu đỏ thắm, đôi câu chúc may mắn, các biểu tượng hạnh phúc nhân đôi đỏ và vàng, và những bức tượng Thánh nữ Cô Bà sơn màu. Chiếc bàn trước cửa chất đầy những món hàng đủ màu sắc để bán. Hai gian hai bên dành cho khách quen đi vào bên trong cửa hàng, hai phía đều có kê ba chiếc bàn dài nhằm ngăn cách hai gian này với sự huyên náo ngoài đường. Ở giữa quầy hàng, một chiếc bàn nhỏ dùng để đặt mực, bút lông, và hai chiếc ghế dựa. Bà Vương bảo chúng tôi lựa một tờ giấy để viết thỏa ước. Giống như mọi đứa trẻ tôi thường chỉ chọn những thứ nhỏ, như khi phải chọn miếng rau nào trong chiếc bát lớn sau khi bố, chú, anh trai và các thành viên khác trong nhà đã đưa đũa vào đĩa. Giờ thì cái nào tôi cũng muốn chọn, tôi muốn chạm tay vào tất cả những món hàng, trong khi Tuyết Hoa, cũng là một cô bé bảy tuổi rưỡi như tôi, lại rất biết cách lựa chọn, điều đó cho thấy cô được dạy dỗ tốt hơn tôi nhiều. Bà Vương nói, "Nhớ nhé, các cô, ta sẽ trả tiền cho mọi thứ hôm nay. Đây chỉ là một quyết định thôi. Các cô còn những việc khác cần làm, nên đừng lãng phí thời giờ nữa." "Tất nhiên rồi, thưa dì," Tuyết Hoa trả lời thay cho cả hai đứa tôi. Cô hỏi tôi, "Bạn thích cái nào?" Tôi chỉ vào tờ giấy có khổ lớn vì chính cái khổ ấy mới thích hợp cho một dịp quan trọng thế này. Tuyết Hoa giơ ngón tay trỏ chỉ vào mép vàng của tờ giấy. "Chất lượng của mép giấy vàng này tệ lắm," cô nói; rồi cô đưa tờ giấy lên soi. "Tờ giấy này mỏng tang và nhìn xuyên qua được như cái cánh ong cánh kiến ấy. Nhìn ánh nắng chiếu qua nó này?" Cô đặt tờ giấy xuống bàn và nhìn vào mắt tôi với vẻ nghiêm túc. "Chúng ta cần một thứ có thể mãi mãi khắc ghi tính cao quý và sự vững bền của mối quan hệ giữa chúng ta." Tôi hầu như chẳng hiểu những điều cô nói. Cô nói hơi khác với thổ âm mà tôi quen nghe ở Phủ Vĩ, nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến tôi không hiểu. Tôi là đứa trẻ kém cỏi và ngây ngô; còn cô là người được dạy dỗ tử tế; và những kiến thức cô được học ở nhà còn vượt xa những gì mẹ và thím tôi biết. Cô kéo tôi vào sâu hơn trong cửa hàng và thì thầm, "Họ luôn luôn để những thứ hàng tốt hơn ở đằng sau này." Rồi cô nói tiếp, giọng bình thường trở lại, "lão đồng, bạn thấy cái này thế nào?" Đó là lần đầu tiên có một người đề nghị tôi nhìn - nhìn thật - vào một thứ gì đó, và tôi làm theo. Thậm chí, cặp mắt ngờ nghệch của tôi cũng nhìn ra sự khác nhau giữa tờ giấy tôi chọn ở ngoài kia và tờ giấy ở trong này. Nó nhỏ hơn về kích cỡ và ít lòe loẹt hơn trong cách trang trí. "Kiểm tra xem," Tuyết Hoa nói. Tôi cầm tờ giấy lên - cảm thấy nó chắc nịch trong tay mình - rồi soi chúng dưới ánh nắng như Tuyết Hoa đã làm. Tờ giấy này dày đến nỗi ánh nắng chỉ còn là vệt đỏ mờ đục khi chiếu qua nó. Chúng tôi lặng lẽ thỏa thuận với nhau, rồi đưa tờ giấy đến chỗ người bán hàng. Bà Vương trả tiền cho món hàng đó và cả cho chúng tôi để chúng tôi được ngồi viết thỏa ước ở chiếc bàn giữa gian hàng. Lúc ấy, Tuyết Hoa và tôi ngồi xuống đối diện với nhau. "Bạn nghĩ là đã có bao nhiêu cô gái từng ngồi ở chiếc ghế này để viết thỏa ước?" Tuyết Hoa hỏi. "Chúng ta phải viết một thỏa ước hay nhất từng có." Cô nhíu mày một chút, rồi hỏi, "Bạn nghĩ mình nên viết gì bây giờ?" Tôi chợt nhớ đến những điều mà mẹ và thím tôi gợi ý. "Chúng ta là những cô gái," tôi nói, "nên chúng ta luôn phải tuân theo quy tắc." "Đúng, đúng, tất cả những điều thông thường," Tuyết Hoa nói, có vẻ hơi sốt ruột, "nhưng chẳng lẽ bạn không muốn thỏa ước này dành riêng cho hai đứa mình?" Chính tôi cũng không chắc lắm, còn cô thì có vẻ biết rất nhiều chuyện. Cô đã từng đến đây, trong khi tôi chưa từng đi bất cứ đâu. Có vẻ như cô biết thỏa ước của chúng tôi nên viết những gì, còn tôi thì chỉ có thể dựa vào những gì mà mẹ và thím hình dung về nó. Mỗi ý kiến tôi đề xuất lại thành ra một câu hỏi. "Chúng ta sẽ là lão đồng suốt đời chứ? Chúng ta luôn chân thành với nhau chứ? Chúng ta sẽ cùng làm những công việc nhà trong căn buồng trên gác với nhau chứ?" Tuyết Hoa nhìn thẳng vào tôi như lúc nãy ở trong kiệu. Tôi không đoán nổi cô đang nghĩ gì. Tôi có nói điều gì sai trái không? Tôi có nói sai cách hay không? Một lát sau, cô với cây bút lông và chấm mực. Nếu không tính đến việc nhận thấy những thiếu sót của tôi ngày hôm đó, thì nhìn chữ tôi viết trên chiếc quạt cô cũng đã biết rằng khả năng viết nữ thư của tôi không bì với cô được. Nhưng khi cô bắt đầu viết thì tôi lại nhìn thấy cô viết ra những lời tôi đề xuất. Tình cảm của tôi và những dòng chữ viết rất đẹp của cô hòa quyện vào nhau, gắn chặt cả hai đứa con gái và tạo ra một ý nghĩ giống nhau. Chúng tôi tin tưởng rằng những tình cảm trên tờ giấy này sẽ tồn tại mãi mãi, nhưng chúng tôi không thể lường trước được sự đời vật đổi sao rời đang chờ phía trước. Tuy vậy, tôi vẫn nhớ được rất nhiều từ trong bản thỏa ước đó. Sao có thể không nhớ kia chứ? Chúng đã khắc sâu vào trong trái tim tôi. Chúng tôi, Tuyết Hoa ở thôn Thông Khẩu cùng Bách Huệ ở thôn Phủ Vĩ, sẽ chân tình trọn đời với nhau. Chúng tôi sẽ an ủi nhau bằng những lời ân cần. Chúng tôi sẽ xoa dịu cho nhau vợi bớt ưu phiền. Chúng tôi sẽ cũng nhau tâm tình thủ thỉ và thêu thùa trong buồng phụ nữ. Chúng tôi sẽ vâng theo Tam Tòng, Tứ Đức. Chúng tôi sẽ thuận theo giáo huấn trong Nữ Kinh của Nho gia và hành xử như những người phụ nữ đức hạnh. Ngày hôm nay, chúng tôi, Tuyết Hoa và Bách Huệ, đã trao cho nhau những lời chân tình. Chúng tôi nguyện thề gắn bó với nhau. Dù cách xa vạn dặm, chúng tôi cũng vẫn như hai dòng suối cùng đổ về một sông. Vạn năm sau, chúng tôi cũng sẽ vẫn như hai đóa hoa cùng nở một vườn. Không bao giờ rời xa nhau nửa bước, không bao giờ nói nặng nhau một lời. Chúng tôi sẽ là lão đồng của nhau cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Chúng tôi thật lòng vui sướng. Bà Vương quan sát chúng tôi với vẻ long trọng khi cả hai chúng tôi ký tên bằng nữ thư ở phía dưới cùng của tờ thỏa ước. "Ta rất vui với cuộc kết giao lão đồng này," bà ta nhận xét. "Giống như cuộc hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà, người tử tế đi với người tử tế, người đẹp sẽ sánh đôi cùng người đẹp, người thông minh sẽ sánh đôi cùng người thông minh. Nhưng không giống với hôn nhân, mối quan hệ này sẽ không chấp nhận bất kỳ một ai xen vào giữa. Không" - và lúc này bà ấy tự cho phép mình cười khúc khích - "lấy thêm vợ lẽ ấy mà. Các cô có hiểu ý ta nói không? Trong mối quan hệ này, trái tim hai cô sẽ luôn đồng điệu bất kể xa cách, bất đồng, cô đơn, có một cuộc hôn nhân cao sang hơn, hay có những cô gái khác, sau này sẽ là những người đàn bà khác, xen vào giữa các cô." Chúng tôi đi độ mười bước để quay trở lại kiệu. Lâu nay, việc đi bộ làm tôi đau đớn tột cùng, nhưng ngay sau đó tôi lại cảm thấy mình giống như Yểu Nương, người bó chân đầu tiên. Khi người đàn bà huyền thoại này múa trên đóa sen vàng, người ta cứ tưởng như bà đang lơ lửng trên đám mây trôi. Mỗi bước đi của tôi, vì thế, lại dịu bớt nhờ niềm hạnh phúc khôn tả. Những người khiêng kiệu đưa chúng tôi đến giữa hội chợ. Lần này, khi chúng tôi xuống kiệu, chúng tôi đã ở ngay chính giữa khu chợ. Dưới ánh sáng nhè nhẹ, tôi có thể nhìn thấy những bức tường màu đỏ, những hình khắc trang trí được thiếp vàng, và mái ngói xanh rêu của ngôi miếu. Bà Vương dúi vào tay hai đứa chúng tôi hai đồng xu và bảo chúng tôi mua quà để kỷ niệm ngày hôm nay. Nếu tôi chưa bao giờ có cơ hội được chọn lựa cho riêng mình, thì tất nhiên tôi cũng sẽ chưa một lần được chịu trách nhiệm tiêu tiền. Một tay tôi cầm đồng xu, tay kia nắm tay Tuyết Hoa. Tôi cố nghĩ xem cô gái đang đi bên mình thích thứ gì, nhưng có quá nhiều thứ tuyệt vời ở khắp xung quanh làm tôi rối tinh lên, không biết chọn cái nào. May sao lần này Tuyết Hoa cũng lại nhận lấy trách nhiệm. "Mình biết một thứ rất tuyệt!" cô reo lên. Cô bước vội gần như chạy rồi khập khiễng và dừng lại. "Đôi khi mình quên béng mất đôi chân của mình," cô nói, nét mặt nhăn nhó vì đau. Đôi chân tôi ắt hẳn mau lành hơn chân cô, và tôi cảm thấy chút rùng mình thất vọng vì chúng tôi sẽ không thể khám phá như chúng tôi - à, tôi - thích vậy. "Bọn mình đi chậm thôi vậy. Lần này mình chưa cần phải xem hết mọi thứ đâu," tôi đề nghị. "…Vì mình sẽ còn quay lại đây hàng năm trong suốt quãng đời còn lại kia mà." Tuyết Hoa kết thúc hộ tôi, và cô siết chặt tay tôi. Một cảnh hài hước làm sao: hai lão đồng trong cuộc du ngoạn đầu tiên, gắng bước đi, nhớ tới đôi chân mà chỉ sự phấn khích mới giữ cho mình khỏi ngã, và một bà già ăn mặc lòe loẹt đang hò hét khản cổ với chúng, "Thôi ngay hành động ngu ngốc đó đi, nếu không ta cho về hết bây giờ!" Rất may, chúng tôi không phải đi xa lắm. Tuyết Hoa kéo tôi đi vào quầy hàng bán những đồ dùng cần thiết cho việc thêu thùa. "Bọn mình giờ đang là hai cô bé con," Tuyết Hoa nói, mắt cô nhìn chăm chú vào những cuộn chỉ bảy màu. "Cho tới khi đi lấy chồng, bọn mình sẽ phải ở trong buồng phụ nữ, đến thăm nhau, cùng nhau thêu thùa may vá, thì thầm trò chuyện. Nếu biết mua cẩn thận, bọn mình sẽ có thể cùng nhau gây dựng những kỷ niệm đẹp trong nhiều năm." Riêng về khoản thêu thùa chúng tôi rất hợp nhau. Chúng tôi cùng thích màu sắc như nhau, nhưng chúng tôi vẫn chọn một số thứ mà chúng tôi đều đồng ý là chả thích mấy nhưng lại cần thiết cho việc thêu một tiểu tiết trên chiếc lá hay cái bóng đổ của bông hoa. Chúng tôi trả tiền và quay trở lại chiếc kiệu, tay ôm những thứ vừa mua được. Lúc vào kiệu, Tuyết Hoa nài nỉ bà Vương chiều chúng tôi thêm một việc nữa. "Dì à! Cho bọn con đến chỗ ông bán khoai đi. Đi mà, dì!" Đoán là Tuyết Hoa đang dùng mấy lời kính cẩn này để làm mềm vẻ cứng rắn của bà Vương, và một lần nữa được sự táo bạo ở người lão đồng của tôi khuyến khích, tôi cũng phụ họa theo. "Đi mà, dì!" Bà Vương không thể nói không với hai cô bé đang kéo hai bên tay áo bà, nài nỉ thêm một việc phung phí quá đáng mà chỉ những đứa con trai cả mới có quyền đòi hỏi. Cuối cùng, bà ta đành nhượng bộ song vẫn cảnh báo rằng không được đòi hỏi như thế này lần nữa. "Ta chỉ là một bà góa nghèo, và việc phải chi trả cho hai chi họ yếu kém sẽ hạ thấp địa vị của ta trong huyện này. Các cô muốn biến ta trở thành kẻ nghèo hèn sao? Các cô muốn ta chết một mình sao?" Bà ta nói tất cả những điều đó với cái kiểu lấc cấc thường thấy, nhưng thực ra mọi thứ đã sẵn sàng hết cả khi chúng tôi bước tới quầy hàng. Một cái bàn ngắn đã được kê sẵn ở đó cùng với ba chiếc ghế nhỏ hình tròn để ngồi. Ông chủ hàng mang ra một con gà sống và dốc ngược lên. "Tôi luôn chọn cho bà những con ngon nhất đấy, bà Vương ạ," ông lão Chu nói. Vài phút sau, ông ta lôi ra một cái ấm được đun nóng bằng than ở cuối gian nhà. Nước luộc gà, gừng, hành tươi, và những miếng thịt gà được chặt mà chúng tôi vừa mới nhìn thấy lúc nãy trước khi chúng sôi sùng sục trong bát. Nước chấm có gừng, tỏi, hành tươi băm nhỏ, trộn lẫn với dầu nóng được bày ra bàn. Một đĩa đậu xào cùng những lát tỏi làm phong phú thêm cho bữa ăn. Chúng tôi ăn uống một cách nhiệt tình, khuấy đũa tìm những miếng thịt gà ngon lành, gặm một cách sung sướng và nhả xương xuống đất. Nhưng thú vị hơn tất cả những thứ đó cộng lại, đĩa khoai mà Tuyết Hoa đã nhắc đến lúc trước là tôi vẫn còn dành bụng để xơi. Những chuyện mà cô kể đều là sự thật - lớp đường nóng rạn tanh tách khi thả vào nước, những tiếng nhai lạo xạo không tránh được và ruột miếng khoai mềm xốp trong miệng tôi. Như vẫn làm khi ở nhà, tôi cầm lấy cái ấm trà và rót trà cho cả ba chúng tôi. Khi tôi đặt chiếc ấm xuống, tôi nghe Tuyết Hoa hít một hơi tỏ vẻ chê trách. Tôi lại làm sai điều gì nữa rồi, nhưng tôi không hề nhận ra. Cô đặt tay lên tay tôi và đặt lên ấm trà, cả hai đứa cùng xoay đi để cái vòi ấm không còn chĩa về phía bà Vương nữa. "Chĩa vòi ấm vào người khác là khiếm nhã," Tuyết Hoa nói nhẹ nhàng. Lẽ ra tôi phải thấy ngượng chín cả người. Nhưng thay vì vậy, tôi lại hết sức khâm phục sự chỉ bảo của lão đồng. Những người khiêng kiệu đang ngủ ngay dưới chân kiệu khi chúng tôi quay lại, nhưng tiếng vỗ tay và cái giọng oang oang của bà Vương đã đánh thức họ dậy rồi chẳng mấy chốc chúng tôi đã lên đường về nhà. Lúc về, bà Vương để chúng tôi ngồi cạnh nhau, mặc dù làm thế sẽ khiến kiệu bị lệch về một bên và làm các phu kiệu khó đi hơn. Tôi lại suy nghĩ về chuyện lúc nãy và thấy rằng chúng tôi đúng là còn quá trẻ con - chỉ là hai con bé chẳng có lý do gì cũng cười khúc khích, đi tìm chọn chỉ thêu, nắm tay nhau, lén nhìn trộm qua bức rèm khi bà Vương lơ mơ ngủ, và quan sát mọi vật trôi qua khung cửa sổ. Lần này chúng tôi mải mê đến mức không đứa nào còn cảm thấy sự khó ở khi những người phu kiệu rảo chân bước nhanh và chen lấn trên con đường gập ghềnh. Đó là chuyến đi đầu tiên của chúng tôi đến Xá Hạ và Miếu Cô Bà. Bà Vương sẽ đưa chúng tôi quay lại đây vào năm tới, và chúng tôi sẽ dâng lễ cúng lần đầu tiên ở ngôi miếu. Hàng năm, bà sẽ hộ tống chúng tôi tới đây cho đến khi chúng tôi qua thời con gái. Một khi tôi và Tuyết Hoa đi lấy chồng, chúng tôi sẽ gặp nhau ở Xá Hạ mỗi năm một lần nếu hoàn cảnh cho phép, dâng lễ cúng thần ở ngôi miếu này để cầu xin sinh được con trai, ghé qua cửa hàng của người bán sợi để có thể tiếp tục những công trình của chúng tôi với những sợi chỉ có màu sắc y như chúng tôi đã mua lần đầu, hồi tưởng lại những chi tiết của chuyến đi đầu tiên, và dừng lại để thưởng thức món khoai tây caramen của ông lão Chu vào cuối ngày. Chúng tôi về đến Phủ Vĩ khi trời đã chạng vạng tối. Hôm ấy, tôi đã có được một người còn hơn cả bạn bên ngoài gia đình tôi. Tôi đã ký vào thỏa ước để trở thành lão đồng với một cô bé khác. Tôi không hề muốn ngày hôm đó kết thúc, nhưng tôi biết nó sẽ hết ngay khi tôi về đến nhà. Tôi hình dung cảnh mình xuống khỏi kiệu, rồi phải trông theo những người phu kiệu mang Tuyết Hoa đi khỏi con hẻm, chỉ thấy bàn tay bạo dạn của cô lén vẫy vẫy dưới bức rèm bay phấp phớp để chào tạm biệt tôi lần cuối cùng trước khi chiếc kiệu khuất dạng sau góc quành. Rồi tôi nhận ra rằng niềm hạnh phúc của tôi vẫn chưa qua mất. Chúng tôi dừng lại và tôi bước ra. Bà Vương bảo Tuyết Hoa cũng bước ra. "Tạm biệt hai cô. Mấy ngày nữa ta sẽ quay lại để đón Tuyết Hoa." Bà ta ló ra khỏi kiệu, khẽ bẹo má Tuyết Hoa và nói thêm, "Ngoan ngoãn nhé. Đừng mè nheo nhiều. Hãy học hỏi bằng cách lắng nghe và quan sát. Hãy làm cho mẹ cô tự hào." Tôi phải giải thích cảm xúc của tôi thế nào đây khi chỉ có hai chúng tôi đứng trước ngưỡng cửa nhà tôi? Tôi quá vui sướng, nhưng tôi biết điều gì đang chờ đợi trong kia. Mặc dù tôi yêu gia đình tôi và ngôi nhà của chúng tôi lắm lắm, song tôi biết Tuyết Hoa đã quen sống trong một hoàn cảnh tốt hơn ở đây. Và cô không mang theo một bộ quần áo hay đồ dùng vệ sinh cá nhân nào. Mẹ tôi ra đón chúng tôi. Mẹ thơm tôi; rồi mẹ đặt tay lên vai Tuyết Hoa và đưa cô bước qua cửa vào nhà. Trong khi chúng tôi đi lễ Miếu Cô Bà, mẹ, thím và chị gái đã làm việc quần quật để dọn sạch sẽ căn phòng chính. Tất cả rác rưởi đều tống khứ đi hết, quần áo treo trong phòng lấy xuống cất đi, và chén đĩa được sắp xếp lại đúng chỗ. Sàn nhà bụi bẩn đóng két lại đã được quét dọn và vẩy nước lên để đầm đất xuống cho phẳng và giúp căn phòng trở nên mát hơn. Tuyết Hoa được gặp tất cả mọi người, kể cả anh trai tôi. Đến bữa tối, Tuyết Hoa nhúng đũa của mình vào tách trà để rửa, nhưng ngoài hành động nhỏ đó, một hành động cho thấy cô có phong cách cầu kỳ trau chuốt hơn bất kỳ ai mà nhà tôi từng biết, cô cố hết sức không để lộ cảm xúc. Nhưng từ trong thâm tâm, tôi hiểu Tuyết Hoa rất rõ. Cô nở một nụ cười mỗi khi phải đối mặt với một tình huống khó xử. Tôi thấy rõ là cô khiếp sợ trước cách sống của chúng tôi. Đó là một ngày rất dài và chúng tôi đều rất mệt. Khi đến giờ lên gác, tôi lại có cảm giác hơi nôn nao, nhưng tất cả những người phụ nữ trong gia đình tôi đều đã bận rộn trên đó. Những bộ quần áo ngủ đã được phơi phóng và tất cả những đống bừa bộn do những hoạt động thường ngày của chúng tôi đều đã sắp xếp ngăn nắp thành từng chồng một. Mẹ tôi chuẩn bị cho chúng tôi một chậu nước sạch để tắm rửa, ở đó có hai bộ quần áo - một của tôi và một của chị gái, tất cả đều còn mới và đã giặt sạch sẽ - cho Tuyết Hoa mặc khi cô là khách ở nhà tôi. Tôi bảo Tuyết Hoa dùng chậu nước để tắm rửa trước, nhưng cô chỉ nhúng ngón tay vào đó, nghi ngại, tôi nghĩ thế, rằng nó không đủ sạch. Cô dùng hai ngón tay nhón lấy cái áo ngủ tôi đưa cho, để cách xa người mình, rồi nhìn nó săm soi như thể nó là con cá thối trong khi đó là bộ quần áo mới nhất của chị gái tôi. Cô nhìn quanh, thấy mọi con mắt đang dổ dồn vào mình, và lẳng lặng, cô cởi quần áo trên người ra để mặc áo ngủ vào. Chúng tôi leo lên giường. Đêm nay, và tất cả những đêm sau này nữa khi Tuyết Hoa đến chơi và ngủ lại đây, chị gái tôi sẽ sang ngủ cùng Mỹ Nguyệt. Mẹ tôi chúc cả hai đứa ngủ ngon. Rồi mẹ cúi xuống hôn tôi, và thì thầm vào tai tôi, "bà Vương đã dặn chúng ta cần làm những gì rồi. Hãy vui vẻ, con gái bé bỏng. Hãy vui vẻ." Rồi, mẹ để hai đứa tôi ở lại, nằm bên nhau dưới tấm chăn bông mỏng quấn quanh người. Chúng tôi mới chỉ là những cô bé, và mặc dù mệt bã cả người nhưng vẫn không thôi thì thầm trò chuyện. Tuyết Hoa hỏi chuyện về gia đình tôi. Còn tôi lại hỏi về gia đình cô. Tôi kể cho cô nghe em ba của tôi đã mất như thế nào. Cô cũng kể cho tôi nghe rằng em ba của cô đã chết vì bệnh phong hàn. Cô hỏi về thôn tôi và tôi trả lời cô rằng Phủ Vĩ có nghĩa là Thôn Chung Xinh Đẹp theo thổ ngữ vùng chúng tôi. Còn cô thì lại giải thích cho tôi thôn Thông Khẩu có nghĩa là thôn Miệng Rừng, và sau này khi tôi đến thăm cô tôi sẽ hiểu được tại sao nó lại có ý nghĩa như vậy. Ánh trăng chiếu qua khung cửa sổ mắt cáo, soi tỏ khuôn mặt của Tuyết Hoa. Chị gái tôi và Mỹ Nguyệt đều đã ngủ say, riêng tôi và Tuyết Hoa vẫn còn nói chuyện. Nếu đã là đàn bà, chúng tôi thường được dặn dò là không bao giờ được bàn đến chuyện bó chân, rằng nói vậy là không lịch sự và không giống với một quý bà, và nói tới chuyện đó sẽ kích thích dục vọng của đàn ông. Nhưng chúng tôi mới chỉ là những đứa bé gái và vẫn đang trong giai đoạn bó chân. Lúc ấy, những chuyện đó chưa phải là hồi ức, như đối với tôi bây giờ, mà là nỗi đau đớn và khổ sở đang đeo bám chúng tôi. Tuyết Hoa kể chuyện cô đã trốn mẹ và cầu xin bố cô tha cho cô như thế nào. Bố cô sắp nhượng bộ, việc đó cũng có nghĩa là họ sẽ để mặc Tuyết Hoa trở thành bà cô chết già trong nhà hoặc người hầu kẻ hạ trong nhà ai đó. "Nhưng khi bố mình bắt đầu hút tẩu," Tuyết Hoa giải thích, "ông quên luôn lời hứa với mình. Khi bố đang mơ màng, mẹ và thím tóm mình lên gác rồi trói vào ghế. Đó là lý do tại sao mình, cũng giống như bạn, bị bó chân trễ mất một năm." Điều đó không có nghĩa là - một khi số phận của cô đã được định đoạt - thì cô sẽ cúi đầu chấp nhận. Không, cô chống cự lại mọi thứ trong những tháng đầu tiên, thậm chí có một lần cô đã xé toạc hết cả mớ vải bó chân. "Mẹ mình bó chân mình - và cột luôn cả người mình vào ghế - càng lúc càng thít chặt hơn." "Bạn không thể chống lại số phận được," tôi nói. "Nó đã được định trước." "Mẹ mình cũng nói thế," Tuyết Hoa đáp. "Mẹ chỉ cởi trói khi mình phải bước đi để làm gãy những khớp xương của mình và khi mình phải dùng đến cái bô trong buồng. Lúc nào mình cũng nhìn ra ngoài song cửa. Mình nhìn theo những cánh chim liệng bay. Mình nhìn theo những đám mây trôi. Mình quan sát vầng trăng tròn dần lên để rồi khuyết đi. Có bao điều đang diễn ra bên ngoài khung cửa làm mình hầu như quên mất tất cả những gì đang diễn ra trong căn buồng đó." Những tình cảm đó khiến tôi kính sợ! Tuyết Hoa thật sự có tính cách phóng khoáng của loài ngựa, chỉ có con ngựa của cô mới có được đôi cánh để đưa cô bay lên khỏi mặt đất, trong khi con ngựa của tôi thì chỉ có bản tính ù ì chậm chạp. Một cảm giác chợt nhói lên trong bụng tôi - về một điều gì đó nổi loạn, muốn phá tung những giới hạn của cuộc sống đã được quyết định trước của chúng tôi - gây nên một cảm giác kích thích nhoi nhói từ bên trong, sau này sẽ trở thành một khát vọng mãnh liệt. Tuyết Hoa xích lại gần tôi, để khuôn mặt chúng tôi kề bên nhau. Cô đặt bàn tay lên má tôi và nói, "mình rất vui khi chúng ta là lão đồng của nhau." Rồi cô nhắm mắt và chìm dần vào giấc ngủ. Nằm bên cạnh Tuyết Hoa, nhìn gương mặt cô dưới ánh trăng, cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn của cô mềm mại đặt lên má tôi, và lắng nghe hơi thở của cô sâu dần, tôi tự hỏi tôi đã làm thế nào mà lại có thể khiến cô yêu quý theo đúng kiểu mà tôi hằng khao khát. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 6: Tình Yêu Người ta muốn đàn bà chúng tôi phải yêu đứa con của mình ngay khi nó rời bụng mẹ, nhưng có ai trong chúng tôi lại không thất vọng khi nhìn thấy đó là một đứa con gái hay cảm thấy tâm trí u ám nặng nề khi ẵm quý tử trong tay mà nó chẳng chịu làm gì khác ngoài việc khóc ngằn ngặt và khiến mẹ chồng nhìn bạn như thể sữa của bạn bị ôi thiu vậy? Chúng tôi yêu những đứa con gái bằng cả trái tim mình, nhưng chúng tôi phải rèn luyện chúng qua đau đớn. Chúng tôi yêu những đứa con trai hơn tất thảy, nhưng không bao giờ chúng tôi trở thành một phần trong thế giới của chúng, địa hạt bên ngoài của đàn ông. Người ta mong chúng tôi sẽ yêu chồng mình ngay từ ngày Nhận Thân, dù chúng tôi không hề nhìn thấy mặt họ trong vòng sáu năm sau đó. Người ta bảo chúng tôi phải yêu gia đình chồng, nhưng chúng tôi bước vào gia đình họ như những người xa lạ, người có địa vị thấp nhất trong nhà họ, chỉ cao hơn một bậc so với ăn kẻ ở. Người ta bảo chúng tôi phải yêu thương và kính trọng tổ tiên nhà chồng, vì thế chúng tôi thực hiện đúng bổn phận, dù con tim âm thầm kêu gọi chúng tôi nhớ đến tổ tiên bên nhà cha mẹ đẻ mình. Chúng tôi yêu cha mẹ mình vì họ đã chăm sóc nuôi dưỡng chúng tôi, nhưng chúng tôi bị xem là những nhánh thân vô giá trị trên cái cây gia đình. Chúng tôi chỉ làm hao tốn của cải của nhà mình. Chúng tôi được gia đình mình nuôi dưỡng để rồi mất không cho một gia đình khác. Dù được sống hạnh phúc khi còn ở nhà cha mẹ đẻ, nhưng chúng tôi vẫn biết mai này sẽ không tránh khỏi cảnh chia ly. Vì thế chúng tôi yêu gia đình mình, nhưng chúng tôi biết tình yêu đó sẽ chấm dứt trong nỗi buồn ly biệt. Tất cả những tình yêu ấy nảy sinh từ trách nhiệm, sự kính trọng và lòng biết ơn. Những loại tình yêu đó, như những người đàn bà ở vùng này đều hiểu, là nguồn gốc của nỗi buồn, đổ vỡ và tàn bạo. Nhưng tình yêu giữa một đôi lão đồng là điều gì đó hoàn toàn khác biệt. Như bà Vương nói, mối quan hệ với lão đồng là dựa trên lựa chọn. Dù không phải là tôi và Tuyết Hoa tự nghĩ ra những lời lẽ để viết trên chiếc quạt, nhưng khi chúng tôi lần đầu nhìn vào mắt nhau ở trên chiếc kiệu, tôi đã nhận thấy một điều gì đó đặc biệt truyền qua giữa chúng tôi - tựa như tia lửa để nhóm lên ngọn lửa hay hạt thóc để nảy thành cây lúa. Nhưng một tia lửa thì không đủ sưởi ấm cả căn phòng cũng như một hạt thóc không thể làm nên vụ mùa bội thu. Một tình yêu sâu sắc - một tình yêu chân thành - phải lớn lên. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu nổi thế nào là một tình yêu nồng cháy, nên thay vì vậy tôi nghĩ đến những cánh đồng lúa tôi vẫn thấy hàng ngày trên con đường đi ra sông cùng anh trai từ hồi tôi vẫn còn đủ cả hàm răng sữa. Có lẽ tôi sẽ nuôi dưỡng tình yêu của tôi như người nông dân chăm sóc cho cây lúa - bằng cách làm lụng chăm chỉ, ý chí kiên định, và mưa thuận gió hòa. Thật thú vị là tôi vẫn còn nhớ được điều đó cho tới tận bây giờ! Ái chà! Tôi biết rất ít về cuộc sống, nhưng cũng đủ để tôi có thể nghĩ giống như một người nông dân. Vì thế, là một đứa con gái, tôi bắt tay vào chuẩn bị mảnh đất của mình - lấy một mẩu giấy của bố và hỏi xin chị gái một miếng nhỏ trong mảnh vải hồi môn của chị - để gieo trồng. Hạt giống là những chữ nữ thư mà tôi viết ra. Bà Vương là con mương tưới nước. Khi bà ta đến nhà để xem chân tôi tiến triển ra sao, tôi đưa cho bà ta bức thông điệp ấy - lá thư, mảnh vải dệt, hay chiếc khăn thêu - để bà ta chuyển cho Tuyết Hoa. Không thứ gì sinh trưởng được nếu thiếu ánh sáng mặt trời - điều này hoàn toàn không tùy thuộc vào ý muốn của người nông dân. Tôi bắt đầu tin là Tuyết Hoa có vai trò đó của mặt trời. Với tôi, ánh mặt trời chính là những lời hồi âm của cô cho những lá thư viết bằng nữ thư của tôi. Khi tôi nhận được thứ gì đó từ Tuyết Hoa, tất cả chúng tôi lại túm tụm lại để giải mã ý nghĩa của nó, vì quả thực là cô toàn dùng những từ ngữ và hình ảnh khá đánh đố với vốn kiến thức của thím tôi. Tôi thì chỉ viết theo kiểu của một đứa bé gái như: Mình khỏe. Bạn có khỏe không? Còn cô sẽ hồi đáp kiểu như: Có hai chú chim đang đậu trên ngọn cây. Chúng cùng nhau chắp cánh bay lên bầu trời. Tôi viết tiếp: Hôm nay mẹ mình dạy mình cách đồ xôi và ủ trong lá khoai. Thì Tuyết Hoa sẽ viết: Ngày hôm nay mình nhìn qua song cửa. Mình nghĩ đến phượng sinh ra để đi tìm bạn, và rồi mình nghĩ đến bạn. Tôi viết tiếp: Người ta đã chọn được ngày lành tháng tốt cho đám cưới của chị gái mình rồi. Cô sẽ viết: Chị gái bạn giờ đã bước vào giai đoạn thứ hai của những thủ tục hôn nhân theo truyền thống. May mắn thay, chị ấy sẽ vẫn còn ở nhà với bạn thêm vài năm nữa. Tôi viết tiếp: Mình muốn học hỏi mọi thứ. Bạn giỏi thật đấy. Mình làm học trò của bạn nhé? Cô trả lời: Mình cũng đang học tập bạn đấy thôi. Chính vì thế mà chúng ta trở thành đôi uyên ương đang cùng nhau xây tổ. Tôi lại viết: Mình không sâu sắc và lời lẽ của mình chẳng tao nhã chút nào, nhưng mình ước gì có bạn ở đây và chúng ta sẽ cùng nhau trò chuyện thâu đêm. Cô trả lời: Đôi sơn ca cùng hót trong đêm tối. Lời lẽ của cô làm tôi vừa sợ hãi vừa phấn khích. Cô thông minh thật. Cô có học hơn tôi rất nhiều. Nhưng đó vẫn chưa phải là cái đáng sợ. Bức thư nào cô cũng nói về chim, về sự bay liệng, về một thế giới xa xôi. Ngay từ lúc ấy, cô đã muốn bay thoát khỏi cái số phận đã được định đoạt. Tôi muốn bám vào đôi cánh của cô mà bay vút theo, bất chấp có bị đe dọa thế nào đi nữa. Ngoại trừ chiếc quạt tặng tôi từ lúc đầu, Tuyết Hoa sẽ không gửi thứ gì cho tôi nếu tôi không gửi thứ gì đó cho cô trước. Tôi không bận lòng về chuyện đó. Tôi đang ve vãn cô mà. Tôi khiến cô ngập chìm trong những lá thư tôi viết, và cô cũng luôn đáp lại bằng cách gửi cho tôi một chồi non hay một đóa hoa. Nhưng có một trở ngại khiến tôi bối rối. Tôi muốn gặp lại cô. Cô nên mời tôi đến nhà cô mới phải, nhưng lời mời đó đã không đến. Một hôm, bà Vương đến nhà tôi, lần này bà ấy mang theo chiếc quạt. Tôi không mở xòe nó ra ngay. Thay vì đó, tôi chỉ mở ba nếp gấp đầu tiên, và nhìn thấy bức thư đầu tiên cô gửi cho tôi, cạnh đó là thư hồi đáp của tôi, và kế đến là thông báo mới: Nếu gia đình bạn đồng ý, mình sẽ rất vui khi được đến thăm bạn vào tháng Mười một này. Chúng ta sẽ ngồi bên nhau, xâu kim, chọn chỉ màu, và thủ thỉ chuyện trò với nhau. Trên vòng lá, cô gắn thêm những bông hoa xinh xắn. Vào ngày đã định, tôi ngồi chờ bên song cửa, nhìn chiếc kiệu rẽ qua góc quành. Khi chiếc kiệu dừng lại trước ngưỡng cửa nhà tôi, tôi muốn chạy ngay xuống nhà và ra ngoài đường để gặp lão đồng. Điều này là không thể được. Mẹ tôi bước ra ngoài tới chỗ chiếc kiệu đã mở. Tuyết Hoa bước xuống kiệu. Cô mặc đúng chiếc áo khoác màu xanh da trời thêu hình đám mây. Cuối cùng, tôi cũng bắt đầu nghĩ ra rằng đó là chiếc áo đi chơi của cô và tin rằng cô sẽ mặc nó cho mỗi lần viếng thăm để không khiến gia đình tôi thấy ngại ngùng vì sự túng thiếu của mình. Tuyết Hoa không mang theo cả đồ ăn và quần áo, như tục lệ. Bà Vương nhắc nhở Tuyết Hoa như lần trước. Phải ngoan ngoãn, không mè nheo; quan sát và lắng nghe để học hỏi, và làm cho mẹ cô tự hào. Tuyết Hoa đáp, "Dạ, thưa dì," nhưng tôi có thể thấy cô không lắng nghe, vì cô vẫn đứng trên đường, nhìn lên cửa sổ mắt cáo, tìm kiếm bóng dáng tôi. Mẹ tôi dắt Tuyết Hoa lên cầu thang, và ngay khi đặt chân lên sàn căn buồng phụ nữ cô nói liến thoắng không ngừng. Cô nói chuyện phiếm, thầm thì, trêu chọc, tâm sự, an ủi và khen ngợi. Lúc này, cô không phải là người con gái khiến tôi bối rối bởi những ý nghĩ được bay đi thật xa. Cô chỉ muốn chơi đùa, vui vẻ, cười khúc khích và nói, nói, nói, nói, nói, và nói những chuyện của bọn con gái. Tôi từng bảo với cô rằng tôi muốn làm học trò của cô, vì thế kể từ hôm đó cô bắt đầu dạy tôi những điều trong Nữ Kinh, ví dụ như việc không được để lộ răng khi cười hoặc lên giọng khi nói chuyện với đàn ông. Nhưng cô cũng viết rằng cô muốn là học trò của tôi, vì thế cô nhờ tôi chỉ cho cô cách làm bánh nếp. Cô cũng hỏi tôi những câu hỏi kỳ lạ về cách kéo nước và làm thức ăn cho lợn. Tôi cười to vì mọi đứa con gái đều biết những chuyện như vậy. Tuyết Hoa thề là cô không biết. Tôi cả quyết là cô trêu tôi. Cô khăng khăng rằng cô hoàn toàn mù tịt. Rồi, những người khác xúm vào chọc tôi. "Có lẽ chính em mới là người không biết kéo nước!" chị gái tôi nói to. "Và có lẽ cháu cũng chẳng nhớ phải cho lợn ăn thế nào nữa kia," thím hùa thêm. "Những thứ đó chắc đã bị quẳng đi cùng đôi giày cũ của cháu rồi." Thế này thì quá lắm, và tôi đứng lên. Nhưng tôi tức quá, đặt nắm tay tôi lên hông và nhìn chằm chằm vào đó, nhưng khi tôi nhìn thấy nét mặt hớn hở của mọi người đang hướng về phía tôi, cơn giận trong tôi tiêu tan và tôi lại muốn làm họ vui vẻ hơn. Khi nhìn tôi chập chững trên đôi chân đang lành, đi đi lại lại quanh buồng, giả bộ kéo nước từ dưới giếng lên và xách về nhà, hay đi lom khom cắt rau lợn rồi băm nhỏ trộn lẫn với thức ăn thừa, mọi người được một mẻ cười nôn ruột. Mỹ Nguyệt cười nhiều quá đến mức buồn đi tiểu. Thậm chí, ngay cả chị gái tôi, vốn hết sức nghiêm túc với công việc làm của hồi môn, cũng phải lấy ống tay áo che miệng cười khúc khích. Tôi liếc nhìn Tuyết Hoa, đôi mắt cô ngời lên rạng rỡ khi cô vỗ tay thích thú. Bạn thấy đấy, Tuyết Hoa là vậy. Cô có thể đi vào căn buồng phụ nữ và chỉ với vài câu thôi cũng có thể khiến tôi làm mọi chuyện mà tôi chưa từng nghĩ là tự mình sẽ làm thế bao giờ. Cô có thể ở trong căn buồng phụ nữ đó - nơi mà tôi xem như là căn buồng của những bí mật, đau khổ và than thở - và biến nó thành một ốc đảo với những khoảnh khắc tươi đẹp, không khí vui vẻ, và những trò vui nhắng nhít. Miệng cô thì cứ bảo là không được nói to với đàn ông, thế mà cô cứ huyên thuyên với bố và chú tôi suốt bữa cơm tối, khiến họ cũng phải bật cười. Em trai tôi cứ trèo lên trèo xuống trên người Tuyết Hoa như chú khỉ con và lòng cô như thể cái tổ lý tưởng trên cây. Cô mới giàu sức sống làm sao. Cô đi đến đâu là lại mê hoặc khiến mọi người vui vẻ ở đó. Cô hơn hẳn chúng tôi - ai cũng nhận thấy thế - nhưng cô lại biến điều đó thành một điều bất ngờ thú vị cho gia đình tôi. Đối với chúng tôi, cô như con chim quý đã sổ lồng bay đi rong chơi trên sân cùng lũ gà tầm thường. Chúng tôi rất vui, và cô cũng thế. Đến giờ, chúng tôi đi rửa mặt mũi trước khi đi ngủ. Tôi nhớ lại sự lúng túng của tôi trong lần đầu tiên Tuyết Hoa đến chơi. Tôi ra hiệu bảo cô dùng nước trước, nhưng cô từ chối. Nếu tôi dùng nước trước, nước sẽ không còn sạch cho Tuyết Hoa dùng. Nhưng khi Tuyết Hoa nói "chúng mình rửa mặt cùng lúc luôn nhé," tôi biết rằng tất cả những việc làm và chủ ý tầm thường theo kiểu nông dân của tôi đã đem lại cho tôi vụ mùa bội thu như mong đợi. Chúng tôi cùng nhau cúi xuống, chụm tay lại, và vốc nước lên rửa mặt. Cô khẽ huých khuỷu tay vào người tôi. Tôi nhìn xuống mặt nước và thấy gương mặt của hai đứa tôi phản chiếu qua những gợn sóng lăn tăn. Nước nhỏ giọt từ làn da của cô cũng như của tôi. Cô cười khúc khích và té nước trong chậu vào người tôi. Trong khoảnh khắc cùng nhau chia sẻ chậu nước đó, tôi biết rằng lão đồng cũng yêu mến tôi. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 7: Học Tập Suốt ba năm tiếp theo,Tuyêt Hoa đến thăm tôi hai tháng một lần. Chiếc áo khoác màu xanh da trời thêu hình đám mây được thay bằng bộ quần áo lụa màu hoa oải hương với những nét trang trí màu trắng - một kiểu phối hợp màu hơi lạ cho một cô gái còn quá trẻ. Ngay khi cô bước vào căn buồng trên gác nhà tôi, cô thay ngay bộ quần áo mẹ tôi đã khâu cho cô. Ăn mặc theo kiểu đó thì tôi và cô mới có thể là lão đồng cả trong tâm hồn lẫn ngoài hình thức. Tôi vẫn chưa đến thôn Thông Khẩu của Tuyết Hoa. Tôi cũng không hề hỏi han về điều đó, mà cũng không hề nghe người lớn trong gia đình tôi xì xào gì về sự kỳ lạ của cách sắp xếp này. Rồi một ngày, khi tôi lên chín, tôi nghe lỏm được mẹ tôi thắc mắc với bà Vương về tình trạng này. Họ đứng bên ngoài ngưỡng cửa, và cuộc nói chuyện của họ vọng đến chỗ tôi đứng bên ô cửa sổ. "Chồng tôi nói rằng lần nào chúng tôi cũng phải chăm sóc Tuyết Hoa," mẹ tôi nói nhỏ, để không ai nghe thấy. "Và những lần con bé đến chơi là chúng tôi phải chuẩn bị thêm nước uống, nấu thêm đồ ăn và giặt giũ thêm quần áo. Chồng tôi muốn biết khi nào thì Bách Huệ có thể sang chơi bên Thông Khẩu. Đó là thông lệ." "Theo tục lệ thông thường thì tất cả tám đặc điểm đều phải phù hợp," bà Vương nhắc nhở mẹ tôi, "nhưng chúng ta đều biết rằng có một điểm cực kỳ quan trọng thì lại không phù hợp. Tuyết Hoa đã đến gia đình có địa vị thấp hơn gia đình cô bé." Bà Vương ngừng một chút, rồi nói tiếp, "Tôi không hề nghe bà thắc mắc gì về điều này khi tôi đến gặp bà lần đầu kia mà." "Đúng, nhưng…" "Rõ là bà chẳng biết điều gì cả," bà Vương nói tiếp vẻ phẫn nộ. "Tôi đã nói với bà từ đầu rằng tôi mong sẽ tìm cho Bách Huệ một mối ở Thông Khẩu, nhưng điều đó sẽ không thể xảy ra nếu chẳng may một người biết đâu là chú rể tương lai nhìn thấy mặt con gái bà trước khi cưới. Hơn nữa, gia đình Tuyết Hoa cũng khó chịu vì địa vị xã hội của hai đứa không tương xứng chứ. Bà nên biết ơn vì họ đã không từ chối thỏa ước lão đồng. Tất nhiên, vẫn chưa phải là quá muộn để đổi ý, nếu chồng bà thật sự muốn vậy. Chỉ có tôi phải gánh thêm rắc rối thôi." Mẹ tôi còn có thể làm gì được nữa nên đành nói, "bà Vương, tôi đã lỡ lời rồi. Xin mời bà vào nhà. Bà xơi trà nhé?" Hôm đó, tôi nhận thấy nỗi sượng sùng và sợ hãi của mẹ tôi. Bà không thể hủy hoại bất cứ điều gì trong mối quan hệ này, kể cả khi nó trút thêm gánh nặng lên gia đình tôi. Bạn có thắc mắc xem liệu tôi đã cảm thấy thế nào khi nghe nói rằng gia đình Tuyết Hoa thấy tôi không xứng với cô không? Tôi không lấy làm buồn vì điều đó, bởi tôi biết tôi không xứng đáng được Tuyết Hoa yêu mến. Mỗi ngày tôi làm việc chăm chỉ để khiến cô yêu tôi như tôi yêu cô. Tôi cảm thấy có lỗi - không, cảm thấy xấu hổ - cho mẹ tôi. Bà đã rất mất mặt với bà Vương. Nhưng sự thật là, tôi không bận tâm đến nỗi lo lắng của bố tôi, sự bực bội của mẹ tôi, sự cương quyết không chịu nhượng bộ của bà Vương, hay những toan tính vật chất đặc biệt với Tuyết Hoa và mối quan hệ của tôi, vì kể cả tôi có thể đến Thông Khẩu mà không để người chồng tương lai thấy mặt đi chăng nữa thì tôi cũng vẫn thấy không cần thiết phải đi đến đó để biết về cuộc sống của lão đồng. Cô đã kể với tôi về thôn cô sống, gia đình cô và ngôi nhà to đẹp của cô nhiều hơn là tôi có thể thấy khi được tận mắt nhìn. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đó. Bà Vương và bà Cao luôn tranh giành lãnh thổ với nhau. Là bà mối cho người dân ở Phủ Vĩ, bà Cao đã thương lượng được cuộc hôn nhân tốt cho chị gái tôi và tìm được một cô gái ở thôn khác thích hợp với anh trai tôi. Bà ta cũng muốn làm vậy với cả tôi và Mỹ Nguyệt. Nhưng bà Vương - vốn có ý định sắp đặt cho số phận của tôi - đã không chỉ thay đổi con đường của tôi, và cũng là của Mỹ Nguyệt, mà còn thay đổi cả tính toán của bà Cao. Bà ta bị vuột mất món hời. Như người ta thường nói, người đàn bà keo kiệt luôn luôn nung nấu thù hận. Bà Cao bèn tìm đến Thông Khẩu với đề nghị được giúp cho gia đình Tuyết Hoa. Chẳng mấy chốc điều này đến tai bà Vương. Dù mối bất hòa đó chẳng dây dưa gì tới chúng tôi, thì vụ xung đột vẫn diễn ra ngay tại nhà tôi khi bà Vương đến đón Tuyết Hoa nhìn thấy bà Cao đang ngồi trong gian phòng chính cắn hạt bí và cùng bố tôi bàn bạc về những vấn đề hậu cần cho việc Cử hành Hôn lễ của chị tôi. Họ không cãi cọ một lời trước mặt bố tôi. Cả hai người đàn bà đó đều không thô lỗ đến mức ấy. Chỉ cần khi xong việc bà Cao đi khỏi nhà tôi thì hẳn đã tránh được cuộc cãi vã. Nhưng thay vì vậy, bà ta lại lên gác, thả mình xuống ghế, và bắt đầu khoác lác về sự lão luyện trong nghề mai mối của mình. Bà ta giống như ngón tay khuấy vào nồi nước sôi. Cuối cùng, bà Vương không thể nhịn được nữa. "Chỉ có chó cái động đực mới phát cuồng lên chạy tới thôn tôi mà cướp đi cô cháu gái bé bỏng của tôi." Bà Vương huỵch toẹt. "Thông Khẩu không phải là thôn của bà, dì thân mến ạ," bà Cao ngọt ngào đáp lại. "Nếu đó là thôn để bà làm chủ sự, thì tại sao bà lại phải sục sạo đánh hơi khắp cái Phủ Vĩ này? Theo cách tính toán của bà, Bách Huệ và Mỹ Nguyệt lẽ ra phải là của tôi mới đúng chứ. Nhưng tôi đâu có khóc oe oé như mấy đứa bé vì chuyện đó đúng không?" "Tôi sẽ xoay xở để mấy cô bé kia có được những đám tốt nhất. Tôi cũng sẽ làm vậy cho Tuyết Hoa. Bà làm sao mà vượt mặt tôi được chứ." "Đừng chắc mẩm quá thế. Bà làm ăn chả ra cái thể thống gì với chị của con bé này. Nhưng tôi thì hợp hơn, nhìn hoàn cảnh của Tuyết Hoa mà xem." Tôi có nói là Tuyết Hoa đang ở trong phòng và nghe thấy những lời này, nói về mình như thể cô và chị cô là những bao gạo rẻ tiền bị hai con buôn vô liêm sỉ mặc cả qua lại chưa nhỉ? Cô đứng cạnh bà Vương, đợi để về nhà. Cô cầm trong tay mảnh vải cô vừa thêu. Vặn vẹo nó trong tay, kéo căng những sợi chỉ. Cô không ngẩng mặt lên, nhưng tôi vẫn có thể thấy khuôn mặt và đôi tai cô đỏ bừng. Lẽ ra đây là lúc cuộc cãi cọ sẽ trở nên gay gắt. Nhưng thay vì vậy, bà Vương lại đưa bàn tay gân guốc của mình ra nhẹ nhàng đặt lên lưng Tuyết Hoa. Đến lúc đó, tôi không hề nghĩ bà Vương lại có thể thương xót hay thoái lui. "Thôi, không thèm nói chuyện với cái mụ cặn bã này nữa," bà ta nói the thé. "Đi thôi, Tuyết Hoa. Chúng ta còn phải đi cả một quãng đường dài về nhà đấy." Chúng tôi đã định gạt bỏ chuyện này ra khỏi đầu, song từ đó trở đi hai bà mối cứ đấu khẩu với nhau suốt. Khi bà Cao nghe ngóng rằng kiệu của bà Vương đã đến Phủ Vĩ, là y như rằng bà ta lại khoác vào bộ cánh rực rỡ thái quá, bôi má hồng rực, và đến đánh hơi quanh nhà tôi giống như - gì nhỉ, giống như một con chó cái đang động đực. KHI Tuyết Hoa và tôi được mười một tuổi, đôi chân của chúng tôi đã hoàn toàn lành lặn. Chân tôi vững chắc và hoàn hảo một cách đáng chú ý với độ dài đúng bảy phân. Bàn chân của Tuyết Hoa lớn hơn chút xíu, trong khi chân của Mỹ Nguyệt to hơn hẳn nhưng trông vẫn rất thanh tú. Điều này, cộng với việc học nữ công gia chánh rất tốt, Mỹ Nguyệt rất dễ lấy chồng. Khi giai đoạn bó chân của chúng tôi đã qua, bà Vương bắt đầu thời kỳ thương lượng tìm mối Nhận Thân cả ba chúng tôi. Nếu tám đặc điểm của chúng tôi cũng phù hợp với chồng tương lai thì ngày đính ước sẽ được định luôn. Giống như bà Vương tiên đoán, "đôi gót sen" hoàn hảo của tôi sẽ đưa tôi đến với một lời hứa hôn bất ngờ. Bà ta thu xếp cho tôi được về làm dâu trong gia đình họ Lữ giàu sang bậc nhất Thông Khẩu. Ông bác của chồng tôi đỗ tiến sĩ, được triều đình ban cho đất đai nhiều ngang với cả một thái ấp. Chú Lữ, nhà chồng tôi gọi ông như vậy, không có con. Ông sống ở kinh đô và nhờ anh trai trông coi phần đất đai cho thuê của mình. Vì bố chồng tôi là trưởng thôn - cho nông dân trong thôn thuê mướn đất đai và thu địa tô - nên mọi người cho rằng mai này chồng tôi cũng sẽ nắm giữ cương vị đó. Mỹ Nguyệt sẽ vào một gia đình họ Lữ kém giàu sang hơn ở gần đó. Hôn phu tương lai của cô là con trai của một người nông dân có phần đất thuê nhiều gấp bốn lần của bố và chú. Đối với nhà tôi mà nói, thế đã là sung túc lắm rồi, nhưng thế vẫn còn thua xa cái điền sản mà bố chồng tôi đang nắm quyền quản lý thay cho anh trai ông. "Mỹ Nguyệt, Bách Huệ," bà Vương nói, "các cô sẽ được sống gần nhau như hai chị em. Giờ các cô sẽ như chị gái tôi và tôi. Chúng tôi đều về làm dâu ở Thông khẩu. Dù cả hai chúng tôi đều gặp chuyện bất hạnh, song có một điều may mắn là chúng tôi đã được sống gần nhau." Và thực sự là tôi và Mỹ Nguyệt đều cảm thấy biết ơn vì chúng tôi sẽ tiếp tục được chia sẻ với nhau mọi điều, từ những ngày làm vợ, làm mẹ chăm lo gạo muối cho đến lúc trở thành góa phụ ngồi lặng lẽ. Tuyết Hoa phải lấy chồng ở ngoài Thông Khẩu, nhưng cũng gần thôi, bên thôn Cẩm Điền. Bà Vương bảo đảm rằng tôi và Mỹ Nguyệt có thể nhìn thấy Cẩm Điền và thậm chí có thể nhìn thấy cửa sổ nhà chồng Tuyết Hoa từ cửa sổ nhà chồng chúng tôi. Chúng tôi không được nghe kể nhiều về gia đình Tuyết Hoa sẽ về làm dâu, ngoại trừ việc hôn phu tương lai của cô tuổi dậu. Điều này khiến chúng tôi lo lắng, vì ai cũng biết đó không phải hai tuổi hợp nhau, vì gà trống thì luôn muốn nhảy lên lưng ngựa. "Đừng lo các cô ạ," bà Vương đảm bảo với chúng tôi. "Ông thầy đã xem mệnh xét tuổi cả rồi. Tôi đảm bảo rằng trong trường hợp này không có chuyện thủy hỏa xung khắc với nhau. Mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi." Bà ta nói, và chúng tôi tin bà. Gia đình chú rể tương lai của chúng tôi gửi những món quà đầu tiên gồm tiền, kẹo và thịt. Chú thím tôi nhận được một cái chân giò lợn, trong khi bố mẹ tôi nhận được nguyên cả một chú lợn quay, con lợn này sau đó được chặt ra và gửi biếu họ hàng bà con của nhà tôi ở Phủ Vĩ. Bố mẹ và chú thím đáp lễ bằng trứng và gạo, tượng trưng cho sự mau mắn trong việc sinh con đẻ cái của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi chờ đến giai đoạn thứ hai, lúc nhà chồng tương lai sẽ chọn ngày để Cử hành Hôn lễ. Hãy tưởng tượng xem chúng tôi vui sướng biết bao. Tương lai của chúng tôi đã được định đoạt. Gia đình mới của chúng tôi cao sang hơn gia đình tôi. Chúng tôi còn trẻ nên vẫn hồn nhiên tin tưởng rằng tấm lòng thành kính của chúng tôi sẽ giúp chúng tôi vượt qua được mọi khó khăn với mẹ chồng. Chúng tôi bắt đầu bận bịu hơn với công việc thêu thùa may vá. Nhưng trên hết thảy, chúng tôi cảm thấy sung sướng khi được quây quần bên nhau. Thím tiếp tục dạy chúng tôi nữ thư, nhưng chúng tôi cũng học cả Tuyết Hoa nữa, cô luôn dạy chúng tôi những chữ mới mỗi lần đến chơi. Một số chữ là do cô học lỏm được khi nhìn trộm anh trai học bài, vì