" Tuyển Truyện Ngắn Sông Hương 30 Năm (1983 - 2013) PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Truyện Ngắn Sông Hương 30 Năm (1983 - 2013) PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM General Sciences Library Cataloging–in–Publication Data Nhiều tác giả Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983–2013) / Nhiều tác giả ; Hồ Đăng Thanh Ngọc ... [và nh.ng. khác] tuyển chọn. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ ; Huế : Thuận Hóa, 2013. 960tr. ; 23cm. 1. Truyện ngắn Việt Nam -- Thế kỷ 21. 2. Văn học Việt Nam -- Thế kỷ 21. I. Hồ Đăng Thanh Ngọc. 1. Short stories, Vietnamese -- 21st century. 2. Vietnamese literature -- 21st century. 895.92234 -- dc 22 T968 Ban tuyển chọn: • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC • HOÀNG VIỆT HÙNG • NHỤY NGUYÊN Tạp chí Sông Hương chịu trách nhiệm về quyền tác giả tất cả các truyện ngắn sử dụng trong tuyển tập này. Lời giới thiệu Trong bộ sách kỷ niệm 30 năm Sông Hương, riêng tập tuyển truyện ngắn được chọn xuyên suốt trong 30 năm chứ không phải chỉ 10 năm như các tuyển khác. Ngoài mảng “rất Huế” được duy trì từ lúc tạp chí mới ra đời cho đến nay là “Huế - dòng chảy văn hóa”, Sông Hương ghi được dấu ấn trong lòng bạn đọc phải kể đến ba mảng chính: văn, thơ, lý luận phê bình. Trong đó truyện ngắn luôn được xem như “xương sống” của mỗi số báo, nhất là mươi năm trở lại đây. Trong dịp kỷ niệm 20 năm, Sông Hương đã có tuyển Văn dày trên 500 trang khổ 16x24cm gồm 50 truyện ngắn. Nếu so với 20 năm Sông Hương, thì 10 năm sau này lượng truyện hay tăng lên. Năm 2009, hơn chục truyện ngắn tốt rải đều trong các số Sông Hương như: Hoa gạo đỏ, Một bước sau quận công, Cái chết của Rối, Một lát cắt,... đủ để có được một tập truyện đa sắc, hấp dẫn. Hoặc trong năm 2011, có số báo đến 3 truyện ngắn được tuyển vào tập này: “Người đọc sẽ đến với một thế giới hiện thực thậm phồn trong sự hỗn chứa hiện thực trần trụi và những hoang tưởng phi lý, thậm chí hướng tới những dự cảm trong chiều sâu vô thức nội cảm qua truyện ngắn Ngày cuối cùng của một diễn viên hài. Bên cạnh đó, Vòng luân hồi của chữ là những mảnh ghép bị đảo lộn Lời giới thiệu 5 như chính những nhân vật trôi lăn trong luân hồi vẫn không nhận ra kiếp mình. Và những ám ảnh của con người khi bị ném vào một quái trạng bất khả cứu rỗi trong Tôi đã nôn ra những đứa trẻ”. (Lời giới thiệu Sông Hương số 269). Có một điều hơi khác biệt, là chúng tôi đã chủ động chọn lại một số truyện không có trong Tuyển 20 năm, như Niết bàn bốc cháy (Đoàn Lê), Dịch quỷ sứ (Tạ Duy Anh), Cún (Nguyễn Huy Thiệp), Người đoán mộng giỏi nhất thế gian (Phạm Thị Hoài), Qua sông (Cung Tích Biền) v.v... Nhiều tác giả có từ một đến vài ba truyện ngắn khá trong bộ tuyển Văn 20 và rải rác trên Sông Hương suốt 30 năm, tiếc là do số lượng trang có hạn nên đành phải... gác lại. Như vậy, chúng tôi không có ý đưa ra một tiêu chí rõ rệt nào ngoài việc chọn những truyện ngắn khá và hay để không phụ lòng độc giả. Có chăng đó là sự chú ý trước hết đến các tác giả ở Huế (vẫn trừ ra một số tác giả góp mặt ở trong tuyển Văn 20). Đó là một Trần Thùy Mai nhẹ nhàng, sâu lắng mà vẫn đầy phức cảm trong không gian Huế xưa với Trăng nơi đáy giếng; Việt Hùng vẽ Biếm họa về hạnh phúc gia đình; Những bước chân bên ngoài khe hở là nhân vật chính của vở bi hài kịch do tác giả Hoàng Trọng Định dàn dựng; Trần Hạ Tháp bày ra Thế trận linh xà để làm nổi lên chí khí người anh hùng áo vải; Thím Thoải của Nguyễn Xuân Hoàng khắc khoải nỗi buồn thiếu phụ; Phạm Xuân Phụng “trong vai” một nhà tâm lý xuyên sâu vào những ẩn ức đẫm tính nhân văn của chú vịt Mê-sa-li, câu chuyện bên hồ; Hiện thực phũ phàng như tiếng chuông rung lên trước đạo đức suy đồi được diễn ra âm thầm mà quyết liệt ở Gã kéo chuông nhà thờ của Thái Ngọc San; Dương Thành Vũ đưa ta về không gian của thời bao cấp khổ lụy trong Giếng trăng với vài phận đời bi đát và chỉ có thể đi vào ngõ cụt!; Nguyên Quân tìm chân lý qua Chuyện từ thời chiến: người mẹ anh hùng có một bàn tay vỗ về đứa con của mình đã hy sinh, và một xoa dịu dòng sám hối của người lính ngụy... 6 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) So với những tờ báo luôn chào đón “hàng độc” với mức nhuận bút hấp dẫn mà Sông Hương vẫn hút được nhiều truyện ngắn hay và mới, chứng tỏ nhiều tác giả có nghề vẫn rất mến mộ Sông Hương. Nhờ đó tuyển tập này dung hợp được nhiều phong cách. Có truyện như là sự thấm tháp nỗi đời của nhà văn sau bao nhiêu năm trăn trở. Đơn cử trường hợp của nữ nhà văn Dạ Ngân: nghỉ việc công sở, trở về tổ ấm của mình lặng lẽ “chép” lại những vết son trên chặng đời đã qua. Truyện là góc nhìn rất hẹp về chiến tranh song mở ra trước độc giả nhiều ngã rẽ với một Xuân nữ lỡ mang kiếp đào hoa, mà bạc phận cho những người đàn ông từng “hành quân” qua cuộc đời chị. Nhức nhối bởi lương tâm bại hoại của những con người vốn là ruột rà với nhau được lột tả trong Kịch độc. Người viết đã “tiêm” những rung cảm lạ lùng vào miền hoang mê của lương tri đồng loại. Những truyện ngắn khác của Bảo Ninh (Bằng chứng), Lê Minh Khuê (Sống chậm), đọc liền thấm nỗi đau đời như của chính mình chứ không còn là của nhân vật nữa. Song hành với hơi thở truyền thống là mạch ngầm hiện đại, như Đất không lối vào của Hạo Nguyên, Mê cung của Nhật Chiêu, Những bức ảnh của Lê Minh Phong; Sóng ngoài khơi của Khánh Phương, hay Một bước sau quận công, một dạng tiểu-luận-truyện rất đặc biệt của nhà văn Hồ Anh Thái. Mong muốn lớn nhất của chúng tôi qua tuyển tập này là nhiều tác phẩm một lần nữa được vinh danh; để tác giả của nó thêm tin tưởng và lại dành cho Sông Hương những tác phẩm tâm đắc. BAN TUYỂN CHỌN Lời giới thiệu 7 THÁI NGỌC SAN Gã kéo chuông nhà thờ (SH số tháng 2 - 1983) mới nhìn qua, gã có vẻ hung dữ, một người làm người khác luôn luôn phải cảnh giác trước khi đến gần. Một vết sẹo chạy từ đỉnh trán bẻ quặt xuống khóe mắt phải như muốn kéo con mắt gã ra khỏi tròng. Đôi môi dày nứt nẻ, tím đen mở toang hoác giơ cả hàm răng vàng khè nhựa bẩn. Một chân gã bị quẹo, không phải do cố tật mà vì bị một miểng pháo xuyên qua xương đầu gối, làm gã đi đứng rất khó nhọc, từng bước bật nhún như chiếc lò xo. Tuy vậy, chỉ có vết sẹo mới làm người khác chú ý, còn cái chân, vì gã luôn ngồi một chỗ nên ít ai biết gã có tật; với lại, cái nghề gã đang làm cũng ít khi phải sử dụng đôi chân. Cũng thật buồn cười, một người như gã lại chọn làm cái nghề mà chỉ có phụ nữ mới có đủ đức tính cần thiết để làm: Chằm nón. Không hẳn sự chọn lựa nghề nghiệp như vậy là do phản ứng tâm lý, một lối thích ứng trước cuộc đời mà gã buộc phải chấp nhận sau ngày giải phóng. Thực ra, cũng thật khó khăn cho gã, từ trước đến nay gã chẳng biết nghề ngỗng gì. Học hành mới được năm ba chữ, theo không nổi, bỏ ngang đi chơi lêu lổng. Đi chơi lêu lổng, chán, đầu quân đi lính. Đi lính, rồi đào ngũ, rồi lại đi lính cho đến khi bị hai miểng pháo ôm Gã kéo chuông nhà thờ 9 tấm thân tàn tật trở về. Hai năm trước giải phóng còn ít đồng lương phế binh, với lại gia đình gã cũng chưa đến nỗi nào phải lo toan từng bữa. Gã còn một đứa em trai là sĩ quan ngụy đã có vợ con ở Đà Nẵng. Thằng này làm quân nhu, nên hàng tháng đều có gởi tiền chu cấp cho mẹ gã. Ngoài ra, gã còn một đứa em gái đến nay đã quá tuổi lấy chồng nhưng chưa có chồng, ở nhà chằm nón. Mẹ gã đang gần đất xa trời. Trước đây, khi bố gã mới chết và anh em gã còn chưa thành người, bà còn buôn bán lặt vặt chợ chiều, chợ mai. Sau này, khi có tiền chu cấp của thằng con ở Đà Nẵng, bà bỏ tất cả, chỉ lo kinh nguyện ở nhà thờ. Bà là một con chiên ngoan đạo. Đến ngày giải phóng, cuộc sống gia đình gã đảo lộn như bị một đòn sấm sét. Thằng em gã biệt vô âm tín: có thể hắn và gia đình đã rữa thây ngoài đại dương; cũng có thể đang lưu lạc ở một bang nào đó trên nước Mỹ, thù ghét quê hương, hận lây cả gia đình, không thèm viết thư. Thế là, không biết tự lúc nào, gã mày mò học đứa em gái nghề chằm nón. Và giờ đây, gã nghiễm nhiên trở nên một thành viên lao động tự do của địa phương, một lao động, nếu gạt ra ngoài những định kiến và tiêu chuẩn xã hội này khác, có thể xem là mẫu mực, cần được biểu dương. Gã tên là Hùng, nhưng từ khi gã bị tàn phế, dân trong địa phương thêm đằng sau một cái đuôi: quẹo. Hùng - quẹo. Còn người quen gã ở ngoài giáo xứ thì gọi gã là Hùng-nhà-thờ, vì gã ở sát nách nhà thờ, đối diện với nhà cha xứ. Suốt ngày, từ chỗ Hùng quẹo ngồi chằm nón, có thể thấy tất cả sinh hoạt trong nhà cha xứ, nếu cửa mở. Và, không hiểu sao, từ trước đến nay, khi bắt đầu chính thức chằm nón, gã chỉ ngồi một chỗ ấy. Gã kê một cái đòn thấp trước mái hiên, dựa lưng vô vách, đặt cái khung nón giữa hai vòng chân và chăm chỉ kéo từng mũi kim nhanh nhẹn cũng như bao nhiêu người khác. Trước kia, khi hai anh em chưa xảy ra xung đột lớn thì những công việc linh tinh khác như chải ủi lá, xây vành... đứa em gái gã làm giúp, nay một mình gã làm hết. Và, nếu cái chân gã không đau, có khi gã còn làm nhiều hơn đứa em gái gã. Về mùa mưa, gã ngồi trong nhà, nhưng cũng từ phía ấy ngay khung cửa sổ, 10 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) có thể nhìn thấy nhà cha xứ. Không rõ vì cái tàn cây trứng cá trước mái hiên hay vì nhà cha xứ có cái gì hấp dẫn mà Hùng quẹo không chịu thay đổi hướng ngồi. Nếu có một điều gì đó về gã mà bà con trong họ đạo không bằng lòng thì hẳn là điều này: Gã không còn đi nhà thờ nữa. Trong một gia đình vốn nổi tiếng là ngoan đạo, điều ấy thường gây ra những mối lộn xộn. Mẹ gã rủa gã là quỷ, còn đứa em gái thì coi thường anh ra mặt. Cha xứ trước, một vị linh mục già hơi lẩm cẩm nhưng đáng kính, thường ghé lại động viên khuyên năn gã. Những lúc ấy, Hùng quẹo chỉ nhăn răng khỉ ra dạ dạ cho qua rồi thôi. Vị linh mục già nói nhiều lần không được cũng nản. Ông bây giờ đã được chuyển về nhà hưu trí Tòa Tổng giám mục sống những ngày cuối cùng ở trần gian cát bụi, không biết ông còn nhớ để cầu nguyện cho gã hay không? Riêng đối với Hùng quẹo, thâm tâm gã rất thương vị linh mục già, một ông cụ từ tâm không có gì đáng chê trách. Nhưng gã không thể đi nhà thờ đọc kinh được nữa - Mất thì giờ, vô ích, gã thường nói cộc lốc với mẹ gã như thế. Có lẽ cũng đúng như thế thôi, theo cách nghĩ của Hùng quẹo, gã chẳng có gì để tin và cũng chẳng có gì để không tin. Trước đây vì gia đình có đạo nên gã đi nhà thờ đọc kinh theo thói quen. Lớn lên, những chìm nổi trong cuộc sống làm những thói quen cũ, thời tuổi nhỏ tưởng là thiên liêng ghê gớm, tự nhiên bay vèo không dấu vết. Gã không băn khoăn tiếc nuối, cũng chẳng đấu tranh chọn lựa cái gì. Tự nhiên nó như thế. Mọi thứ trong cuộc đời đều được sắp đặt đâu từ trước, như cái nhà thờ, nhà cha xứ, cây trứng cá ngày ngày đứng chặn ngang trước mặt gã. Gã không băn khoăn suy nghĩ về những gì quá xa xăm. Đôi khi quá cô độc, vết thương đau nhức, gã lăn lộn như con chó bị đánh. Gã ngồi vít thành cửa sổ, mồ hôi đổ nhễ nhại và con mắt kéo xếch lên trợn tròng. Những lúc ấy, gã thật dữ tợn. Nhưng những cơn vật vã ấy qua đi rất nhanh. Gã biết rằng cuộc đời gã đã được sắp đặt như thế nầy, có muốn thay cũng không được. Tuyệt nhiên, chưa một lần gã có ý muốn tự tử, Gã kéo chuông nhà thờ 11 ngay cả sau khi tỉnh dậy từ bệnh viện nhìn cái chân băng bột và khuôn mặt mình trong gương. Trong nỗi đau đớn tuyệt vọng, gã vẫn còn sống. Và thế là gã vẫn bám vào cuộc sống. Buổi sáng, gã thức dậy khi hồi chuông đầu tiên nhà thờ đổ. Trong khi mẹ và em gái gã lục đục đi lễ sớm, gã nằm thờ thẫn, có khi nhớ lung tung, có khi đầu óc trống rỗng như cái gáo dừa úp trên vại nước. Gã thường ôn lại mảng đời cũ hồi ở lính. Đối với gã, chỉ quãng đời ấy là đáng nhớ: nó đã để lại trong đời gã nhiều kỷ niệm, nhục nhã cũng có mà oanh liệt cũng có. Lần thứ nhất đầu quân, sau một thời gian bị hành nhục ở quân trường, gã bị ném ra một đơn vị đóng ở một tiền đồn biên giới. Cực khổ và cái chết đe dọa từng giờ làm gã sợ hãi không chịu đựng nỗi phải bỏ trốn. Nhưng về nhà một thời gian gã biết rằng không thể nào sống được yên ổn, gã lại đầu quân vào một sắc lính khác. Lần này thì gã đã có đủ kinh nghiệm, biết luồn lách những cực hình ở quân trường, và biết đủ trò phá phách trác táng sau những cuộc hành quân cực khổ, nguy hiểm. Rượu, gái... những thứ ấy, giờ đây nhớ lại làm cho gã cực khổ. Đôi khi gã cảm thấy ngạt thở. Cái thế giới vật chất đó đã bỏ rơi gã, kể từ khi mảnh pháo xéo qua mặt và găm vào đầu gối gã. Con gái, đàn bà quen biết và cả không quen biết ở trong họ đạo đã gạt phăng gã ra khỏi tầm nhìn của họ! Gã cũng chưa có được một nửa mối tình nào để mà ôm ấp hoài niệm. Nếu còn tin ở Chúa thì gã phải trách là Chúa quá bất công với gã. Bởi vậy, nhiều khi gã muốn nổi loạn, văng tục, phá phách, muốn đốt cả làng cả xóm... Nhưng gã không làm được. Bản chất gã vốn là một con người nhu nhược, một kẻ dễ bị khuất phục bởi hoàn cảnh. Chỉ có một lần duy nhất gã trở nên hung bạo như con thú dữ, đó là hôm đứa em gái gã dẫn lũ bạn bè nó về nhà chơi sau buổi lễ ngày chủ nhật. Hùng quẹo thấy chúng nó đứa nào cũng sồn sồn nói cười nhún nhảy trước mắt gã, làm gã ngứa ngáy khó chịu. Bỗng dưng, gã không thể xỏ nổi một đường kim trên khung nón. Gã bỗng thấy khát vọng điên cuồng. Đột nhiên miệng gã mở ra - (sau nầy gã cũng không nhớ lúc đó gã đã nói những gì, hình như gã xỉa miệng 12 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) vào hỏi một câu gì đó thật vô duyên). Đám con gái thình lình như bị xô dạt ra. Chúng in lặng trong một giây rồi bật lên những tiếng cười khúc khích. Cơn khát vọng mê muội trong Hùng quẹo bỗng biến thành một nỗi thù hằn khủng khiếp. Gã vùng dậy như một con hổ đói, ném phăng cả cái khung nón vào đám con gái. “Đồ lũ ngựa cái mất dạy! Cút đi! Cút đi!”