"
Tuyết Bỏng - Yuri Vassilievitch Bondarep full prc pdf epub azw3 [Gián Điệp - Phản Gián]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyết Bỏng - Yuri Vassilievitch Bondarep full prc pdf epub azw3 [Gián Điệp - Phản Gián]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tuyết bỏng
Tác giả: Y. V. Bondarev
Dịch giả: Nguyễn Hải Hà
Nhà xuất bản Cầu Vồng Nga ——————————
Đánh máy: katysha – Nuocnga.net Làm ebook: Cotyba
Ngày hoàn thành: 26-01-2007 Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org
Tưởng nhớ những người đi chiến đấu không trở về
Chương một
Cu-dơ-nét-xốp không ngủ được. Gió tuyết quất mãnh liệt, nóc tàu lọc xọc, rung lên ầm ầm, khó nhận ra ô cửa sổ nhỏ bị tuyết lèn ngày càng chặt ở phía trên những chiếc phản.
Chiếc đầu tàu gầm lên man rợ rạch tung bão tuyết kéo đoàn tàu đi giữa cánh đồng ban đêm, trong sương mù trắng bao quanh tứ phía; và trong toa xe tối tăm náo động, qua tiếng rít của những bánh xe lạnh cứng, qua những tiếng khụt khịt lo âu, tiếng làu bàu trong giấc ngủ của những người lính, tiếng gầm báo hiệu của đầu tàu vẫn vang lên không dứt và Cu-dơ-nét-xốp tưởng như ở đằng kia, phía trước đoàn tàu, ở ngoài khu vực cơn bão tuyết đã thấp thoáng ánh lên ráng đỏ của một thành phố đang bốc cháy.
Sau trạm dừng chân ở Xa-ta-rốp, mọi người đều thấy rõ là sư đoàn được khẩn cấp tung đến Xta-lin-grát chứ không phải tới mặt trận hướng Tây như dự đoán ban đầu. Bây giờ Cu-dơ-nét-xốp biết rằng, chỉ còn phải đi vài tiếng đồng hồ nữa. Anh kéo cái cổ áo choàng cứng đơ, những sợi lông đâm tua tủa một cách khó chịu, ẩm ướt vì hơi thở để che má mà vẫn không làm sao ấm lên được để chợp mắt: gió lạnh buốt lọt qua những khe vô hình của ô cửa sổ bị tuyết phủ, nhưng tia gió lùa băng giá thổi qua những chiếc phản.
Thế nghĩa là còn lâu mình mới được gặp mẹ,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, co ro vì lạnh,-người ta chở bọn mình đi ngang qua…”. Cuộc sống trước đây,-những tháng hè tại trường sĩ quan vùng Ac chin-bin-xcơ nóng nực, bụi bặm, với những làn gió nóng bỏng từ thảo nguyên thổi tới, những tiếng kêu ngột ngạt của bầy la trong cảnh tĩnh mịch lúc chiều tà ở vùng ngoại ô, chiều nào chúng cũng kêu lên đúng vào giờ đó thành thử các trung đội trưởng chỉ huy luyện tập chiến thuật mệt vã người vì khát nước, không phải là không cảm thấy nhẹ nhõm khi kiểm tra lại đồng hồng theo những tiếng kêu đó; những buổi hành quân trong cái oi nồng đến mụ mẫm, những chiếc áo lính đẫm mồ hôi và bị mặt trời thiêu đốt trắng bệch, cát lạo xạo trong răng; buổi tuần tra ngày chủ nhật trong thành phố, trong công viên của thành phố, ở đó chiều chiều đội quân nhạc thường chơi một cách bình yên
tại nơi dành để khiêu vũ; rồi đến lễ ra trường, việc chuyển quân lên xe lửa theo lệnh báo động vào một đêm thu, cánh rừng lầm lì giữa tuyết trắng hoang dại, những đống tuyết, những căn hầm đất ở nơi trú quân ở Tam-bốp, sau đó theo lệnh báo động lại vội vã chuyển quân lên đoàn tàu vào một buổi sớm mai ửng hồng lạnh giá hồi tháng Chạp và sau hết, con tàu chuyển bánh-tất cả cuộc sống bấp bênh, tạm bợ do một ai điều khiển đó giờ đây đã mờ nhạt, lùi lại đằng sau, trong quá khứ. Và chả còn hy vọng được gặp mẹ, thế mà mới gần đây anh hầu như tin chắc rằng người ta sẽ chở anh qua Mat-xcơ-va sang phía Tây.
“Mình sẽ viết thư cho mẹ,-Với cảm giác cô đơn đột ngột nhói lên, Cu-dơ-nét-xốp nhìn vào bóng tối, tự nhủ,-và mình sẽ giải thích cho mẹ rõ. Bởi vì đã chín tháng nay hai mẹ con không gặp nhau…”.
Ấy vậy mà cả toa tàu vẫn ngủ trong tiếng rít ken két, tiếng sình sịch của những bánh xe bằng gang lăn nhanh, các vách toa lắc dữ dội, những phản nằm ở phía trên đu đưa vì tốc độ khủng khiếp của đoàn tàu. Cu-dơ-nét-xốp rùng mình, anh đã thật sự bị những tia gió lùa qua cửa sổ làm cho lạnh cóng, bẻ cổ áo xuống, ghen tị nhìn trung úy Đa vla-chi-an, trung đội trưởng trung đội hai đang nằm bên cạnh, không nhìn rõ khuôn mặt anh ta trong bóng tối.
“Không, chỗ này gần cửa sổ, mình sẽ không ngủ được, sẽ bị lạnh cóng trước khi tới mặt trận”,-Cu-dơ-nét-xốp bực mình nghĩ và anh bắt đầu cựa quậy, ngọ nguậy, lắng nghe tiếng sương giá nổ lép bép dưới sàn toa.
Anh rời vách toa, nhoai người ra khỏi chỗ nằm chật chội lạnh buốt như kim châm, nhảy từ phản xuống, cảm thấy mình cần phải lại gần lò sưởi để sưởi ấm vì lưng đã hoàn toàn tê dại.
Trong lò sưởi bằng sắt đặt gần cửa ra vào đóng chặt bị phủ một liứp sương giá dày lấp lánh, ngọn lửa đã tắt từ lâu, ống thông hơi chỉ còn rực hồng lên như một tròng mắt bất động.
Nhưng ở đây, phía dưới hình như ấm hơn một chút. Trong bóng tối của toa xe, ánh hồi quang của than hồng rọi sáng yếu ớt lên các loại ủng bằng dạ, cà men, ba lô dùng để gối đầu nhô ra tua tủa trước lối đi. Anh chiến sĩ trực nhật Tri-bi-xốp nằm ngủ một cách không thoải mái ở cánh phản thấp ngay dưới chân các chiến sĩ, cả mái đầu anh ta cho đến tận chóp mũ lông thu vào trong cổ áo, tay đút vào tay áo.
– Tri-bi-xốp!-Cu-dơ-nét-xốp gọi và mở tấm cửa lò sưởi, từ trong lò phả ra hơi ấm nhè nhẹ.-Tắt ngấm cả rồi, Tri-bi-xốp!
Không có tiếng trả lời.
– Trực nhật, anh có nghe thấy không?
Tri-bi-xốp sợ hãi bật dậy, vẻ ngái ngủ, áo quần nhàu nát, chiếc mũ lông có tai xùm xụp và có dây buộc vào cằm. Con chưa tỉnh ngủ hẳn, anh ta định gạt chiếc mũ khỏi trán, tháo dây buộc và khẽ kêu lên một cách bẽn lẽn, ngơ ngác:
– Tôi có làm gì đâu! Có ngủ đâu. Đúng là tôi bị thiếp đi. Xin đồng chí trung úy tha lỗi cho! Chà, tê cứng hết cả người trong bóng tối như thế này!
– Đồng chí ngủ thiếp đi làm cả toa bị lạnh,-Cu-dơ-nét-xốp nói giọng trách móc.
– Nhưng mà thưa đồng chí trung úy, tôi vô tình, không cố ý,-Tri-bi xốp lắp bắp,-Tôi díp cả mắt lại…
Rồi không chờ lệnh của Cu-dơ-nét-xốp, với sự hăng hái quá mức, tựa hồ như đã không hề ngủ tí nào, anh ta vớ lấy thanh gỗ trên sàn, tì vào đầu gối bẻ gãy và loay hoay nhét những mảnh gỗ vụn vào lò. Khi làm việc đó anh ta khuỳnh khuỳnh tay và vai một cách vô nghĩa, như thể là anh ta bị ngứa ở mạng sườn, luôn luôn cúi người xuống, thành thạo nhìn vào ống thông hơi nơi ngọn lửa uể oải bập bùng lan đi; khuôn mặt hân hoan, ám muội than của Tri-bi-xốp tỏ vẻ xun xoe cố ý.
– Tôi sẽ làm cho ấm lên ngay bây giờ, đồng chí trung úy ạ! Chúng ta sẽ rực người lên y như vào nhà tắm hơi vạy. Chính tôi đã từng bị lạnh cóng trong chiến tranh đấy! Ôi chao, cóng ơi là cóng tưởng như từng mảnh xương nhỏ gãy vụn, thật không lời nào tả xiết!…
Cu-dơ-nét-xốp ngồi đối diện cánh cửa lò mở toang. Dầu sao anh vẫn thấy khó chịu trước vẻ lăng xăng quá quắt, cố ý của người trực nhật, đó là sự ám chỉ rõ rệt cái quá khứ của anh ta. Tri-bi-xốp vốn là người thuộc trung đội anh. Với sự cố gắng quá mức, luôn luôn được việc, anh ta đã sống mấy tháng trong trại tù binh Đức và ngay từ ngày đầu xuất hiện ở trung đội chừng như anh ta lúc nào cũng sẵn sàng phục dịch mọi người, tất cả những điều đó khiến người ta thương hại nhưng cảnh giác đối với anh ta.
Tri-bi-xốp nhẹ nhành ngả mình trên phản theo kiểu các bà, nhấp
nháy cặp mắt thiếu ngủ:
– Thế nghĩa là chúng ta đi Xta-lin-grát phải không, đồng chí trung úy? Cứ theo các bản tin thì đó là cái cối xay thịt khủng khiếp lắm đấy! Đồng chí có sợ không hả đồng chí trung úy? Không à?
– Đến nơi rồi ta sẽ thấy đó là một cối xay thịt như thế nào,-Cu-dơ nét-xốp nhìn chằm chằm vào ngọn lúa, uể oải đáp. Anh cảm thấy lúng túng khi nhận thấy vẻ chú ý dò hỏi trên khuôn mặt Tri-bi-xốp. Còn anh thế nào, sợ hả? Tại sao anh lại hỏi thế?
– Vâng, có thể nói là không sợ như trước đây,-Tri-bi-xốp trả lời một cách vui vẻ giả tạo và sau khi thở dài, anh ta đặt đôi bàn tay nhỏ nhắn lên đầu gối, bắt đầu nói bằng giọng tâm tình như muốn làm cho Cu dơ-nét-xốp tin:-Sau khi tôi được quân ta giải phóng khỏi trại tù binh, người ta tin cậy tôi, đồng chí trung úy ạ. Vậy mà tôi bị bó gối suốt ba tháng ròng ở chỗ bọn Đức, thật khổ nhục hơn con chó. Người ta đã tin cậy… Cuộc chiến tranh mới to lớn làm sa, đủ các hạng người khác nhau chiến đấu. Tin ngay làm sao được cơ chứ?-Tri-bi-xốp thận trọng liếc nhìn Cu-dơ-nét-xốp, anh im lặng, làm ra bộ bận tâm đến chiếc lò sưởi, sưởi hơi nóng ấm của nó, anh co và duỗi các ngón tay trên cửa lò sưởi để ngỏ.-Đồng chí có biết tôi bị bắt làm tù binh như thế nào không, đồng chí trung úy?… Tôi chưa từng nói với đồng chí, bây giờ tôi muón kể cho đồng chí nghe. Bọn Đức lùa chúng tôi vào trong một cái khe. Ở gần Vi-a-dơ-ma và khi xe tăng của chúng tiến sát tận nơi bao vây chúng tôi thì chúng tôi đến ngay lựu đạn cũng không còn, chính ủy trung đoàn leo lên nóc chiếc xe của mình, rút súng ngắn ra thét lớn: “Thà chết còn hơn để bọn rắn độc phát xít bắt làm tù binh!”- Và anh tự bắn vào mang tai mình. Máu phọt ra cả từ đầu anh. Còn bọn Đức từ khắp mọi phía chạy lại chỗ chúng tôi. Xe tăng của chúng nghiến nát mọi người. Trong đó có… một đại tá và những ai đó nữa… – Rồi sau đó ra sao? Cu-dơ-nét-xốp hỏi.
– Tôi không thể tự bắn vào mình được. Chúng dồn chúng tôi lại và gào lên: “Hande hoch!” (Giơ tay lên). Và chúng tôi bị giải đi… – Ra thế,-Cu-dơ-nét-xốp nói bằng giọng nghiêm chỉnh, giọng nói đó cho thấy rõ ràng là nếu ở vào địa vị Tri-bi-xốp chắc anh đã xử sự hoàn toàn khác hẳn.-Thế là, khi chúng hô lên “Hande hoch” thì anh lập tức hạ vũ khí ngay phải không Tri-bi-xốp? Vì anh có vũ khí cơ mà?
Tri-bi-xốp trả lời y như muốn tự bảo vệ bằng một nụ cười gượng gạo:
– Đồng chí còn trẻ lắm trung úy ạ, có thể là đồng chí chưa có gia đình, con cái. Chắc đồng chí chỉ có bố mẹ…
– Con cái thì dính gì đến việc này?-Cu-dơ-nét-xốp bối rối thốt lên và khi nhận thấy trên khuôn mặt Tri-bi-xốp vẻ nhận lỗi lặng lẽ, anh bèn nói thêm:-Cái đó chả có ý nghĩa gì cả.
– Sao lại không có ý nghĩa, đồng chí trung úy.
– À, có lẽ tôi chưa nói rõ… Tất nhiên là tôi chưa có con. Tri-bi-xốp già hơn anh khoảng hai chục tuổi, đó là “bố”, là “ba”, người nhiều tuổi nhất trong trung đội. Bác hoàn toàn phục tùng Cu dơ-nét-xốp trong công tác, tuy giờ đây Cu-dơ-nét-xốp vẫn luôn luôn nhớ đến hai khối vuông nhỏ mới trên cầu vai khiến anh nặng gánh trách nhiệm ngay sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan nhưng cứ mỗi lần trò chuyện với một người từng trải như Tri-bi-xốp, anh lại cảm thấy thiếu tự tin.
– Trung úy ở dưới đó đấy à, hay là tôi ngủ mê? Lò sưởi vẫn cháy đấy chứ?-một giọng nói khàn khàn vang lên trên đầu hai người. Nghe có tiếng lục đục ở phản phía trên, sau đó thượng sĩ U-kha nốp, chỉ huy khẩu pháo số một trong trung đội của Cu-dơ-nét-xốp nặng nề, như con gấu nhảy từ trên phản xuống cạnh lò sưởi. – Lạnh kinh khủng! Anh em ngồi sưởi đấy à!-U-kha-nốp ngáp dài, hỏi-Hay là đang kể chuyện cổ tích đấy?
Rung rung đôi vai nặng nề, gạt tà áo choàng, anh bước trên sàn tàu đu đưa đi tới phía cửa toa. Bằng một cánh tay anh dùng sức dịch cánh cửa nặng nề đang rung lên ầm ầm, áp mặt vào khe hở nhìn bão tuyết. Tuyết cuồn cuộn bay ngay vào toa xe, không khí lạnh xộc vào, hơi nước phải vào chân; cùng với tiếng sình sịch, tiếng rít lạnh cóng của các bánh xe, tiếng gầm man rợ, đe dọa của đầu tàu ùa vào toa xe.
– Chào, đêm tối như mực-chẳng thấy ánh lửa, chả thấy Xta-lin-grát đâu cả!-U-kha-nốp rung rung đôi vai thốt lên và đóng sập cánh cửa bịt sắt lại.
Rồi anh đập hai chiếc ủng vào nhau thật mạnh và chừng như ngạc nhiên về việc khua ủng đó, đi về phía lò sưởi đã rực; cặp mắt giễu cợt
trong sáng của anh hãy còn hùm hụp vì giấc ngủ, những hạt tuyết trắng đọng trên lông mày. Anh ngồi cạnh Cu-dơ-nét-xốp, xoa tay trên lò sưởi, rút túi đựng thuốc lá và sực nhớ tới điều gì đó, anh cười vang, để lộ chiếc răng cửa bịt bạc.
– Lại mê thấy chuyện ăn uống. Tôi cảm thấy không ra ngủ cũng không ra thức: chừng như có một thành phố nào đó trống rỗng còn tôi thì một mình… bước vào một cửa hiệu đã bị ném bom-bánh mì, đồ hộp rượu vang, giò chả bày trên các quầy… Hừ tôi nghĩ, bây giờ mình sẽ đả một trận! Chỉ có điều tôi lạnh cóng như một kẻ lang thang không cửa không nhà đến nỗi tôi bừng tỉnh dậy. Bực thật… Cả một cửa hàng hẳn hoi! Bác có hình dung được không hả bác Tri-bi-xốp.
Anh ta hướng không phải về phía Cu-dơ-nét-xốp mà về phía Tri-bi xốp, có ý ám chỉ rõ rằng trung úy chưa hiểu nổi những chuyện này. – Tôi không tranh cãi về giấc mộng của đồng chí, thượng sĩ ạ,-Tri bi-xốp đáp và mũi hít hít hơi ấm, như thể có mùi thơm của bánh mì tỏa ra từ lò sưởi vậy, bác e dè nhìn túi thuốc của U-kha-nốp-Ban đêm ấy mà, nếu hoàn toàn không hút thuốc thì có thể tiết kiệm được khối đấy. Hàng chục điếu ấy chứ.
– Bố là nhà ngoại giao cừ đấy!-U-kha-nốp nói, giúi túi thuốc vào tay Tri-bi-xốp.-Bác hãy cuốn lấy một điếu to bằng cổ tay ấy. Tiết kiệm cho ma nào mới được chứ? Để làm gì?-Anh rút thanh củi đang cháy châm thuốc hút, nhả khói rồi ấn thanh củi vào lửa-Ấy thế nhưng anh em ạ, ở ngoài mặt trận mà có ăn vẫn cứ tốt hơn. Với lại sẽ có chiến lợi phẩm nữa! Ở đâu có bọn Đức là ở đó có chiến lợi phẩm và khi đó bác Tri-bi
xốp ạ, ra chả cần phải xúm cả lại để vét nốt khẩu phần bổ sung của trung úy.-Anh nheo mắt lại, thổi vào điếu thuốc lá.-Thế nào đồng chí Cu-dơ-nét-xốp, trách nhiệm của người chỉ huy có nặng nề lắm không hả! Lính tráng nhẹ nhàng hơn-tự mình chịu trách nhiệm về mình. Đồng chí có tiếc là phải gánh vác quá nhiều anh em trên vai mình không?
– U-kha-nốp ạ, mình không hiểu sao người ta vẫn chưa phong quân hàm cho cậu?-Cu-dơ-nét-xốp nói, hơi bị chạm nọc vì giọng giễu cợt của U-kha-nốp.-Cậu có thể giải thích được chứ?
Anh đã cùng học xong trường pháo binh với thượng sĩ nhưng do những nguyên nhân khó hiểu, không ai được biết, người ta đã không cho U-kha-nốp dự thi tốt nghiệp và anh đã tới trung đoàn với cấp bậc
thượng sĩ, được biên chế vào làm chỉ huy một khẩu pháo ở trung đội một, điều này dẫu sao cũng khiến Cu-dơ-nét-xốp khá lúng túng. – Mình đã suốt đời mơ ước,-U-kha-nốp nhếch mép cười đôn hậu.- Anh đã hiểu sai về tôi đấy trung úy ạ… Giá được ngủ độ sáu trăm phút thì hay quá. Có thể lại nằm mơ thấy cửa hiệu chăng? Hả? Các cậu này, ngộ nhỡ có làm sao, các cậu hãy cứ coi như mình đi chiến đấu không trở về…
U-kha-nốp ném đầu mẩu thuốc vào lò sưởi, vươn người đứng dậy, nhấc đôi chân sột soạt, vừa gạt những người đang ngủ vừa nói: “Anh em ơi, dịch ra cho mình một khoảng để sống với nào”. Và chẳng mấy chốc ở trên đó đã hoàn toàn yên lặng.
– Có lẽ đồng chí cũng nằm nghỉ đi, trung úy ạ,-Tri-bi-xốp thở dài, khuyên nhủ.-Dẫu sao đêm chắc cũng ngắn thôi. Vì Chúa, xin đồng chí cứ yên tâm.
Khuôn mặt Cu-dơ-nét-xốp hừng hực hơi nóng lò sưởi, anh cũng đứng dậy, bằng một động tác đã được rèn luyện thành thạo, sửa lại bao súng ngắn, nói với Tri-bi-xốp với giọng ra lệnh:
– Tốt hơn cả là đồng chí hãy làm tròn trách nhiệm trực nhật của mình!
Nhưng nói xong, Cu-dơ-nét-xốp mới nhận thấy cái nhìn sợ sệt, lu sìu của Tri-bi-xốp, anh cảm thấy lối xẵng giọng của mình là vô lý-cái giọng ra lệnh mà người ta đã dạy cho anh trong sáu tháng ở trường sĩ quan và anh đã sửa lại một cách bất ngờ bằng giọng thủ thỉ:
– Chỉ xin bác làm sao để lò đừng tắt đấy nhé. Rõ không nào? – Thưa đồng chí trung úy, rõ. Xin đồng chí đừng lo. Chúc ngon giấc…
Cu-dơ-nét-xốp leo lên phản của mình, chỗ tối tăm không được sưởi ấm, lạnh ngắt, kêu ken két, rung bần bật vì con tàu chạy nhanh và anh cảm thấy ngay là mình lại bị cóng bởi gió lùa. Còn tiếng ngáy, tiếng khụt khịt của bộ đội vẫn vang lên từ mọi phía trong toa xe. Khẽ đẩy trung úy Đa-vla-chi-an đang nằm ngủ bên cạnh, ngái ngủ nấc lên, chặc lưỡi như trẻ con, Cu-dơ-nét-xốp hít thở trong cổ áo được kéo cao lên áp má vào lớp lông ẩm ướt đâm tua tủa, run rẩy duỗi người, đầu gối chạm phải mảnh sương giá lớn như cục muối đọng ở trên vách xe và chính vì thế lại càng cảm thấy lạnh hơn.
Mớ rơm ẩm ướt, lạo xạo dưới mình anh. Mùi sắt gỉ bốc lên từ các vách toa xe băng giá và từ ô cửa sổ xam xám bị tuyết lấp kín ở ngay trên đầu, làn khí lạnh mỏng manh, sắc nhọn phả ngày càng mạnh vào mặt anh.
Còn chiếc đầu tàu với tiếng rú dai dẳng và hung dữ xé toang màn đêm vẫn kéo đoàn tàu lao đi không ngừng qua những cánh đồng mênh mông tiến ngày càng gần hơn về phía mặt trận.
Chương hai
Cu-dơ-nét-xốp bừng tỉnh vì sự yên lặng, vì trạng thái yên tĩnh đột ngột khác thường và trong lúc hãy còn ngái ngủ, một ý nghĩ đã lởn vởn trong óc anh: “Đổ quân ra khỏi xe lửa đây! Chúng ta sẽ dừng lại! Tại sao họ không đánh thức mình dậy nhỉ?…”
Anh nhảy từ trên tấm phản xuống. Buổi sáng lạnh giá tĩnh mịch. Hơi lanh thổi vào toa xe qua cửa toa mở rộng; sau khi cơn bão tuyết lặng đi vào buổi sang, cảnh vật xung quanh im lìm, những đống tuyết bất tận nhấp nhô như những lượn sóng, trong suốt như gương kéo dài đến tận chân trời; mặt trời tròn xoe như một quả cầu đỏ nặng nề, không có tia sáng lơ lửng trên đầu; sương muối tan dần, lóe sáng chói chang, lấp lánh trong không trung.
Trong toa xe lạnh cóng chả còn ai. Rơm nhàu nát trên các tấm phản, những khẩu súng trường dựng chụm lại ánh lên màu đo đỏ, những chiếc ba lô mở tung lăn lóc trên các tấn ván. Còn ở gần toa xe có người vỗ bao tay đôm đốp, tuyết lép bép đanh chắc, tươi rói dưới gót giày. Trong cảnh tĩnh mịch lạnh cóng, mấy giọng nói vang lên:
– Thế Xta-lin-grát ở đâu anh em nhỉ?
– Hình như cánh mình xuống tàu hả? Chả có lệnh gì cả. Cánh mình còn kịp chén. Chắc không đi tàu đến tận nơi được. Này, anh em mình đã vác cặp lồng đi ra đằng kia rồi đấy.
Và còn có người lên tiếng giọng khàn khàn, vui vẻ:
– Chà! Trời trong veo, thế nào chúng nó cũng bay đến… Cầm chắc như thế!
Cu-dơ-nét-xốp nhanh chóng bứt ra khỏi cơn ngái ngủ, đi lại cửa toa và nheo mắt lại vì cái chói chang của sa mạc tuyết dưới ánh mặt trời, thậm chí anh nghẹt thở vì không khí lạnh giá rét buốt.
Đoàn tàu dừng lại trên thảo nguyên. Từng tốp chiến sĩ xúm xít trên đống tuyết do bão tuyết dồn lại ở gần toa xe; vỗ bao tay vào mạng sườn, chốc chốc lại quay người lại cùng ngóng về một phía.
Ở phía đó, quãng giữa đoàn tàu, các bếp đặt trên các toa đĩa nhả khói giữa ban mai ửng hồng lạnh lẽo, đối với chúng là ngôi nhà ga
đơn độc, chỗ đường tránh, phơi mái đỏ dịu dàng trong tuyết. Các chiến sĩ cầm cặp lồng chạy từ các toa xe về phía nhà bếp, phía nhà ga của đoạn đường tránh, trên đám tuyết quanh bếp, xung quanh cần kéo ở giếng nước chi chít những áo choàng, áo bông-tưởng chừng như cả đoàn tàu đi lấy nước để chuẩn bị bữa ăn sáng.
Mọi người vẫn trò chuyện cạnh toa xe.
– Chân tớ bị lạnh kinh khủng cậu ạ, tại đế giày đấy mà! Chắc phải đến 30 độ âm? Bây giờ giá được một căn nhà nhỏ ấm với lại một cô nàng bạo bạo một tí nhỉ, ấy thế là “Hoa hồng sẽ nở trong công viên Tra-ia…”.
– Cậu Nết-trai-ép này lúc nào cũng cứ một điệu. Ai nói gì thì nói còn cậu ta chỉ nói về các cô nàg thôi! Ở hải quân có lẽ họ nuôi cậu toàn bằng sô-cô-la cả cho nên cu cậu cứ bâu lấy con gái, dùng gậy cũng không xua đi được!
– Không nên thô lỗ thế anh bạn! Làm sao cậu có thể hiểu được chuyện đó? “Mùa xuân đến trên công viên Tra-ia…”. Chất làng quê đấy người anh em ạ.
– Gớm, đồ ngựa thiến! Lại vẫn cứ cái trò ấy!
– Tàu dừng lâu chưa?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, không hướng hẳn vào riêng ai và nhảy vụt xuống đám tuyết lạo xạo.
Trông thấy trung úy, các chiến sĩ vẫn không ngừng chen lấn nhau, giậm ủng, không đứng thẳng chào theo điều lệnh (“Lũ quỷ, đã nhờn rồi!”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ) họ chỉ ngừng trò chuyện trong chốc lát: sương giá óng ánh bạc trên lông mày, trên mũ lông và cổ áo bằng lông tất cả mọi người. Trắc thủ của khẩu pháo số một, hạ sĩ Nết-trai ép cao lớn, đanh chắc, vốn là thủy thủ vùng Viễn Đông, những nối ruồi mượt mà lộ rõ trên mặt, gò má đỏ xiên, ria mép sẫm màu, nói:
– Có lệnh không đánh thức đồng chí, trung úy ạ. U-kha-nốp bảo: đồng chí đã trực đêm. Cho tới lúc này cũng chưa có công việc gì phải làm gấp.