nhiều chữ trong nữ thư chỉ là những chữ của nam giới viết nghiêng đi, nhưng những chữ khác là do cô học được từ mẹ cô, bà là người vô cùng thông thạo thứ chữ bí mật của nữ giới. Chúng tôi tập viết hàng giờ liền, dùng ngón tay vẽ lại những nét chữ lên lòng bàn tay mình. Thím tôi luôn luôn nhắc nhở chúng tôi phải thận trọng với từ ngữ của mình, vì khi dùng chữ tượng thanh, ngược lại với chữ tượng hình của đàn ông, nghĩa có thể bị mất hay hiểu nhầm. "Mỗi từ đều phải đặt trong ngữ cảnh," lần nào thím cũng nhắc nhở bọn tôi như vậy khi bài học kết thúc. "Một sự hiểu nhầm có thể gây ra nhiều chuyện buồn." Khuyên bảo chúng tôi như vậy, rồi thím lại thưởng cho chúng tôi câu chuyện lãng mạn kể về một người phụ nữ trong vùng đã sáng tạo ra kiểu chữ bí mật này. "Lâu lắm rồi, vào thời nhà Tống, có lẽ chừng hơn một nghìn năm trước," thím kể lại, "vua Tống Triết Tông muốn tuyển một cung nữ trong cả vương quốc. Ông đi vi hành, cuối cùng đặt chân đến vùng này, nơi ông nghe đồn có một người nông dân họ Hồ, một người có chút học vấn và hiểu đạo lý trong thôn Cẩm Điền - đúng, Cẩm Điền, nơi Tuyết Hoa sẽ sống khi đi lấy chồng. Thầy Hồ có người con trai là nho sĩ, một người trẻ tuổi có địa vị rất cao vì đã làm bài rất tốt trong các kỳ thi của triều đình, nhưng người cuốn hút hoàng đế nhất lại chính là cô con gái cả của thầy. Tên cô là Ngọc Tú. Cô không hoàn toàn là một nhánh cây vô dụng, vì người cha đã quan tâm đến việc dạy dỗ cô. Cô thuộc nhiều bài thơ cổ và học được chữ viết của đàn ông. Cô biết múa hát. Cô biết thêu rất đẹp và trang nhã. Những phẩm chất đó đã khiến hoàng đế tin rằng cô sẽ trở thành một cung phi tốt. Hoàng đế đến gặp thầy Hồ, xin cưới cô con gái thông minh của ông, và ít lâu sau Ngọc Tú được đưa về kinh đô. Một câu chuyện có hậu ư? Xét về mặt nào đó thì đúng là vậy. Thầy Hồ nhận được rất nhiều quà biếu và Ngọc Tú chắc chắn sẽ được sống phong lưu trong nhung lụa. Nhưng, các con ạ, ta muốn nói với các con rằng ngay cả một người thông minh sáng láng và được học hành tử tế như Ngọc Tú cũng khó tránh khỏi những lúc buồn rầu vì phải xa cách gia đình. Ôi! Biết bao nước mắt đã tuôn rơi trên gò má mẹ cô! Ôi, các chị em cô đã khóc ròng trong nỗi buồn nhung nhớ! Nhưng không ai buồn như Ngọc Tú." Chúng tôi đã học được phần này. Nỗi buồn phải lìa xa gia đình chỉ là sự khởi đầu cho chuỗi muộn phiền của Ngọc Tú. Tài năng là vậy song cô cũng không thể giữ mãi được sự sủng ái của hoàng thượng. Ông dần dần cảm thấy chán ngán khuôn mặt như trăng rằm, đôi mắt như trái hạnh đào, đôi môi tựa trái anh đào của cô, trong khi tài năng của cô - rất đáng chú ý khi cô còn ở đây, ở huyện Vĩnh Minh này - trở nên tầm thường khi so sánh với những phi tần khác trong cung. Tội nghiệp Ngọc Tú. Cô không có quan hệ với ai trong cung. Các phi tần khác đâu cần đến một cô gái gốc gác quê mùa. Cô thấy cô đơn và buồn bã nhưng không có cách nào để liên lạc với mẹ và các chị em của mình mà không bị người khác phát hiện. Một lời bất cẩn thôi sẽ có thể khiến cô bị chém đầu hay ném xuống giếng trong hoàng cung để cô im lặng mãi mãi. "Ngày cũng như đêm, Ngọc Tú đành chỉ nén giữ những cảm xúc ấy trong lòng," thím tôi tiếp tục. "Những người đàn bà độc ác trong cung và những tên hoạn quan chỉ nhìn thấy cô im lặng thêu thùa hay luyện chữ. Lần nào họ cũng xem đó làm trò cười. ‘Ủy mị chưa kìa,’ bọn họ nói. Hay ‘Hãy nhìn con khỉ nhà quê kia đang học đòi viết chữ như đàn ông kìa.’ Mỗi lời từ miệng họ phát ra đều thật tàn nhẫn, nhưng không phải là Ngọc Tú đang cố gắng học theo lối viết chữ của đàn ông. Cô đang thay đổi nó, cải biến nó, làm nó mềm mại hơn, và kết cục là sáng tạo ra một kiểu chữ hoàn toàn mới không còn phải dựa vào kiểu chữ của đàn ông nữa. Cô đã lặng lẽ sáng tạo ra một kiểu mật mã để có thể viết thư về nhà cho mẹ và các chị em." Tuyết Hoa và tôi thường hay thắc mắc là làm thế nào mà mẹ và các chị em gái của Ngọc Tú có thể đọc được những mật mã ấy, và hôm nay thím cài thêm vào câu chuyện câu trả lời của thím. "Có lẽ, một viên hoạn quan vì thông cảm cho cảnh ngộ của cô lén chuyển bức thư của Ngọc Tú ra ngoài đã giải thích tất cả cho họ. Hay, cũng có thể các chị em gái của cô không hiểu tờ giấy viết gì, nên đã đặt nó sang một bên, và khi nó nghiêng đi, họ mới nhìn thấy và hiểu được những ký tự bị viết nghiêng đi đó. Sau đó, qua thời gian, những người đàn bà trong gia đình này đã tạo ra kiểu chữ tượng thanh mới, mà họ học được dần dần từ lá thư ấy, kiểu chữ mà bọn con gái các con đang học đó. Nhưng đây là một điều đặc biệt mà đàn ông sẽ để ý đấy." Thím nghiêm giọng, nhắc nhở chúng tôi nên thắc mắc những điều như thế. "Bài học mà chúng ta nên rút ra từ cuộc đời của Ngọc Tú là cô đã tìm được cho mình một cách để giúp vợi bớt những nỗi lòng uẩn khúc đằng sau cuộc đời tưởng chừng như hạnh phúc của cô và món quà của cô đã được truyền qua biết bao thế hệ để đến được với chúng ta hôm nay." Chúng tôi im lặng một lúc, suy nghĩ về người cung nữ cô đơn đó. Thím tôi bắt nhịp trước và chúng tôi cùng hát theo, còn mẹ thì ngồi nghe. Đó là một bài hát buồn, người ta đồn rằng đó là bài hát từ chính miệng Ngọc Tú hát lên. Giọng hát của chúng tôi cất lên nỗi buồn của cô: "Từng chữ viết đều thấm đẫm nước mắt từ trái tim con, Một cuộc nổi loạn vô hình mà không ai thấy được. Hãy biến câu chuyện cuộc đời của chúng ta thành nghệ thuật đau thương. Ôi mẹ, ôi chị hãy lắng nghe con, hãy lắng nghe em." Những tiếng cuối cùng vọng ra ngoài song cửa và lan ra con hẻm. "Hãy nhớ đấy, các con ạ," thím tôi nói. "Không phải tất cả đàn ông đều là hoàng đế, nhưng tất cả các cô gái đều phải đi lấy chồng. Ngọc Tú tạo ra nữ thư cho những người phụ nữ trong huyện ta để chúng ta có thể giữ được sợi dây liên lạc với gia đình cha mẹ đẻ của mình." Chúng tôi chọn lấy cây kim của mình và bắt đầu thêu thùa. Ngày hôm sau thím sẽ kể lại câu chuyện đó cho chúng tôi nghe. NĂM TUYẾT HOA và tôi lên mười ba, việc học hành của chúng tôi đến từ mọi hướng, và mọi người mong chúng tôi sẽ giúp đỡ được trong mọi việc thông thường nhất. Nếu như giới phụ nữ trong nhà Tuyết Hoa dạy cô phong thái lịch lãm và kỹ năng tao nhã rất thành công, thì họ lại thất bại thảm hại trong việc dạy cô nữ công gia chánh, vì thế cô thường đi theo tôi khi tôi làm việc nhà. Chúng tôi thức dậy lúc trời vừa rạng và nhóm lửa nấu cơm. Sau khi rửa bát đĩa, Tuyết Hoa và tôi trộn cám cho lợn. Đến trưa, chúng tôi đi ra ngoài mấy phút để hái rau tươi ngoài vườn; sau đó chúng tôi nấu cơm trưa. Mẹ và thím tôi từng làm tất cả những việc này. Bây giờ họ giám sát chúng tôi. Buổi chiều là thời gian ở buồng phụ nữ. Tối đến, chúng tôi phụ giúp và sắp bữa cơm tối. Ngày nào cũng vậy, không hở ra lấy một phút nào không phải học. Những cô gái trong gia đình tôi - bao gồm cả tôi và Tuyết Hoa - đều cố gắng để trở thành những học trò giỏi. Mỹ Nguyệt là người giỏi nhất trong việc xe sợi, công việc mà tôi và Tuyết Hoa không thể kiên nhẫn nổi. Tôi thích nấu nướng, nhưng lại chẳng hứng thú gì với việc dệt vải, may vá và khâu giày. Không đứa nào trong chúng tôi thích việc lau chùi giặt giũ cả, còn Tuyết Hoa thì ghê sợ việc đó. Mẹ và thím tôi không trừng phạt cô như với tôi và Mỹ Nguyệt khi bọn tôi quét nhà không sạch hay không giặt hết bụi đất bẩn trên quần áo của bố tôi. Tôi nghĩ họ nương tay với Tuyết Hoa vì họ biết mai này thể nào cô chả có người hầu kẻ hạ và cô sẽ chẳng bao giờ phải tự làm những công việc như vậy. Tôi thì lại nhìn sự thất bại của cô theo một chiều hướng khác. Cô sẽ không bao giờ học được việc giặt giũ lau chùi đúng cách vì lúc nào cô cũng như đang lơ lửng và thoát ly khỏi thực tế cuộc sống. Chúng tôi cũng phải học từ những người đàn ông trong gia đình, tuy không phải theo cái cách mà các bạn nghĩ. Bố và chú không bao giờ trực tiếp dạy dỗ chúng tôi. Vì như vậy là không đúng. Ý tôi muốn nói là tôi học được về đàn ông thông qua những hành động của Tuyết Hoa và cách bố và chú ứng xử lại. Cháo là một trong những món dễ nấu nhất - chỉ cần đổ gạo và nhiều nước vào, và khuấy lên liên tục - cho nên chúng tôi để Tuyết Hoa nấu bữa sáng. Khi cô thấy là bố tôi thích hành tươi, cô chắc rằng nên cho thêm một nhúm nữa vào bát của ông. Đến bữa tối, mẹ và thím luôn lặng lẽ đặt đĩa lên bàn và để bố và chú tự phục vụ; Tuyết Hoa đi quanh bàn, hơi cúi thấp đầu, và múc vào từng đĩa, đầu tiên cho bố tôi, rồi đến chú, rồi anh trai tôi, rồi đến em trai. Cô luôn đứng cách một khoảng đủ xa để không tỏ ra quá thân mật, nhưng đồng thời cũng vẫn thể hiện vẻ thanh lịch. Tôi nhận thấy rằng, qua những cử chỉ nho nhỏ đó của cô, họ sẽ cố sao để không ăn ngấu ăn nghiến, khạc nhổ ra sàn nhà, hay gãi cái bụng tròn căng của họ. Thay vì thế, họ cười và nói chuyện với cô. Khao khát hiểu biết trong tôi đòi hỏi vượt ra ngoài những gì tôi cần biết trong căn buồng phụ nữ trên gác, hay ở dưới nhà, thậm chí cả trong việc học nữ thư. Tôi muốn biết về tương lai của tôi. May thay, Tuyết Hoa lại rất thích nói chuyện, và cô kể rất nhiều điều về Thông Khẩu. Giờ cô thường xuyên qua lại giữa hai thôn và đã thuộc lòng cả đường đi. "Khi bạn về nhà chồng," cô nói, "bạn phải đi qua con sông và nhiều đồng lúa, đi về phía những ngọn đồi thấp mà bạn có thể nhìn thấy từ đầu thôn Phủ Vĩ. Thông Khẩu nằm lọt thỏm trong vòng tay bao bọc của những ngọn đồi đó. Chúng không bao giờ dao động và thôn mình cũng vậy, ít nhất đó là những gì mà bố mình nói. Ở Thông Khẩu không bao giờ có động đất. Ở đấy phong thủy rất hoàn hảo." Theo những lời Tuyết Hoa nói, Thông Khẩu lớn dần lên trong trí tưởng tượng của tôi, nhưng điều đó không thấm gì so với những cảm giác của tôi khi nghe cô nói về đức phu quân và nhà chồng tương lai của tôi. Cả Mỹ Nguyệt và tôi đều không có mặt khi bố và chú bàn bạc với bà Vương, nhưng chúng tôi giống nhau ở những điểm cơ bản: mọi gia đình ở Thông Khẩu đều mang họ Lữ, và cả hai gia đình đó đều khá giả. Những điểm này khiến hai ông bố rất ưng ý, nhưng chúng tôi thì chỉ muốn biết về đức ông chồng của mình, về mẹ chồng, và những người đàn bà khác trong căn buồng phụ nữ của nhà chồng tương lai. Chỉ có Tuyết Hoa mới có thể trả lời cho chúng tôi. "Bạn may mắn đó, Bách Huệ ạ," một hôm Tuyết Hoa bảo tôi thế. "Mình đã từng gặp cậu con trai nhà họ Lữ đó. Anh ta là anh họ cách hai đời của mình. Tóc anh ấy đen óng như màu đêm vậy. Anh ấy rất tử tế với bọn con gái. Hồi trước, anh ấy đã chia sẻ với mình chiếc bánh trung thu. Anh ấy không cần phải làm như vậy." Cô bảo rằng đấng phu quân tương lai của tôi tuổi hổ, một tuổi cũng có cá tính mạnh mẽ như tuổi tôi, khiến chúng tôi trở thành một đôi hoàn hảo. Cô mách cho tôi những điều cần biết để sống hòa hợp với nhà họ Lữ. "Đó là một gia đình bận rộn," cô giải thích. "Là trưởng thôn, nhà ông chủ Lữ sẽ có nhiều khách khứa trong, ngoài thôn. Bên cạnh đó, trong nhà cũng nhiều người. Nhà đó không có con gái, nhưng sẽ có con dâu. Bạn sẽ là con dâu đầu tiên. Bạn sẽ có thứ bậc cao nhất trong số đó. Nếu bạn sinh con trai đầu lòng, bạn sẽ duy trì được thứ bậc đó mãi mãi. Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ không gặp phải những vấn đề rắc rối như Ngọc Tú, cung nữ của hoàng đế. Mặc dù vợ ông chủ Lữ đã sinh được bốn người con trai, mà ông ấy vẫn nạp thêm ba người thiếp. Ông ấy phải có thiếp, vì ông ấy là trưởng thôn. Nạp thiếp để cho mọi người thấy sự mạnh mẽ của ông ấy." Lẽ ra tôi phải lo lắng về những chuyện như vậy. Vì, nếu người cha có thiếp, thì rốt cuộc con trai chắc chắn cũng sẽ có. Nhưng tôi còn quá trẻ con và ngây thơ, những điều như vậy không hề gợn lên trong đầu óc tôi. Và thậm chí nếu có, tôi cũng chưa hề biết gì về những mâu thuẫn có thể nảy sinh. Thế giới của tôi vẫn chỉ có bố mẹ, chú thím - đơn giản, đơn giản thế thôi. Tuyết Hoa chuyển sang Mỹ Nguyệt, như mọi khi cô ngồi im lặng bên chúng tôi, đợi chúng tôi để ý đến cô. Tuyết Hoa nói, "Mỹ Nguyệt, mình cũng mừng cho bạn. Mình biết rõ về gia đình họ Lữ đó lắm. Chồng tương lai của bạn, bạn biết rồi đó, tuổi hợi. Anh ta có những đặc điểm là khỏe mạnh, hào hiệp và sâu sắc, còn bạn, với bản tính của loài cừu, hẳn sẽ mê anh ta như điếu đổ. Đó cũng là một cuộc hôn nhân kết hợp hoàn hảo." "Thế còn mẹ chồng mình thì sao?" Mỹ Nguyệt ngập ngừng hỏi. "Bà Lữ đó ngày nào chả qua chơi với mẹ mình. Bà ấy tốt bụng lắm, tốt hơn so với những gì mình có thể kể với bạn." Đột nhiên, nước mắt trào ra từ đôi mắt của Tuyết Hoa. Điều ấy kỳ lạ đến độ tôi và Mỹ Nguyệt đều khúc khích cười, nghĩ rằng Tuyết Hoa lại bày trò. Lão đồng của tôi chớp mắt thật nhanh. "Có con ma lọt vào mắt mình!" Tuyết Hoa la lên, rồi cùng cười với chúng tôi. Sau đó, cô lại tiếp tục đoạn bỏ lửng ban nãy. "Mỹ Nguyệt, bạn hẳn sẽ rất mãn nguyện cho mà xem. Họ sẽ yêu thương bạn thật lòng. Và điều quan trọng nhất là hằng ngày bạn có thể đi đến nhà Bách Huệ. Các bạn sẽ được sống gần gũi nhau biết bao." Tuyết Hoa liếc nhìn tôi. "Mẹ chồng tương lai của bạn là người rất truyền thống," cô nói. "Bà ấy nhất nhất tuân thủ quy tắc của phụ nữ. Bà ấy rất cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói. Bà ấy ăn mặc trang điểm rất chỉn chu. Và khi khách đến, trà nóng luôn phải sẵn sàng." Vì đã có Tuyết Hoa hướng dẫn làm những việc đó, tôi không sợ mình sẽ mắc lỗi. "Trong nhà đó kẻ ăn người ở đông hơn nhà mình nhiều," Tuyết Hoa tiếp tục. "Bạn sẽ không phải nấu nướng, trừ khi phải làm những món đặc biệt dành riêng cho bà Lữ. Bạn cũng sẽ không phải chăm sóc con bạn trừ khi bạn muốn làm vậy." Khi cô nói với tôi những điều như thế, tôi nghĩ cô mất trí. Tôi hỏi cô thêm về bố chồng tương lai của tôi. Cô nghĩ ngợi giây lát rồi trả lời, "Ông chủ Lữ là người hào phóng và giàu lòng thương người, nhưng ông ấy cũng rất tài trí, đó chính là lý do tại sao ông ấy được làm trưởng thôn. Mọi người đều kính trọng ông ấy. Mọi người cũng kính trọng vợ con ông ấy." Cô nhìn tôi với đôi mắt sắc lẻm và nhắc lại, "Bạn quá may mắn." Nghe cái viễn cảnh mà Tuyết Hoa vẽ ra, làm sao tôi lại có thể không mơ tưởng tới lúc tôi ở Thông Khẩu cùng với người chồng yêu quý và những đứa con trai hoàn hảo? HIỂU BIẾT CỦA TÔI BẮT ĐầU mở rộng ra ngoài phạm vi thôn tôi. Tuyết Hoa và tôi tới giờ đã đến Miếu Cô Bà ở Xá Hạ năm lần. Năm nào chúng tôi cũng leo lên những bậc thang dẫn đến ngôi miếu, dâng lễ vật lên bàn thờ, và thắp hương. Sau đó, chúng tôi đi ra chợ, nơi chúng tôi mua kim chỉ và giấy. Cuối ngày, chúng tôi đến chỗ ông lão Chu để ăn món khoai môn rán bọc đường nóng của ông. Khi đi qua đi lại, chúng tôi lén nhìn ra ngoài chiếc kiệu trong khi bà Vương ngủ. Chúng tôi nhìn thấy con đường mòn bắt đầu từ đường dẫn đến một thôn khác. Chúng tôi nhìn thấy những dòng sông và những con kênh. Những người khiêng kiệu kể với chúng tôi rằng những dòng sông này liên kết xứ tôi với các vùng khác trong cả nước. Sống trong căn buồng phụ nữ, chúng tôi chỉ nhìn thấy bốn bức vách, nhưng đàn ông ở xứ tôi thì không cô lập đến vậy. Nếu họ muốn, họ có thể lên thuyền đi bất cứ đâu. Suốt thời gian đó, bà Vương và bà Cao ra vào nhà chúng tôi như hai con gà mái bận rộn. Sao cơ? Bạn nghĩ rằng, khi việc hôn nhân của chúng tôi đã được định đoạt, thì cả hai người đó sẽ để chúng tôi yên ư? Họ phải ngó nghiêng và chờ đợi, mưu tính và phỉnh phờ, để bảo vệ cho khoản đầu tư của mình. Bất cứ điều gì cũng có thể gặp trục trặc. Rõ ràng, họ đang lo lắng đến chuyện bốn đám cưới trong một gia đình và dò xem liệu bố tôi có đồng ý thông qua chi phí đi hỏi vợ cho anh trai tôi, ba món hồi môn ngang bằng nhau cho ba đứa con gái, và quan trọng hơn, là tiền thù lao cho bà mối hay không. Nhưng vào mùa hè năm tôi lên mười ba, cuộc chiến giữa hai bà mối đột ngột căng thẳng hẳn lên. Chuyện khơi mào khá đơn giản. Chúng tôi đang ở buồng phụ nữ khi bà Cao bắt đầu than vãn rằng mấy nhà ở thôn này chẳng chịu trả thù lao đúng hẹn gì cả, ý muốn nói rằng nhà tôi cũng là một trong số đó. "Một tên nông dân dấy quân nổi loạn trên vùng đồi núi đang làm tất cả chúng ta gặp khó khăn," bà Cao phát biểu. "Không thu hoạch được mùa màng mà cũng chẳng bán ra được. Không ai có tiền cả. Tôi nghe nói có một số cô gái đã phải từ bỏ hôn ước của mình vì gia đình họ không thể cho họ của hồi môn. Những cô gái đó rồi sẽ chỉ thành nàng hầu vợ lẽ mà thôi." Trong huyện mọi việc trở nên rất khó khăn, đó chẳng phải là tin tức gì mới mẻ, nhưng cái vế bà Cao nói sau đó khiến tất cả chúng tôi đều sửng sốt. "Thậm chí cô Tuyết Hoa bé bỏng cũng chưa chắc đã an toàn. Vẫn chưa phải là quá muộn để tôi đi kiếm mối khác thích hợp hơn." Tôi cảm thấy mừng vì Tuyết Hoa đã không có mặt ở đây để nghe những lời nói bóng nói gió này. "Bà đang nói về một trong những gia đình phong lưu thần thế nhất trong huyện đấy," bà Vương cự lại, giọng bà không trơn tuột như bôi mỡ nữa mà nghe tựa như đá choảng vào nhau. "Có lẽ, bà dì ạ, bà muốn nói là đã từng. Người ta thấy ông chủ đó đánh bạc và nạp thiếp quá nhiều." "Ông ta chỉ làm những việc tương xứng với vị trí của mình thôi. Mặt khác, chính bà mới cần được tha thứ cho sự ngu dốt của bà. Chốn cao sang không phải là chỗ để bà mon men tới." "Ha ha! Bà làm tôi tức cười quá đi mất. Bà nói dối mà cứ như là đang nói thật. Cả huyện đều biết gia đình đó đang gặp chuyện gì. Dính líu với cái bọn trên núi, cùng lúc mùa màng thì thất bát, lại lơ là, và chẳng thể trông mong gì hơn ở con người bạc nhược đó ngoài việc ông ta chỉ biết ôm riết lấy cái tẩu hút." Mẹ tôi đột ngột đứng lên. "Bà Cao, tôi rất cảm kích vì những gì bà đã làm cho lũ trẻ, nhưng chúng chỉ là trẻ con và không nên nghe những chuyện như vậy. Tôi sẽ tiễn bà ra cửa, vì bà còn phải đến thăm những người khác nữa, tôi chắc chắn là thế." Mẹ tôi gần như kéo bà Cao khỏi ghế và lôi bà ta ra cửa. Ngay khi họ đi khuất khỏi tầm mắt, thím tôi rót trà mời bà Vương, người vẫn ngồi đó im lặng, vẻ nghĩ ngợi, đôi mắt nhìn xa xăm. Rồi, bà chớp mắt ba lần, nhìn quanh phòng và gọi tôi đến chỗ bà. Tôi mới mười ba và vẫn còn thấy sợ bà ta. Tôi đã biết ngoài mặt phải gọi bà ta là dì, nhưng trong tâm trí tôi bà ấy vẫn luôn là bà Vương đáng sợ. Khi tôi đến gần, bà ấy kéo mạnh tôi lại, nắm chặt cánh tay tôi như lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. "Không bao giờ, không bao giờ được phép nói những điều cô vừa nghe được cho Tuyết Hoa, rõ chưa. Cô bé ấy ngây thơ lắm. Không nên để những lời thô tục của người đàn bà đó làm vẩn đục tâm trí cô bé." "Dạ vâng, thưa dì." Bà ấy nhìn tôi nghiêm khắc lần nữa. "Không bao giờ!" "Dạ, con hứa." Lúc đó, tôi không hề hiểu một nửa những gì vừa nghe thấy. Mà nếu có hiểu đi chăng nữa, thì hà cớ gì tôi phải nhắc lại những chuyện bép xép xấu xa ấy với Tuyết Hoa? Tôi yêu quý Tuyết Hoa. Tôi sẽ không bao giờ làm tổn thương cô bằng việc nói lại với cô những lời độc địa của bà Cao. Tôi chỉ nói thêm là: mẹ tôi sẽ phải nói chuyện với bố tôi, vì bà Cao sẽ không bao giờ được phép bước chân vào nhà chúng tôi một lần nữa. Mọi công việc giao dịch với bà ấy sẽ tiến hành ngoài ngưỡng cửa nhà tôi. Thế tức là mẹ và bố tôi hết sức lo lắng đến Tuyết Hoa. Cô là lão đồng, nhưng họ cũng yêu quý cô như tôi. THÁNG THỨ MƯỜI năm tôi mười ba tuổi đã đến. Bên ngoài song cửa, bầu trời nắng gắt trắng xóa của mùa hè đã nhường chỗ cho màu xanh thăm thẳm của mùa thu. Chỉ còn một tháng nữa là tới đám cưới của chị gái tôi. Gia đình nhà trai đã chuyển đến những món quà cuối cùng. Các chị em kết nghĩa của chị tôi đã bán đi một suất hai mươi lăm cân thóc của họ và mua quà. Các cô gái đến ở cùng chúng tôi trong lễ Ngồi và Hát ở căn buồng trên gác. Những người phụ nữ khác trong thôn đến thăm để chung vui, khuyên bảo, và tỏ lòng quyến luyến. Trong vòng hai mươi tám ngày, chúng tôi cùng nhau ca hát và kể chuyện. Nhóm chị em kết nghĩa giúp chị tôi may những chiếc chăn cuối cùng và bọc những đôi giày chị tự tay làm lấy để làm quà cho những người phụ nữ trong gia đình mới của chị. Chúng tôi cùng nhau làm cuốn sách về ngày thứ ba sau lễ cưới cho chị tôi. Chính những thứ này sẽ giới thiệu chị với những người phụ nữ trong gia đình mới của chị, và chúng tôi cố gắng tìm những từ phù hợp để miêu tả những phẩm chất và tính cách tốt nhất của chị. Ba ngày trước khi chị tôi về gia đình mới, chúng tôi có một ngày Buồn bã và Lo lắng. Mẹ ngồi ở bậc thang thứ tư trên cầu thang dẫn đến căn buồng, đặt chân lên bậc thứ ba và bắt đầu than khóc. "Con gái ơi, con là viên ngọc trong tay mẹ," mẹ hát. "Mắt mẹ đẫm lệ tuôn rơi. Hai suối lệ tuôn chảy trên mặt mẹ. Chẳng mấy chốc nơi này sẽ trống vắng bóng dáng con." Chị tôi, các chị em kết nghĩa của chị, và những người phụ nữ trong thôn bắt đầu khóc khi nghe được nỗi buồn của mẹ tôi. Hu, Hu, Hu. Kế đến thím tôi sẽ hát, theo đúng nhịp điệu mà mẹ tôi đã hát trước đó. Như mọi khi, thím luôn cố tỏ ra lạc quan ngay giữa lúc đau khổ. "Thím xấu xí và cũng không mấy khôn ngoan, nhưng thím luôn cố gắng để trở thành một người tốt tính. Thím yêu chồng và chồng thím cũng yêu thím. Chú thím là đôi uyên ương xấu xí và không mấy khôn ngoan. Nhưng chú thím đã được tận hưởng thật nhiều niềm vui chăn gối. Thím mong con cũng sẽ được như vậy." Đến lượt mình, tôi cất giọng. "Ơi chị gái ơi, trái tim em nhỏ lệ vì mất