. Đám con gái sợ hãi bỏ chạy tan tác, còn Hùng quẹo thì bổ sấp trên thềm cửa thở hồng hộc như bị động kinh. Sau lần đó, không phải gã chỉ hối hận mà còn đâm ra sợ hãi cả chính bản thân mình, gã không dám nhìn thẳng vào bất kỳ phụ nữ nào đi qua trước mặt gã. Căn nhà Hùng quẹo hình như được xây dựng lên một lần với cái nhà thờ, có từ thời ông cố gã. Đó là một trong những nhà thờ được xây dựng đầu tiên ở tỉnh, kiến trúc pha tạp nửa đình ta, nửa nhà tây. Nhà thờ từ trước đến nay chưa thay đổi, chỉ có quét vôi lại. Nhà Hùng quẹo chỉ còn cái nền cũ, còn mọi thứ khác đã thay qua đổi lại nhiều lần. Gia đình gã đạo gốc và họ đạo nầy là một xứ toàn tòng. Thời gian Hùng quẹo lớn lên, gã đã chứng kiến nhiều sự đổi thay, nhưng có một sự không hề thay đổi: đó là những hồi chuông kinh nguyện sớm chiều. Bây giờ đây, dù tín ngưỡng đã mất tiêu trong gã, nhưng mỗi lần nghe tiếng chuông rung, cả tâm hồn cằn cỗi và đầy thương tích của gã cũng như được đánh thức. Nhiều khi Hùng quẹo bỗng muốn la toáng lên cho tan những nỗi nhức nhối phiền muộn. Giáo xứ nằm bên cửa ngõ thành phố, một vùng xôi đậu nửa thành thị nửa nông thôn. Trước giải phóng, một số ít giáo dân sống bằng nông nghiệp, có lẽ họ là những người duy nhất chưa bị cuốn vào những cơn lốc của thời thế. Đức tin vào Thượng đế và sự gắn bó với đất đai quyện chặt làm một. Số còn lại dần dần lột bỏ gốc gác của mình, chuyển sang buôn bán làm các nghề khác, trong đó không ít người giàu có nhờ chiếu tranh. Và gần như gia đình nào cũng có người thân là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, cảnh sát hoặc công chức của chế độ cũ. Bởi vậy có sự xáo trộn Gã kéo chuông nhà thờ 13 lớn trong nếp sống, trong tư tưởng và tình cảm của bà con giáo dân ở đây, khi giải phóng đến. Sự kiện đó như một cơn bão lớn ập tới bất ngờ, có người lâu lắm vẫn chưa hết bàng hoàng. Cuộc sống trước mắt, trước hết, tự nó đặt ra cho người ta những câu hỏi phải trả lời, những công việc phải làm. Thế là, như một sự ngẫu nhiên, những tổ hợp thêu ren, xay xát... ra đời. Rồi hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã nông nghiệp... Có những công việc mà trước đây chẳng bao giờ người ta nghĩ tới, có khi còn tưởng là kinh khủng ghê gớm, bây giờ bỗng nhiên trở thành bình thường, trở thành những vấn đề thiết yếu của đời sống, gắn bó như máu với thịt, hợp với quy luật tự nhiên và chắc chắn chẳng có gì gọi là trái với lời răn của thượng đế cả. Một số thói quen cũ bắt đầu chết đi và một số thói quen khác đang hình thành. Gia đình Hùng quẹo cũng không thoát khỏi sự xáo trộn nhất thời nói trên. Ông cố gã là người địa phương, có lẽ theo đạo từ thời Tự Đức hoặc Minh Mạng, thuở các vị giáo sĩ dòng Tên mới đặt chân lên đất cố đô cũ truyền giáo. Thời ông nội gã, gia đình vẫn còn bám vào đất đai để sống. Đến thời ông bố gã thì đoạn tuyệt hẳn với nhà nông, mấy sào ruộng bán hết. Ông bố gã làm một viên chức quèn tại sở Công chánh, bị đau gan chết khi đứa em gái gã mới lên năm. Ba anh em gã, chỉ có thằng em kế là học hành được, cố gắng thi đỗ tú tài một, đi Thủ Đức trở thành sĩ quan. Gã và đứa em gái đầu óc tối mù học hành chẳng được; gã học tới đệ lục còn con em gái mới học đến lớp ba thì ở nhà. Bây giờ cũng may là gã vừa học được cái nghề chằm nón để kiếm sống qua ngày. Tin ông Mỹ, một linh mục trẻ nổi tiếng, sẽ chuyển về thay vị linh mục già đã làm xôn xao trong giáo xứ. Sỡ dĩ như vậy vì ông Mỹ là một tác giả chính trong một vụ xuyên tạc nói xấu chính quyền cách mạng, bị câu lưu tạm giam hai tháng mới được thả ra. Trước khi bị giam giữ, ông Mỹ nắm một chức vụ khá quan trọng trong giáo hội. Ông được thả ra sau khi các vị có thẩm quyền trong giáo hội ở địa phương đứng ra bảo lãnh. Việc 14 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) đưa ông Mỹ về nhận chức tại một giáo xứ nhỏ là một trong những điều kiện mà giáo hội địa phương đưa ra cam kết. Bởi vậy, đối với ông Mỹ, sự “cưỡng bách cư trú” nầy chắc chắn sẽ không lấy gì làm vui. Hùng quẹo cũng sốt ruột. Gã không thích gì miệng lưỡng của em gái gã và đám bạn bè của nó đã tô vẽ chân dung ông Mỹ như một vị anh hùng trong các cuộc thánh chiến. Nhưng gã cũng tò mò muốn biết mặt mũi ngang dọc của nhân vật dám công khai chống chính quyền sẽ về đây làm người láng giềng của gã ra sao. Sự việc của ông Mỹ gã cũng đã nghe nói rồi, nghe đủ thứ nguồn dư luận. Ông Mỹ về với một xe đồ đạc lỉnh kỉnh. Giáo xứ tiếp ông cũng khá nồng nhiệt, có đủ các vị chức sắc. Riêng nam nữ thanh niên thì khá đông, chúng xoắn xuýt quanh ông như muốn công kênh vị anh hùng của mình lên khỏi đầu để tung hô. Chỉ thiếu có hoa và pháo. Chiều hôm đó Hùng quẹo không làm việc, gã ngồi ở chỗ cũ và quan sát thật kỹ tất cả mọi diễn biến tại nhà cha xứ. Khi ông Mỹ vừa bước xuống xe, chỉ có ông từ kéo chuông ở cạnh nhà Hùng quẹo một bước “lạy cha” hai bước “lạy cha” rối rít và đám thanh niên ùa đến vây quanh, khiêng dọn đồ đạc. Ba vị trong hội đồng giáo xứ vẫn đứng trên thềm nhà. Ông Mỹ dong dỏng cao, mang một cái áo thụng đen hơi cũ nhưng thẳng nếp, cổ có viền trắng. Mặt ông xương gãy, da bánh mật, khoảng trên ba mươi tuổi, trạc tuổi Hùng quẹo, nhưng khá đẹp trai. Chắc chắn ông Mỹ biết rằng tất cả mọi người đang tập trung chú ý đến mình nên mọi cử chỉ thái độ của ông đều tính toán vừa phải. Ông biết rẽ đám đông để tới bắt tay ba vị trong hội đồng giáo xứ trước. Nói chung, Hùng quẹo không phát hiện ra điểm gì đặc biệt ở nhân vật láng giềng nổi tiếng mới tới của mình. Gã chỉ khó chịu chút ít khi thấy đôi mắt ông Mỹ hơi láu liêng và ông nói cười hơi nhiều với đám thanh niên, trong đó có đứa em gái gã. Cuộc sống trở lại với những ngày bình thường - Chuông nhà thờ, kinh lễ và mỗi người đều lo công việc làm ăn của mình như trước. Một số ít Gã kéo chuông nhà thờ 15 người có ý chờ đợi một “biến cố” nào đó xảy ra khi ông Mỹ về. Hùng quẹo vẫn sống cô độc với cái khung nón trên một chỗ ngồi bất di bất dịch. Càng về sau này, gã làm việc nhiều hơn, năng suất gần bằng hai người thợ giỏi. Trong danh sách khen thưởng phong trào quần chúng ở địa phương, tên Hùng quẹo đã được nhắc tới một lần, nhưng vì thái độ quá cách ly của gã, cuối cùng người ta phải gạt ra. Hùng quẹo bên ngoài tỏ ra chẳng quan tâm tiếc nuối gì việc ấy, nhưng một đôi khi gã cũng cảm thấy bâng khuâng suy nghĩ. Và, giả dụ, người ta có phát bằng khen cho gã chắc chắn gã cũng không đủ can đảm để từ chối. Thời vị linh mục già, nhà cha xứ thường vắng tanh, chỉ đông người những khi có lễ lạt. Ông sống bình lặng nhịp nhàng như chiếc kim đồng hồ. Những người tốt rất mực mến thương, kính phục ông cụ, còn kẻ xấu cũng chẳng dám làm điều chi xúc phạm đến ông. Vào những chiều thứ năm và thứ bảy, trước buổi cơm tối và kinh nguyện, ông có cái lệ đi thăm từng gia đình giáo dân. Tuần này xóm nầy tuần kia xóm kia, cứ thế đúng một tháng ông cụ đã đi hết cùng giáo xứ. Gặp nhà có chuyện vui ông ghé lại lâu hơn, còn bình thường chỉ năm ba phút hỏi thăm sức khỏe, tình hình làm ăn sinh sống rồi đi. Bởi vậy, giáo dân tiếp ông với tất cả tấm lòng của mình. Hồi ấy ít có chuyện lộn xộn trong giáo xứ. Chính quyền địa phương cũng rất mực tôn trọng ông cụ, thường hỏi ý kiến ông cụ trước khi muốn triển khai thực hiện một vấn đề gì liên quan đến giáo dân. Còn giáo dân, sau một thời gian nghi ngại lo sợ cách mạng, đã bắt đầu làm quen vơi cuộc sống mới. Dầu cuộc sống ấy biết bao khó khăn nhưng họ hiểu được rằng ở đâu cũng thế, không chỉ riêng trong giáo xứ. Cái chính đối với bà con là việc lễ lạt kinh nguyện không ai cấm đoán như trước đây thường nghe nói. Tiếng chuông vẫn vang lên thánh thót sáng tối báo những giờ kinh lễ. Thay đổi đầu tiên từ khi ông Mỹ về là nhà cha xứ thường xuyên rộn ràng khách khứa. Phần lớn là thanh niên, thanh nữ. Ông Mỹ chứng tỏ 16 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) là một người có sức hấp dẫn đặc biệt, có khả năng tập hợp tuổi trẻ. Chỉ một thời gian ngắn, ông đã tổ chức một loạt lớp giáo lý, một số hội đoàn nửa công khai nửa bí mật mang những tên gọi rất kêu, và, bày ra thường xuyên những cuộc sinh hoạt đông đảo vào các ngày chủ nhật. Đặc biệt là đội “Thánh ca” của nhà thờ tối nào cũng tập trung tại nhà ông hát xướng, có khi đông, có khi một hai người. Điều này đã làm cho không ít bà con lo ngại, thâm tâm nhiều giáo dân không bằng lòng, tuy vậy, không ai dám công khai phản đối. Dưới danh nghĩa các nhóm “suy niệm phúc âm” các tổ “tình thương”... ông đã tổ chức các buổi hành hương, du ngoạn, có khi lên núi, có khi xuống biển. Suốt ngày lúc nào cũng thấy ông tất bật, hình như ông bị cuốn hút vào những công việc nầy là chính, còn việc hành lễ kinh nguyện chỉ là thứ yếu, hoặc chỉ là những thủ tục phải làm lấy lệ cho xong. Đứa em gái Hùng quẹo trước đây một ngày có thể chằm hai cái nón bây giờ có khi nửa cái làm không xong: nó còn bày ra may sắm, trưng diện cho những buổi pic-nic, cắm trại... Mặc dù hát rất dở và chẳng biết một dấu đô, rê, mi, fa nào, nhưng tối nào nó cũng có mặt trong đội “Thánh ca” của ông Mỹ. Lúc đầu Hùng quẹo chẳng để tâm, nhưng dần dần vì ngày nào cũng chứng kiến cảnh rần rật tới lui tại nhà ông Mỹ làm cho gã nhức mắt, khó chịu. Nhất là ban đêm, tiếng đàn, tiếng hát, tiếng cười như thể nhạo báng chọc tức gã. Ga đâm ra xoi mói ông láng giềng của mình. Mơ hồ, qua cách đi đứng nói năng của ông Mỹ, gây cho gã một vài ấn tượng đen tối, gã chưa định hình được nó như thế nào, nhưng gã có thể khẳng định đó là điều mà gã không thể chấp nhận được. Đức tin gã không còn nhưng gã cũng không có lý do gì để báng bổ nó. Ông Mỹ hiện ra trước mắt gã như một sự báng bổ, một sự quá trớn, sự tự kiêu, tự đại với những dục vọng thấp hèn không thể chấp nhận được đối với một bậc tu hành chân chính. Mỗi ngày định kiến đó càng được nhân lên, trở thành một thứ Gã kéo chuông nhà thờ 17 tình cảm hằn học trong gã, nhiều khi quá khích. Ngược lại, ông Mỹ cũng chẳng thích gì gã chằm nón, một phần có lẽ do đứa em Hùng quẹo đã nói gì với ông, một phần do ngày nào ông cũng phải nhìn thấy gã với con mắt như chực khiêu khích. Ông thường rùng mình, có cảm tưởng như lúc nào gã chằm nón cũng sẵn sàng vồ chụp lấy ông để cắn xé. Trong cuộc đời làm linh mục của mình, có lẽ ông chưa từng gặp trường hợp con chiên nào như thế. Gã chằm nón như một bóng đen của địa ngục án ngữ trước mặt ông mỗi ngày, mỗi giờ. Bởi vậy, một lần ông Mỹ muốn nói chuyện với Hùng quẹo. Ông đứng trên thềm nhà ngoắt gã sang: - Này anh Hùng, sang tôi hỏi một tí. Hùng quẹo làm như không nghe thấy - “Có muốn hỏi thì sang đây, làm như cha cả thiên hạ” - Gã lầm bầm. Lúc bấy giờ nếu đứng gần có thể thấy da mặt ông Mỹ đổi màu. Ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ rồi quay vào nhà đóng sầm cửa lại. Hôm sau, sau buổi lễ sớm, ông Mỹ gọi mẹ Hùng quẹo sang nhà. Không biết ông Mỹ đã nói gì với bà trong cả tiếng đồng hồ, khiến bà già bước ra cửa khóc ấm ức. Vừa vào đến sân, bà đã đay nghiến Hùng quẹo: - Mi là đứa vô nhân thất đức! Mi đã bêu rếu cả nhà chưa bưa chừ còn báng bổ cha xứ. Mi đi mô đi cho khuất, đồ cái thứ quỉ tha ma bắt. Hùng quẹo ngồi yên. Gã đã quen tính khí của mẹ gã mỗi khi đụng tới chuyện nhà thờ. Gã không muốn trả lời, không muốn giải thích: mà nếu gã có giải thích thế nào thì mẹ gã cũng không bao giờ nghe gã. Đối với bà tất cả mọi thứ gì có liên quan đến đức tin, liên quan đến cha xứ, người đại diện của Chúa ở trần gian, đều bất khả xâm phạm. Bởi vậy, việc Hùng quẹo không chịu đi nhà thờ đối với và là cả một tai họa ghê gớm. Trong kinh thánh có kể câu chuyện Chúa Giê-su chữa bệnh cho một người bị quỷ ám, cho nên bà luôn luôn nghĩ rằng, chắc chắn có một 18 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) con quỉ nào đó đã nhập vào con bà. Bà bị tổn thương, đau khổ nhưng lúc nào bà cũng không quên cầu nguyện cho gã. Hùng quẹo cũng thương mẹ, nhưng gã không chịu nổi tính khí và sự mù quáng của mẹ. Hai mẹ con trước đây thường gây gỗ là vì thế. Thực ra, gã cũng không nhớ đức tín của gã mất tự lúc nào. Hình như nó đã mất từ lúc gã đối đầu giữa cái sống và cái chết mà gã biết chắc chắn rằng sẽ không có Thượng đế nào cứu được gã, và sẽ không có xứ sở thiên đường nào ngoài cuộc sống mà gã rất sợ phải bị mất. Từ đó quan hệ giữa ông Mỹ và Hùng quẹo trở nên căng thẳng thật sự. Trong một buổi giảng ở nhà thờ ngày chủ nhật, tuần lễ thánh, ông Mỹ đã nêu đích danh tên Hùng quẹo trong khi nói về việc Giu-đa bán Chúa. Hùng quẹo cũng không chịu thua, kể từ đấy, nếu có dịp, gã bắt đầu báng bổ ông Mỹ với tất cả từ ngữ mà gã có. Rồi một hôm bỗng dưng có hai nguồn tin được tung ra cùng một lúc, mặc dù xuất xứ và mức độ có khác nhau. Một nguồn tin, có lẽ xuất phát từ những người bao bọc chung quanh ông Mỹ, nói rằng Hùng quẹo làm “cò mồi” cho công an rắp tâm hại linh mục quản xứ. Một nguồn khác, đúng hơn là dư luận, xì xào về quan hệ không đúng đắn giữa ông Mỹ và phụ nữ. Dư luận nầy có từ khi cô H. thêu ren ở cuối xóm, một giọng ca chính trong đội “Thánh ca” của nhà thờ bỗng nhiên bỏ việc đi đâu không biết. Gia đình thì bảo cô ta đi Đà Nẵng chữa bệnh. Đó chỉ là một cách nói thôi, ai cũng biết như thế. Từ khi ông Mỹ đến, cô ta là một trong những người tích cực nhất của đội “Thánh ca”, không có tối nào vắng mặt tại nhà cha xứ. Khi nguồn dư luận đó đến tai Hùng quẹo, gã tuyên bố thẳng thừng với em gái gã: “Tao biết tỏng cái con H. nó đi mô...” Bình thường em gái gã đã đốp chát lại tay đôi với anh, nhưng lần này nó chỉ ngoe nguẩy bỏ đi, nói trổng: “Anh thì cái chi không biết”. Không biết mức độ xác thực của cái nguồn dư luận đó như thế nào, có điều, cả hai sự việc trên đều có những luận chứng khá bảo đảm. Về Gã kéo chuông nhà thờ 19 nguồn tin thứ nhất do việc thời gian gần đây anh công an xã thường xuyên ghé chỗ Hùng quẹo. Điều này, chẳng những không cải chính, Hùng quẹo còn tuyên bố bô bô: “Tao làm việc cho công an đó, đứa nào làm gì!”. Thực ra, vì quá tức giận, gã nói cho đã vậy thôi, chứ có làm việc hay không gã cũng không biết. Anh công an xã thời ông linh mục già ít khi đến giáo xứ, chỉ trừ những khi có việc liên quan đến an ninh, hộ khẩu, họp hành. Không hiểu sao, từ khi ông Mỹ về, anh đến luôn và chọn Hùng quẹo làm đối tượng để trò chuyện. Có lẽ một phần do chỗ gã gần nhà thờ. Riêng Hùng quẹo, lúc đầu gã vừa sợ, và giữ kẽ, không biết anh ta sẽ tra vấn gì mình. Hóa ra, mọi việc quá đỗi bình thường. Cái anh chàng mặt mày lạnh như tiền ấy, tưởng chỉ có mỗi công việc tìm cách bắt giữ người khác, nhưng qua tiếp xúc, Hùng quẹo thấy anh ta cũng chẳng có gì đáng cho Hùng quẹo khiếp sợ cả, trái lại còn vui tính nữa là khác. Bởi vậy, dù chưa định rõ mức độ tình cảm của mình như thế nào. Nhưng mỗi ngày gã càng cởi mở, ít giữ kẻ hơn trong tiếp xúc với anh ta. Và, quả thật, cũng có một đôi lần anh ta hỏi Hùng quẹo về sinh hoạt của ông Mỹ, nhưng chỉ hỏi như để cho biết vậy thôi, chứ không phát biểu ý kiến gì. Cũng có thể anh công ai giữ ý, nhưng điều đó cũng không đủ để kết luận là Hùng quẹo làm cò mồi. Hùng quẹo không tức giận vì dư luận cho gã làm “cò mồi”, nhưng gã cay cú với kẻ đã tung ra nguồn tin đó, mà gã cho rằng chỉ có ông Mỹ chứ không là ai khác, vừa để khỏa lấp chuyện của mình, vừa để bêu rếu gã. Riêng về dư luận đối với ông Mỹ thì không phải xuất phát từ Hùng quẹo. Có thể nói do bà o giúp việc ông Mỹ, hoặc là từ một người nào đó trong đội “Thánh ca”. Dư luận này, mặc dù được ém nhẹm từ mọi phía, nó vẫn lan đi rất nhanh, vượt ra khỏi phạm vi giáo xứ. Nhưng dù đã có nhiều giáo dân bắt đầu không bằng lòng, phản đối ông Mỹ thì mọi người cũng không muốn kẻ chăn dắt linh hồn mình bị xúc phạm. Hình như đã có kiến nghị của hội đồng giáo xứ đề nghị giáo hội nên chuyển ông Mỹ đi một nơi khác. 20 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Giữa lúc mọi việc còn đang nhập nhằng như thế thì, bỗng nhiên, cô gái mất tích đột ngột trở về. Rõ ràng sau gần hai tháng vắng nhà, cô ta giống như người vừa ốm dậy. Mặt mày xanh lét, chỉ có thân hình thì như có vẻ đẫy ra. Và, như thể không biết có chuyện gì xảy ra trong thời gian mình vắng mặt, cô ta vẫn tìm đến nhà ông Mỹ ngay buổi chiều vừa trở lại. Ngoài ra, cô còn đến đấy cả những giờ mà chỉ có Hùng quẹo mới biết. Điều này làm cho gã chằm nón nẩy sinh một ý định, không phải để trả thù, cũng không phải do lòng ghen ghét, nhưng mà là để chứng minh một điều gì đó mà bản thân gã chưa phán quyết đầy đủ. Nhưng ý định đó thôi thúc gã mãnh liệt, làm cho gã run lên như sắp phải ra tòa phán xử cuối cùng. Hôm ấy, gã ngồi thu mình trong góc tối mái hiên nhà trong tư thế của người rình bắt kẻ trộm. Bấy giờ vào khoảng nửa đêm. Gã không biết gã ngồi như thế đã bao lâu, cho đến khi gã có cảm tưởng gã thở không nổi nữa thì bóng cô gái hiện ta trong hành lang nhà thờ. Như một con mèo, cô ta biến rất nhanh vào cửa hông nhà ông Mỹ. Hùng quẹo đứng bật dậy như chiếc lo xo làm vết thương đau nhức, suýt nữa bổ chúi về phía trước. Rồi gã phóng như điên đến nhà cha xứ. Nhưng đến trước cửa gã bỗng khựng lại và, như có một sức hút ma quái xô đẩy, gã vội nhảy lên hành lang nhà thờ, chạy đến chỗ tháp chuông. Khi hai bàn tay Hùng quẹo cầm được sợi giây thì không phải gã kéo nữa, mà là cả người gã đu theo những hồi chuông đổ dồn dập vang dội cả không trung, những hồi chuông như những tiếng kêu thất thanh, cầu cứu của thánh thần, đất trời, cây cỏ... trong bóng đêm dày đặc. Còn Hùng quẹo, gã không biết chuyện gì xảy ra sau đó, phút đầu gã chỉ có cảm giác là một nửa con người gã như và nát vụn tan tác ra muôn ngàn mảnh, còn một nửa con người kia như đang bay lơ lửng vào một thiên đường trần gian nào đó... T.N.S Gã kéo chuông nhà thờ 21 CAO LINH QUÂN Dã Tràng (SH số tháng 7 - 1984) có một con Dã Tràng sống ngoài bãi biển Nha Trang. Ngày trước, cũng lâu rồi, đang tuổi thiếu niên, ham rong chơi, có lần nó lên tới mặt đường, ngỡ ngàng nhìn Viện Pasteur mới xây cất xong. Cái lâu đài đứng một mình trong