– Thế Đrô-dơ-đốp-xki đâu?-Cu-dơ-nét-xốp vẫn nheo mắt vì những tia sáng óng ánh trên các đống tuyết.
– Đang rửa tay, trung úy ạ,-Nết-trai-ép nháy mắt.
Cu-dơ-nét-xốp đã trông thấy đại đội trưởng, tuy Đrô-dơ-đốp-xki đã nổi bật bởi tư thế quân nhân tựa hồ như bẩm sinh của mình, dáng vẻ
oai nghiêm với khuôn mặt thanh tú xanh lướt-anh là học viên ưu tú trong sư đoàn, người được tất cả các vị chỉ huy yên mến. Lúc này anh cởi trần trùng trục, làm vài động tác thể dục mạnh mẽ, đi đi lại lại gần đống tuyết ngay trước mặt các chiến sĩ, rồi nghiêng người lặng lẽ lấy tuyết xát lên người. Làn hơi nhẹ tỏa ra từ nửa người mềm mại trẻ trung, từ vai tới bộ ngực nhẵn thín không có lông của anh; và cái cách anh rửa ráy, bốc tuyết cọ người có cái gì như cố ý khoe mẽ.
– Anh ấy làm đúng chứ có sao đâu,-Cu-dơ-nét-xốp nói một cách nghiêm chỉnh.
Nhưng, tuy biết rằng bản thân mình sẽ không làm như vậy, anh bỏ mũ đút vào túi áo choàng, mở khuy cổ và bước dịch ra xa toa xe, vớ lấy một cục tuyết cứng, sần sùi ở đỉnh đống tuyết, cảm thấy lạnh cóng, anh xát cục tuyết vào da, vào má, vào cằm đến phát đau lên.
– Lạ chưa kìa! Chị đến chỗ chúng tôi đấy à?-Anh nghe thấy giọng nói vui mừng quá mức của Nết-trai-ép.-Được gặp chị bọn tôi mừng quá! Toàn thể đội pháo chúng tôi chào mừng chị đấy, Dôi-e-sca ạ!
Khi rửa ráy Cu-dơ-nét-xốp nghẹt thở vì lạnh, vì mùi tuyết đắng nhạt nhẽo, anh vươn thẳng người, lấy lại hơi thở, đáng lẽ rút khăn mặt thì anh lại rút khăn mùi soa-anh không muốn quay lại toa xe-và lại nghe tiếng cười, tiếng nói ầm ĩ của chiến sĩ. Tiếp đó một giọng nói tươi tắn của phụ nữ vang lên sau lưng anh:
– Tôi không hiểu ở chỗ các đồng chí đang xảy ra chuyện gì đấy hả, các đồng chí khẩu đội một?
Cu-dơ-nét-xốp quay người lại. Nữ cứu thương Dôi-a Ê-la-ghi-na đã đứng ở gần toa xe giữa anh em chiến sĩ đang mỉm cười. Chị mặc chiếc áo choàng trắng đỏm dáng, đi đôi ủng trắng tươm tất, đôi tất tay thêu màu trắng, hoàn toàn không có dáng quâ nhân, toàn bộ con người cô vận quần áo mùa đông sạch sẽ như ngày hội, tựa hồ như từ một thế giới khác, yên tĩnh xa xôi tới. Dôi-a nhìn Đrô-dơ-đốp-xki bằng cặp mắt nghiêm khắc, cố nén tiếng cười. Còn anh không để ý đến cô, vẫn co duỗi người bằng những động tác thể dục, xát nhanh tuyết trên thân mình rắn chắc đã đỏ ửng lên, lấy bàn tay đập lên vai, lên bụng, hít thở, phồng căng lồng ngực lên, trông có vẻ kịch. Lúc này mọi người đều nhìn anh bằng cặp mắt như Dôi-a.
– Trung úy!-Dôi-a gọi bằng giọng sang sảng.-Dám xin hỏi: bao giờ
đồng chí chấm dứt thủ tục đó? Tôi muốn được gặp đồng chí. Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki rũ tuyết khỏi ngực và giữ vẻ mặt không tán thành của một người cảm thấy bị quấy rầy, tháo khăn mặt khỏi thắt lưng, miễn cưỡng cho phép:
– Chị cứ hỏi đi.
– Xin chào đồng chí đại đội trưởng!-Cô nói-Và khi đang dùng mùi soa lau mình, Cu-dơ-nét-xốp thấy đầu lông mày của cô lởm chởm những hạt sương giá khẽ rung lên.-Tôi cần gặp đồng chí. Tiểu đoàn của đồng chí có thể lưu tâm tới tôi không?
Đrô-dơ-đốp-xki thong thả vắt khăn mặt qua cổ, tiến về phía toa xe; đôi vai được cọ tuyết bóng lộn ánh len như sau khi được tắm hơi nước; mái tóc ngắn màu vang rơm ẩm ướt; anh vừa đi vừa oai nghiêm nhìn chiến sĩ tụ tập gần toa xe bằng cặp mắt lúc này đặc biệt xanh, hầu như trong suốt của mình. Vừa đi anh vừa buông xõng:
– Tôi đón ra rồi, đồng chí cứu thương ạ. Đồng chí đến kiểm tra tiểu đoàn theo điều 8 chứ gì? Anh em không có rận đâu.
– Dô-e-sca thân mến ạ,-hạ sĩ Nết-trai-ép nói đế vào, anh đưa cặp mắt dịu dàng nhìn chiếc áo choàng ngắn lịch sự sạch sẽ của Dôi-a, chiếc túi cứu thương cô đeo bên hông.-Ở tiểu đoàn chúng tôi mọi sự đều đâ vào đấy cả. Những con ký sinh trùng đó ban ngày chị có đốt đuốc lên tìm cũng không thấy. Đến không đúng chỗ rồi… Đêm qua chị ngủ được không? Không ai làm phiền chứ?
– Anh ba hoa nhiều thế Nết-trai-ép!-Đrô-dơ-đốp-xki cắt lời và đi ngang qua Dôi-a, chạy lên cầu thang nhỏ bằng sắt vào toa xe vừa đầy ắp anh em chiến sĩ từ nhà bếp trở về, đang náo động lên trước bữa ăn sáng, cháo nóng bốc hơi trong các cặp lồng, ba túi bánh khô có nhồi nhân và bánh mì. Theo lệ thường khi làm việc này, các chiến sĩ chen huých nhau, trải tấm áo choàng của ai đó trên tấm phản ở dưới thấp, chuẩn bị cắt bánh mì; những khuôn mặt tái nhợt vì lạnh tỏ ra chăm chú vào công việc nội trợ. Đrô-dơ-đốp-xki vừa mặc áo vừa ra lệnh:
– Yên lặng! Có nên thôi họp chợ đi không? Các chỉ huy hãy lấy lại trật tự! Trắc thủ Nết-trai-ép, anh đứng làm gì đấy? Anh hãy lo chuyện thực phẩm đi, hình như anh là tay chia cừ lắm! Người ta sẽ săn sóc nữ cứu thương không cần đến anh.
Hạ sĩ Nết-trai-ép gật đầu xin lỗi Dôi-a, bỏ vào trong toa xe, từ đó vọng ra tiếng nói của anh:
– Vì sao thế các bạn, chấm dứt ngay cái trò láo nháo này đi! Tại sao lại cứ ầm ầm lên như xe tăng ấy thế?
Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy ngượng nghịu vì những lời ra lệnh như vậy, vì Dôi-a đã trông thấy cảnh lăng xăng, ầm ĩ của anh em chiến sĩ bận bịu vào việc chia thực phẩm nên không để ý đến cô, anh muốn nói bằng giọng điệu táo tợn khiến chính bản thân anh cũng khiếp sợ: “Chị đi kiểm tra các trung đội chúng tôi quả thật là vô nghĩa. Nhưng thôi, chị đến chỗ chúng tôi là tốt rồi”.
Có lẽ anh sẽ chẳng bao giờ cắt nghĩa được rành rọt cho chính mình vì sao hầu như cứ mỗi lần Dôi-a xuất hiện tại tiểu đoàn là tất cả mọi người lại đâm ra có cái vẻ tầm thường, đáng ghét, như cái vẻ của chính anh lúc này, cái vẻ suồng sã kiểu đóng kịch, ngầm ám chỉ rằng việc cô tới đây dường như đã bộc lộ cho mỗi người thấy một điều gì đó, tựa hồ như người ta có thể đọc thấy trên khuôn mặt hơi ngái ngủ, đôi khi trên những quầng mắt thâm, trên đôi môi của cô một cái gì đó hứa hẹn, tội lỗi, bí ẩn đã có thể xảy ra giữa cô với các bác sĩ trẻ ở toa quân y, nơi cô sống phần lớn thời gian của cuộc hành trình. Nhưng Cu-dơ-nét-xốp đã đoán ra rằng, ở mỗi trạm dừng chân cô đều đến tiểu đoàn không phải chỉ để kiểm tra vệ sinh. Anh tưởng như cô tìm cách làm quen với Đrô-dơ-đốp-xki.
– Ở khẩu đội mọi việc đều đâo vào đấy cả Dôi-a,-Cu-dơ-nét-xốp lên tiếng.-Chả cần phải kiểm tra gì đâu. Hơn nữa lại đang ăn sáng. Dôi-a nhún vai.
– Toa đặc bi-iệt gơ-ớm! Và chằng có một lời phàn nàn nào. Các anh đừng làm bộ ngây thơi, cái đó không hợp với các anh đâu!-Cô nói, dướn mi mắt lên xét nét Cu-dơ-nét-xốp, mỉm cười một cách kỳ lạ.-Cò trung úy Đrô-dơ-đốp-xki đáng yêu của anh thì tôi nghĩ rằng sau các thứ liệu pháp đáng ngờ này, anh ấy đang tỏ ra là mình hiện ở bệnh viện chứ không phải ở tiền tuyến!
– Một là, anh ấy không phải là người đáng yêu của tôi-Cu-dơ-nét xốp đáp.-Hai là…
– Cám ơn Cu-dơ-nét-xốp về sự trung thực. Còn hai là? Hai anh nghĩ về tôi thế nào?
Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki đã mặc quần áo xong xuôi, siết chặt áo choàng bằng chiếc dây lưng có đeo lủng lẳng bao súng ngắn mới, nhẹ nhàng nhảy xuống dưới tuyết, đưa mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp, nhìn Dôi-a rồi thong thả nói tiếp:
– Đồng chí cứu thương, đồng chí muốn nói là tôi giống một tên đào ngũ hả?
Dôi-a ngửa đầu ra, vẻ thách thức:
– Có thể là như thế… Ít ra thì cũng không loại trừ khả năng đó. – À ra thế!-Đrô-dơ-đốp-xki tuyên bố thẳng thừng.-Cô không phải là cô giáo, còn tôi không phải la anh học trò. Tôi yêu cầu cô đi về toa quân y. Rõ chưa?… Trung úy Cu-dơ-nét-xốp ở lại thay tôi. Tôi lên chỗ sư đoàn trưởng.
Mặt hầm hầm, Đrô-dơ-đốp-xki đưa tay lên mang tai. Nịt chặt người bằng chiếc dây lưng và chiếc đai chéo mới, và bằng dáng đi mềm mại, uyển chuyển của một chiến binh cừ khôi, anh sải bước giữa các chiến sĩ đang náo nhiệt tụ tập dọc đường ray. Họ giãn ra cho anh đi, chỉ cần thấy mặt anh là họ im lặng, còn anh vừa bước đi vừa như thể dùng cái nhìn để giãn mọi người ra đồng thời khẽ khoát tay một cách tuềnh toàng để đáp lại những lời chào. Mặt trời nằm giữa những quầng sáng lạnh giá lơ lửng trên thảo nguyên trắng toát chói chang. Vẫn như trước đây đám đông dày đặc tụ tập xung quanh giếng rồi lại tản ra ngay; người ta đến đó lấy nước và rửa ráy, bỏ mũ ra, vừa kêu ồ, à, phì phì, vừa rúm người lại; sau đó người ta chạy tới những cái bếp đặt ở giữa đoàn tàu đang nhả khói vẫy gọi, vô luận thế nào họ cũng đi vòng để tránh nhóm các sĩ quan chỉ huy của sư đoàn đang ngồi gần một toa hành khách bị phủ sương muối.
Đrô-dơ-đốp-xki đi tới chỗ nhóm sĩ quan đó.
Cu-dơ-nét-xốp thấy Dôi-a với vẻ mặt bất lực thế nào ấy dõi theo anh ta bằng cặp mắt mở to, hơi hiếng của mình. Anh hỏi: – Có lẽ chị sẽ ăn sáng với chúng tôi chứ?
– Gì cơ?-Cô lơ đãng hỏi.
– Đồng chí trung úy ơi! Đông cứng hết cả rồi! Chúng tôi đang đợi đồng chí.-Nết-trai-ép từ cửa to xe hét to.-Có món cháo đậu nghiền.- anh vừa nói thêm vừa dùng cùi dìa múc cháo trong cặp lồng và liếm ria mép.-Tuyệt lắm nếu như không phát nghẹn lên!
Đằng sau lưng anh, các chiến sĩ ồn ào, chia khẩu phần trên chiếc áo choàng trải rộng, một só to vẻ hả hê chế giễu, số khác cau có ngồi tản ra trên các phản, ngoáy thìa vào cặp lồng, bập răng vào những mảnh bánh mì đen lạnh cứng. Và bây giờ chả còn ai chú ý tới Dôi-a nữa cả.
– Tri-bi-xốp!-Cu-dơ-nét-xốp gọi.-Này đưa cặp lồng của tôi cho cô cứu thương!
– Cô em!… sao lại thế hả cô?-Tri-bi-xốp hưởng ứng bằng một giọng nói du dương.-Ở chỗ bọn tôi có thể nói là vui đấy chứ? – Vâng… vui,-cô lơ đãng nói.-Có lẽ… Hẳn rồi, trung úy Cu-dơ-nét xốp ạ. Tôi chưa ăn sáng. Chỉ có điều… tại sao lại lấy cặp lồng của anh? Thế còn anh?
– Tôi ăn sau. Tôi sẽ không đói đâu.-Cu-dơ-nét-xốp đáp. Vừa nhai ngấu nghiến, Tri-bi-xốp vừa bước lại phía cửa toa như cố ý một cách quá quắt phô trương bộ mặt râu ria lởm chởm của mình nhô ra khỏi cái cổ áo dựng lên; khổ người gày gò, bé nhỏ của bác bơi trong chiếc áo choàng ngắn cũn cỡn rộng thùng thình lạ lùng, bác gật đầu ra hiệu cho Dôi-a như trong trò chơi của trẻ em với một vẻ cảm thông nhã nhặn.
– Leo lên đây cô em! Có sao đâu!...
– Tôi sẽ ăn một chút ở cặp lồng của anh,-Dôi-a nói với Cu-dơ-nét xốp.-Chỉ có điều là ăn cùng với anh. Nếu không tôi sẽ… Các chiến sĩ húp cháo soàm soạp, tóp tép, và sau mấy thìa cháo nóng đầu tiên, sau máy ngụm nước nóng pha đường họ lại bắt đầu chằm chằm nhìn Dôi-a một cách tò mò. Mở cổ chiếc áo choàng ngắn mới, để lộ cái cổ trắng, cô thận trọng múc thức ăn trong chiếc cặp lồng của Cu-dơ-nét-xốp đặt trên đầu gối, mắt nhìn xuống trước bao con mắt đổ dồn về phía cô.
Cu-dơ-nét-xốp ăn cùng với cô, cố không nhìn xem cô cầm thìa đưa lên môi một cách gọn ghẽ như thế nào, cổ họng cô chuyển động khi nuốt ra sao; hàng lông mi cụp xuống bị ẩm vì sương giá tan, dính lại, đen nhánh, che giấu ánh mắt bộc lộ sự xúc động của cô. Ngồi bên lò sưởi cháy rực cô cảm thấy nóng. Cô bỏ mũ lông, mái tóc màu hạt dẻ xõa trên chiếc cổ áo bằng lông màu trắng và không có mũ, cô bỗng trở nên yếu đuối đáng thương ngay với gò má cao cao, miệng rộng,
khuôn mặt chăm chú như trẻ con, thậm chí bẽn lẽn, nổi bật một cách kỳ quặc giữa anh em pháo thủ vã mồ hôi và mặt đỏ bừng vì mới ăn xong; lần đầu tiên Cu-dơ-nét-xốp nhận thấy cô không đẹp. Trước đây chưa bao giờ anh nhìn thấy cô không đội mũ.
– Hoa hồng nở trong công viên Trai-ia, mùa xuân đến trong công viên Trai-ia…
Hạ sĩ Nết-trai-ép choãi chân đứng ở lối đi, cuộn một điếu thuốc sau khi uống nước, khe khẽ vừa hát vừa nhếch mép cười trìu mến nhìn Dôi-a, còn Tri-bi-xốp đặc biệt ân cần rót một ca nước chè đầy đưa cho cô. Cô đỡ ca nước nóng bằng đầu ngón tay, bối rối nói:
– Cám ơn bác Tri-bi-xốp.-Cô ngước cặp mắt ươn ướt lóng lánh nhìn Nết-trai-ép.-Hạ sĩ này, anh hãy nói cho biết những hoa hồng với công viên ấy là thế nào? Tôi không hiểu tại sao anh cứ luôn hát như thế?
Các chiến sĩ xôn xao, cổ vũ, khuyến khích Nết-trai-ép: – Nào trả lời đi, hạ sĩ, thành chuyện rồi đấy. Những bài hát ấy từ đâu ra?
– Vla-đi-vốt-xtốc,-Nết-trai-ép mơ mộng đáp.-Tờ giấy phép để lên bờ, nơi khiêu vũ-và “Trong công viên Trai-ia…”. Tôi đã phục vụ ba năm, lúc nào cũng được nghe bài tăng gô đó. Đáng mê lắm Dôi-a, các cô gái ở Vla-đi-vốt-xtốc ấy mà-đều như những nữ hoàng, những vũ nữ ba lê cả! Tôi sẽ nhớ suốt đời.
Anh sửa lại chiếc khóa thắt lưng hải quân, đưa cánh tay làm động tác như thể ôm người bạn nhảy, bước đi một bước, uốn éo hông và hát:
– Mùa xuân đến trong công viên Trai-ia… Mơ thấy những bím tóc vàng của em…. tra-pa-pa-pia-pa-pi…
Dôi-a cười to gượng gạo.
– Những bím tóc vàng… Những bông hồng. Những từ khá là tầm thường, hạ sĩ ạ… Các nữ hoàng và các vũ nữ ba lê. Thế chả lẽ có lúc anh trông thấy các nữ hoàng à?
– Qua khuôn mặt của cô, thật đất. Cô có khuôn mặt của một nữ hoàng,-Nết-trai-ép mạnh dạn nói và nháy mắt với các chiến sĩ. “Hắn chế giễu cô ấy để làm gì thế nhỉ?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-Sao
trước đây mình không nhận thấy cô ấy không đẹp nhỉ?” – Nếu như không có chiến tranh-Ồ. Dôi-a, cô đánh giá thấp tôi đấy,-chắc tôi sẽ bắt cóc cô trong đêm tối, lấy tắc xi chở cô đến một nơi nào đó, chắc tôi đã ngồi trong một khách sạn ngoại ô, dưới chân cô cùng với một chai rượu sâm banh, như ngồi trước mặt nữ hoàng… Và lúc đó-muốn ra sao thì ra! Cô đồng ý chứ hả?
– Đi bằng tắc xi à? Lãng mạn thật,-chờ cho mọi người ngớt tiếng cười, Dôi-a nói.-Tôi chưa trải qua bao giờ.
– Với tôi chắc cô sẽ được nếm mùi tất cả…
Hạ sĩ Nết-trai-ép nói điều đó như thể nửa đùa cợt, cặp mắu màu nâu ve vuốt Dôi-a nhưng Cu-dơ-nét-xốp đã cảm thấy sự châm chọc lộ liễu trong những lời nói đó, anh nghiêm khắc cắt ngang ngay:
– Chuyện tào lao đủ rồi đấy Nết-trai-ép! Anh nói huyên thuyên quá! Khách sạn ở đây là cái quái gì! Nó có liên quan gì?… Uống nước đi Dôi-a.
– Anh buồn cười thật,-Dôi-a nói và tựa như nỗi đau thể hiện trong nếp nhăn mờ trên vầng trán trắng của cô.
Đầu ngón tay cô vẫn cầm ca nước nóng để trước môi nhưng cô không uống từng ngụm nhỏ như trước đây; và nếp nhăn sầu muộn đó, tưởng như xuất hiện trên làn da trắng, không mất đi, không phẳng ra trên vầng trán của cô. Dôi-a đặt ca nước lên lò sưởi và hỏi Cu-dơ nét-xốp với một vẻ táo tợn cố ý:
– Anh nhìn gì dữ vậy? Anh tìm gì trên khuôn mặt của tôi? Muội khói lò sưởi chăng? Hay là cũng như Nết-trai-ép, anh nhớ tới những nữ hoàng bỉ ổi nào đó?
– Về các nữ hoàng tôi chỉ đọc thấy trong các chuyện cổ tích dành cho trẻ em,-Cu-dơ-nét-xốp đáp và chau mày để che giấu sự lúng túng vì câu hỏi bất ngờ.-Tôi không trông thấy họ ở trong đời. – Tất cả các anh đều buồn cười thật,-cô nhắc lại.
– Thế cô bao nhiêu tuổi hả Dôi-a, mười tám hả?-Nết-trai-ép quan tâm thử đoán.-Nghĩa là, như người ta nói trong hải quân, cô đã ra khỏi triền đà vào tuổi hăm tư? Tôi hơn cô bốn tuổi Dô-e-sca ạ. Khác nhau cơ bản đấy.
– Không, anh không đoán được đâu,-cô mỉm cười nói.-Tôi ba mươi
tuổi, đồng chí triền đà ạ. Ba mươi tuổi cộng thêm ba tháng. Khuôn mặt rám nắng của hạ sĩ Nết-trai-ép tỏ vẻ ngạc nhiên cao độ, anh thốt lên bằng cái giọng có ý đùa cợt:
– Thế chả lẽ cô muốn mình ba mươi thật ư? Thế mẹ cô bao nhiêu tuổi nào? Bà cụ giống cô chứ? Xin cô cho tôi được biết địa chỉ của bà.-Anh ta mỉm cười, nhếch hàng ria mép thưa trên hàm răng trắng lóa.-Tôi sẽ từ mặt trận viết thư cho bà cụ. Chúng tôi sẽ trao đổi ảnh.
Dôi-a lướt nhanh mắt nhìn vóc dáng đanh chắc của Nết-trai-ép và nói bằng giọng run run:
– Những nơi khiêu vũ đã nhồi nhét cho anh biết bao điều tầm thường! Địa chỉ ư? Thì đay: thành phố Pê-rê-mư-xlơ, nghĩa trang số 2 của thành phố. Anh ghi lại hay nhớ lấy? Sau năm bốn mươi mốt tôi không còn bố mẹ,-cô nói nốt một cách tàn tệ.-Nhưng anh biết không, Nết-trai-ép, tô có chồng… Sao các ngài lại nhìn tôi như thế? Thật đấy anh em ạ, quả thật là như thế? Tôi có chồng…
Tất cả lặng đi. Anh em chiến sĩ đã lắng nghe cuộc trò chuyện bây giờ không còn đồng tình cổ vũ trò nghịch tếu của Nết-trai-ép nữa, họ ngừng ăn và cùng lúc tất cả đều quay lại phía Dôi-a. Hạ sĩ Nết-trai-ép rít điếu thuốc lá, với vẻ ngờ vực ghen tuông nhìn chằm chằm vào mặt Dôi-a đang ngồi cụp mắt xuống, hỏi:
– Nếu không phải là chuyện bí mật thì chồng cô là ai nào? Có thể là chỉ huy trung đoàn chăng? Hay là như người ta đồn đại, cố thích trung úy Đrô-dơ-đốp-xki của chúng tôi?
“Điều đó cố nhiên là không đúng rồi,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, anh cũng không tin vào lời của cô.-Bây giờ cô ấy bày ra đủ chuyện. Cô ấy không có chồng. Và không thể có được”.
– Thôi đủ rồi, Nết-trai-ép!-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Đừng đưa ra những câu hỏi ngớ ngẩn nữa! Anh cứ như cái đĩa hát bị hỏng ấy. Anh không nhận thấy à?
Và anh đứng dậy, rời khỏi chỗ Dôi-a, đưa mắt nhìn khắp toa, nhìn những cụm súng xếp chụm lại, khẩu súng máy Đ.P đặt ở dưới chân cụm súng trường; trông thấy trên phản còn một cặp lồng cháo nguyên vẹn, một khẩu phần bánh mì, mẩu đường trắng đặt trên mảnh báo, anh hỏi:
– Thượng sĩ U-kha-nốp đâu?
– Ở chỗ chuẩn úy, thưa đồng chí trung úy,-chiến sĩ Ca-xư-mốp, trẻ tuổi người Ca-dắc ngồi xếp chân bằng tròn ở phản trên, đáp.-Anh ấy bảo: cứ lấy cặp lồng và bánh mì cho anh ấy, rồi anh ấy sẽ về.
Ca-xư-mốp mặc chiếc áo bông ngắn, quần bông, anh lặng lẽ nhảy từ trên phản xuống, xỏ bừa chân vào đôi ủng, đôi mắt ti hí bừng sáng lên:
– Tôi đi tìm anh ấy nhe, đồng chí trung úy?
– Không cần. Anh ăn sáng đi, Ca-xư-mốp ạ!
Tri-bi-xốp thở dài rồi chả hiểu sao anh thốt lên bằng giọng du dương phấn chấn:
– Cô em này, chồng cô tính tình có cáu bẳn không? Chắc là con người nghiêm túc lắm nhỉ?
– Cám ơn lòng mến khách của trung đội một!-Dôi-a lắc lắc mái tóc và mỉm cười, hàng lông mày giãn ra, đội chiếc mũ mới bằng lông thỏ, sửa lại mớ tóc dưới mũ.-Hình như người ta cho đầu tàu đến rồi. Các anh có nghe thấy không?
– Chỉ còn chặng đường cuối cùng này nữa là tới mặt trận và thế là xin chào, này bọn Đức, chúng bay có khách đến thăm đấy!-Có người nói vọng từ phản trên xuống và cười vang gượng gạo.
– Dôi-e-sca cô đừng bỏ chúng tôi mà đi, thật đấy! Nết-trai-ép nói.- Cô cứ ở lại trong toa chúng tôi. Cô lấy chồng làm gì? Nhất là lại đang lúc chiến tranh!
– Có lẽ người ta đưa tới hai đầu tàu,-Người có giọng khàn khàn vì hút thuốc lại từ phản trên đưa tin.-Bây giờ ta sẽ đi rất nhanh. Đây là chặng dừng chân cuối cùng. Thế rồi-Xta-lin-grát.
– Thế ngộ đây không phải là chặng cuối cùng? Có thể là ở đây chứ?…
– Miễn sao nhanh nhanh lên!-Cu-dơ-nét-xốp nói.
– Đầu tàu đâu nào! Các cậu điên à?-Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép, một hạ sĩ đứng tuổi, rất tháo vát, nói to sau khi uống nước chè trong ca và anh nhảy bổ ra nhìn ra cửa toa xe.
– Gì ở ngoài thế ấy hả, Ep-xtích-nê-ép?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi to.-Có lệnh à?
– Và khi xoay người lại anh trông thấy mái đầu to bù xù của viên
hạ sĩ, những đôi mắt lo lắng ngước nhìn lên trời nhưng không nghe tiếng trả lời. Súng phòng không từ hai đầu đoàn xe lửa bắn lên. – Anh em ơi, hình như đã đến lúc rồi!-Một người kêu lên, nhảy từ phản xuống.-Chúng nó đã bay đến!