chị. Nếu chúng ta là con trai, chúng ta sẽ không bao giờ phải chia cách. Chúng ta sẽ luôn ở bên nhau như bố và chú, như anh cả và em trai. Gia đình ta đều buồn bã. Căn buồng này sẽ thật cô đơn khi thiếu vắng bóng dáng chị." Muốn tặng chị món quà quý nhất có thể, tôi đã hát những điều tôi học được từ Tuyết Hoa. "Mọi người cần quần áo - dù mùa hè có mát đến đâu và mùa đông có ấm đến đâu - cũng cứ may quần áo cho người khác, chẳng đợi ai đòi hỏi. Ngay cả khi trên bàn tràn ngập thức ăn, hãy để bố mẹ chồng ăn trước. Hãy cần cù chăm chỉ và hãy nhớ ba điều: là nàng dâu hiếu thảo luôn tôn kính cha mẹ chồng, là người vợ hiền luôn biết nâng khăn sửa túi cho chồng, là người mẹ ân cần chu đáo và mẫu mực đối với các con. Nếu làm được những điều như vậy, gia đình mới của chị sẽ đối xử tử tế với chị. Trong ngôi nhà tốt lành đó, hãy giữ cho tâm hồn chị yên ả." Những người chị em kết nghĩa tiếp lời tôi. Họ rất yêu quý người chị kết nghĩa của mình. Chị ấy có tài và chu đáo. Khi người con gái cuối cùng đi lấy chồng nốt, thì hội chị em kết nghĩa quý giá của họ cũng tan rã. Họ chỉ còn lại những kỷ niệm về những buổi thêu thùa và may vá cùng nhau. Họ chỉ còn lại những câu chữ ghi trong cuốn sổ về ngày thứ ba sau lễ cưới để an ủi mình trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. Họ đã thề rằng khi một người trong hội chị em mất đi, những người còn lại sẽ đến viếng và đốt cuốn sổ họ đã viết để nó sẽ cùng người chị em đó sang thế giới bên kia. Ngay cả trong lúc đang đau buồn vì người đã ra đi, hội chị em kết nghĩa vẫn hy vọng người ấy được hạnh phúc. Sau khi mọi người đều đã hát xong và để những giọt nước mắt tuôn trào, đến lượt Tuyết Hoa, cô bày tỏ theo một cách riêng khác. "Em sẽ không hát," cô nói. "Thay vào đó em sẽ bày tỏ bằng cách mà em và em gái chị đã nghĩ ra để giữ chị mãi mãi ở bên bọn em." Nói đoạn, cô lấy chiếc quạt của chúng tôi từ trong tay áo, mở nó ra, và đọc đôi câu thơ đơn giản mà chúng tôi đã cùng nhau viết: "Hỡi chị gái và cũng là người bạn tốt của chúng em, con người lặng lẽ và ân cần. Chị sẽ là một kỷ niệm hạnh phúc." Sau đó Tuyết Hoa chỉ vào một đóa hoa cẩm chướng nhỏ cô đã vẽ trên vòng lá đang ngày một dày thêm trên mép quạt, tượng trưng cho sự hiện diện mãi mãi của chị tôi. Ngày hôm sau, mọi người gom lá tre lại và đổ đầy các thùng nước. Khi gia đình mới của chị tôi đến, chúng tôi sẽ tung lá tre xuống người họ, việc đó tượng trưng cho tình yêu của đôi vợ chồng mới sẽ mãi mãi xanh tươi như cây tre; sau đó chúng tôi té nước ngụ ý với gia đình chú rể rằng chị tôi trong sạch và tinh khiết như thứ chất lỏng thiết yếu đó. Cùng với những trò tinh nghịch này, khắp nhà mọi người nói cười rộn rã, hoan hỉ chúc tụng. Đã nhiều giờ trôi qua với cỗ bàn và than vãn. Của hồi môn được bày ra và mọi người xúm vào bình luận về chất lượng của món đồ tự tay chị tôi làm. Cả ngày lẫn đêm hôm đó, chị tôi trông thật xinh đẹp với đôi mắt đẫm lệ. Sáng hôm sau, chị bước lên kiệu hoa về gia đình mới của chị. Mọi người té nước nhiều hơn nữa và đồng thanh: "Cho con gái đi lấy chồng cũng chỉ như hắt nước đi mà thôi!" Chúng tôi đi đến rìa thôn và nhìn theo đám rước đi qua chiếc cầu rời khỏi Phủ Vĩ. Ba ngày sau, nhà tôi chở đến thôn mới của chị tôi nào là bánh nếp, quà tặng và cuốn sổ ngày thứ ba sau lễ cưới chúng tôi đã viết, cuốn sổ này sẽ được đọc to lên trong căn buồng phụ nữ mới của chị. Ngày hôm sau, theo phong tục, anh trai tôi đưa xe của nhà đến đón chị tôi và đưa chị trở về nhà. Ngoại trừ một năm về thăm chồng vài lần, chị vẫn tiếp tục sống với chúng tôi cho đến khi mang thai đứa con đầu tiên. Trong tất cả những sự việc diễn ra trong đám cưới của chị tôi, điều tôi nhớ nhất là khi chị quay về sau lần về thăm nhà chồng vào mùa xuân năm kế tiếp. Bình thường chị luôn điềm đạm - ngồi trên ghế đẩu trong góc phòng, lặng lẽ thêu thùa khâu vá, không bao giờ tranh cãi, luôn luôn nghe lời - nhưng giờ đây chị quỳ xuống sàn nhà, vùi mặt vào lòng mẹ, khóc than cho nỗi khổ của mình. Mẹ chồng chị ngược đãi chị, luôn luôn quở trách và chửi mắng. Chồng của chị không biết gì mà lại còn thô lỗ. Bố mẹ chồng muốn chị phải xách nước và giặt giũ quần áo cho cả gia đình. Hãy nhìn xem, những đốt ngón tay của chị đã trầy trợt đến mức nào do phải làm việc nhà ngày hôm qua? Nhà bên ấy không muốn phải nuôi chị và nói thậm tệ về nhà tôi vì đã không mang đủ đồ ăn cho chị khi đưa chị đến. Mỹ Nguyệt, Tuyết Hoa và tôi hội ý với nhau, rì rầm những lời xót thương, nhưng trong thâm tâm, dù thấy thương cho chị nhưng chúng tôi vẫn tin rằng những chuyện như vậy sẽ không xảy ra với chúng tôi. Mẹ khẽ vuốt tóc chị và vỗ về thân hình run rẩy của chị. Tôi chờ mẹ nói với chị là đừng lo lắng, rằng những chuyện như vậy chỉ là tạm thời thôi, nhưng mẹ lại không nói một lời nào. Mẹ quay sang nhìn thím, đôi mắt ánh lên vẻ bất lực, chờ thím chỉ giùm. "Thím đã ba mươi tám tuổi đầu," thím nói, nhưng không phải với giọng thông cảm mà là cam chịu. "Thím đã sống một cuộc sống khổ sở. Gia đình thím là một gia đình tương đối khá giả, nhưng đôi chân và khuôn mặt thím đã làm số phận thím thành ra thế này. Thậm chí có một người cũng như thím - không thông minh hay xinh đẹp cho lắm cũng chẳng phải hạng đui què mẻ sứt - cũng còn tìm được một tấm chồng, vì thậm chí một người đàn ông đần độn cũng còn có thể có con trai. Chỉ cần người đàn bà có kinh là được. Cha thím đã gả thím vào một gia đình tốt nhất mà ông ấy có thể tìm được cho thím. Thím đã khóc y như cháu bây giờ. Số phận thím còn nghiệt ngã hơn nữa kia. Thím không thể sinh con trai. Thím là gánh nặng cho nhà chồng. Thím đã từng ao ước có được con trai và một cuộc sống hạnh phúc. Thím ước gì con gái thím sẽ không bao giờ phải đi lấy chồng để thím có người lắng nghe nỗi lòng của thím. Nhưng cái phận đàn bà là vậy. Cháu không thể thoát khỏi số phận của mình. Nó là tiền định." Chính thím tôi - người vẫn luôn được xem là người pha trò của cả nhà, người luôn kể về niềm hạnh phúc khi chú thím đầu ấp tay gối, người luôn hướng dẫn chúng tôi học tập với sự động viên tuyệt vời - lại là người nói ra những tình cảm đó, và chuyện này quả là một cú sốc cho chúng tôi. Mỹ Nguyệt đưa tay ra siết chặt tay tôi. Nước mắt cô tuôn rơi trước sự thật này, cái điều chưa bao giờ được nói ra trong căn buồng phụ nữ cho đến tận hôm nay. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cuộc sống khó khăn đến mức nào đối với thím, nhưng giờ đây tâm trí tôi đang lật nhanh qua những năm tháng trước và tự hỏi làm thế nào mà thím vẫn giữ được nét mặt tươi cười với cuộc sống rõ ràng là đáng buồn của bà kia chứ. Không cần phải nói, những lời này không an ủi chị tôi được. Chị nức nở dữ hơn, đưa tay lên bịt hai tai lại. Mẹ tôi đành phải nói, nhưng khi mẹ nói, lời nói thốt ra khỏi miệng mẹ trôi tuột ra từ những phần sâu kín nhất của cái âm - thụ động, tối tăm và đàn bà. "Con đã đi lấy chồng," mẹ nói, vẻ dửng dưng đến kỳ lạ. "Con đã đến thôn khác. Mẹ chồng con tàn nhẫn. Chồng con không quan tâm đến con. Chúng ta đều mong ước con sẽ không bao giờ đi khỏi đây, nhưng mọi đứa con gái đều phải đi lấy chồng. Mọi người đều đồng tình như vậy. Mọi người đều chấp nhận điều đó. Có thể con sẽ khóc lóc và xin được trở về nhà, có thể chúng ta đều đau lòng khi con ra đi, nhưng con - và cả chúng ta nữa - đều không có sự lựa chọn nào khác. Các cụ ngày xưa đã nói dứt khoát: ‘Con gái không lấy chồng là đứa bỏ đi; lửa không đốt cháy ngọn núi, đất sẽ không phì nhiêu’." TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 8: Hội Nghênh Phong Tuyết Hoa và tôi lên mười lăm. Tóc chúng tôi được búi lên theo kiểu phượng hoàng, điều đó cho thấy chúng tôi sắp đi lấy chồng. Chúng tôi chuẩn bị của hồi môn một cách nghiêm túc. Chúng tôi ăn nói dịu dàng nhỏ nhẹ. Chúng tôi bước đi trên đôi gót sen ba tấc với dáng vẻ yêu kiều. Chúng tôi đã thông thạo làu làu nữ thư, và khi xa nhau, hầu như ngày nào chúng tôi cũng viết thư cho nhau. Hàng tháng chúng tôi có kinh đều. Chúng tôi phụ giúp làm việc nhà, quét dọn nhà cửa, hái rau trong vườn, chuẩn bị bữa ăn, rửa bát đĩa, giặt giũ quần áo, dệt vải và khâu vá. Mọi người đã coi chúng tôi như phụ nữ, nhưng chúng tôi không phải gánh vác những trách nhiệm của một người phụ nữ đã có gia đình. Chúng tôi vẫn được tự do đi lại thăm nhau khi nào chúng tôi muốn và ngồi lâu lâu trong buồng phụ nữ, ghé đầu vào nhau khi thì thầm và thêu thùa. Chúng tôi thương yêu nhau đúng theo cái cách tôi đã ước ao từ ngày thơ bé. Năm đó, Tuyết Hoa đến ở nhà tôi trong suốt hội Nghênh Phong, diễn ra đúng vào cái tháng nóng nhất trong năm, khi vựa thóc của vụ thu hoạch trước sắp cạn mà vụ thu hoạch mới thì chưa tới. Điều này có nghĩa những người phụ nữ đã về nhà chồng, những người có vị trí thấp nhất trong bất kỳ gia đình nào sẽ được trở về nhà cha mẹ đẻ vài ngày hay có khi vài tuần. Chúng tôi gọi đó là ngày hội, nhưng thật ra đó là vài ngày đẩy bớt đi mấy miệng ăn khỏi những chiếc bàn của gia đình nhà chồng. Chị gái tôi đã trở lại nhà chồng vĩnh viễn. Chị sắp sinh con đầu lòng và chẳng thể ở chỗ khác được. Mẹ tôi đang đi thăm nhà ngoại và dẫn theo em trai đi cùng. Thím cũng đã về nhà cha mẹ đẻ, còn Mỹ Nguyệt thì đang đi cùng hội chị em kết nghĩa của cô ở trong thôn. Chị dâu tôi cùng con gái đón hội Nghênh Phong bên nhà bố mẹ đẻ của chị. Bố tôi, cùng với chú và anh cả sung sướng vì các bà vợ đều đã đi cả. Họ không bắt tôi và Tuyết Hoa làm gì khác ngoài việc đem cho họ trà nóng, thuốc lá và mấy lát dưa hấu. Vì vậy, suốt ba ngày đêm của hội Nghênh Phong kéo dài hàng tuần lễ, Tuyết Hoa và tôi được ở riêng với nhau trên buồng. Đêm đầu tiên, chúng tôi nằm cạnh nhau, quấn vải bó chân và đi dép ngủ, mặc cả quần áo lót và quần áo ngoài. Chúng tôi kéo chiếc giường đến bên cạnh cửa sổ, hy vọng có được một cơn gió mát lành, nhưng chẳng có tí gió nào, chỉ có sự yên lặng oi bức. Trăng sắp tròn. Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của chúng tôi, khiến chúng tôi còn cảm thấy nóng thêm. Đêm hôm sau, trời còn oi bức hơn nữa, Tuyết Hoa đề nghị chúng tôi cởi áo ngoài ra. "Chẳng có ai ở đây cả," cô nói, "Chẳng ai biết đâu." Làm thế cũng bớt nóng được chút ít, nhưng chúng tôi muốn cái gì đó mát mẻ hơn cơ. Đêm thứ ba chúng tôi được ở riêng với nhau, trăng tròn vành vạnh, căn buồng ngập trong ánh sáng hơi xanh rực rỡ. Khi chắc rằng đàn ông trong nhà đã ngủ hết, chúng tôi cởi tuốt cả quần áo bên trong lẫn bên ngoài ra. Trên người chúng tôi chẳng còn gì ngoài vải bó chân và dép ngủ. Chúng tôi cảm thấy không khí vuốt ve da thịt, nhưng đó không phải là cơn gió mát và chúng tôi vẫn thấy nóng hầm hập y như vẫn mặc đầy đủ quần áo. "Thế này vẫn chưa đủ," Tuyết Hoa nói, trộm được ngay ý nghĩ của tôi. Cô ngồi dậy và tìm chiếc quạt của chúng tôi. Cô mở nó ra chậm rãi và bắt đầu quạt nhè nhẹ cho tôi. Mặc dù cái nóng vẫn cứ hầm hập trên da thịt tôi, nhưng cái cảm giác này thật xa hoa. Nhưng Tuyết Hoa nhíu mày. Cô gập chiếc quạt lại và đặt nó sang bên cạnh. Cô lần tìm khuôn mặt tôi, rồi đôi mắt cô lướt trên tấm thân trần của tôi từ ngực xuống bụng. Lẽ ra tôi phải cảm thấy ngượng chín người khi cô nhìn chằm chằm vào người tôi như vậy, nhưng cô là lão đồng của tôi. Không có gì phải ngượng ngùng ở đây cả. Ngước nhìn lên, tôi thấy cô đưa ngón tay trỏ lên miệng. Cô thè lưỡi ra. Dưới ánh trăng vằng vặc, tôi thấy nó màu hồng và lấp lánh.Với một động tác thanh nhã nhất, cô dùng đầu ngón tay chấm nhẹ lên mặt lưỡi ẩm ướt. Rồi cô đặt ngón tay xuống bụng tôi. Cô vẽ một nét về bên trái, rồi lại một đường khác về bên phải, kế đến là cái gì đó như là hai đường chéo. Những nét ẩm ướt mát lạnh trên da khiến tôi nổi da gà. Tôi nhắm mắt lại và để cảm giác đó lan tỏa khắp người tôi. Sau đó, sự ẩm ướt biến mất nhanh chóng. Khi tôi mở mắt ra, Tuyết Hoa đang nhìn chằm chằm vào đó. "Thế nào?" nhưng cô không đợi câu trả lời. "Đó là một chữ," cô giải thích. "Nói xem đó là chữ nào nào." Đột nhiên tôi hiểu được những gì cô vừa làm. Cô vừa viết nữ thư lên bụng tôi. Chúng tôi đã làm một việc tương tự như vậy bao năm nay, viết chữ lên mặt đất bằng chiếc que, hay viết lên lòng bàn tay, hay lên lưng mình. "Mình viết lại nhé," cô nói,"nhưng phải chú ý vào đấy." Cô liếm ngón tay và động tác đó cũng thanh nhã chẳng kém gì so với lần đầu. Khi sự ẩm ướt đó chạm vào da tôi, tôi không thể không nhắm mắt lại. Cảm giác này khiến tôi cứng cả người lại và nín thở. Một nét vẽ về bên trái tạo thành hình mảnh trăng, một mảnh khác ở bên dưới và ngược lại với mảnh đầu tiên, sau đó hai nét gạch về bên phải để tạo thành chữ thập thứ nhất, rồi hai nét gạch tiếp theo tạo thành chữ thập thứ hai. Tôi lại nhắm mắt cho đến khi cái khoảnh khắc rùng mình qua đi. Khi đó tôi mở mắt ra, Tuyết Hoa nhìn tôi dò hỏi. "Giường," tôi nói. "Đúng rồi," cô nói, giọng nhỏ nhẹ. "Nhắm mắt lại. Mình sẽ viết chữ khác." Lần này cô viết chữ nhiều nét hơn và nhỏ hơn nhiều ở chỗ gần xương chậu bên phải của tôi. Lần này tôi nhận ra ngay lập tức. Đó là một động từ, chiếu. Khi tôi nói ra từ đó, cô cúi xuống sát mặt tôi và thì thầm vào tai tôi, "tốt lắm." Một ký tự tiếp theo xoay qua bụng tôi, ở chỗ ngay cạnh và đối diện với xương chậu. "Ánh trăng," tôi nói. Tôi mở mắt ra. "Đầu giường ánh trăng rọi." Cô cười khi tôi nhận ra câu thơ đầu tiên của một bài thơ Đường cô từng dạy tôi; sau đó, chúng tôi đổi vị trí cho nhau. Tôi cũng nhìn ngắm cơ thể cô, y như cô đã làm với tôi: đường nét mảnh mai của chiếc cổ, cặp vú nhỏ nhắn, cái bụng phẳng phiu mời gọi như mảnh lụa mới đang chờ được thêu, xương chậu nhô hẳn ra, bên dưới đó là vùng tam giác giống y như tôi, dưới nữa là đôi chân thon thả kéo dài cho đến chỗ bị che đi bởi đôi dép ngủ bằng lụa. Bạn phải nhớ rằng chúng tôi vẫn chưa lấy chồng. Tôi vẫn chưa biết gì về chuyện vợ chồng cả. Mãi sau này tôi mới biết rằng với phụ nữ không thứ gì riêng tư hơn là đôi dép ngủ và với đàn ông không gì gợi tình hơn là khi được ngắm làn da trắng muốt trên tấm thân trần của đàn bà trong sự tương phản với màu đỏ rực của đôi dép, nhưng đêm đó tôi có thể nói với bạn rằng mắt tôi đã dừng lại ở đó. Đó là đôi dép mùa hè của Tuyết Hoa. Cô thêu lên đó hình Ngũ Độc - rết, cóc, bò cạp, rắn và thằn lằn. Đây là những biểu tượng truyền thống được dùng để chống lại những gì ma quỷ gây ra vào mùa hè - bệnh tả, dịch hạch, thương hàn, sốt rét, bệnh sốt phát ban. Đường thêu của cô thật hoàn hảo, như cả thân hình của cô cũng quá hoàn hảo. Tôi liếm ngón tay của mình và nhìn chăm chú vào làn da trắng của Tuyết Hoa. Khi ngón tay ướt át của tôi chạm vào bụng cô, chỗ dưới rốn, tôi thấy cô hít sâu vào. Cặp vú cô căng lên, bụng cô thóp lại, và những đốm da gà trên người cô lấp lánh. "Tôi," cô nói. Chính xác. Tôi viết chữ tiếp theo bên dưới rốn. "Ngỡ," cô nói. Sau đó tôi tiếp tục làm theo y như những gì cô đã làm, viết lên phần da thịt gần xương chậu bên phải của cô. "Li ti." Bây giờ chuyển sang xương chậu bên trái. "Hạt sương." Cô biết bài thơ này, vì thế đây hoàn toàn không phải là những chữ bí mật gì cho lắm, chỉ là cảm giác viết và đọc chúng. Tôi tiếp tục viết lên những chỗ trên thân thể cô y như cô đã viết trên thân thể tôi. Giờ tôi phải tìm một chỗ mới. Tôi chọn cái phần mềm mại nơi hai bên xương sườn của cô nối với nhau phía trên bụng. Từ cảm nhận bằng cơ thể của chính mình, tôi biết đó là một vùng nhạy cảm để chạm, để sợ, để yêu. Tuyết Hoa run lên dưới đầu ngón tay tôi khi tôi viết. "Sớm." Chỉ còn hai từ nữa là thành một câu thơ. Tôi biết tôi muốn làm gì, nhưng tôi còn ngần ngại. Tôi lướt ngón tay trên đầu lưỡi. Rồi, cái nóng, ánh trăng, cảm giác về làn da cô dưới ngón tay, khiến tôi trở nên mạnh dạn, tôi đặt ngón tay nhấm ướt xuống, viết một từ lên một bên vú cô. Đôi môi cô hé ra và hơi thở cô buột thành một tiếng rên khe khẽ. Cô không nói chữ đó ra và tôi cũng không yêu cầu điều đó. Nhưng với chữ cuối cùng trong dòng thơ, tôi nằm nghiêng xuống cạnh Tuyết Hoa để có thể nhìn sát hơn phản ứng của làn da. Tôi lại liếm ngón tay, viết chữ lên, và nhìn núm vú cô cứng và săn lại. Trong một lúc, chúng tôi hoàn toàn bất động. Rồi, mắt vẫn nhắm nghiền, Tuyết Hoa thì thầm đọc lên cả câu hoàn chỉnh: "Tôi ngỡ đó là những hạt sương li ti của buổi sớm mùa đông." Cô xoay nghiêng sang để đối diện với tôi. Cô dịu dàng đặt tay lên má tôi như cô vẫn thường làm mỗi đêm kể từ khi chúng tôi ngủ cùng nhau suốt những năm qua. Gương mặt cô sáng lên dưới ánh trăng. Rồi, tay cô vuốt ve từ cổ qua vú và lần xuống hông tôi. "Hãy còn hai dòng nữa." Cô ngồi dậy còn tôi nằm ngửa ra. Mấy đêm rồi tôi thấy rất nóng nực, nhưng giờ đây, trần truồng, dưới ánh trăng, mà tôi lại thấy như có một ngọn lửa nóng hơn bất kỳ thứ gì ông Trời có thể giáng xuống con người trong vòng tuần hoàn bốn mùa đang thiêu đốt từ bên trong. Tôi buộc mình phải tập trung khi tôi đoán ra cô định viết chữ đầu tiên vào đâu. Cô lùi xuống cuối giường và đặt chân tôi lên lòng cô. Cô bắt đầu viết lên mắt cá chân trái của tôi ngay bên trên mép vải của đôi dép ngủ bằng lụa đỏ. Khi cô viết xong, cô quay sang mắt cá chân phải của tôi. Cứ thế, cô viết lên chân này rồi lại chuyển sang chân kia, luôn viết phía trên chỗ bó. Đôi bàn chân của tôi - phần thân thể phải chịu bao đớn đau và khổ sở, và cũng là vẻ đẹp cũng như niềm tự hào của tôi - râm ran cảm giác dễ chịu. Chúng tôi đã là lão đồng của nhau tám năm rồi, nhưng chưa khi nào gần gũi nhau đến thế. Khi cô viết xong: "Ngẩng đầu tôi nhìn thấy trăng sáng." Tôi hăm hở giúp cô trải nghiệm những gì tôi vừa cảm nhận được. Tôi nắm đôi "gót sen ba tấc" của cô trong tay, rồi đặt lên đùi tôi. Tôi chọn những chỗ mà tôi thấy là nhạy cảm nhất: chỗ hõm nông giữa xương mắt cá và phần bắp chân. Tôi viết lên đó, một chữ có nghĩa là, cúi đầu. Bên chân kia tôi viết chữ tôi. Tôi xoay chân cô lên và viết một chữ lên bắp chân cô. Rồi tôi dịch lên một điểm ở mặt dưới của đùi trái, phía trên đầu gối. Hai chữ cuối tôi viết dịch lên chút nữa trên đùi cô. Tôi cúi thấp xuống để tập trung viết hai chữ đó nắn nót nhất. Tôi thổi nhẹ vào những nét chữ, biết cảm giác nó tạo ra sẽ thế nào, và nhìn nhúm lông giữa hai đùi cô khẽ phất phơ. Sau đó, chúng tôi cùng nhau ngâm cả bài thơ. Đầu giường ánh trăng rọi. Tôi ngỡ đó là những hạt sương li ti của buổi sớm mùa đông. Ngẩng đầu tôi nhìn thấy trăng sáng. Cúi đầu tôi nhớ tới quê hương Chúng tôi đều biết bài thơ này viết về một nhà thơ trên đường ngao du bốn phương chợt nhớ về cố hương, nhưng đêm đó và mãi mãi về sau, tôi vẫn tin rằng nó viết về chúng tôi. Tuyết Hoa là quê hương của tôi, và tôi là quê hương của cô. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 9: Mỹ Nguyệt Hôm sau Mỹ Nguyệt trở về nhà, chúng tôi lại trở lại làm việc. Mấy tháng trước, nhà chồng tương lai của chúng tôi đã Chọn Ngày cho đám cưới của chúng tôi, cùng với những món quà đầu tiên trong lễ vật xin cưới chính thức - thịt lợn và bánh kẹo nhiều hơn, cùng những chiếc thùng gỗ rỗng để đựng của hồi môn chúng tôi tự tay làm lấy. Cuối cùng, và cũng là quan trọng nhất, họ gửi vải đến. Tôi đã kể với bạn rằng mẹ và thím tôi may quần áo cho cả nhà, và giờ đây Mỹ Nguyệt và tôi đều thông thạo việc dệt vải. Nhưng khi tôi nghĩ về những gì chúng tôi làm ra thì cụm từ cây nhà lá vườn xuất hiện trong đầu tôi. Bông là do bố và chú trồng, việc thu hoạch là do những người phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm, sáp ong dùng để tạo kiểu và thuốc nhuộm để nhuộm vải thành màu chàm mà chúng tôi dùng rất dè sẻn vì chúng tôi phải tiết kiệm. Khác với thứ vải chúng tôi tự dệt lấy, tôi có thể so sánh đồ cưới của mình với vải may áo khoác, quần dài và khăn trùm đầu của Tuyết Hoa, vốn thường được may từ những loại vải đẹp và thêu hoa văn công phu lên bộ quần áo kiểu cách tân thời. Một trong những bộ quần áo Tuyết Hoa mặc hồi đó mà tôi thích nhất may bằng vải màu chàm. Kiểu trang trí phức tạp của mảnh vải chàm và kiểu cắt may của chiếc áo khoác đẹp hơn bất cứ bộ quần áo nào những người đàn bà có chồng ở Phủ Vĩ có thể có hay làm ra được. Tuy vậy, Tuyết Hoa mặc nó thoải mái cho đến khi nó bắt đầu phai màu và sờn rách. Điều tôi muốn nói là loại vải và kiểu cắt của nó khiến tôi nảy ra một ý định. Tôi muốn may cho mình những bộ quần áo phù hợp để mặc hàng ngày ở Thông Khẩu. Nhưng xấp vải bông gia đình nhà chồng gửi cho tôi như một phần của đồ thách cưới đã thay đổi tất cả những dự định của tôi. Nó thật mềm mại, trơn tru, kiểu mẫu phức tạp và nhuộm màu chàm đậm được người Dao xem là loại đắt giá. Với món quà này, tôi nhận ra rằng tôi còn có nhiều điều phải học hỏi và vươn tới, nhưng ngay cả loại vải bông này cũng không thể so sánh được với lụa. Loại lụa mang đến cho tôi không chỉ rất tốt mà còn có màu sắc hoàn hảo. Màu đỏ không chỉ dành cho ngày cưới, mà còn dành cho các dịp lễ lạt, lễ mừng Năm Mới, và những dịp lễ hội khác. Màu tía và màu xanh lục, cả hai thường dành cho người vợ trẻ. Màu xanh xám của bầu trời trước cơn bão và xanh lục ngả xám của chiếc ao ở thôn mùa hạ dành cho khi tôi đã trở thành một mệnh phụ, và sau đó là một góa phụ. Màu đen và xanh đen dành cho những người đàn ông trong gia đình chồng. Một vài tấm là lụa trơn, còn những tấm khác được dệt với họa tiết hình song hỷ, hoa mẫu đơn, hay những đám mây. Những súc vải lụa và vải bông gia đình chồng tôi gửi sang không được đưa cho tôi để tôi làm gì tùy thích. Chúng được dùng để chuẩn bị của hồi môn cho tôi, cũng như Mỹ Nguyệt và Tuyết Hoa dùng những món quà của họ để chuẩn bị của hồi môn cho mình. Chúng tôi phải làm các bộ chăn mền, bao gối, giày và quần áo đủ dùng cho cả đời, vì đàn bà người Dao tin rằng họ sẽ không nên nhận thêm bất cứ thứ gì của nhà chồng. Chăn mền! Để tôi kể cho các bạn nghe về những thứ này! Công việc làm chăn quả là chán ngắt và nóng nực. Tuy nhiên, vì mọi người tin rằng mình càng mang được nhiều chăn về nhà chồng thì sẽ càng có nhiều con, nên chúng tôi cố làm càng nhiều càng tốt. Việc bọn tôi thích làm là khâu giày. Chúng tôi khâu giày cho chồng, cho mẹ chồng, bố chồng và tất thảy mọi người trong gia đình chồng, bao gồm cả anh, chị, em chồng và những đứa con của họ. (Thật may mắn, chồng tôi lại là con trưởng. Anh ấy chỉ có ba người em trai. Giày của đàn ông thì không quá cầu kỳ, vì thế tôi có thể may chúng nhanh chóng. Gánh nặng của Mỹ Nguyệt lớn hơn. Gia đình mới của cô chỉ có một người con trai, ngoài ra là bố mẹ chồng, năm chị em gái, chú thím và ba đứa con của họ). Bọn con gái chúng tôi cũng phải may mười sáu đôi giày cho mình, bốn đôi dành cho bốn mùa. So với những thứ khác thì đây là những thứ mà chúng tôi phải chăm chút tới từng đường kim mũi chỉ, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy sung sướng với kiến thức đó, vì chúng tôi có thể dành hết tâm sức cho từng đôi. Việc khâu giày cho phép thể hiện kỹ năng cũng như thẩm mỹ của chúng tôi, nhưng nó cũng gửi đi một thông điệp vui vẻ và lạc quan. Theo thổ âm xứ tôi, từ hài (giày) phát âm giống với từ nhi (con). Cũng giống với việc may chăn, người ta quan niệm rằng càng khâu được nhiều giày thì càng sinh được nhiều con. Sự khác biệt chỉ là việc khâu giày đòi hỏi phải cầu kỳ tỉ mỉ, còn may chăn thì lại là công việc nặng nhọc. Vì ba đứa chúng tôi làm việc cạnh nhau, nên chúng tôi thi với nhau theo một cách thân thiện nhất xem ai tạo ra được những kiểu mẫu đẹp nhất cho lớp ngoài của mỗi đôi giày, đồng thời phải làm được lớp lót bên trong chắc chắn và nâng đỡ đôi chân tốt nhất. Gia đình tương lai của chúng tôi đã gửi cho chúng tôi cỡ chân của những người bên nhà họ. Chúng tôi chưa gặp chồng mình nên không biết họ có cao lớn hay rỗ mặt không, nhưng chúng tôi biết cỡ chân của họ. Chúng tôi là những cô gái trẻ - lãng mạn như bất cứ người con nào ở độ tuổi ấy - và chúng tôi tưởng tượng ra tất cả mọi điều về chồng mình từ những cỡ chân đó. Một số điểm hóa ra lại đúng. Nhưng hầu hết là không. Chúng tôi dùng những cỡ chân đó để cắt những mảnh vải bông, rồi dán ba lớp vải vào cùng với nhau. Chúng tôi làm vài bộ như vậy và đặt chúng lên bệ cửa sổ để phơi khô. Suốt hội Nghênh Phong, chúng khô rất nhanh. Khi đã khô hết, chúng tôi chụm ba chiếc vào với nhau, và khâu thành một cái đế giày dày dặn và chắc chắn. Hầu hết mọi người đều lặp lại những mẫu đơn giản trông giống như những hạt thóc, nhưng chúng tôi muốn gây ấn tượng với gia đình mới của mình, vì thế chúng tôi thêu nhiều kiểu khác hẳn: hình cánh bướm trải rộng ra cho đôi giày của chồng tôi, hình hoa cúc rực rỡ cho mẹ chồng, hình con dế trên cành cho bố chồng. Thêu thùa cầu kỳ như vậy trong khi đó chỉ là những chiếc đế giày, nhưng chúng tôi lại xem đó là lời nhắn nhủ với những người chúng tôi hy vọng sẽ được họ thương yêu khi chúng tôi về làm dâu. Như tôi đã kể, năm đó trời nóng như thiêu như đốt suốt hội Nghênh Phong. Ở căn buồng trên gác chúng tôi nóng vã mồ hôi. Dưới nhà cũng chỉ mát mẻ hơn chút xíu. Chúng tôi uống trà, hy vọng nó sẽ giúp làm cơ thể dễ chịu hơn, nhưng thậm chí ngay cả khi chỉ mặc những chiếc áo ngoài và quần dài mùa hè mỏng nhẹ nhất chúng tôi vẫn thấy nóng ngột ngạt. Vì thế, chúng tôi thường nói chuyện về những ngày mát mẻ khi còn thơ bé. Tôi nói về chuyện mình đã nhúng chân xuống dòng sông ra sao. Mỹ Nguyệt nhớ lại mình đã chạy băng qua cánh đồng vào độ cuối thu khi không khí khô và lạnh lướt trên má cô. Tuyết Hoa từng đi lên mạn phía Bắc với bố cô và nếm trải gió lạnh buốt thổi từ Mông Cổ sang. Tất cả những thứ đó cũng không làm dịu bớt được cảm giác nồng nực của chúng tôi. Chúng còn khiến chúng tôi thấy bứt rứt nữa kia. Bố và chú cảm thấy tội nghiệp cho bọn tôi. Họ hiểu về sự khắc nghiệt của thời tiết hơn chúng tôi nhiều. Hàng ngày họ phải làm việc dưới cái nắng như thiêu như đốt. Nhưng chúng tôi nghèo. Chúng tôi không có được khoảng sân nhỏ trong nhà để đi dạo mát, hay một mảnh đất nơi chúng tôi được những người khiêng kiệu đưa đến ngồi dưới những bóng cây mát mẻ, hay bất kỳ nơi nào chúng tôi không còn bị săm soi bởi những người xa lạ. Thay vào đó, bố lấy mấy mảnh vải của mẹ, và cùng với chú giăng thành một cái lán cho chúng tôi ở mạn phía Bắc ngôi nhà. Sau đó, họ trải một vài chiếc chăn bông mùa đông lên mặt đất để chúng tôi có được chỗ ngồi êm ái. "Đàn ông ở ngoài đồng suốt ngày," bố nói. "Họ không nhìn thấy bọn con đâu. Trong khi chờ cho đến lúc thời tiết thay đổi, các con có thể làm việc ở đây. Đừng nói với mẹ các con về việc này." Mỹ Nguyệt đã quen đi đến nhà các chị em kết nghĩa trong những buổi thêu thùa hay đại loại như thế, nhưng tôi chưa hề ra loanh quanh Phủ Vĩ như vậy từ tuổi thơ sữa. Chắc chắn là tôi đã bước ra khỏi ngưỡng cửa để leo lên kiệu của bà Vương và đi hái rau trong vườn nhà. Nhưng ngoại trừ những việc đó ra, tôi chỉ được phép đứng bên song cửa sổ mắt cáo nhìn xuống con ngõ chạy qua nhà tôi. Đã lâu lắm tôi không còn được cảm nhận nhịp điệu cuộc sống của thôn mình. Chúng tôi thấy khoái chí tuyệt vời - vẫn nóng, nhưng sung sướng. Khi chúng tôi ngồi trong bóng râm, thực sự ngóng chờ cơn gió mát mẻ như cái lễ hội này hứa hẹn, chúng tôi thêu mũi giày hay hoàn thành đường khâu cuối cùng. Những đường thêu của Mỹ Nguyệt tập trung vào đôi dép ngủ bằng lụa đỏ dành cho ngày cưới của cô, thứ quý giá nhất trong tất cả các đôi giày. Những bông sen hồng và trắng nở rực rỡ, tượng trưng cho sự tinh khiết và sinh nở mau mắn của cô. Tuyết Hoa cũng vừa hoàn thành một đôi hài bằng lụa xanh thanh thiên thêu những đám mây cho mẹ chồng của cô, chúng nằm gần chỗ chúng tôi trên tấm chăn bông, trông thật xinh xắn và thanh tú, một vật tao nhã gợi nhắc đến cái công việc đòi hỏi chúng tôi phải nhuần nhị và tinh tế đối với tất cả những sản phẩm của mình. Đôi giày ấy khiến tôi thấy thích thú, gợi tôi nhớ về chiếc áo khoác Tuyết Hoa đã mặc trong ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Nhưng những ý nghĩ hoài cổ có vẻ không khiến Tuyết Hoa bận tâm mấy; cô đã chuyển sang khâu đôi giày cho chính mình, cô dùng lụa tím điểm xuyết trắng. Khi những chữ bằng chỉ tím và chỉ trắng được viết cùng nhau, chúng có nghĩa là nhiều con. Luôn luôn là vậy, những hình thêu trang trí của Tuyết Hoa thường lấy bầu trời làm cảm hứng. Lần này là những chú chim và những sinh vật biết bay khác quấn quít với nhau và bay vút lên trời. Trong lúc ấy, tôi cũng đã khâu xong một đôi giày cho mẹ chồng mình. Cỡ giày của bà ấy lớn hơn tôi một chút, và khi biết được điều đó tôi cảm thấy tự hào, chỉ cần dựa vào đôi chân của tôi thôi, bà ấy hẳn phải công nhận là tôi xứng với con trai bà. Tôi chưa hề gặp mẹ chồng tôi, vì thế tôi không biết bà ấy thích hay không thích gì, nhưng trong suốt những ngày nóng bức ấy tôi chẳng nghĩ đến gì khác ngoài sự mát mẻ. Những hình thêu bao quanh chiếc giày, khắc họa phong cảnh những người phụ nữ đang thảnh thơi dạo chơi dưới rặng liễu bên dòng suối. Đó cũng là tưởng tượng, nhưng không bằng những đôi chim trong huyền thoại trang trí trên đôi giày của Tuyết Hoa. Ba chúng tôi làm nên một bức tranh đẹp, ngồi trên những tấm chăn với đôi chân thu vào bên dưới như thế: ba thiếu nữ, tất cả đều đã có hôn ước với những gia đình tốt, đang phấn khởi ngồi làm những món hồi môn cho chính mình, bất kỳ ai ghé vào cũng đều thấy được công việc tốt đẹp của chúng tôi. Những cậu bé dừng lại trò chuyện với chúng tôi khi đang đi nhặt củi hay đưa con trâu của nhà mình ra bờ sông. Những cô bé đang phải bế em đã đưa những đứa em trai hay em gái cho chúng tôi bế hộ. Chúng tôi hình dung xem sẽ như thế nào khi phải chăm sóc những đứa con của chính mình. Những bà góa già, với vị thế đã ổn định và cách ứng xử đã thành nếp, lắc lư đi đến chỗ chúng tôi để tán gẫu, xem xét những món đồ thêu, và nhận xét về nước da trắng của chúng tôi. Vào ngày thứ năm, bà Cao lại đến. Bà ta vừa quay trở về từ thôn Cát Đàm, bà ta đến đó để thương lượng cho một cuộc hôn nhân. Khi tới đó, bà ta đã nhận chuyển một đống thư của chúng tôi cho chị tôi và đem về cho chúng tôi một lá thư của chị. Không ai trong chúng tôi thích bà Cao cả, nhưng chúng tôi được dạy dỗ là phải kính trọng người lớn. Chúng tôi mời bà ta dùng trà, nhưng bà ta từ chối. Vì chẳng thể moi tiền ở chúng tôi được, nên bà ta đưa lá thư cho tôi và quay trở lại kiệu. Chúng tôi nhìn theo cho đến khi chiếc kiệu khuất dạng chỗ góc ngoặt; rồi tôi dùng kim thêu để rọc mép bì thư được dán bằng hồ. Vì những gì sẽ xảy ra sau đó trong ngày hôm ấy, và bởi chị tôi dùng nhiều cụm nữ thư chuẩn mực, nên tôi nghĩ tôi có thể viết lại lá thư của chị như sau: Cả nhà, Hôm nay con cầm lấy cây bút, và tâm hồn con bay ra khỏi ngôi nhà này. Để viết thư cho gia đình mình - thưa bố mẹ, chú và thím kính yêu. Khi nghĩ về những ngày đã qua, nước mắt con không ngừng tuôn rơi. Con vẫn thấy buồn vì phải xa gia đình mình. Đứa bé nặng trĩu trong bụng con và con cảm thấy thật ngột ngạt trong cái thời tiết này. Gia đình chồng con lúc nào cũng hằn học khó chịu. Con phải làm tất tật việc nhà cửa. Trong cái nóng này, làm việc như vậy thật không dễ chịu chút nào. Em gái, Mỹ Nguyệt, nhớ chăm sóc bố mẹ và chú thím nhé. Đàn bà con gái chúng ta chỉ có thể hy vọng bố mẹ mình sẽ sống thật lâu. Chỉ có như vậy chúng ta mới mong có được một chỗ để quay về vào những ngày lễ hội. Ở quê nhà, luôn có những người biết trân trọng chúng ta. Hãy hiếu thảo với bố mẹ. Con gái của bố mẹ, chị gái của các em, cháu của chú thím. Tôi đọc xong lá thư và nhắm mắt lại. Tôi suy nghĩ, trong khi chị thì khóc rất nhiều, còn tôi lại quá vui vẻ. Tôi thầm cảm ơn phong tục của xứ tôi không bắt chúng tôi phải về hẳn nhà chồng cho đến khi chuẩn bị sinh con đầu lòng. Tôi vẫn còn hai năm nữa mới phải đi lấy chồng và có thể là ba năm sau khi cưới mới phải về ở nhà chồng mãi mãi. Chợt có tiếng gì đó nghe như tiếng nức nở cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Tôi mở mắt ra và nhìn Tuyết Hoa. Vẻ bối rối hiện rõ trên nét mặt khi cô đang nhìn chằm chằm vào một vật gì đó ở bên phải. Tôi nhìn theo cô sang phía Mỹ Nguyệt, đang vuốt vuốt cổ và cố hít một hơi. "Có chuyện gì vậy?" tôi hỏi. Ngực Mỹ Nguyệt căng lên, gắng sức hít mạnh vào - uuuu, uuuu, uuuu - những âm thanh tôi không bao giờ quên được. Mỹ Nguyệt nhìn tôi với đôi mắt đáng yêu của cô. Tay cô ngừng vuốt mà chuyển sang siết chặt hai bên cổ. Cô không cố chịu đựng nữa. Cô ngồi đó, đôi chân thu vào phía dưới thân, trông vẫn như một cô gái trẻ ngồi dưới bóng râm trong một buổi chiều nóng nực, các dụng cụ thêu thùa của cô vẫn nằm yên trong lòng, nhưng tôi có thể nhìn thấy dưới bàn tay cô, cổ bắt đầu sưng lên. "Tuyết Hoa, gọi người giúp nhanh," tôi cuống cuồng kêu lên. "Tìm bố, tìm chú. Nhanh lên!" Từ khóe mắt, tôi liếc thấy Tuyết Hoa đang cố gắng hết sức chạy trên đôi chân nhỏ bé của mình. Giọng cô - không mấy khi phải nói to - thốt ra đứt quãng và nghe the thé. "Cứu với! Cứu với!" Tôi bò qua tấm chăn tới chỗ Mỹ Nguyệt. Tôi nhìn thấy một con ong đang giãy chết trên đồ thêu của Mỹ Nguyệt. Nọc ong hẳn nằm trên cổ của cô em họ tôi. Tôi cầm lấy bàn tay kia của cô và nắm chặt lấy nó. Miệng cô há ra. Trong đó, lưỡi cô sưng phồng lên, ứ máu. "Em cần gì?" tôi khẽ bảo. "Em có muốn chị lấy nọc ong ra không?" Cả hai chúng tôi đều biết việc đó đã quá trễ. "Em có muốn uống nước không?" tôi hỏi. Mỹ Nguyệt không thể trả lời. Bây giờ cô chỉ còn thở qua hai lỗ mũi, và mỗi lần thở cô phải gắng sức lắm. Từ nơi nào đó trong thôn, tôi nghe thấy tiếng Tuyết Hoa gọi. "Bố ơi! Chú ơi! Anh ơi! Bớ người ta! Giúp chúng tôi với!" Những đứa trẻ đến chơi với chúng tôi vài ngày trước xúm xít quanh tấm chăn, há hốc miệng khi nhìn thấy cổ, lưỡi, mí mắt và bàn tay Mỹ Nguyệt sưng vù lên. Da cô chuyển từ màu trắng ngần của trăng, giống như cái tên của cô, sang màu hồng, đỏ, tím tái, rồi xanh lét. Trông cô giống như một sinh vật trong truyện ma. Mấy bà góa ở Phủ Vĩ cũng đến. Họ lắc đầu đầy thông cảm. Đôi mắt của Mỹ Nguyệt khép lại. Tay cô sưng phồng lên đến mức những ngón tay trông như những quả chuối mắn đặt trong lòng bàn tay tôi, da căng bóng trông như sắp nứt ra đến nơi. Tôi nâng bàn tay dị dạng đó lên. "Mỹ Nguyệt, hãy nghe chị nói," tôi van nài. "Bố em đang tới. Đợi chút thôi mà. Ông ấy yêu em nhiều lắm. Mọi người đều yêu quý em, Mỹ Nguyệt. Em có nghe chị nói gì không?" Mấy bà góa già bắt đầu khóc. Những đứa trẻ đứng nép vào nhau. Cuộc sống ở thôn quê thật khó khăn. Ai trong số chúng tôi chưa từng nhìn thấy người chết? Nhưng hiếm khi thấy sự dũng cảm, sự điềm tĩnh, và vẻ đẹp của mục đích trong những khoảnh khắc cuối cùng. "Em là người em tốt của chị," tôi nói. "Chị luôn yêu quý em. Chị sẽ trân trọng em mãi mãi." Mỹ Nguyệt hít một hơi nữa. Lần này nghe như tiếng bản lề cửa rít lên. Nó chậm chạp. Nhưng hầu như không có chút không khí nào lọt được vào cơ thể cô. "Mỹ Nguyệt, Mỹ Nguyệt…" Tiếng rít khủng khiếp chấm dứt. Đôi mắt cô chỉ còn là những kẽ nứt trên khuôn mặt biến dạng kinh khủng, nhưng cô nhìn tôi, hiểu hết những gì tôi nói. Cô đã nghe được từng lời tôi nói. Trong khoảnh khắc cuối cùng của đời mình - khi không còn chút hơi nào thở ra hay hít vào cơ thể cô nữa - tôi cảm nhận được bao lời nhắn nhủ mà cô chuyển tới tôi. Hãy nói với mẹ em rằng em rất yêu mẹ. Hãy nói với bố em là em rất yêu bố. Hãy nói với hai bác rằng em rất biết ơn những gì họ đã làm cho em. Đừng để bác, bố em và anh trai phải khổ sở vì em. Rồi đầu cô gục xuống ngực. Không ai nhúc nhích. Mọi thứ tĩnh lặng như bức tranh tôi đã thêu lên đôi giày của mình. Chỉ có tiếng khóc và tiếng thút thít cho thấy có điều gì đó không ổn. Chú tôi chạy vào ngõ và chen qua mọi người để vào chỗ tôi và Mỹ Nguyệt đang ngồi trên tấm chăn bông. Cô điềm tĩnh chịu đựng đau đớn, điều này giúp chú tôi vớt vát chút hy vọng. Nhưng vẻ mặt của tôi và mọi người xung quanh lại nói với chú một điều khác hẳn. Chú sụm xuống gối, bật ra một tiếng thét xé lòng. Khi chú nhìn thấy tình trạng khuôn mặt của Mỹ Nguyệt, lại một tiếng thét kinh hãi nữa. Mấy đứa nhóc bé hơn chạy mất. Chú tôi mình mẩy mồ hôi đầm đìa vì vừa làm việc ngoài đồng rồi lại phải chạy vội về nên tôi có thể ngửi mùi người chú. Nước mắt chú trào ra, rơi xuống sống mũi, xuống gò má, quai hàm, và biến mất trên chiếc áo ướt đẫm mồ hôi. Bố tôi cũng vừa tới và quỳ xuống cạnh tôi. Giây lát sau, anh trai tôi cũng chen qua đám đông, miệng vẫn còn thở hổn hển, Tuyết Hoa đi sau anh. Chú tôi tiếp tục nói với Mỹ Nguyệt. "Hãy tỉnh lại, con gái bé bỏng. Hãy tỉnh lại. Bố sẽ gọi mẹ cho con. Mẹ con cần con mà. Tỉnh lại đi. Dậy đi con ơi!" Anh trai của chú, bố tôi, siết chặt cánh tay chú. "Vô vọng rồi." Chú cũng làm một điệu bộ kỳ quặc như Mỹ Nguyệt, gục đầu xuống, quỳ trên chân, tay thu vào lòng - y như vậy, ngoại trừ những giọt nước mắt đang tuôn rơi từ đôi mắt chú và nỗi đau đớn không thể kiềm chế được khiến người chú rung lên. Bố tôi hỏi, "chú muốn bế cháu vào hay là để tôi?" Chú lắc đầu. Câm lặng, chú nhấc một chân lên, chống lên mặt đất để trụ cho vững; rồi chú bồng Mỹ Nguyệt lên và bế cô vào nhà. Không ai biết rõ cần phải làm việc gì. Chỉ có Tuyết Hoa là nhanh nhẹn chạy ngay đến chỗ chiếc bàn trong gian chính và dọn dẹp đống ấm chén nhà tôi thường để đó cho bố, chú và anh dùng khi họ đi làm đồng về. Chú đặt Mỹ Nguyệt nằm xuống. Giờ những người khác có thể thấy nọc của con ong đã tàn phá khuôn mặt và cơ thể Mỹ Nguyệt như thế nào. Trong thâm tâm, tôi vẫn thắc mắc: chỉ có năm phút thôi mà, không hơn. Tuyết Hoa lại chỉ bảo tôi. "Cháu xin lỗi, nhưng còn phải gọi cả những người khác nữa." Nhận thấy điều này có nghĩa là sẽ phải nói cho thím tôi biết rằng Mỹ Nguyệt đã chết, chú tôi càng nức nở dữ hơn. Tôi hầu như chưa kịp nghĩ đến thím. Mỹ Nguyệt là niềm hạnh phúc đích thực duy nhất của thím. Tôi thật sự thấy sốc trước những gì xảy ra với cô em họ của mình đến mức chẳng còn nghĩ được điều gì nữa. Giờ đây, đôi chân tôi gần như tê liệt và nước mắt tôi dâng lên bởi nỗi đau đớn khi nghĩ đến cô em họ yêu quý và nỗi xót xa cho chú thím tôi. Tuyết Hoa vòng một cánh tay qua người tôi và đưa tôi đến chỗ chiếc ghế, chỉ dẫn mọi người trong lúc bối rối đó. "Anh cả, chạy ngay sang thôn bên ngoại của thím," cô bảo. "Em có một ít tiền. Dùng nó để thuê kiệu cho thím ấy. Rồi chạy nhanh sang thôn bên ngoại của mẹ anh. Hãy đưa bác về đây. Anh sẽ phải cõng bác như từng làm với em ấy. Em trai có thể sẽ giúp được anh một tay. Nhưng phải nhanh lên. Thím sẽ cần bác ấy." Rồi chúng tôi ngồi đó chờ đợi. Chú ngồi trên chiếc ghế đẩu đặt bên cạnh chiếc bàn và khóc thảm thiết trên chiếc áo khoác ngoài của Mỹ Nguyệt đến mức những vệt nước mắt loang ra trên mặt vải trông như những đám mây trong cơn mưa. Bố tôi cố gắng an ủi chú, nhưng giờ thì ích gì nữa? Không gì có thể an ủi chú được. Bất kỳ ai nói với bạn rằng người Dao không đếm xỉa đến những đứa con gái đều là nói dối. Có thể chúng tôi không có giá trị gì. Có thể chúng tôi được nuôi dưỡng chỉ để gả cho một gia đình khác. Nhưng chúng tôi vẫn được thương yêu và nâng niu, bất chấp nhà bố mẹ đẻ của chúng tôi cố hết sức để không có tình cảm với chúng tôi. Tại sao bạn lại thấy trong bức thư viết bằng chữ bí mật của chúng tôi những câu như thế này: "Tôi là viên ngọc trong bàn tay của cha" thường xuyên xuất hiện? Có thể, khi đã là bố mẹ chúng tôi cũng sẽ cố gắng không quan tâm. Tôi đã cố gắng không quan tâm đến con gái tôi, nhưng tôi có thể làm gì đây? Nó cũng bú sữa tôi như những đứa con trai tôi, nó khóc trong lòng tôi, và nó thể hiện lòng kính trọng với tôi bằng cách trở thành đứa con gái ngoan ngoãn đảm đang và thành thục nữ thư. Viên ngọc của chú tôi đã bỏ chú mãi mãi. Tôi nhìn đăm đăm vào khuôn mặt của Mỹ Nguyệt, nhớ lại chúng tôi đã gần gũi nhau biết bao. Chúng tôi được bó chân cùng lúc với nhau. Chúng tôi được Nhận Thân về cùng một thôn. Cuộc sống của chúng tôi gắn bó với nhau chưa bao giờ thay đổi, thế mà bây giờ chúng tôi phải vĩnh viễn xa lìa nhau. Tuyết Hoa đang bận bịu chạy đi chạy lại quanh chúng tôi. Cô pha trà, dù không ai uống cả. Cô chạy khắp nhà, tìm những bộ quần áo tang màu trắng rồi đưa cho chúng tôi. Cô đứng ở cửa, chào hỏi mọi người nghe tin đến viếng thăm. Bà Vương đi kiệu đến và Tuyết Hoa mời bà vào nhà. Tôi cứ nghĩ bà Vương sẽ than phiền về việc mất đi món thù lao lẽ ra bà sẽ nhận được cho vụ mai mối của Mỹ Nguyệt. Nhưng thay vì vậy, bà lại hỏi bà có thể giúp được gì cho chúng tôi. Tương lai của Mỹ Nguyệt là do bà định đoạt và bà nghĩ rằng bà phải đến tiễn cô trong chuyến đi cuối cùng này. Nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt biến dạng của Mỹ Nguyệt và những ngón tay khủng khiếp của cô, bà hốt hoảng đưa tay lên miệng. Trời thì quá nóng. Chúng tôi lại không có nơi nào mát mẻ một chút để đặt thi thể cô. Mọi thứ sẽ xảy ra nhanh chóng với Mỹ Nguyệt. "Còn bao lâu nữa thì mẹ cô ấy về?" bà Vương hỏi. Chúng tôi không biết. "Tuyết Hoa, phủ lên mặt cô ấy một tấm vải mút xơ lin, rồi mặc quần áo liệm cho cô ấy. Làm luôn đi. Không người mẹ nào muốn nhìn thấy con gái họ thế này cả." Tuyết Hoa trở lên căn buồng trên gác, nhưng bà Vương túm lấy tay áo cô. "Dì sẽ quay về Thông Khẩu để mang quần áo tang của con đến đây. Đừng ra khỏi đây trước khi dì bảo con đi, nghe chưa." Bà buông áo Tuyết Hoa, rồi nhìn Mỹ Nguyệt một lần cuối, và bước vội ra cửa. Khi thím về đến nhà, bố, chú, hai anh em trai của tôi và tôi đã mặc xong quần áo tang. Thi thể của Mỹ Nguyệt được liệm toàn bằng vải mút xơ lin, rồi mặc vào bộ quần áo cho chuyến đi của cô sang thế giới bên kia. Hôm đó mọi người có mặt trong nhà tôi đã khóc biết bao nhiêu, nhưng thím tôi thì không hề khóc. Bà lảo đảo trên đôi chân bó bước đến bên thi thể con gái. Bà vuốt vuốt bộ quần áo rồi đặt bàn tay mình lên trên trái tim của cô. Bà đứng yên như vậy hàng giờ liền. Thím làm tất cả mọi việc đúng theo thủ tục của một đám tang. Bà lê gối đến nơi chôn cất. Bà đốt tiền giấy và quần áo bên mộ của Mỹ Nguyệt để cô dùng khi sang thế giới bên kia. Bà gom tất cả những gì Mỹ Nguyệt viết bằng nữ thư và đốt đi hết. Sau đó, thím lập một bàn thờ nhỏ trong nhà và ngày ngày đặt lễ cho con. Thím không hề khóc trước mặt mọi người, nhưng tôi không bao giờ quên được những tiếng nức nở mỗi đêm khi thím lên giường đi ngủ. Thím khóc từ trong sâu thẳm tâm hồn. Không ai có thể ngủ được. Không ai có thể khuây khỏa được. Thật sự, mấy anh em tôi cố hết sức giữ im lặng - như thể không hiện hữu - vì biết rằng