nắng như dát vàng đó làm chú ta mê mẩn. Con người tài giỏi thật! Những cái ta xây cất bao năm nay có thấm tháp vào đâu. Kìa có một ông nhỏ đang tần ngần đứng bên kia đường. Ta phải đến gần, tận nơi, xem Con Người là cái gì mà nó tài giỏi thế? Dã Tràng tiến gần đến Con Người, cách chừng năm bước chân. Nguy khốn rồi! Mặc dầu Dã Tràng tháo chạy với một tốc độ kinh hồn, cậu bé, đâu phải mình cậu ta, còn một cô bé nữa cũng lao theo... băng qua đường, xuống tới sát biển và tóm gọn được chú mình. - A, nó giống con cua! - Cho em đi, em buộc chỉ chơi... - Không được, để nướng ăn hay hơn. Thịt nó thơm lắm, không kém gì cua bể đâu! - Đừng, để nó sống xe cát cho mình xem không vui hơn à? 22 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Cậu bé giật lấy Dã Tràng, nhổ thử một cái càng, cái bự nhất. Trời đất! Mất cánh tay này rồi, mình còn đào bới xe cát làm sao được nữa? Dã Tràng co quắp chân tay lại. Cậu bé tháo gỡ từng cặp một và đâm cáu. Cậu định nhổ tuốt luột cả cho gọn. Vừa lúc đó, bác sĩ Yersin từ sau bồn hoa cúc trước Viện Pasteur bước lại gần. Ông già có ý muốn phân xử và xin được xem cái của lạ. - Ồ, anh bạn Dã Tràng - bác sĩ nói giọng trầm trầm - ngọn gió nào đưa mình tới đây? Các con, sao lại nỡ lòng giết hại một sinh vật, một kỳ công của Tạo Hóa? Đưa nó cho ông, ông xin; các con có thèm kẹo không? Ta thoát chết rồi! Dã Tràng tin tưởng nhìn vào mắt ông già. Đôi mắt không lớn nhưng có độ nhìn xa của những vì sao từ một đám tinh vân. Đôi mắt đau buồn nửa châm biếm nửa xót thương. - Sao con lại nghĩ tới chuyện ăn thịt nó được nhỉ? - Yersin nói bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ nhưng rất sõi - có phải thịt con gì cũng ăn được cả đâu! Cô bé ngây thơ nói: - Thôi tha cho nó, thả nó về với biển, nó sẽ sống thêm mấy chục tuổi nữa, có phải không ông? - Ừ, Dã Tràng sống lâu lắm, chừng nào chưa có ai giết nó. Dã Tràng sẽ phù hộ, ban cho con sống thêm một đời nữa. Con muốn không? - Một đời lâu không hở ông? Đến lượt thằng bé hỏi. Nãy giờ nó vẫn cúi đầu nghĩ ngợi gì không biết làm Dã Tràng đâm lo. - Một đời, nếu là của con người dài chừng năm mươi năm. Như vậy con sẽ được sống hai lần một đời người. Thử tính xem bao nhiêu năm nào? Cô bé liến láu: - Vậy là những một trăm năm cơ à? Thích quá! Thằng bé lại hỏi: Dã Tràng 23 - Thế... thế ông sống được bao năm rồi? - Tám mươi. - Cũng chưa lâu... - Vậy hả? Sao ông thấy nó dài kinh khủng! Đột nhiên thằng bé hỏi: - Đã có bao giờ ông giết một con vật nào chưa? Yersin cau mày nhìn nó hồi lâu. Ông nói lắp: - Chưa... chưa bao giờ. - Sao người trong xóm Cồn họ bảo ông giết nhiều chuột lắm? - À... chuột và bọ chó. Chúng cũng là những sinh vật nhưng là những sinh vật có hại. Ông chỉ giết những sinh vật nào gây ra cái chết cho con người. Thực ra ông cũng không chủ tâm giết những con chuột; ông chỉ tìm giết vi trùng dịch hạch thôi... khốn nỗi, chúng lại chứa chấp những thứ đó! - Còn những con người giết những con người thì sao? Ông có giết chúng không? Yersin ngớ người ra. Ông thấy như có một Descartes đang đứng trước mặt mình. Quả thật ta không lầm, ông nghĩ bụng, Việt Nam là một giống người thông minh gan góc. Ta đã nhận ra điều này ngay khi mới đặt chân tới đây. Lần gặp toàn quyền Robin năm trước, ta chẳng đã nói với hắn rằng: Các ông chẳng ôm nổi Đông Dương trong vòng mười năm nữa đâu! Chính trị là việc của các ông, tuy nhiên tôi phải nói, các ông không phải là bạn, các ông là kẻ thù của họ! Các ông thực tàn bạo! Đông Dương đang cấp cứu! Họ sẽ tự cứu mình! Thấy thằng bé cứ đăm đăm nhìn mình, ông xoa đầu nó. Nó đâu đã chịu buông tha mình! Tinh quái thật. - Người giết người ư? Chuyện đó còn tùy... do luật pháp của con người 24 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) có cho phép hay không? Không ai được quyền giết người! Tốt hơn cả là chặn đứng những bàn tay đang định giết người lại. Con người là một sinh vật cao cả thiêng liêng. Hãy nghiêng mình trước Con Người (nhưng phải là con người thực là người ấy). Xin nhớ lời ông nói, đừng nhớ sai nghe: Nếu có người nào hỏi con, Yersin là ai, thì trả lời họ - Yersin là một con người chưa bao giờ và không bao giờ giết một con người! Đấy! Ông giơ hai bàn tay: bàn tay xương xẩu, thô ráp, có những vết xước bỏng do hóa chất gây ra. Dã Tràng nép mình trong lòng tay đó, ép sát, cặp mắt nghiêng ngửa dò xét. Cô bé khúc khích cười. Cậu bé vẫn đứng yên nhìn ông sững sờ. Yersin xoa đầu chúng lần nữa rồi đi thẳng xuống biển. Những con sóng quen thuộc đã trườn lên, bò tới, quấn lấy chân ông. Bác sĩ ngồi xuống trên cát, áp Dã Tràng vào má, vào chòm râu gai góc lởm chởm rồi nói với nó những lời có cánh sau đây: - Dã Tràng ơi, người bạn lớn của ta! Ta đã cứu mình thoát chết, nhưng mình đừng ngây thơ tin là sẽ không gặp tai họa nữa. Có lần, trong một đêm hè, qua ống kính thiên văn, ta đã phát hiện được mấy vì sao trò chuyện bằng mấy ngôn ngữ gần giống nhau - ngôn ngữ Tình Thương. Quay nhìn về trái đất, ta đau đớn bắt gặp chính đồng bào của ta đang gây ra tiếng nói hận thù ở đây. Suốt đêm ấy, ta không ngủ được. Vậy là Pasteur thầy học kính yêu của ta, mấy người bạn ta nữa - Roux, Kalmès, Guérin - dù đã cố công, vẫn chưa đủ sức cứu vãn con người! Vẫn còn một thứ dịch hạch nữa hoành hành bao đời nay - Dịch hạch Chiến Tranh. Ta đành khoanh tay ngoài vòng bất lực? Ta không muốn dính dấp vào chính trị! Nhà ở ta là Trái Đất, phòng thí nghiệm ta là Vũ Trụ. Ta chỉ là một hạt cát biết suy nghĩ, vậy thôi! Nhưng rồi bao đêm ta vẫn không ngủ được. Trận dịch hạch mới đang tới gần, nước Pháp của ta đâu? Sao Người già nua và khiếp nhược đến thế? Ta buồn quá. Còn Đông Dương nữa, cũng đang chìm trong biển máu! Dã Tràng 25 Còn mình Dã Tràng ơi, mình đã gặp ta ở đâu rồi có biết không? Năm ấy ta giã từ Hồng Kông ra đi lòng buồn rười rượi. Lúc đầu, ta có ý định ở lại xứ sở ta đã tìm ra trùng dịch hạch. Ta thương những con người đau khổ cần cù có một không hai đó. Nhưng rồi lòng ta không yên: sống ở đất Tàu tối tăm và mệt người! Chỉ có dân Anh là chịu nổi, họ lạnh lùng và hám lợi. Ta là người Pháp, ta yêu Tự do. Khi ta đặt chân lên bờ biển Nha Trang, ở chỗ kia kìa, người đầu tiên ta gặp là mình. Mình giơ cao vòng tay chào đón ta. Bờ biển nước Pháp, hình như không có sinh vật kỳ lạ này? Nhìn mình nhào nặn những công trình dở dang bị sóng biển cướp đi ta thật lấy làm lạ. Các bạn đứng quanh ta cũng cười. Ta hỏi một người dân chài, người này cắt nghĩa cho ta hay việc làm không công vô nghĩa của mình. Ta đứng lặng hồi lâu suy nghĩ. Dạo ấy, ta đã trầm tư nhiều về Cái Chết, về kiếp phù sinh này. Người đời vẫn coi thường những cái nhỏ bé - đó chính là cội nguồn của bao nhiêu hiểm họa. Cái Nhỏ Bé thường khi lại là mặt trước của cái Hệ Trọng. Không, họ lầm. Họ không hiểu mình. Mình là sinh vật can đảm nhất trên thế gian này. Bao thất bại đâu có làm mình bỏ cuộc? Vinh quang của mình là ở cuộc chiến đấu không ngang sức. Ai sẽ là người được chứng kiến cái Hồi Kết của cuộc vật lộn giữa mình với biển cả? Chỉ có Vĩnh Cửu! Các nhà khoa học thường khi đều có những thân phận tương tự? Ta quyết định ở lại đây. Ta yêu đất nước trong lành này. Nha Trang, ai đã đến đây, người đó sẽ được sống thêm mười tuổi. Ta yêu người Việt Nam như yêu người Pháp, hay còn hơn nữa (liệu có ai trách cứ ta không?). Trái tim ta đầy ắp tình thương yêu ấy đến nỗi không còn chỗ để hình bóng một người đàn bà nào có thể len vào. Cũng không ai dám đem quyền lực và tiền bạc ra để cướp đoạt nó! Vĩnh biệt nhé. Dã Tràng ơi, người bạn lớn của ta! Trả mình về với tự do. Hãy tiếp tục chiến đấu! Ngày này với mình là khởi đầu, với ta lại là kết thúc. Ta biết ta sắp chết. Ta linh cảm thấy điều này trong những ngày gần đây... 26 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Yersin đặt nhẹ Dã Tràng xuống cát. Dã Tràng chưa kịp giơ tay chào ân nhân, nhà bác học đã quay gót. Biển ném vội theo một con sóng ầm ào muốn kêu lên, muốn phủ nhận điều xui xẻo trong câu nói vừa rồi của ông. ... Mùa đông những năm bốn mươi như kéo dài sang tới tháng 3 năm sau. Ở Đông Dương không ai buồn nghĩ tới chuyện đón xuân. Có hai tên hiến binh Nhật bất thần ập vào phòng bác sĩ Yersin. Người Pháp chạy đi đâu cả rồi? Dân xóm Cồn đói khát lênh đênh, moi tìm kiếm ăn trên biển động. Tên lính Nhật định giết chết bác sĩ bằng một mũi lê. Tên sĩ quan ngăn lại. Y lục soát mọi thứ trong nhà, dùng những lời lẽ độc địa nhất mà người Nhật có thể thu góp được sau bao năm Duy Tân để diễu cợt người Pháp. Bác sĩ thoát chết nhưng ông cũng không muốn sống nữa. Yersin lên cơn đau. Một người dân xóm Cồn mang tới một thanh kỳ nam có tới nghìn năm tuổi. Bác sĩ lắc đầu, từ chối, cảm ơn. Mười ngày sau ông chết. Dã Tràng nghe những người dân đánh cá trên các ghe thuyền loan tin bác sĩ đã mất. Nó muốn tới viếng ông, nhưng người ta đã đưa ông lên Suối Dầu, đặt ông nằm trên một ngọn đồi, đầu quay về phía biển. * * * 40 năm sau. Một người đàn ông, một người đàn bà cùng dạo biển Nha Trang. Người đàn ông là đại tá. Người đàn bà là nhà văn. Người đàn bà hỏi người đàn ông: - Anh nghĩ gì về Nha Trang sau 25 năm xa cách? Người đàn ông trả lời sau một lúc suy nghĩ: Dã Tràng 27 - Anh đã đi qua 16 nước. Không có nơi nào đẹp như Nha Trang mình. Đẹp không phải chỉ vì Nha Trang là quê hương mà vì Nha Trang là Nha Trang; Nha Trang đẹp thật, không gì so sánh được... Người đàn bà tán thưởng: - Anh nói đúng. Em cũng đã từng nghỉ dưỡng ở Xôsi, Vácna... Hai mươi năm sống ở Hà Nội, Nha Trang vẫn nằm trong giấc mộng. Đôi khi em cứ nghĩ, có lúc nào vật đổi sao dời. Hòn Tre kia tự nhiên biến đi đâu, bãi biển này quẹo vào chỗ khác, không còn cái đường cong của liềm trăng nữa thì Nha Trang không còn là Nha Trang... Trở lại Nha Trang lần này, những hình bóng cũ, anh nhớ nhất là ai? - Câu phỏng vấn này hơi khó đây... Cách mạng Tháng Tám, chống Pháp rồi chống Mỹ, bây giờ lại chống Tàu... biết bao đồng chí đã hy sinh. A, phải rồi, có một người, một người, một người không thể quên được, người công dân kỳ lạ của Nha Trang, ông Yersin. Người đàn bà reo lên như trẻ thơ: - Đúng! Yersin! - Ta lại thăm nhà ở của Yersin đi! - Ừ phải đấy, em sẽ chụp ít tấm hình làm kỷ niệm. - Nó đâu rồi nhỉ? Cái lầu ông Tư ấy? Dã Tràng nghe rõ hết. Nó hồi hộp đi lần theo bờ cát. Họ dừng lại hỏi một ông già đang câu cá. Ông già giơ tay chỉ một ngôi nhà nghỉ mát ba tầng mới xây, đủ sức chứa cả trăm con người ở. Họ quay lui, đi sát ngang qua trước mặt Dã Tràng. - Nhà của Yersin không còn nữa - người đàn bà nói đoạn ngoái đầu nhìn Viện Pasteur, rồi đưa mắt dõi trông về phía biển xanh. - Anh à, tự nhiên em nẩy ra một ý định... - Ý định gì? 28 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) - Em sẽ viết một cuốn truyện về cuộc đời của bác sĩ Yersin, một ân nhân của nhân loại, một người của chúng ta. Viết cho trẻ con đọc. Người đàn ông cười: - Hay đấy! Nhưng dè chừng nghe, không khéo lại công... dã tràng! Dã Tràng hơi choáng, nhưng nó trấn tĩnh ngay. - Em sẽ giành ít ra là một nửa đời mình còn lại để viết. - Viết về những người hiền triết khó lắm! - Không sao! Em sẽ cố gắng. Viết về một nhà khoa học như Yersin, em cũng phải kiên nhẫn trong công việc thầm lặng như một nhà khoa học. Nếu không thành sẽ có người khác viết tiếp. Đời là vậy thôi. Dã Tràng mừng thầm. Nó đang chờ đợi và sẵn lòng làm tiếp công việc đó. Nha Trang 1983 C.L.Q Dã Tràng 29 TÔ NHUẬN VỸ Tiếng nói mặt đất(*) (SH số tháng 9 năm 1984) – Tặng PTTN – I. Tiếng còi như con thuồng luồng đen khổng lồ chạy loạn lên trong không gian với tiếng hụ hụ trần truồng. Mọi vật loạng choạng. Cây lim già, cây đa nhiều cành, cây si rễ già, những hàng cây lớn bé bên hồ rùng mình, rồi như cùng một lúc nghiêng hàng vạn tai lá nghe tiếng hụ. Đã khá lâu rồi, tiếng hụ của còi mới quen lại trong không gian thành phố. Tiếng còi lạ, dai dẳng. Thiên nga trắng đang ồ ồ tâm sự ngoài đảo chim bỗng quác lên thất *. Tháng 12/1972, Hội Nhà văn Việt Nam lập Tổ phóng viên xung kích chi viện cho báo Hà Nội Mới để góp phần phản ảnh cuộc chiến đấu oai hùng của quân dân Hà Nội chống B52 Mỹ. Tổ xung kích này lấy từ Lớp bồi dưỡng khóa 5 của Hội Nhà văn (có những tác giả từ chiến trường miền Nam vừa ra) là Tô Nhuận Vỹ, Văn Dinh, Phan Thị Thanh Nhàn, Đỗ Thị Từ. Họ đã có mặt ở những điểm nóng Đông Anh, Mễ Trì, Khâm Thiên... ngay khi bom Mỹ vừa rải xuống và đã có những bài viết nóng bỏng từ những thực tế đau thương và anh hùng này. Truyện ngắn này Tô Nhuận Vỹ viết ngay Mùa Giáng sinh lịch sử đó. 30 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) thanh. Rồi giống như một người mất trí, nó lao xuống hồ, hai cánh đập lạt rạt, lết trên nước như chạy. - Máy bay địch đã lọt vào bầu trời thành phố... Dưới cành sấu đầu ngã ba, loa phóng thanh truyền đi một giọng nữ trung, rõ và tròn tiếng. Không gian trên tất cả những ngọn cây và dưới hết các tán lá dày như có tiếng thở phào yên tâm, nhưng mơ hồ. Những chuỗi nổ đã bắt đầu phá mặt đất. Từ các hướng đang dậy tiếng bom. Tiếng sau to hơn tiếng trước, gom dần về vùng đảo chim. Súp - lê từ doanh trại nào xoi cả vào đất, báo cho lòng đất thức dậy. Nhưng đất thì trốn đi đâu với cái lưng mênh mông của mình. Những con dế đực thường gọi mái vào giờ này cũng im bặt. Người qua đường và những đôi trai gái vội vã, lom khom nhảy xuống các hầm tròn như giếng cạn. Tiếng nổ tạt lên mặt hồ khiến những con cá giật mình, bắn lên trắng nhờ rồi rớt xuống lõm tõm. Cả ngọn gió hồ Tây trèo qua con đường đất cao ngày xưa là tường thành kinh đô tới đây cũng nặng nhọc như một nhịp đập gấp. Con Thiên nga tội nghiệp chạy trốn tiếng nổ không tìm đâu ra chỗ nấp. Bỗng thấy bóng người ở cái hầm cạnh cây si quen thuộc, nó lết tới bằng đôi cánh đập nước lạt rạt. Ngoài sắc trắng nhờ của đêm bỗng hừng hừng ở các quãng hở của lá, giữa đoạn cách các thân cây và đầy cả lá trên các ngọn cao. Bầu trời bắt đầu cháy. Từ những nơi nào? Những chuỗi nổ dai dẳng. Nhưng bây giờ chẳng còn biết được sự gần xa là từ đâu. * * * Cây si rễ dài cúi xuống mặt hồ, trùm bóng tối lên chiếc ghế đôi dưới gốc nó. Ngay bên cạnh chiếc hầm tròn đúc xi măng. Một Người - Đàn - Bà vừa nhảy xuống thì chuỗi nổ gần đánh dồn chị Tiếng nói mặt đất 31 vào thành hầm. Chị rên một tiếng rất khẽ và thụp xuống. Từ trên chỉ thấy một quành tròn tối của miệng hầm. Vụn xi măng tơi đổ xuống lớp lá khô dưới đáy lào rào. Bom nổ phía Ngọc Hà? Hay đường Thanh Niên? Hay từ đâu? Chuỗi nổ sau trải ra xa. Ở đâu nữa? Người - Đàn - Bà rút hai ngón tay ra khỏi tai, lắc đầu rủ đất bụi và cũng là để trấn tĩnh rồi ngước mắt nhìn lên. Bầu trời đang cháy. Tiếng nổ gần, tiếng nổ xa... Tất cả như từ bầu trời tròn đổ ập xuống hầm, và cũng từ đâu đây, từ chung quanh đây tung lên. Nó đỏ dần... Đến mức khó nhận ra những bùng lửa của đạn lớn ở tầng cao. Những luồng năm mươi bảy ly thẳng băng từ phía sân Hàng Đẫy rạch những đường đỏ lừ rất chụm và điềm tĩnh. Có tiếng lịch bịch phía trên hầm. - Sao anh đứng đấy? Một mảnh bom chém rạt vào đám lá si. Người - Đàn - Bà rùng mình. Một tiếng quát thất thanh ngay trước bờ nước. - Ôi con Thiên nga háu ăn!