– Đầu tàu của cậu đấy! Có cả bom nữa…
Giữa tiếng súng phòng không dồn dập, tiếng ầm ĩ khe khẽ, ngày càng nhích gần, xói vào tai, tiếp đó tiếng rít của từng cặp súng máy toang bầu không khí trên đoàn tàu-và có mấy tiếng kêu báo hiệu từ thảo nguyên vọng vào trong toa: “Báo động phòng không! Máy bay Mét-xéc-smit! “Trắc thủ Ep-xtích-nê-ép vứt chiếc ca lên phản, lao tới cụm súng, xô Dôi-a ra cửa trong khi các chiến sĩ ở xung quanh nháo nhác nhảy từ phản xuống, vớ lấy súng ở các cụm súng. Trong nháy mắt, một ý nghĩ lóe lên trong đầu Cu-dơ-nét-xốp: “Miễn là bình tĩnh. Mình sẽ ra sau cùng!” Và anh ra lệnh:
– Tất cả ra khỏi toa.
Hai khẩu súng phòng không của đoàn tàu bắn ầm ầm gần đến mức những tiếng nổ dồn dập của chúng xoáy vào tai. Tiếng rú ngày càng to của động cơ máy bay và những loạt đạn của chúng vãi đều đều ở trên đầu, trên nóc toa xe.
Khi lao tới cửa toa mở toang, Cu-dơ-nét-xốp trông thấy anh em chiến sĩ xách súng trường nhảy xuống tuyết chạy tản ra trên thảo nguyên trắng toát loáng ánh mặt trời. Cảm thấy hơi ớn lạnh ở bụng, chính anh cũng nhảy ra khỏi toa xe, vọt lên mấy bước tới một mô tuyết lớn, sườn màu xanh, đang chạy anh nằm sấp xuống một cạnh một ai đó, cảm thấy tiếng rít của không khí xuyên nhói vào gáy mình. Tuy phải chật vật mới khắc phục nổi sức nặng khốn khiếp đè lên gáy, anh vẫn cứ ngẩng đầu lên.
Trên bầu trời mùa đông mênh mông trong xanh lạnh lẽo, ba chiếc “Mét-xéc-smit” lao xuống phía đoàn tàu, phơi tấm thân bằng đuya-ra óng ánh và những nắp buồng lái bằng chất plê-xi-gla sáng dưới nắng.
Những làn đạn phòng không sáng trắng dưới ánh mặt trời liên tục nã lên máy bay từ phía cuối và giữa đoàn tàu rồi rơi lả tả như những cái chấm, còn thân những chiếc máy bay tiêm kích vươn dài như những cái trục ngày càng lao nghiêng, dựng đứng, vừa lao xuống chúng vừa nã súng máy xối xả và đại bác bắn nhanh. Đạn vẽ thành
đường cầu vồng dày đặc lơ lửng ở bên trên và bên cạnh các toa xe, nơi mọi nguời vẫn chạy xa ra.
Chiếc máy bay đầu tiên lấy lại thăng bằng ngay phía trên nóc các toa xe và bay lướt dọc đoàn tàu, hai chiếc kia bay theo nó. Ở đằng trước, phía đầu tàu tiếng bom nổ rung chuyển không trung, làm bắn tung những cuộn tuyết, những chiếc máy bay đột ngột lên cao, quay ngoắt về phía mặt trời, xuống thấp rồi lại lao về phía đoàn tàu.
“Chúng nhìn rõ tất cả bọn mình,-Cu-dơ-nét-xốp chợt nghĩ,-Cần phải làm cái gì chứ!”
– Bắn!… Bắn máy bay bằng súng trường!-Anh quỳ trên đầu gối, ra lệnh và trông ngay thấy ở phía bên kia mô tuyết mái đầu Dôi-a ngẩng lên, lông mày cô nhíu lại ngạc nhiên, cặp mắt mở to trừng trừng. Anh thét gọi cô:-Dôi-a, chạy vào thảo nguyên đi! Cô hãy bỏ xa các toa xe!…
Nhưng cô im lặng cắn môi, nhìn đoàn tàu, nơi đang xảy ra chuyện gì đó và anh cũng nhìn về phía ấy. Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki chạy vọt qua các đống tuyết ở sát ngay toa xe, chiếc áo choàng hẹp bó khít lấy người anh và anh kêu thét gì đó không rõ. Đrô-dơ-đốp-xki nhảy vọt qua cửa mở rộng vào toa xe của mình và ôm khẩu súng máy với băng đạn nhảy ra. Sau đó anh chạy khỏi đoàn tàu, nằm trên tuyết cách Cu dơ-nét-xốp khoảng chục mét, hết sức hối hả cắm càng khẩu Đ.P lên đỉnh mô tuyết. Và sau khi lắp băng đạn vào ổ súng, anh nã một băng dài vào những chiếc máy bay tiêm kích đang từ trời xanh lao xuống, làm chấn động không gian bằng những tiếng nổ loạn xạ.
Loạt đạn bắn thẳng nhằm vào mặt đất ào tới gần, xới tung tuyết lên. Tiếng đạ nổ lộng óc, tiếng động cơ máy bay chói tai dội vào đầu Cu-dơ-nét-xốp, ánh ngũ sắc làm chói mắt anh một cách kỳ lạ như trong kính vạn hoa. Bụi băng do các loạt súng máy xới tung lên từ đụn tuyết đập vào mặt anh. Những vỏ đạn cỡ to tung ra, bật xuống tuyết trong cảnh náo động mịt mù bao phủ các đụn tuyết trong chốc lát. Những điều kỳ lạ hơn cả là Cu-dơ-nét-xốp đã kịp nhìn thấy đầu tên giặc lái đội mũ trong như quả trứng ngồi trong khoang lái bọc chất plê xi-gla của chiếc máy bay Mét-xéc-smit.
Sau khi lao xuống rú động cơ ầm ầm, những chiếc máy bay lại
ngóc lên cách mặt đất ít mét, lấy thăng bằng rồi lại nhanh chóng vươn cao trên thảo nguyên.
– Vô-lô-đi-a!… Đứng đứng dậy! Đợi đấy!…-Anh nghe thấy tiếng thét không xa mình và lập tức trông thấy Đrô-dơ-đốp-xki vứt băng đạn rỗng, toan đứng lên còn Dôi-a thì ôm chặt, áp ngực vào anh ta, không buông anh ta ra.-Vô-lô-đia! Em xin anh!…
– Cô không thấy băng đạn đã hết à!-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, nghiêng mặt, đẩy Dôi-a, bứt cô ra khỏi mình.-Đừng cản trở tôi! Đừng cản trở tôi, bảo mà!
Anh gỡ tay cô ra, chạy về phía toa xe còn cô bối rối nằm trên tuyết, vừa lúc ấy Cu-dơ-nét-xốp bò sát tới chỗ cô.
– Gì thế? Súng máy làm sao?
Cô ngước mắt nhìn và vẻ mặt của cô lập tức thay đổi, trở nên khiêu khích, khó chịu:
– A, trung úy Cu-dơ-nét-xốp đấy à? Tại sao anh không bắn máy bay? Anh nhát gan à? Một mình Đrô-dơ-đốp-xki bắn thôi à?… – Bắn bằng cái gì? Bằng súng ngắn ư?… Cô cho là như thế hả? Cô không trả lời anh.
Những chiếc máy bay tiêm kích lại lao xuống phía trước đoàn tàu, lượn tròn phía trên đầu máy và hai toa đã bốc cháy ở phía đó. Những lưỡi lửa phụt ra từ các cửa toa mở toang lan đến nóc tàu. Và đám khói đó, những nóc tàu bén lửa, đám máy bay Mét-xéc-smit cứ dai dẳng lao xuống, tất cả những cái đó đã gây cho Cu-dơ-nét-xốp cảm giác bất lực nhoi nhói phát lợm và bỗng nhiên anh tưởng như ba chiếc máy bay kia sẽ không bay đi chừng nào chúng chưa phá hủy tan tành, chưa đốt cháy hết cả đoàn tàu.
“Không, lúc này chúng hết đạn rồi,-Cu-dơ-nét-xốp cố làm cho mình yên tâm.-Bây giờ mọi việc sẽ kết thúc…”.
Nhưng những chiếc máy bay tiêm kích đã lượn vòng và lại bay là là sát đất dọc đoàn tàu.
– Cứu thư-ơng! Y-ta-á!-Có tiếng kêu to từ phía những con tàu đang cháy và mấy bóng người tất tả, rối rít ở phía trước, kéo theo một người nào đó trên tuyết.
– Người ta gọi tôi.-Dôi-a nói và bật dậy, đưa mắt nhìn các khuôn
cửa toa xe mở rộng, khẩu súng máy cắm trên đụn tuyết.-Anh ấy đâu rồi hả anh Cu-dơ-nét-xốp? Tôi đi đây. Anh bảo anh ấy là tôi ở đằng kia nhé…
Anh không có quyền chặn cô lại còn cô vừa giữ túi cứu thương vừa bước nhanh, sau đó cô chạy trên thảo nguyên về phía đám cháy, mất hút sau các đụn tuyết.
– Cu-dơ-nét-xốp!… Cậu đấy à?
Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki vọt tiến từ các toa xe ra, nằm khuỵu xuống cạnh khẩu súng máy, lắp băng đạn mới vào ổ. Khuôn mặt mảnh mai, nhợt nhạt của anh đanh lại một cách dữ tợn.
– Chúng đang giở trò gì đây, quân súc sinh! Dôi-a đâu? – Ở phía trước có người bị thương,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, ấn mạnh càng súng máy xuống lớp tuyết cứng.-Chúng nó lại mò đến… – Quân khốn kiếp… Tôi hỏi cậu, Dôi-a đâu?-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, tì vai vào khẩu súng máy và khi đám máy bay Mét-xéc-smit chiếc nọ nối tiếp chiếc kia lao vun vút xuống thảo nguyên, mắt anh thu hẹp lại, đôi con ngươi như những chấm đen lạnh giá giữa màu xanh trong suốt.
Khẩu súng phòng không ở cuối đoàn tàu đã im bặt.
Đrô-dơ-đốp-xki nã một tràng dài vào khối kim loại vươn dài của chiếc máy bay tiêm kích đi đầu lóe sáng trên đầu anh và không rời ngón tay khỏi cò súng cho tới lúc thân chiếc máy bay cuối cùng thấp thoáng như một lưỡi dao cạo chói lóa.
– Trúng rồi!-Đrô-dơ-đốp-xki thét lên, giọng nghẹn lại.-Cậu có trông thấy không, Cu-dơ-nét-xốp? Mình bắn trúng rồi!… Mình không thể nào không bắn trúng được!…
Còn những chiếc máy bay tiêm kích đã lại bay sát mặt đất chừng hai chục mét, xé rách không trung bằng những loạt đạn súng máy cỡ lớn và đường đạn tựa hồ như những ngọn giáo thọc mũi nhọn vào những thân người rải rác trên mặt tuyết, vần vò họ trên những dải tuyết hẹp. Mấy chiến sĩ của các khẩu đội bên cạnh không chịu được súng bắn từ trên không xuống, nhảy bổ lên, chạy nháo nhào phía dưới những máy bay tiêm kích, lao đi khắp các phía. Sau đó một người ngã xuống, gượng bò đi rồi gục xuống, tay duỗi về phía trước. Một người khác chạy ngoắt ngoéo theo hình chữ chi, đưa mắt man rợ
nhìn khi thì sang trái khi thì sang phải và những làn đạn của chiếc máy bay đang lao xuống đã bắn chéo vào người anh, xuyên suốt người anh từ trên đầu xuống như một sợi dây thép nung đỏ; người lính nằm dài trên tuyết, tay huơ lên như hình chữ thập và cũng chết; chiếc áo bông bốc cháy trên mình anh.
– Thật là vớ vấn! Vớ vẩn! Đúng ngay trước mặt trận!…-Đrô-dơ đốp-xki gào lên rứt băng đạn thứ hai đã rỗng ra khỏi ổ súng. Cu-dơ-nét-xốp quỳ lên, ra lệnh cho các chiến sĩ đang bò ở phía sau những đụn tuyết:
– Không được chạy! Không ai được chạy, nằm xuống!… Và lập tức anh nghe rõ mệnh lệnh của mình, giọng nói của mình sang sảng vang lên trong sự yên tĩnh khó hiểu. Súng máy không nhả đạn ầm ầm nữa. Tiếng máy bay gào rú khi lao xuống không đè nặng lên đầu nữa. Anh hiểu ra rằng tất cả đã kết thúc.
Đám máy bay tiêm kích xuyên vào bầu trời trong xanh lạnh giá, bay về phía Tây Nam, tiếng rít nhỏ dần, những người lính còn chưa tin chắc lắm vươn mình dậy từ sau các đụn tuyết, rũ tuyết khỏi áo choàng, nhìn những toa xe bốc cháy ở phía trước, thong thả đi về phía đoàn tàu, lau chùi những đám tuyết bám vào vũ khí. Hạ sĩ Nết trai-ép thắt chiếc thắt lưng hải quân trễ xuống, đập đập chiếc mũ lông vào đầu gối để rũ tuyết (mái tóc đen nhánh của anh cũng đầy tuyết) cất tiếng cười gượng gạo, lé cặp mắt vần đỏ nhìn trung úy Đa-vla-chi an, trung đội trưởng trung đội hai, một anh chàng xương xẩu, gầy gò, có cặp mắt to. Đa-vla-chi-an bối rối mỉm cười nhưng cặp lông mày bị tuyết bám đầy của anh như muốn chau lại một cách vụng về.
– Cứ như thể đồng chí ôm hôn tuyết ấy, trung úy nhỉ?-Nết-trai-ép nói bằng giọng phấn khởi không tự nhiên.-Cánh ta vùi mình vào tuyết như vận động viên bơi lội Nhật Bản ấy. Chúng nó đem lửa cho anh em mình hút thuốc đấy! Chúng nó đã cạo râu cho cánh mình các cậu ạ. Anh em mình lấy mõm đào tuyết!-Và khi trông thấy trung úy Đrô dơ-đốp-xki đứng ở gần đụn tuyết, anh nói thêm như thể bào chữa gì đó trước mặt trung úy:-Mọi người đã bò, hề hề!
– Tại sao a-nh lại… cười hô hố như thế hả Nết-trai-ép? Tôi không hiểu được,-Đa-vla-chi-an thốt lên, gần như líu lưỡi.-Anh làm sao thế hả?
– Thế đồng chí không thể nào chia tay với cuộc sống được sao, đồng chí trung úy?-Nết-trai-ép lại cười hềnh hệch.-Đồng chí tưởng kết thúc rồi à?
Trung đội trưởng trung đội chỉ huy, chuẩn úy Gô-lô-va-nốp vóc người đồ sộ, một anh chàng có vẻ mặt khó gần, đeo khẩu tiểu liên, trên bộ ngực nở nang,đi bên cạnh Nết-trai-ép chỉnh Nết-trai-ép bằng giọng hơi rầu rĩ:
– Cậu ăn nói nhảm nhí lắm, chú lính thủy ạ.
Sau đó Cu-dơ-nét-xốp trông thấy Tri-bi-xốp đang đi cà nhót cà nhắc một cách sợ sệt và bơ phờ giữa các đụn tuyết, cạnh bác là Ca xư-mốp vẻ như có lỗi, dùng tay áo choàng lau gò má đẫm mồ hôi, khuôn mặt kín đáo dường như bị sự hổ thẹn giày vò của trắc thủ đứng tuổi Ep-xtích-nê-ép, con người tưởng như đã lăn mình trong tuyết khá lâu. Và Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy trong lòng mình dâng lên một cái gì ngột ngạt, đắng cay, giống như sự tức giận đối với chính bản thân mình vì những phút giây bất lực bẽ bàng của mọi người, vì vừa nãy họ đã buộc phải phơi bày trước mặt nhau nỗi khiếp sợ đáng kinh tởm trước cái chết.
– Kiểm tra quân số!-Có lệnh từ xa vọng tới.-Các khẩu đội điểm số! Và Đrô-dơ-đốp-xki ra lệnh:
– Các chỉ huy trung đội, tập hợp điểm số!
– Trung đội chỉ huy, tập hợp!-chuẩn úy Gô-lô-va-nốp hô lên như sấm.
– Trung đội một, tập hơ-ợp!-Cu-dơ-nét-xốp lặp lại.
– Trung đô-ội ha-ai…-Trung úy Đa-vla-chi-an hô đúng giọng học ở trường.-Tập hơ-ợp!…
Anh em binh lính bị kích động, chưa lại hồn sau cơn nguy hiểm, lắc mình, siết lại dây lưng bị tuột, không trò chuyện như mọi khi: tất cả vẫn còn nhìn lên bầu trời về phía Nam trong khi ở đó bầu trời sáng lóe và trong veo không tưởng được.
Trung đội vừa tập hợp, Cu-dơ-nét-xốp đã đưa mắt điểm số, cặp mắt anh dừng lại ngay chỗ trắc thủ Nết-trai-ép đang cáu kỉnh bối rối ở cánh phải, nơi chỉ huy khẩu pháo thứ nhất phải có mặt. Không có thượng sĩ U-kha-nốp trong hàng quân.
– U-kha-nốp đâu?-Cu-dơ-nét-xốp lo lắng đi lại phía hàng quân, hỏi.-Trong lúc địch oanh tạc, đồng chí có trông thấy anh ta không, Nết-trai-ép?
– Thưa đồng chí trung úy, chính bản thân tôi cũng không biết anh ta ở đâu.-Nết-trai-ép khẽ trả lời.-Trước bữa ăn sáng anh ấy đi đến chỗ chuẩn úy. Có lẽ hãy còn ở đó…
– Đến bây giờ vẫn còn ở chỗ chuẩn úy?-Cu-dơ-nét-xốp ngờ vực hỏi và đi ngang trước mặt trung đội.-Ai trông thấy U-kha-nốp lúc địch oanh tạc? Có ai trông thấy không?
Anh em chiến sĩ co ro vì lạnh lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau. – Đồng chí trung úy.-Nết-trai-ép lại khe khẽ gọi, làm ra vẻ mặt đau khổ.-Đồng chí hãy nhìn xem, có thể anh ấy kia kìa…
Cũng như trước cuộc oanh tạc, những hạt sương muối li ti lả tả rơi dưới ánh mặt trời xuống đoàn tàu to lớn, xuống tuyết, xuống căn nhà ga đường tránh lặng lẽ chìm lút giữa các đụn tuyết. Còn ở phía trước gần chỗ hai toa xe bốc cháy, bên cạnh những toa nguyên vẹn bị sương giá phủ trắng, mọi người vẫn tất bật nhốn nháo-ở khắp nơi các khẩu đội đều đã tập hợp và hai chiến sĩ dùng áo choàng khiêng một người nào đó bị thương hoặc chết đi ngang qua.
– Không phải.-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Đấy không phải là U-kha-nốp, anh ta mặc áo bông kia mà…
– Trung đội một!-giọng nói rành rọt của Đrô-dơ-đốp-xki vang lên.- Trung úy Cu-dơ-nét-xốp! Tại sao đồng chí không báo cáo? Có việc gì thế?
Cu-dơ-nét-xốp suy nghĩ xem anh phải giải thích sự vắng mặt của U-kha-nốp như thế nào; tiến lên năm bước về phía Đrô-dơ-đốp-xki nhưng anh chưa kịp báo cáo thì Đrô-dơ-đốp-xki đã nghiêm khắc thốt lên:
– U-kha-nốp chỉ huy khẩu pháo đâu? Tôi không trông thấy anh ta trong hàng quân! Trung đội trưởng trung đội một, tôi xin hỏi đồng chí! – Trước hết cần phải xem… anh ta còn sống không,-Cu-dơ-nét xốp đáp và tiến gần lại phía Đrô-dơ-đốp-xki đang chờ anh báo cáo rằng đã sẵn sàng hành động. “Anh ấy có vẻ như không muốn tin mình”,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và chả hiểu sao anh sực nhớ tới sự cương quyết của Đrô-dơ-đốp-xki trong lúc địch oanh tạc, khuôn mặt nhợt
nhạt, đanh lại của anh ấy khi anh ấy đẩy Dôi-a và nã cả một băng súng máy vào chiếc “Mét-xéc-smit”.
– Trung úy Cu-dơ-nét-xốp, đồng chí đã thả cho U-kha-nốp đi đâu hả?-Đrô-dơ-đốp-xki lên tiếng.-Nếu như anh ấy bị thương, chị cứu thương Ê-la-ghi-na chắc đã báo tin. Tôi nghĩ như vậy?
– Còn tôi nghĩ rằng U-kha-nốp đã lần chần lưu lại chỗ chuẩn úy hậu cần,-Cu-dơ-nét-xốp phản đối.-Anh ấy chả ở đâu khác được. – Đồng chí hãy cử ngay người đến trung đội hậu cần! Anh ta có thể làm được gì ở đó cho tới tận lúc này? Nấu cháo cùng với anh nuôi chắc?
– Chính tôi sẽ đi.
Cu-dơ-nét-xốp quay người lại, sải bước qua các đụn tuyết về phía bếp của sư đoàn.
Khi anh đi gần tới trung đội hậu cần, trên toa đĩa hãy còn mấy cái nồi lớn để bên nhau và những người coi ngựa, thư ký và đầu bếp chăm chú nhìn chúng. Chuẩn úy Xcô-rích mặc chiếc áo choàng dài của sĩ quan, khuôn mặt hẹp, cặp mắt xanh nanh ác sà xuống sát chiếc mũi khoằm, đi đôi ủng chắc chắn, bước đi nhẹ nhõm như mèo trước hàng quân, tay chắp sau lưng, chốc chốc lại đưa mắt nhìn toa xe để ngủ, gần đó các chỉ huy cấp trên, các quân nhân phụ trách đường sắt đã tụ tập lại, đang trò chuyện với một vị cấp trên vừa tới đoàn tàu bằng chiếc ô tô dài ngoẵng đoạt được của bọn Đức.
– Nghi-êm!-tựa hồ như cảm thấy Cu-dơ-nét-xốp đang tiến lại gần, Xcô-rích hô to và quay tròn trên một điểm như múa ba lê, đưa tay lên thái dương theo kiểu tài tử, xòe các ngón ra.-Đồng chí trung úy, trung đội hậu cần…
– Nghỉ!-Cu-dơ-nét-xốp cau có nhìn Xcô-rích; bằng giọng nói của mình, Xcô-rích cho thấy anh ta phục tùng cái cấp bậc trung úy không cao lắm.-Thượng sĩ U-kha-nốp có ở chỗ đồng chí không?
– Sao thế trung úy?-Xcô-rích cảnh giác hỏi.-Làm sao anh ấy có thể ở đây được? Tôi không cho phép… Có việc gì thế đồng chí trung úy? Hình như anh ấy biến mất? Xi-in đồng chí hãy nó-ói cho biết!… Hắn ở đâu, đồ khốn ấy?
– Lúc ăn sáng U-kha-nốp ở chỗ đồng chí phải không?-Cu-dơ-nét xốp nghiêm khắc hỏi lại.-Đồng chí đã thấy anh ta?
Khuôn mặt hẹp từng trải của chuẩn úy tỏ ra đang suy nghĩ xem mức độ trách nhiệm và đồng lõa của mình đối với việc xảy ra trong khẩu đội tới đâu.
– Thế này, trung úy ạ,-Xcô-rích bắt đầu nói với vẻ trang trọng, đường bệ.-Tôi nhớ rõ lắm. Khẩu đội trưởng U-kha-nốp đã nhận phần ăn sáng cho anh em trong đơn vị mình. Thậm chí anh ta còn to tiếng với anh nuôi, về chuyện các khẩu phần. Tôi đã phải đích thân nhắc nhở anh ta. Lắm mồm lắm miệng như mấy mụ hàng tôm hàng cá. Không phong quân hàm cho anh ta là rất đúng, trung úy ạ. Một tay chúa ẩu. Anh ta chưa được xạc cho đến nơi đến chốn… Có lẽ anh ta chuồn ra ngoài khu trại. Ở sau ga, phía khe rạch có một khu trại!-Và lập tức lấy bộ trang nghiêm, Xcô-rích thì thào:-Đồng chí trung úy, hình như các vị tướng tới đây… Họ đi kiểm tra các khẩu đội chăng? Theo điều lệnh, đồng chí hãy đứng ra báo cáo…
Một nhóm khá đông đang đi từ toa xe để ngủ ngang qua các khẩu đội xếp hàng dọc đoàn tàu và từ xa Cu-dơ-nét-xốp đã nhận ra trong đám đông sư đoàn trưởng đại tá Đê-ép vóc người cao to, vận chiếc áo choàng rộng bằng dạ, quai da đeo chéo ngực. Đi bên cạnh ông một vị tướng lạ mặt gầy gò, chống gậy, dáng đi nhanh nhẹn-chiếc áo choàng ngắn màu đen của ông (trong sư đoàn không ai mặc áo đó) nổi bật giữa các loại áo choàng khác.
Đó là trung tướng Bét-xô-nốp, tư lệnh tập đoàn quân. Đi vòng qua đại tá Đê-ép, ông sải bước, hầu như không khập khiễng; dừng lại gần mỗi khẩu đội, ông lắng nghe báo cáo, sau có chuyển chiếc gậy nhỏ nhắn từ tay phải sang tay trái, đưa tay lên thái dương, tiếp tục kiểm tra. Lúc tư lệnh và các sĩ quan tùy tùng dừng chân gần toa xe bên cạnh, Cu-dơ-nét-xốp nghe thấy giọng nói cao và the thé của vị tướng:
– Trả lời câu hỏi của các đồng chí, tôi chỉ muốn nói với các đồng chí một điều: chúng đã bao vây Xta-lin-grát bốn tháng nhưng không chiếm được. Bây giờ chúng ta bắt đầu tiến công. Kẻ thù cần phải cảm thấy sức mạnh của chúng ta và lòng căm thù cực độ của chúng ta. Các đồng chí hãy nhớ lấy một điều khác nữa: bọn Đức hiểu rằng tại đây, ở Xta-lin-grát, chúng ta đang bảo vệ tự do và danh dự của nước Nga trước toàn thế giới. Tôi sẽ không dối trá, tôi không hứa hẹn với các đồng chí những trận đánh nhẹ nhành vì bọn Đức sẽ đánh đến
người cuối cùng. Vì thế tôi đòi hỏi các đồng chí lòng dũng cảm và ý thức về sức mạnh của mình!…
Vị tướng nói những lời cuối cùng bằng một giọng đặc biệt, cái giọng không thể không kích động những người khác và Cu-dơ-nét xốp bất chợt cảm thấy một uy lực cứng rắn đầy sức thuyết phục nào đó của con người gầy gò, vận áo khoác đen ngắn có khuôn mặt ốm
yếu, không đẹp đó, con người giờ đây đang đi tới trung đội hậu cần. Và tuy còn chưa biết sẽ báo cáo gì với vị tướng lúc ông đến thăm các bếp, anh vẫn ra lệnh:
– Nghi-iêm! Nhìn bên phải thẳng! Thưa đồng chí trung tướng, trung đội hậu cần thuộc đại đội một, sư đoàn hai…
Anh chưa báo cáo xong, trung tướng đã cắm chiếc gậy xuống tuyết, dừng lại trước trung đội hậu cần, ắng lặng đưa đôi mắt khe khắt nhìn sư đoàn trưởng Đê-ép tỏ vẻ thắc mắc. Đê-ép cao lớn gật đầu trả lời để ông yên lòng, đôi môi tươi tắn mỉm cười, nói bằng giọng nam trầm trẻ trung chắc nịch:
– Thưa trung tướng, ở đây không bị tổn thất. Tất cả đều nguyên vẹn. Có phải thế không, chuẩn úy?
– Không mất một người nào, thưa đại tá!-Xcô-rích thét to, trợn mắt lên tỏ vẻ tận tụy.-Chuẩn úy trung đội trưởng Xcô-rích! Và anh ta ưỡn ngực một cách ngang tàng, sững người lại với vẻ mặt phục tùng hoàn toàn.