tiếng nói và khuôn mặt của chúng tôi sẽ chỉ khiến thím nghĩ tới nỗi mất mát của mình. Vào buổi sáng, sau khi những người đàn ông đi ra đồng hết, thím rút vào buồng mình và không bước ra ngoài. Thím nằm nghiêng trên giường, quay mặt vào tường, không chịu ăn bất kỳ thứ gì ngoài bát cơm mẹ tôi mang đến cho thím, câm lặng cả ngày cho đến khi màn đêm buông xuống, lúc đó những tiếng than khóc đáng sợ lại tiếp tục cất lên. Ai cũng biết rằng một phần của linh hồn sẽ sang thế giới bên kia, còn một phần thì ở lại với gia đình, nhưng chúng tôi lại có niềm tin đặc biệt là linh hồn của những cô gái trẻ chết trước khi lấy chồng sẽ làm ngược lại. Cô ta sẽ trở lại và ám những cô gái chưa chồng khác - không phải để dọa họ mà là để dẫn họ sang thế giới bên kia cùng với cô để cô có bầu có bạn. Nỗi bất hạnh của Mỹ Nguyệt vọng đến tai chúng tôi hàng đêm qua những tiếng than khóc như từ thế giới bên kia vẳng lại của thím khiến Tuyết Hoa và tôi biết rằng mình đang gặp nguy hiểm. Tuyết Hoa nảy ra một ý tưởng. Một buổi sáng cô bảo tôi, "Phải làm một tòa tháp hoa." Một tháp hoa chính xác là cái điều cần thiết để làm linh hồn của Mỹ Nguyệt được khuây khỏa. Nếu chúng tôi cúng cho cô một tháp hoa đẹp, cô sẽ có một nơi để trú chân và tìm niềm vui cho mình. Nếu cô vui vẻ, Tuyết Hoa và tôi sẽ được an toàn. Một số người - những người có nhiều tiền hơn - sẽ tìm người chuyên xây dựng tháp hoa, nhưng Tuyết Hoa và tôi quyết định tự làm lấy. Chúng tôi hình dung ra một cái tháp nhiều tầng, giống như ngôi chùa bảy tầng. Chúng tôi sẽ đặt hai con thạch sư ở lối vào. Bên trong, chúng tôi sẽ viết những bài thơ bằng nữ thư của chúng tôi lên tường. Một tầng dành làm nơi múa hát, một tầng khác dành cho bay lượn. Chúng tôi vẽ sao và trăng lên trần căn buồng ngủ. Ở một tầng khác, chúng tôi làm một căn phòng dành cho phụ nữ, với những chiếc cửa sổ mắt cáo làm bằng những mảnh giấy cắt cầu kỳ giúp nhìn thấy phong cảnh mọi phía. Chúng tôi còn làm một cái bàn, trên đó có mấy cuộn chỉ ưa thích của chúng tôi, ít mực, giấy và bút lông, để Mỹ Nguyệt có thể thêu thùa hay viết thư bằng nữ thư với những người bạn mới ở cõi âm. Chúng tôi làm cả những người hầu và những người mua vui bằng giấy màu xoắn vào nhau và đặt chúng khắp tòa tháp sao cho mỗi tầng đều có những người để bầu bạn, giúp cô tiêu khiển và vui vẻ. Khi chúng tôi không làm việc ở tháp hoa, chúng tôi viết những lời ai điếu mà chúng tôi sẽ cùng nhau hát lên để xoa dịu cô em họ của tôi. Ngôi đền hoa là nơi dành cho Mỹ Nguyệt vui vẻ dưới chín suối, còn những câu thơ của chúng tôi là lời từ biệt cuối cùng của cõi dương. Vào một ngày trời chuyển mùa, Tuyết Hoa và tôi xin phép và được đồng ý ra thăm mộ của Mỹ Nguyệt. Quãng đường từ nhà ra mộ không xa lắm, còn ngắn hơn quãng đường Tuyết Hoa phải chạy ra đồng để gọi bố và chú hôm Mỹ Nguyệt qua đời. Chúng tôi ngồi bên ngôi mộ ít phút. Rồi Tuyết Hoa đốt ngôi đền hoa. Chúng tôi nhìn nó cháy, tưởng tượng nó đang được đưa đến cõi âm và Mỹ Nguyệt sẽ đi khắp các phòng vô cùng thích thú. Rồi tôi lấy tờ giấy có bài thơ bằng nữ thư chúng tôi đã viết cho Mỹ Nguyệt và cất tiếng hát. "Mỹ Nguyệt ơi, chúng tôi mong chiếc tháp hoa này sẽ mang đến cho em bình yên. Chúng tôi mong em quên chúng tôi đi, nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ quên em. Chúng tôi luôn trân trọng em. Chúng tôi sẽ tảo mộ cho em vào mỗi dịp Thanh minh. Đừng để những suy nghĩ của em lang thang nữa. Hãy sống trong tòa tháp hoa này và vui vẻ em nhé." Tuyết Hoa và tôi đi về nhà và lên căn buồng phụ nữ. Ngồi bên nhau, chúng tôi thay phiên viết những lời tiếc thương lên những nếp gấp của chiếc quạt đặc biệt. Khi viết xong, tôi gắn lên vòng lá ở mép quạt hình vầng trăng lưỡi liềm, mỏng manh và khiêm tốn như Mỹ Nguyệt. Tòa tháp hoa đã bảo vệ Tuyết Hoa và tôi, và xoa dịu vong hồn chưa chịu yên nghỉ của Mỹ Nguyệt, nhưng nó chẳng ích gì với chú thím tôi, không gì có thể xoa dịu được nỗi đau của họ. Cuộc sống là vậy. Chúng tôi đành phó mặc cho sự sắp đặt của những lực lượng tự nhiên và chẳng thể làm gì ngoài việc tuân theo số mệnh. Điều này chỉ có thể giải thích bởi quy luật âm- dương: có đàn ông thì phải có đàn bà, có bóng tối thì phải có ánh sáng, có đau khổ thì phải có hạnh phúc. Tất cả những thứ đó tạo ra sự cân bằng. Bạn đem đến những khoảnh khắc hạnh phúc tột đỉnh như tôi và Tuyết Hoa cảm thấy hồi đầu hội Nghênh Phong, rồi tước mất chúng theo một cách tàn nhẫn nhất bằng cái chết của Mỹ Nguyệt. Bạn đưa hai con người như chú thím tôi đến với hạnh phúc, rồi ngay tức khắc lại đẩy họ vào đường cùng, không còn biết phải sống vì cái gì nữa, và khi bố tôi mất đi họ chỉ còn biết trông vào anh trai tôi may ra sẽ tử tế mà chăm sóc họ chứ không đuổi họ ra đường. Bạn tóm lấy một gia đình như gia đình tôi, vốn chẳng mấy dư dả, rồi chất lên đó quá nhiều đám cưới cho một hộ gia đình… Tất cả những điều này đã phá vỡ sự cân bằng của vũ trụ, nên thần thánh đã sắp xếp lại trật tự bằng cách mang đi người con gái hiền lành đó. Có sinh ắt có tử. Đấy là ý nghĩa đích thực của âm và dương. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 10: Kiệu Hoa Hai năm sau khi Mỹ Nguyệt mất, mái tóc của tôi - vốn đã được búi lên từ khi mười lăm - giờ lại bới theo kiểu rồng phượng dành cho các cô gái chuẩn bị lấy chồng. Gia đình chồng tôi gửi thêm nhiều vải nữa, cả tiền để tôi có chút vốn riêng, và đồ trang sức - bông tai, nhẫn, dây chuyền - tất cả đều bằng bạc và ngọc bích. Họ cũng gửi cho bố mẹ tôi ba mươi bó lúa nếp - đủ để thết đãi cả nhà và khách khứa ghé thăm trong những ngày sắp tới - và một phần con lợn, bố tôi sẽ chia ra cho anh trai mang tới bà con chòm xóm ở Phủ Vĩ để họ biết rằng lễ cưới dài một tháng chính thức bắt đầu. Nhưng điều khiến bố tôi ngạc nhiên và hài lòng nhất - và cũng là điều chứng tỏ rằng công sức gia đình tôi vất vả chuẩn bị cho tôi một tương lai đặc biệt nay đã đến ngày gặt hái - là một con trâu mới được đưa đến. Riêng với món quà này, bố tôi đã trở thành một trong ba người giàu có nhất thôn. Tuyết Hoa đến ở nhà tôi suốt tháng lễ Ngồi và Hát trong căn buồng phụ nữ. Suốt bốn tuần cuối cùng đó, khi tôi làm nốt số của hồi môn của mình, cô giúp tôi nhiều việc và chúng tôi thậm chí còn thân thiết hơn cả lúc bình thường. Cả hai đứa đều có những ý nghĩ ngớ ngẩn về hôn nhân, nhưng cả tôi và Tuyết Hoa đều tin rằng không có gì sánh được với sự dễ chịu mà chúng tôi cảm nhận được trong vòng tay nhau - sự ấm áp của thân thể, sự mềm mại của da thịt, những mùi hương tao nhã. Không có gì có thể thay đổi tình yêu của chúng tôi, và khi nhìn về tương lai, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi chỉ có nhiều hơn để chia sẻ. Đối với chúng tôi, lễ Ngồi và Hát trong căn buồng phụ nữ khởi đầu cho sự gắn bó sâu sắc hơn giữa hai đứa. Sau mười năm làm bạn với nhau, mối quan hệ của chúng tôi đang tiến lên những cấp độ mới sâu đậm. Hai hay ba năm tới đây, khi tôi về ở hẳn nhà chồng và Tuyết Hoa cũng về nhà chồng cô ở Cẩm Điền, chúng tôi sẽ thường xuyên đến thăm nhau. Chắc chắn chồng chúng tôi - vốn đều giàu có và được nể trọng - sẽ thuê kiệu cho những chuyến thăm viếng này. Vì tôi không có các chị em kết nghĩa để chung vui trong những lễ mừng này nên mẹ, thím, chị dâu và chị gái tôi - dịp này cũng được về nhà, và lại đang có mang - cùng những cô gái chưa chồng trong thôn Phủ Vĩ đều đến để chúc mừng hạnh vận của tôi. Bà Vương thỉnh thoảng cũng tới tham gia với chúng tôi. Đôi lúc chúng tôi kể lại những câu chuyện ưa thích, hay một người nào đó sẽ xướng lên một câu hát để chúng tôi hát theo. Những lúc khác, chúng tôi hát về cuộc đời của mình. Mẹ tôi - hài lòng với số phận của mình - kể lại "Truyện cô gái hoa", trong khi thím, vẫn để tang con, hát khúc ca ai oán khiến tất thảy chúng tôi rơi nước mắt. Vào một buổi chiều, khi tôi đang thêu chiếc dây lưng để thắt cho chiếc áo cưới, bà Vương lại đến góp vui với chúng tôi bằng "Câu chuyện của người vợ họ Vương". Bà ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh Tuyết Hoa đang mải suy nghĩ để viết cuốn sách ngày thứ ba sau lễ cưới cho tôi và cố tìm những từ chuẩn xác nhất để giới thiệu về tôi với gia đình nhà chồng. Hai người trò chuyện nhỏ nhẹ với nhau. Thỉnh thoảng, tôi nghe tiếng Tuyết Hoa nói, "Vâng, thưa dì" hay "Không, thưa dì." Tuyết Hoa luôn thể hiện tấm lòng quý mến với bà Vương. Tôi cố gắng - nhưng cũng chỉ đạt được ở mức vừa vừa - ganh đua với cô về chuyện này. Khi nhận thấy tất cả chúng tôi đang chờ, bà ngọ nguậy trên chiếc ghế đẩu để tìm được tư thế dễ chịu và bắt đầu kể chuyện. "Xưa có một người phụ nữ mộ đạo song chẳng có mấy triển vọng." Mấy năm gần đây bà ta có vẻ nặng nề hơn, chậm chạp hơn và thong thả hơn cả khi kể chuyện lẫn khi làm việc. "Cha mẹ gả bà cho một người đồ tể - cuộc hôn nhân tệ nhất đối với một người theo Đạo Phật. Dù rất mộ đạo, nhưng sinh ra vốn là phận nữ nhi, nên sau đó bà vẫn phải sinh con, được cả trai lẫn gái. Tuy nhiên, người vợ họ Vương không ăn cá hay thịt. Bà tụng kinh niệm Phật nhiều giờ mỗi ngày, nhất là Kinh Kim Cương. Khi không tụng kinh, bà nài nỉ chồng mình đừng sát sinh. Bà cảnh báo chồng mình rằng nghiệp chướng sẽ xảy đến với ông ta trong kiếp sau nếu ông ta tiếp tục nghề này." Bà ta đặt tay lên đùi Tuyết Hoa vỗ về. Nếu là tôi thì hẳn tôi sẽ thấy bàn tay của bà già ấy thật nặng nề, nhưng Tuyết Hoa không hề đẩy ra. "Nhưng chồng bà Vương nói với bà - và có một số điều khá chính đáng - rằng gia đình ông ta đã làm nghề đồ tể từ bao đời nay đến mức không nhớ nổi," bà Vương tiếp tục. "‘Bà cứ việc đọc Kinh Kim Cương,’ ông ta nói. ‘Bà sẽ được tưởng thưởng ở kiếp sau. Còn tôi vẫn tiếp tục giết mổ súc vật. Tôi sẽ mua đất đai trong kiếp này và bị trừng phạt trong kiếp sau’." "Bà vợ họ Vương biết rằng bà sẽ gặp tai họa vì đã ngủ với chồng mình, nhưng khi ông ta kiểm tra bà về Kinh Kim Cương và thấy bà thuộc nằm lòng, ông ta đồng ý cho bà ở phòng riêng để bà có thể sống của mình trong suốt quãng đời vợ chồng còn lại của họ." "Trong lúc ấy," bà Vương tiếp tục, và một lần nữa tay bà lại quờ sang phía Tuyết Hoa, rồi nhẹ nhàng đặt xuống gáy cô, "Diêm Vương phái ma quỷ đi tìm những linh hồn có đức hạnh. Bọn ma quỷ đó bí mật theo dõi bà vợ họ Vương. Khi đã bị chinh phục bởi tâm hồn trong sạch của bà, họ dụ dỗ bà sang thế giới bên kia để tụng Kinh Kim Cương. Bà biết rằng điều ấy có nghĩa là họ bảo bà phải chết. Bà xin họ đừng bắt bà phải rời xa con cái mình, nhưng ma quỷ từ chối lời cầu xin của bà. Bà bảo chồng mình hãy tìm một người vợ khác. Bà dặn dò các con phải ngoan ngoãn và nghe lời mẹ kế. Vừa nói dứt những lời cuối cùng đó, bà ngã xuống sàn và chết." "Người vợ họ Vương phải trải qua bao thử thách, cuối cùng mới gặp được Diêm Vương. Diêm Vương đã chứng kiến tất thảy khổ đau mà bà phải trải qua, nhận thấy đức hạnh và lòng mộ đạo ở bà. Cũng như chồng bà, Diêm Vương bảo bà phải đọc thuộc Kinh Kim Cương. Mặc dù bà đọc sai chín từ nhưng Diêm Vương vẫn hài lòng với những nỗ lực của bà - cả khi còn trên dương thế cũng như khi đã xuống cõi âm - đến mức Ngài đã cho bà được quay trở lại dương gian đầu thai vào một đứa bé trai. Lần này, bà sinh ra trong một gia đình quan lại có học thức, nhưng tên thật của bà vẫn được khắc ngay dưới lòng bàn chân bà." "Người vợ họ Vương đã sống rất mẫu mực, nhưng bà ấy chỉ là một người đàn bà," bà mối nhắc nhở chúng tôi. "Giờ đây, khi đã là một đấng nam nhi, bà luôn xuất sắc trong mọi việc làm. Bà đỗ đạt ở thứ hạng cao nhất. Bà có được cả vinh hoa phú quý, thanh thế lẫy lừng, nhưng bất chấp những thứ đó, bà vẫn thấy nhớ gia đình và thiết tha mong trở lại là một người đàn bà. Cuối cùng, bà được tiến cử với hoàng đế. Bà kể cho hoàng đế nghe câu chuyện của mình và xin ngài gia ân cho bà được trở lại thôn nơi chồng con mình sinh sống. Cũng như đối với Diêm Vương, lòng can đảm và đức hạnh của người phụ nữ đó khiến hoàng đế cảm động, nhưng ông còn nhận thấy một điều khác nữa - đó là lòng hiếu thảo. Ông bổ nhiệm bà về làm quan ở quê cũ. Bà mặc quan phục trở về làng. Khi mọi người đến khấu đầu trước bà, bà khiến họ kinh ngạc khi bà cởi giày ra để tiết lộ tên thật của mình. Bà nói với người chồng - giờ đã trở thành một ông lão già nua - rằng bà muốn trở lại làm vợ của ông. Chồng bà vợ họ Vương và các con đến mộ bà và mở ra. Ngọc Hoàng bước ra và tuyên bố rằng toàn thể gia đình họ Vương đều được lên cõi Niết Bàn, và họ đã làm như vậy." Tôi tin rằng bà Vương kể câu chuyện này để nói với tôi về tương lai của tôi. Người chồng họ Lữ của tôi và gia đình anh, dù được người dân trong huyện trọng vọng và tôn kính, rất có thể sẽ làm những việc bị xem là phản cảm hay thậm chí nhơ bẩn. Đồng thời, đó cũng là bản tính của một người tuổi hổ: rất nóng nảy, mạnh mẽ và bốc đồng. Chồng tôi có thể gây chuyện xô xát ở bên ngoài hay phỉ báng tục lệ bó chân. (Thế thì không đến mức tệ như làm nghề đồ tể, quả vậy, song tính cách đó cũng phương hại không kém). Tôi, đứa con gái sinh nhằm tuổi ngựa, sẽ có thể giúp chồng mình khắc phục những hạn chế đó. Một người đàn bà tuổi ngựa sẽ không e ngại dẫn chồng mình vượt qua chông gai. Theo tôi đó chính là ý nghĩa thật sự của Câu chuyện về người vợ họ Vương. Có thể người vợ kia không khiến chồng mình làm theo ý bà muốn được, song với tấm lòng mộ đạo và những việc làm tốt đẹp của mình, bà không chỉ cứu ông ta thoát khỏi tội sát sinh mà còn giúp cả gia đình mình được lên cõi Niết Bàn. Đó là một trong số ít truyện mang tính giáo dục dành cho chúng tôi mà lại kết thúc có hậu, và vào cái ngày cuối thu tháng trước lễ cưới của tôi, câu chuyện đó khiến tôi thấy hạnh phúc. Nhưng mặt khác, những cảm xúc của tôi cứ lẫn lộn vào nhau trong suốt lễ Ngồi và Hát. Tôi buồn vì phải rời gia đình mình, nhưng cũng như khi bị bó chân, tôi cố gắng hướng tới một điều gì đó lớn lao hơn - không chỉ là mảnh đời nhỏ xíu mà tôi nhìn thấy qua chiếc cửa sổ mắt cáo mà là bức tranh toàn cảnh như những gì tôi và Tuyết Hoa đã thấy qua khung cửa sổ chiếc kiệu của bà Vương. Mọi người thuyết phục tôi rằng tương lai mới mẻ và tốt đẹp hơn đang ở phía trước. Có lẽ, đó là một điều gì đó thuộc về bản tính tự nhiên của tôi; một con ngựa sẽ lang thang khắp thế giới nếu nó được tháo cũi sổ lồng. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi được đến một nơi mới. Lẽ tự nhiên, tôi muốn nói là Tuyết Hoa và tôi tuân theo bản tính tự nhiên của loài ngựa chính xác như những gì lá số tử vi phán định, nhưng loài ngựa - và cả loài người nữa - không phải lúc nào cũng tuân phục. Chúng ta thường nói một đằng làm một nẻo. Chúng ta cùng tri nhận một điều, nhưng trái tim của chúng ta lại mở ra một hướng khác. Chúng ta nhìn thấy cùng một vật nhưng chúng ta không hề hiểu rằng những miếng vải che mắt đã cản trở tầm nhìn của chúng ta. Chúng ta lê bước trên con đường yêu thích để rồi nhìn thấy một con đường, một ngõ hẻm, một dòng sông cám dỗ chúng ta. Tôi cảm thấy như vậy, và tôi đồ rằng Tuyết Hoa, lão đồng của tôi cũng nghĩ giống như tôi, nhưng cô là một điều bí ẩn đối với tôi. Đám cưới của Tuyết Hoa sau tôi một tháng, nhưng cô không hề tỏ ra phấn khởi hay buồn bã. Thay vì đó, cô thờ ơ một cách bất thường, ngay cả khi hát những bài theo quy tắc trong lễ hát của chúng tôi và cần mẫn viết cuốn sách ngày thứ ba sau lễ cưới mà cô đang làm cho tôi. Tôi nghĩ rằng có lẽ cô hồi hộp về đêm tân hôn hơn tôi. "Mình không sợ gì chuyện đó," chua chát cô nói khi chúng tôi gấp và bọc mấy tấm chăn của tôi. "Mình cũng vậy," tôi nói, nhưng tôi nghĩ không đứa nào tin chắc vào điều mình nói. Thuở còn bé, khi tôi vẫn được phép chơi đùa bên ngoài, tôi từng nhìn thấy những con vật "ân ái" với nhau. Tôi biết mình cũng sắp phải làm tương tự như vậy, nhưng tôi không biết điều đó diễn ra như thế nào hay tôi phải làm gì. Và Tuyết Hoa, vốn am hiểu hơn tôi rất nhiều, lại chẳng giúp gì cho tôi được. Chúng tôi đều chờ mẹ, chị, hoặc thím hay thậm chí là bà mối chỉ bảo cách làm việc đó thế nào, cũng như khi họ dạy chúng tôi làm việc nhà vậy. Vì cả hai chúng tôi đều cảm thấy không thoải mái với chủ đề đó, nên tôi cố gắng hướng cuộc nói chuyện của chúng tôi vào kế hoạch cho mấy tuần sắp tới. Thay vì quay về nhà ngay sau lễ cưới, tôi sẽ đến thẳng nhà Tuyết Hoa trong tháng lễ Ngồi và Hát của cô. Tôi giúp cô chuẩn bị cho lễ cưới cũng như cô đang giúp tôi. Tôi chờ ngày được đến nhà cô suốt mười năm nay rồi, và ở khía cạnh nào đó, việc này còn khiến tôi thấy phấn khích hơn cả việc gặp chồng mình, vì tôi đã được nghe kể về nhà cửa và gia đình Tuyết Hoa từ lâu lắm rồi, trong khi tôi lại chẳng biết gì nhiều về người đàn ông mà tôi sẽ lấy làm chồng. Tuy vậy, mặc dù tôi rất hồi hộp - cuối cùng thì tôi cũng được đến nhà Tuyết Hoa! - nhưng cô có vẻ như lơ đãng. "Một người nào đó ở nhà chồng bạn sẽ đưa bạn đến nhà mình," Tuyết Hoa nói. "Bạn có nghĩ mẹ chồng mình sẽ tham dự lễ Ngồi và Hát của bạn cùng với bọn mình không?" tôi hỏi. Điều đó sẽ khiến tôi hãnh diện, vì bà ấy sẽ nhìn thấy tôi bên lão đồng của mình. "Bà Lữ rất bận. Bà ấy rất nhiều việc, một ngày nào đó bạn cũng vậy." "Nhưng mình sẽ mời mẹ bạn, chị gái bạn và… mời thêm ai khác đến tham dự nữa nhỉ?" Tôi mong mẹ và thím tôi cũng sẽ được góp mặt trong những nghi thức đám cưới của Tuyết Hoa. Cô chẳng khác nào một thành viên trong gia đình tôi và tôi nghĩ cô cũng muốn họ tham dự. "Dì Vương nữa," cô nói. Bà mối chắc chắn là thỉnh thoảng sẽ đến dự lễ Ngồi và Hát của Tuyết Hoa, cũng như trong những ngày lễ đó của tôi. Với bà Vương, lễ cưới của chúng tôi là thời điểm hoàn tất những năm lo liệu vất vả của bà, nghĩa là bà sẽ được trả món tiền công cuối cùng. Bà sẽ không để lỡ một dịp nào để khoe với những người đàn bà khác - những bà mẹ là khách hàng tiềm năng - thành quả mỹ mãn của bà. "Ngoài sự hiện diện của dì Vương, mình cũng không biết mẹ mình định mời những ai nữa," Tuyết Hoa tiếp tục. "Sẽ có nhiều bất ngờ đấy." Cả hai cùng im lặng khi mỗi đứa gấp một tấm chăn khác. Tôi liếc nhìn cô, nét mặt cô có vẻ căng thẳng. Lần đầu tiên trong bao năm qua, sự thiếu tự tin của tôi lại nổi lên. Phải chăng Tuyết Hoa vẫn thấy tôi không xứng với cô ấy? Cô có thấy ngượng khi để những người đàn bà ở Thông Khẩu gặp mẹ và thím tôi không? Rồi tôi nhớ ra rằng chúng tôi đang nói chuyện về lễ Ngồi và Hát của cô. Đó chính xác là ý của mẹ Tuyết Hoa. Tôi cầm lấy một lọn tóc của Tuyết Hoa và vén nó ra sau tai cô. "Mình rất nóng lòng được gặp gia đình bạn. Đó sẽ là khoảng thời gian hạnh phúc." Cô có vẻ buồn buồn khi nói, "Mình lo là bạn sẽ thấy thất vọng. Mình đã nói rất nhiều về bố mẹ mình…" "Cả về Thông Khẩu và ngôi nhà của bạn nữa…" "Làm sao những điều đó có thể tốt đẹp như những gì bạn tưởng tượng được?" Tôi bật cười. "Bạn chỉ khéo lo. Mọi điều mình hình dung về gia đình bạn đều y như những bức tranh bằng lời tả đẹp đẽ của bạn." BA NGÀY TRƯỚC lễ cưới của tôi, tôi bắt đầu những nghi lễ gắn liền với Ngày Lo lắng và Đau buồn. Mẹ tôi ngồi trên bậc cầu thang thứ tư dẫn đến căn buồng phụ nữ, những người phụ nữ trong thôn đến để chứng kiến cho những lời than khóc của mẹ, và tất cả mọi người đều kêu lên ku ku ku, và xung quanh vang lên tiếng nức nở. Sau khi mẹ tôi và tôi ngừng khóc rồi hát với nhau, tôi lại lặp lại việc đó với bố, chú, thím và các anh em trai của tôi. Lẽ ra lúc đó tôi phải can đảm và hướng tới cuộc sống tương lai, nhưng cả thân xác lẫn tâm hồn tôi đều trở nên yếu ớt bởi tôi đang đói ngấu, cô dâu thì không được phép ăn trong suốt mười ngày cuối cùng của lễ cưới. Có phải dân xứ tôi tuân theo tập tục này để làm chúng tôi buồn hơn khi rời khỏi gia đình, làm chúng tôi lả lướt hơn khi bước về nhà chồng, hay là khiến chúng tôi trở nên tinh khiết hơn đối với chồng mình? Làm sao tôi biết được câu trả lời đây? Tất cả những gì tôi biết là mẹ - giống như hầu hết những người mẹ khác - giấu cho tôi vài quả trứng luộc kỹ ở buồng phụ nữ, nhưng chẳng thấm tháp mấy chút để giúp tôi khỏe khoắn cả, và tình cảm của tôi cứ giảm dần đi theo từng sự kiện mới. Sáng hôm sau, sự hồi hộp khiến tôi choàng tỉnh, nhưng Tuyết Hoa vẫn nằm ngay cạnh tôi, những ngón tay mềm mại của cô vẫn đặt trên má tôi, cố vỗ về tôi. Hôm nay tôi sẽ được giới thiệu với gia đình chồng tôi, và tôi sợ đến mức không thể ăn kể cả khi được phép ăn. Tuyết Hoa giúp tôi mặc bộ áo cưới mà tôi đã tự tay may lấy - áo choàng ngoài không cổ có thắt đai lưng buông trùm lên chiếc quần dài. Cô đeo vào cổ tay tôi những chiếc vòng gia đình chồng tôi gửi, rồi lại giúp tôi đeo vào những tặng phẩm khác - bông tai, chuỗi hạt, kẹp tóc. Vòng xuyến trên người tôi cứ xủng xoẻng, còn những chiếc bùa nhỏ bằng bạc tôi khâu vào áo cưới của mình thì kêu leng keng nhịp nhàng. Chân tôi xỏ vào đôi giày cưới màu đỏ và đầu tôi trùm chiếc khăn trang trí cầu kỳ tinh xảo với những hạt tròn giả ngọc trai và những món đồ nữ trang nhỏ bằng bạc - tất cả cứ rung lên mỗi khi tôi bước đi, xoay lắc cái đầu, hay khi những cảm xúc của tôi bộc phát ra ngoài. Những chiếc tua đỏ cứ rủ xuống phía trước chiếc khăn trùm đầu, tạo thành một cái mạng che mặt. Cách duy nhất để tôi có thể nhìn thấy mà vẫn giữ được sự đoan trang là nhìn thẳng xuống dưới. Tuyết Hoa dẫn tôi xuống cầu thang. Tôi không nhìn thấy không có nghĩa là tôi không có những cảm xúc rộn rạo trong mình. Tôi nghe tiếng bước chân khập khiễng của mẹ, nghe thấy chú thím nói chuyện với nhau bằng giọng nói dịu dàng, và tiếng kẽo kẹt từ ghế của bố khi ông đứng dậy. Chúng tôi cùng nhau đi đến miếu thờ họ của Phủ Vĩ, nơi tôi tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho cuộc đời tôi. Từ đầu đến cuối, Tuyết Hoa luôn ở sát bên tôi, dẫn tôi đi qua các con ngõ, thầm thì khích lệ tôi và nhắc tôi phải khẩn trương hết mức vì gia đình chồng tôi sắp đến rồi. Khi chúng tôi đến nhà, Tuyết Hoa và tôi lại lên gác. Để giúp tôi bình tĩnh, cô nắm tay tôi và cố gắng miêu tả gia đình mới của tôi đang làm gì. "Hãy nhắm mắt lại và hình dung điều này." Cô ghé sát lại gần, và tấm mạng che mặt của tôi cứ lay động sau mỗi từ cô nói. "Ông chủ Lữ và bà Lữ chắc chắn phải ăn mặc rất đẹp. Họ, cùng với nhiều bạn hữu và họ hàng, đã lên đường sang Phủ Vĩ. Có một ban nhạc đi cùng, tuyên bố với những người đi đường rằng ngày hôm nay họ sở hữu cả con đường." Cô hạ giọng. "Còn chú rể ở đâu? Anh ta đang đợi bạn ở Thông Khẩu. Chỉ hai ngày nữa thôi bạn sẽ được gặp anh ta!" Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc. Nghe như ngay ngoài cửa rồi. Tuyết Hoa và tôi đến bên song cửa. Tôi vén tấm khăn che mặt và nhìn ra ngoài. Chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy ban nhạc đi cùng hay đám rước, nhưng cả hai đứa đều nhìn thấy một người được phái đi trước đang đi vào ngõ nhà tôi, dừng lại ở ngưỡng cửa nhà, và đưa cho bố tôi một lá thư màu đỏ thông báo rằng gia đình mới của tôi đang đến đón tôi. Sau đó ban nhạc rẽ vào ngõ, theo sau là một đám đông những người lạ. Khi họ bước tới nhà tôi, sự ồn ào huyên náo bắt đầu. Ở bên dưới, người ta té nước và rắc lá tre vào ban nhạc, kèm theo những tiếng cười và lời trêu đùa theo phong tục. Tôi được gọi xuống nhà. Tuyết Hoa lại nắm tay tôi và dẫn tôi đi. Tôi nghe thấy giọng hát của những người phụ nữ vang lên: "Nuôi nấng một đứa con gái và gả nó đi giống như đắp một con đường đẹp đẽ cho người khác đi lại." Chúng tôi bước ra, bà Vương giới thiệu bố mẹ hai bên. Tôi phải tỏ ra hết sức nghiêm trang vào lúc đó khi gia đình chồng lần đầu tiên thoáng nhìn thấy tôi, vì thế tôi còn chẳng dám thì thầm bảo Tuyết Hoa miêu tả cho tôi xem họ trông như thế nào hay liệu cô có thể đoán ra họ đang nghĩ gì về tôi không. Sau đó bố mẹ tôi dẫn đường ra miếu thờ họ, nơi gia đình tôi đặt lên những món ăn cúng tổ tiên đầu tiên trong lễ cưới của tôi. Tuyết Hoa và nhiều cô gái trong thôn ngồi xung quanh tôi. Những món ăn đặc biệt được mang xuống. Rượu rót ra. Những khuôn mặt đều đỏ tưng bừng. Tôi trở thành đối tượng chính bị đám đàn ông và các bà già trêu chọc. Suốt buổi tiệc, tôi hát những lời bi ai và đám đàn bà con gái đáp lại. Tính đến thời điểm này, tôi đã không ăn một bữa thật sự hẳn hoi nào trong vòng bảy ngày, và mùi của thức ăn khiến tôi hoa cả mắt. Ngày tiếp theo - Ngày Ca hát trong Sảnh đường - chú trọng bữa ăn trưa theo nghi thức. Những món đồ tôi tự tay làm lấy và cuốn sổ dành cho ngày thứ ba sau lễ cưới được trưng ra, cùng với tiếng hát của Tuyết Hoa, đám đàn bà con gái, và tôi. Mẹ và thím dắt tôi đến chiếc bàn ở chính giữa. Ngay khi tôi ngồi xuống ghế, mẹ chồng tôi bèn đặt trước tôi một bát canh bà ấy đã nấu sẵn tượng trưng cho lòng tốt của gia đình chồng tôi. Tôi có thể đánh đổi bất cứ thứ gì để có thể được nếm vài thìa canh ấy. Tôi không thể nhìn thấy khuôn mặt của mẹ chồng tôi qua tấm khăn che mặt, nhưng khi tôi nhìn xuống dưới thì thấy một đôi "gót sen ba tấc" có vẻ cũng nhỏ nhắn như đôi chân của tôi, tôi thấy choáng váng. Bà không hề đi đôi giày đặc biệt tôi làm tặng bà. Tôi có thể hiểu tại sao. Những hoa văn thêu trên đôi giày này đẹp hơn tất cả những đôi giày tôi từng khâu rất nhiều. Tôi cảm thấy hổ thẹn. Chắc chắn bố mẹ tôi cũng sượng sùng, còn bố mẹ chồng tôi thì thất vọng. Vào khoảnh khắc kinh khủng đó, Tuyết Hoa lại đến bên tôi và nắm lấy tay tôi. Theo tục lệ, tôi phải rời khỏi buổi tiệc, vì thế cô đưa tôi rời khỏi miếu thờ họ trở về nhà. Cô giúp tôi lên gác, rồi nhấc khăn trùm đầu ra, cởi bỏ bộ áo cưới, mặc bộ váy ngủ và đi giày ngủ cho tôi. Tôi im lặng. Đôi giày hoàn hảo của mẹ chồng tôi khiến tôi bứt rứt, nhưng tôi sợ phải nói ra bất cứ điều gì, kể cả với Tuyết Hoa. Tôi không muốn cô cũng thấy thất vọng về tôi. Rất khuya đêm hôm đó mọi người trong nhà tôi mới về. Nếu cần phải căn dặn tôi về chuyện chăn gối, thì giờ là lúc phải làm việc đó. Mẹ tôi lên buồng của tôi và Tuyết Hoa ra khỏi đó. Trông mẹ có vẻ lo lắng, và trong giây lát tôi cứ nghĩ bà tới hẳn là để nói với tôi rằng bố mẹ chồng tôi muốn rút lại hôn ước. Mẹ dựa cây gậy vào thành giường và ngồi xuống cạnh tôi. "Mẹ đã luôn luôn dặn con rằng, bậc phu nhân sẽ không bao giờ để bất cứ thứ gì xấu xí lọt vào cuộc sống của mình," mẹ nói, "và rằng chỉ qua đau đớn con mới có được cái đẹp." Tôi gật đầu vẻ nhũn nhặn, nhưng bên trong thực sự tôi đang gào thét vì kinh hãi. Mẹ đã nói đi nói lại những lời đó suốt thời kỳ bó chân của tôi. Có lẽ nào chuyện chăn gối lại cũng tồi tệ như vậy? "Mẹ hy vọng con sẽ nhớ, Bách Huệ, rằng đôi khi chúng ta không tránh khỏi sự khó chịu. Con phải can đảm lên. Con đã hứa là sẽ sống hòa hợp. Là bậc phu nhân con phải làm như vậy." Rồi mẹ đứng dậy, dựa vào cây gậy và tập tễnh rời khỏi phòng. Những gì mẹ nói chẳng xoa dịu tôi được mấy! Sự quyết tâm, tính mạo hiểm, và sự mạnh mẽ của tôi đã xỉu đi hết cả. Tôi thấy mình thật giống một cô dâu - lo lắng, buồn phiền, và rất hoảng sợ khi phải rời khỏi gia đình. Khi Tuyết Hoa quay trở lại và nhìn thấy tôi trắng bệch vì sợ hãi, cô ngồi lên chỗ mẹ vừa ngồi ban nãy trên giường và cố an ủi tôi. "Bạn đã rèn luyện suốt mười năm qua cho giây phút này," cô dịu dàng đoan chắc với tôi. "Bạn tuân thủ những quy tắc ghi trong Nữ Kinh. Bạn ăn nói dịu dàng nhưng tâm hồn thì mạnh mẽ. Bạn chải tóc với dáng điệu đoan trang. Bạn không tô son điểm phấn. Bạn biết cách xe sợi bông và len, biết dệt vải, khâu vá, thêu thùa. Bạn biết nấu nướng, lau chùi nhà cửa, giặt giũ, giữ trà luôn ấm nóng và uống được, đốt lửa trong lò sưởi. Bạn biết chăm sóc đôi chân thật tốt và đúng cách. Bạn biết gỡ lớp vải bó chân mỗi tối trước khi đi ngủ. Bạn biết rửa chân kỹ càng và dùng đúng lượng dầu thơm trước khi quấn lớp vải bó chân sạch sẽ vào." "Thế còn... chuyện chăn gối?" "Về chuyện đó á? Chú thím của bạn đã rất sung sướng khi làm chuyện này. Bố mẹ bạn đã làm chuyện đó vừa đủ để sinh được nhiều con. Nó còn chẳng nặng nhọc bằng thêu thùa hay lau dọn cơ." Tôi đã thấy dễ chịu hơn một chút, nhưng Tuyết Hoa vẫn chưa thôi. Cô giúp tôi leo lên giường, nằm ôm lấy tôi, tiếp tục ca ngợi tôi. "Bạn sẽ là người mẹ tốt, vì bạn rất chu đáo," cô thầm thì vào tai tôi. "Mà bạn cũng sẽ là người thầy giỏi nữa. Tại sao mình biết điều đó ư? Hãy nhìn vào những gì bạn đã dạy mình mà xem." Cô ngừng lại giây lát, để chắc rằng cả cơ thể và tâm hồn của tôi đều đã thu nhận những gì cô nói, trước khi đề cập đến vấn đề thực tế hơn nhiều. "Và hơn nữa, mình đã quan sát cách nhà họ Lữ nhìn bạn hôm qua và hôm nay." Tôi xoay người ra khỏi vòng tay cô và quay mặt lại phía cô. "Kể đi. Kể mọi thứ cho mình nghe với." "Có nhớ khi bà Lữ mang đến cho bạn bát canh không?" Tất nhiên là tôi nhớ. Đó chính là sự khởi đầu cho chuỗi tưởng tượng về cuộc sống ê chề của tôi trong tương lai. "Cả người bạn run lên," Tuyết Hoa tiếp tục. "Bạn đã làm thế nào vậy? Mọi ánh mắt trong phòng đều đổ dồn vào bạn. Mọi người bàn tán về sự mỏng manh và căng thẳng của bạn. Khi bạn ngồi đó, mái đầu hơi cúi xuống, điều đó cho thấy bạn quả là một cô gái hoàn hảo, bà Lữ nhìn sang phía ông chủ Lữ. Bà ấy mỉm cười vẻ hài lòng và ông ấy cũng mỉm cười đáp lại. Rồi bạn sẽ thấy, bà Lữ là người nghiêm khắc, nhưng lại có trái tim nhân hậu." "Nhưng..." "Và cái cách cả đám rước dâu nhà họ Lữ xem xét đôi chân của bạn! Ôi! Bách Huệ! Mình tin chắc tất cả mọi người trong thôn sẽ rất vui khi biết rằng một ngày nào đó bạn cũng sẽ trở thành một bà Lữ mới. Nào, giờ thì cố ngủ đi. Bạn còn có nhiều ngày dài ở phía trước nữa." Chúng tôi nằm đối diện nhau. Tuyết Hoa đặt bàn tay cô lên má tôi như cô vẫn hay làm. "Nhắm mắt lại đi." Cô nhẹ nhàng bảo tôi. Tôi làm theo lời cô. NGÀY TIẾP THEO, gia đình chồng tôi đến Phủ Vĩ đủ sớm để đón tôi và đưa tôi về Thông Khẩu vào cuối buổi chiều hôm đó. Khi tôi nghe thấy tiếng ban nhạc từ ngoài thôn, tim tôi bắt đầu đập nhanh. Tôi không thể khiến nó đập chậm lại được, nhưng nước mắt lại ứa ra. Mẹ, thím, chị gái và Tuyết Hoa đều bật khóc khi đưa tôi xuống nhà. Những người được nhà chồng tôi phái đi trước bước đến ngưỡng cửa. Anh trai và em trai tôi giúp đưa của hồi môn của tôi lên chiếc kiệu đang đợi sẵn. Tôi đội khăn trùm đầu, thế nên tôi lại chẳng nhìn thấy gì nữa cả, nhưng tôi vẫn nghe thấy giọng nói của mọi người trong gia đình khi đến lễ Gọi và Đáp theo truyền thống cuối cùng. "Một người đàn bà sẽ không có chút giá trị nào nếu cô ta không rời khỏi thôn mình." Mẹ tôi kêu lên. "Tạm biệt mẹ," tôi hát đáp lại với mẹ. "Cảm ơn mẹ đã nuôi dưỡng đứa con gái vô dụng này." "Tạm biệt con gái," bố tôi nói dịu dàng. Khi nghe tiếng bố tôi, hai dòng nước mắt tôi tuôn rơi. Tôi vịn vào lan can cầu thang dẫn lên căn buồng trên gác. Đột nhiên tôi không muốn rời khỏi nhà chút nào nữa. "Là đàn bà, chúng ta được sinh ra để rồi rời khỏi quê nhà," thím tôi hát lên. "Con giống như chú chim bay vào bầu trời và không bao giờ trở lại." "Cảm ơn thím, vì luôn làm con cười. Cảm ơn thím đã giúp con hiểu được ý nghĩa thật sự của khổ đau. Cảm ơn thím đã chia sẻ những tài năng đặc biệt với con." Những tiếng nức nở của thím vọng đến tai tôi. Tôi không thể để thím than khóc một mình. Nước mắt tôi rớt xuống cùng thím. Nhìn xuống, tôi thấy đôi bàn tay rám nắng của chú trên tay tôi, nhấc những ngón tay tôi ra khỏi lan can. "Kiệu hoa đang đợi con ở ngoài kia," chú nói, giọng chú như vỡ ra vì xúc động. "Chú…" Rồi tôi nghe thấy giọng các anh, chị, em, mọi người đều gửi đến tôi những lời từ biệt. Tôi muốn chính mắt mình nhìn thấy họ thay vì bị cái mạng che mặt màu đỏ này bịt mắt. "Anh cả, cảm ơn anh vì đã đối tốt với em," tôi hát lên. "Em trai, cảm ơn em vì đã để chị chăm sóc em khi em còn quấn tã. Chị gái, cảm ơn vì lòng kiên trì của chị." Bên ngoài, ban nhạc càng chơi to hơn. Tôi đưa tay ra. Bố mẹ tôi nắm lấy và dìu tôi qua ngưỡng cửa. Khi tôi bước ra khỏi cửa, khăn che mặt tôi chợt đung đưa. Qua mấy kẽ hở nhỏ, tôi nhìn thấy chiếc kiệu được phủ toàn bằng hoa và lụa đỏ. Kiệu Hoa của tôi rất đẹp. Tất cả mọi điều tôi đã kể từ khi hôn ước của tôi được định đoạt sáu năm trước đây ào về choán lấy tâm trí tôi. Tôi sẽ lấy "một con hổ", mối duyên tốt lành nhất dành cho tôi, theo như lá số tử vi của tôi đoán định. Chồng tôi khỏe mạnh, thông minh, và có học thức. Gia đình anh ta được trọng vọng, giàu có và hào phóng. Tôi đã liếc thấy tất cả những điều này qua chất lượng và số lượng của món quà thách cưới, và bây giờ những điều đó lại được phô bày qua chiếc kiệu hoa. Tôi buông tay bố mẹ ra và họ để cho tôi đi. Tôi dò dẫm tiến hai bước về phía trước rồi dừng lại. Tôi không biết mình đang đi về phía nào. Tôi giơ tay ra, mong Tuyết Hoa sẽ nắm lấy. Như mọi khi, cô đến bên tôi. Những ngón tay của cô nắm lấy tay tôi, rồi cô đưa tôi lên kiệu. Cô mở cửa. Tôi nghe thấy tiếng khóc dậy lên xung quanh. Mẹ và thím tôi hát lên giai điệu buồn bã - những lời thường dành để tạm biệt con gái. Tuyết Hoa ghé lại sát gần tôi và thì thầm để chỉ mình tôi nghe thấy. "Nhớ rằng, mình và bạn mãi mãi là lão đồng nhé." Sau đó, cô rút từ trong tay áo ra một vật gì đó và nhét vào trong áo choàng của tôi. "Mình đã làm nó cho bạn," cô nói. "Hãy đọc trên đường đến Thông Khẩu. Mình sẽ gặp bạn ở đó." Tôi bước lên kiệu. Những người khiêng kiệu nhấc bổng tôi lên và khởi kiệu lên đường. Mẹ, thím, bố, Tuyết Hoa và những người bạn của tôi ở Phủ Vĩ đi theo đám rước dâu đến tận đầu thôn, nói với theo những lời chúc tốt lành cuối cùng. Tôi ngồi một mình trong kiệu, bật khóc. Tại sao tôi lại sướt mướt như thế trong khi tôi sẽ được về nhà sau ba ngày nữa? Tôi không thể giải thích được điều này: chúng tôi thường gọi việc đi lấy chồng là bất lạc phu gia, chưa về ở hẳn gia đình chồng ngay lập tức. Lạc nghĩa là rơi rụng, giống như những chiếc lá phải lìa cành vào mùa thu hay sự chết đi. Và theo thổ âm của xứ tôi từ thê (vợ) nghe giống với từ khách (khách khứa). Suốt quãng đời còn lại của mình, tôi sẽ chỉ là người khách trong gia đình chồng mà thôi - không phải là loại khách được mời những bữa ăn đặc biệt, được tặng quà, được yêu quý, hay được ngủ trên những chiếc giường êm ái, mà là kiểu khách sẽ mãi mãi bị xem như người ngoài, xa lạ và đáng ngờ vực. Tôi thò tay vào bên trong chiếc áo choàng và lấy ra món đồ của Tuyết Hoa. Đó là chiếc quạt của chúng tôi, bọc trong miếng vải. Tôi mở nó ra, đoán trước những lời lẽ hạnh phúc cô viết cho tôi. Mắt tôi lướt qua từng nếp gấp cho đến khi tôi nhìn thấy lời nhắn của cô: Đôi chim đang bay - hai trái tim hòa chung nhịp đập. Mặt trời rọi chiếu trên những đôi cánh, ấp lấy chúng trong hơi ấm trị thương. Mặt đất bát ngát dưới kia - tất cả đều là của chúng. Trên vòng lá ở mép quạt có đôi chim nhỏ chắp cánh liệng bay: chồng tôi và tôi. Tôi thích lắm khi Tuyết Hoa đã đặt chồng tôi vào bảo vật quý giá nhất của chúng tôi. Sau đó, tôi trải chiếc khăn tay dùng bọc chiếc quạt lên đùi. Khi tôi nhìn xuống, chiếc khăn che mặt đung đưa theo chuyển động của những người khiêng kiệu, tôi nhận thấy cô đã thêu một lá thư bằng thứ ngôn ngữ bí mật để chúc mừng khoảnh khắc đặc biệt nhất này. Lá thư mở đầu bằng cách viết truyền thống dành cho cô dâu: Mình cảm thấy như có bao mũi dao đâm vào tim mình khi viết cho bạn những dòng này. Chúng ta đã thề nguyền sẽ không bao giờ rời xa nhau nửa bước, rằng sẽ không bao giờ có một lời bất nhẫn giữa hai chúng ta. Những từ này ghi trong thỏa ước của hai đứa tôi, và tôi mỉm cười khi nhớ lại. Mình cứ nghĩ chúng ta sẽ được sống bên nhau trọn đời. Chưa bao giờ mình tin rằng ngày này sẽ đến. Thật đáng buồn là kiếp này chúng ta đã đầu thai nhầm - làm thân con gái - nhưng đó là số mệnh của chúng ta. Bách Huệ, chúng ta giống như đôi uyên ương. Giờ mọi thứ đã thay đổi. Những ngày tới đây bạn sẽ được biết nhiều điều về mình. Mình luôn áy náy không yên và sợ hãi. Mình đã khóc, cả tiếng khóc vỡ òa và sự thổn thức trong tim, mình sợ bạn sẽ không còn yêu quý mình nữa. Nhưng xin bạn nhớ rằng dù bạn có nghĩ gì về mình thì tấm lòng của mình đối với bạn sẽ không bao giờ thay đổi. Tuyết Hoa Bạn có thể tưởng tượng lúc đó tôi cảm thấy thế nào không? Tuyết Hoa im lặng trong suốt mấy tuần lễ vừa qua, vì cô lo tôi sẽ không còn yêu quý cô nữa. Nhưng sao có thể như vậy được? Ngồi trên kiệu hoa về nhà chồng, tôi biết không gì có thể thay đổi tình cảm của tôi dành cho Tuyết Hoa. Tôi có cảm giác khủng khiếp về một điềm báo gì đó và muốn hét lên bảo những người khiêng kiệu cho tôi quay về nhà để tôi có thể xoa dịu những nỗi sợ hãi của lão đồng. Nhưng rồi chúng tôi đã đến cổng chính của thôn Thông Khẩu. Pháo nổ tưng bừng; tiếng kèn trống vang lên rổn rảng. Người ta gỡ của hồi môn của tôi xuống. Tất cả những món đồ đó phải đưa thẳng đến nhà mới của tôi ngay lập tức để chồng tôi có thể thay bộ đồ cưới mà tôi may cho anh. Rồi tôi nghe thấy một âm thanh khủng khiếp nhưng quen thuộc. Đó là tiếng kêu của những con gà bị cắt tiết. Bên ngoài kiệu hoa của tôi, ai đó đã vẩy máu gà lên mặt đất để xua đuổi lũ tà ma có thể đã đến cùng với tôi. Sau cùng cửa kiệu được mở ra, và người đàn bà đứng đầu trong thôn giúp đưa tôi xuống kiệu. Thực ra, người phụ nữ đứng đầu trong thôn chính là mẹ chồng tôi, nhưng trong dịp này, đó lại phải là người đàn bà có nhiều con trai nhất ở Thông Khẩu. Bà dẫn tôi vào nhà mới, tôi bước qua ngưỡng cửa và ra mắt bố mẹ chồng. Tôi quỳ xuống trước mặt họ, khấu đầu chạm đất ba lần. "Con sẽ nghe theo lời bố mẹ chỉ bảo," tôi nói. "Con sẽ làm những việc bố mẹ sai bảo." Sau đó, tôi rót trà cho họ. Rồi tôi được đưa vào động phòng, ngồi lại một mình, cánh cửa phòng mở toang. Chỉ giây lát nữa là tôi sẽ được gặp mặt chồng tôi. Tôi đã chờ đợi khoảnh khắc này từ cái lần đầu tiên bà Vương đến nhà để xem bàn chân của tôi, nhưng tôi vẫn thấy bối rối, khích động, không biết phải làm gì. Người đàn ông này hoàn toàn xa lạ, vì thế, tự nhiên tôi thấy tò mò về anh. Anh sẽ là cha của các con tôi, vì vậy tôi rất lo lắng không biết chuyện đó sẽ diễn ra như thế nào. Và tôi lại vừa mới nhận được lá thư bí mật của lão đồng nên tôi đang rầu cả ruột vì lo lắng cho cô. Tôi nghe thấy người ta kéo chiếc bàn ra để chặn cửa. Tôi hơi nghiêng đầu đi một chút, chiếc mạng che mặt nghiêng theo, và tôi thấy bố mẹ chồng tôi đang xếp những chiếc chăn cưới của tôi lên bàn và đặt hai chén rượu - một chén buộc sợi chỉ xanh, một chén buộc sợi chỉ đỏ, rồi cả hai chiếc chén được buộc lại với nhau - lên trên đống chăn đó. Chồng tôi bước vào phòng chờ. Mọi người đều chúc tụng anh. Lúc này, tôi không cố để nhìn trộm. Tôi muốn nhất nhất tuân theo phong tục trong lần gặp gỡ đầu tiên này. Từ chỗ anh phía bên kia chiếc bàn, anh cầm lấy sợi chỉ xanh. Từ chỗ tôi bên này, tôi cầm lấy sợi chỉ đỏ. Sau đó, anh bước qua đống chăn trèo qua bàn và nhanh chóng nhảy vào phòng. Với hành động này, chúng tôi chính thức thành vợ chồng. Tôi có thể nói gì về chồng mình vào giây phút đầu tiên chúng tôi đứng bên nhau đây? Tôi có thể ngửi thấy anh đã tắm rửa thân thể sạch sẽ thơm tho. Khi nhìn xuống, tôi thấy đôi giày mà chính tay tôi đã may vừa khít đẹp đẽ trên đôi chân anh và chiều dài chiếc quần cưới màu đỏ rất vừa vặn. Nhưng khoảnh khắc ấy trôi qua rất mau, và chúng tôi phải tiếp tục màn Chọc ghẹo và Hò hét trong Động Phòng. Những người bạn của chồng tôi xông vào, bước đi lảo đảo và nói năng lè nhè vì uống quá nhiều rượu. Họ cho chúng tôi những hạt lạc và quả chà là để chúc chúng tôi sinh được nhiều con. Họ tặng chúng tôi kẹo để cuộc sống của chúng tôi sẽ luôn ngọt ngào. Nhưng họ không đưa cho tôi chiếc bánh bao mà chỉ đưa cho chồng tôi. Không! Họ buộc chiếc bánh bao bằng một sợi dây và lắc lư trước miệng tôi. Họ bắt tôi phải nhảy lên để cắn được, và chắc mẩm rằng tôi sẽ không bao giờ với tới. Lúc đó, họ bày ra đủ trò. Bạn biết những trò đùa kiểu đó rồi đấy. Chồng tôi tối nay sẽ khỏe như bò mộng, còn tôi sẽ ngoan ngoãn như một chú cừu non, hay cặp vú tôi như hai trái đào tơ sẵn sàng dứt tung lớp vải của chiếc áo cưới, hay hạt giống của chồng tôi sẽ sai như hạt lựu, hay nếu chúng tôi làm được tư thế đặc biệt bảo đảm sẽ sinh được con trai đầu lòng. Những trò này đâu đâu cũng giống nhau - được phép nói những lời thô tục cấm kỵ vào đêm động phòng của bất kỳ đám cưới nào ở bất cứ nơi đâu. Và tôi vờ hùa theo, nhưng thực ra tôi phát điên lên được. Tôi đã ở Thông Khẩu được một lúc lâu rồi. Giờ đã là quá nửa đêm. Ngoài phố, hàng xóm láng giềng vẫn đang ăn uống, nhảy múa, chúc tụng. Một băng pháo mới lại nổ ran, báo hiệu mọi người đang ra về. Một lúc lâu sau, bà Vương đóng cửa động phòng, giờ chỉ còn lại riêng chồng tôi và tôi. Anh nói, "chào nương tử." Tôi đáp, "chào phu quân." "Nàng đã ăn gì chưa?" "Thiếp không được phép ăn bất cứ thứ gì trong hai ngày nữa." "Có đậu phụng và quả chà là đó," anh nói, "nếu nàng muốn ăn ta sẽ không nói với ai đâu." Tôi lắc đầu và những hạt tròn tròn nho nhỏ trên khăn trùm đầu lúc lắc và những mẩu bạc rung lên trông thật đáng yêu. Tấm mạng che mặt nghiêng đi và tôi thấy anh đang liếc xuống. Anh nhìn đôi bàn chân tôi. Tôi đỏ mặt. Tôi nín thở, hy vọng rằng tấm mạng che mặt cứ nằm im thế để anh không thể thấy những cảm xúc đang lồ lộ trên má tôi. Tôi không di chuyển và anh cũng vậy. Tôi chắc rằng anh vẫn đang ngắm nghía tôi. Tôi chỉ có thể chờ đợi mà thôi. Sau cùng, chồng tôi nói, "Mọi người nói với ta rằng nàng rất xinh đẹp. Có đúng vậy không?" "Hãy giúp thiếp nhấc tấm khăn trùm đầu ra và chàng sẽ thấy." Nghe có vẻ điệu đà hơn so với dự định của tôi, nhưng chồng tôi chỉ bật cười. Giây lát sau, anh nhấc tấm khăn che mặt ra và đặt nó lên chiếc bàn bên cạnh. Anh quay lại đối diện với tôi. Chúng tôi đứng cách nhau chừng một mét. Anh chạm vào khuôn mặt tôi và tôi cũng mạnh dạn chạm vào khuôn mặt anh. Mọi điều bà Vương và Tuyết Hoa kể với tôi về anh đều là sự thật. Khuôn mặt anh không hề có bất kỳ vết rỗ hay vết sẹo nào. Da anh không đen như da bố và chú tôi, điều đó cho thấy anh không mấy khi phải làm việc ngoài đồng. Anh có đôi gò má cao và một cái cằm trông khá tự tin nhưng không vênh váo. Mớ tóc xù xì rủ xuống trán, khiến ánh mắt anh có vẻ vô tư lự. Đôi mắt anh ánh lên vẻ hài hước. Anh bước tới nắm lấy bàn tay tôi, và nói, "ta nghĩ chúng mình sẽ hạnh phúc bên nhau, nàng và ta." Một cô gái Dao mười bảy tuổi còn có thể mong đợi lời nói nào tuyệt vời hơn thế? Cũng như chồng mình, tôi nhìn thấy một tương lai huy hoàng ở phía trước. Đêm đó, chồng tôi tuân theo những thủ tục truyền thống, kể cả việc tháo đôi giày cô dâu ra và đi đôi dép ngủ màu đỏ vào cho tôi nữa. Tôi