- Người - Đàn - Bà thảng thốt. Lại một mảnh bom chém vào thân cây đa bên trái. Con Thiên nga rúc vào chân Người - Đàn - Ông, cuống quýt vì tiếng rên thảm thiết. - Con chim hả? - Anh dúi con Thiên nga vào lòng Người - Đàn - Bà. Loạt bom thứ ba nổ như đào đất. Người - Đàn - Bà bất thần kéo tuột Người - Đàn - Ông xuống. Hai người với con Thiên nga nên chật. Người - Đàn - Bà lúng túng, đứng dậy. Nhưng cứ mỗi tiếng nổ chị lại thụp xuống. Thiên nga lại lộ ộ rên. Chẳng biết vì bị ép hay vì sợ. Chắc vì cả hai. Còn Người - Đàn - Ông vẫn trầm tĩnh nhìn lên bầu trời cháy đỏ. Những tiếng nổ bỗng dịu đi nhưng tiếng ì ì như tiếng xay lúa vẫn vùi trong những tầng mây cao. - Đồng bào chú ý, máy bay địch vẫn đang... Hình như khi bom ngừng thì ánh sáng các đám cháy từ các phía mới 32 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) thật đỏ hơn. Cả công viên như được soi rõ bằng một ngọn đuốc giữa trời. Người - Đàn - Ông xem đồng hồ, chống hai tay lên miệng hầm lấy đà. - Đừng coi thường tụi Bê năm hai. Người - Đàn - Bà vẫn ôm con Thiên nga vào lòng, nhắc. Giọng của chị là giọng của một người quen nhắc nhở người khác. Nhưng đều đều, mệt mỏi. - Trong đầu chị có một chiếc Bê năm hai đấy. Hình như Người - Đàn - Bà không nghe thấy. Chị nghiêng tai lên phía những tầng mây cao. Tiếng ì ì lại mỗi lúc một rền. Những nháy lửa như chớp giông. Tiếp theo là tiếng nổ xé không khí. Lần này có vẻ xa hơn nhưng đất dưới hầm như bị xé ra. Bom xuyên? Dãy nhà nào vừa sập? Bao giờ thì đến lượt những thân cây này? Mặt hồ này? Con Thiên nga này nữa? - Không! - Người - Đàn - Bà ôm chặt Thiên nga, vuốt lên bộ lông trắng như bông của nó. - Chị nói gì? - Đâu. Anh bộ đội kéo tay một cô gái cùng xuống cái hầm tròn trước mắt, mà nãy giờ hai người không thấy. - Bom đạn thế này lại dẫn nhau đi chơi - Người - Đàn - Bà lại nói bằng một giọng chán ngán. - Chắc anh ấy sắp ra trận. Chia tay mà. Giọng trầm của Người - Đàn - Ông tự nhiên cũng nhẹ xuống, như thanh minh cho bạn bè. - Đàn ông các anh thật ích kỷ. Sắp ra trận lại yêu, lại cưới. Để có chuyện gì thì... Tiếng nói mặt đất 33 - Chị nghĩ thế? - Tôi là đàn ông, có gan ra trận thì có gan gác chuyện riêng lại. - Chị nghĩ thế thật à? - Đấy, Bê năm hai, bom như trấu. Con Thiên nga rung rung cái thân đầy ắp mầu trắng của nó, cổ lục khục như mắc sỏi. Hay nó muốn nói chen vào một câu gì? - Chắc chị chưa bao giờ yêu? - Thiếu sáu ngày tôi đã hai mươi sáu tuổi. - Con trai nước này đánh giặc hai mươi bảy năm rồi. - Cả anh? - Hai năm trước tôi còn cầm súng. Im lặng lại làm quãng cách giữa hai người. Chỉ có tiếng lạp cạp của mỏ Thiên nga cắn vào cúc áo Người - Đàn - Bà. Phút giây đáng sợ đã qua, bây giờ nó có vẻ yên tâm hơn. Ừ, giá như nó nói được như con Thiên nga Đan Mạch xưa ấy, ví thử một câu thôi, nó sẽ nói gì nhỉ? - Có mùi máu ở đâu? Người - Đàn - Bà băn khoăn hỏi. Nghe nói, Người - Đàn - Ông xoay nhìn ra chim. Anh hỏi buông; - Anh ấy ở đâu? - Anh lịch sự một chút! - Giọng Người - Đàn - Bà đột ngột rung lên. Người - Đàn - Ông luống cuống. Anh mơ hồ cảm thấy mình vừa chạm vào một vết thương của Người - Đàn - Bà. - Xin lỗi chị. Người - Đàn - Ông lấy đà nhún người lên. Đúng lúc đó, Người - Đàn - Bà thấy ở vạt quần trên đầu gối của anh một vệt đen sẫm. - Máu! Anh bị?... Người - Đàn - Ông đã gỡ tay của Người - Đàn - Bà ra. 34 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) - Tôi không phải là con Thiên nga. Tôi cần đi gấp. - Không được! Người - Đàn - Bà buông Thiên nga rồi lấy từ trong túi ra một cuộn băng vô trùng. Rất tự nhiên, chị kéo ống quần của Người - Đàn - Ông lên xem vết thương. Một mảnh bom bằng đầu đũa cắt chéo qua. Vết thương cạn, may quá. Máu đã đông lại, đen nháy. Anh bị ngay loạt đầu tiên trên đường qua đây. Nhìn tay băng thành thạo của Người - Đàn - Bà, anh hỏi: - Chị kiêm y tá à? - Tôi là bác sĩ. Tôi phải đến bệnh viện, phía đang nổ đó. - Tôi đưa chị đi được không?... Mà chị không sợ... - Có lúc cần thế. Đúng lúc quá. Không gian chùng xuống khi tiếng nổ bỗng ít đi. Chúng rút ra rồi nhưng sẽ còn đánh bao nhiêu đợt nữa từ giờ tới sáng? Người - Đàn - Bà vuốt đầu con Thiên nga khi nó cuốn lấy chân chị. - Sợ có lúc thôi em - Chị nói với nó - Không đàn ông họ cười. - Ngày trước chắc chị hay ra đây? - Cả bây giờ. - Với?... - Bốn mươi cây số Đông Nam vẫn có máy bay địch... - Xin anh đừng hỏi Lần thứ hai Người - Đàn - Ông lúng túng. Anh nhìn theo dáng đi quả quyết của Người - Đàn - Bà phía trước, tần ngần không biết nên theo hay đạp xe về nhà máy. Nhưng nhà máy anh lại sát bệnh viện ấy. Phía đó, những cơn rùng rùng của tiếng nổ lại vừa dậy lên. Tiếng nói mặt đất 35 II. Từ mấy năm trước, Thiên nga trắng đã quen Người - Đàn - Bà làm nghề bác sĩ ấy. Đó là vào những chiều chủ nhật đẹp trời, những đêm giữa kẽ hở của vòm lá có những ngôi sao nhấp nháy. Đó là thời gian của tình yêu. Lúc yêu nhau mọi người đều thông minh nên biết chọn chỗ đứng và thời gian cho mình. Trong hàng trăm chỗ ngồi ở công viên này, họ đến chiếc ghế đôi trước cây si bên hồ. Thiên nga cũng thường bềnh tới đó giữa bóng si rậm rạp đổ xuống khi mặt trời ngả về phía Tây, và đêm đến, lạ quá, gió từ đâu cũng vuốt nhẹ nơi này rồi mới lướt đi tận đâu đâu. Những ngày đầu tiên, Người - Con - Trai thường đến trước, ngơ ngác nhìn quanh và ngồi xuống đứng lên bồn chồn đến tội nghiệp. Đôi lần Người - Con - Gái đến và thấy chiếc ghế không. Cô ngúng nguẩy tính bỏ đi liền đó. Sao thế chị, đừng thế. Em cũng là con gái, em là chị em chờ. Anh ấy đã bao lần như thế, đừng đi... Thiên nga tính nói như vậy với Người - Con - Gái. Nhưng nó là chim, nó đâu phải người. Nó kêu lên một tiếng thật vui rồi lướt tới gốc cây si. Sắc đẹp và lòng tốt của nó đã xoa dịu giận dữ của Người - Con - Gái. Cô ngồi xuống đùa với Thiên nga cho tới lúc bước đi hấp tấp của Người - Con - Trai tới gần. - Thiên nga ơi, Thiên nga hãy bơi ra hồ một lúc... Thiên nga bơi ra gần giữa hồ nhưng đôi tai nghịch ngợm của nó vẫn nghiêng về phía cây si. - Cho anh hôn Hà một lần?... - Đùa với Thiên nga vẫn không đủ sao anh? Tiếng thì thầm từ chiếc ghế đôi như một hơi gió. Từ đêm sau, những câu nói đó Thiên nga chẳng còn nghe lại nữa. Và khi họ hôn nhau - đâu phải một lần - họ cũng không còn bảo Thiên nga hãy bơi ra hồ một lúc nữa. Những đêm lạ lùng như vậy của họ rất tò mò đối với Thiên nga cứ nối nhau qua đi. Cho đến khi họ đến chiếc ghế đôi 36 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) vào những buổi ngày, không phải người trước người sau, mà cùng lúc. Người - Con - Trai với bước đi đàng hoàng, vừa đi vừa nhìn vào khuôn mặt có đôi mắt tinh nghịch của Người - Con - Gái mà cười. Người - Con - Gái cũng thôi chỉ nhìn xuống chân và bẻ tay rắc rắc. Họ còn đem đến cho Thiên nga những miếng bánh mì rất thơm. Họ cười với nhau, cười với cả mọi người qua đường mà không cần giấu sau cái ngoảnh mặt nữa. Họ đã thành vợ chồng. Một hôm, họ lại đến chiếc ghế đôi trước cây si rễ dài vào buổi tối như ngày nào mới yêu nhau. Đêm ấy Người - Con - Trai nói nhiều, hình như cười nhiều hơn mọi ngày. Cả khi tiếng loa lúc ấy còn chưa quen với thính giác với người dân thành phố này vang lên, đồng bào chú ý đồng bào chú ý... Họ vẫn ngồi đó nói với nhau những gì lộn xộn. Người - Con - Gái gục đầu vào bộ ngực vừa khoác chiếc áo ka - ki màu xanh lá cây của chồng, nấc lên: - Anh tha lỗi cho em, em không định khóc... Một lúc sau cô nói bằng giọng đã khô hơn: - Anh yên tâm mà đi, anh thân yêu!... Gần một năm trôi qua. Hôm đó, buổi chiều, một buổi chiều rất sáng vì đầy nắng. Người - Con - Gái đến cây si bên hồ với bước chân của một con bệnh. Tiếng sỏi va nhau rời rạc dưới chân cô. Mắt cô nhìn đâu, mà như chẳng nhìn đâu. Cô không mang bánh mì cho Thiên nga. Cô đến đó ngồi xuống và im lặng. Từ đôi mắt đỏ quầng của cô, hai dòng nước mắt trào ra. Thiên nga luống cuống bơi dọc bờ kè tìm đường lên cạnh cô nhưng nó cứ lập cập trượt chân. Tai họa gì đã đến với người bạn gái của nó? Một giải khăn sô trắng trên đầu. - Thiên nga ơi, làm sao tôi sống nổi... Tiếng cô nghẹn trong cổ. Ôi, sao mà vô lý. Trời đất đang đầy nắng mà Tiếng nói mặt đất 37 sao lòng tôi là nước mắt. Thiên nga bất lực nhìn Người - Con - Gái mà lúc này khuôn mặt đã lạ đi như mặt một người đàn bà xế tuổi. Nó chợt nghĩ đến nó, nó rùng mình. Nó cũng chưa thể nào quen với tiếng “đồng bào chú ý”, nó chưa thể quen với tiếng nổ đấm ngược nước hồ vào ngực tức ách. ... Vậy mà đã mấy năm qua rồi. Qua rồi trong những ngày tháng bầu trời và mặt đất quằn quại giữa những âm thanh dữ dội. * * * Ngày sinh nhật của Người - Đàn - Bà. Đúng buổi chiều ấy bom rơi trúng bệnh viện nơi chị làm việc. Phòng Dược và một khoa bệnh viện bị đổ. Mười mấy người chết, và chưa biết hết số bị thương. Cũng sáng đó bom rơi xuống khu nhà chị ở. Hàng xóm mất bốn người, có một đứa bé sáu tuổi bị thương. Cháu gẫy tay phải, quãng sát vai. Bốn người mất đi là cha mẹ và anh chị cháu. Người - Đàn - Bà đưa cháu đến bệnh viện của mình thì gặp trận bom chiều. Vết thương vừa mổ của cháu bị bung ra, lại thêm vết giập mới ở vai. Cháu mất nhiều máu, máu khô ở phòng Dược lại bị vùi trong đống gạch ngổn ngang. May mà công nhân xưởng cơ khí qua, có một người cho cháu hai trăm xê xê. Chị thắt ruột lo cho cháu. Chị quên, chính chị cũng suýt chẳng còn để chị mổ, để chị cho thêm cháu Hoa một trăm xê xê máu của mình nữa. Máu của chị, máu của người công nhân nào đó là tấm lòng của mọi người đối với cháu, cháu có sống không Hoa? Còn căn phòng của chị, mất nó đi thì hình như chị cũng chẳng thấy đau gì. Anh ấy đã nằm lại ngoài chiến trường, với cuộc sống cô đơn chịu đựng của chị thì căn phòng càng làm cho chị thấy trống trải. Suốt ngày ở phòng cấp cứu khiến sức lực của chị gần như kiệt. Bây giờ chị đi bộ về nhà. Dù sao cũng xem lại cái gì có thể còn dùng được cho cuộc sống hàng ngày. Như thường lệ, chị rẽ vào đây với Thiên nga. Những lúc niềm vui dồn đến, những lần đau khổ dày vò, chị đều tìm đến 38 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Thiên nga. Thiên nga với màu trắng trong sạch của nó như một bàn tay êm vuốt tròn niềm vui và xoa dịu nỗi đau. Con chim trời rộng lòng chia sẻ ơi, chị yêu màu trắng như một tấm lòng tốt của em. Người - Đàn - Ông hôm nay không cùng về với chị. Anh ấy đi đào hầm sập. Chị ngồi xuống một cái ghế lạnh trơn lấy tay vỗ một tiếng cụt ngủn. Màu trắng ngoài đảo chim động đậy, rồi một tiếng ào ở bờ nước, Thiên nga nghe tiếng gọi, bơi vào. Lúc này sao yên tĩnh quá. Chẳng báo động nhưng đèn công viên vẫn tắt. Đêm trắng nhờ như một đêm phương Bắc. Nghe tả thế, chứ chị chưa có dịp đến những vùng của vĩ tuyến Bắc địa cầu. Mất mười sáu giờ từ Guam, mất bảy giờ từ Utapao, lúc nào thì tụi Bê năm hai Mỹ ấy lại ì ì trên đầu chị đây. - ... Đế quốc Mỹ láo xược tuyên bố đẩy Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá... Người - Đàn - Bà hực một tiếng ở cổ. Chúng nó dọa? Thế giới này người ta hay dọa nhau, nhưng có sự dọa dẫm nào tối tăm vậy không. Thời đá nào? Thời đá mài cả vạn năm trước ư? Khoang ngực chị đau nhói. Hay chúng chỉ dọa những người ít nhiều còn yếu bóng vía như chị và Thiên nga? Khuôn mặt đang lạnh của chị nóng bừng lên. Ôi, ngày hôm nay, máu... Cháu Hoa có qua khỏi không. Chút nữa phải quay về bệnh viện. Và lại ngủ đâu. Hai mươi sáu năm mình sống làm người rồi đây, ừ... Thiên nga ơi, tôi sống có gì không đúng phải không? Thiên nga chưa hiểu điều chị muốn hỏi. Nó hướng cái mỏ dài ra phía đảo chim. Nó muốn kể với chị sáng nay một mảnh bom chém trúng con cá trôi ở đó chăng. Hay muốn khoe với chị, tới bữa nay nó cũng ung dung như chị nghĩa là không chui vào hầm người ta vừa xây cho chúng nó mà đứng trước cây liễu đợi chị về. Người - Đàn - Bà bẻ một mẩu bánh mì sừng bò đưa tận miệng Thiên nga. Nó chóp chép nhá mẩu bánh mì một cách thích thú. Anh ấy nói gì nhỉ, thanh niên đất nước này đánh Tiếng nói mặt đất 39 giặc hai mươi bảy năm rồi. Có cái gì vô cớ khi chị cảm thấy Người - Đàn - Ông ấy là một người tốt. Anh ấy nghĩ gì khi đưa chị đến bệnh viện và tiễn về tận nhà. Có người đàn ông nào hoàn toàn trong sáng khi đến với người đàn bà không. Sao lúc vào ca mổ cháu Hoa, chị có cảm giác gần như xấu hổ. Cái dao mổ thì mảnh như lá lúa, còn tiếng ì ì của chúng nó đầy cả mấy tầng mây trên đầu. Có cái gì phù phiếm, không phải đạo. - Thiên nga ơi, tôi sống có gì không đúng phải không? - Khi nhà chị tan mà chị vẫn mổ thì câu trả lời của Thiên nga là thừa. Người - Đàn - Bà ngoảnh lại. Người - Đàn - Ông đã đứng sau ghế đá từ lúc nào. Giọng nói và hơi thở của anh run và yếu như một người mất sức. Người - Đàn - Bà đặt bàn tay lên ngực anh theo thói quen nghề nghiệp. - Anh cần nghỉ ngơi. Tim anh đập không đều. - Những ngày này tim ai mà chẳng thế chị. - Tây Bắc Hà Nội năm mươi cây số có máy bay địch... Người - Đàn - Ông bẻ một nhành si bứt lá vo vụn ra rồi ném cho Thiên nga. - Chị cho tôi nói điều này. Chị hãy dọn đến nhà tôi ở tạm... - Câu nói vừa ra khỏi miệng thì cả người anh bỗng lạnh toát - Thế này chị à, chị đừng hiểu sai đi, tháng này tôi phải trực suốt ở nhà máy. Lúc nào có chỗ, chị trả lại tôi. Người - Đàn - Ông lúng túng quá, nói mà cuống lên. Sao chị chưa kịp hiểu thì anh đã sợ hiểu nhầm. Anh ấy thiếu tự tin? - Anh thương hại tôi phải không? - Ôi!?... - Người - Đàn - Ông bàng hoàng. Ngay lúc vừa hỏi, chị thấy chị đã làm tối đi chính tấm lòng của chị. Chị hối hận. - Tôi xin lỗi anh, xin lỗi anh. 40 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Bây giờ chị mới nhận thấy tay Người - Đàn - Ông cầm cành hoa hồng trắng. Anh ấy mang hoa đi đâu? Hôm nay sinh nhật mình, hay là... Người - Đàn - Ông bước ra đường. Nhưng mới đi vài bước, anh dừng lại. - Chị nghĩ chỉ có con Thiên nga ngoài đảo mới có mầu trắng sao? Chẳng biết sức gì kéo chân chị xuống không cho chị bước tới. Sương đã xuống nhiều. Một vài tiếng lộp bộp đâu trên lá đa. Bóng Người - Đàn - Ông lặn dần trong mầu trắng mờ như sữa của đêm. Người - Đàn - Bà hòa trong sương như choàng lấy một người thân ấm áp. Có mầu trắng như áo em nhưng chẳng dễ gì nhìn được, Thiên nga biết không?Tiếng ì ì đang lẩn quất trên những tầng mây xa phải không? Chúng nó đưa cái chết đến dọa mình sao? Hay bằng sự sống cô đơn, chúng nó thách thức mình? Mình đã sống được mấy năm làm người? Hai mươi sáu ư?... Gió lặng từ lúc nào. Đêm lạnh dần và đảo chim mỗi lúc một mờ trong sương. Tiếng còi lại nổi lên. Thiên nga từ từ xuống nước, lướt ra đảo. Dù sao nó cũng phải nghe lời người coi chim. Từ đây vẫn nhận ra mầu trắng mát mắt của Thiên nga ngoài đảo. Trong tiếng hụ của còi, trong sự rục rịch của mọi vật mà con người có thể biết, màu trắng Thiên nga lúc này sao mà yên lành, bất chấp. Con đường đi về hàng ngày của họ qua công viên nên nơi dừng chân của họ là ghế đá, chỗ nấp Bê năm hai của họ là chiếc hầm cạnh hồ, và những gì riêng tư của họ có hồ đêm kín tiếng, có hàng cây tò mò, có Thiên nga màu trắng chứng kiến. Lại một đêm như những đêm nào. Công viên tối đèn. Những đôi trai gái yên lặng hơn. Bóng người vội vã trên đường đi, thỉnh thoảng ném một cái nhìn về phía tiếng rì rầm ở ghế đôi. Và loa phóng thanh dưới cành sấu vẫn nhắc chừng máy bay địch. Người - Đàn - Ông và Người - Đàn - Bà của chúng ta lại đến. Người - Tiếng nói mặt đất 41 Đàn - Bà đã dọn đến phòng của anh. Còn bây giờ họ đến đây, trên đường tới bệnh viện và nhà máy, ít ra với lý do họ có chung một người bạn là Thiên nga. Bóng trắng Thiên nga ngoài đảo vẫn tròn một bàn tay trong cái mờ mờ của sương mới buông còn mỏng. Nhưng đêm nay Người - Đàn - Bà không vỗ tay gọi. Còn Người - Đàn - Ông thì cứ loay hoay với khẩu súng trường, hết cầm tay lại khoác vào vai. Hình như anh chưa quen ngồi ở ghế đá với một người con gái. Loa phóng thanh đang phát tin về một kiến nghị đòi tự do báo chí ở Sài Gòn. - Con Thiên nga bây giờ quen rồi, đỡ sợ hơn hôm đầu. Người - Đàn - Bà chỉ ra bóng trắng ngoài đảo chim. - Bê năm hai đối với nó còn lạ, lạ thì chưa quen. Người ta cũng thế, quen rồi thì chẳng lạ nữa. - Nghe nói trời giao cho vợ chồng thần Păng-đo-rơ giữ cái hộp khóa kín các tai họa. Hai vợ chồng tò mò giở xem nên tai họa bay tung ra làm khổ loài người - Giọng của Người - Đàn - Bà như có tiếng cười. - Chúng ta sẽ là người gom tất cả các tai họa rồi khóa kín lại. Thợ chúng tôi có một cái khóa rất tốt để không ai có thể cạy ra. Nó đây chị! - Người - Đàn - Ông đặt tay lên khẩu súng trường. Một cơn gió rung nhẹ các vòm lá dày. Tiếng xào xạc êm nghe như một hơi gió thứ hai nổi lên từ những vòm lá đó. Lốm đốm giữa bầu trời bao la mấy ngôi sao như mắt