Bét-xô-nốp đứng cách Cu-dơ-nét-xốp bốn bước, anh trông rõ sương giá do hơi thở tạo ra phủ ở một góc cổ áo bằng lông cừu non, đôi má gầy gò xám ngắt cạo nhẵn, những nếp hằn sâu bên khóe miệng oai nghiêm mím lại, đôi mắt mệt mỏi của con người năm mươi tuổi, từng trải, hiểu biết nhiều soi mói lưới nhìn dáng người xấu xí của các anh coi ngựa, rồi đến dáng người cứng đơ của chuẩn úy, như muốn lột áo anh ta ra. Chuẩn úy càng ưỡn ngực thêm ra, chụm chân lại dướn mình về phía trước.
– Giở cái thói cai đội thế để làm gì hả?-trung tướng thốt lên bằng giọng nói rin rít.-Nghỉ!
Bét-xô-nốp thôi không nhìn chuẩn úy, trung đội hậu cần của anh ta nữa và mệt mỏi hướng về phía Cu-dơ-nét-xốp:
– Thế còn đồng chí, trung úy, đồng chí có quan hệ gì với trung đội
hậu cần?
Cu-dơ-nét-xốp im lặng ưỡn thẳng người.
– Lúc địch oanh tạc anh ở đây à?-đại tá Đê-ép lên tiếng không phải là không có đôi chút ý định nâng đỡ nhưng chỉ có giọng nói của ông là tỏ vẻ thông cảm thôi, sau khi nghe chuẩn úy báo cáo, lông mày ông nhíu lại phía.-Tại sao anh lại im lặng? Trả lời đi. Trung úy, người ta hỏi anh.
Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy vẻ chờ đợi sốt ruột, giục giã của dta Đê ép, anh nhận thấy chuẩn úy Xcô-rích và toàn thể trung đội hậu cần một lúc quay đều về phía anh, anh thấy các sĩ quan tùy tùng co duỗi chân và sau hết anh nói:
– Không, thưa đồng chí trung tướng…
Đại tá Đê-ép chau cặp lông màu màu hung nhìn Cu-dơ-nét-xốp như nhìn một trở ngại đáng bực mình.
– Tại sao lại “không”, trung úy?
– Không,-Cu-dơ-nét-xốp lặp lại.-Lúc địch oanh tạc tôi không ở đây. Tôi đi tìm một khẩu đội trưởng thuộc trung đội tôi. Lúc điểm danh anh ta vắng mặt. Nhưng tôi nghĩ rằng…
– Chẳng có khẩu đội trưởng nào ở trung đội hậu cần cả, thưa đồng chí trung tướng!-Chuẩn úy gào lên, nghẹn ngào nuốt không khí vào ngực và trợn mắt nhìn Bét-xô-nốp.
Nhưng Bét-xô-nốp hình như không nghe thấy anh nói, ông nói: – Trung úy, đồng chí vừa mới ra trường à? Hay đồng chí đã chiến đấu rồi?
– Tôi đã chiến đấu rồi… ba tháng trong năm bốn mươi mốt.-Cu-dơ nét-xốp thốt lên không chắc chắn lắm.-Còn bây giờ tôi đã tốt nghiệp trường pháo binh.
– Trường pháo binh,-Bét-xô-nốp nhắc lại.-Nghĩa là đồng chí tìm người chỉ huy khẩu pháo trong trung đội mình? Đồng chí đã xem xem anh ta có trong số những người bị thương chưa?
– Trong trung đội tôi không có ai bị thương hay bị chết,-Cu-dơ-nét xốp đáp, cảm thấy trung tướng có ấn tượng về sự bất lực và non nớt của anh nên mới hỏi anh về trường pháo binh.
– Còn như ở hậu phương, chắc trung úy cũng hiểu, không có
những trường hợp mất tích,-Bét-xô-nốp uốn nắn lại một cách khô khan.-Ở hậu phương, những người mất tích mang một cái tên chung là những kẻ đào ngũ. Tôi hy vọng rằng, đại tá Đê-ép, đây không phải là một trường hợp như vậy chứ?
Sư đoàn trưởng Đê-ép hơi trù trừ khi trả lời. Im lặng. Tiếng rít sình sịch của đầu máy, tiếng người nói nghe không rõ từ xa vọng tới. Ở phía trước, những chiếc tăm pông đệm rên lên ken két: ở đó người ta đang tháo hai toa bị cháy ra khỏi đoàn tàu.
– Tôi không nghe rõ câu trả lời.
Đại tá Đê-ép bắt đầu nói bằng giọng tự tin quá mức:
– Trung đoàn trưởng trung đoàn pháo là một người mới. Nhưng thưa trung tướng, những trường hợp như thế chưa hề xảy ra. Và tôi hy vọng rằng sẽ không xảy ra. Tôi tin chắc như vậy, thưa trung tướng. Khóe mép đanh cứng của Bét-xô-nốp giật giật:
– Thôi được… Cám ơn đại tá về sự tin chắc đó.
Trung đội hậu cần vẫn đứng y nguyên không nhúc nhích, chuẩn úy Xcô-rích đứng như phỗng cách hàng quân hai bước, nhíu mày tỏ vẻ khiếp sợ với Cu-dơ-nét-xốp nhưng anh không nhận thấy. Anh cảm thấy khi nói chuyện với sư đoàn trưởng, trung tướng có ý không hài lòng nhưng cố nén, các sĩ quan tham mưu tỏ ra lo âu và dường như kìm chế một cái gì đó ở trong mình, anh hỏi:
– Cho phép tôi đi... Thưa trung tướng?
Bét-xô-nốp im lặng nhìn chăm chăm vào khuôn mặt tái nhợt của Cu-dơ-nét-xốp; các sĩ quan tham mưu bị lạnh cóng, xoa tai, co duỗi chân. Họ hoàn toàn không hiểu được vì sao tư lệnh tập đoàn quân lại dừng chân lâu một cách không cần thiết ở đây, ở cái trung đội hậu cần này. Không một ai trong số họ, cả đại tá Đê-ép cũng như Cu-dơ nét-xốp đều không biết được lúc này Bét-xô-nốp đang nghĩ gì, còn ông, như thường thấy gần đây, trong giấy phút đó, ông nghĩ về đưa con trai mười tám tuổi của mình mất tích vào thág sáu tại mặt trận Vôn-khốp. Ông tưởng như do lỗi gián tiếp của ông nên con trai ông mất tích tuy bằng lý trí ông hiểu rằng trong chiến tranh đôi khi không có gì có thể cứu người ta thoát khỏi bom đạn cũng như số phận.
– Đi đi, trung úy,-ông thốt lên bằng giọng nặng nề khi thấy trung úy cố gắng một cách vụng bề khắc phục sự bối rối của mình trước mặt
ông.-Đồng chí đi đi!
Vẻ mặt rầu rĩ, ông đưa bàn tay lên vành mũ và cùng với nhóm sĩ quan tham mưu vây quanh ông, ông bắt đầu cất bước đi dọc đoàn tàu, hơi khập khiễng trên cẳng chân đâu. Cẳng chân đó đã tê cứng.
Cơn đau nhói lên mỗi khi căng chân bị tê cứng; trong những ngày gần đây điều đó ngày càng xảy ra dồn dập hơn. Tuy nhiên, sau khi điều trị tại bệnh viện, Bét-xô-nốp biết rằng mảnh đạn chạm vào dây thần kinh sẽ còn để lại cảm giác đau rất lâu, cần phải quen dần với nó. Nhưng việc ông hầu như phải thường xuyên chịu đựng cơn đau phiền toái ở đầu gối,-vì đau mà các ngón chân phải tê dại đi và đôi khi xuất hiện một cái gì đó giống như nỗi sợ hãi trước một việc trống rỗng vô nghĩa như việc nằm bệnh viện, nơi ông sợ bị rơi vào lần thứ hai nếu như vết thương há miệng-và việc sau khi được bổ nhiệm chỉ huy tập đoàn quân cứ luôn luôn nghĩ tới số phận con trai đã gieo vào lòng ông tâm trạng lo âu về sự không cứng cáp, không vững vàng lạ lùng, điều ông không thể chịu đựng được ở bản thân mình cũng như ở những người khác.
Trong đời mình ông ít gặp những chuyện bất ngờ. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm ông vào chức vụ mới-tư lệnh tập đoàn quân-thật là đột ngột. Ông đã tiếp nhận tập đoàn quân mới tinh, mới được thành lập tại hậu phương xa xôi, từ những ngày chuyển quân lên xe lửa-mỗi ngày đêm có mười tám đoàn tàu đi về phía mặt trận-và hôm nay, sau khi máy bay địch oanh tạc, ông đã làm quen với một trong các sư đoàn đã đổ quân trên một vài ga ở phía Tây Bắc Xta-lin-grát và ông không hài lòng lắm về cuộc làm quen đó. Sự không hài lòng đó là do khu vực đổ quân đã không được bảo đảm về mặt phòng không. Sau khi nghe những lời biện bạch bào chữa của người đại diện đơn vị phòng không nói rằng: “Thưa đồng chí tư lệnh, các máy bay tiêm kích của ta chỉ vừa mới bay đi thôi”,-ông nổi xung lên: “Bay đi-nghĩa là thế nào? Máy bay của ta bay đi còn máy bay của bọn Đức thì đã bay đến đúng lúc! Sự bảo đảm về mặt phòng không như thế không đáng giá một xu!”. Và sau khi nói như vậy, giờ đây ông lấy làm tiếc về sự thiếu kiềm chế của mình bởi vì không phải người phụ trách nhà ga chịu trách nhiệm về mặt phòng không; viên trung tá này chẳng qua chỉ là người đầu tiên hiện ra dưới mắt ông.
Sau khi đã cùng với các sĩ quan tham mưu rời khỏi trung đội hậu
cần, Bét-xô-nốp nghe thấy ở đằng sau lưng mình Đê-ép hạ giọng và nén lòng nói trước hàng quân:
– Đồng chí đã nói chuyện gì quỷ quái nhảm nhí gì thế hả trung úy? Thôi-Đi tìm người của mình đi! Đồng chí hiểu chứ? Tôi cho nửa giờ… chỉ nửa giờ thôi đấy!
Nhưng Bét-xô-nốp làm như không nghe thấy gì khi đại tá Đê-ép đuổi kịp ông ở gần toa đĩa chở đại bác và nói như không có chuyện gì xảy ra:
– Tôi biết tiểu đoàn này, thưa đồng chí tư lệnh, tôi hoàn toàn tin ở nó. Tôi nhớ lúc nó luyện tập khi thành lập. Chỉ có điều các trung đội trưởng còn quá trẻ. Còn chưa dựa được…
– Đồng chí bào chữa cái gì thế, đại tá?-Bét-xô-nốp ngắt lời,-Tôi yêu cầu nói cụ thể hơn. Rõ hơn.
– Xin trung tướng tha lỗi, tôi không muốn…
– Đồng chí không muốn cái gì? Cụ thể là gì?-Bét-xô-nốp nói, vẻ mệt mỏi.-Chả lẽ đồng chí cũng coi tôi như trẻ con à? Này làm bộ làm tịch trước mặt tôi vô ích. Tôi hoàn toàn dửng dưng.
– Thưa đồng chí tư lệnh…
– Còn về sư đoàn của đồng chí, đại tá ạ, tôi sẽ chỉ hình dung đầy đủ về nó sau trận đánh đầu tiên. Đồng chí hãy nhớ lấy điều đó. Nếu đồng chí giận tôi cũng đành chịu.
Đại tá Đê-ép nhún vai, thất vọng trả lời:
– Tôi không có quyền giận, đồng chí, thưa đồng chí tư lệnh. – Đồng chí có quyền chứ! Chỉ có điều phải rõ là giận vì cái gì? Và cắm phập chiếc gậy xuống tuyết, Bét-xô-nốp đưa mắt nhìn các
sĩ quan tham mưu lặng lẽ đã đuổi kịp họ, những người mà ông cũng còn chưa hiểu biết đầy đủ. Họ đưa mắt nhìn xuống, im lặng, không tham gia câu chuyện.
– Nghi-êm! Nhìn bên phải thă-ẳng!-tiếng hô như sấm vang lên từ phía trước, chỗ hàng quân xếp hàng đen nghịt trước các toa xe. – Thưa đồng chí trung tướng, đây là tiểu đoàn lựu pháo 122 mi-li mét số ba,-đại tá Đê-ép nói.
– Ta sẽ xem tiểu đoàn lựu pháo,-Bét-xô-nốp chợt thốt lên.
Chương ba
Cu-dơ-nét-xốp tình cờ bước vào toa nhà ga đường tránh bằng đá nhưng không thấy U-kha-nốp. Hai gian phòng thấp trống rỗng, lạnh lẽo một cách hoang dại những chiếc ghế dài bằng gỗ bẩn thỉu, đám nước sền sệt thẫm màu trên sàn do mọi người tha tuyết ở ngoài vào; chiếc lò sưởi bằng sắt có ống khói ló ra phía cửa sổ bịt gỗ dán không được đốt nóng, phảng phất mùi chua ngột ngạt của những cái áo choàng: anh em chiến sĩ thuộc mọi đoàn tàu đi ngang qua đều đã trú chân ở đây.
Khi Cu-dơ-nét-xốp bước ra ngoài trời, ra chỗ có ánh sáng lạnh lẽo, đoàn tàu vẫn đứng nguyên giữa thảm tuyết sáng lóng lánh chạy tít đến chân trời và ở đằng kia cụm khói đen hình chóp nón bay xiên lên bầu trời lặng giớ: những toa xe bị đẩy vào đường cụt cháy nốt. Chiếc đầu tàu phụt hơi nước phì phì chói tai trên đoạn đường bị cột tín hiệu hạ xuống chắn lại. Các khẩu đội xếp hành bất động dọc các toa xe. Ở đằng sau ga, cách khoảng nửa ki-lô-mét, những làn khói thẳng đứng của khu trại khuất mình trong khe bốc lên trên thảo nguyên.
“Biết tìm anh ta ở đâu? Chả lẽ ở trong khu trại khốn khiếp mà chuẩn úy đã nói? Lúc này anh ta làm gì ở đó?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và anh tuyệt vọng, hằn học chạy về phía đó trên con đường đầy những vũng nước do xe trượt tuyết xới lên.
Phía trước mặt, trong khe, các mái nhà sáng lên, lóng lánh dưới ánh mặt trời, những ô cửa sổ thấp bị những đụn tuyết tráng lệ che lấp óng ánh như gương-ở chỗ nào cũng thấy cảnh yên tĩnh buổi sớm, sự tĩnh mịch hoàn toàn, sự vắng bóng con người. Hình như người ta còn đang ngủ trong những ngôi nhà gỗ ấm áp hoặc người ta đang thong thả ăn sáng, tựa hồ như không có cuộc oanh tạc của máy bay địch chắc người ta đã quen đỉồi. Hít mùi khói phân khô đăng dắng giống như mùi bành mì nướng, Cu-dơ-nét-xốp đi xuống phía dưới lòng khe thoai thoải, sải bước trên con đường mòn duy nhất giữa các đụn tuyết, với phân ngựa đông cứng, ngang qua những cây liễu sần sùi bị sương giá lấm tấm như những hạt đường bám đầy trước mặt những ngôi nhà gỗ có khung viền cửa và không biết vào nhà nào để tìm, anh đi đến cuối ngõ hẹp, dừng lại, do dự.
Trong khu trại này tất cả đều dường như thanh bình êm ả, từ lâu đã ổn định chắc chắn, thuận tiện theo kiểu làng quê. Và có lẽ vì từ đây, từ lòng khe này không nhìn thấy rõ đoàn tàu, nhà ga đường tránh, nên cảm giác tách biệt mọi người còn lại ở đằng kia, gần các toa xe, bất chợt nổi lên trong anh: tưởng như không có chiến tranh, chỉ có buổi sáng băng giá hửng nắng này, sự yên tĩnh, những làn khói màu lam bốc lên trên những mái nhà đầy tuyết.
Bỗng anh nghe thấy một giọng the thé:
– Chú ơi, chú! Chú tìm gì thế?-Ở đằng sau hàng rào, một bóng người nhỏ nhắn cuộn mình trong chiếc áo choàng, nghiêng mình trên thành giếng đã đóng băng, thả chiếc thùng buộc ở đâu sào xuống giếng.
– Có chú bộ đội nào ở đâu đây không?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, anh lại gần giếng và thốt lên một câu đã chuẩn bị sẵn.-Chú bộ đội có đi qua đây không?
– Gì cơ?
Đôi mắt đen láy lọt thỏm trong cổ lông áo choàng tò mò nhìn ra. Đó là một chú bé trạc mười tuổi, giọng nói dịu dàng, những ngón tay trẻ con nhỏ nhắn bị rộp lên đang lần kéo chiếc sào lạnh ngắt của cần kéo nước giếng.
– Chú muốn hỏi có chú bộ đội nào ở đây không?-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại.-Chú đi tìm đồng đội.
– Hiện nay không có ai cả,-chú bé mặc cái áo choàng lông thùng thình, lòa xòa xuống tận gót hăng hái đáp.-Còn bộ đội ở đây thì nhiều lắm. Nếu như chú cũng có áo bộ đội hay quần áo lót mẹ cháu sẽ đổi ngay. Hoặc là xà phòng… không có à? Vậy mà mẹ cháu đã nướng bánh mình rồi đấy.
– Không có.-Cu-dơ-nét-xốp đáp.-Chú không đổi chác gì cả. Chú đi tìm đồng đội.
– Thế quần áo lót?
– Gì cơ?
– Mẹ cháu muốn đổi quần áo lót. Nếu có quần áo ấm… thì sẽ nói chuyện.
– Không có.
Thằng bé kéo thùng nước giếng nặng trĩu, lạnh ngắt làm chiếc sào kêu kẽo kẹt, nước sóng sánh, nó đặt thùng lên lớp băng dày đóng ở thành giếng, túm lấy cái thùng cong người kéo lê tà áo choàng lệt xệt trên tuyết mang nước vào nhà, và nói:
– Tạm biệt chú nhé.-Sau đó nó đưa những ngón tay đỏ lựng vặn cổ áo bằng cừu xuống, đảo nhanh đôi mắt đen liếc nhìn.-Thế chú ấy có phải là đồng đội của chú không hả chú? Chú áy ở nhà bác Cai-đa lich ấy, cái bác cụt chân ấy mà.
– Cái gì cơ? Nhà Cai-đa-lich nào?-Vừa hỏi xong Cu-dơ-nét-xốp đã trông thấy thượng sĩ U-kha-nốp ở đằng sau hàng rào ngồi nhà cuối dãy.
U-kha-nốp lần theo các bậc cầu thang từ trên thềm nhỏ đi ra đường, chụp mũ lên đầu, khuôn mặt nhễ nhại, no nê, bình thản. Tất cả bộ dạng của anh ta dường như nói rằng anh ta vừa mới ở chỗ đầy đủ tiện nghi, ấm áp và bây giờ anh ta đi dạo phố.
– A, trung úy, xin gửi lời chào chiến đấu! U-kha-nốp kêu lên vẻ sởi lởi, đôn hậu và mỉm cười. Đến đây bằng cách nào thế hả? Anh đi tìm tôi đấy à? Còn tôi nhìn qua cửa sổ cũng trông thấy anh.
Anh ta bước lại gần với dáng đi vòng kiềng, như một chàng trai nông thôn, vừa đi vừa nhằn hạt dưa, nhổ vỏ, sau đó thọc tay vào túi áo bông rút ra một nắm hạt dưa to vàng vàng đưa cho Cu-dơ-nét-xốp và nói bằng giọng dàn hòa:
– Anh nếm thử xem, hạt dưa rang đấy. Tôi đã ních đầy cả bốn túi. Đủ để bọn mình cắn chắt đến tận Xta-lin-grát.-Và khi thấy đôi mắt giận dữ của Cu-dơ-nét-xốp anh ta hỏi giọng đã hơi nghiêm chỉnh:-Anh sao thế? Nào nói đi trung úy, có chuyện gì nào? Cầm lấy hạt dưa này…
– Cất những hạt ấy đi! Cu-dơ-nét-xốp thốt lên, mặt tái nhợt.-Thế nghĩa là khi máy bay địch oanh tạc đoàn tàu thì anh đã ngồi trong căn nhà ấm áp và nhằn hạt dưa? Ai cho phép anh rời trung đội? Anh có biết sau đó người ta có thể coi anh là người như thế nào không?
Khuôn mặt U-kha-nốp trong chốc lát không còn cái vẻ hả hê, no nê của một chàng trai nông thôn, trở nên giễu cợt, thản nhiên. – Chà, ra thế hả? Anh biết không, trung úy, lúc địch oanh tạc tôi ở ngoài ấy đấy chứ… Tôi bò lổm ngổm ở gần giếng. Tôi chuồn vào làng
vì tay nhân viên đường sắt ở nhà ga bò cạnh tôi nói rằng đoàn tàu còn đỗ ở đó chưa đi ngay… Thôi ta sẽ không giảng giải về luật lệ nữa!-U-kha-nốp cười khẩy, nhằn hạt dưa thổi phù vỏ xuống chân.- Nếu anh không hỏi gì nữa thì tôi xin đồng ý tất. Anh hãy cứ coi như đã bắt được một tên đào ngũ. Nhưng dứt khoát là tôi không định chơi xỏ anh đâu trung úy ạ!…
– Thôi ta về đoàn tàu đi! Và cậu muốn vứt hạt dưa đi đâu thì vứt…- Cu-dơ-nét-xốp cắt ngang-Ta đi đi!
– Đi thì đi. Ta sẽ không cãi nhau nữa.
Việc anh không kìm được mình trước vẻ thản nhiên của U-kha nốp, con người tưởng chừng như khinh thường tất cả mọi sự và việc anh không thể hiểu nổi thái độ bình tĩnh đó trước sự việc mà chính anh cũng không dửng dưng, lúc này làm cho Cu-dơ-nét-xốp thêm
giận dữ và anh nói tiếp bằng giọng đanh thép khiến chính anh cũng khó chịu.
– Rốt cuộc thì cũng phải biết nghĩ chứ! Các khẩu đội kiểm tra quân số và chúng ta sẽ xuống tàu ở ga sa, vậy mà không thấy bóng dáng chỉ huy khẩu đội đâu!… Anh bảo nên đánh giá việc đó như thế nào?
– Trung úy ạ, nếu có chuyện gì tôi xin nhận lỗi về phần mình. Tôi vào trong làng đổi xà phòng lấy hạt dưa. Đâu sẽ vào đấy cả thôi. Người ta sẽ không phái tôi đi xa mặt trận, không cho ăn nhiều đạn đâu,-U-kha-nốp đáp và khi đi từ lòng khe lên đầu dốc anh ngoái nhìn lại phía sau-những mái nhà lấp lánh, những cửa sổ đóng băng ẩn mình dưới những cây liễu, những làn khói xanh lam phơ phất trên các đụn tuyết và anh nói:-Quả là một làng quê huyền ảo! Và các cô gái thì đẹp kinh người-không hẳn là người U-crai-na, không hẳn là người Ca dắc. Một cô bước vào, lông mày sắc như dao, mắt xanh và cô ta đi điệu lắm… Trung úy kìa, hình như máy bay ta xuất hiện? U-kha-nốp nói thêm, ngẩng đầu và nheo cặp mắt sáng, táo tợn của mình.-Không, chắc bọn mình sẽ đổ quân ở đây. Anh thử nhìn xem máy bay yểm trợ ghê chưa!
Mặt trời mùa đông thâm thấp, như cái đĩa trắng bệch lơ lửng trên thảo nguyên, trên những đoàn tàu quân sự bị tách rời khỏi đầu tàu nằm dài trên đường sắt, trên những hàn quân màu xám. Còn ở tít cao trên thảo nguyên, một cặp máy bay “Én bạc” của ta tuần tiễu trên không, vút bay phía trên hai toa tàu cháy nốt trong nhánh đường cụt,
dường như tắm mình trong mà xanh lạnh giá, khi thì lao xuống phơi thân mình óng ánh.
– Chạy về chỗ toa xe!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh.
Chương bốn
– Tiểu đoàn chú ý! Xuống tàu! Đưa pháo ra khỏi toa đĩa! Dắt ngựa xuống!
– Cánh mình gặp may đấy các cậu ạ. Cả trung đoàn pháo đi ô tô, còn riêng tiểu đoàn mình đi ngựa.
– Xe tăng nó khó nhận ra ngựa. Cậu đã hiểu rõ ý nghĩa của việc đó chưa?
– Thế nào anh em, dẫn bộ à? Hay là bọn Đức ở ngay bên cạnh? – Đừng có vội vã, cậu còn kịp sang thế giới bên kia cơ mà. Cậu có biết tuyến đầu như thế nào không? Anh chưa kịp đàn gió ra-bài ca đã chấm dứt rồi.
– Kéo đàn gió để làm gì? Tốt hơn hết là cậu hãy bảo cho mình biết: người ta có phát thuốc lá trước trước trận đánh không? Hay là chuẩn úy lại bóp chặt? Tay ấy chúa là keo kiệt! Thấy nói ta sẽ được chén trên đường hành quân.
– Đâu phải vì chuẩn úy-Đây là nỗi khổ…
– Quân ta đang bao vây bọn Đức ở Xta-lin-grát… Có lẽ bọn mình tới đó… Chà, lẽ ra phải bao vây bọn Đức từ năm bốn mốt cơ. Thì bây giờ bọn mình đã ở tận đẩu tận đâu ấy chứ!
– Chuyền gió lạnh rồi. Chiều tối nay băng giá sẽ còn dữ dội hơn! – Đến chiều tối bọn mình sẽ quật cho bọn Đức một mẻ! Có lẽ cậu sẽ không cóng lạnh đâu.
– Thế còn cậu thì sao? Cái chính là phải giữ sao cho khỏi bị cóng. Chứ không lúc đến tuyến đầu cái thân anh chì còn là một búp tuyết! Mà anh còn phải đêm giấy về khoe vợ nữa chứ.
– Các cậu này, Xta-lin-grát ở về phía nào nhỉ?
Bốn giờ sau mọi người chuyển các thứ từ trên tàu xuống nhà ga cuối cùng trên thảo nguyên, giáp ngay mặt trận, lúc ấy các trung đội xúm vào lăn các khẩu pháo từ các toa đĩa phủ đầy tuyết qua những xúc gỗ xuống đấy, dẫn lũ ngựa đã chồn cân, níu cẳng ra khỏi toa, chúng phì phì ầm ĩ, mắt lơ láo nghiêng nghiêng, thèm khát lấy môi bập tuyết bên cạnh đường, toàn thể tiểu đoàn khuân vác, chuyển
những hòm đạn lên xe tải, đưa pháo, những thiết bị cuối cùng, ba lô, cặp lồng ra khỏi những toa xe cứng lại vì giá lạnh, bị bở lại sau đó họ xếp thành đội hình hành quân,-mọi người rốt rít tít mù lên như ta thường thấy khi thay đổi hoàn cảnh. Bất chấp những gì chờ đợi mỗi người ở phía trước, tất cả mọi người đều cảm thấy niềm vui náo nức trào dâng, đều sẵn lòng cười vang hưởng ứng những lời đùa cợt, những tiếng rủa không chút ác ý. Công việc bốc dỡ làm cho họ ấm lên, họ chen chúc nhau trong hàng quân, nhìn chăm chăm các chỉ huy trung đội tựa hồ như cùng có ý định đoán bước ngoặt mới mẻ chưa rõ số phận mình.