đã quen với cách đụng chạm nhẹ nhàng của Tuyết Hoa đến mức tôi không biết phải diễn tả cảm giác của tôi như thế nào khi bàn tay chồng tôi chạm vào đôi chân tôi, ngoại trừ việc sự đụng chạm đó còn xa mới thầm kín bằng những gì diễn ra sau đó. Tôi không hề biết mình đang làm gì, nhưng anh cũng không biết nốt. Tôi chỉ cố tưởng tượng xem Tuyết Hoa sẽ làm gì nếu cô nằm dưới người đàn ông xa lạ này thay vì tôi. VÀO NGÀY THỨ HAI sau lễ cưới, tôi dậy sớm. Tôi để chồng mình nằm ngủ và đi ra gian đại sảnh. Bạn có biết cái cảm giác phát ốm vì lo lắng không? Đó là điều tôi cảm thấy kể từ giây phút đọc lá thư của Tuyết Hoa, nhưng tôi chẳng thể làm được gì cả - trong suốt lễ cưới của đêm hôm qua, và thậm chí bây giờ cũng vậy. Tôi phải gắng tuân theo nghi thức bắt buộc cho đến khi tôi được gặp lại cô. Nhưng điều này quả là khó khăn, vì tôi quá đói, kiệt sức và ê ẩm toàn thân. Hai bàn chân tôi nhức mỏi vì phải đi bộ quá nhiều suốt mấy ngày nay. Tôi còn bị lạ nhà nữa, nhưng tôi cố xóa đi những dấu vết mệt mỏi đó khi tôi đi vào nhà bếp, nơi một cô hầu gái chừng mười tuổi ngồi xổm, rõ ràng là đang chờ tôi. Người hầu riêng của tôi - chưa ai nói với tôi về điều này cả. Không ai ở Phủ Vĩ có người hầu, nhưng tôi nhận ra cô bé là người hầu vì chân nó không được bó. Tên cô bé là Dũng Cảm, có nghĩa là gan dạ và rắn rỏi như gang thép. (Về sau, điều này được chứng tỏ là đúng). Cô bé bắt đầu nhóm lò và xách nước vào trong bếp. Tất cả những gì tôi phải làm là đun nước nóng để mang vào cho bố mẹ chồng tôi rửa mặt. Tôi cũng pha trà cho mọi người trong nhà, và khi họ bước vào bếp, tôi rót trà mà không để rớt ra ngoài giọt nào. Trong ngày hôm đó, gia đình chồng tôi gửi thêm một khúc thịt lợn và bánh ngọt nữa cho gia đình tôi. Nhà họ Lữ tổ chức một bữa tiệc lớn ở miếu thờ họ, nhưng lại là một bữa tiệc nữa tôi không được phép ăn. Trước mặt mọi người, chồng tôi và tôi vái trời, đất, bố mẹ chồng và tổ tiên nhà họ Lữ. Sau đó chúng tôi đi vào trong miếu thờ họ, cúi đầu chào những người lớn tuổi hơn chúng tôi. Đến lượt mình, họ lại tặng chúng tôi những món tiền được bỏ trong phong bao đỏ. Sau đó chúng tôi quay về động phòng. Ngày tiếp theo, ngày thứ ba của lễ cưới, là ngày mà tất cả các cô dâu đều mong chờ, vì cuốn sổ ngày thứ ba sau lễ cưới do gia đình và bạn bè của cô dâu viết sẽ được mang ra đọc. Nhưng lúc này tôi chỉ nghĩ đến Tuyết Hoa và tôi sẽ gặp lại cô trong nghi lễ này. Chị gái và chị dâu tôi đến, mang theo cuốn sổ và đồ ăn mà cuối cùng tôi cũng được phép ăn. Nhiều phụ nữ ở Thông Khẩu cũng tham gia vào nhóm đàn bà con gái trong gia đình chồng tôi để đọc cuốn sổ đó, nhưng không hề thấy Tuyết Hoa hay mẹ cô đến. Tôi không thể hiểu nổi tại sao. Tôi thấy đau đớn lắm… và sợ hãi vì sự vắng mặt của Tuyết Hoa. Tôi đang ở cái thời khắc sung sướng nhất trong mọi nghi thức của lễ cưới, vậy mà tôi không sao vui nổi. Tam triều thư của tôi có cả những dòng theo thông lệ viết về sự nghèo khổ của gia đình tôi mà từ đây tôi sẽ không còn phải chịu đựng nữa. Đồng thời, cuốn sổ cũng ca tụng những phẩm chất của tôi và lặp đi lặp lại những lời kiểu như Giá mà chúng ta có thể thuyết phục được gia đình bên ấy đợi thêm vài năm nữa mới đón con đi, hay Buồn biết bao khi giờ đây chúng ta phải xa lìa, và khẩn khoản mong gia đình chồng tôi khoan dung độ lượng kiên nhẫn dạy bảo tôi các tập tục của gia đình. Phần Tam triều thư do Tuyết Hoa viết đúng như tôi dự đoán, gắn với tình yêu loài chim của cô. Nó mở đầu thế này, Phượng hoàng sánh với kim kê, mối nhân duyên thiên định. Lại chỉ là kiểu bày tỏ tình cảm thông thường, dù là xuất phát từ lão đồng của tôi. TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT Lisa See www.dtv-ebook.com Chương 11: Sự Thật Bình thường thì vào ngày thứ tư sau lễ cưới tôi phải quay trở lại nhà mình ở Phủ Vĩ, nhưng tôi đã có kế hoạch từ khá lâu là sẽ đến thẳng nhà Tuyết Hoa để tham dự tháng Ngồi và Hát của cô. Bây giờ, khi sắp được gặp lại cô rồi, tôi lại thấy lo lắng hơn bao giờ hết. Tôi mặc một bộ quần áo đẹp dùng để mặc hàng ngày, một cái áo khoác ngoài bằng lụa màu xanh lá mạ và chiếc quần thêu hình cây trúc. Tôi muốn tạo ấn tượng tốt không chỉ với bất kỳ ai tôi gặp ở Thông Khẩu mà còn là người trong gia đình Tuyết Hoa, những người tôi đã nghe kể rất nhiều trong bao năm qua. Dũng Cảm, cô hầu gái của tôi, dẫn tôi đi qua những ngõ hẻm ở Thông Khẩu. Cô bé mang theo quần áo, chỉ thêu, vải vóc của tôi và cuốn sách về ngày thứ ba sau lễ cưới mà tôi đã chuẩn bị cho Tuyết Hoa trong một cái giỏ. Tôi thấy vui thích vì được Dũng Cảm dẫn đi và không hề thấy bất tiện khi cô bé đi cùng. Việc luôn có cô bé ở bên là một trong những điều tôi phải quen dần. Thông Khẩu lớn và thịnh vượng hơn rất nhiều so với Phủ Vĩ. Đường đi lối lại sạch sẽ, không hề có gà, vịt, hay lợn chạy lung tung. Chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà trông hệt như những gì Tuyết Hoa đã miêu tả - hai tầng, yên ả và tao nhã. Tôi ở đây chưa lâu nên không rõ các tập quán của thôn này, nhưng có một điều giống y như ở Phủ Vĩ. Chúng tôi không gọi to hay gõ cửa để báo mình đã đến. Dũng Cảm chỉ cần đẩy cánh cửa chính nhà Tuyết Hoa và bước vào trong. Tôi theo sau cô bé và lập tức một mùi lạ xộc vào mũi tôi, một mùi kết hợp giữa mùi phân với mùi thịt thiu và bao trùm lên là mùi ngọt lợm. Tôi không biết cái mùi ấy từ đâu ra, chỉ ngờ ngợ là từ con người. Dạ dày tôi quặn lên, nhưng mắt tôi còn nổi loạn hơn nữa, từ chối chấp nhận những gì tôi đang nhìn thấy. Căn phòng chính lớn hơn nhiều so với căn phòng chính ở nhà tôi, nhưng đồ đạc thì chẳng có mấy. Tôi thấy bàn nhưng không hề có ghế. Tôi thấy một cái lan can chạm khắc dẫn lên căn buồng phụ nữ, nhưng ngoài vài thứ đồ ít ỏi đó ra - những đồ vật có chất lượng cao hơn rất nhiều so với bất cứ thứ đồ đạc gì trong nhà của bố mẹ tôi - ở đây không còn gì khác nữa. Ngay cả lửa cũng không có. Bây giờ đã là cuối thu, trời lạnh. Căn phòng cũng quá bẩn thỉu, những mẩu thức ăn còn vương vãi trên sàn nhà. Tôi nhìn thấy mấy cánh cửa nữa, có lẽ là dẫn đến các phòng ngủ. Cảnh tượng này không chỉ hoàn toàn khác với những gì một người khách qua đường nghĩ tới khi nhìn từ bên ngoài, mà nó còn khác khủng khiếp so với những gì Tuyết Hoa đã mô tả. Chắc tôi vào nhầm nhà. Sát trần nhà có vài cái cửa sổ, tất cả trừ một cái đều đóng kín mít. Tia sáng duy nhất từ cái cửa sổ đó xuyên qua bóng tối. Trong bóng tối u ám đó, tôi nhận thấy một người đàn bà ngồi xổm bên chiếc chậu rửa. Bà ta mặc quần áo độn bông rách rưới và bẩn thỉu trông như một người nông dân nghèo hèn. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau và bà ta lập tức nhìn đi chỗ khác. Đầu hơi cúi, bà ta đứng dậy khỏi chỗ ánh sáng rọi vào. Da bà ta thật đẹp, trắng mịn như sứ. Bà ta đan các ngón tay vào với nhau rồi cúi chào. "Cô Bách Huệ, xin mời vào, mời vào." Bà ta cố nói nhỏ, không phải vì kính nể địa vị cao sang tôi mới giành được mà là với một giọng dằn nén xuống vì sợ. "Cô đợi ở đây nhé. Tôi sẽ đi gọi Tuyết Hoa." Giờ thì tôi choáng váng tột độ. Đây chính là nhà của Tuyết Hoa. Nhưng sao lại có thể như thế được? Khi người phụ nữ đó đi qua gian phòng đến cầu thang tôi thấy bà cũng có một đôi "gót sen ba tấc", nhỏ gần bằng chân tôi, trước con mắt ngu dốt của tôi lại có vẻ quá nổi bật đối với một người ở tầng lớp tôi đòi. Tôi nghe loáng thoáng khi người đàn bà ấy gọi ai đó trên gác. Rồi chính tai tôi nghe thấy một điều không thể tin nổi - giọng nói của Tuyết Hoa nghe có vẻ rất ương bướng và gay gắt. Choáng váng, đó là cảm giác của tôi lúc này, cực kỳ choáng váng. Nhưng ngoài thanh âm quen thuộc đó, cả ngôi nhà im ắng kỳ lạ. Và trong sự im ắng ấy tôi linh cảm có cái gì đó ẩn nấp tựa như ma quỷ từ cõi âm. Toàn thân tôi phản ứng với cảm giác đó. Tôi sởn gai ốc bởi sợ hãi. Tôi rùng mình trong chiếc áo lụa xanh lá mạ tôi mặc để gây ấn tượng với bố mẹ Tuyết Hoa nhưng không đủ để giúp tôi chống lại cơn gió ẩm thấp đang thổi qua cửa sổ hay nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy khi lọt vào cái nơi xa lạ, tối tăm, hôi hám và rùng rợn này. Tuyết Hoa xuất hiện ở bậc cao nhất của chiếc cầu thang. "Lên đây," cô gọi tôi. Tôi đứng đờ người ra, gắng liều lĩnh chăm chú nhìn những gì tôi đang thấy. Có cái gì đó chạm vào tay áo của tôi làm tôi giật mình sực tỉnh. "Con không nghĩ là ông chủ muốn con để mợ ở lại đây đâu," Dũng Cảm nói, nét mặt nó lộ rõ vẻ lo lắng. "Ông chủ biết ta ở đâu mà," tôi đáp lại không suy nghĩ. "Bách Huệ." Giọng của Tuyết Hoa chất chứa nỗi buồn bã thất vọng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Rồi, bất chợt một hồi ức của mấy ngày trước vụt lóe lên trong tâm trí tôi. Mẹ tôi từng căn dặn là đàn bà tôi không thể tránh những điều chướng tai gai mắt và tôi phải can đảm lên. "Bạn đã hứa là sẽ gắn bó suốt đời," cô nói. "Hãy là một bậc phu nhân như bạn đã định." Cô nói không phải về chuyện chăn gối với chồng tôi. Mà cô đang nói về điều này. Tuyết Hoa là lão đồng của tôi cho đến hết đời. Tình yêu với cô còn bao la và sâu đậm hơn cả với người đàn ông là chồng của tôi. Đó là ý nghĩa thật sự của mối quan hệ lão đồng. Tôi bước lên một bước và nghe thấy tiếng gì đó nghe như tiếng rên rỉ của Dũng Cảm. Tôi không biết phải làm gì. Tôi đã bao giờ có hầu gái đâu. Tôi ngập ngừng vỗ nhẹ lên vai con bé. "Đi đi." Tôi cố nói sao cho nghe giống bà chủ, tuy nhiên điều đó đâm ra nghe như là, "Ta sẽ ổn thôi." "Nếu mợ muốn đi khỏi đây vì bất cứ lý do gì, hãy ra ngoài và gọi mọi người giúp đỡ nhé." Dũng Cảm đề nghị, vẫn còn lo lắng. "Mọi người ở đây đều biết ông bà Lữ. Mọi người sẽ đưa mợ quay về nhà chồng," Tôi đưa tay ra lấy chiếc giỏ từ tay con bé. Thấy con bé vẫn chưa chịu nhúc nhích, tôi gật đầu ra hiệu bảo nó đi đi. Nó thở dài đầu hàng, cúi chào rất nhanh, lùi ra cửa, quay lưng và đi. Nắm chặt chiếc giỏ trong tay, tôi leo lên cầu thang. Khi tôi đến gần Tuyết Hoa, tôi thấy má cô hoen ướt. Cũng giống bà người ở lúc nãy, cô mặc một bộ quần áo chần bông xám xỉn, rộng thùng thình, và sửa sang lại rất tệ. Tôi đứng lại cách sàn gác một bậc. "Không có gì thay đổi cả," tôi nói. "Chúng ta vẫn là lão đồng." Cô nắm tay tôi, giúp tôi bước lên bậc thang cuối cùng, và dẫn tôi vào căn buồng phụ nữ. Tôi nhận thấy đã có thời đây từng là một nơi đẹp đẽ. Nó rộng gấp ba lần căn buồng phụ nữ ở nhà bố mẹ tôi. Thay cho những chấn song cửa sổ là những tấm chắn bằng gỗ được chạm trổ công phu. Còn lại, căn phòng quá trống trải, chỉ còn một chiếc máy se sợi và một chiếc giường ngủ. Người đàn bà đẹp tôi gặp ở dưới nhà lúc nãy, tay xếp gọn trong lòng, nhẹ nhàng ngồi xuống chỗ đầu giường. Bộ quần áo nông dân không che đậy được vẻ thanh lịch của bà. "Bách Huệ," Tuyết Hoa nói, "đây là mẹ mình." Tôi đi qua căn buồng, chắp hai tay lại, rồi cúi đầu chào người đàn bà đã đưa lão đồng của tôi vào thế giới này. "Cô bỏ quá cho tình cảnh nhà tôi nhé," mẹ của Tuyết Hoa nói. "Tôi chỉ có trà suông để mời cô thôi." Bà đứng dậy. "Hai cô hẳn có nhiều chuyện hàn huyên." Dứt lời, bà uyển chuyển bước đi với dáng điệu thanh nhã bậc nhất do đôi chân bó hoàn hảo mang lại. Khi rời nhà bốn ngày trước, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt tôi. Tôi thấy vừa buồn, vừa vui, vừa sợ hãi. Nhưng giờ đây, khi ngồi bên Tuyết Hoa trên giường cô, tôi thấy những giọt nước mắt nuối tiếc, mặc cảm, hổ thẹn và ngượng ngùng. Tôi ước ao đượt hét lên với cô, Hãy nói với mình! Nhưng tôi lại chỉ ngồi chờ được nghe sự thật, biết rằng mỗi lời thốt ra từ miệng Tuyết Hoa sẽ làm mất dần chút thể diện còn lại của cô. "Từ trước khi chúng ta gặp nhau khá lâu," cuối cùng Tuyết Hoa lên tiếng, "gia đình mình là một trong những gia đình giàu có nhất huyện này. Bạn có thể thấy" - cô chỉ ra xung quanh một cách tuyệt vọng - "nơi này xưa rất tráng lệ. Nhà mình rất sung túc. Ông cố nội mình là một vị quan được vua ban cho rất nhiều đất đai." Tôi lắng nghe, đầu óc quay cuồng. "Khi nhà vua mất, cố nội mình bị thất sủng, vì vậy ông cáo quan về quê. Cuộc sống vẫn tốt đẹp. Khi ông qua đời, con trai ông, tức ông nội mình, nối nghiệp. Ông nội mình có rất nhiều người làm thuê và kẻ hầu người hạ. Ông có ba người vợ bé, nhưng họ chỉ sinh được cho ông những đứa con gái. Bà nội mình cuối cùng cũng sinh cho ông một người con trai và nhờ thế giữ vững được địa vị của bà. Họ cưới mẹ mình về cho con trai. Mọi người nói mẹ mình giống Hồ Ngọc Tú, nhờ tài năng và vẻ duyên dáng mà khiến nhà vua say mê. Cha mình không phải là một ông quan, nhưng ông cũng được học hành đầy đủ theo các kinh điển Tứ Thư, Ngũ Kinh. Mọi người nói rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ trở thành trưởng thôn Thông Khẩu. Mẹ mình cũng tin tưởng thế. Một số người lại nhìn thấy một tương lai khác. Ông bà nội mình nhận thấy cha mình là người yếu đuối bạc nhược vì được nuôi dạy như là cậu ấm duy nhất trong một gia đình có quá nhiều chị em gái và thê thiếp, còn thím mình thì ngờ rằng ông không có bản lĩnh và dễ bị nhiễm thói hư tật xấu." Đôi mắt của Tuyết Hoa nhìn xa xăm khi nhớ lại quá khứ không mấy xa xôi. "Hai năm sau khi mình sinh ra, ông nội mình qua đời," cô tiếp tục. "Gia đình mình có mọi thứ - áo quần lộng lẫy, thực phẩm dồi dào, đầy rẫy kẻ hầu người hạ. Cha mình dẫn mình đi du ngoạn nhiều lần; mẹ mình cũng hay dẫn mình đến Miếu Cô Bà. Mình chứng kiến và học hỏi được nhiều thứ từ khi còn bé. Nhưng cha mình phải chăm sóc cho ba người vợ bé của ông nội và lo liệu việc cưới xin cho bốn chị em gái cùng mẹ và năm chị em gái cùng cha khác mẹ, con của những người vợ bé đó. Cha mình cũng phải tạo ra công ăn việc làm, cung cấp lương thực, và nơi ăn chốn ở cho nông phu và đám người hầu của gia đình. Đám cưới của các chị em gái đều đã được thu xếp. Cha mình muốn thể hiện cho mọi người thấy ông là người giàu sang đến cỡ nào. Đám cưới sau phung phí hơn đám cưới trước. Ông bắt đầu bán ruộng cho một đại địa chủ ở phía Tây huyện này để có thể mua nhiều lụa hay giết thịt lợn cho các đám cưới hơn. Mẹ mình - bạn thấy bà ấy rồi đấy - mẹ mình có vẻ ngoài rất đẹp nhưng bên trong mẹ cũng giống như mình trước khi gặp bạn: được nuông chiều, bảo bọc, và không biết gì về công việc của người đàn bà ngoài việc thêu thùa và viết nữ thư. Còn cha mình…" Tuyết Hoa ngập ngừng, rồi thốt lên, "cha mình suốt ngày đắm chìm bên chiếc tẩu." Tôi nhớ lại cái ngày bà Cao tự chuốc lấy phiền toái khi buột mồm nói về chuyện nhà Tuyết Hoa. Bà ta đã đề cập đến chuyện cờ bạc, chuyện thê thiếp, và cả chuyện bố của Tuyết Hoa nghiện ngập. Khi ấy tôi mới chín tuổi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy hút quá nhiều thuốc lá. Giờ tôi không chỉ biết ông ta đã nghiện thuốc phiện mà còn nhận ra rằng tất cả mọi người trong căn buồng nhà tôi hồi đó, trừ tôi, đều hiểu bà Cao nói gì. Mẹ tôi biết, thím biết, bà Vương biết. Tất cả mọi người đều biết, nhưng họ đều thống nhất là không nên để tôi biết cái chuyện ai cũng biết cả đó. "Bố bạn vẫn còn sống chứ?" Tôi ngập ngừng hỏi. Chắc chắn là cô sẽ nói với tôi nếu ông ta chết rồi, nhưng - vì trước đây cô cũng nói dối về tất cả những chuyện khác - nên có thể cô sẽ không nói. Cô gật đầu nhưng không nói gì thêm. "Ông ấy ở dưới nhà à?" Tôi hỏi, nhớ tới cái mùi kỳ lạ và kinh tởm nồng nặc khắp gian phòng chính. Vẻ mặt cô trở nên trầm lặng; rồi cô nhướn cặp lông mày. Tôi nghĩ như vậy nghĩa là xác nhận. "Bước ngoặt xảy đến từ nạn đói năm đó," Tuyết Hoa lại tiếp tục. "Bạn nhớ chứ? Lúc đó chúng ta chưa gặp nhau, nhưng có một năm mùa màng gần như mất trắng, sau đó lại đến một mùa đông cực kỳ khắc nghiệt." Làm sao tôi có thể quên được? Thứ tốt nhất mà chúng tôi được ăn là cháo có vị củ cải. Mẹ tôi phải căn cơ tằn tiện, bố và chú tôi chỉ ăn rất ít, thế rồi chúng tôi cũng sống sót được qua đận đó. "Cha mình không phải là người biết lo xa," Tuyết Hoa thú thực. "Ông hút thuốc phiện suốt và quên mất gia đình. Một ngày kia, những người thiếp của ông mình bỏ đi. Có thể họ quay về nhà bố mẹ đẻ. Có thể họ đã chết vùi trong tuyết. Không ai biết. Khi mùa xuân đến, chỉ còn cha mẹ, hai anh em trai, hai chị em gái của mình và mình sống trong ngôi nhà này. Bề ngoài, gia đình mình vẫn ra vẻ thanh lịch tao nhã, nhưng thật ra các chủ nợ đã bắt đầu kéo đến nhà mình thường xuyên. Bố mình bán thêm nhiều ruộng. Cuối cùng, gia đình mình chỉ còn lại độc căn nhà này. Kể từ đó, ông ấy chỉ chăm chăm hút thuốc chứ chẳng mấy quan tâm đến vợ con. Trước khi ông cầm cố những vật dụng trong nhà - ôi, Bách Huệ, bạn sẽ không tưởng tượng được mọi thứ đẹp đến mức nào đâu - ông thậm chí còn định bán mình." "Không phải để làm con ở chứ!" "Tệ hơn thế. Mà là làm đồng dưỡng tức." Đây luôn là điều khủng khiếp nhất mà tôi có thể hình dung ra: bạn không được bó chân nữa, được nuôi ăn bởi những người xa lạ không có đạo đức đến mức không muốn có một cô con dâu đúng nghĩa, bị đối xử còn tệ hơn kẻ hầu người hạ. Và giờ đây, khi đã lấy chồng tôi mới hiểu được khía cạnh khủng khiếp của một cuộc đời như vậy. Có thể bạn sẽ chẳng là gì cả ngoài thứ đồ vật phục vụ chuyện chăn gối cho bất kỳ người đàn ông nào trong gia đình đó. "Nhà mình được em gái của mẹ mình cứu," Tuyết Hoa nói. "Sau khi chúng ta trở thành lão đồng, bà cũng thu xếp được một cuộc hôn nhân tàm tạm cho chị mình. Bà không còn đến đây nữa. Sau này, dì mình phải gửi anh trai mình đi học nghề ở Thượng Giang Hư. Hôm nay, em trai mình phải đi làm đồng cho nhà chồng bạn. Em gái mình đã mất, như bạn biết đấy…" Nhưng tôi không quan tâm đến những người tôi chưa gặp bao giờ, vả lại trước kia tôi chỉ toàn nghe được những lời nói dối thôi. "Điều gì đã xảy ra với bạn?" "Dì mình đã thay đổi tương lai của mình với chiếc kéo, vải và phèn chua. Bố mình phản đối, nhưng bạn biết dì Vương rồi đấy. Ai dám nói không với bà một khi bà đã quyết định?" "Dì Vương ư?" Đầu tôi quay cuồng. "Bạn muốn nói dì Vương của chúng ta, cái bà mối đó ư?" "Bà ấy là em gái của mẹ mình." Tôi đưa mấy ngón tay ấn lên thái dương. Ngay từ ngày đầu tiên gặp Tuyết Hoa và khi chúng tôi đến Miếu Cô Bà, cô đã gọi bà mối là dì. Tôi nghĩ cô làm thế là vì lịch sự và kính trọng, và kể từ đó tôi cũng dùng lời xưng hô kính cẩn này mỗi khi nói với bà Vương. Tôi thấy mình thật ngu ngốc và đần độn. "Bạn chẳng nói gì với mình cả," tôi nói. "Về dì Vương ư? Mình cứ nghĩ bạn biết điều đó." Mình cứ nghĩ bạn biết điều đó. Tôi cố nuốt trôi những từ đó. "Dì Vương nhìn thấu bố mình," Tuyết Hoa tiếp tục kể. "Dì biết ông ấy bạc nhược. Dì cũng để mắt đến mình. Nhìn mặt mình, dì nhận thấy mình không hề thích vâng lời chút nào, mình không tập trung, mình thật chẳng có chút hy vọng nào làm tốt công việc tề gia nội trợ, nhưng dì biết mẹ có thể dạy mình cách thêu thùa, ăn mặc, cư xử trước mặt đàn ông, cách viết nữ thư. Dì mình chỉ là một người đàn bà, nhưng vì là một bà mối nên dì cũng có đầu óc tính toán. Dì nhìn thấy trước gia đình mình và mình rồi sẽ đi đến đâu. Dì bắt đầu tìm kiếm cho mình một mối quan hệ lão đồng, hy vọng rằng mối quan hệ đó sẽ khiến khắp huyện biết rằng mình được giáo dục tử tế, chung thủy, ngoan ngoãn…" "Và có thể cưới làm vợ được," tôi kết luận. Điều đó cũng đúng đối với cả tôi nữa. "Dì tìm khắp huyện, đi ra cả bên ngoài địa phận mai mối thông thường của dì cho đến khi nghe ông thầy tướng kể về bạn. Khi gặp bạn, dì quyết định gắn kết số phận mình và bạn với nhau." "Mình không hiểu điều này." Tuyết Hoa mỉm cười rầu rĩ. "Bạn đang tiến lên cao còn mình tụt xuống đáy. Khi mình gặp bạn lần đầu tiên, mình không biết gì cả. Dì mong mình sẽ học hỏi được từ bạn." "Nhưng bạn mới chính là người đã dạy mình đấy chứ. Bạn luôn thêu đẹp hơn mình. Và bạn thông thạo nữ thư. Bạn đã dạy mình cách sống trong một gia đình nhà cao cửa rộng…" "Còn bạn thì dạy mình cách đi lấy nước, giặt giũ quần áo, nấu nướng và lau chùi nhà cửa thế nào. Mình đã cố chỉ dẫn cho mẹ mình, nhưng bà ấy cứ luôn nhìn mọi thứ như trước." Lúc nãy tôi có cảm giác là mẹ Tuyết Hoa vẫn còn bám lấy quá khứ vàng son đã không còn hiện hữu, nhưng sau khi nghe Tuyết Hoa kể chuyện gia đình mình, tôi nghĩ lão đồng của mình cũng nhìn mọi sự qua bức màn hồi ức hạnh phúc. Quen cô đã nhiều năm nay, tôi biết cô luôn nghĩ rằng không gian sống của người phụ nữ phải đẹp đẽ và không âu lo. Có lẽ cô nghĩ mọi sự rồi cũng sẽ trở lại như xưa. "Từ bạn, mình học được những gì cần thiết cho cuộc sống mới của mình," Tuyết Hoa nói, "trừ việc mình không bao giờ có thể giặt giũ lau chùi sạch sẽ như bạn được." Đúng là cô chưa bao giờ giỏi trong việc đó cả. Trước kia tôi luôn nghĩ đó là cách cô làm ngơ trước sự bừa bãi bẩn thỉu trong nhà tôi. Giờ thì tôi hiểu ra rằng với cô thả hồn lên khoảng trời cao bên trên những đám mây dễ dàng hơn so với việc phải nhìn nhận những điều khó chịu trước mắt. "Nhưng nhà của bạn lại quá lớn và khó dọn dẹp hơn nhà mình, mặt khác bạn mới chỉ là cô gái còn ở tuổi mới búi tóc," tôi tranh luận một cách ngu ngốc, cố làm cô thấy dễ chịu hơn. "Bạn có…" "Một người mẹ chẳng thể giúp gì mình, một người cha nghiện ngập, các anh chị em cứ lần lượt ra đi." "Nhưng bạn sắp lấy…" Đột nhiên, tôi nhớ lại cái ngày cuối cùng khi bà Cao đến căn buồng phụ nữ của nhà tôi và tôi được """