người ngái ngủ. Ngoài đảo, Thiên nga đang tâm sự với con chim gì mà giọng léc kéc như dao sắc. Giá có mùi thơm của hoa hoàng lan thì đêm nay sẽ ngất ngây biết mấy. - Tôi xin nhận cháu Hoa làm con, anh Quân à. - Chị nghĩ kỹ chưa? - Anh nói gì? - Khi chị có anh ấy, anh ấy bằng lòng không? - Tôi sẽ lấy chồng bộ đội. Đó là những người có tấm lòng rộng rãi. 42 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) - Trước đây chị nói đã có gan ra trận... - Anh không tin lời tôi vừa rồi à? Cả hai im lặng. Một lúc, Người - Đàn - Ông trả lời: - Trước đây chị nói như vậy, tôi tin đó là điều chị nghĩ. Bây giờ chị nói thế, tôi biết là chị không sai lòng mình. Nhưng vì sao... - Đông Nam Hà Nội bốn mươi cây số... Người - Đàn - Bà nhìn về phía loa phóng thanh dưới cành sấu đầu ngã ba. - Anh hỏi một câu thừa. Họ cùng bước ra đường. Còi đã lại hụ lên. Hình như họ không để ý đến thứ âm thanh đang choán cả không gian ấy, Gió vẫn xào xạc trên những ngọn cây. Những ngôi sao lúc này như mắt người vừa rửa mặt, sáng hẳn ra. Ngoài đảo chim, màu trắng Thiên nga vẫn tròn một bàn tay, và nó vẫn tâm sự với bạn mình. Bây giờ đến lượt nó nói, cái giọng ồ ồ chẳng hợp với cái vẻ thanh nhã của nó tí nào cả. Đêm sao hiền hòa, yên lành. Thành thử tiếng ì ì Bê năm hai vô duyên quá. Nó như cái thằng dọa người hùng hổ mà chẳng ai thèm để mắt tới. III. Trong âm thanh hỗn tạp của bom đạn, người thành phố vẫn nhận ra sự đánh trả ngày một chững chạc của lực lượng vũ trang mình. Những mảng lửa vàng đen lẫn lộn cứ loạng choạng hút xuống mỗi đêm một nhiều. Có đời nào Bê năm hai cháy cho dân thành phố xem rõ và đã vậy. Nó rơi ngay trên con đường gần nghìn năm trước là tường thành kinh đô, rợn lên như một đám cháy rừng. Và ở các ngả đường, ngay giữa những trận đánh giáp mặt, người đứng trên mặt đất xem mỗi ngày một Tiếng nói mặt đất 43 đông. Những ghế đá bỏ không quanh hồ và khắp công viên mỗi đêm một ít, và đến bây giờ thì chẳng còn nữa. Với trái tim con người thì có tiếng bom nào, dù là bom Fatơnbơt, lại có thể vang tới? Người - Đàn - Ông hôm nay đến chiếc ghế đôi từ sớm với vẻ bồn chồn đến lạ. Mãi một giờ sau, khi trời đã bỏ qua quãng tối nhất để sáng dần lên vì những ngôi sao và vì mặt hồ đêm phản quang thì Người - Đàn - Bà từ bệnh viện về, cũng với vẻ vội vã khác thường. - Tôi có lệnh ngày mai trở lại quân đội. - Tôi biết rồi. - Làm sao chị biết? - Vì tôi là bạn anh. - Tôi phải đến nhà máy họp bây giờ. - Vâng. - Ồ, Thu Hà... - Anh lại định hỏi vì sao tôi biết phải không? - ... - Anh ngốc lắm!... Hai người lại ngồi xuống cái ghế đá đã bao lần họ ngồi. Nhưng lúc này họ đều có một cảm giác rất lạ, như chưa bao giờ họ ngồi trên ghế đá này cả. Không, khác nữa, cái ghế như một lớp mây trắng dày và êm... - “Tôi là Trần Thanh Quân, hai mươi chín tuổi, công nhân tiện bậc bốn, tôi tha thiết đề nghị...” - Ôi, Thu Hà! - Anh không biết tôi ở trong hội đồng tuyển quân của khu phố sao? - Bây giờ tôi mới hiểu Thu Hà. - Anh chẳng hiểu nổi đâu, anh Quân - giọng Người - Đàn - Bà bỗng nhạt đi như sương - anh đi họp đi, tôi chờ... 44 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Người - Đàn - Bà ở lại một mình. Chị ngả người xuống thành ghế nhìn lên khoảng trời đã nặng sương. Chị ôm lấy khuôn mặt mình. Ôi, ngày mai anh ấy đi rồi... Anh cứ tưởng mình chỉ biết anh ấy từ ngày xuống chung hầm ư? Đàn ông sao cả tin như trẻ con. Mình sẽ nói gì với anh ấy? Chị sắp chia tay với một người thân lần thứ hai. Thằng Mỹ thách thức với tất cả những người không cầm súng như chị bằng sự chịu đựng và nỗi cô đơn khó quen ư? Chúng thách thức với Thiên nga màu trắng đã nổi chưa mà lần đến những người như chị? Người - Đàn - Bà vỗ tay. Như trong câu chuyện thần thoại, Thiên nga từ trong màn sương bạc hiện ra. Khi Người - Đàn - Ông trở lại, thấy hai người bạn vẫn chờ mình, anh cảm động đến luống cuống. - Có lúc tôi đã tính nhận nó làm con nuôi. Trong người nó có giòng máu của tôi Hà ạ! - Anh nói về ai thế? - Giọng Người - Đàn - Bà run run. - Hà chăm sóc nó chu đáo. - Anh Quân, anh nói gì? - Không, Hà đừng hiểu sai tôi, cháu Hoa vẫn là con của Hà. - Ôi!... Người - Đàn - Bà bất ngờ nắm lấy bàn tay của Người - Đàn - Ông trong cảm giác bàng hoàng. Nhưng rồi chị rụt tay lại. Con Thiên nga, chắc hiểu rằng người bạn đó ngày mai sẽ đi xa, nó âu yếm rúc vào lòng Người - Đàn - Ông. Chẳng biết nó nghĩ gì khi nó nhè mấy ngọn cỏ nó vừa cắn từ ngoài đảo chim vào lòng bàn tay anh. Người - Đàn - Ông nắm lấy ngọn cỏ ướt sương, vuốt cái đầu mịn của nó. - Cảm ơn Thiên nga. Sắp đến lúc em không phải chạy nấp bom nữa rồi. Thiên nga ngước mắt lên. Hình như nó ngạc nhiên trước câu nói của những người bạn lớn tuổi. Chẳng lẽ nó sợ bom đến thế ư? Như để tỏ cho Tiếng nói mặt đất 45 Người - Đàn - Ông biết sự đàng hoàng của nó, nó quác lên một tiếng chững chạc rồi tuồn xuống nước, bềnh ra giữa hồ sương trắng. Nhìn theo Thiên nga, Người - Đàn - Ông bỗng cười giòn tan, thích thú. Chỉ có Người - Đàn - Bà hiểu rằng tiếng cười đó còn giấu tâm trạng bối rối của anh. Nhưng chính lòng chị lúc này đây có bằng lặng đâu. Chị nhìn lên khoảng trời giữa các tán lá dày. Ôi bao nhiêu là sao. Gió nữa kìa... Ngọn gió nào tha thướt, đã khuya sao chưa về? Chị rùng mình, rồi xoay lại, nhìn vào mặt Người - Đàn - Ông. - Anh biết không, trong lòng anh có màu trắng Thiên nga. Từ giữa hồ, Thiên nga trắng vẫn nghe được hơi thở riêng tư rất kỳ lạ của loài người, tiếng nói run run của hai người bạn đó giữa âm thanh của người phát ngôn viên. - Chúng ta nói cho Đế quốc Mỹ biết rằng... Chúng ta nói, chúng ta là cả nó, cả Thiên nga màu trắng. Nó nghiêng tai với tấm lòng thương yêu và tôn trọng. Đó... - Hoa cũng là con của anh. Bây giờ Thiên nga lớn rồi, lịch sự hơn, nó biết lúc này chẳng cần tò mò nữa. Nó bềnh ra phía đầu bờ kia của đảo chim. Nó chỉ muốn nói với hai người bạn mình: Anh ấy sẽ trở về với chị, chẳng xa đâu. Còi thành phố đã lại hụ lên. Quả tên lửa đầu tiên từ hướng Bắc thành phố đã phóng lên. Chỉ mấy giây nữa bầu trời đầy sao trên đảo chim sẽ là một bầu trời nóng bỏng lửa cháy. Quảng Bá - Hà Nội mùa Giáng sinh 1972 T.N.V 46 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) HỮU PHƯƠNG Trăng sáng vườn dưa (SH số tháng 3 - 1988) nắng gắt. Những đợt gió Lào đầu tiên ồ ồ thổi qua cánh đồng đất cát, cuốn bụi mù mịt, ném cát vào mặt lão Điều. Lão bước vội vã, lúp xúp. Đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cao bằng đầu người, cằn cỗi và vàng hoe, mắt dớn dác trông chừng bốn phía. Theo sau, con chó vàng cụp đuôi, bám theo gót chân lão, như thể tỏ rõ sự tận tụy với chủ. Thỉnh thoảng nó cũng dừng lại, giỏng tai nghe ngóng, dáng điệu y hệt lão. Chẳng có ai nhìn thấy lão cả. Ai nhìn lão mà làm gì? Người ta còn bận túi bụi với mùa màng đang chín rộ, phải gặt xong trước cơn lũ tiểu mãn, cấy lúa hè thu, gieo mạ vụ mùa, cày ải kịp thời vụ... Trăm nghìn công việc! Chỉ có lão là rảnh rỗi. Vì tuổi bảy mươi, lão làm sao nhận nổi ruộng khoán? Cho nên, lão chuyên trồng dưa, nhẹ nhàng và thu nhập khá. Cả một vùng cát chạy từ đường quốc lộ đến ven biển, có một thời bốn năm tháng chỉ xanh dưa. Dưa của các đội, dưa của cá nhân, mênh mông chi xứ!... Lão Điều lẫn vào nhà, đúng hơn là vào lều. Túp lều ở bìa làng, rạ lợp đã mốc thếch, nhưng cột tre cắm xuống đất vẫn còn xanh; dựng đã được vài năm, từ khi lão bỏ vùng kinh tế mới trở về. Trăng sáng vườn dưa 47 Thực ra, đời lão ít nhất hai lần đã có nhà to. Lần thứ nhất, khi lão còn thanh niên, chưa vợ, hoạt động trong đội du kích, ở với cha mẹ. Hai anh đầu của lão đã có gia đình, ở riêng. Khi cha mẹ mất, hiển nhiên cái nhà to ấy là của lão. Lần thứ hai, khi hòa bình lập lại, lão chạy không kịp theo anh trai vào Nam, phải ở lại miền Bắc, làm ăn cùng vợ con trong hợp tác xã. Ngôi nhà thứ hai này xây cất đàng hoàng, tường quét vôi ve, mái lợp ngói đỏ, có phòng lồi và ban công đổ bê tông hẳn hoi. Nó vẫn còn đó, ở giữa làng, nhưng không còn là của lão nữa! Lão tiếc đứt ruột, nhưng đành ngậm bồ hòn. Bây giờ lão một mình chui đụt trong túp rạ đơn sơ và tồi tàn này. Thế mà, đời vẫn chưa thôi trả đũa lão những cái tát đau điếng và nhục nhã... Cũng tại lão cả thôi. Không, nói cho chính xác thì cũng tại một phần ở đàn bà. Không đúng à? Lần mất nhà thứ nhất gắn với con đĩ Loan. Chồng nó đi lính cho Pháp chết trận, khi nó mới một đứa con. Nhà nó ở đầu làng, cạnh cây đa cao to, bên cái giếng làng hình vuông xây bằng đá tổ ong, nước trong văn vắt. Gốc đa sần sùi vết dao chém, vết đạn găm, và chằng chịt rễ xắn vặn như những vết sẹo. Ngang đầu người, có treo một cái kẻng bằng vỏ bom. Ở chạng ba cao chót vót có đặt một cái sạp, bằng mấy que tre buộc ngang dọc, làm chỗ đứng cho chòi quan sát. Đấy là vọng gác của quân du kích làng Nam Phúc. Giặc từ đồn Hoàn Lão, đồn Chánh Hòa, thậm chí cả đồn Sen Bàng, đồn Am Tiến ở phía tây xa hàng chục cây số có động tĩnh, là ở đây biết ngay. Và tiếng kẻng báo hiệu vang lên... Gái một con trông mòn con mắt, Loan lười việc đồng áng nhưng giỏi nấu rượu lậu, nên trông ả càng trắng trẻo, nõn nà, như thể gái mười tám, khiến chàng trai tơ Điều không đừng được, phải lén lút thậm thụt đi lại. Đêm ấy rất thuận lợi, trời tối như bưng. Tối đen tối đặc, tưởng có thể xắn ra được từng lát. Phiên gác của Điều bắt đầu từ nửa đêm. Bốn bề yên tĩnh. Chìm trong giấc ngủ của con người và cây cỏ, là tiếng côn 48 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) trùng ri rỉ lứa đôi. Chỉ có ngọn đèn hạt đỗ bé tí lé ra ở buồng nhà Loan, như muốn nói điều gì. Đêm cuối xuân sương xuống lành lạnh. Bây giờ mà uống một ly rượu cốt, và... Chậc, thằng địch bây giờ cũng lo ngủ với vợ con, chứ dại gì đi đâu. Đầu đang nghĩ mà chân Điều đã đi về phía ấy lúc nào... Không biết lúc đó là mấy giờ, tiếng súng nổ chát chúa bên tai dựng Điều dậy. Trời sáng rõ. Thôi chết rồi! Giặc đã vây kín bốn bề. Gã lao ra vườn, lủi ra cổng sau định chạy lên phía rừng thông, nơi căn cứ du kích. Nhưng gã bị ngay hai tên lính Lê Dương, như đứng chờ sẵn, quật ngã trói gọn. Cả làng Nam Phúc chìm trong khói lửa, trong tiếng súng nổ, tiếng la hét gào thét của người và súc vật. Ngôi nhà của gã, bằng gỗ gõ và lim đen bóng, thành tro than trong dịp ấy. Mười hôm sau, những người đi chợ Đón đã thấy gã, trong bộ quân phục màu cứt ngựa, đầy những túi là túi, mũ chào mào, kẹp súng mát, đi lại nghênh ngang trong đồn Hoàn Lão. Gã đã thành một tên phản bội từ đó. Gã viết thư gọi hai anh trai bỏ hàng ngũ du kích, về hàng Pháp. Thế là ba anh em gã, được sung vào lính, đoàn tụ trong cái hàng rào kẽm gai của đồn Hoàn Lão, căn cứ trung tâm của quận lỵ Bố Trạch, nơi đầy rẫy Tây đen và gái điếm, mà bấy giờ gã Điều say mê gấp mấy lần ả đĩ Loan của gã ở quê. Liền mấy tháng sau đó, nhiều du kích làng Nam Phúc và mấy làng lân cận bị chặt đầu, bêu trước cổng chợ. Gã Điều, chẳng mấy chốc đã lên đến chức đội nhất, khét tiếng gian ác, được Pháp tin cẩn. Đi đâu cũng được lính tháp tùng bảo vệ. Như một con gà chọi say máu, gã lao vào bắt bớ chém giết, và chơi bời trác táng thâu đêm, chẳng nể sợ ai. Trong một lần bố ráp, gã gặp một cô giá xinh đẹp, con gái ông Cửu Sang, ở làng Chùa, và gã nhất quyết cướp cho bằng được! Gần ngày đình chiến, có một sự xúi quẩy cho ba anh em nhà gã. Người anh đầu, thậm thụt với một ả góa ở xóm bên, bị du kích đón đường, Trăng sáng vườn dưa 49 tương cho một băng súng máy vào ngực. Còn gã suýt chết trong một trận càn, bị một viên đạn găm vào phổi, phải vào viện mất mấy tháng. Chính vết thương ấy đã làm cho gã bị bỏ rơi lại, khi người anh thứ hai kịp xuống tàu, di cư vào Nam. Nhiều khi gã lấy làm lạ là tại sao người ta không giết gã? Đôi bàn tay của gã đã nhuốm không biết bao máu người! Có lẽ cái câu phương ngôn “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại” của người xứ này, đã cứu gã. Người ta chỉ đưa gã đi học tập, cải tạo vài năm, rồi trả về với vợ con. Bấy giờ người ta chỉ nói đến chuyện xây dựng hợp tác xã, đến chuyện sản xuất và chiến đấu chống Mỹ. Không ai nhắc đến chuyện của gã, người ta cố quên đi cho gã. Nhưng gã thì gã không quên, gã vẫn nhớ. Thậm chí lão vẫn tin có ngày... Ừ, có ngày gã trở lại sung sướng như thời sống vương giả trong đồn Hoàn Lão. Niềm tin ấy là nguyên nhân gã mất ngôi nhà thứ hai... Niềm tin ấy vẫn sống ngắc ngoải trong đầu gã, thầm kín, không ai biết được, kể cả vợ con! Bởi bên ngoài, gã đã là một nông dân cần cù, chăm làm lụng. Quần đùi xanh lấm tấm bùn và áo bà ba đen bạc phếch, đầu đội cái nón mốc xám, gã lùi lũi đi theo con bò và cái cày một cách mẫn cán. Đôi khi vui miệng lão còn cất lên điệu hò giã gạo (mà gã hò mới hay làm sao!) trêu ghẹo mấy mẹ mấy o ở tổ cấy. Chẳng còn lại dấu vết gì của một anh lính đóng lon đội nhất nổi tiếng tàn bạo ngày xưa trên con người gã Điều. Trừ đôi mắt đôi lúc chợt lóe lên vẻ thâm ác ít người nhìn thấy, và hai chiếc răng vàng đứng cạnh nhau ở khóe miệng trên, thỉnh thoảng cũng lóe lên như đôi mắt. Có sức khỏe, lại sẵn nhân công lao động, hai vợ chồng và ba đứa con trai đến tuổi, đã làm cho đời sống gia đình gã ngày càng tấn tới. Có của ăn của để. Xây nhà, lập vườn trồng tiêu, đào ao thả cá, kinh tế gã vào hàng khá giả nhất nhì ở cái đội sản xuất này. Bây giờ gã đã lên lão lâu rồi, gầy guộc và khô đét. Vết thương ở phổi 50 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) vẫn hành hạ lão luôn. Không biết nó nhắc nhở lão hay cảnh tỉnh lão điều gì. Ba thằng con trai tuổi sàn sàn nhau đã lần lượt lập gia đình, làm nhà ở riêng. Ai cũng nghĩ, đời lão thế là thỏa mãn, không còn mong đợi gì hơn nữa! Thế mà, lão vẫn còn mong đợi. Không ai biết lão vẫn còn mong đợi. Người đời thường nói, chết đít cà cuống vẫn cay, có lẽ không sai đối với lão. Người anh trai thứ hai của lão mắc kẹt ở Sài Gòn, không kịp di tản sau Ba Mươi Tháng Tư, viết thư nói điều gì với lão, mà thấy lão đôi khi bất chợt đăm chiêu, suy tính... Có lẽ cái điều lão âm thầm mong đợi hơn hai mươi năm đã đến rồi chăng? Mùa xuân 1977, nghĩa là hai năm sau ngày miền Nam giải phóng, nhân cữ ấy trong xã có đợt vận động di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây Ninh, lão viết đơn xin đi ngay, cùng với ba con trai. Thế là cái cơ ngơi to lớn của ông cha và ba thằng con trai được bán tống bán táng đi chi kịp! Nhưng chừng được một năm, người ta thấy lão, như một con chó không lông, cùng ba thằng con trai phờ phạc, đưa cả gia đình tan tác trở về quê nhà. Người con gái xinh đẹp xưa kia của ông Cửu Sang đã không trở về. Bà chết vì sốt rét cùng với ba đứa cháu, con của ba người con trai bà. Người ta đồ rằng lão Điều vỡ mộng. Lão nhận được thư của người anh trai, và tưởng rằng thời cơ đã đến, khi quân Pôn Pốt đánh sang, quân của Phun-rô và bọn phản động nước ngoài từ Tây Nguyên đánh xuống, lực lượng trong nước ngóc đầu dậy, đánh tới. Thế là giải quyết xong!.. Và, quả thật, người ta đã giải quyết xong thật. Quân Pôn Pốt bị đánh tan tác đến tận sào huyệt, những toán gián điệp nước ngoài bị nhốt trong vành móng ngựa, và bọn phản động trong nước sợ xanh mặt, im re! Chỉ có lão Điều là dại. Lão ngóc đầu dậy, và bị ba anh con trai của lão túm cổ, trị cho một trận. Giờ thì chúng hiểu được ý đồ của người cha kéo cả Trăng sáng vườn dưa 51 gia đình vào đây để làm gì! Và ba anh ngậm ngùi vì mất ba đứa con và một bà mẹ, bỏ mặc ông bố, kéo nhau về quê. Cho nên bây giờ, lão lủi thủi một mình, trong túp lều lợp rạ ở rìa làng, con cháu chẳng đứa nào thèm dòm lại. Bây giờ, lão Điều đã bảy mươi, hay ngoài bảy mươi? Cô đơn và tiều tụy. Nước da ngả màu khó tả, vừa nhăn nheo tái xám của sốt rừng mang theo, pha lẫn màu vàng bủng của thiếu ăn, vừa khô đét và bóc vảy từng mảng như gốc cây duối già đầu làng. Đôi mắt kéo màng đục lờ đờ. Bộ râu thưa vài sợi trắng quăn queo. Cái đầu không tóc loang lỗ những vết chàm sẫm, to bằng đồng xu. Người đời