Trong những giây phút đó, trung úy Cu-dơ-nét-xốp bỗng cảm thấy tình đoàn kết gắn bó chung của hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn con người đang chờ đợi trận đánh chưa rõ sắp xảy ra và anh không khỏi xúc động nghĩ rằng giờ đây, chính từ những phút giay hành quân ra tuyết đầu, bản thân anh thấy gắn bó chắc chắn, mãi mãi với tất cả mọi người. Thậm chí anh thấy khuôn mặt luôn luôn nhợt nhạt của Đrô-dơ đốp-xki, người vừa chỉ huy tiểu đoàn bốc dỡ mọi thứ xuống tàu, còn những gì anh đã trải qua trong và sau cuộc oanh tạc của máy bay địch tưởng như đã lùi lại, bị lãng quên vĩnh viễn. Và cuộc trò chuyện mới đây với Đrô-dơ-đốp-xki cũng đã lùi xa và bị lãng quên. Trái với mọi phỏng đoán, Đrô-dơ-đốp-xki từ chối không chịu nghe báo cáo của Cu-dơ-nét-xốp về sự đầy đủ quân số trong trung đội-đã tìm thấy U kha-nốp-ngắt lời anh với vẻ sốt ruột rõ rệt của một người đang bận làm một công việc cấp bách: “Đồng chí hãy tới ngay chỗ trung đội dỡ hàng. Và phải làm sao cho thật chu tất! Rõ chưa?”-“Báo cáo, rõ!”-Cu dơ-nét-xốp đáp và đi về phía toa xe của mình, nơi U-kha-nốp khẩu đội trưởng khổi đội một đứng giữa các chiến sĩ như không có chuyện gì xảy ra vậy. Trước dự cảm về trận đánh sắp xảy ra, tất cả cái quá khứ gắn liền với đoàn tàu dường như mờ đi, mòn đi, bị san bằng, được Cu-dơ-nét-xốp và có lẽ cả Đrô-dơ-đốp-xki và toàn thể tiểu đoàn nhớ lại như một cái gì ngẫu nhiên, nhỏ nhặt, họ bị xâm chiếm bởi một cảm giác phấn khích khi chuyển tới một nơi mới mẻ chưa từng biết, cái nơi được nén chặt cứng trong một tiếng đanh thép: Xta-lin-grát.
Tuy nhiên sau bốn giờ đi trên đồng cỏ đã đóng băng, giữa thảm tuyết hoang vắng chạy dài đến tận chân trời, không có làng xóm, không có những lần dừng chân ngắn ngủi, không được nhà bếp cho ăn như đã hứa, tiếng cười nói dần dần lặng đi. Sự phấn khích đã qua,
mọi người cất bước, mình đẫm mồ hôi, mắt cay xè, ứa nước mắt vì những đụn tuyết bất tận sáng léo lên một cách tai ác dưới nắng. Thỉnh thoảng từ đâu đó phía bên trái và đằng sau lưng lại có tiếng ì ầm từ xa vọng lại. Sau đó tiếng ì ầm lặng đi và chẳng hiểu vì sao vẫn chưa tới mặt trận, chắn chắn phải gần lắm rồi chứ, tại sao lại có tiếng ì ầm ở sau lưng,-không thể xác định được hiện nay mặt trận ở đâu và đoàn quân đang đi theo hướng nào. Mọi người vừa đi vừa nghe ngóng, thỉnh thoảng lại đưa tay bốc một nắm tuyết cứng lên nhai, xoa vào môi, nuốt nhưng tuyết không làm cho đã khát.
Sự mệt mỏi làm cho hành quân lớn kéo dài xuệch xoạc, đứt quãng, bước đi ngày càng chậm hơn, càng dửng dưng hơn, có người đã phải bám vào lá chắn các khẩu pháo, vào xe chở pháo và thành xe tải chở đạn do nhữg con ngựa nhỏ bé giống Mông Cổ kéo, lũ ngựa đầu lúc lắc một cách máy móc, lông lá bù xù, mõm ướt át vì bị sương giá rét buốt bám đầy. Lưng những con ngựa kéo pháo bốc hơi, bóng lên dưới ánh nắng, những người đánh xe lúc lắc một cách đờ đẫn trên yên ngựa. Tiếng bánh xe của các khẩu pháo rít lên, những thanh ngang ở xe ngựa kêu lục cục trầm trầm, thỉnh thoảng ở đâu đó phía sau lưng tiếng động cơ xe ZIS lại rú lên khi từ lòng khe leo lên dốc. Tiếng tuyết lép nhép vì bị nhiều người giẫm nát, tiếng cồm cộp đều đều của những vó ngựa, tiếng sình sịch khó nhọc của những chiếc máy kéo kéo những khẩu pháo nặng nề đặt trên rơ moóc-tất cả hòa thành một âm thanh đơn điệu, buồn ngủ và bao trùm lên tất cả những cái đó-những âm thanh, con đường, các khẩu pháo, những chiếc ô tô và những con người-là một màu trời trắng bệch, lặng ngắt, bị những tia nắng nhọn như mũi kim xuyên qua và đoàn quân trải dài trên thảo nguyên như nửa ngủ nửa thức đi dưới màn trời đó.
Từ lâu Cu-dơ-nét-xốp đã không đi ở phía trước trung đội mình theo như điều lệnh nữa mà đi đằng sau khẩu pháo thứ hai, người anh đẫm mồ hôi, cái áo mặc trong áo bông và áo choàng dính sát vào ngực, những tia nước nóng hổi lăn từ dưới mũi xuống thái dương nóng bỏng và bị gió làm cho khô cứng ngay, kéo căng mặt da. Trung đội im lìm đi thành từng nhóm riêng, từ lâu đã mất sự tề chỉnh phấn chấn lúc ban đầu, khi mọi người bước ra thảo nguyên với những lời bỡn cợt, những tiếng cười vô duyên cớ, bỏ lại nơi dở hàng ở sau lưng. Giờ đây, trước mắt Cu-dơ-nét-xốp là những tấm lưng lắc lư không đều, trên đó những chiếc ba lô nhô lên vẹo vọ, những chiếc dây lưng đeo
đầu lựu đạn trễ xuống ngang lưng áo choàng của tất cả mọi người. Một vài người mệt quá đã đặt ba lô lên phía trước các xe tải. Cu-dơ-nét-xốp mệt mỏi cất bước dửng dưng, chỉ chờ đợi lệnh nghỉ, thỉnh thoảng anh ngoái lại nhìn thấy Tri-bi-xốp ủ rũ đi khập khiễng sau cái xe tải, Nết-trai-ép mới gần đây hãy còn là một anh chàng lính thủy chỉnh tề như thế, giờ lê bước voéi vẻ mặt lầm lũi khó nhận ra, hàng ria mép ẩm bị sương giá bám đầy, chốc chốc anh ta lại thổi phù một cái và liếm liếm ria một cách kỳ quặc.
“Thế thì đến khi nào mới được nghỉ? Khi nào nghỉ?”-Bao giờ mới được nghỉ đây? Họ quên à?-Anh nghe thấy ở sau lưng giọng nói du dương và không có vẻ bực mình của trung úy Đa-vla-chi-an, giọng nói này bao giờ cũng làm cho Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên vì cái vẻ ngây thơ trong trắng và chẳng hiểu sao nó gợi lên những hồi ức êm đẹp đã lùi vào dĩ vãng, những hồi ức về cái thời nào đó đáng yêu, vô tư lự lúc họ còn ở trường pháo binh, cái thời mà có lẽ Đa-vla-chi-an hãy còn nhớ nhưng Cu-dơ-nét-xốp thì tưởng như nó đã mờ đi và lùi xa rồi.
Anh chật vật quay đầu lại: cái cổ cáo giả bằng chất xen-luy-lô-ít ẩm ướt lạnh giá được phát sau khi ra trường siết chặt lấy cổ anh. Đa-vla chi-an, trung đội trưởng trung đội hai, với khuôn mặt gầy, đôi mắt to, không đeo cổ áo giả như những người khác, đuổi kịp Cu-dơ-nét-xốp và vừa đi vừa gặm cục tuyết một cách ngon lành ngư gặm cục đường.
– Này, Cu-dơ-nét-xốp!-Đa-vla-chi-an nói bằng giọng học trò trong veo như thủy tinh.-Cậu biết không, với tư cách là bí thư chi đoàn thanh niên của trung đội, mình muốn trao đổi với cậu. Có được không?
– Cái gì thế hử, Gô-ga?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, chỉ xưng hô với anh ta bằng tên không thôi, như hồi học ở trường.
– Cậu đã đọc tài liệu này của bọn Đức chưa?-Vừa mút tuyết Đa vla-chi-an vừa rút ở túi áo choàng ra tờ truyền đơn vàng khè gấp tư và cau mặt.-Ca-xư-mốp tìm thấy ở trong rãnh bên đường. Ban đêm máy bay địch thả xuống. Đúng là chúng léo nhéo vì hằn học. – Đưa đây xem, Gô-ga.
Cu-dơ-nét-xốp cầm lấy tờ truyền đơn, mở ra, đưa mắt lướt qua những hàng chữ in to:
“Hỡi lũ thổ phỉ ở Xta-lin-grát!
Chúng bay tạm thời bao vây được một bộ phận quân Đức ở Xta lin-grát của chúng bay mà không quân của chúng tao đã biến thành đống tro tàn. Đừng có hí hửng! Đừng có hy vọng rằng giờ đây chúng bay sẽ tiến công. Chúng tao sẽ còn tổ chức cho chúng bay một ngày hội vui đáo để trên đường phố của chúng bay, chúng tao sẽ tống cổ bọn bay sang bên kia sông Vôn-ga và xa hơn để làm mồi cho chấy rận. Trước đội quân vinh quang bách chiến bách thắng của chúng tao, chúng bay thật yếu ớt. Hãy lo giữ lấy tấm thân tơi tả của chúng bay, lũ đồ tể Xô-viết!”.
– Đúng là lũ điên rồ chửa rủa,-Đa-vla-chi-an nói khi nhìn thấy Cu dơ-nét-xốp cười khẩy sau khi đọc xong tờ truyền đơn.-Chắc chúng không nghĩ rằng người ta sẽ để cho chúng sống yên thân ở Xta-lin grát. Cậu thấy cái trò tuyên truyền này thế nào?
– Đúng, Gô-ga ạ, đây là một tài liệu xấu,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, đưa trả tờ truyền đơn.-Nói chung tôi chưa hề đọc những lời chửi bới kiểu như thế này. Năm bốn mốt chúng viết khác: “Chúng bay hãy đầu hàng đi và nhớ mang theo cùi dìa và cặp lồng!”. Đêm nào chúng cũng ném những truyền đơn như thế.
– Cậu biết mình hiểu cái trò tuyên truyền này như thế nào không?- Đa-vla-chi-an nói.-Con chó đã đánh hơi thấy mùi gậy. Có vậy thôi. Anh vò nát tờ truyền đơn, ném xuống lề đường, cất tiếng cười khe khẽ, tiếng cười gợi cho Cu-dơ-nét-xốp nhơ tới một cái gì đó xa xôi, quen thuộc, rạng rỡ như những ô cửa sổ của trường pháo binh nhìn quan những tán lá cây đoạn lấp lánh vệt nắng.
– Cậu không nhận thấy gì à?-Đa-vla-chi-an lên tiếng, sánh bước bên Cu-dơ-nét-xốp. Thoạt đầu chúng mình đi về phía Tây sau đó lại ngoặt về phía Nam. Chúng ta đi đâu?
– Đi ra mặt trận.
– Thì mình cũng biết là ta đi ra mặt trận nhưng cậu hiểu không, mình đoán ra rồi!-Đa-vla-chi-an phì cười nhưng đôi mắt dài màu mận của anh trở nên chăm chú.-Xta-lin-grát giờ đây ở sau lưng chúng ta. Cậu đã từng trải trong chiến đấu, hãy thử nói xem… Tại sao người ta không thể đi tới đâu? Đó có phải là điều bì mật không? Cậu có biết chút ít chứ hả? Chả lẽ ta không đến Xta-lin-grát à?
– Đằng nào chả là ra mặt trận hở Gô-ga,-Cu-dơ-nét-xốp đáp.-Chỉ có ra mặt trận thôi chứ không đi đâu khác.
– Đa-vla-chi-an giận dỗi hếch chiếc mũi nhọn lên.
– Đó là cái gì, câu cách ngôn hả? Mình phải cười vang lên chắc? Mình biết rồi. Nhưng mặt trận ở đâu mới được chứ? Bọn mình đang đi về chỗ nào đó ở phía Tây Nam. Cậu có muốn xem địa bàn không? – Mình biết là ta đang đi về phía Tây Nam.
– Này, nếu bọn mình không đi đến Xta-lin-grát thì chán kinh khủng. Ở đó người ta đang đập tan bọn Đức còn chúng ta lại bị đưa đến một nơi khỉ ho cò gáy à.
Trung úy Đa-vla-chi-an hình như muốn nói chuyện nghiêm chỉnh với Cu-dơ-nét-xốp nhưng cuộc trò chuyện đó giờ đây chẳng làm sáng tỏ được gì cả. Cả hai đều chẳng biết gì về hướng hành quân chính xác của sư đoàn, hướng hành quân này hình như đã bị thay đổi trên đường hành quân, chỉ có điều cả hai đã đoán được rằng điểm cuối cùng trong cuộc hành quân này không phải là Xta-lin-grát, thành phố đã nằm phía bên phải sau lưng họ, nơi tiếng đại bác ì ầm từ xa vọng lại.
– Dồn lại đội hình!…-Mệnh lệnh vang lên ở phía trước được nhiều giọng nói trong hành quân miễn cưỡng nhắc lại.-Bước nhanh, bư ớc!…
– Lúc này chả rõ gì cả,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, nhìn hàng quân kéo dài bất tận giữa thảo nguyên.-Chúng ta đang đi tới nơi nào đó. Và lúc nào người ta cũng thúc Gô-ga ạ, có lẽ chúng ta đang đi dọc vòng vây. Theo bản tin hôm qua, ở đó vẫn còn đánh nhau.
– Ờ, thế thì hay quá!… Dồn lại đội hình, các đồng chí!-Đến lượt mình, Đa-vla-chi-an hô vang khẩu lệnh bằng cái giọng học được ở trường sĩ quan rồi quay lại vui vẻ nói-Này cậu biết không, cái món tuyết này gây trở ngại, mắc ngang cuống họng! Mà cậu cũng thử nếm tí xem. Đỡ khát đấy, nếu không thì cứ là ướt như chuột lột!-Và anh khoái trá gặm cục tuyết như ăn cục đường vậy.
– Cậu thích, tuyết cục lắm à? Thôi đi Gô-ga kẻo không lại phải đến trạm xá đấy. Mình thấy giọng cậu đã khản rồi,-Cu-dơ-nét-xốp bất giác mỉm cười.
– Đến trạm xá ấy à? Không bao giờ.-Đa-vla-chi-an kêu lên.-Còn
trạm xá nào ở đó mới được chứ! Cho nó đi đời nhà ma đi! Và chắc là cũng như trước khi dự kiểm tra ở nhà trường, anh nhổ nước bọt một cách mê tín, ba lần qua vai, lấy bộ nghiêm chỉnh, lè cục tuyết xuống đụn tuyết.
– Mình đã biết mùi trạm xá như thế nào rồi. Kinh khủng lắm. Nằm dài cả một mùa hè, giá chết quách cho xong! Nằm như một thằng ngốc, chỉ toàn nghe: “Chị y tá ơi, bô dẹt, chị y tá ơi, bô tròn!”. Đúng là một trò vớ vẩn ngu ngốc… Mình vừa mới ra mặt trận, được đến ngày thứ hai, ở Vô-rô-ne-giơ thì bị ngay cái trò ngu ngốc ấy túm lấy. Một căn bệnh ngốc nghếch hạng nhất. Thế mà cũng gọi là đi chiến đấu! Xấu hổ đến phát điên lên!
Đa-vla-chi-an lại phì cười khinh bỉ nhưng lập tức anh đảo mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp như thể báo trước rằng không cho phép ai chế giễu mình vì anh đâu có lỗi khi mắc phải chứng bệnh đó.
– Bệnh gì thế Gô-ga?
– Mình đã bảo bệnh ngốc ngếch hạng nhất mà lị.
– Căn bệnh tồi tệ, phải không, trung úy?-Giọng nói giễu cợt của Nết-trai-ép vang lên ở bên cạnh,-Làm sao mà đồng chí lại đến nỗng nỗi ấy? Do non nớt à?
Bẻ cổ áo lên, thọc tay vào túi, đờ đẫn bước đằng sau khẩu pháo và khi nghe được câu chuyện, anh ta hơi phấn chấn lên, liếc nhìn Đa-vla chi-an; đôi môi xám ngắt, bụm lại vì lạnh cố nén nụ cười tủm tỉm.
– Không nên ngượng trung úy ạ. Chả lẽ bệnh nó chộp lấy đồng chí à? Thường thường…
– A, anh là tay chúa tán gái!-Đa-vla-chi-an la lên và chiếc mũi nhọn của anh bất bình hướng về phía Nết-trai-ép.-Anh nói chuyện ngu ngốc vớ vẩn gì đấy, tôi nghe không nổi! Tôi bị bệnh kiết lỵ… nhiễm trùng!
– Thì cũng thế cả thôi,-Nết-trai-ép không tranh cãi, hai bao tay đập đập vào nhau…-Có gì mà nổi giận đùng đùng thế đồng chí trung úy? – Anh hãy chấm dứt những trò ngu ngốc ấy đi! Ngay tức thì!… Đa vla-chi-an nổi sung ra lệnh bằng giọng kim và máy mắt lia lịa như con cú ngày.-Bao giờ anh cũng thích nói chuyện bí hiểm!
Ria mép phủ đầy sương giá của Nết-trai-ép rung lên vẻ giễu cợt, làm lộ rõ hàm răng trẻ trung, đều đặn sáng lóa.
– Trung úy ạ, tôi đã nói là tất cả chúng ta đều đi dưới bóng Chúa… – Đó là anh chứ không phải tôi… anh đi dưới bóng Chúa chứ không phải tôi!…-Đa-vla-chi-an thốt lên bằng giọng bất bình hoàn toàn vô lý.-Nghe anh thật là nhàm tai… có lẽ cả đời anh chỉ có làm chuyện đó, làm như anh là ông vua Thổ Nhĩ Kỳ nào đó lắm vợ, nhiều hầu
non! Vì cái trò bỉ ổi của anh chắc là tất cả phụ nữ sẽ khóc! – Họ khóc vì chuyện khác, trung úy ạ, khóc vào những dịp khác nhau.-Nụ cười lại thấp thoáng dưới hàng ria của Nết-trai-ép.-Nếu cô gái không kéo được anh chàng nào đến phòng đăng ký kết hôn thì cô ta òa lên khác và nổi cơn khùng. Đàn bà là như thế này-một tay họ ôm anh vào lòng, vừa ôm vừa: anh thân yêu, anh yêu quí, tay kia đẩy anh ra: cút, tôi căm thù, đồ rắn độc, để cho tôi yên, sao anh không biết xấu hổ hả… Và cái bẫy và thói quỷ quyệt nham hiểm. Xem ra trung úy còn yếu về thực hành, trung úy hãy học hỏi chừng nào hạ sĩ Nết-trai-ép còn sống. Tôi sé truyền đạt kinh nghiệm.
– Anh có quyền gì… mà nói như vậy về phụ nữ? -Đa-vla-chi-an bất bình thật sự và lúc này trông anh giống con chim sẻ xù lông.-Anh hiểu thực hành là thế nào hở? Những ý nghĩ ấy của anh chỉ nên đem ra chợ thôi!…
Trung úy Đa-vla-chi-an thậm chí đã bắt đầu nói nhịu vì bất bình, má anh đỏ ửng lên. Anh còn chưa học được cách không đỏ mặt khi nghe tiếng văng tục của con nhà lính hoặc nghe nói chuyện tục tĩu trắng trợn về phụ nữ và đấy cũng là một cái gì xa xôi, gắn với nhà trường còn lại trong anh, cái hầu như đã không còn trong Cu-dơ-nét xốp: anh đã quen với nhiều thứ sau khi được thử lửa ở Rô-xláp vào dạo hè.
– Đồng chí về khẩu đội đi, Nết-trai-ép.-Cu-dơ-nét-xốp xen vào.- Đồng chí không thấy là mình đã xen vào câu chuyện của người khác à?
– Ro-õ, đồng chí trung úy,-Nết-trai-ép kéo dài giọng và sau khi làm một động tác qua quít giống như chào, đi về phía khẩu pháo. – Gô-ga, cậu là trung úy,dẫu sao rồi cậu cũng phải quen đi.-Cu-dơ nét-xốp nói, cố nén để không bật cười khi trông thấy Đa-vla-chi-an hùng hổ hếch cái mũi đỏ ửng lên vì lạnh.
– Nhưng tôi không muốn quen! Như thế để làm gì? Hắn ta ám chỉ
cái gì? Thế ra chúng ta là lũ súc vật à?
– Chú ý giãn cách! Lại gần các khẩu pháo! Chuẩn bị giữ!… Đrô-dơ-đốp-xki cưỡi ngựa đi ngược từ đầu hàng quân xuống. Anh ngồi thẳng trên yên ngựa, bộ mặt lầm lầm như đúc liền với chiếc mũ lông đội nghiêm chỉnh, hơi hất ra phía sau, anh chuyển từ nước kiệu sang bước đi thường, dừng con ngựa nòi Mông Cổ chân dài, lông lá xồm xoàm, mõm ươn ướt vì hơi thở cạnh hành quân, trong suốt mấy phút anh đưa đôi mắt soi mói nhìn các trung đội kéo dài ra như một sợi dây xích, dửng dưng đi trong trạng thái nửa ngủ nửa thức và những người lính đi lộn xộn. Ở tất cả mọi người, những chiếc mũ lót đầy sương giá kéo siết vào cổ, các cổ áo đều bẻ cao, những con người đờ đẫn vì mệt mỏi này phục tùng. Và sự thiếu chỉnh tề đó của tiểu đoàn, thái độ dửng dưng, thờ ơ với tất cả đó của mọi người đã khiến cho Đrô-dơ-đốp-xki bực bội; anh đặc biệt bực mình vì những chiếc ba lô của các chiến sĩ để ở phía trước xe tải và một khẩu súng trường của ai đó nhô lên như cái gậy từ giữa đám ba lô buộc lẫn với cặp lồng.
– Chú ý giãn cách!-Đrô-dơ-đốp-xki mềm mại nhổm người trên yên ngựa.-Giữ khoảng cách bình thường! Ba lô của ai để trước xe tải đây? Súng trường của ai đây? Bỏ ra đi!…
Nhưng không ai tiến đến phía trước xe tải cả, không ai chạy, chỉ có những người đang đi gàn anh rảo bước lên, đúng hơn là họ làm ra vẻ hiểu mệnh lệnh. Đrô-dơ-đốp-xki vẫn nhổm cao trên bàn đạp, để cho bộ đội đi ngang qua chỗ mình, sau đó anh kiên quyết quất cái roi vào thân ủng:
– Các chỉ huy trung đội hỏa lực, lại chỗ tôi!
Cu-dơ-nét-xốp và Đa-vla-chi-an cùng tiến lại gần. Hơi nghiêng mình trên yên ngựa, Đrô-dơ-đốp-xki đưa cặp mắt trong suốt, đỏ lựng lên vì gió nhìn hai người như muốn thiêu đốt họ, nói sẵng giọng:
– Không phải vì chưa được nghỉ mà ta có quyền để bộ đội tãi ra như thế! Thậm chí thấy cả súng trường ở phía trước các xe tải! Thế nào, có lẽ mọi người không phục tùng các đồng chí nữa à?
– Đồng chí đại đội trưởng, tất cả đã mệt mỏi đến cực độ rồi,-Cu dơ-nét-xốp nói không to lắm.-Rõ ràng như thế.
– Ngay đến ngựa cũng phải thở phì phì kia kìa!… Đa-vla-chi-an
ủng hộ và xoa cái mõm ngựa của đại đội trưởng bị những búp tuyết nhọn như kim ẩm ướt bám vào, hơi thở của nó phả vào tay áo anh. Đrô-dơ-đốp-xki giật dây cương, con ngựa cất đầu lên. – Các chỉ huy trung đội của tôi là những người dễ mủi lòng:-Anh thốt lên cay độc.-“Mọi người đã mệt mỏi”, “ngựa khó mà thở được”. Chúng ta đi đến nhà bạn uống nước chè hay đang đi ra mặt trận đấy? Các anh muốn là những người tốt bụng hả? Người của các vị tốt bụng bao giờ cũng chết như ruồi ở ngoài mặt trận! Chúng ta sẽ chiến đấu như thế nào với những lời lẽ kiểu như: “xin tha lỗi cho”? Vậy thì… sau năm phút nữa nếu như những khẩu súng trường và những chiếc ba lô hãy còn nằm ở phía trước xe tải thì các đồng chí, những người chỉ huy trung đội, các đồng chí sẽ tự mang lấy trên vai của mình! Rõ cả chưa?
– Rõ.
Cảm thấy cái lẽ phải tai ác của Đrô-dơ-đốp-xki, Cu-dơ-nét-xốp đưa tay lên thái dương chào, quay người lại và bước về phía trước xe tải. Đa-vla-chi-an chạy tới chỗ các khẩu pháo của trung đội mình.
– Ba lô của ai đây?-Cu-dơ-nét-xốp hô to, nhấc cái ba lô khỏi thành xe phía trước làm cái cặp lồng kêu loảng xoảng.-Súng trường của ai đây?
Mọi người quay người lại, máy móc xốc lại ba lô trên vai, có người cau có nói:
– Ai để ba lô lại thế? Tri-bi-xốp phải không?
– Tri-bi-xô-ốp.-Nết-trai-ép gào lên đúng giọng hạ sĩ, cổ họng căng ra.-Tới gặp trung úy.
Tri-bi-xốp nhỏ bé, vận chiếc áo choàng không hợp khổ người, vừa rộng, vừa ngắn cũn cỡn, trông giống như cái váy to sù sụ, khập khiễng, lách mình khỏi đám binh lính, đi từ xe tải chở đạn tới chỗ xe chở vũ khí, từ xa bác đã mỉm cười với mọi người ra ý chờ đợi.
– Ba lô của đồng chí đâu? Súng trường nữa-Cu-dơ-nét-xốp hỏi Anh bỗng cảm thấy lúng túng khi thấy Tri-bi-xốp lăng xăng gần chiếc xe kéo pháo, ánh mắt và cử động của bác tỏ vẻ nhận lỗi.
– Của tôi, đồng chí trung úy, của tôi đấy…-Hơi nước đọng lại trên chiếc mũ lót bằng len đầy sương giá, giọng bác khàn khàn.-Tôi có lỗi, đồng chí trung úy… Tôi bị trầy da chân đến bật máu. Tôi nghĩ mình
đeo ít đi thì chân sẽ đỡ đau hơn.
– Đồng chí mệt à?-Cu-dơ-nét-xốp bất ngờ hỏi khẽ và đưa mắt nhìn Đrô-dơ-đốp-xki. Đrô-dơ-đốp-xki vươn thẳng người trên yên ngựa, đi dọc hàng quân và liếc nhìn họ. Cu-dơ-nét-xốp khẽ ra lệnh:-Đừng tụt lại, Tri-bi-xốp. Đồng chí hãy đi sau xe kéo pháo.
– Rõ, xin tuân lệnh…
Tri-bi-xốp khập khiễng, yếu ớt, lảo đảo đi bước một bằng chân đau sau khẩu pháo.
– Còn của ai đây nữa?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, nhấc chiếc ba lô thứ hai lên.
Vừa lúc ấy có tiếng cười vang lên ở phía sau. Cu-dơ-nét-xốp tưởng người ta cười anh vì anh đi làm cái công việc của hạ sĩ hoặc cười Tri-bi-xốp và anh ngoái nhìn lại.
Cùng với Dôi-a, U-kha-nốp đi ở bên trái khẩu pháo, trên lề đường, với dáng đi vòng kiềng, nặng nề như con gấu; anh cười cợt, nói với cô điều gì đó, còn cô, siết chặt mình trong chiếc dây lưng, lơ đãng nghe, khuôn mặt mệt mỏi, đẫm mồ hôi, gật gật với anh. Không thấy cô đeo túi cứu thương ở bên sườn, chắc cô đã đặt nó trên chiếc xe tải nào đó. Hình như họ đã cùng đi với nhau từ lâu ở đằng sau trung đội và bây giờ cả hai đuổi kịp các khẩu pháo. Các chiến sĩ mệt rã rời liếc nhìn họ một cách thiếu thiện ý dường như tìm kiếm cái ý nghĩa bí ẩn, trên người trong niềm vui giả tạo của U-kha-nốp.
– Làm gì mà ngông ngênh như con ngựa thiến thế hả? Bác coi ngựa Ru-bin đứng tuổi nhận xét, tấm thân vuông vức bè bè của bác lắc lư trên yên ngựa, thỉnh thoảng bác lại đưa tay áo xoa xoa cái cằm lạnh cóng.-Đúng là cu cậu muốn khoe khoang trạng thái thần kinh oai hùng của mình trước mặt cô gái: tôi linh hoạt không này! Này ông hàng xóm, bác hướng về Tri-bi-xốp,-ông hãy nhìn xem đám thanh niên trong trung đội mình đang ve vãn các cô gái, học đòi kiểu ái tình ngoài thành phố. Đúng là chúng nó chả nghĩ gì đến chiến đấu cả!
– Gì thế hả?-Tri-bi-xốp đáp, bác cố đi cho kịp chiếc xe kéo pháo và sau khi hắt hơi, lau ngón tay vào tà áo choàng.-Xin bác thứ lỗi cho, tôi không nghe rõ…
– Ngễnh ngãng hay là giả vờ đấy hả đồ tù binh? Tôi nói về những con chó cún!-Ru-bin gào to.-Tôi với ông giá người ta có đẩy một mụ
đàn bà vào tận tay chắc chúng mình cũng từ chối… Còn bọn chúng nó thì…
– Gì cơ? À, vâng, vâng,-Tri-bi-xốp ấp úng nói.-Bác nói đúng đấy… – “Đúng” cái gì? Đàu óc chúng nó đầy những trò vớ vẩn kiểu thành thị-Thế đấy! Tất cả đều lượn lờ xung quanh cái váy mà cười hô hố. Thật là nhẹ dạ!
– Đồng chí đừng nói nhảm nữa. Ru-bin!-Cu-dơ-nét-xốp bực mình nói, anh dừng lại tách khói xe kéo pháo và nhìn về phía chiếc áo choàng ngắn màu trắng của Dôi-a.
Vừa lắc lư bước đi, U-kha-nốp vừa tiếp tục kể chuyện gì đó nhưng lúc này Dôi-a không nghe anh ta nói, không gật đầu với anh ta. Cô ngẩng đầu lên nhìn Đrô-dơ-đốp-xki như có ý chờ đợi, cũng như mọi người, anh ngoái nhìn về phía họ và ngay lúc ấy, như tuân theo mệnh lệnh, cô đi lại phía anh, lãng quên ngay U-kha-nốp. Với vẻ mặt nhẫn nhục, xa lạ, cô bước lại gần Đrô-dơ-đốp-xki và gọi anh bằng một giọng đứt quãng:
– Đồng chí trung úy…-Và khi bước sát bên con ngựa, cô nói thêm khẽ khẽ điều gì đó không ai nghe rõ.
Để trả lời, Đrô-dơ-đốp-xki đúng là vừa bực mình vì chuyện gì đó, không ra chau mày, không ra mỉm cười, anh lén dùng mu màn tay đi găng xoa má cô và nói:
– Dù sao tôi cũng khuyên cô, cô cứu thương ạ, nên ngồi trên xe tải của đại đội quân y. Lúc này cô chả có việc gì để làm ở tiểu đoàn cả. Và anh thúc ngựa đi nước kiệu, mất hút về phía đằng trước, đầu hàng quân, nơi vang lên mệnh lệnh: “Xuống dốc. Giữ chặt lấy!”. Còn anh em chiến sĩ xúm xít xung quanh những chiếc xe ngựa, xe kéo pháo, bám lấy các khẩu pháo để hãm tốc độ khi xuống dốc. – Vậy là tôi phải quay về đại đội quân y chứ gì?-Dôi-a buồn bã nói.- Được thôi. Tôi sẽ đi. Tạm biệt các cậu. Đừng buồn nhé. – Về đại đội quân y làm gì?-U-kha-nốp nói, anh không hề giận dỗi vì cô đã không chú ý đến anh trong chốc lát.-Cô cứ ngồi lên xe kéo pháo. Ông ấy xua cô đi đâu nào? Trung úy, có tìm được chỗ cho cô cứu thương không?
Áo bông của U-kha-nốp phanh ra trên ngực đến tận thắt lưng, mũ lót đã được cất đi, mũ lông không buộc, những cái tai mũ thõng thẹo
đè lên gáy, để lộ vầng trán đỏ bừng vì gió, cặp mắt sáng nheo lại, dường như không biết thẹn.
– Có thể có ngoại lệ đối với cô cứu thương,-Cu-dơ-nét-xốp trả lời.- Nếu cô mệt, Dôi-a, cô hãy ngồi lên xe kéo pháo thứ hai. – Cám ơn các anh-Dôi-a chợt sôi nổi lên ngay.-Tôi chả mệt tí nào. Ai bảo với anh là tôi mệt? Thậm chí tôi còn muốn bỏ cả mũ lông ra đây này: nóng ghê quá! Và muốn uống một tí… Tôi đã nếm thử tuyết, nhưng tuyết có mùi sắt thế nào ấy!
– Cô có muốn làm một ngụm cho khoan khoái không? U-kha-nốp tháo chiếc bi đông ở thắt lưng, đưa lên tai lắc lắc một cách có dụng ý, nước lọc xọc trong bi đông.
– Có lẽ nào?… Cái gì ở đây thế hả, anh U-kha-nốp?-Dôi-a hỏi, cặp lông mày dài, sắc của cô bị sướng giá bám đầy dướn lên.-Nước đấy ư? Anh vẫn còn cơ à?
– Cô nếm một tí.-U-kha-nốp mở nắp bi đông bằng kim loại.-Nếu như không tỉnh người ra cô cứ giết ngay tôi đi. Bằng khẩu súng trường này này. Cô biết bắn chứ?
– Tôi cũng biết bóp cò qua quít. Anh đừng lo!
Vẻ sôi nổi thiếu tự nhiên của cô sau cuộc trò chuyện chớp nhoáng với Đrô-dơ-đốp-xki, cảm tình lạ lùng và sự tin cậy của cô đối với U kha-nốp khiến Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy khó chịu thế nào ấy và anh nói một cách nghiêm khắc:
– Đồng chí cất cái bi đông đi. Đồng chí đưa cái gì ra thế? Nước hay rượu?
– Chả phải đâu! Thế nếu như tôi muốn thì sao?-Dôi-a lắc lắc mái đầu với vẻ kiên quyết thách thức.-Tại sao trung úy lại giám sát tôi! Sao thế ông anh, ghen à?-Cô vuốt vuốt tay áo choàng của anh.-Hoàn toàn không nên thế, anh Cu-dơ-nét-xốp ạ, tôi yêu cầu anh thật đấy. Tôi đối xử với cả hai anh như nhau.
– Tôi không thể ghen với chồng cô được,-Cu-dơ-nét-xốp nói hơi có vẻ châm biếm, và câu nói đó đối với anh vang lên như những lời tầm thường gượng gạo.
– Với chồng nào?-Cô mở to mắt.-Ai bảo anh là tôi đã có chồng? Chồng nào?
– Chính cô nói chứ ai. Chả lẽ cô không nhớ à? Nhưng mà thôi, Dôi-a, cô tha lỗi cho, đó không phải là việc của tôi mặc dầu rằng chắc tôi sẽ vui sướng nếu như cô có chồng.
– À phải rồi, lúc đó tôi đã nói với Nết-trai-ép… Chuyện vớ vẩn thật!- Cô cười vang.-Tôi muốn được là một cánh chim tự do. Nếu lấy chồng tức là sẽ có con, điều đó hoàn toàn không thể chấp nhận được trong chiến tranh, đó là tội lỗi. Anh hiểu chứ? Tôi muốn các anh biết điều đó, anh Cu-dơ-nét-xốp ạ, cả anh nữa, U-kha-nốp ạ… Chẳng qua là tôi tin các anh, tin cả hai anh! Nhưng nếu anh muốn, anh Cu-dơ-nét-xốp ạ, thì cầu mong tôi sẽ có một người chồng nào đó nghiêm nghị và mạnh mẽ! Được chứ?
– Chúng tôi ghi nhớ.-U-kha-nốp đáp.-Nhưng điều đó chả có nghĩa lý gì.
Thế thì cám ơn các bạn. Dẫu sao các bạn cũng là những người tốt. Có thể cùng chiến đấu với các bạn được.
Và cô nhắm mắt, cảm thấy như mình sắp bước vào cuộc chiến đấu, cô cố gắng tu một ngụm trong bi đông, bị ho, cô cười ha hả, huơ huơ chiếc găng tay trước đôi môi hé mở phà hơi rượu. Cu-dơ-nét-xốp nhận thấy cô có vẻ kinh tởm khi đưa trả chiếc bi đông, nhìn U-kha-nốp qua cặp lông mi ươn ướt-U-kha-nốp bình tĩnh vặn nắp bi đông-nhưng cô nói không phải không pha chút ngạc nhiên vui vẻ:
– Tệ thật… Nhưng dẫu sao cũng hay! Tôi cảm thấy ruột gan như cháy bỏng ngay!
– Cô làm đuợc ngụm nữa không?-U-kha-nốp hỏi một cách đôn hậu.-Thế ra cô mới uống lần đầu à? Đây chính là…
Dôi-a lắc đầu.
– Không, tôi đã có dịp thử rồi…
– Đồng chí hãy cất cái bi đông đi cho khuất mắt tôi!-Cu-dơ-nét-xốp sẵng giọng.-Và hãy đưa Dôi-a về đại đội quân y. Ở đó cô ấy sẽ thấy dễ chịu hơn.
– Hừ, tại sao anh lại muốn chỉ huy tôi hả, trung úy?-Dôi-a hỏi đùa.- Theo ý tôi anh học đòi Đrô-dơ-đốp-xki nhưng không đạt lắm. Phải tay anh ấy, chắc anh ấy sẽ ra lệnh bằng giọng đanh thép: “Về đại đội quân y!” và U-kha-nốp chắc sẽ đáp: “Rõ”.
– Chắc tôi sẽ còn suy nghĩ chứ,-U-kha-nốp nói.
– Chắc anh sẽ chả suy nghĩ gì cả mà chỉ nói: “Rõ”-Có vậy thôi! – Hãm lại!… Xuống dốc.-Phía trước vang lên khẩu lệnh như có ý đe dọa.-Phanh lại! Tất cả giữ lấy pháo!…
Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại khẩu lệnh và đi về phía trước, phía đầu trung đội, ở đó anh em chiến sĩ xúm đông xung quanh khẩu pháo và bánh xe, tì vai vào lá chắn và xe kéo pháo, còn những người coi ngựa thì văng tục, hò hét, kéo căng dây cương, ghìm những con ngựa bóng nhẫy mồ hôi, khuỵu hai chân sau khi xuống cái dốc dựng đứng dân xuống lòng khe sâu.
Khẩu đội phía trước đã băng qua được cái dốc đóng băng bị xe lăn, người giẫm, lấp lánh như gương, nó đã an toàn đi qua lòng khe và bây giờ các chiến sĩ đông như kiến bám lấy các khẩu pháo và xe kéo pháo, đẩy chúng từ phía sau để đưa pháo lên dốc bên kia, phía bên trên dốc, hàng quân bất tận ngoằn ngoèo tuôn dài, dài mãi trên thảo nguyên. Còn ở tít phía bên dưới, chuẩn úy Gô-lô-va-nốp trung đội trưởng trung đội chỉ huy, đứng ở giữa đường, vẻ chờ đợi, kêu lên bằng giọng căng thẳng và ra hiệu:
– Nào… nào, về phía tôi!…
– Cẩn thận đấy! Khéo kẻo gãy chân ngựa! Tất cả hãm xe lại!-Đrô dơ-đốp-xki ra lệnh khi anh phi ngựa tới đầu dốc.-Các đồng chí trung đội trưởng! Nếu ta để ngựa chết thì chính chúng ta sẽ phải kéo pháo! Hãm xe lại! Thong thả hơn! Thong thả hơn!…
“Đúng thế, nếu ta làm ngựa gãy chân, ta sẽ phải kéo pháo!”-Cu dơ-nét-xốp nghĩ trong cơn phấn khích, đột nhiên anh ý thức được rằng bản than anh cũng như tất cả mọi người đều hoàn toàn phục tùng một ý chí nào đó, không ai có quyền chống lại nó và tất cả mọi người hòa hợp lại trong một cái gì đó vô cùng lớn lao không gì ngăn cản nổi, trong dòng thác của cái đó dường như không còn con người riêng biệt cùng với sự bất lực và mệt mỏi của nó. Và say sưa với sự hòa mình đó của mình với mọi người, anh nhắc lại mệnh lệnh:
– Giữ chặt, giữ chặt!… Tất cả mọi người giữ lấy pháo!-Và anh lao tới bánh xe của tất của chiếc xe kéo khẩu pháo thứ nhất, giữa một tốp chiến sĩ, còn anh em phụ trách khẩu pháo vẻ mặt dữ tợn, khản cả tiếng đều xúm vào giữ cái bánh xe của khẩu pháo đang lăn xuống cái dốc dựng đứng.
– Dừng lại, con nỡm!-Những người coi ngựa quát ngựa loạn xạ. Dường như họ mới hoàn hồn, họ la hét, miệng há to khủng khiếp giữa dây tua viền lạnh giá của những chiếc mũ lót.
Bị hãm chặt, bánh xe của cỗ xe kéo cũng như của khẩu pháo không quay được nhưng xích xe không bám được vào mặt đường đã bị giẫm phẳng lì và ủng của các chiến sĩ trượt trên dốc, không tìm được điểm tựa. Còn cái xe chở đầy đạn và khẩu pháo ngày càng đè nặng hơn, ngày càng lao nhanh từ trên cao xuống không kìm lại được. Trục gỗ của cỗ xe đập vào cẳng chân sau chùng lại của những con ngựa võng người xuống, hếch mõm lên trời; những người coi ngựa lại quát tháo ngoái nhìn anh em bằng cặp mắt vừa căm giận vừa khẩn khoản,-và cả một khối người thở ì ạch, bám lủng lẳng vào bánh xe lao xuống dốc mỗi lúc một nhanh hơn.
– Hãm lại!-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên, cảm thấy sức nặng của khẩu pháo đè lên vai, anh nhìn thấy cạnh mình khuôn mặt của U-kha-nốp bị dồn máu đỏ gay, anh ta đưa tấm lưng rộng ra đỡ chiếc xe kéo pháo; còn phía bên tay phải là cặp mắt đen của Nết-trai-ép lồi ra vì căng thẳng, cùng hàng ria trắng của anh ta. Và trong đầu óc nóng bỏng của anh bất chợt thoáng hiện ý nghĩ rằng anh đã quen biết họ từ lâu, có lẽ từ những tháng rút lui khủng khiếp ở Xmô-len-xcơ lúc anh còn chưa phải là trung úy, nhưng khi đó người ta cũng kéo pháo như thế này khi rút lui. Tuy nhiên lúc ấy anh không biết họ và anh ngạc nhiên về ý nghĩ này.-Chân, cẩn thận đôi chân…-Cu-dơ-nét-xốp kêu lên khe khẽ.
Khẩu pháo cùng với cỗ xe lăn trên sườn dốc xuống lòng khe, xích sắt rít lên trên tuyết, những con ngựa nhễ nhại mồ hôi trượt dốc, vó ngựa chà nát những mảnh băng nhọn hoắt, tiếng băng vỡ lạo xạo chói tai; những người coi ngựa ngả người ra đằng sau, khó khăn mới giữ được mình trên yên ngựa, kéo căng dây cương nhưng con ngựa bên phải bất chợt khuỵu xuống và khi cố sức đứng dậy nó khó nhọc cất đầu lên, lao xuống dốc, kéo theo những con ngựa đi giữa.
Người coi con ngựa bên trái vẫn ngồi trên yên, bị chao nghiêng về một bên, vẻ mặt khiếp đảm như điên, không đủ sức quát bảo con ngựa bên phải, con này loạng choạng trên mặt đường, lăn kềnh ra, kéo căng và rứt dây thắng ngựa. Cu-dơ-nét-xốp tuyệt vọng cảm thấy khi lăn xuống dốc, khẩu pháo đã đuổi kịp con ngựa bị ngã, anh trông thấy chuẩn úy Gô-lô-va-nốp từ phía dưới lao về phía con ngựa, lúc
này Gô-lô-va-nốp nhảy tránh sang một bên rồi lại xông vào nó với ý định túm lấy dây cương.
– Hãm lại!…-Cu-dơ-nét-xốp thét lên.
Cảm thấy vai mìn nhẹ bỗng đi một cách kỳ lạ, anh hiểu ngay ra rằng cỗ xe cùng với khẩu pháo đã xuống tới chân dốc và được hãm lại trong lòng khe. Anh em chiến sĩ mệt mỏi văng tục, ưỡn thẳng lưng; họ rời khỏi khẩu pháo, xoa vai và nhìn cỗ xe ở phía trước.
– Con ngựa có làm sao không?-Cu-dơ-nét-xốp chật vật thốt lên, lảo đảo trên đôi chân cứng đờ như gỗ vì căng thẳng quá mức và chạy lại chỗ mấy con ngựa.
Gô-lô-va-nốp cùng với các chiến sĩ trinh sát, người coi ngựa Xec gu-nen-cốp gầy gò, tái nhợt, với vẻ mặt sợ hãi của anh chàng mới lớn, với cánh tay dài nghêu, đưa mắt nhìn bất lực rồi bỗng nắm lấy dây cương, còn con ngựa non dường như hiểu anh muốn làm gì, nó rụt đầu, vùng vẫy, nghiêng nghiêng cặp mắt sáng ẩm ướt vằn đỏ vì kích động nhìn với vẻ khẩn cầu. Xec-gu-nen-cốp rụt tay lại rồi lại tuyệt vọng lặng lẽ nhìn, sau đó anh ngồi xổm trước con ngựa. Con ngựa ngọ ngoạy đôi sườn đẫm mồ hôi, vó sau cào trên mặt băng, nó ráng sức cố trỗi dậy một lần nữa nhưng không vươn dậy được và khi thấy đôi cẳng trước của nó co lại một cách không tự nhiên, Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng nó sẽ không thể đứng dậy được.
– Nện cho nó một phát, Xec-gu-nen-cốp! Sao lại đứng đực ra thế. Cậu không biết tính khí kỳ quái của con súc sinh hay vờ vịt này đấy!- Ru-bin, người lính trông coi những con ngựa chạy ở phía sau, khuôn mặt sạm nắng gió, thô lỗ, cáu kỉnh, xỉ vả và quất roi ngựa vào thân ủng của mình.
– Có cậu là đồ súc sinh ấy,-Xec-gu-nen-cốp thét lên bằng giọng kim the thé.-Cậu không trông thấy gì đây à?
– Có cái gì mà trông? Tôi biết con ngựa này: nó chúa là hay đá hậu! Chỉ dùng để giỡn chơi là tốt thôi. Cho nó một roi là nó tỉnh người ra ngay đấy!
– Câm mồm đi, Ru-bin, chán tai lắm!-U-kha-nốp hích vai vào anh ta vẻ đe dọa.-Ăn nói phải suy nghĩ chứ.
– Con ngựa này chắc cũng chả đi được tới mặt trận đâu,-Tri-bi-xốp thở dài thương hại,-Rõ khổ…
– Phải rồi, hình như nó bị đau hai chân trước,-Cu-dơ-nét-xốp nói, đi vòng quanh con ngựa.-Các anh đã làm cái trò gì thế hở các anh coi ngựa? Thế mà cũng đòi cầm dây cương!
– Biết làm sao được hả trung úy?-U-kha-nốp thốt lên.-Thế là hết đời con ngựa cái. Chỉ còn lại ba con kéo pháo. Ngựa dự trữ lại không có.
– Thế nghĩa là chúng ta phải cõng pháo ở trên lưng à?-Nết-trai-ép hỏi, nhấm nhấm ria mép.-Tôi đã mơ ước được làm thế từ lâu, từ dạo bé cơ đấy.
– Kìa, đại đội trưởng đến…-Tri-bi-xốp sợ sệt nói.-Đồng chí ấy sẽ phân xử.
– Có chuyện gì thế, trung đội một? Tại sao lại trùng trình thế? Đrô-dơ-đốp-xki cưỡi con ngựa Mông Cổ đi xuống khe, lại gần tốp bộ đội giãn ra trước mặt anh, đưa mắt lướt nhìn con ngựa đang nặng nề trở mình, Xec-gu-nen-cốp vẫn lom khom ngồi xổm trước mặt nó. Khuôn mặt thanh tú của Đrô-dơ-đốp-xki dường như đanh lại một cách bình thản, sự phẫn nộ cố nén chỉ lóe lên trong tròng mắt của anh. – Tôi… đã bảo trước… các đồng chí, trung đội một!-Anh dằn tứng tiếng và giơ roi ngựa chỉ vào lưng Xec-gu-nen-cốp đang lom khom.- Sao lại cuống quít tít mù lên thế hả? Mắt các anh để đi đâu? Đồng chí cầu kinh đấy à, đồng chí coi ngựa? Con ngựa làm sao? – Thì đồng chí cũng thấy đấy, trung úy.-Cu-dơ-nét-xốp nói. Như một người mù, Xec-gu-nen-cốp ngước mắt nhìn Đrô-dơ-đốp xki, những giọt nước mắt từ dưới những hàng mi lạnh giá chảy trên cặp má trẻ thơ của anh. Anh lặng lẽ lấy lưỡi liếm những hạt nước sáng trong đó và tháo bao tay, trìu mến thận trọng vuốt ve mõm ngựa. Con ngựa không vật vã nữa, không có ý định đứng dậy mà phình bụng nằm im, vươn cổ một cách thảm hại, ra chiều hiểu biết, tì đầu trên lòng đường, thở phì phò vào ngón tay Xec-gu-nen-cốp, đôi môi mềm của nó chạm vào những ngón tay đó. Có một cái gì vô cùng sầu não, hấp hối trong ánh mắt ẩm ướt, nghiêng nghiêng của nó nhìn anh em chiến sĩ. Và mãi tới lúc này, Cu-dơ-nét-xốp mới nhận thấy trên lòng bàn tay Xec-gu-nen-cốp có nắm lúa mạch mà có lẽ anh đã giấu từ lâu ở trong túi. Nhưng con ngựa đói khát không ăn, chỉ rung rung lỗ mũi ẩm ướt, hít hít lòng bàn tay người coi ngựa, yếu ớt dùng môi tợp
và làm rơi vãi những hạt lúa ướt trên mặt đường. Có lẽ nó đã đánh hơi được cái hương vị của lúa đã bị lãng quên từ lâu trên những thảo nguyên tuyết trắng này nhưng đồng thời nó cũng đã cảm thấy một cái gì khác không cưỡng lại được phản chiếu trong ánh mắt và tư thế của Xec-gu-nen-cốp.
– Chân nó, trung úy ạ,-Xec-gu-nen-cốp thốt lên giọng yếu ớt, anh vẫn dùng lưỡi liếm những giọt nước mắt bên khóe miệng.-Trông kìa… nó đau đớn y như người vậy… Mà nó lại phải kéo ở bên phải… Nó sợ hãi cái gì ấy… Tôi đã kìm nó lại đấy chứ… con ngựa hãy còn non. Thiếu kinh nghiệm…
– Phải giữ chặt lấy nó, đồ đần độn ạ! Chứ không phải là tơ tưởng tới các cô gái!-Anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin hằn học nói.-Bay giờ còn nỉ non cái gì?… Đồ thò lò mũi!… Ban nãy mọi người ào ào lao xuống dốc còn hắn vẫn chễm chệ trên mình con ngựa bé bỏng… trông mà tởm! Phải bắn cho nó một phát để khỏi đau đơn,-và thế là xong!
Toàn bộ cái dáng người vuông vức, chậm chạp, khoác sù sụ trên mình nào áo bông, áo choàng, quần bông, với chiếc thân ủng giả đeo trên chân phải, khẩu súng trường khoác sau lưng, cái vẻ kiên quyết hằn học của anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin bất chợt làm cho Cu-dơ nét-xốp khó chịu. Tiếng “bắn cho một phát” vang lên như bản án tử hình đối với người vô tội.
– Có lẽ cũng phải thế thôi,-có người thốt lên.-Tiếc con ngựa thật. Khi rút quân ở Rô-xláp, Cu-dơ-nét-xốp đã có lần trông thấy anh em chiến sĩ vì thương hại đã nã súng bắn chết những con ngựa bị thương không dùng làm sức kéo được nữa. Nhưng ngay hồi ấy anh cũng thấy việc làm này là trái tự nhiên và tàn bạo một cách không thể bào chữa được.
– Tôi không cho làm thế đâu!-Xec-gu-nen-cốp thét lên bằng giọng kim của mình và bật dậy, bước lại phía Ru-bin.-Anh đề nghị thế nào hở quân đồ tể? Anh đề nghị thế nào? Tôi không để các anh giết ngựa của tôi đâu! Nó có tội gì nào?
– Hãy chấm dứt cái trò lên cơn thần kinh ấy đi! Phải suy nghĩ từ trước chứ. Ngoài anh, không ai có lỗi cả. Anh hãy trấn tĩnh!-Đrô-dơ đốp-xki buột nói và giơ roi ngựa chỉ vào cái ranh bên đường.-Hãy kéo con ngựa khỏi lòng đường để lấy lối đi. Tiếp tục xuống dốc! Về vị trí!
Cu-dơ-nét-xốp nói:
– Phải tháo khẩu pháo thứ hai khỏi xe kéo và khênh nó xuống dốc. Như thế chắc chắn hơn.
– Tùy các anh, khiêng trên vai cũng được!-Đrô-dơ-đốp-xki đáp, qua chỏm đầu Cu-dơ-nét-xốp, nhìn anh em chiến sĩ đang lúng túng kéo con ngựa sang lề đường và nhăn mặt.-Bắn chết nó ngay đi! Ru bin…
Con ngựa dường như hiểu được ý nghĩa của mệnh lệnh phát ra. Tiếng hí nhát gừng, rền rĩ của nó xé toang bầu không khí giá lạnh. Như một tiếng kêu đau thương cầu xin sự che chở, tiếng rít rung lên đó xói vào tai Cu-dơ-nét-xốp. Anh hiểu rằng người người ta đang làm khổ con ngựa khi kéo nó lúc hãy còn sống bị gãy chân xuống rãnh và anh chuẩn bị nheo mắt lại khi trông thấy nỗ lực cuối cùng của nó muốn vươn dậy tựa hồ như để chứng minh rằng nó hãy còn sống và không cần phải giết nó. Anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin nhe hàm răng rắn chắc, mặt đỏ bừng giận dữ đứng trước con ngựa, vội vã lên đạn, nòng súng đu đưa không ngắm, chĩa vào đầu con ngựa ẩm ướt, đẫm mồ hôi cố nghóc lên với đôi môi run rẩy vì tiếng hí cầu khẩn cuối cùng.
Phát súng nổ đanh gọn. Ru-bin nguyền rủa, nhìn con ngựa và lắp viên đạn thứ hai vào hộp. Con ngựa không hí nữa mà lặng lẽ quay đầy từ phía này sang phía kia, giờ đây nó không tự vệ, lỗ mũi run run, chỉ thở phì phì.
– Đồ cẩu thả, bắn cũng không nên hồn!-U-kha-nốp đứng gần Xec gu-nen-cốp đang sững sờ lặng người đi, anh tức điên lên quát và xông lại phía Ru-bin.-Anh mà làm việc ở lò sát sinh thì hay gớm đấy!
Anh giật khẩu súng trường từ tay Ru-bin vằ ngắm cẩn thận, bắn gần như thẳng vào đầu con ngựa đang vục mõm xuống tuyết. Mặt trắng bệch ra ngay, anh đẩy cái vỏ đạn rơi cắm xuống đỉnh đụn tuyết và ném súng trả Ru-bin.