thường nói, đói rụng râu sầu rụng tóc, có lẽ là như vậy. Những ống tay ống chân lão chỉ còn da bọc xương, hằn rõ những mắt xương thô lố. Nom lão như một con ma. Đến nỗi, nhác trông thấy bóng, lũ trẻ con đã bỏ chạy mất vía!.. Lão sống được có lẽ nhờ kinh nghiệm trồng dưa. Dưa của lão trồng thành nhiều lứa. Khi xung quanh trái còn xanh, thì lứa dưa sớm của lão đã chín đen bóng trên nương, lão bán được tiền. Khi xung quanh mùa dưa đã vãn, chỉ còn bán dưa nánh, thì lứa dưa tiếp theo của lão vẫn còn lăn lóc cả nương, như những đàn lợn con béo múp. Bấy giờ lão một mình một giá, lại được tiền. Sau lụt tiểu mãn, ngọn dưa bị bết đất, lụi hết. Xung quanh người ta bỏ hoang, sấp ngửa theo việc đồng áng, lão Điều còn kịp làm vụ dưa trễ, dưa non, không để chín, bán cho người ta muối trường, dành ăn trong mùa mưa lũ. Phân bón dưa lão chuẩn bị quanh năm, rất cẩn thận. Lão nhặt phân trâu bò rơi vãi dọc đường thôn, trên các bãi chăn dắt gia súc, dước gốc những tán cây rợp bóng, nơi bọn trẻ thường buộc trâu bò những trưa nắng. Lão đem về phơi khô, chất đống đốt, lấy tro đem bón. Ơn trời, vùng đất này cát nhẹ, tốt dưa, dễ làm, nên cái sức vóc tàn tạ của lão vẫn còn cựa quậy được. Lão đào những cái hố hình tròn, rộng chừng một mét, sâu hơn gang tay, rồi cho phân tro xuống, trộn kỹ cùng với đất cát. 52 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Xong, lão vỗ nhẹ lên mặt đất cho lì, để giữ ẩm. Cuối cùng, lão găm xuống những hạt dưa đã được ngâm nước tro từ hôm trước, theo từng khóm. Mỗi hố như thế ước chừng mươi hạt. Độ dăm ba hôm sau, những cái mầm bé tí đội cát nhô lên, ngơ ngác nhìn bầu trời, và nhìn nụ cười khô héo trên khuôn mặt ràu rĩ lão Điều. Dưa của lão chẳng sâu sia bệnh tật gì, lại sai quả; cứ ngọt lự, rất ăn khách... Mỗi mùa dưa lão thu cũng khá tiền. Có điều, trăm thứ bà rằn đều nhìn vào đấy. Từ hạt gạo củ khoai, đến hạt muối con mắm. Nhưng thu hút nhiều nhất có lẽ là rượu. Có ngày lão chỉ uống rượu trừ bữa. Chỉ tội cho con vàng, những ngày như thế, cứ ngồi chòm rỏm, chờ mãi mà chẳng thấy chủ ném cho cái chụt khoai nào! Năm nay lại được dưa. Khách mua kéo về đông lắm. Khách nhà nước, khách tư thương; cứ dập dìu. Họ mua mỗi lần hàng ô tô. Chẳng mấy chốc, đồng dưa đã vãn. Các lều giữ dưa lần lượt được giỡ hết. Chỉ còn trơ lại cái lều giữ dưa của lão Điều, hai mái bằng lá mía ải xám, như cái hầm chữ A trong chiến tranh, và vườn dưa còn lăn lóc quả, da xanh thẫm, bóng loáng dưới nắng hè của lão. Bây giờ, gần như suốt ngày suốt đêm, lão Điều ở ngoài ruộng dưa. Một ấm nước chè xanh hãm đặc, vàng sóng sánh tựa mật ong. Một đãy khoai lang luộc sẵn, thứ khoai đất cát vỏ màu hồng sen, ruột vàng, thơm và bùi. Và một cái tẩu không biết làm bằng thứ gì, lão giữ được từ hồi còn ở lính, đen bóng vì mồ hôi và xái thuốc. Đôi khi còn có cả cút rượu. Mùa dưa chín, lão sang thế! Trẻ chăn bò tất nhiên là sợ lão. Nhưng chúng lại thèm những trái dưa. Lũ quạ cũng thế. Cho nên lão phải ngồi chòm rõm trong lều mà trông ra, như con chó trông nhà, không dám nằm. Lão chờ thêm vài hôm nữa cho được giá. Bọn tư thương là mua liều mạng lắm. Chúng sợ nhà nước mua hết đi mà. Chúng mua cao, trả tiền liền, có khi lại còn biếu lão cả rượu nữa! Trăng sáng vườn dưa 53 Để đuổi lũ quạ, lão làm hai con bù nhìn đứng gác hai đầu. Quả thực, hai con bù nhìn cũng rách rưới y hệt lão, khiến cho lũ quạ chỉ lượn quanh. Đôi khi có con nhắm mắt sà xuống, thì rồi phải hốt hoảng bay vụt lên, vì những con bù nhìn bị gió lay, gật gật nghiêng ngả như sẵn sàng chộp lấy chúng. Lão chỉ lo nhất thằng Duệ, cái thằng trời đánh thánh vật! Hắn chăn bò cho hợp tác xã. Gặp lão là hắn nhe răng cười cợt châm chọc, như thể lão là bạn chăn bò của hắn: - Này lão Điều, hắn nói, lão thì chỉ còn hai tay bíu trên dương gian, hai chân kia đã chòi chòi dưới âm phủ rồi, làm cho ai ăn? Cho mấy bà bán rượu chắc? Nói rồi hắn cười hì hì, bế xốc lão Điều lên như bế đứa trẻ con, chưa thôi cợt nhả: - Cho bọn này quả... Bọn này còn... khiêng lão ra đồi chớ? Hì hì... Lão Điều cố vùng vẫy để trằn ra khỏi tay thằng Duệ. Lão thừa biết cái âm mưu của hắn; hắn ôm lão đây, là có đứa hái dưa ở đằng kia. Nhưng lão chẳng thể giận hắn được lâu, bởi nó là đứa duy nhất lui tới nhà lão, hỏi thăm lão có đau ốm gì không. Ban đêm thì ít sợ mất hơn. Từ làng ra đây có hàng cây số, lại trái đường trái nẻo, ai ra làm gì? Nhưng lão vẫn phải canh giữ. Phần vì nằm nhà cũng như nằm đây, lại đỡ đi lại. Phần vì ở đây gần đường quốc lộ, ngộ nhỡ có đứa nào ác, nó ghé ô tô lại thì lão mất nhờ. Cho nên đêm nào lão cũng nằm còng queo trong cái lều này. Đêm nay rồi trăng sáng phải biết! Hoàng hôn xòe những ngón tay màu hồng từ phía mặt trời lặn vươn về phía biển. Người ta bảo đấy là rồng hút nước, sắp mưa, nhưng lão Điều chẳng tin. Bởi mùa này chiều nào chẳng thế, và gió Lào thổi rạc cả cỏ cây. Lão Điều chắp tay sau đít đi một vòng quanh ruộng dưa, lầm bầm điều gì trong miệng, rồi lững thững trở về lều. Con chó vàng đi sau, ngửi hít những dấu chân lão. Giờ 54 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) này trên đồng dưa đã lắng lại, phía đường cái ô tô cũng thưa dần. Cái nóng và gió Lào cũng dịu đi quá nửa. Lão Điều lôi ấm chè xanh ra chiêu một ngụm, châm đóm vào chiếc tẩu ngậm ở khóe môi, rồi thư thả ngồi xuống cửa lều, ngắm những vì sao đầu tiên nhấp nháy trên bầu trời... Trăng đã nhô lên mé biển, đỏ như lòng quả dưa chín cắt ngang. Lão chợt thấy yêu đời. Con người gần đất xa trời ấy còn thấy yêu đời mới lạ! Lão chui vào lều, lôi ra cút rượu, rút cái nút bằng lá chuối khô cuộn tròn, quay mặt về phía vừng trăng, như thể trăng là người hầu rượu cùng lão, tu một hơi không biết gì trời đất. Khi con tim yếu ớt, già nua của lão bỗng đập rõ tiếng, như trẻ lại đôi phần, lão khật khưởng toan chui vào lều, thì cận kề trước mặt, như thể chui từ dưới cát lên, một người con gái. Trong ánh trời nhá nhem và ánh trăng chưa sáng tỏ, cô gái trạc tuổi hăm bảy hăm tám, cái áo màu thẫm không biết xanh hay đen, quần lụa đen xắn lửng ống chân, và đôi quang gánh nhẹ tênh. - Ông ơi, cô gái nói, cháu ở Lộc Hòa, đi bán dưa ở chợ Hoàn Lão, ế quá, trễ mất xe ông ạ! Vừa nói, cô gái vừa bỏ đôi quang gánh xuống và ngồi xệp trên đất cát, hai tay vuốt xõa ống quần, vẻ mệt mỏi của người đi bộ xa. Chuyến xe đò cuối cùng chạy vào lúc bốn giờ rưởi chiều, xe đâu còn bây giờ! - Qua Ba Dốc giữa đêm một mình, cháu sợ lắm. Ông cho cháu... nghỉ tạm đây, mai cháu về sớm... Lão Điều rờ rẫm chui vào lều, chẳng nói chẳng rằng, bươi cát giúi chai rượu xuống cho vững, rồi khẽ nằm xuống trên nền cát trải rạ làm chiếu. Lão biết nói gì? Đuổi người ta cũng chẳng được. Con gái đi đêm đi hôm một mình, qua cái Ba Dốc quạnh vắng mà người ta đồn là nhiều kẻ cướp, làm sao được! Còn cho người ta nghỉ thì... chậc, lão có gì mà cho? Cái lều bằng nắm tay, lão cũng còn nằm trên đất. May mà gió to, gió Lào khô rang, khiến lũ muỗi cũng xiêu bạt đi đâu. Trăng sáng vườn dưa 55 Lão Điều nghiêng người, đẩy ấm nước chè xanh ra cửa lều. Cô gái hiểu ý là ông mời nước, nhích đến xách ấm nước lên. Nhìn quanh, biết là không có bát, cô gái ngửa cổ uống ực mấy hớp, rồi cất ấm vào chân lều, ngồi nắn bóp lòng bàn chân tê mỏi của mình. Đầu óc lão Điều cũng thoáng có những câu hỏi nghi ngờ về cô gái, nhưng hết thảy đều bị loại bỏ. Gái làm tiền chăng? Thì ai chọn lão già không tiền! (Của đáng tội, đợt dưa sớm lão cũng bán được mươi nghìn, giờ còn chút đỉnh lão nhét trong ngực áo). Kẻ lưu manh ư? Thì lão có gì mà lừa lọc! Hay kẻ trộm? Sức ấy thì gánh được mấy quả? Giỏi lắm thì được bảy tám quả, trong khi vườn lão có đến hàng trăm! Men rượu chẳng mấy chốc đã làm mềm muội các khớp xương và những ý nghĩ của lão. Lão ngáy khò khò, thở ra bằng mồm phập phù của người không còn răng... Không biết lúc ấy là mấy giờ, chắc khuya lắm. Có lẽ các phân tử rượu đã bốc hơi hết trong mạch máu lão Điều, nó thừa ra thứ nước không phải rượu, cần được tống đi. Lão trở mình ngồi nhổm dậy. Trăng sáng quá. Sáng như ban ngày. Đến nỗi, đôi mắt mờ đục của lão cũng nhận ra được những vỏ dưa lấp lánh ở ngoài vườn dưa. Lão khom lưng, định chui ra khỏi lều, nhưng chân vấp ngay một vật gì mềm mềm, lão giật mình nhìn xuống, nhận ra người con gái ngủ nhờ. Lão đi vòng quanh ruộng dưa một lượt, sau khi làm xong cái việc mà thần kinh đánh thức lão dậy. Gió biển đưa lên mát lạnh, khiến lão tỉnh hẳn. Bốn bề mênh mông, vắng lặng. Hai con bù nhìn như hai con người chết rũ ở hai đầu ruộng dưa. Con chó vàng đi sau lão cũng uể oải, ngáp dài... Lão Điều chui vào lều. Thật bất ngờ, người con gái ngủ nhờ đã xích vào nằm trong lều, đôi chân sóng soài ngáng đường vô của lão, còn vẻ mê mệt giấc say, khiến lão không dám bước chân qua. Ở thôn quê, người ta kỵ bước chân qua người khác, nhất là người ấy chưa chồng chưa vợ. Mà cô này hẳn là chưa chồng. Lại nữa, khi bước chân qua, ngộ nhỡ cô 56 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) gái thức giấc, giật mình co chân lại, chẳng làm lão ngã nhào thì sao? Mà ngã vào cái tuổi này, thì khó dậy được lắm! Lão Điều cúi xuống, định bụng nhấc đôi chân cô gái lên, đặt xuôi ra để lấy lối đi. Nhưng đôi chân mát rượi, trắng nhễ nhại dưới ánh trăng, chẳng rụt lại mà giơ lên, gác vào đầu gối lão. Đôi ống quần lụa mỏng tự dưng chảy vào, lồ lộ cả bộ đùi nõn nà khêu gợi. Lão Điều vội gạt đôi chân ấy xuống đất, định bước qua, nhưng nó lại vẫn gác lên gối lão như cũ. Lần này bàn tay lão không gạt nổi nó nữa. Ngược lại, từ đôi chân trắng như nặn bằng sáp ấy, lại có một luồng điện truyền qua tay lão, khiến lão tê dại, bần thần ngồi xuống cạnh cô gái... Có một mùi thơm, lâu ngày không gặp nên lão không rõ là mùi gì, nhẹ và thoảng. Thôi đúng rồi, mùi phấn và nước hoa tỏa ra từ da thịt con gái. Ngày xưa ở lính, lão lạ gì cái mùi này, nó ngào ngạt ở các cô gái làng chơi. Chỉ thoáng thấy bóng gã trung sĩ nhất này, là chúng ưỡn ẹo: “Thầy đội ơi... đêm nay em là của thầy... Thầy là ông hoàng đêm nay trên thân thể em...” Và đêm nào cũng thế, rượu sâm banh và gái đẹp ngập lút đời trai lão... Bây giờ có một ả như vậy ở đây? Không! Không thể nào! Bởi trông nó hiền khô thế kia? Ồ!... Mà sao nom giống con Lương nhà lão quá. Lão cúi xuống gần mặt cô gái. Lương đấy hả con? Tội nghiệp con bé, nó làm y tá thôn, gan lỳ không ai bằng. Ở đâu có bom nổ, có nhà cháy, có hầm sập, là ở đấy có nó. Hai bím tóc ngắn cộc lúc ẩn lúc hiện trong khói bom. Ai cũng khen con bé được người được nết đáo để. Nó là con gái út của lão, mới mười bảy tuổi chớ mấy! Nhưng nó chết rồi. Người ta nói bom đạn Mỹ chừa nó, thế mà không đúng. Nó vẫn chết vì bom Mỹ. Cánh đồng làng đã trở thành đại hạn, khi đập nước Đá Mài bị trúng bom. Người ta phải dùng cuốc tay, cùng phụ thêm với trâu bò cày kéo, gấp rút chuẩn bị đất gieo vãi cho kịp vụ mùa. Và nhát cuốc của nó đã cuốc phải một quả bom bi... Trăng sáng vườn dưa 57 Đúng. Con Lương nhà lão đã chết. Mộ nó đặt trong nghĩa trang của xã ở xa kia. Vậy thì đây... không lẽ... Mà nó là gì đi nữa, thì có ảnh hưởng gì đến lão? Lão chẳng mất mát gì. Chắc chắn thế. Ngược lại, lão được nữa là khác! Mấy ai được chút may mắn này ở tuổi lão? Họa chỉ có vua chúa đời xưa. Đích thị là của trời cho. Mà của trời cho thì phải hưởng. Đời lão còn gì nữa đâu ngoài cái tuổi bảy mươi gần đất xa trời, cô đơn và tàn lụi? Chẳng còn gì nữa sất! Vậy thì, cái này ắt là một vật báu trời cho không dễ gì có được. Lão đưa mắt nhìn quanh bốn phía, chẳng có ai ngoài con chó chồm chỗm trước lều, và hai con bù nhìn gật gật như tán đồng với ý nghĩ của lão. Tay lão bắt đầu rờ rẫm, sờ soạng trên thân thể người con gái. Ánh trăng sáng tỏ, đọng vũng trước cửa lều, phả lên làn da trắng ngà một màu linh ảo. Người con gái không phản đối gì, thậm chí cô ả còn ưỡn ngực, như dâng hiến, khiến lão một giây chột dạ. Hay là ma quỷ? Nếu có ma quỷ thật, thì ắt lão đã làm mồi cho ma quỷ từ lâu rồi, bởi lão từng giết bao nhiêu mạng người! Vậy thì có lẽ đây là trong mơ? Lão Điều dừng tay lại, véo vào cái đùi bọc da nhùng nhằng của mình. Chưa đáng tin, lão nắm vài sợi râu ở cằm giật mạnh. Lão nhăn mặt, đau đến chảy nước mắt. Không! Không phải mơ, thật hẳn hoi. Đích thị là của trời cho. Ý nghĩ này lặp đi lặp lại trong óc, khiến lão bình tâm. Lão chỉ tiếc là tuổi đã già, không còn sức để mà tận hưởng của trời nữa. Lão bỗng nhớ cút rượu chôn ở chân lều, liền với tay ngửa cổ dốc cạn. Rồi gật gù, đích thị là của trời cho. Nhưng trời chẳng cho ai đến hai lần đâu. Vậy nên phải hưởng. Chết cũng cam lòng! Mà lão chết cũng phải rồi, sống chẳng ích gì cho ai, con cái nó hắt hủi, nó bỏ rơi... Thực ra, chúng nó bỏ rơi cho lão là may đấy, nếu không chúng giết lão lâu rồi. Khi bên kia chân đồi súng nổ sát sạt, quân Pôn Pốt ào ạt tràn tới 58 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) gần, ngoảnh lại chúng thấy cha chúng từ bao giờ lôi ra bộ đồ lính thời Pháp cũ nát có gắn mề đay, bấy lâu cất kỹ ở đâu, bây giờ mang vào và ngồi xếp bằng tròn, chễm chệ rung đùi trong tư thế nghênh tiếp. Đôi mắt vằn những tia máu lóe lên cái nhìn khó hiểu, miệng lẩm bẩm một thứ tiếng bồi thì thào: “Bờ ra vô!... Bờ ra vô!...” Tất nhiên ba thằng con trai lão tóm lão, lột trần, ném bộ quần áo lính có gắn mề đay vào bếp, cho cái hy vọng cuối cùng của lão thành mây khói... Với ý nghĩ chết bây giờ cũng đành lòng, lão Điều, gã lính về già, quyết định tận hưởng cái “của trời cho” ấy một cách từ từ, nhấm nháp như thể uống trà ngon. Nhưng lại lập cập với cái sức tàn tạ đói rét và thiếu ăn của tuổi bảy mươi vừa được tí men rượu khuấy lên. Con chó vàng chồm hổm trước lều, trố mắt không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ngoài kia, hai con bù nhìn tuồng như khẽ giật mình, ngơ ngác... Nhưng lão Điều đã không chết ngay như lão tưởng. Chứng cớ là, khi mặt trời lên, nắng xói thẳng vào mặt vào gáy, đôi tròng mắt lờ đờ ám mây của lão nhập nhèm mở ra. Rồi tiếp đến là các ống tay ống chân răn reo bắt đầu khẽ nhúc nhắc cử động. Cuối cùng thì lão cũng ngồi dậy được. Vật đầu tiên đánh thức bộ não già và mệt mỏi của lão, là mớ giẻ rách xỉn màu nằm trên cát, ngay trước mặt. Lão cầm lên và nhận ra đó là cái quần của mình. Cho đến khi đôi mắt lờ đờ như người sắp chết của lão bắt gặp nửa người trần truồng gớm ghiếc của mình, thì lão nhớ ra tất cả. Không biết có một sức mạnh nào đã dựng lão dậy khi đôi mắt ngỡ không còn sinh khí ấy nhìn thấy vườn dưa trống trơ, không còn một quả. Thần hồn nát thần tính, lão cắm cổ, lúp xúp chạy tắt qua vườn dưa, định về nhà. Nhưng chân vấp phải một vật gì tròn tròn, trơn tuột, khiến lão ngã té giụi, sấp mặt trên cát. Lão lồm cồm bò dậy, và nhận ra đấy là trái dưa. Không, vườn dưa của lão vẫn còn đây, tất cả lăn lóc như đàn lợn con béo múp, nguyên vẹn. Lúc nãy có lẽ do hoảng hốt, và do nắng lóa, lão không nhận ra. Nhưng lạ chưa, chúng cứ như một mớ xương Trăng sáng vườn dưa 59 đầu lâu, giương những mốc mắt hốc mũi hốc miệng sâu hoắm đen ngòm nhìn lão gườm gườm đến kinh hãi. Thêm nữa, hình ảnh người con gái hồi đêm cứ chập chờn, khi mờ khi tỏ, mà khi tỏ lão lại nhận ra đúng là con gái lão, khiến lão lợm giọng muốn ói lên ở cổ. Lập tức lão vùng chạy, té sấp té ngửa, có khi phải bò lổm ngổm, hớt hải ra khỏi vườn dưa. Hai con bù nhìn đón đường gật gật, nghiêng ngửa, như ôm bụng rủ rượi cười giễu lão. Có thực đêm qua có một người con gái đã đến với lão? Hay đó là những bóng ma, những oan hồn hiện về trả đũa lão? Hoặc đó là chút trăng hoa cuối cùng sót lại trong người, đã thôi miên, huyễn hoặc lão? Lão chạy, đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cằn cỗi, mắt dớn dác trông chừng bốn phía, như sợ ai nhìn thấy. Theo sau, con chó vàng, còm cõi và xơ xác, y hệt lão, cũng lò dò bước. Lão lính già dâm đãng, bây giờ vừa hổ thẹn, vừa khiếp nhược, và vừa đói khát, nằm rũ như tàu lá chuối khô