– Này cầm lấy gậy, anh hàng thịt! Làm gì mà nhếch mép cười như một thằng ngốc thế? Ngứa mũi hả?
– Có anh là đồ hàng thịt thì có, tuy anh là dân thành phố, chữ nghĩa nhiều.-Ru-bin giận dỗi làu bàu, tuy vậy anh vẫn cúi tấm thân vuông vức, mập mạp, nhặt khẩu súng lên, lấy tay áo gạt tuyết khỏi
súng.
– Liệu cái mồm đấy nhé, tớ là tay lắm chữ nghĩa, hãy nhớ lấy!-U kha-nốp thốt lên và quay về phía Xec-gu-nen-cốp, vỗ vai anh một cách hơi thô bạo.-Thôi được. Chưa mất hết cả đâu. Ta sẽ kiếm ngựa chiến lợi phẩm ở Xta-lin-grát, chú mình ạ. Mình xin hứa như vậy.
– Bọn Đức gọi ngựa là pác-sê-rôn,-chuẩn úy Gô-lô-va-nốp nhận xét.-Chúng ta sẽ kiếm!
– Không phải pác-sê-rôn mà là péc-sê-rôn,-U-kha-nốp sửa lại.-Đã đến lúc phải biết! Thế nào, cậu chiến đấu mới năm đầu tiên hả? – Ai mà phân biệt được những tiếng ấy.
– Vẫn phải phân biệt chứ!
– Cho khẩu thứ hai xuống dốc!-Đrô-dơ-đốp-xki ra lệnh rồi cưỡi ngựa rời khỏi khẩu pháo, nói thêm:-Đúng lắm, U-kha-nốp ạ. – Ấy, đừng khen tôi, đồng chí trung úy-U-kha-nốp đáp với vẻ chế giễu trâng tráo. Ánh mắt hừng hực, như muốn gây sự vẫn chưa nguội tắt. Hãy còn sớm đấy… Đồng chí nhầm rồi. Tôi không phải là kẻ giết ngựa.
Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh tháo xe kéo khỏi khẩu pháo thứ hai. Lệnh dừng chân được phát ra sau khi mặt trời lặn, lúc hàng quân tuôn vào một làng đã bị đốt cháy trụi. Tại đây mọi người hình như ngạc nhiên khi thấy những đám tro tàn đầu tiên ở ven đường, những khung lò sưởi đơn độc bị cháy thành than dưới chân những cây liễu nhô lên nhọn hoắt dọc bờ sông băng giá, trên sông hơi nước đỏ quạch độc hại từ các hố băng bốc lên mù mịt như sương. Trên mặt đất và trên chân trời phía Tây ánh lên ráng chiều tháng Chạp đỏ như máu, lạnh buốt như một cơn đau nhói đến nỗi tưởng chừng như khuôn mặt của chiến sĩ, những cỗ pháo bị băng phủ, bờm ngựa, những chiếc xe dừng bên lề đường, tất cả đều bị xiềng cứng lại dưới ánh sáng lạnh ngắt, chói chang như kim loại của nó tỏa trên các đụn tuyết.
– Anh em ơi, cánh ta đi đâu thế nhỉ? Bọn Đức ở đâu? – Đây là một làng nào đó. Cậu nhìn xem, chả có ngôi nhà nào. Thế nghĩa là thế nào? Đến dự đám cưới ông A. hóa ra lại đến đám ma ông X.!
– Khéo chọn lúc để mà nỉ non chuyện đám ma, rồi cánh mình sẽ còn được tới Xta-lin-grát. Các cấp chỉ huy chắc biết rõ hơn… – Cuộc chiến đấu ở đó diễn ra từ bao giờ nhỉ?…
– Có lẽ lâu rồi.
– Phải tìm chỗ nào sưởi cho ấm lên một tí chứ hả? Kẻo không cánh ta tê cóng hết trước khi đến mặt trận.
– Thế cậu hãy nói cho mình biết mặt trận ở đâu nào? Lúc cách làng chừng ba ki-lô-mét, ở một ngã tư đường trên thảo nguyên, hàng quân phải dừng lại ít phút để nhường chỗ cho một đoàn dài gồm nhiều xe tăng T-34 mới tinh sơn trắng đi qua, tiến về phía mặt trời lặn. Một quả đạn của địch bắn dò dẫm nổ tung, lóe sáng như ngôi sao chổi giữa không trung, phía trên các xe tăng, rải một lớp bụi đen lên đám tuyết ven đường. Thoạt đầu không ai nằm xuống cả, vì không rõ quả đạn đó bay lạc đi đâu, họ chỉ nhìn những chiếc xe tăng ngáng đường hàng quân. Nhưng những chiếc T-34 vừa đi qua thì nghe rõ ở đâu đó phía đằng sau vang lên tiếng súng trầm trầm của các khẩu đội pháo ở xa, những quả đạn đại bác tầm xa rít lên rất lâu, xuyên qua không trung rồi nổ tung như bom ở bên phải và bên trái ngã tư đường. Ai cũng nghĩ rằng bọn Đức đã trông thấy ngã tư này và mọi người mệt mỏi nằm xuống ngay lề đường, chẳng ai còn hơi sức chạy xa khỏi đường. Cuộc nã pháo đó kết thúc nhanh chóng. Không ai việc gì, hàng quân lại tiếp tục tuôn đi. Mọi người cất bước, chật vật lê đôi chân qua những cái hố lớn nóng hổi do đạn pháo vừa đào lên, mùi thuốc nổ của Đức từa tựa mùi hành tỏa khắp không trung. Cái mùi vị có thể đem lại chết chóc đó không nhắc nhở mọi người nhớ tới nỗi hiểm nguy mà nhắc nhở tới Xta-lin-grát giờ đây không thể đi đến được, tới những tên Đức vô hình đang bắn từ những hỏa điểm xa xôi, bí mật của chúng.
Và Cu-dơ-nét-xốp lại khi thì rơi vào trạng thái mơ mơ màng màng, khi thì nghe thấy tiếng bước chân mình và sự chuyển động sít liền nhau của hàng quân, anh chỉ nghĩ tới một điều: “Khi nào thì được nghỉ? Khi nào nghỉ?”.
Nhưng sau nhiều giờ hành quân, lúc mọi người vào cái làng bị cháy, mệnh lệnh “nghỉ chân” bấy lâu chờ đợi rốt cuộc bật lên như một lời vẫy gọi, chẳng ai cảm thấy thể xác nhẹ nhõm. Những người coi
ngựa chân tay tê cóng tụt xuống từ trên lưng những con ngựa bốc hơi ngùn ngụt, họ vấp chân, loạng choạng bước đi trên đôi chân cứng đờ như gỗ, nhích ra lề đường, rùng mình khi đi tiểu tiện. Còn các pháo thủ mệt bã người nằm lăn ra tuyết, đằng sau các xe tải và gần các khẩu pháo, lưng và sườn áp chặt vào nhau, họ buồn bã đưa mắt nhìn nơi trước đây là một xóm làng: bóng dáng lầm lì của những lò sưởi giờ trông như những mộ chí trên nghĩa địa, những đường viền xa xa đậm nét của hai kho lúa còn nguyên vẹn, hằn trên nền trời giá lạnh rực cháy ở phía Tây như hai dấu ấn đen.
Trên khắp khoảnh đất rực đỏ dưới ánh hoàng hôn đó ngổn ngang những ô tô, máy kéo, súng phóng hỏa tiễn “Ca-chiu-sa”, lựu pháo, xe tải. Tuy nhiên mỗi người đều cảm thấy việc nghỉ chân trên những ngõ ngách của một xóm làng chẳng còn tồn tại, không hơi ấm, không có bếp núc, không có cảm giác được ở gần mặt trận, việc nghỉ chân đó giống như một sự lừa dối, không hợp lý. Gió Tây đem lại những sợi tuyết lạnh giá như kim, tro tàn của các đám cháy bốc lên rầu rĩ.
Cố gượng để khỏi ngã, Cu-dơ-nét-xốp đi lại phía các chiến sĩ coi ngựa của khẩu pháo thứ nhất. Ru-bin mặt càng đỏ lựng hơn đang lầm lì cau có xem lại dây thắng của đôi ngựa sườn nhễ nhại mồ hôi đang bốc hơi ngùn ngụt. Anh chàng Xec-gu-nen-cốp lim dim cặp lông mày trắng xóa tỏ ra vẫn chưa nguôi vì chuyện đã qua, đứng gần con ngựa độc nhất còn lại của mình, chìa nắm lúa mạch trên lòng bàn tay về phía đôi môi của con ngựa mệt mỏi vẻ thèm khát tớp lấy tớp để, tay kia anh vuốt ve, vỗ vỗ cái cổ ấm cúi xuống của nó. Cu-dơ-nét-xốp thấy những người coi ngựa chả ai chú ý đến ai, anh định nói đôi lời hòa giải hai người nhưng anh không nói gì và đi về phía anh em pháo thủ với mong ước được nằm gần họ, tì lưng vào ai đó, lấy cổ áo che cho gió khỏi quất vào mặt, nằm, thở, làm cho ấm người lên.
… -Đứng dậy! Hết giờ nghỉ!-Tiếng hô kéo dài khắp hàng quân.- Chuẩn bị lên đường!
– Chưa kịp nhắy mắt đã hết nghỉ rồi à?-Những giọng nói bực bội trao đổi trong bóng tối.-Người ta lại giục đi.
– Phải có cái gì nhai chứ, thế mà cấm có thấy bóng dáng chuẩn úy với bếp đâu. Có lẽ ông ấy đang chiến đấu ở hậu phương! “Thế là lại lên đường,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, trong tiềm thức anh luôn luôn chờ đợi mệnh lệnh này, anh cảm thấy đôi chân mệt mỏi
nặng trĩu đến run lên.-Thế mặt trận ở đâu nhỉ? Chuyển quân đi đâu?…”.
Anh không biết mà chỉ đoán được rằng Xta-lin-grát giờ đây đã nằm lại đâu đó phía sau lưng, dường như ở hậu phương, anh không biết rằng toàn bộ tập đoàn quân và do đó, một sư đoàn của nó trong đó có trung đoàn pháo và tiểu đoàn của anh, trung đội của anh, đang cấp tốc hành quân về hướng Tây Nam để chặn các sư đoàn xe tăng của bọn Đức đã bắt đầu tiến công nhằm giải vây xe tăng của bọn Đức đã bắt đầu tiến công nhằm giải vây ở vùng Xta-lin-grát. Anh cũng chưa biết rằng số phận của riêng anh và số phận của tất cả những người đi bên cạnh anh-những người sẽ hy sinh và những người còn được sống,-giờ đây đã thành số phận chung không phụ thuộc vào mong muốn của mỗi người…
– Chuẩn bị lên đường! Các trung đội trưởng tới gặp đại đội trưởng! Trong bóng tối dày đặc các chiến sĩ miễn cưỡng, uể oải đứng dậy. Khắp nơi vang lên tiếng ho, tiếng ì ạch, đôi khi cả tiếng văng tục. Anh em pháo thủ tỏ ra không vừa ý, đứng dậy đi về phía các khẩu pháo, cầm lấy những khẩu súng trường và súng các-bin để trên càng pháo, nguyền rủa thậm tệ nhà bếp và chuẩn úy phụ trách. Còn anh em coi ngựa đang nhai, dùng cùi tay hích chúng: “Này lũ ăn bám, lúc nào cũng chỉ biết hốc thôi!”. Ở phía trước, các ống xả khí bắt đầu nổ vang, tiếng động cơ gầm lên. Các trung đội thong thả giãn dài trên đường làng chuẩn bị lên đường.
Trung úy Đrô-dơ-đốp-xki đứng giữa các chiến sĩ trinh sát và thông tin ở giữa đường, gần đống lửa đã tắt, bốc khói trắng ở dưới chân. Khi Cu-dơ-nét-xốp lại gần, Đrô-dơ-đốp-xki soi đèn pin lên tấm bản đồ bọc xen-luy-lô-ít do chuẩn úy Gô-lô-va-nốp cao lớn cầm, anh nói bằng cái giọng không chịu được sự phản đối:
– Đừng nêu những câu hỏi thừa. Điểm cuối cùng của chặng đường hành quân chưa rõ. Ta đi về hướng Tây Nam, trên con đường này này. Đồng chí cùng với trung đội của mình đi ở phía trước tiểu đoàn. Cũng như trước đây, tiểu đoàn ta đi tập hậu hoàn trung đoàn.
– Rõ,-Gô-lô-va-nốp gầm lên giọng trầm và cùng với các chiến sĩ trinh sát và thông tin đi theo con đường phía trước, ngang qua những xe tải lù lù trong bóng tối:
– Trung úy Cu-dơ-nét-xốp đấy à?-Đrô-dơ-đốp-xki nâng đèn pin lên. Chói mắt vì ánh đèn pin sáng lóa, Cu-dơ-nét-xốp nhích ra một tí và nói:
– Có thể không cần bấm đèn không? Không đèn tôi cũng nhìn rõ được. Có gì mới không, đồng chí đại đội trưởng?
– Trong trung đội mọi việc đều ổn chứ? Không ai tụt lại chứ? Có người ốm không? Sẵn sàng lên đường chưa? Trả lời ngắn gọn thôi. Đrô-dơ-đốp-xki nêu những câu hỏi một cách máy móc, hình như anh nghĩ về chuyện khác và điều đó khiến cho Cu-dơ-nét-xốp bực mình:
– Anh em chưa kịp nghỉ ngơi. Tôi muốn hỏi: bếp đâu, đại đội trưởng? Tại sao chuẩn úy tụt lại thế? Mọi người đói cồn cào cả người! Tất cả sẵn sàng lên đường, có gì mà phải hỏi. Không có ai ốm, không ai tụt lại. Cũng chả có ai đào ngũ…
– Báo cáo gì kỳ thế, Cu-dơ-nét-xốp?-Đrô-dơ-đốp-xki buột miệng nói.-Các anh không hài lòng ư? Có lẽ ta sẽ khoanh tay ngồi đây chờ ăn à? Anh là cái gì… trung đội trưởng hay là một anh coi ngựa? – Cứ như tôi được biết thì tôi là trung đội trưởng.
– Không rõ lắm! Anh để cho bọnukn nó xỏ mũi… Đó là cái cung cách gì thế? Về trung đội ngay!-Đrô-dơ-đốp-xki ra lệnh bằng giọng lạnh như băng,-và anh hãy chuẩn bị cho anh em không phải là nghĩ tới ăn mà nghĩ tới chiến đấu! Anh làm tôi ngạc nhiên đấy trung úy Cu dơ-nét-xốp ạ! Khi thì người của anh tụt lại, khi thì ngựa gãy chân…
Tôi không hiểu chúng ta sẽ cùng chiến đấu với nhau ra sao đây. – Anh cũng làm tôi ngạc nhiên đấy, đại đội trưởng ạ! Có thể nói với nhau bằng giọng khác. Tôi sẽ hiểu rõ hơn,-Cu-dơ-nét-xốp khó chịu đáp và bước về phía bóng tối tràn ngập tiếng rú của động cơ, tiếng ngựa hí.
– Trung úy Cu-dơ-nét-xốp!-Đrô-dơ-đốp-xki gọi.-Quay lại!… – Còn gì nữa?
Ánh đèn pin nhích gần lại ở phía sau lưng, soi rõ sương mù lạnh giá, như cù vào má anh.
– Trung úy Cu-dơ-nét-xốp!…-Luồng ánh sáng hẹp và sắc cứa vào mắt Cu-dơ-nét-xốp; Đrô-dơ-đốp-xki vòng lên phía trước, chặn đường,
toàn thân căng thẳng như sợi dây đàn.-Đứng lại, tôi ra lệnh! – Cất đèn đi, đại đội trưởng,-Cu-dơ-nét-xốp khẽ thốt lên, cảm thấy điều có thể xảy ra giữa họ lúc này, vào giây phút này, nhưng chính lúc nào mỗi lời nói của Đrô-dơ-đốp-xki, cái giọng tách bạch dằn từng tiếng đanh thép gây nên trong Cu-dơ-nét-xốp sự chống đối ngấm ngầm không cưỡng đuợc tựa hồ như tất cả những gì Đrô-dơ-đốp-xki làm, nói, ra lệnh cho anh đều là mưu toan trực tiếp và có tính toán nhắc nhở tới uy quyền của mình và xúc phạm anh.
“Đúng, anh ta muốn thế”,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và ảnh cảm thấy ánh đèn pin chĩa sát vào người và trong quầng sáng chói chang màu da cam anh nghe thấy tiếng thì thào của Đrô-dơ-đốp-xki:
– Cu-dơ-nét-xốp… Cậu hãy nhớ rằng mình chỉ huy tiểu đoàn này. Mình!… Chỉ có mình thôi! Đây không phải là trường pháo binh! Kiểu bạn bè cánh hẩu đã chấm dứt! Nếu cậu khủng khỉnh thì sẽ không hay ho gì cho cậu đâu! Tôi sẽ không khách khí, không có ý định như thế! Rõ cả chưa? Chạy về trung đội!-Đrô-dơ-đốp-xki nghếch đèn pin vào ngực anh.-Về trung đội, chạy!…
Lóa mắt vì ánh sáng chiếu thẳng vào mặt, anh không trông thấy mắt Đrô-dơ-đốp-xki, chỉ có một cái gì đó cứng đơ và lạnh giá như một mũi nhọn cùn nhụt xói vào ngực anh. Và lúc ấy anh gạt phăng bàn tay cầm đèn pin của Đrô-dơ-đốp-xki, giữ nó lại một lát rồi nói:
– Dẫu sao anh hãy cất đèn pin đi… Còn như dọa nạt… thì nghe buồn cười lắm, đại đội trưởng ạ!
Và anh bước đi trên con đường nhập nhoạng, không phân biệt rõ trong bóng tối hình thù ô tô, xe kéo pháo, bóng dáng những người coi ngựa đứng cạnh những con ngựa: ánh đèn pin đã để lại trong mắt anh những quầng sáng giống như những tia lửa ở những đống lửa đã tắt lập lòe giữa đêm đen. Đến gần trung đội mình, anh vấp phải trung úy Đa-vla-chi-an đang chạy, phả ra mùi bánh mì nhẹ nhõm thơm phức, vội vã hỏi:
– Cậu ở chỗ Đrô-dơ-đốp-xki về đấy à? Có gì ở đằng ấy thế? – Đi đi, Gô-ga. Người ta quan tâm đến tâm trạng anh em trong trung đội, xem có người ốm không, có người đào ngũ không,-Cu-dơ nét-xốp nói không phải không có vẻ mỉa mai cay độc.-Theo mình thì chỗ cậu có hả?
– Vớ vẩn và ngớ ngẩn!-Đa-vla-chi-an đáp bằng giọng học trò và vừa gặm lương khô vừa nói thêm vẻ khinh thường: Nhảm nhí quá đấy!
Anh biến vào trong bóng tối, mang theo hương vị bánh mì đầm ấm, dễ chịu.
“Đúng là ngớ ngẩn và lên cơn thần kinh,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, nhớ lại những lời lẽ hăm dọa của Đrô-dơ-đốp-xki và cảm thấy tính chất trần trụi trái tự nhiên của những lời nói đó.-Anh ta định làm gì? Trả thù mình vì chuyện U-kha-nốp, vì con ngựa bị gãy chân chăng?”
Từ xa truyền lại khắp hàng quân mệnh lệnh quen thuộc, ngày càng to dần lên: “Tiến!”. Và khi lại gần chỗ thắng xe kéo khẩu pháo thứ nhất, nơi thấp thoáng bóng những người coi ngựa nghễu nghện trên mình ngựa, anh nhắc lại khẩu lệnh:
– Toàn trung đội, tiến!…
Tất cả cùng chuyển động một lúc, lắc lư, trục xe cọt kẹt: tuyết dày đặc rít lên dưới bánh xe đông cứng của các khẩu pháo. Tiếng chân bước của nhiều người vang lên lạo xạo.
Khi trung đội đã vươn dài trên đường, có người giúi vào tay Cu-dơ nét-xốp mẩu lương khô cứng đơ, khô khốc.
– Đói lả rồi hả?-Anh nghe thấy tiếng Đa-vla-chi-an nói.-Cầm lấy này. Ăn vào sẽ tươi lên ngay.
Cu-dơ-nét-xốp gậm miếng bánh khô, cảm thấy ngọt lịm, cơn đói dịu đi, anh cảm động nói:
– Cám ơn Gô-ga. Làm thế nào cậu còn giữ được?
– Ờ, cái cậu này! Cậu nói vớ vẩn. Ta ra mặt trận hả? – Chắc thế Gô-ga ạ.
– Rồi sẽ biết ngay thôi, thật đấy…
Chương năm
Trong lúc ở các bộ tham mưu cao cấp Đức, mọi sự tưởng như đã được hoạch định sẵn, giải quyết, duyệt y và các trung đoàn xe tăng của Man-sten bắt đầu đánh phá vây từ vùng Cô-ten-ni-cô-vô về hướng Xta-lin-grát nát vụn sau cuộc chiến đấu suốt bốn tháng trời, để tiếp sức cho đạo quân ba mươi vạn tên của thượng tướng Pao-luýt xơ bị các phương diện quân của ta bao vây giữa băng tuyết và đổ nát đang căng thẳng chờ đợi lối thoát,-trong lúc ấy thêm một tập đoàn quân của chúng ta vừa mới được thành lập ở hậu phương theo lệnh của Đại bản doanh đã được ném về phía Nam xuyên qua những thảo nguyên mênh mông để đón đánh tập đoàn quân xung kích “Gốt” gồm mười ba sư đoàn. Hoạt động của phía này cũng như phía kia dường như gợi cho ta nhớ đến những cái đĩa cân trên đó giờ đây đã được đặt tất cả mọi khả năng có thể có trong những hoàn cảnh đó…
… Chiếc xe chiến lợi phẩm nhãn hiệu “Hoóc-xơ” phóng nhanh, khi thì đi vòng quan hàng quân khi thì tụt lại, nhảy chồm chồm lên lề đường. Tướng Bét-xô-nốp rụt đầu trong cổ áo, ngồi im phăng phắc nhìn qua kính chắn gió, im lặng từ lúc rời khỏi bộ tham mưu tập đoàn quân. Sự im lặng kéo dài đó của vị tư lệnh được những người đi trong xe hiểu một cách đặc biệt, coi đó như dấu hiệu chứng tỏ ông ít thích giao du, như trở ngại không ai dám là người đầu tiên vượt qua. Ủy viên Hội đồng quân sự, chính ủy sư đoàn Ve-xnin im lặng. Ngay cả người sĩ quan tùy tùng của Bét-xô-nốp là thiếu tá Bô-gi-scô trẻ tuổi, tính tình xởi lởi, ngả người ở một góc ghế sau, giả vờ ngủ, cũng không dám liều phá tan sự im lặng hoàn toàn của cấp trên tuy ngay từ đầu chuyến đi anh luôn có ý muốn kể lại giai thoại mới nhất ở ban tham mưu nhưng chưa có tìm được dịp thích hợp.
Bản thân Bét-xô-nốp không nghĩ rằng sự kín đáo của ông có thể được xem như ý muốn không giao tiếp hoặc như thái độ dửng dưng tự đắc đối với người xung quanh. Từ lâu qua kinh nghiệm ông đã biết rằng tính hay nói hoặc sự im lặng không thể thay đổi gì được mối quan hệ qua lại của ông với mọi người. Ông không muốn làm cho tất cả mọi người vừa lòng, không muốn tỏ ra nhã nhặn đối với tất cả mọi người trò chuyện với mình. Mưu mẹo nhỏ nhen đầy tham vọng kiểu
đó nhằm giành tình cảm bao giờ cũng khiến ông ghê tởm, bực bội và xa lánh, xem đó như là sự nông nổi trống rỗng hoặc sự yếu đuối của một con người thiếu tự tin. Từ lâu Bét-xô-nốp đã tin rằng những lời nói thừa trong chiến tranh lại là hạt bụi đôi khi che lấp thực trạng của sự vật. Vì vậy khi tiếp nhận tập đoàn quân, ông ít hỏi han về ưu điểm và khuyết điểm của các chỉ huy quân đoàn và sư đoàn, ông đi thăm họ, hầu như làm quen với họ một cách khô khan, nhìn kỹ từng người, không hài lòng lắm nhưng cũng không thất vọng lắm.
Điều Bét-xô-nốp nhìn thấy giờ đây qua kính chắn gió của chiếc xe “Hoóc-xơ”, dưới ánh sáng đèn pha ô tô đôi khi lóe lên trong sương mù giá lạnh-khuôn mặt chiến sĩ và chỉ huy với những chiếc mũ lót đầy sương giá buộc xùm xụp theo kiểu đàn bà nông thôn, dòng chảy bất tận của những đôi ủng lê gót trên đường-bảo cho ông biết rằng đây không phải là sự suy sụp “tinh thần chiến đấu” đáng sợ mà đây chỉ là sự mệt mỏi cùng cực làm người ta kiệt sức, nằm ngoài quyền lực của ông. Những người lính đội những chiếc mũ lót này sắp bước vào chiến đấu và có lẽ cứ năm người bọn họ thì có một người chết nhanh hơn là họ nghĩ. Họ không biết và không thể biết được trận đánh bắt đầu ở đâu, không biết rằng nhiều người trong bọn họ đang làm cuộc hành quân cuối cùng trong đời mình trước khi chiến đấu. Bét-xô-nốp xác định rõ ràng và tỉnh táo mức độ của nỗi hiểm nguy đang tới gần. Ông biết rõ rằng mặt trận khó lòng giữ vững được trên hướng Cô-ten ni-cô-vô, rằng xe tăng của bọn Đức trong ba ngày đêm đã tiến được chục ki-lô-mét về phía Xta-lin-grát và giờ đây, trước mắt chúng chỉ có một trở ngại duy nhất là con sông Mư-scô-va, còn bên kia sông là thảo nguyên bằng phẳng chạy dài tới tận sông Vôn-ga. Và Bét-xô-nốp cũng hiểu rõ rằng trong những giây phút này khi ông ngồi trong xe suy nghĩ về tình huống mà ông đã biết rõ thì tập đoàn quân của ông và các sư đoàn xe tăng của Man-sten đều kiên trì như nhau tiến về cái giới hạn tự nhiên đó và vì vậy rất nhiều điều, nếu như không phải là tất cả, lệ thuộc vào chỗ ai sẽ đến sông Mư-scô-va trước.
Ông toan xem đồng hồ nhưng không xe, không cựa quậy sợ cử chỉ đó phá vỡ sự im lặng, tạo cớ cho mọi người nói chuyện, điều mà ông không muốn. Ông vẫn im lặng như trước, ngồi bất động như phỗng, tì tay vào cái gậy, tìm mãi một tư thế thuận tiện, chìa cẳng chân đau vào chỗ hơi nóng của động cơ. Người lái xe đứng tuổi thỉnh thoảng lại liếc mắt và trông thấy lờ mờ dưới ánh sáng yếu ớt của bảng máy trước
mặt khóe mắt cau có, nặng trĩu của trung tướng, cái má khô khan, cặp môi mím chặt cứng của ông. Đã từng lái xe cho nhiều vị tư lệnh khác nhau, người lái xe từng trải hiểu sự im lặng trong xe theo cách riêng của mình-coi đây như hậu quả cuộc cãi nhau trước chuyến đi hoặc hậu quả của việc bị các cấp chỉ huy phương diện quân xạc. Ở phía sau đôi khi lửa diêm lóe lên, điếu thuốc lá của chính ủy lập lòe trong bóng tối, quai da đeo chéo người ông cọt kẹt; anh chàng Bô-gi-scô luôn luôn vui tính vẫn giả vờ thiêm thiếp ở một góc ghế trên xe.
“Chắc có điều gì làm đồng chí ấy không hài lòng hay tính đồng chí ấy ít thích trò chuyện-anh lái xe suy nghĩ, đồng thời cứ mỗi khi điếu thuốc lá lóe lên ở sau lưng, anh lại càng thèm một hơi đến phát điên lên.-Đồng chí ấy không hút thuốc, trông khuôn mặt xanh xao thế chắc là ốm đau. Hay là mình xin phép: xin cho phép tôi hút một điếu thuốc, thưa đồng chí tư lệnh, không được hút thuốc tai tôi sưng cả lên…”.
– Bật đèn pha lên,-Bét-xô-nốp bỗng nói.
Nghe tiếng ông nói người lái xe giật mình, bật đèn pha. Luồng ánh sáng mạnh mẽ xuyên qua sương mù giá lạnh rọi về phía trước. Dưới ánh sáng rực của những ngọn đèn pha, sương mù tan loãng trên mặt đường, cuộn tròn, xô vào kính xe như sóng, vương trên những cái gạt nước đang quơ đi quơ lại, trùm lên xe làn khói xanh lam. Trong nháy mắt tưởng như xe đang đi dưới đáy đại dương, tiếng gầm rú đều đều của động cơ chính là tiếng vọng của những lớp âm vang nằm sâu dưới đáy biển.
Tiếp đó hàng quân đột ngột lại gần, xuất hiện ở phía bên phải, đông dần lên, đen ngòm, nào cặp lồng, nào súng máy, súng trường dính đầy sương giá hỗn độn sáng lóe lên dưới ánh sáng chói lòa. Hàng quân túm tụm đông đặc trước những chiếc xe tăng đồ sộ bị tuyết phủ kín trông như những chiếc xe tăng đồ sộ bị tuyết phủ kín trông như kho lúa, chắn hết cả đường đi. Các chiến sĩ quay lại nhín ánh sáng gay gắt lạ lùng của chiếc xe-không hài lòng, mệt mỏi, mũ lót dính vào mặt như dán lá cao màu trắng, họ đồng thời la thét gì đó, tay khua khua.
– Lại chỗ xe tăng,-Bét-xô-nốp ra lệnh cho lái xe.
– Có lẽ anh em ở quân đoàn cơ giới, ủy viên Hội đồng quân sự Ve xnin nói vẻ sôi nổi.-Sao họ lại ở đây nhỉ, bọn nỡm, làm nghẽn cả đường! Liệu họ có làm cho đám bộ binh bực mình?-Tuy nhiên ông rất
cưng các chiến sĩ xe tăng, bởi vậy ông nói chữ “bọn nỡm” một cách trìu mến và nói thêm ngay bằng một giọng phấn khởi thận trọng:-Kìa những con chim ưng!
– Chỉ có điều là chim ưng biết bò thôi, thưa đồng chí chính ủy,-Bô gi-scô đột nhiên tỉnh ngủ, chêm vào một cách giễu cợt. – Đây không phải là xe của quân đoàn cơ giới.-Bét-xô-nốp sửa lại một cách chắc nịch.-Quân đoàn cơ giới chuyển quân dọc theo đường sắt. Ở phía bên trái chúng ta. Họ không thể có mặt ở đây lúc này được. Vô luận trong tình hình nào.
– Đồng chí cho phép tôi tìm hiểu, thưa đồng chí tư lệnh.-Bô-gi-scô phấn khởi lên tiếng, tựa hồ như anh chẳng hề thiu thiu tí nào. Ngồi yên không làm gì, không được nói chuyện nên anh dường như vui thích trước bất cứ dịp nào có thể bày tỏ nghị lực của mình.
Bét-xô-nốp lại ra lệnh cho lái xe:
– Dừng xe lại.
Động cơ mạnh của chiếc xe “Hoóc-xơ” im bặt, ánh đèn pha vụt tắt trong im lặng tựa như nó chui vào bộ tản nhiệt. Đêm tối trùm xuống ngay, cả hàng quân lẫn xe tăng biến mất. Bét-xô-nốp nán lại trong xe cho quen với bóng tối rồi mở cửa, thò chiếc gậy ra ngoài tìm chỗ tựa. Khi chui ra khỏi xe, ông đụng chân vào thành cửa và cảm thấy nhói đau ở đầu gối, bực mình vì lúc ấy ông đã nghĩ làm sao để khỏi đụng chân, ấy thế mà vẫn cứ đụng.
Trời sáng sao, màu xanh lam đùng đục, lạnh giá. Bét-xô-nốp không phân biệt rõ được giữa bóng tối trên tuyến hàng quân ngoằn ngoèo như một dải băng kéo dài trên thảo nguyên đầy sao, bị những khối xe tăng vuông vức chắn lại: bóng dài của những chiếc xe với đèn pha bịt lại, những chiếc xe tải, đám chiến sĩ xúm xít lại. Ông nghe rõ tiếng động cơ ô tô và máy kéo đứng tại chỗ rồ lên ở trên đường; những tiếng nói khàn khàn như bị cảm lạnh, la ó, văng tục ở phía trước.
– Ê này, các cậu xe tăng, lính kỹ thuật, mẹ kiếp, làm gì mà đứng chôn chân ở đây thế hả?
– Bỏ mẹ thật, các bố ấy say mèm ra rồi!
– Dọn ngay cái mớ sắt thép của mình khỏi đường đi. Các anh khệnh khang như là đi dự đám cưới ấy! Chắc lại nốc rượu rồi mắt mờ cả đi!
– Giải phóng mặt đường. Cho đi với.
– Anh em ơi, hình như có cấp trên nào đến ấy… Hai xe con!… Bét-xô-nốp đi vào giữa những tiếng la hét láo nháo đó, ông biết rằng anh em bộ đội con ít biết mặt ông, trên áo choàng ngắn của ông lại không đeo phù hiệu và quân hiệu cấp tướng nhưng khi trông thấy chiếc mũ lông cao của ông, tiếng xỉ vả trong đám đông dần dần lặng đi và một giọng nói lanh lảnh gần đó thốt lên:
– Hình như một ông tướng…
– Ai là chỉ huy đơn vị xe tăng?-Bét-xô-nốp hỏi bằng một giọng mệt mỏi, rin rít, không to lắm.-Tôi yêu cầu báo cáo.
Yên lặng như tờ. Sau khi trao đổi với nhau, ủy viên Hội đồng quân sự Ve-xnin và Bô-gi-scô rời xe đi tới. Họ dừng lại và cũng im lặng. Các xạ thủ súng máy, đội bảo vệ nhảy từ chiếc xe thứ hai xuống lòng đường.
Bét-xô-nốp chờ đợi. Không ai lên tiếng cả.
Từ khối đen sẫm đồ sộ của chiếc xe tăng gần nhất bị những mảng tuyết xam xám phủ lấp lánh trên vỏ bốc lên mùi kim khí bị nung trong băng giá, mùi dầu ma dút đăng đắng, đông lại. Trong xe tăng hình như không có ai, đèn tắt, chiếc xe tăng như chết lặng. Chỉ thấy ở tháp xe một vật gì đó đen đen, hơi ngọ nguậy, che lấp các vì sao nhưng không thấy tiếng động ở đó.
– Tôi bảo: chỉ huy đơn vị xe tăng hãy đến gặp tôi,-Bét-xô-nốp nhắc lại cũng bằng giọng khi nãy.-Tôi chờ đây.
– Hỏi ai kia? Đằng ấy là bộ binh, không chỉ huy được tớ! Tốt hơn hết là đi vòng tránh xe tăng kẻo không sẽ sinh chuyện đấy!-một giọng hằn học vang lên ở phía trên và bóng đen lờ mờ đó nhô ra khỏi tháp xe, động đậy rõ hơn trên nền trời sao.
– Nào, xuống gặp trung tướng đi, cái đầu bò đội mũ lính tăng! Sao lại nói chuyệu kiểu ấy?-Bô-gi-scô nói với sự vui vẻ thái quá và chộp lấy tay vịn bằng sắt leo lên nóc xe, thúc giục người đứng trên đó-Mau lên, mau lên! Xuống gặp trung tướng!
– Gặp tướng nào nữa? Đừng có lừa tôi? Đây có phải trẻ con đâu… Ông tướng lóp ngóp cùng với bộ binh ấy à? Còn ai ở bộ tham mưu nữa nào?
– Thôi, thôi, chú mình, lý sự dài dòng quá. Nhảy từ trên trời xuống đất đi!
Chiếc đèn pin lóe lên ở trên cao, ánh sáng xanh ngụy trang của nó lôi từ trong bóng đêm ra một người nhìn từ phía dưới lên dường như cao lớn, vận áo liền quần có lẽ mặc ra ngoài áo bông. Người đó từ từ leo từ tháp pháo xuống nóc xe rồi nhảy xuống đường.
– Bô-gi-scô, bấm đèn nữa đi,-Bét-xô-nốp ra lệnh.-Và dẫn anh ta lại đây.
– Nào, nào, chú mình, lại gần đây, đừng sợ.-Bô-gi-scô nói. Anh lính xe tăng dừng lại trước mặt Bét-xô-nốp, ở dưới mặt đất trông người nhỏ hẳn đi nhưng dẫu sao anh ta cũng cao hơn ông một cái đầu. Anh ta lúng túng, vụng về, trong bộ quân phục của mình, khuôn mặt kích động dính đầy muội, cặp mắt đầy khói đen cụp xuống dưới ánh đèn pin, đôi môi cũng đen sì, run lật bật. Anh ta thở ì ạch, phả ngay ra hơi rượu nồng nặc.
– Anh say rượu à?-Bét-xô-nốp hỏi.-Hãy nhìn thẳng vào tôi, anh lính xe tăng!
– Không… đồng chí trung tướng. Tiêu chuẩn của tôi… tôi… tiêu chuẩn…-Người lính xe tăng cố gắng đáp, vẫn không ngước được mi mắt đen rầu rĩ lên, lỗ mũi anh ta phập phồng.
– Phiên hiệu đơn vị, quân hàm? Đồng chí từ đâu tới? Đôi môi rộp lên của người lính xe tăng động đậy liên hồi: – Trung đoàn xe tăng độc lập số 45, tiểu đoàn một, chỉ huy đại đội ba, trung úy A.Giéc-ma-trép…
Bét-xô-nốp chăm chú nhìn anh ta, vẫn chưa tin là anh ta trả lời đúng.
– Sao lại 45? Bằng cách nào anh lại ở đây được, đồng chí đại đội trưởng?-ông hỏi rất rành rọt.-Trung đoàn 45 đã được phiên chế vào một tập đoàn quân khác và theo như tôi được biết, nó đang phòng ngự ở phía trước! Anh hãy trả lời rõ ràng hơn.
Người lính xe tăng bỗng ngẩng đầu lên, mí mắt anh ta mở to, ánh mắt đen mờ đục vì say rượu lộ vẻ khiếp sợ, trông như hề. Anh ta nói giọng khàn khàn:
– Làm gì có phòng ngự ở đó. Quân Đức đã chiếm được làng rồi.
Chúng đánh tập hậu. Đại đội của tôi chỉ còn lại có ba chiếc xe tăng này… Hai chiếc bị đạn xuyên thủng… Trang bị không đầy đủ… Tôi và số còn lại của đại đội… chạy thoát…
– Các anh đã chạy thoát?-Bét-xô-nốp hỏi lại và mãi tới phút này mới hiểu thật rõ tất cả, ông lặp lại cái từ ngữ sắc nhọn, gai góc thường hay nghe nói vào năm bốn mốt:-Các anh đã chạy thoát? Và những người khác cũng đã chạy thoát hả trung úy? Còn ai chạy thoát nữa?-Bét-xô-nốp giận dữ lặp lại, dằn từng tiếng “chúng tôi đã chạy thoát” và “tôi đã chạy thoát”.
– Chà, đồ khốn kiếp.-Trong đám anh em chiến sĩ có người nguyền rủa.
Người lính xe tăng nói giọng nghẹn ngào:
– Tôi không biết… không biết ai đã chạy thoát. Tôi đã vọt ra cùng với những xe tăng này… không có liên lạc, thưa đồng chí trung tướng… Ra-đi-ô hỏng. Tôi không thể…
– Anh còn nói gì nữa không?
Bét-xô-nốp bị đau nhói ở đầu gối, cố nén giận, ông không còn trông rõ một người riêng biệt nào nữa, chỉ nghe thấy những khẩu lệnh tách bạch, tiếng rúng của động cơ ở sau lưng hàng quân dài đã dừng lại, thở ì ạch như một cơ thể sống, y như thể nó đã bị đánh tan trên đường đi tới nơi mà từ đó người trung úy xe tăng say khướt này trong cơn tuyệt vọng mù quáng đã bỏ chạy cùng với ba chiếc xe tăng giờ đây đang ngáng trở đường đi và ông cảm thấy như có một cái gì độc hại giống như chính sự hoảng loạn đang lượn lờ trong không khí như một bóng đen. Các chiến sĩ đứng quanh người lính xe tăng lặng người đi.
Bét-xô-nốp nhắc lại:
– Anh không nói thêm gì nữa chứ, trung úy?
Người lính xe tăng hít không khí qua lỗ mũi, tựa hồ như khóc không thành tiếng.
– Thiếu tá Tít-cốp.-Bét-xô-nốp ra lệnh trong bóng tối bằng một giọng rành rọt cứng rắn, không khoan nhượng như người ta ta tuyên đọc bản án không được phép kháng án.-Hãy bắt giam hắn!… Và đưa ra tòa án quân sự xét xử như một tên hèn nhát!
Ông hiểu rõ hiệu lực không thể cưỡng lại được của mệnh lệnh của
mình, hiểu rõ rằng mệnh lệnh của ông sẽ được thi hành ngay tức khắc và khi trông thấy dáng người thấp, đanh chắc như thép của thiếu tá Tít-cốp trong đội bảo vệ của mình với hai chiến sĩ súng máy khỏe như lực sĩ tiến lại gần người lính xe tăng, ông chau mày, bất giác quay đi, buông từng tiếng nhát gừng với thiếu tá Bô-gi-scô:
– Anh hãy kiểm tra xem những người khác trong xe tăng thế nào! – Rõ, thưa đồng chí tư lệnh!-Bô-gi-scô đáp bằng một tiếng hô yếu ớt thể hiện sự ngạc nhiên và phục tùng như thể lúc này từ thân mình của vị tư lệnh phát ra một luồng sóng chết chóc, chạm cả vào người anh, một sĩ quan tùy tùng. Và điều đó khiến Bét-xô-nốp khó chịu. Ông đi trên đường về phía trước.
– Ai chỉ huy ở đây? Tại sao xe tải chắn mất lối đi?-Bét-xô-nốp thốt lên với vẻ dè dặt lạnh lùng, bước lên chiếc cầu, chiếc gậy của ông gõ xuống sàn gỗ. Ông đi nhanh, có không khập khiễng.
Anh em chiến sĩ tụ tập ở trên cầu kính cẩn giãn ra trước mặt Bét xô-nốp, có người nói trong bóng tối:
– Thiếu úy ở đây… động cơ gay rồi…
Ở phía trước, trên dải cầu hẹp màu lam nhạt dưới ánh sáng sao, lờ mờ nhô ra sườn của một chiếc xe tải có thùng xe cao-chắc hẳn sao khi quay máy thử tại chỗ-trùm vải bạt trong đó có ánh đèn vàng vọt le lói. Mấy người với vẻ mặt lo lắng nghiêng mình trên động cơ, hầu như che khuất ánh đèn trong xe.
– Chỉ huy đến gặp tôi! Xe của ai đây?
Ngay lúc ấy một dáng người nhỏ nhắn trông như một đứa trẻ mặc cái áo choàng lụng thụng-nhanh chóng đứng thẳng dậy gần tấm vải bạt. Ánh sáng ngọn đèn ở phía sau soi rõ chiếc mũ lông đội sụp xuống tận vai, đôi vai hẹp, không trông rõ mặt, chỉ thấy hơi thở bốc hơi và tiếng hét vang như tiếng gáy rất cao của một chú gà trống non:
– Thiếu úy Bê-len-xki! Xe của T.Đ.S.C phục vụ pháo binh… phải dừng lại bất ngờ vì xe hỏng… Chúng tôi chở đạn đại bác… “Giọng nói đến là buồn cười… cứ như báo cáo ở trường pháo binh ấy”,-Bét-xô-nốp nghĩ và ngắt lời anh ta có ý giễu cợt:
– T.Đ nghĩa là gì nhỉ… rồi thế nào nữa nhỉ?
– S.C-thiếu úy nói tiếp,-T.Đ.S.C nghĩa là tiểu đoàn sửa chữa độc
lập… Sáu ô tô tạm thời trao cho pháo binh.
– À thế ra là T.Đ.S.C… khó đọc quá,-Bét-xô-nốp nói.-Líu cả lưỡi.- Và ông hỏi:-Liệu năm phút nữa các anh có sửa xong ô tô không? – Khô-ông, thưa trung tướng…
Bét-xô-nốp không nghe nói hết, cắt ngang:
– Năm phút để dỡ đạn đại bác xuống và giải phóng mặt cầu. Nếu các anh không kịp sửa chữa, hãy đẩy xe sang lề đường! Không được trì hoãn một giây nào lại!
Thiếu úy đứng sững người, tai nhô ra một cách kỳ quặc dưới mũ lông
– Thưa đồng chí trung tướng! Thưa đồng chí tư lệnh!-Một tiếng thét man rợ, van xin, giống như tiếng nức nở vang lên từ phía những chiếc xe tăng.-Xin nghe tôi nói… tôi xin!… cho tôi được gặp trung tướng! Đưa tôi đến gặp trung tướng! Rồi sau các anh hẵng… tôi…
Tiếng thét đó lại làm cho cẳng chân bị thương của Bét-xô-nốp đau dội lên, ông quay người lại và bất chợt cảm thấy mình ngã nếu bước đi không cẩn thận. Ông đi trở lại phía sau, bị cơn đau hành hạ, và bất giác dừng lại khi trông thấy ở gần đám xe tăng những người trong đội bảo vệ của mình đang dùng sức rứt người trung úy xe tăng ngồi bệt trên tuyết, hai tay bám chặt vào xích xe tăng. Vừa lúc ấy ủy viên Hội đồng quân sự Ve-xnin lại gần ông, nói một cách sôi nổi, thuyết phục:
– Tôi xin anh, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích… dẫu sao đây cũng là một anh chàng còn trẻ. Có lẽ anh ta bị mất tinh thần khi quân Đức xông đến. Nhưng anh ta hiểu rằng mình đã phạm tội lỗi, nhận ra rằng… Tôi vừa mới nói chuyện với anh ta xong. Xin anh đừng quá gay gắt như thế!…
“Đấy, chừng như đấy là những bất đồng đầu tiên giữa mình và chính ủy,-Bét-xô-nốp nghĩ.-Anh ấy đã thấy ngay sự tàn ác trong hành động của mình!”.
Cơn đau ở chân không giảm đi, kẹp chặt lấy đầu gối ông như những chiếc kìm nung đỏ. Bét-xô-nốp nhìn nghiêng như qua một tấm kính màu xanh, khuôn mặt trái xoan và cặp kính lấp loáng của Ve-xnin và lúc sắp ngồi lên xe ông nói một cách khô khan:
– Vi-ta-li I-xa-ê-vich, hình như anh quên không nhớ thế nào là sự hoảng loạn? Anh quên rằng nó lây lan ghê gớm? Hoặc giả là, với
trạng thái mất tinh thần như thế chúng ta sẽ tới Xta-lin-grát? Nhưng thôi được, cứ để họ đưa người lính xe tăng đến đây. Tôi muốn trông thấy anh ta một lần nữa,-ông nói thêm.
– Thiếu tá Tít-cốp, dẫn trung úy xe tăng lại đây!-Ve-xnin ra lệnh. Thiếu tá và các xạ thủ súng máy dẫn người lính xe tăng tới, anh này khản đặc và thở dốc, răng khẽ lập cập, tựa hồ anh ta bị lột trần, đổ nước lạnh ngắt lên người vậy. Anh ta không thốt ra được một lời nào và rốt cuộc, lúc anh ta thử nói thì người ta chỉ nghe thấy những âm thanh tắc nghẹn ở cổ họng. Ve-xnin vỗ vai anh ta: – Hãy trấn tĩnh, trung úy. Anh nói đi!
Người lính xe tăng bước một bước về phía Bét-xô-nốp, nói giọng khàn khàn:
– Thưa đồng chí tư lệnh… tôi xin đem thân tôi, máu tôi… ra chuộc tội…-Anh lấy tay vuốt ngực để lùa không khí vào phổi.-Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng! Nếu tôi không làm đúng như tôi… Xin đồng chí hãy bắn chết tôi. Chỉ xin đồng chí hãy tin tôi! Chính tôi sẽ tự cho mình một phát đạn vào đầu!…-Bét-xô-nốp không nghe hết, khoát tay ngăn anh ta:
– Đủ rồi! Lên xe tăng ngay và tiến về phía trước! Tới nơi mà từ đó anh đã dám bỏ chạy! Còn nếu như một lần nữa anh nghĩ tới “chạy thoát” thì anh sẽ bị đưa ra trước tòa án quân sự như một tên hèn nhát và khiếp đảm! Tiến ngay về phía trước!
Bét-xô-nốp khập khiễng đi tới chỗ xe và tưởng như nghe thấy ở đằng sau lưng mình tiếng cười bị cơn nấc loạn thần kinh chẹn lại, tiếng “cám ơn” nghẹn ngào, một cái gì vô lý, vô nghĩa, khó chịu giống như tiếng cười thú vật đó, y như thể ông, Bét-xô-nốp do thói tùy hứng lệch lạc có quyền ban phát hoặc tước đoạt cuộc sống của người khác và khi ban phát như thế ông đã đem lại hạnh phúc vô ngần cho những người khác.
“Có cái gì không ổn ở mình, không đúng như mình mong muốn… Không nên như vậy,-Bét-xô-nốp nghĩ lúc đã ngồi trên xe duỗi cẳng chân sát vào động cơ.-Mình muốn khác kia. Nhưng sự thể như thế nào? Mình đã gây nên nỗi sợ hãi, sự phục tùng trước nỗi sợ hãi chăng? Hay người lính xe tăng này thực lòng hối hận?”
Người lái xe vội vã hút nốt điếu thuốc, anh rít mạnh điếu thuốc to
tướng đến nỗi thuốc nổ lép béo, tàn lửa bay lả tả, soi sáng ria mép, anh nói với Bét-xô-nốp:
– Xin trung tướng tha lỗi, tôi đã làm khói um…
Anh mở máy, Ve-xnin lặng lẽ leo lên xe.
– Anh cứ hút đi,-Bét-xô-nốp cho phép, vẻ ghê sợ mùi thuốc lá,-nếu anh không nhịn được. Ta sẽ đón thiếu tá Bô-gi-scô ở trên cầu. Lên đường thôi.
– Anh hút thuốc lá gì thế hả, I-gô-nat-chi-ép? Cho tôi nếm thử với. Có lẽ nó bào cả ruột gan lên phải không?-Ve-xnin lên tiếng khi đã yên vị trí trên ghế sau.
– Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, nếu như đồng chí không chê, cái món thuốc lá này bào ruột bào gan ghê lắm,-anh lái xe hả hê đáp.-Đồng chí cầm lấy túi thuốc này.
Ở phía trước, những chiếc xe tăng gầm lên dữ dội, ném từng nắm tia lửa ra khỏi các ống xả; các mắt xích nghiến ken két, nhúc nhích, đèn pha lóe sáng như mắt dã thú. Xe tăng đi, xích sắt cuốn tung tuyết lên, anh em bộ binh thận trọng né sang lề đường. Chiếc đi đầu bắt đầu đi lên chiếc cầu rung bần bật như gõ trống. Nó dừng lại trước chiếc xe tải chắn ngang đường, xung quanh chiếc xe đó các chiến sĩ vẫn tíu tít làm việc, dở những hòm đạn cuối cùng. Đèn pha rọi sáng bóng dáng thiếu tá Bô-gi-scô đang chỉ huy việc dỡ đạn khỏi xe. Chiếc xe tăng đi đầu xả khí ầm ầm, xông lên, dùng xích dắt của nó nghiến vào thành chiếc xe tải, lôi nó đến thành cầu như kéo một đồ chơi trẻ em nhẹ bẫng. Chiếc xe tải phá gãy lan can cầu, rơi tõm suống dòng sông đã đóng băng.
Chiếc xe “Hoóc-xơ” phanh lại, bật đèn pha lên giục giã những chiếc xe tăng. Thiếu tá Bô-gi-scô bị kích động, hít thở mạnh làn không khí băng giá, người như khỏe hẳn ra, anh không trèo mà lao lên xe và sau khi đóng cửa xe, lấy lại hơi thở sau khi hoạt động hăng hái trên mặt cầu, anh hể hả báo cáo:
– Có thể đi được rồi, thưa đồng chí tư lệnh.
– Cám ơn thiếu tá.
Dưới ánh đèn pha, Bét-xô-nốp trông thấy ở rìa cầu, gần chỗ lan can bị gãy bóng dáng người thiếu úy trẻ đứng thẳng, vận chiếc áo choàng dài, có giọng cao như tiếng gà trống, tai thì vểnh ra một cách
kỳ quặc dưới chiếc mũ lông. Thiếu úy bối rối đưa mắt khi nhìn xuống lòng sông, khi quay nhìn thấy chiếc xe “Hoóc-xơ” tựa hồ như đây là lần đầu tiên anh không hiểu nên xin ai bảo vệ và giúp đỡ. Bét-xô-nốp ra lệnh:
– Bật đèn pha lên I-gô-nat-chi-ép,-và khi tìm được chỗ thuận tiện để duỗi chân gầm động cơ ấm nóng, ôm lim dim mắt, rụt đầu sâu vào trong cổ cáo.
“Vích-to,-ông nghĩ.-Phải rồi, Vi-chi-a…”
Trong thời gian gần đây, mọi khuôn mặt trẻ trung mà Bét-xô-nốp tình cờ bắt gặp đều gợi lên trong ông cảm giác cô đơn ốm yếu, cảm giác mình là người cha có lỗi không bào chữa được đối với con trai và giờ đây càng nghĩ đến con, ông càng tưởng như cả cuộc đời con trai ông đã trôi qua bên ông, và kỳ quái thay, ông đã không hề chú ý tới nó.
Bét-xô-nốp không thể nào nhớ chính xác những chi tiết về thời thơ ấu của nó, không rõ nó thích gì, nó có những đồ chơi gì khi bắt đầu đi học. Ông chỉ đặc biệt nhớ rõ một lần vào ban đêm con trai ông thức giấc có lẽ do giấc mơ hãi hùng, nó khóc và khi nghe tiếng khóc ông bật đèn lên. Đứa bé ngồi trong chiếc giường nhỏ, gầy gò, những bàn tay thon nhỏ của nó run rẩy bám lấy tấm lưới. Bét-xô-nốp ẵm nó lên, ôm chặt thân mình yếu đuối của nó vào bộ ngực lông lá của mình, cảm thấy mùi chim sẻ trên mái tóc sáng, ẩm của nó, ông bế nó đi trong phòng, vừa đi vừa ru nó bằng những lời ru do ông đặt ra, những lời ru toát lên vẻ trìu mến vô cùng của bản năng người cha: “Con ơi, con hỡi, con hời, bố chẳng đem con cho ai đâu, bố con mình sẽ cùng nhau, con nhỉ…”.
Nhưng ông còn nhớ rõ một kỷ niệm khác, nó khiến ông về sau đặc biệt đau lòng: với nét mặt sợ hãi, bà vợ ông giằng khỏi tay ông chiếc dây lưng ông dùng để quất vào đùi đứa con trai mười hai tuổi, cái quần may bằng thứ vải rẻ tiền và dính đầy bụi bẩn ở nhà kho. Thằng bé không kêu một tiếng nào. Khi ông vứt chiếc dây lưng đi, thằng bé chạy ra ngoài, cắn chặt môi, đến cửa nó ngoái nhìn lại-trong đôi mắt màu xám giống như mắt mẹ của nó long lanh những giọt lệ sững sờ của trẻ thơ.
Đã một lần trong đời, ông làm cho con trai đau đớn. Lần ấy con trai
"""