trên cái chõng tre ọp ẹp trong nhà mình. Thằng Duệ đi vào, tay xách cái ấm nhôm lão Điều quên lại ngoài lều, cất tiếng kêu từ ngoài sân: - Ê, lão Điều! Làm gì mà chạy như ma đuổi thế, bỏ quên cả ấm đây này! Hắn bỏ cái ấm vào xó bếp lạnh lẽo, rồi quay đến khom người, cù vào người lão Điều: - Ơ, lão ốm đấy à? Lão Điều không nói gì, chỉ chậm chạp hấp háy đôi mắt lờ đờ. Thằng Duệ hiểu là lão nói “Phải!” Mươi hôm sau lão Điều chết. Người ta không hiểu lão chết vì bệnh gì!... Đồng Hới, 2/1988 H.P 60 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) NGUYỄN HUY THIỆP Cún (SH số 37/1989) I - GÂY CHUYỆN Trong số người quen của tôi, tôi rất nể phục nhà nghiên cứu văn học K.. Anh am hiểu các vấn đề lý luận văn học ở ta (lĩnh vực mà thú thực tôi không hiểu gì mấy). Những bài viết của K. có thời được nhiều người ví như “ngọn roi” quất vào “con ngựa sáng tác văn học” giúp nó phi nhanh hơn và không trật đường. K. đẹp trai, thông minh, đặc biệt nhạy cảm với những cái gì đau đớn, tủi cực. Nhiều lần đi chơi với anh, tôi thấy K. thường lảng tránh những nơi có người ăn mày hoặc tàn tật. Trường hợp không lảng tránh được, K. rất bối rối, tôi thấy mặt anh tái đi, anh dốc hết túi cho người ăn mày hoặc người tàn tật đó. Với tôi và các nhà văn trẻ thuộc thế hệ tôi, K. rất nghiêm khắc. K. đòi hỏi cao điều mà anh gọi là tính người: tinh thần làm việc, đức hy sinh, lòng tận tụy, chữ “tâm”... và dĩ nhiên cả văn phạm nữa. Sự nghiêm khắc ấy làm cho tình bạn của 2 chúng tôi không phải là không sóng gió. Tuy nhiên tôi khâm phục K... Cún 61 Nhiều khi lẩn thẩn, tôi nghĩ rằng phải có một lý do nào thật sâu xa lắm mới rèn nên được một người như K.. Có lần tôi gặng hỏi mãi, K. tự dưng buột miệng: - Cha tôi là Cún. Cả một cuộc đời ngắn ngủi của ông chỉ có độc một khát vọng thành người thế mà không được... Từ câu nói ấy, của K., tôi viết câu chuyện này... II - CÂU CHUYỆN Cún biết cái chết sẽ đến với Cún chỉ vài phút nữa. Chân Cún đã lạnh, cái lạnh từ chân cứ thế ngược lên, bao giờ cái lạnh ngấm đến đỉnh đầu là hết, là vĩnh biệt con người, vĩnh biệt cuộc sống... Cún há miệng ra. Khát, khát... Cún thấy cổ họng mình se lại. Cảm giác bị dồn, bị đè bao phủ toàn thân. Cún biết lần này Cún không thể thoát nó. Nó đấy! Nó thò cái lưỡi vô hình, đen như đêm tối liếm vào đôi mắt Cún rồi... Hơn chục năm trước, người ta thấy Cún ở một cái cống bên con sông đào ngoại ô thành phố. Con sông đen ngòm nước thải, đầy rác, giấy vụn và những đám bèo Tây lá đầy bụi bặm. Cái cống xi-măng vỡ nằm ngang con đường đất nhỏ, hứng gió cả ở bên phía bờ sông, cả ở bên phía cánh đồng. Cún nằm trong đống tả rách hôi hám, cả đầu cả chân tím ngắt vì gió. Chẳng hiểu sao Cún không chết ngay khi ấy? Chắc vì lão Hạ. Nếu Cún không gặp lão Hạ, chắc Cún đã chết ngay rồi. Lão Hạ là lão ăn mày ở chợ. Hôm ấy, không hiểu sao lão Hạ lần ra cống. Đứng trên đường, lão nghe thấy tiếng khóc. Tiếng khóc như từ dưới đất vọng lên, như từ âm phủ vọng lên. Lão rùng mình hãi sợ. Chiều đang xuống, nắng đã tắt, ráng mây mỡ gà ở phía chân trời hắt xuống mặt đất một vệt ánh sáng lạnh lẽo và kinh dị. Gió bấc đuổi nhau hun 62 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) hút quanh các lều chợ lụp xụp không bóng người. Lão Hạ run cầm cập. Quang cảnh này hồn ma rất dễ hiện hình. Đây là thời khắc xuất hiện ma quỷ. Gần cả đời người. Lão Hạ sống nhưng không sợ người, người chỉ làm lão yêu hoặc lão ghét, thích hoặc không thích, lão Hạ chỉ sợ cái gì không phải là người. Lão Hạ sợ quá, bủn rủn hết cả chân tay. Tiếng khóc ngằn ngặt đúng là có thật. Lão giỏng tai nghe. Đúng là tiếng khóc trẻ con. Lão Hạ cuống cuồng chạy xuống vệ sông. Lão vừa chạy vừa ngã. Tiếng khóc níu lão lại. Lão nhìn lên đường và nhận ra đứa bé nằm ở trong cống. Lão Hạ dần dần hoàn hồn. Hóa ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão! Lão Hạ bò về phía cống, thò tay kéo đứa bé ra. Chân tay nó lạnh buốt. Lão Hạ ôm đứa bé về lều chợ. Lão đặt tên nó là Cún. Cún là tên chó không phải tên người. Đứa bé này thật cũng chưa phải là người, nó kỳ hình dị dạng, đầu nó to tướng, hai chân hai tay mềm oặt như chẳng có xương, chỉ hơi lệch trọng tâm là người nó ngã kềnh ra đất. Điều kỳ lạ là Cún có khuôn mặt đẹp lạ lùng. Cún ở cùng lão Hạ. Cún không chết bởi nó có 2 khả năng kỳ quặc. Một là đôi mắt, đôi mắt của nó làm cho tất cả mọi người chung quanh đều sợ hãi. Họ đi qua Cún mà không bỏ 1 đồng hào vào cái nón rách thì không an lòng. Ánh mắt Cún ám ảnh họ, hành hạ họ suốt đêm ngày. Khả năng thứ 2 của Cún là khả năng chịu đựng tuyệt vời: nó chịu được đói, được rét, nó sống trơ trơ như thân thể nó được tạo bằng thứ nguyên liệu siêu phàm. Lão Hạ đâm quý thằng bé tàn tật. Có nó, lão kiếm tiền được dễ dàng hơn. Lão mang thằng bé đi khắp đó đây kiếm ăn. Chỉ trong một hội Phủ Giày, lão kiếm được bằng mấy năm lão đi ăn xin một mình. Cách làm của lão thật đơn giãn. Lão cứ đặt Cún nằm ngửa một chỗ với cái nón mê Cún 63 giữa đám đông người. Thế là xong chuyện. Cún sẽ cựa quậy và mắt nó sẽ làm việc, mắt nó sẽ hỏi mọi người: - Này ông, này bà! Ông bà là người, hãy nghĩ đến tôi là kẻ chưa được thành người... Lão Hạ nấp ở đâu đấy, khi thấy nón đã khá tiền thì ra thu về. Thỉnh thoảng lão đút cho Cún mấy miếng bánh đúc ngô tựa như người ta đút cho những con gà mang bán ở chợ. Lão Hạ coi Cún như con. Tuy nhiên, lão cũng chẳng quan tâm nhiều lắm đến thằng bé. Lão có bao nhiêu việc phải làm. Con người của nghề nghiệp khác có bao nhiêu việc ở đời thì việc của lão ăn mày cũng nhiều như thế. Ở trong thế giới ăn mày, thân phận một đứa bé con què quặt chẳng đáng kể gì. Lão Hạ chẳng hề áy náy vì những lần để Cún đói lả, run người trong những trận sốt mê man để đi uống rượu hay đi đánh bạc. Bản thân lão cũng đã bao lần bị đói, bị ốm, bị rét như thế. Trong thế giới ăn mày, người ta có thể sử dụng một đứa bé con trong vài 3 tháng để làm cớ xin ăn. Khi đứa bé chết, người ta vứt nó ra ngoài đống rác như vất một thứ vật hỏng bình thường, như cái rổ, cái rế... Việc kiếm ra một đứa bé không khó. Chỉ cần vài 3 đồng bạc, 1 sái thuốc phiện, 1 bộ quần áo cũ là xong. Đời còn đói rét. Đói rét bất chấp tất cả, cả đạo lý, cả tình người. Cún lớn dần lên, Cún dần ý thức được thân phận mình, buộc phải ý thức về hoàn cảnh mình. Năm ấy, bấy giờ đang có chiến tranh, nhiều người chết đói. Trời rất lạnh. Cún và lão Hạ nằm cuộn trong 2 bao tải ở một hiên nhà cách chợ Mới ở ngoại ô thành phố chừng trăm mét. Lão Hạ ho dồn. Lão ta yếu lắm, đã mấy ngày nay lão không dậy được, thỉnh thoảng lại ho ra máu. - Cún này, mày đã lớn rồi... Tao sắp chết rồi... Mày sắp mất tao, mất chỗ dựa rồi... - Lão Hạ thều thào bảo Cún - Thực ra tao cũng chẳng phải chỗ dựa của mày. Cả tao và mày cùng sống... Sống như con giun, con dế, như con ong, cái kiến... - Lão ho sù sụ rồi khóc - con người sống khác... 64 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Trời ơi, sao trời hành hạ chúng con như thế? Chúng con muốn sống như mọi người thôi mà không sống được... Cún lắng tai nghe. Cún mặc kệ lão Hạ nức nở rên rẩm một mình. Cún chẳng nói gì. Cún quen với cái cảnh này rồi. Cún lấy tay co cái bao tải rách che bụng. Cún thở dài... Cún mệt mỏi rã rời. Hơn chục năm nay, Cún đi ăn mày, Cún cũng chẳng lạ gì cuộc sống con người... Ăn mày là ai, ăn mày là ta... Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày... Cuộc sống con người đầy bất trắc và vô nghĩa, họ sống cũng như Cún, như lão Hạ, như con giun con dế, như con ong cái kiến... Cún chỉ đau đớn vì Cún khuyết tật. Cún chưa phải là người, cái gì mọi người làm được thì Cún đều thấy khó quá. Càng lớn, Cún càng thấy việc Cún đứng vững ở trên mặt đất thực chẳng dễ gì. Cún cứ lẩy bẩy, cứ đi ba bước là lệch trọng tâm, cứ thế ngã quay ra đất. 2 chân 2 tay của Cún không tuân theo được ý mình. Gần đây, Cún tự dưng lo sợ, lo sợ một cái gì đấy vô hình. Cũng chẳng hiểu sao Cún lại hay nhớ, hay mơ đến Diệu, cô chủ nhà mà Cún và lão Hạ nằm ở hiên này. Cô Diệu bán hàng ở chợ, người lúc nào cũng thơm nức nước hoa, băng phiến. Cô Diệu có đôi mắt nhỏ và 2 cánh mũi mỏng dính phập phồng. Tính cô hay đùa, hay cười. Cô hay gọi Cún là “thằng hình nhân mặt đẹp”. - Này thằng hình nhân mặt đẹp! Cho mày 1 hào, sáng mai mày ra đón cửa cho tao. Mày như ngôi sao Hóa lộc ở cái nhà này. Hôm nào đi chợ gặp mày là người thiên hạ xô vào mua bán như tranh như cướp... Cún cười bẽn lẽn. Cún cúi xuống nhặt đồng hào nhưng lại chúi người ngã quay ra đất. Đồng hào cách bàn tay Cún ba hàng gạch. Cún nhỏm dậy lấy một đầu gối làm trụ để giữ trọng tâm. Cún giơ tay với nhưng không giữ được, lại ngả nghiêng người sang phải. Đồng hào còn cách Cún một hàng gạch nữa. Cô Diệu cười như nắc nẻ trên bậc thềm nhà: - Cái thằng hình nhân mặt đẹp này ngộ quá chừng...! Cố lên! Cố lên lần nữa xem nào! Cún 65 Cún thích chí cười. Trời ơi, Cún đã làm cho nàng thích. Cún thấy sung sướng. Cún nhỏm dậy, cố gập 2 đầu gối. Được rồi... Thế, thế... Chỉ cố thêm một tí nữa và nghiêng người sang trái là chạm được vào đồng hào rồi. Cún thở hổn hển, mồ hôi toát ra. Cún ước lượng, Cún cười. Đúng lúc Cún bật nghiêng người lên thì Diệu nhảy thụp xuống nhặt đồng hào để nhích sang một hàng gạch bên cạnh. Diệu ré lên cười. Cún bị mất đà ngã xuống nền gạch. Cún đập trán xuống nền gạch, máu trong miệng Cún trào ra nhưng Cún mặc kệ. Cún hít vội vàng cái mùi đàn bà quyến rũ. Chưa bao giờ Diệu lại ở gần Cún như thế. Cún cười sằng sặc. Nếu Cún biết hát thì Cún đã hát... Lão Hạ ngồi yên trong góc tường vỡ thương hại nhìn Cún. Lão nhỏm dậy chậm chạp đến cái chỗ đồng hào, lão lẵng lặng nhặt đồng hào cho vào túi mình. - Thằng già khốn nạn! - Diệu bặt nụ cười, môi mím lại đanh đá - Đồng hào không phải cho mày đâu đấy! Rồi lại đi nướng vào rượu cho xem. Lão Hạ đứng im ủ rủ như người có lỗi, vai lão so lại như chờ người đánh. Diệu đi khuất vào nhà, lão Hạ mới ngồi thụp xuống lau máu cho Cún rồi xốc nách Cún dìu về phía chợ... Cô Diệu ấy len vào đời Cún từng ngày một. Cún cứ miên man suy nghĩ. Cún hình dung thấy cô Diệu đi lại, nói cười, Cún chẳng để ý gì đến những tiếng kêu ú ớ nghẹn ngào của lão Hạ nằm bên cạnh Cún. Mãi sau, lão Hạ hộc lên, những ngón tay sần sùi của lão bấu vào mặt của Cún rất đau Cún mới bừng tỉnh. Cún mở mắt ra. Cún giật mình thấy mặt lão Hạ biến dạng hẳn đi, mặt lão trắng bệt như sáp, nhân trung lệch sang một bên. Từ miệng lão, máu đen tràn ra ồng ộc. Lão cố ú ớ nói gì đó. Bàn tay lão cố ấn vào tay Cún một cái túi con nằng nặng. Cún bò nhổm dậy. Cún đã hiểu ra sự việc: cái chết nó đang hiện ra bằng xương, bằng thịt ở trước mặt Cún. Nó đấy. Nó nấp trong tròng mắt sâu hoắm và không thần sắc 66 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) của lão Hạ đây. Cún khóc nức nở, thế là Cún đã mất đi một chỗ dựa rồi, chỗ dựa để Cún khỏi lệch trọng tâm ở trên mặt đất mà chính Cún cũng chỉ hiểu rất lờ mờ... Sau cái chết của lão Hạ, số phận Cún cũng chẳng đổi thay mấy. Vẫn đói và rét. Trong cái mùa đông khủng khiếp năm ấy, Diệu đi lấy chồng. Chồng Diệu là một gã trai đưa hàng. Gã có đôi mắt khô ráo hoảnh. Mắt gã chẳng hề xúc động trước một điều gì. Cún theo dõi từng ngày cuộc sống của người con gái. Cún linh cảm rồi cô sẽ chẳng được sung sướng gì. Linh cảm không đánh lừa Cún. Ba tháng sau ngày cưới, gã chồng cô Diệu cuỗm sạch tài sản của vợ mới cưới trốn đi Nam bộ với cô tình nhân mới. Cô Diệu như kẻ hóa rồ. Chỉ vì nhẹ dạ cả tin mà cô mất hết. Cô ốm đến hơn tháng trời, có lúc cô định tự vẫn. Ngày cô Diệu khỏi ốm, bắt đầu ăn giả bữa được là một ngày hè nắng dịu dàng. Cô ngồi trong buồng trông ra ngoài phố. Nắng rung rinh trên vòm lá bàng, cả vòm lá sấu và vòm lá đinh lăng nữa. Nhà cô đi vắng hết, chỉ có tiếng mọt gõ gai cả người kêu ở góc chiếc tủ mọt rỗng không. Cô Diệu nhớ chợ, nhớ cửa hàng xén của mình. Liệu có bao giờ cô mới có được cửa hàng như thế? Cô Diệu buồn bã trông ra ngoài phố. Cô chợt thấy Cún ngồi ngay thềm cửa nhà mình. Cún đang đưa tay thu thu cái gì trong túi. Cô quỳ xuống ngó ra cửa sổ, Cún đang giở bọc vải lão Hạ cho Cún, cái bọc vải gụ, khâu chỉ đen, bé xíu như cái mề gà. Cô Diệu bỗng giật thót mình vì thấy trong lòng tay Cún lóng lánh mấy chiếc nhẫn vàng. Cô thấy lạnh toát sống lưng. Chân tay cô run bần bật. Một ý nghĩ bất chợt lóe trong óc cô. - Này thằng hình nhân mặt đẹp! - Cô vội hé cửa ngồi thụp bên Cún - Mày có cái gì trong tay đấy? Cún ngẩng mặt lên, Cún xòe tay ra rồi nói bằng giọng khoe khoang Cún 67 hồn nhiên như đứa trẻ dại: - Nhẫn đấy! Đây là nhẫn vàng lão Hạ cho Cún... Vàng thật hay là vàng giả? Cô Diệu chộp lấy tay Cún; trong tay cô có ba chiếc nhẫn, mỗi chiếc dễ đến hai đồng cân vàng. - Để tao xem thử nào? Cô Diệu cầm từng chiếc nhẫn và khẽ để rơi trên nền đá. Cô lắng tai nghe. Cô soi ra ánh sáng. Cô cho vào miệng cắn. Cô xuýt xoa rên rỉ: Trời ơi, vàng thật đây rồi... Cả một gia tài đấy nhé... Cái Thằng hình nhân mặt đẹp này thật là giàu... Cô tái mặt đi, cô cười, cô đấm thùm thụp vào người của Cún. - Thực vàng chẳng phải thau đâu... Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng... Thằng chó con này! Sao đến bây giờ tao mới biết mày? Cô Diệu hổn hển: - Có... - Vào đây... vào đây... Cái thằng chó con giàu. Cô Diệu khép cánh cửa lại, ấn người Cún xuống ghế. Cô lồng nhẫn vào ngón tay rồi chắp hai tay ra phía đằng sau. Cô đứng sát trước mặt Cún, người hơi ưỡn ra phía trước như một cây cung... - Thế nào? Tao mặc cả nhé! - Cô Diệu vừa nói vừa cười, ý nghĩ của cô rạch nhanh như những tia chớp trong đầu. - Mày hãy cho tao ba cái nhẫn này, mày không có nó cũng không sao... Mày vẫn là đứa ăn mày... Thế nào? Có đồng ý không? Mày muốn gì tao cũng nghe mày... Cún gật đầu, hai khóe mắt Cún đầy lệ. Cún chỉ thấy sung sướng. Cún đã làm cho cô Diệu thích. Cô Diệu đã bình phục. Cô Diệu đã khỏe rồi. Cún như mê ngủ. Như người trong mộng. Thế nào? - Cô Diệu cúi người cọ trán của cô vào trán của Cún. - Làm gì mà thần mặt ra thế? Cô cười sằng sặc. 68 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) - Nói đi... - Nói đi... - Bây giờ mày muốn... Cún đưa tay lên, Cún không chủ động được những sợi gân chằng ở trong cánh tay, cánh tay Cún vẽ một cử chỉ vu vơ trong khoảng không. Những người châm hương trước bàn thờ cũng có cử chỉ vu vơ như thế... - Hiểu rồi... Tao hiểu rồi. - Cô Diệu ngồi xuống bên Cún vuốt ve. - Mày cũng là thằng khốn kiếp lắm kia! Đàn ông chúng mày thế hết... Được đấy... Được đấy... Thế là phải giá... Được rồi... Tao chỉ sợ mày sẽ không làm được. Thằng chồng mất dạy của tao còn không làm cho tao chửa được nữa là... Cô Diệu kéo Cún vật ra giường. Cún hoảng sợ. Cún nhắm mắt lại rồi úp mặt xuống cánh mũi phập phồng hơi ánh một màu xanh mờ của Diệu. Cún như người đang bay trên mây... Cún cảm thấy bao nỗi buồn trĩu nặng của cuộc đời Cún bỗng dưng được trút hết cả đi, khuây khỏa lạ lùng. Cuối cùng, Cún đã không hiểu Cún đã ngồi ở vỉa hè từ khi nào nữa. - Thế là chẳng có nợ nần gì nhé! Cún nghe thấy tiếng nói của cô Diệu đâu đó và Cún hiểu rằng Cún vừa trải qua một điều gì đấy thật ghê gớm, thật to lớn. Cảm giác trống rỗng nhưng sung sướng tuyệt trần choán ngợp trong lòng.. Cún không hiểu rằng đây là cơ hội duy nhất trong cuộc đời khốn nạn của Cún có cảm giác này. Cơ hội đó, oái oăm thay, để chín tháng sau cho Cún một đứa con trai... Chín tháng sau cái ngày hè ấy, cô Diệu sinh con trai. Từ mấy tháng trước, cô đã báo Cún biết tin này: - Này thằng hình nhân mặt đẹp... Mày sắp có con rồi đấy! Tao cũng không ngờ có chuyện quái quỷ thế này! Cún mừng rỡ. Cún như một người điên dại. Cún không ăn không Cún 69 uống, người chỉ còn da bọc xương. Trời ơi, Cún sẽ có con! Một kẻ chưa được thành người lại sẽ có con. Cún đã hình dung về nó thật rõ ràng. Nó đi mạnh mẽ ở trên mặt đất, nó không bao giờ lệch trọng tâm, nó vừa đi vừa mỉm cười, xung quanh nó là một vầng ánh sáng đủ màu... Cún sống trong trạng thái bất yên mấy tháng trời trong khi cô Diệu mang thai. Cún ốm nặng, Cún chỉ sợ nhất cái chết ập đến bất ngờ khi Cún chưa biết đứa con thế nào. Cún thỏa thuận với cái chết, Cún cầu xin nó từng ngày. Cái chết đồng ý cho Cún chờ đến cái phút con Cún ra đời. Nó sẽ thay thế Cún chạy tiếp chặng đường dài trên mặt đất. Đúng đêm cô Diệu đẻ, Cún bò lê từ lều chợ đến cửa sổ nhà cô. Trời mưa phùn, cái lạnh thấm vào người làm Cún tê buốt. Đầu Cún nóng bừng, thỉnh thoảng Cún lại ngất đi mê man. Chỉ hơn trăm mét mà Cún thấy xa xôi quá. Cún cố gắng giành giật từng mét đường đi cùng với cái chết. Nó đẩy. Nó đen như là đêm tối kia rồi. Cún cứ nhích lên là nó lại kéo Cún ngã dúi xuống bùn. Cún vừa lết đi vừa rên, máu từ trong tai ri rỉ chảy ra. Cún đến được hiên nhà bên cái cửa sổ sáng đèn thì ngất xỉu. Khi tỉnh lại, Cún có cảm giác như bị một vật gì mông mênh đè nặng lên người. Cún há miệng ra... Khát, khát. Cún thấy khát khô cổ họng. Cả đời ăn mày nhọc nhằn của Cún cũng chưa bao giờ bị khát thế này. Cún cố nín thở để giữ sức lực. Cún chờ tín hiệu của đứa con mình. Cún cứ hết mê lại tỉnh. Mãi đến nửa đêm Cún bỗng giật mình vì những tiếng kêu rối rít trong nhà. Có tiếng oa oa của trẻ sơ sinh... Tiếng khóc con trai. Cún biết nó đấy, đứa con mà Cún chờ đợi nay đã ra đời. Cún cười sung sướng rồi lịm người đi. Có một làn gió rất chi mơ hồ lướt trên khuôn mặt bất động của Cún. Cún đã chết. Cuộc đời thật ngắn ngủi, cuộc đời của kẻ chưa được thành người. Đấy là mùa đông năm 1944. 70 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) III - KẾT CHUYỆN Sau khi viết xong chuyện Cún, tôi mang đến đọc cho nhà nghiên cứu văn học, giáo sư tiến sĩ K. nghe. Mặt anh tái đi theo diễn biến câu chuyện. - Không phải thế! - K. giằng lấy tập bản thảo ở trên tay tôi - Cậu viết những điều bịa đặt! Cần phải tuân theo chủ nghĩa hiện thực. Hiện thực khác lắm! Cậu biết cha tôi như thế nào không? K. lục lọi đâu đó ở trong tủ sách và anh lấy ra một tấm ảnh màu. Anh khe khẽ cười, hơi ngân nga nữa, bàn tay mềm mại chạm vào giữa huyệt Du chí ở tay tôi: - Cha tôi là Cún nhưng không phải thế! Hiểu không? Ảnh của ông cụ đây này! Trong ảnh, một khuôn mặt đàn ông to béo mặc áo the đen, cổ hồ cứng, có hàng ria đen xén gọn nhìn tôi mỉm cười. N.H.T Cún 71 PHẠM THỊ HOÀI Người đoán mộng giỏi nhất thế gian (SH số 38/1989) ngày mười lăm tháng hai năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, tòa án nhân dân thành phố H. mở phiên tòa xử một trường hợp đặc biệt. Bị cáo là một phụ nữ bốn mươi tuổi, độc thân, phạm tội hành nghề mê tín dị đoan có hệ thống, có tổ chức, quy mô lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội, nổi tiếng dưới tên gọi “người đoán mộng giỏi nhất thế gian”. Phiên tòa không luật sư bào chữa, bị cáo khước từ mọi quyền lợi trước pháp luật. Bảy công tố viên thay phiên nhau như chạy tiếp sức, phóng viên và cảnh sát dày đặc hành lang, đám đông tụ tập ngoài sân tòa và tràn ra mặt đường mang theo bánh mì, bi đông nước, nhiều người mang cả chiếu. Phiên tòa kéo dài sáu tháng không kết quả và chắc sẽ chẳng bao giờ kết thúc, nếu bị cáo không đột ngột biến mất khỏi nơi giam giữ nghiêm ngặt. Những người đại diện cho công lý đã thầm cám ơn giải pháp may mắn ấy và không quá nhiệt tình truy tìm kẻ mất tích. Suốt sáu tháng trước vành móng ngựa, bị cáo không hề lớn tiếng, trừ những lúc bắt buộc, nhưng trước khi mất tích để lại một bản khai, sau 72 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) này được báo chí công bố như thành tựu chính của phiên tòa gây nhiều dư luận nói trên. Phải nói thêm rằng bị cáo có sắc đẹp kỳ lạ, chưa gặp trong văn chương cổ kim, nhưng hoàn toàn không mê hoặc, đơn giản vì sắc đẹp ấy quá xa lạ với những gì người cùng thời có thể biết hoặc phán đoán về cái đẹp. Mẹ tôi sinh tôi giữa đường chạy nạn, quây vội cót thành cái lều, trên trời dưới cỏ, xung quanh ầm ào tiếng súng, người vật gọi nhau táo tác. Tín hiệu chào đời của tôi lạc mất địa chỉ, chẳng ai làm chứng, tất cả phụ thuộc vào bộ nhớ rất hữu hạn và quá nhậy cảm với thời gian tàn phá của mẹ. Có một chú dế nhỏ mục kích từ đầu chí cuối cuộc sinh thành, nhưng nếu có gặp lại, mẹ tôi cũng không dám chắc sẽ nhận diện được. Thế là tôi nằm trong chiếc lều cót, ngửa mặt nhìn trời, với một chú dế trong vành tai, tư thế lý tưởng để phát sinh mọi mộng mơ và tôi đã mơ ngay từ phút chào đời vô vàn giấc mơ mà lắm kẻ bạc đầu chưa từng nếm trải. Đó là hướng nghiệp đầu tiên dành cho tôi. Ba năm đầu tôi lớn lên trong một chiếc thúng, bồng bềnh nhún nhảy theo nhịp quẩy của mẹ. Mẹ vừa chạy nạn vừa bán hàng rong, nửa gánh đằng kia là cả một thế giới nhỏ biến hóa vô cùng, nước mắm hóa thành muối, muối thành gạo, gạo thành gà, gà thành cá, cá thành nước mắm, nước mắm lại biến hóa vòng hai, cứ như thế luân hồi. Thoạt tiên, thế giới ấy nặng hơn tôi, mẹ phải an ủi bằng cách tặng tôi bằng hòn đá nhặt dọc đường làm đối trọng; sau này, thế giới đầu đòn gánh đằng ấy càng ngày càng nhẹ bỗng, tôi phải an ủi bằng cách nhượng lại dần cho nó số đá kia. Ngồi trong chiếc thúng đong đưa, tôi gục mặt nhìn đất, thỉnh thoảng ngắm gấu quần thiên hạ để giải trí, và mơ tiếp vô vàn giấc mơ. Đó là hướng nghiệp thứ hai. Sau đó là ba năm những giấc mơ chững lại. Các nhà tâm lý học trẻ em đã lầm to khi sốt sắng bày ra đủ phương tiện nhằm kích thích trí tưởng tượng và khả năng mơ mộng của trẻ nhỏ lúc tuổi ấy. Sự thật là đứa trẻ N g ư ờ i đ o á n m ộ n g g i ỏ i n h ấ t t h ế g i a n 73 đã mang sẵn một thế giới mộng mơ khổng lồ, bắt nguồn từ lòng mẹ, vụt nhận hình hài khi chào đời, tự do phát triển theo những quy luật không thể nắm bắt, và đột nhiên bị thế giới ngôn từ thâm nhập như một trong những ngoại tố phức tạp nhất, vừa phá hủy, vừa định hướng và thường là một định hướng sai lầm. Tôi chững lại để tập, để thu nhận và khám phá một thế giới khác, thế giới có thực, thuần túy khám phá và thỏa hiệp, bằng cách gọi tên, bắc cây cầu ngôn ngữ, hoàn toàn không tưởng tượng hay mộng mơ gì hết, ví dụ đơn giản nhất là mẹ. Trước khi biết nói, tôi thường mơ về mẹ, như một con cá chép, bụng đầy trứng, trắng óng ánh và thích nằm một chỗ. Sau này, biết đó là người đẻ ra mình, biết ngoan cho mẹ vui lòng, không bao giờ giấc mơ ấy trở lại với tôi nữa. Suốt ba năm đó, hầu như chỉ có mẹ, và tôi. Mẹ ít nói, chỉ hay hát ru. Những lời ru lạ lùng, chẳng chuyên chở một ý nghĩa nào cả: “đêm vông vang rơi chiếc vòng vàng...” Tự chúng cũng là một thế giới riêng, không áp đảo, mà có lẽ còn nâng đỡ những giấc mơ của tôi. Tôi không dứt đoán mộng mơ vì lẽ ấy. Mười năm đi học, tôi lại được thời mơ tiếp vô vàn giấc mơ, vì đó là cách duy nhất vừa để giết, vừa để xứng đáng với thời gian khi người ta còn ngồi trên một chiếc ghế băng nào đó trong một ngôi trường nào đó. Tôi thường đứng trước lớp, thay vì biểu diễn các công thức mà đàng nào rồi người ta cũng sẽ quên, lại kể về những giấc mơ, trong đó có một đàn chim mổ vào mắt nhau, những con mắt lăn lóc khắp nơi, tôi không biết trốn đâu cho thoát những con mắt, hay chuyện tôi bé bằng ngón tay, sau lớn dần, lớn dần, thành hẳn một quả núi, và lại nhỏ dần, nhỏ dần trở về ngón tay... Tôi trở thành trường hợp tuyệt vọng cho toàn trường. Giáo viên lúc đầu tò mò, sau bực bội, và cuối cùng để mặc tôi ở một xó bàn cạnh cửa sổ; sau này những người hâm mộ và cuồng tín kéo nhau về ngôi trường ấy, mua đấu giá chiếc bàn chi chít bút tích tôi. 74 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) Lời đoán mộng ứng nghiệm đầu tiên của tôi phát vào năm mười sáu tuổi, cho cô bạn cùng lớp xinh đẹp nhất. Cô bé không có chữ nào trong đầu, nên trông càng mê hồn. Đến kỳ thi tốt nghiệp, cô cài bông huệ gắn lên tóc, khoe đêm qua nằm mơ thấy toàn hoa huệ. Tôi rùng mình: “Đừng, sông sâu nước cả”. Chín tháng sau, cô bé sinh hạ, hai mẹ con ôm nhau ra sông tự vẫn, bố đứa trẻ là một trong số giáo viên về coi thi, và cô bé Hoa Huệ đỗ thủ khoa năm ấy. Tiếng đồn bắt đầu dậy lên. Chính quyền tìm đến tận nhà. Hai mẹ con tôi được yên ổn chỉ nhờ phép mầu của tấm bằng gia đình liệt sĩ phủ đầy bồ hóng và mạng nhện. Nhiều năm trôi qua. Tôi làm đủ mọi nghề nuôi mẹ, có lúc cũng quẩy hai cái thúng với những món hàng biến hóa vô cùng, giấu kín chiếc chìa khóa mà hình như chỉ riêng tôi có mở vào thế giới của những giấc mơ. Có giấc mơ nào tôi chưa quen? Tất cả như một mớ chỉ, khẽ rút sợi này là kéo theo hàng loạt sợi khác. Giải mộng chẳng qua là rút đúng sợi chỉ cần rút, đối với tôi đấy là chuyện vặt. Và khi lời đoán đầu tiên năm người ta mười sáu tuổi ứng ngay vào cái chết, thì tất cả các sợi chỉ rút sau quả là chuyện vặt. Một hôm, có ông lão nốt ruồi mọc giữa nhân trung đến mua kim, ngồi bệt ngay bên gánh hàng của tôi, vừa run run díu lại mảng áo rách vừa than phiền về một giấc mơ quái gở, toàn là mèo, con nọ cắn đuôi con kia thành vòng tròn vây chặt ông, không sao ra thoát, chúng còn đồng ca một bài nghe cũng xuôi tai. Tôi lại buột miệng: “Nhà sắp thêm người, cụ không phải vá áo lấy nữa.” Ông lão lầu bầu: “Tôi bảy mươi, mười một năm tám tháng hai chục ngày chỉ một mình với túp lều. Con trai thì núp váy vợ, con gái lấy chồng xa, bà lão trời bắt sớm, có ai mà thêm. Thêm ma à?” Rồi chống gậy bỏ đi. Chưa đầy tuần lễ, có người đàn bà chỉ ngoài bốn mươi, trông rất duyên dáng, lẳng lặng ôm tay nải đến túp lều lợp giấy dầu của ông lão, hỏi thế nào cũng không nói. Họ sống với nhau hai chục năm, rồi ông lão qua đời, được một con trai học hành rất tử tế. Người N g ư ờ i đ o á n m ộ n g g i ỏ i n h ấ t t h ế g i a n 75 mẹ vẫn câm lặng như một bóng ma, hiền và lạc đàn, tới lúc chết không hé răng nói một lời. Anh con trai bán túp lều chôn cất mẹ rồi bỏ làng đi. Sau này anh ta sớm thành tài, nổi tiếng thần đồng trong giới khoa học và là người bảo trợ đáng yêu nhất của tôi. Đáng yêu ở cái nỗ lực phi lý mong tăng cường chiều thần diệu cho mặt phẳng logic nhạt nhẽo của khoa học, bằng cách gán cho thế giới mộng mơ của tôi một vài yếu tố trí tuệ, và gán cho khoa học một vài sắc thái tâm linh. Các vị hãy giở lại hồ sơ tòa án. Anh ta là nhân chứng số một, một chàng trai dễ thương, có tham vọng thông thiên và ngoại cảm, lại còn làm thơ và thạo nhiều ngoại ngữ. Nhưng đáng tiếc, anh ta luôn xuất phát từ một điều gì đó và nhằm một điều gì đó. Còn tôi, tôi không xuất phát, không định hướng, tôi chỉ là một môi trường cho các giấc mơ đi qua, tôi chỉ rút các sợi chỉ. Tiếng đồn lại dậy lên, người khắp thiên hạ truyền nhau tìm đến. Tôi không còn phải quẩy gánh bán hàng rong nữa. Đây mới thật là một nghề gia truyền. Người đàn bà nào trong dòng họ tôi cũng biết cân đong, nhìn xuống đất và nhặt nhạnh hào lẻ. Cái nghề thấm vào máu. Khi đã trở thành người đoán mộng giỏi nhất thế gian tôi vẫn nhìn tất cả như vòng luân hồi biến hóa vô cùng trong chiếc thúng nhỏ ở một đầu đòn gánh: giấc mộng đế vương, giấc mộng hoàn lương, giấc mộng vô thường, tất cả không ra ngoài miệng thúng. Người ta lắm mộng mị, mộng ban đêm, mộng ban ngày, thậm chí ngủ gật dăm phút trong hội nghị, giữa buổi cầu kinh, lúc chờ người yêu, khi nghe bố mẹ giảng bài học hiếu đễ, giữa hai nước cờ của đối thủ lề mề, hay trên cầu tiêu... cũng mộng. Mấy chục năm hành nghề cho phép tôi phân loại và thuộc lòng mộng thiên hạ như nhà đông y làm việc với các ô thuốc. Đứng đầu là mộng tiền bạc, từ mấy đồng xu rơi vãi ngoài đường, dăm chục đồng bạc lên lương, vài ba nghìn manh múng cò con, đến hàng vạn quan tiền lộc ngoại quốc và triệu triệu tiền siêu hình, tiền âm phủ khoét 76 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) từ các vết thương chính quy của cái cơ thể duy nhất độc quyền sản sinh tiền bạc là nhà nước. Vì lẽ sống đó, còn ai trong cái thành phố bất lực mà hồn nhiên này không tìm đến tôi? Nào là đám ăn mày chuyên nghiệp, tràn từ thành phố này sang thành phố khác như nạn giặc châu chấu, đánh đeo với thể diện xã hội và chứng minh sự bất hợp lý vĩnh cửu của ban phát và hưởng thụ. Nào là anh chị em viên chức mòn mỏi ngóng về một quá khứ trong đó con người còn dám cho mình cái quyền lãng mạn và nhàn tản. Rồi em bé hát rong, ông chủ hợp tác xã khéo tay vui tính, nhà viết kịch thời thượng, những chàng thanh niên hăm hở chiếm lĩnh đời sống bằng hai bàn tay trắng, các cô gái không của hồi môn, vị thủ trưởng trước bước về hưu ngơ ngác trước nhân tình thế thái... tất cả đều nghĩ sâu sắc rằng thiếu tiền họ sẽ chẳng là gì, sẽ không còn là một người con, một người cha hay một người dân nào đó, cùng lắm bàng vai loài vật đi hoang ngoài đường, và vì thế ham tiền chỉ là ham muốn là người thuần túy nhất. Mộng tiền bạc thường hiện lên cụ thể, máu, phân, răng rụng, lửa cháy, nước tràn, súc vật hỗn chiến. Sau đó đến mộng tình ái. Tình ái cần đối tượng. Chồng bạn, vợ người, thứ nữa mới đến gái đồng trinh, quả phụ và kỷ nữ. Các giấc mộng tình ái đều hao hao giống nhau, hoặc gắn liền với ma, mèo, mưa, hoặc đầy rẫy các con số, các mã hiệu: nói chung là nhốn nháo. Tôi rất ngạc nhiên thấy những giấc mộng sinh, lão, bệnh, tử chỉ đứng vào hàng thứ ba. Hay đấy là dấu hiệu của sự tiến bộ của con người trong cuộc cạnh tranh muôn thuở với tự nhiên, luật của đấng tối cao đã lùi lại phía sau luật của con người áp đặt lên chính con người? Trong khi đó, đối với người giải mộng, những giấc mộng vô thường mang lại nhiều cảm xúc và ý thức nghề nghiệp nhất. Dường như ở đó, tôi rút những sợi chỉ như rút các dây thần kinh tỏa về não tủy. Cuối cùng là đủ loại mộng mị vặt vãnh, bi, hài và vô thưởng vô phạt: chửi nhau với hàng xóm, mất trộm, chức trưởng phòng, ăn cỗ đũa lệch, ra chợ mua hớ, của người phúc ta, không nên đi xa, ra đường tránh chó... N g ư ờ i đ o á n m ộ n g g i ỏ i n h ấ t t h ế g i a n 77 Năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, tôi đã đoán cho hàng vạn người giấc mộng đoàn tụ. Năm một ngàn chín trăm bảy mươi chín, lại đoán cho hàng vạn người giấc mộng biệt ly. Đám số đề, cờ bạc bàn nhau mua phắt một biệt thự kín cổng cao tường có vệ sĩ canh gác cho tôi ở, độc quyền khai thác lời giải những mộng mị oái ăm, đại loại như bước chân trái ra khỏi nhà là số 57, nấc nghẹn giữa miếng ăn là đầu chẵn, tự nhiên có người giúp đỡ là con số xui 13... Học trò đến kỳ thi đại học bao vây chặt cửa nhà tôi đoán đề bài. Các thiếu nữ đến mùa cưới cũng vây chặt cửa nhà tôi đoán tương lai cuộc hôn nhân sắp tới. Người đẻ đến đoán con gái con trai. Người ra đi đến đoán lòng người ở lại. Người già đến đoán kiếp sau. Người trẻ đến xem phải trả oán gì cho kiếp trước. Có cả những nhà tiểu thuyết nhờ đoán số phận các nhân vật của mình và những linh mục dẫn con chiên tới xem ngày phán xử cuối cùng bao giờ sẽ đến. Cứ như thế, tôi phục vụ. Không vì danh tiếng, còn danh vị nào hơn “người đoán mộng giỏi nhất thế gian”? Cũng không vì tiền bạc. Món tiền lớn nhất tôi cần đã dùng vào đám tang cho mẹ tôi, đơn giản chỉ để khoản đãi nửa triệu người đưa mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ có bà chúa ong mới được một đàn con đông đúc như thế. Ngày tang lễ thứ ba, tôi bị bắt. Hồ sơ về những hoạt động mê tín dị đoan của tôi chất đầy một căn phòng rộng hơn chính nơi tôi ở, đỉnh cao là đám tang phạm thượng náo loạn này. Tôi bị kết tội mê hoặc đám đông bằng phép bùa phù thủy. Người ta ngờ đằng sau là những mưu đồ tôn giáo và chính trị sâu xa. Một mạng lưới cảnh sát dầy đặc chăng ra truy tìm con át chủ bài giấu mặt. Báo chí bắt đầu cảnh giác. Giới khoa học được triệu tập cấp tốc. Chuyên gia nước ngoài cũng có mặt. Và ngày ngày, hàng trăm hàng ngàn rồi hàng vạn người chờ đợi trước cổng nhà giam, người nào cũng ôm ít nhất một giấc mộng chưa lời giải, ngóng qua đầu ruồi mũi súng anh lính gác về phía tôi. Bản thân anh ta cũng sẵn sàng đồng lõa. 78 Tuyển truyện ngắn Sông Hương 30 năm (1983-2013) """